Tây Tiến (8 câu tiếp theo) đề 3
Đề 3: phân tích đoạn thơ
"Tây tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
A. Đặt vấn đề
Quang Dũng là 1 cây bút tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và là 1 nghệ sĩ đa tài, hoạt động nghệ thuật trên nhiều lĩnh vực. Tác phẩm của ông tiêu biểu cho 1 hồn thơ phóng khoáng lãng mạn, 1 cái tôi hào hoa thanh lịch. "Tây Tiến" được viết năm 1948, là tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật và hồn thơ Quang Dũng. Bao trùm bài thơ là 1 nỗi nhớ da diết về đồng đội và mảnh đất miền Tây – nơi in dấu những ngày tháng gian khổ mà rất đỗi hào hùng của 1 thế hệ thanh niên Việt Nam "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". 8 câu thơ có sự hòa quyện của lãng mạn kết hợp hiện thực, nhà thơ đã chạm khắc bằng nghệ thuật ngôn từ 1 bức tượng đài bất tử về hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp có tính chất phi thường lí tưởng, vừa hào hùng bi tráng vừa lãng mạn hào hoa.
B. Giải quyết vấn đề
I. Khái quát
- Hoàn cảnh sáng tác: "Tây Tiến" là tên của 1 đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào và miền tây bắc bộ Việt Nam. Thành phần xuất thân của những người lính Tây Tiến hầu hết là học sinh sinh viên Hà Thành. Họ là những người lính trẻ trung hào hoa lãng mạn yêu đời và chiến đấu dũng cảm. Quang Dũng là đại đội trưởng của đoàn quân cho tới cuối năm 1948 thì chuyển đi nhận nhiệm vụ ở 1 đơn vị khác. Vào 1 buổi chiều cuối năm 1948 tại Phù Lưu Chanh, trong nỗi nhớ da diết đồng đội và đơn vị cũ, Quang Dũng đã sáng tác ra bài thơ "nhớ Tây Tiến" sau này đổi thành "Tây Tiến", tác phẩm được in trong tập "mây đầu ô" xuất bản năm 1986.
- Cùng viết về người lính nhưng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng có sự khác biệt trong "đồng chi – Chính Hữu" hay là "nhớ – Hồng Nguyên". Sự khác biệt tới từ nguồn gốc xuất thân, hầu hết người lính Việt Nam xuất thân từ nông thôn mang trong mình vẻ đẹp mộc mạc, bình dị
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
...
Áo anh rách vai quần tôi có vài mảnh vá"
(Đồng chí – Chính Hữu)
- Những người lính Tây Tiến phần lớn xuất thân từ trí thức Hà thành, vì thế họ mang trong mình 1 vẻ đẹp khác biệt, vừa hào hùng bi tráng lại vừa lãng mạn hào hoa. Bên cạnh đó họ còn có sự hòa quyện giữa màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa phảng phất bóng dáng của những chinh phu tráng sĩ cổ xưa lại vừa thấm đẫm khí phách thời đại qua hình tượng anh hùng vệ quốc quân thời kì chống Pháp.
- Xây dựng hình tượng người lính Tây Tiến, ngòi bút Quang Dũng tràn đầy cảm hứng lãng mạn nhưng cũng không kém phần hiện thực. Hình tượng người lính được chạm khắc sừng sững, kiêu hùng lên trên nền thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng bằng 1 thứ ngôn từ nghệ thuật giàu giá trị tạo hình.
II. Phân tích
1. Người lính Tây Tiến vừa hào hùng vừa hào hoa
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm."
a. Vẻ đẹp hào hùng
Nhà thơ sử dụng bút pháp tả thực để làm nổi bật sự khốc liệt của chiến tranh thực thế chiến đấu gian khổ với những khó khan, thiếu thốn đối rét bệnh tật liên miên. Đặc biệt là những cơn sốt rét rừng hành hạ người lính. Thơ ca kháng chiến không ít bài nhắc đến căn bệnh hiểm nghèo này.
"Tôi với anh từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi"
(Đồng chí – Chính Hữu)
Song Quang Dũng miêu tả thực tế ấy bằng cái nhìn tràn đầy cảm hứng lãng mạn khiến chân dung người lính hiện lên vừa chân thực lại vừa khác lạ. Ở họ toát lên một vẻ đẹp phi thường đầy kiêu hùng quả cảm được tô đậm qua 2 ấn tượng
- Trước hết đó là hình ảnh cả 1 "đoàn binh không mọc tóc", điều này xuất pháp từ thực tế chiến đấu thiếu thốn, để phù hợp với điều kiện hành quân, người lính thường cạo trọc đầu. Song chủ yếu là do hoàn cảnh kháng chiến gian khổ nơi vùng "rừng thiêng nước độc" khiến không ít người lính mắc phải căn bệnh sốt rét rừng, bị hành hạ đến mức rụng trọc đầu. Nhưng nhà thơ không dùng từ "rụng tóc" mà lại nói "không mọc tóc" khiến hình ảnh người lính hiện lên đầy ngang tàng, bướng bỉnh. Bên cạnh đó từ "đoàn binh" gợi lên 1 đội ngũ đông đảo khí thế hùng dũng không hề có chút dấu hiệu nào của sự ốm đau bệnh tật.
- Đó còn là hình ảnh của 1 đoàn quân "xanh màu lá", cụm từ "xanh màu lá" miêu tả màu của lá ngụy trang, màu của trang phục nhưng hơn hết đó là màu da xanh xao của người lính vì đói rét bệnh tật liên miên. Nhưng câu thơ với 2 vế tương phản giữa là bên xanh màu lá chỉ sự ốm yếu về thể chất hoàn toàn bị lấn át bởi hình ảnh đối lập phía sau "dữ oai hùm". Cụm từ "dữ oai hùm" gợi khí thế mạnh mẽ quả cảm tư thế hiên ngang oai phong lẫm liệt của những vị chúa tể rừng thiên ở người lính Tây Tiến.
=> Cách miêu tả độc đáo của nhà thơ gợi hình ảnh một đoàn quân ốm nhưng không yếu, không mất đi khí thế chiến đấu. Mà ngược lại ở họ toát lên 1 vẻ đẹp kiêu hùng quả cảm, nét oai phong dữ dằn khiến kẻ thù phải khiếp sợ.
- Vẻ đẹp oai hùm của người lính càng được tô đậm qua câu thơ thứ 3 "mắt trừng gửi mộng qua biên giới", từ "trừng" biểu hiện 1 nội lực mạnh mẽ, 1 dũng khí lớn lao và 1 ý chí sắt đá quyết tâm thực hiện bằng được những mộng ước chiến binh, khát vọng lí tưởng cao đẹp của người lính.
b. Vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn
- Đối lập với vẻ ngoài có phần dữ dằn, câu cuối lại khắc họa vẻ đẹp tâm hồn hào hoa lãng mạn ở người lính Tây Tiến "đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm".
- Có 1 thời người ta phủ nhận tứ thơ này vì cho rằng đó là thứ tình cảm ủy mị, 1 thứ "mộng rớt tiểu tư sản". Bởi lẽ người lính Việt Nam phần lớn xuất thân nông dân, nỗi nhớ của họ thường mộc mạc bình dị gắn liền với những hình ảnh thân thuộc như "cây đa giếng nước xóm làng" hay những hình ảnh "người mẹ người vợ tần tảo sớm hôm"
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính."
(Đồng chí – Chính Hữu)
"Ba năm rồi gửi lại quê hương
Mái lều gianh
Tiếng mõ đêm trường
Lương cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya."
(Nhớ – Hồng Nguyên)
- Thế nhưng người lính Tây Tiến hầu hết là những trí thức ra đi từ thủ đô thân yêu, từ giã Hà thành phồn hoa lên đường đi chiến đấu, người lính mang trong tim mình hình ảnh những phố phường Hà Nội, những tà áo dài thướt tha và nhất là những "dáng kiều thơm" – hình bóng duyên dáng, yêu kiều và rất đỗi thanh lịch của những thiếu nữ Hà thành.
- Câu thơ mở ra 1 vẻ đẹp khác của người lính, ở họ không hoàn toàn là ý chí sắt đá, ẩn sâu bên trong những con người ấy là 1 nội tâm phong phú, là vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa, là 1 trái tim khao khát yêu thương. Nỗi nhớ ấy rất thật, rất đẹp và cũng rất đáng trân trọng bởi nó xuất phát từ tình yêu Hà Nội, tình yêu con người và cuộc sông thiết tha.
2. Vẻ đẹp hào hùng bi tráng
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành."
- Tây Tiến là 1 trong số ít bài thơ nhắc nhiều tới đau thương mất mát, hi sinh – điều mà thơ ca cách mạng thường né tránh. Ngòi bút hiện thực của Quang Dũng không né tránh những khốc liệt của chiến tranh nhưng Quang Dũng viết về "sự hi sinh" mà không gợi cảm giác bi lụy, bi thương là bởi những hi sinh ấy được nâng đỡ của những lí tưởng sống cao đẹp của cảm hứng lãng mạn bay bổng. Bốn câu thơ chính là khúc ca bi tráng về sự hi sinh cao đẹp của người lính.
- Trước hết Quang Dũng đề cập đến thực tế chiến tranh, đó là những con đường hành quân đi qua những miền biên cương xa xôi heo hút, điều kiện chiến đấu thiếu thốn gian khổ, đói rét bệnh tật khiến không ít người lính phải gục ngã và nằm lại nơi núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, nhà thơ viết về những cái chết ấy của đồng đội và niềm xót thương da diết. "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" cách dùng từ Hán – Việt cổ kính trang trọng "biên cương", "viễn xứ" không chỉ làm giảm nhẹ nỗi đau thương mà còn có tác dụng tôn vinh, ngợi ca sự hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến.
- Câu thơ thứ 2 nêu lên vẻ đẹp của lí tưởng sống cao quý, người lính ra chiến trường với lí tưởng sông xả thân quên mình vì đất nước, tổ quốc – "chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". "Đời xanh" ẩn dụ cho tuổi trẻ, tuổi xuân tươi đẹp của người lính, đó là lứa tuổi mà
"Tim đang dào dạt máu
Hồn quay như gió bão
Gân đang săn và thớ thịt đang cang da
Đời mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa." Nhưng người lính đã ra chiến trường với tinh thần cảm tử "quyết tử cho tổ quốc quyết sinh". Với khí phách hào hùng của những đoàn quân vệ quốc "ra đi thà chết không lui" họ đã tự nguyện hiên dâng tuổi xuân tươi đẹp sẵn sàng xả thân vì tổ quốc.
"Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Những tuổi 20 làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi 20 thì con chi Tổ Quốc."
Đó chính là lí tưởng sống, lẽ sống cao đẹp của thời đại, của biết bao thế hệ thanh niên Việt Nam trong chiến tranh, trong đó có người lính Tây Tiến.
- Vẻ đẹp hào hùng mang tầm vóc sử thi trong sự hi sinh cao đẹp của người lính Tây Tiến "Áo bào thay chiếu anh về đất/ sông Mã gầm lên khúc độc hành". Câu thơ nói đến 1 thực tế đau thương, người lính ngã xuống không có 1 manh chiếu, chỉ có 1 nghi thức trọng thể tiễn đưa, chỉ có 1 manh áo lính bạc màu bọc lấy thi thể các anh. Qua cảm hứng lãng mạn người lính đẹp hào hùng sang trọng cả trong cái chết, chiếc áo lĩnh dãi dầu sương gió đã hóa chiếc áo bào sang trọng. Chi tiết "áo bào" xuất hiện đem lại vẻ đẹp cổ điển cho hình tượng người lính phảng phất bóng dáng chinh phu tráng sĩ thời xưa.
"áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in"
(Chinh phụ ngâm – Đoàn thị Điểm)
- Cụm từ "áo bào thay chiếu anh về đất" gợi nhớ đến hình ảnh da ngựa bọc thây những tráng sĩ chốn sa trường, hi sinh vì nghĩa lớn trong văn học cổ điển. Nói tới sự hi sinh của đồng đội, Quang Dũng không dùng từ "chết" mà nói "về đất", vừa có tác dụng giảm nhẹ sự bi thương lại vừa tôn vinh ngợi ca những hi sinh ấy theo hướng vĩnh viễn hóa, bất tử hóa. Họ dường như không chết mà đang đi vào cõi bất tử, họ trở về với đất mẹ, hòa thân mình vào đất và thành hồn thiêng sông núi.
- Sự hi sinh thầm lặng cao đẹp của người lính khiến cả non sông phải ngậm ngùi xúc động. Tiếng gầm của dòng sông Mã chính là khúc tráng ca thiêng liêng tiễn đưa những người con anh hùng của đất nước. "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" âm hường hào hùng của thiên nhiên đã khiến cho sự hi sinh của người lính không rơi vào bi lụy bi thương mà ngược lại thấm đẫm màu sắc bi tráng mang tầm vóc sử thi hùng tráng.
III. Nghệ thuật
Đoạn thơ sử dựng những biện pháp nghệ thuật đặc sắc như là ẩn dụ, nhân hóa, đối lập tương phản, nói giảm nói tránh.
Ngôn từ giàu giá trị tạo hình và biểu cảm
Ngôn ngữ tiếng Việt vừa hiện địa lại vừa cổ kính với 1 hệ thống từ Hán – Việt và những hình tượng mang màu sắc cổ điển
C. Kết thúc vấn đề
Với cảm hứng lãng mạn kết hợp cùng hiện thực, bút pháp tài hoa tinh tế, nhà thơ Quang Dũng đã chạm khắc lên 1 tượng đài bất tử về người lính Tây Tiến trên nền thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, mĩ lệ. Người lính Tây Tiến với vẻ đẹp lãng mạn đậm chất bi tráng là 1 đóng góp quan trọng của nhà thơ Quang Dũng vào việc xây dựng chân dung người lính chống Pháp, đồng thời góp phần vào khẳng định tên tuổi nhà thơ cũng như đưa Tây Tiến trở thành 1 thi phẩm xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com