Việt Bắc - đề 2 (16 câu tiếp)
Việt bắc – đề 2
Phân tích 16 câu tiếp theo
"Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt lưu lau xám đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thủa còn Việt minh
Mình đi mình lại nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái, mái đình cây đa
Ta với mình mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu."
A. Đặt vấn đề
Nói về chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, nhà thơ Tố Hữu từng viết "chín năm lên 1 điện biên – lên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng". Ngày mùng 7 tháng 5 năm 1954 chiến dịch Điện Biên Phủ huyền thoại kết thúc, kháng chiến chống Pháp thành công. Ngày 21 tháng 7 năm 1954, hiệp định Gionevo về Đông Dương được kí kết, hòa bình được lập lại, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tháng 10 năm 1954 các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ đã rời chiến khi Việt Bắc về Hà Nội. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã khơi nguồn cảm hứng dạt dào để Tố Hữu – nhà thơ trữ tình chính trị – lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam sáng tác bài thơ Việt Bắc. Đây được coi là bản hùng ca và cũng là khúc tình ca về cuộc kháng chiến chống Pháp và những con người kháng chiến mà ở bề sâu của nó là truyền thống đạo lí ân tình thủy chung không quên cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Đoạn thơ dưới đây nhắc nhở trong lòng cả kẻ ở người đi về kỉ niệm kháng chiến gian khổ mà sâu đậm nghĩa tình. (trích thơ)
B. Giải quyết vấn đề
I. Khái quát
Ra đời vào 1 thời điểm đặc biệt – "đêm giao thừa" của lịch sử đất nước, vì thế tác phẩm hội tụ nhiều tình cảm lớn của thời đại. Đó lầ cuộc chia tay của những con người đã đồng cam cộng khổ chia ngọt sẻ bùi với biết bao nghĩa tình sâu nặng. Người về với thủ đô, người ở lại chiến khu, liệu cuộc sống yên vui chốn thủ đô có làm người đi quên những tháng ngày kháng chiến gian khổ, quên nơi đã đùm bọc chở che? Bài thơ ra đời như 1 lời khẳng định về đạo lí thủy chung không quên cội nguồn của những con người kháng chiến và dân tộc Việt Nam với quê hương cách mạng Việt Bắc.
II. Phân tích
1. Người ở lại nhắc đến những kỉ niệm
1.1 – nhớ thiên nhiên Việt Bắc
- Nhớ về chiến khu Việt Bắc, người đi nhớ đến thiên nhiên Việt Bắc tuy dữ dội khắc nghiệt nhưng cũng rất đỗi thơ mộng trữ tình
"Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù"
- "mưa nguồn, suối lũ, mây mù" là những đặc trưng nổi bật của thiên nhiên vùng cao Việt Bắc, hình ảnh ấy còn gợi ra 1 cuộc sống kháng chiến vô cùng gian nan, vất vả của quân dân ta nơi miền sơn cước, thiên nhiên khắc nghiệt. Đồng thời nó còn ẩn dụ cho những chặng đường gian nan thử thách trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Song chính những yếu tố ấy lại góp phần tạo nên vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo của 1 vùng đất đầy khói sương mây mờ dày đặc che phủ quanh năm.
1.2 – nhớ con người Việt Bắc
· Nhận xét: nhớ về chiến khu người đi không thể không nhớ đến con người Việt Bắc, đó là những con người cuộc sông tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa đằm thắm thủy chung, khổ thơ là lời của người ở lại bày tỏ tình cảm nhớ thương da diết với với đi. Nhưng đằng sau đó hiện lên vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn, tấm lòng của người ở lại.
"Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son."
- 2 câu đầu gợi lại cả một quá khứ đầy ắp kỉ niệm, các cụm từ "miếng cơm chấm muối", "mối thù nặng vai" mang ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng cho những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn chất chồng của đời sông kháng chiến và ý chí căm thù giặc, quyết tâm tiêu diệt giặc. Câu thơ giản dị nhưng có sức khái quát cao và làm ngời lên vẻ đẹp hào hùng của những con người kháng chiến trong thời đại anh hùng của dân tộc. Chính quân và dân Việt Bắc đã cùng với toàn dân tộc gánh trên vai mối thù giặc Pháp, mang trong mình sứ mệnh thiêng liêng mà lịch sử giao phó "chiến đấu chống giặc ngoại xâm, dành độc lập tự do cho cả nước".
- Nay sứ mệnh đã hoàn thành, những người kháng chiến chia tay Việt Bắc, để lại trong lòng người ở lại bao tình cảm lưu luyến nhớ thương, được biểu hiện qua 2 câu thơ tiếp theo
"mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già"
Câu thơ sử dụng từ phiếm chỉ "ai" khiến cho âm điệu của lời thơ trở nên ngọt ngào, tha thiết, biện pháp nhân hóa "rừng núi nhớ ai" khiến nỗi nhớ như lan tỏa và ôm trùm những khoảng không gian rộng lớn. Không chỉ con người mà ngay cả thiên nhiên, cỏ cây cũng ngẩn ngơ, thẫn thờ khi vắng bóng người đi "trám bùi để rụng măng mai để già". Người đi khiến cả núi rừng ngập đầy nhớ thương và để lại một sự hụt hẫng trống vắng, mênh mông trong không gian và nỗi lòng của người ở lại.
- Trong câu 2 câu tiếp theo tác giả sử dụng 1 hệ thống từ ngữ hình ảnh có tính chất đối lập tương phản mà mang ý nghĩa biểu tượng ẩn dụ
"Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son."
Nếu như "hắt hiu lau xám" gợi lên 1 khung cảnh hoang sơ hiu quạnh ẩn dụ cho cuộc sông vật chất nghèo khổ thiếu thốn của người dân Việt Bắc thì "đậm đà lòng son" lại là vẻ đẹp phẩm chất, cho tấm lòng son sắt, thủy chung và giàu nghĩa nặng tình của nhân dân Việt Bắc. Như vậy, hình ảnh thiên nhiên chính là cái nền để cho nhà thơ khám phá và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất, tấm lòng của nhân dân Việt Bắc.
1.3 – nhớ những bước đường cách mạng hào hùng (4 câu tiếp)
- 4 câu thơ tiếp theo là lời nhắc nhở về những bước đường cách mạng hào hùng mà cả dân tộc trải qua cùng Việt Bắc. Đồng thời đây cũng chính là lời nhắn nhủ thiết tha của người ở lại với người ra đi.
"Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thủa còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái, mái đình cây đa."
- Ngược dòng thời gian, những câu thơ đưa người đọc trở về với những ngày đầu kháng chiến đầy gian nan, thử thách. Khi đó Việt Bắc đã trở thành căn cứ địa, trở thành cái nôi chở che đùm bọc cách mạng những ngày đầu gian khó
- Câu thơ thứ 3 điệp 3 từ "mình" trong 1 dòng thơ để chỉ cả 2 đối tượng là kẻ ở và người đi, nhằm khẳng định ta với mình tuy 2 mà 1 bởi cùng chung nghĩa tình kháng chiến sâu nặng, chung cội nguội là quê hương cách mạng Việt Bắc.
- Quá khứ không chỉ sâu nặng nghĩa tình mà còn rất đỗi tự hào với những mốc lịch sử thiên liêng, ở đó những tên đất, tên làng đã hóa thành những địa danh lịch sử, chở trong mình cả 1 thời đại hào hùng vinh quang "Tân Trào Hồng Thái, mái đình cây đa". Trong đó "cây đa Tân Trào" là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân – tiền thân của quân đội nhân dân Việt Nam làm lễ tuyên thệ và xuất quân. "Mái đình Hồng Thái" là nơi họp quốc dân đại hội để quyết định thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và ban bố lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đây là những mốc son lịch sử hào hùng mà Việt Bắc và tất cả dân tộc mãi mãi không quên.
- Đoạn thơ cũng cho thấy biệt tài của Tố Hữu khi đưa địa danh và sự kiện lịch sử vào trong thơ mà vẫn rất tự nhiên, uyển chuyển, giàu sức lan truyền.
2. Lời của người đi khẳng định lòng thủy chung
Thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của người ở lại, trong 4 câu cuối đoạn, người ra đi đã khẳng định lòng thủy chung son sắt không phai
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu."
Đây là đoạn thơ cặp đại từ "mình – ta" được sử dụng biến hóa sáng tạo nhất.
- Câu 1: cặp đại từ nhân xưng được sử dụng theo lối đan chéo hoán đổi vị trí "ta với mình", "mình với ta" khẳng định nghĩa tình gắn bó bền chặt, không thể tách dời giữa kẻ ở và người đi
- Câu 2: mượn lối nói của thành ngữ "trước sau"' là cách viết tắt của cụm từ "trước sau như 1" kết hợp với 2 từ láy "mặn mà, đinh ninh" khẳng định tình nghĩa thủy chung son sắt không thay lòng đổi dạ của người đi
- Câu 3: tiếp tục điệp 3 từ "mình" trong 1 dòng thơ, thực chất là lời đáp cho câu hỏi đầy băn khoăn của người ở lại "mình đi mình có nhớ mình". Người đi nhắc lại và khắc sâu hơn "mình đi mình lại nhớ mình" để khẳng định kẻ ở, người đi gắn bó như 1 và nỗi nhớ của người đi mãi hướng về người ở lại, hướng về cội nguồn Việt Bắc yêu thương.
- Câu 4: sử dụng các biện pháp tu từ quen thuộc của văn học dân gian "nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu", trước hết biện pháp so sánh "nghĩa tình" với "nguồn nước" kết hợp với lỗi nói tương ứng "bao nhiêu – bấy nhiêu" không chỉ diễn tả nghĩa tình dạt dào, đầy ắp không bao giờ cạn như nước trong nguồn mà còn khẳng định lòng thủy chung son sắt không phai. Câu thơ vận dụng các thể loại tục ngữ, ca dao nhằm ngợi ca truyền thống đạo lí tốt đẹp "uống nước nhớ nguồn" của người Việt Nam.
III. Nghệ thuật
- Đoạn thơ cho thấy rõ các nét đặc trưng phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu và biểu hiện rõ tính dân tộc trong thơ. Chuyện nghĩa tình cách mạng chuyện lịch sử và chính trị được Tố Hữu khéo léo diễn tả thông qua việc sáng tạo 1 bối cảnh chia tay đầy lưu luyến giữa kẻ ở và người đi – biểu trưng cho 2 nhân vật trữ tình lớn của thời đại là nhân dân Việt Bắc và cán bộ kháng chiến, nhà thơ đã mượn tâm trạng tình yêu đôi lứa để diễn tả thành công nghĩa tình cách mạng.
- Kết cấu đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca, cùng với việc vân dụng nhuần nhuyễn linh hoạt với 2 đại từ "mình – ta" đã giúp nhà thơ bộc lộ sâu sắc tâm trạng lưu luyến nhớ thương, tình cảm gắn bó sâu nặng thủy chung, nghĩa tình quân dân thắm thiết, tình đoàn kết dân tộc, truyền thống đạo lí "uống nước nhớ nguồn" của con người Việt Nam.
- Thể thơ lục bát của dân tộc cùng với giọng điệu tâm tình ngọt ngào thương mến, đã khiến cho chuyện cách mạng chính trở nên gần gũi và dễ đi vào lòng người.
C. Kết thúc vấn đề
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com