Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Tây Tiến đoạn 3


TÂY TIẾN (ĐOẠN 3)
          Cùng quay lại những năm tháng lịch sử của dân tộc, thời kì kháng chiến chống Pháp, văn học đã đóng đóng vai trò to lớn vào công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Nó là vũ khí, là cổ vũ tinh thần kháng chiến, là bản truy điệu cho sự hi sinh anh dũng, hình tượng người lính lúc bấy giờ cũng được khai thác triệt để trong văn học. Nhiều tác phẩm tiêu biểu như “Đồng Chí” của Chính Hữu hay “TĐXKK” của Phạm Tiến Duật,… Và trong số ấy, hình tượng những anh “Vệ trọc” với vẻ ngoài “dị hợm” trong Tây Tiến của Quang Dũng có lẽ là hình ảnh em ấn tượng nhất. Tây Tiến là tên của một Trung đoàn được thành lập vào đầu năm 1947 Quang Dũng là đại đội trưởng, nhiệm vụ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt-Lào và miền Tây Bắc bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt dộng gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, miền Tây Thanh Hoá và cả Sầm Nưa của Lào. Sau khoảng thời gian hoạt động ở Lào, họ trở về Hoà Bình và thành lập trung đoàn 52. Tây Tiến ra đời nào cuối năm 1948, khi Quang Dũng đã chuyển về đơn vị mới và đọng lại trong ông là hình ảnh không thể nào quên về Tây Bắc và những người đồng đội cũ. (trích thơ)
          Mở đầu đoạn thơ là sự khắc hoạ rõ nét về hình ảnh những người lính Tây Tiến và hiện thực chiến tranh mà họ đang trải qua. (Trích 2 câu đầu)
     Trong văn học từ Hán Việt thường được dùng trong các văn bản mang tính chất trang nghiêm vì bản thân từ Hán Việt tạo ra cảm giác trang trọng và cả sự tao nhã. Quang Dũng đã dùng từ Hán Việt “đoàn binh” và nó đã cho dọc giả cảm nhận được cái nghiêm trang, mang đầy tính ngợi ca về Tây Tiến. Nó còn mang một sắc thái mạnh mẽ, tạo nên dáng dấp oai hùng lạ thường. Ý thơ đầy sức hút gợi cho ta những hình ảnh về đoàn quân trong (trích 2 cái mở rộng).
    Hình tượng các anh Vệ quốc quân “trọc đầu” không phải tự nhien mà có. Ở chốn núi rừng Tây Bắc, hoang vu, ngoài cái hiểm nguy từ nơi rừng thiên nước độc, còn là sự lùng sục gắt gao của quân thù và cả những con rận, chấy béo múp do điều kiện sống thiếu thốn mang lại. Từ đó,  những chàng trai trẻ trung, những thanh niên đầy sức sống từ nơi Hà Thành, họ phải gọt đi kiểu tóc lãng tử, bồng bềnh Phi-lô-dốp “thời thượng” của mình để có thể chống chọi và chiến đấu “giáp lá cà” với kẻ thù, đó là ý chí chiến đấu rực cháy trong họ. Ở trong rừng núi, nơi mà sốt rét rừng-căn bệnh đầy ám ảnh đói với những người lính hoành hành, cuộc sống khó khăn, khổ cực trăm bề, không có thuốc men, họ phải chống chọi với từng cơn ớn lạnh mà căn bệnh mang đến, mái tóc họ rụng dần và rồi trở nên “trọc lóc”, làn da trở nên vàng vọt, có lẽ màu xanh mà Quang Dũng nhắc đến không chỉ là màu của quân phục, của những bụi lá nguỵ trang để che mắt quân thù mà nó còn là nước da xanh xao của những ng mắc bệnh sốt rét rừng. Đó là hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà ông đã không hề né tránh, hiện thực ấy cũng được thể hiện qua nhiều chi tiết trong các tác phẩm như (tRích Đồng Chí).
    
     Cái hay của Quang Dũng nằm ở chỗ ông tả lính ốm nhưng không thấy lính yếu, vẻ ngoài kì dị của những người lính Tây Tiến không làm họ trông yếu ớt, sự dữ dằn, oai hùng như cọp beo của của họ được khắc hoạ qua cụm từ “dữ oai hùm”, trông họ oai phong như những vị chúa tể của rừng thiên. Đó là khí phách anh hùng, là ý chí quyết tâm chiến đấu cao độ của những người lính Tây Tiến. Ngoại hình dữ tợn và dị thường là thế, nhưng sâu trong tâm hồn ấy vẫn là niềm khát khao hoà bình, khát khao chiến thắng, là niềm lạc quan, sự lãng mạn của những tâm hồn trẻ.(trích 2 câu sau).
    Lòng căm thù và mộng ước về ngày mai hoà bình là động lực chiến đấu của họ, đôi “mắt trừng” mang đầy quyết tâm và cả ngọn thù hận đối với quân thù luôn hướng về phía bên kia biên giới, mơ ước một mai có thể hoàn thành nhiệm vụ thể hiện thái độ sẵn sàng vượt qua mọi gian nan trên con đường hành quân và khát khao hoà bình của những trái tim non trẻ đầy nhiệt huyết. Ánh mắt đã vẽ ra một bức tranh người lính Tây Tiến trẻ đang canh gác với tư thế hiên ngang cùng khí thế oai phong ngất trời, sẵn sàng phá tan bất kì xiền xích nào của kẻ thù.Và rồi khi đêm đến, khi khoảng lặng xuất hiện giữa những giờ phút căng thẳng và hiểm nguy, các chàng trai nhớ về quên hương của mình, nhớ về Hà Nội nô nức, nhớ về những mảnh tình yêu, những “dáng kiều thơm”, những nỗi nhớ mang đậm tính nhân bản đã cho những chàng trai của chúng ta thêm quyết tâm để chiến đấu, đó là những người con gái họ yêu, những người vợ mới cưới mà đã phải chia xa, là tình yêu của tuổi trẻ. Nỗi nhớ trong Tây Tiến khác với nỗi nhớ trong Đồng Chí của Chính Hữu. những người lính trong Đồng chí xuất thân là nông dân, những giây phút mủi lòng, họ nhớ đến những chốn quen thuộc gắn liền với cuộc đời họ, nhớ nơi họ sinh hoạt hằng ngày, nhớ giếng nước, nhớ gốc đa. Còn những chàng trai TT nhớ về nơi Hà Thành đông đúc, nhớ về những người con gái xinh đẹp mà họ yêu đang chờ họ chiến thắng trở về. Đó là trái tim cháy bỏng tình yêu và hi vọng đằng sau lớp vỏ xù xì, dữ tợn kia. Họ là những chàng sinh viên trẻ, ra đi với niềm hi vọng và tâm hồn lãng mạn và niềm lạc quan như thể xé toạt cả bóng đêm của quân thù. Họ là những chàng trai Tây Tiến... Đoạn thơ đã khắc hoạ sinh động nội tâm đầy lãng mạn và thế giới tâm hồn đầy mơ mộng của những trái tim nhiệt thành.
    Nhưng đây là hiện thực, và rồi cái chết đã đến, nó đi vào lòng người đọc theo cách bi tráng nhất, oai hùng nhất qua những câu thơ đầy cảm xúc của Quang Dũng.(Trích 1 câu đầu).
    Quang Dũng sử dụng những từ Hán Việt cổ kính cùng biện pháp nói giảm nói tránh để nói về sự hi sinh của những người đồng đội mà không làm bi luỵ hoá cái chết của hộ và đã tạo ra bầu không khí trang trọng nhưng mang đậm tính tưởng niệm cho sự hi sinh của đồng đội. Không khí trang nghiêm, thiêng liêng đã phần nào làm giảm bớt sự bi thương cho hình ảnh những nấm mồ nghĩa tình của các chiến sĩ cô đơn, lạnh lẽo nơi rừng thiên nước dộc. Họ sống tại đây, chiến đấu tại đây và cũng nằm xuống ở chốn núi rừng thăm thẳm này. Các anh chôn cả tuổi trẻ của mình xuống lòng đất, như cái cách họ đã sẵn sàng cống hiến thanh xuân của mình cho cách mạng, cho kháng chiến. (trích tiếp câu tiếp theo).
    Họ hi sinh cho cách mạng, là lí tưởng quên mình cao cả, nó thể hiện lòng quyết tâm chiến đấu và lời thề chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Biết rõ có thể sẽ không thể trở về nhưng vẫn chọn đi. Các anh chẳng tiếc cuộc đời vì tổ quốc. Như câu hát:( (trích câu hát).
   Đó là lời thề “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nhưng sự hi sinh đó chưa bao giờ khiến những người đồng đội nhụt chí, nó càng làm tăng thêm ý chí chiến đấu và lòng căm thù của mình. Vì họ hiểu rằng đồng đội mình nằm xuống, điều mà người ấy trăn trở nhất chính là chưa thể hoàn thành nhiệm vụ, chưa thể thấy dược chiến thắng và hoà bình phía trước. Nó càng động lực cho những người lính Tây Tiến tiếp tục chiến đấu, thực hiện nhiệm vụ để hoàn thành điều mà những người đã hi sinh không thể làm được. Quang Dũng là một tác giả tài năng, ông làm thơ, vẽ tranh, viết văn và soạn cả nhạc. Kể cả những cái chết cũng được ông được khắc hoạ một cách đầy tình nghĩa và đậm tính bi tráng.(trích tiếp 2 câu)
    Có lẽ điểm sáng trong đoạn thơ chính là cách sử dụng từ ngữ tài tình của Quang Dũng. Cụm từ “Áo bào” vốn là để chỉ áo ngoài của các vua chúa thời xưa hay là áo ban cho các danh tướng khi a chiến trường. Cụm từ đã làm trang trọng, thiêng liêng hoá cái chết của đồng đội, anh hùng hoá sự hi sinh của họ, họ chết đi nhưng hồn vẫn hướng về nhiệm vụ còn đang dang dở, và linh hồn vẫn sẽ tiếp tục cùng chiến đấu bên cạnh những ng đồng đội. “Áo bào thay chiếu” mới bi thảm làm sao, thời chiến khó khăn, làm sao có thể an táng đàng hoàng, gặp đồng bào trên núi họ thương họ còn cho những manh chiếu để các anh chôn đồng đội, còn không thì các anh chỉ có thể dùng quân tư trang của chính mình, những manh áo nghĩa tình để chôn thây cho đồng đội, đưa họ về với đất mẹ. Sự đau thương và mất mát ấy đã được Quang Dũng làm vơi đi phần nào bằng biện pháp nói giảm nói tránh cùng với các thanh bằng, đối với ông sự hi sinh của đồng đội là một quy luật tự nhiên, họ chỉ là trở về với đất mẹ mà thôi, là trở thành một phần của non ông, để sống mãi, để trở nên bất tử. Và dòng sông Mã, nhân chứng lịch sử đã chứng kiến bao cuộc hành quân của TT, đã cùng TT chia sẻ niềm vui, nỗi buồn đã phải “gầm” lên như đang đau khổ và giận dữ, sự cuồng nộ của thiên nhiên như một bản hùng ca bi tráng truy điệu cho sự hi sinh của những người lính trẻ. Và từ đó, ta đã hiểu được rằng vì sao nhắc đến TT, QD lại nhắc đến sống Mã. Với giọng thơ trang trọng cùng tình cảm tiếc thương và kính trọng trước những sự hi sinh ấy. QD đã cho chúng ta thấy được đoàn quân TT bi nhưng không luỵ, âm điệu vừa mạnh mẽ vừa hào hùng đã khắc hoạ hình tượng ng lính vừa bi tráng vừa lãng mạng. Điểm sáng của TT là cách sử dụng từ ngữ tài tình và linh hoạt, tạo bầu không khí oai hùng cùng với biện pháp nói giảm nói tránh cùng với nhiều biện pháp tu từ như nhân hoá,…  đã vẽ lên cho ta bức tranh về hiện thực tàn khốc của chiến tranh và hình ảnh những chàng trai TT đầy nhiệt huyết cùng khí chất anh hùng và tâm hồn đầy lãng mạn và niềm lạc quan của tuổi trẻ.
         Kết lại chân dung người lính, đọng lại trong em là cảm xúc bâng khuâng. Chiến tranh luôn là nỗi đau của con người dù cho nó có mang mục đích gì đi chăng nữa. Những chàng trai TT mang tâm hồn thật đẹp, và cả ý chí chiến đấu cùng lí tưởng quên mình của các anh cũng vô cùng cao cả. Qua hiện thực tàn khốc của chiến tranh cùng bức tranh về các chàng trai TT ấy, em cảm thấy vô cùng biết ơn ông cha ta, những người đã hi sinh xương máu của mình để bảo vệ hoà bình và độc lập, tự do. Sau khi đọc TT, em lại yêu quê hương và đồng bào thêm một chút. Khi em đủ trường thành em mong rằng mình cũng có thể góp một phần nào dó vào công cuộc bảo vệ nền hoà bình mà những người đi trước đã hi sinh để giữ lấy
  


   
    
    
    
     
        

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: