Thế giới Thứ năm
Định nghĩa Thế giới thứ Năm:
Là nhóm các quốc gia không thể được xếp vào bất kỳ hệ tư tưởng, mô hình chính trị hay kinh tế truyền thống nào. Chúng là sản phẩm lai tạp giữa các hệ thống mâu thuẫn nhưng lại vận hành trơn tru trong chính sự mâu thuẫn đó. Không còn chia rạch ròi tả - hữu, dân chủ - độc tài. Thế giới thứ Năm là những quốc gia được cấu trúc dựa trên nỗi sợ, sự kiểm soát, và lòng tham quyền lực tuyệt đối nhưng lại ngụy trang bằng vỏ bọc "đa dạng" hoặc "vì dân". Quyền lực tập trung tuyệt đối, nhưng không bao giờ lộ rõ ai là "kẻ cầm trịch cuối cùng". Có thể tồn tại đa đảng giả lập, nhưng mọi nhánh đều phục vụ cho mục tiêu kiểm soát xã hội. Các nước Thế giới thứ Năm thường:
Hợp tác kinh tế có chọn lọc, chủ yếu để lấy công nghệ, tài nguyên, thông tin.
Theo đuổi chủ nghĩa cộng đồng cực đoan loại bỏ cái "tôi".
Chủ nghĩa chính: Hybridism (phải có tả-hữu hoặc trung hữu cùng xuất hiện đồng thời, trộn lẫn nhau (nếu có) và vận hành đất nước một cách tốt nhất).
Can thiệp vào chính trị nước khác qua chiến tranh thông tin, gián điệp, gây bất ổn.
Không tôn trọng luật quốc tế, chỉ coi đó là công cụ khi có lợi.
Pha trộn giữa kinh tế nhà nước, tư nhân và các tập đoàn được nhà nước chống lưng. Kinh tế phục vụ cho quân sự, an ninh, kiểm soát, không hướng tới phúc lợi dân sinh thực chất. Sử dụng công nghệ như công cụ kiểm soát thị trường, bóp nghẹt doanh nghiệp tư nhân không phục tùng. Xuất khẩu công nghệ, dữ liệu, ảnh hưởng chính trị như một dạng "thực dân hóa mềm".
Thông thường các nước TGTN ít nhất có 1 đối tác cực thân (bề ngoài có thể nói rằng chúng tôi không phải đồng minh của nhau nhưng hợp tác hơn cả hai chữ đó).
Nếu là tư bản: Đối tác đỏ (Mục đích chính là ngăn phong trào cộng sản, nguồn cung lương thực vì đối tác đỏ thường sản xuất nông nghiệp mạnh hơn, tiêu thụ hàng hóa, nguồn nhân lực chiến tranh, đối tác đỏ yếu hơn, v.v)
Nếu là cộng sản: Đối tác xanh (Mục đích chính là cho dân thấy nhà nước này luôn sẵn sàng làm bạn ngay cả với những quốc gia thù địch hệ tư tưởng, nguồn khoa học-công nghệ-công nghiệp vì nước cộng sản nếu không mạnh thì khá yếu về mảng này, đối tác xanh đủ giàu để có lợi nhưng không mạnh quá sức mạnh của đất nước hiện nay, v.v)
Đối tác đỏ không nhất thiết là cộng sản vì định nghĩa đỏ của TGTN khác và tương tự với xanh.
Đỏ có ý phản, sẽ bị cô lập bằng sức mạnh mềm từ xanh. Xanh trở mặt, sẽ bị trấn áp bằng lực lượng do đỏ cung cấp hoặc bằng lý luận hệ tư tưởng.
Nếu là có cả đối tác xanh và đỏ thì khá hiếm vì cần phải cân bằng được cả hai và quốc gia TGTN đó phải đủ mạnh (tầm đại cường quốc → siêu cường quốc hoàn chỉnh) vì phải có thị trường nội địa đông, sức tiêu thụ mạnh, kinh tế-quân sự mạnh hoặc không mạnh cũng chẳng yếu để khiến cả xanh lẫn đỏ đều không thể bỏ qua. Cho đối tác đỏ thử nghiệm chiến lược "chống xâm lăng mềm" thông qua hợp tác quân sự đồng thời cho đối tác xanh thử nghiệm mô hình kinh tế mới hoặc đưa vốn đầu tư, công nghệ. Vì nếu phe nào tấn công, phe còn lại sẽ cảm thấy lợi ích bị đe dọa và lập tức can thiệp. Luôn khiến mình trở thành "mảnh đất cần được bảo vệ" cho cả hai phe.
Các nước đủ tiêu chuẩn để coi là TGTN nằm trong khoảng trung cường quốc → siêu cường quốc hoàn chỉnh.
TGTN thường ám ảnh với cái chết, sụp đổ, diệt vong, bị diệt, v.v và phản ứng cực đoan khi cảm thấy sự tồn tại của mình bị đe dọa. Họ không có "chính nghĩa" rõ ràng, cũng không trung thành với bất kỳ học thuyết nào. Không như các nhà nước cộng sản có "thiên đường vô sản", hay tư bản tự do với "giấc mơ dân chủ". Khi hệ thống chết, họ chết thật, không có thiên đường hậu thân. Ký ức lịch sử trở thành nỗi sợ mang tính di truyền chính trị, khiến hệ thống luôn sống trong tình trạng phòng thủ và chiến đấu. TGTN càng nhiều đối tác xanh/đỏ thì tam giác cân đối quyền lực cũng phải mạnh theo tránh một sơ hở nhỏ cũng có thể khiến toàn bộ trục sụp đổ chỉ cần ngả về một bên, là kịch bản diệt quốc lập tức hiện hình. Không chỉ giám sát người dân, mà còn giám sát cả người giám sát, dùng AI, điểm tín nhiệm, phân tầng thông tin. Hệ thống an ninh tồn tại không để chống giặc bên ngoài, mà để ngăn nguy cơ tan rã từ bên trong. Thao túng lịch sử và định nghĩa về "diệt vong". Dù bên ngoài hòa hoãn, bên trong luôn có một "bóng ma kẻ thù". Tập trung quyền lực vào thuật toán, để tránh sự yếu đuối của con người. Luôn cảnh giác cao độ, giám sát tuyệt đối, hành động khôn ngoan nhưng vô cảm và bảo vệ quyền lực bằng mọi giá ngay cả khi không ai đe dọa thực sự.
Các nhà nước TGTN hầu như đều chọn con đường kỹ trị vì dân dễ lừa bằng con số hơn là lý tưởng. Chính sách dựa trên thuật toán, mô phỏng dữ liệu, kiểm chứng thực tế, không dựa vào cảm tính dân chủ. Quyền lực không nằm ở chính khách dân bầu, mà ở các ủy ban chuyên gia, AI điều hành, hệ thống phản hồi dữ liệu thời gian thực. Bộ máy điều hành đông đảo, có vẻ minh bạch, nhưng cực kỳ phân tầng. Hệ thống được xây để "bị dân chất vấn mà vẫn bất khả xâm phạm." Phân tán quyền lực thành các node (gần như tổ ong). Mỗi chính sách được thiết kế từ dữ liệu hành vi dân cư, AI mô phỏng phản ứng xã hội, thị trường. TGTN thường tổ chức nhà nước theo mô hình đa tầng, phân cấp mềm, dễ kiểm soát, đổ lỗi cho cấp dưới khi khủng hoảng, giảm căng thẳng địa phương, nhưng vẫn kiểm soát được từ trung ương và tạo cảm giác "đa dạng vùng miền" trong khi vẫn chỉ có một trung tâm quyền lực duy nhất. TGTN đứng giữa các phe đối kháng toàn cầu, phải duy trì răn đe độc lập không bị phe nào nuốt chửng, cản trở các đối tác đỏ/xanh trở mặt, giữ uy tín với các nước nhỏ hơn trở thành "kẻ bảo kê" chứ không là người đi xin bảo hộ. TGTN thường vận hành xã hội theo lối quản trị qua thuật toán, hệ thống phản ứng tự động, cơ sở dữ liệu công dân. Họ không cần thị trường khổng lồ nhưng phải cực kỳ chiến lược như sở hữu tài nguyên hiếm, trạm trung chuyển kết nối nhiều hệ thống kinh tế khác nhau, "cửa hậu" cho các hoạt động rửa tiền, thử nghiệm, luồn lách cấm vận và có lãnh thổ ở nhiều vị trí thương mại quan trọng (nếu có), sở hữu đặc khu, lãnh thổ "mượn" thậm chí là vùng quản lý tạm ở quốc gia khác (dưới dạng đầu tư, viện trợ hoặc thuê vĩnh viễn).
Có lính đánh thuê, lính của các thực thể phi quốc và mafia:
Lính đánh thuê và PMC:
Thực hiện nhiệm vụ bẩn mà quân đội chính quy không được phép dính líu (ám sát, lật đổ, bắt cóc kỹ sư, can thiệp chính trị).
Bảo vệ lợi ích kinh tế ở nước ngoài (đồn điền, mỏ khoáng, cảng biển, trạm dữ liệu...).
Là "bộ xương bên ngoài" của quân đội nhà nước TGTN ể nếu có xung đột quốc tế, có thể phủ nhận trách nhiệm.
Mafia và tổ chức tội phạm xuyên quốc gia:
Không phải là quan hệ chủ-tớ, mà là quan hệ cộng sinh bán hợp pháp:
Quốc gia bảo kê đường dây rửa tiền, buôn người, buôn vũ khí đổi lại mafia cung cấp nhân lực đen, lo vụ "dọn dẹp" tại các quốc gia mà đất nước cần gây bất ổn và hử nghiệm công nghệ kiểm soát tâm lý, thuốc, AI hành vi (trên dân thường trong các khu ổ chuột hoặc nhà tù).
Lính của các thực thể phi quốc gia:
Các nhóm khủng bố, cực đoan tôn giáo.
Phái quân ly khai được nuôi dưỡng từ khi còn "phong trào sinh viên
Dùng làm bình phong để gây chiến tranh ủy nhiệm kiểu mới nơi không ai biết ai là chủ, chỉ có "người chết".
Nếu là liên bang thì dùng lính của những chủ thể trong liên bang:
Liên bang bao gồm nhiều chủ thể (bang, tỉnh, vùng) có đặc thù văn hóa, chính trị, và kinh tế riêng. Việc huy động lính từ các chủ thể này giúp:
Gia tăng sức mạnh tổng thể: Mỗi chủ thể có binh lực riêng, chuyên môn riêng, tạo thành một hệ thống quân sự đa tầng, đa dạng, linh hoạt.
Tăng tính hợp pháp: Quân đội liên bang là sự hợp nhất của lực lượng từng bang, giảm bớt sự phản đối từ phía các chủ thể địa phương.
Duy trì sự cân bằng quyền lực: Không để một chủ thể nào quá mạnh, tránh tình trạng tập trung quyền lực quân sự quá mức.
Quân đội trung ương có quyền huy động quân từ các bang khi cần.
Quân đội bang có thể hoạt động độc lập hoặc phối hợp, nhưng vẫn dưới sự giám sát và phối hợp của liên bang.
Dùng hệ thống hệ thống chỉ huy đa tầng để kiểm soát sự trung thành, tránh nội bộ phân hóa hoặc nổi loạn.
Lính từ các chủ thể liên bang sẽ có kinh nghiệm chiến trường, kỹ năng địa phương khác nhau, tạo thành một lực lượng đa dạng có thể thích ứng nhiều loại chiến trường và nhiệm vụ.
Khi kết hợp, các lực lượng này có thể vận hành như một mạng lưới cực khó bị tiêu diệt hoàn toàn.
Còn giúp làm "lá chắn" cho nhau, che giấu các hoạt động bí mật, lính đánh thuê, hoặc các chiến dịch ngầm.
Thử nghiệm chiến thuật/mô hình quân sự mới.
Có hệ thống kiểm soát thông tin nội bộ cực mạnh.
Luôn khiến các bang nghi ngờ lẫn nhau một chút, nhưng vẫn cần trung ương để điều phối.
Kiểm soát chặt công nghệ quân sự và hệ thống hậu cần
Kinh tế đen:
Buôn bán động thực vật quý hiếm (nhưng được nhân giống ngầm).
Mặt hàng cấm như nội tạng, buôn người (nô lệ), vũ khí sinh học, thiết bị giám sát, AI lậu, tế bào sống, vật liệu hạt nhân yếu, v.v. Nghĩa từ nô lệ:
Nô lệ kinh tế:
Dân nghèo từ đối tác xanh hoặc đỏ bị "tuyển dụng" với mức lương thấp, điều kiện tồi tệ.
Hộ chiếu bị tịch thu, giam giữ trong khu tự trị lao động.
Hợp đồng không rõ ràng, thời hạn kéo dài vô tận, không thể rút lui.
Một số được dùng để khai thác tài nguyên trong môi trường nguy hiểm
Nô lệ trí tuệ:
Trẻ em từ vùng có tiềm năng đặc biệt được "nhập khẩu" để đào tạo, sau đó bị trói buộc bằng hợp đồng trọn đời với chính phủ hoặc tập đoàn.
Trí tuệ, phát minh, thậm chí ký ức và cảm xúc bị kiểm soát.
Một dạng "nô lệ AI sống" nơi trí thông minh con người bị giam trong bộ khung pháp lý không thể thoát.
Nô lệ sinh học:
Dùng làm thí nghiệm gene, mang thai hộ cho tầng lớp ưu tú, dự trữ nội tạng, hoặc sản xuất chất sinh học quý hiếm.
Tồn tại các "công viên nhân giống" hoặc "trại khai thác sinh học con người" được ngụy trang là trung tâm y tế.
Nô lệ cảm xúc / dữ liệu:
Bị khai thác cảm xúc để nuôi các AI tương tác cảm xúc.
Bị "cấy ký ức", "truy cập thần kinh", hoặc "livestream cảm giác" để giải trí cho tầng lớp thượng lưu hoặc phục vụ AI huấn luyện.
Nô lệ quân sự:
Giải bài toán nhân lực cho các chiến dịch đen / bất hợp pháp
Giảm thiểu tổn thất "công dân chính thức"
Chống phản loạn nội bộ
Dễ kiểm soát và thao túng bằng thuốc, công nghệ hoặc tín ngưỡng giả lập
Hàng "xám" như thuốc thử y học chưa kiểm định, gen người, ma túy thiết kế kiểu mới, chip cấy não, v.v
Thả loài ngoại lai vào quốc gia địch → phá hủy sinh thái → cạn tài nguyên → khủng hoảng lương thực.
Giao dịch những sinh vật đột biến, thiết kế gen để thử nghiệm ảnh hưởng sinh học trước khi dùng vũ khí thật.
Rửa tiền cho các thế lực tài phiệt ở nước khác → cấy "món nợ ngầm".
Mở "chợ đêm xuyên quốc gia" – những nơi chỉ người cấp cao, mật vụ, mafia hoặc chính phủ bóng tối biết.
Làm nút trung chuyển giữa các tổ chức khủng bố, nổi dậy, v.v → giữ chúng lệ thuộc bằng nguồn cung.
Phát hiện ai đang thao túng thị trường ngầm quá đà → thủ tiêu hoặc co-opt (đồng hóa).
"Ban thưởng" cho các bang, tỉnh, cá nhân trung thành bằng quyền kinh doanh bất hợp pháp được nhà nước bật đèn xanh.
→ Càng đen, càng được phép nếu có lợi cho trục quyền lực.
Tầng lõi:
Cơ quan bí mật, thường dưới một bộ dân sự trá hình điều phối tổng thể, chọn thị trường, đánh giá rủi ro.
Tầng mạng lưới:
Các tập đoàn tư nhân trá hình.
Các băng nhóm/mafia được đào tạo theo kiểu doanh nghiệp có bộ phận kế toán, truyền thông, quan hệ đối tác.
Tầng đêm:
Giao dịch qua dark web nội bộ, mạng mesh độc lập, hoặc qua các trạm trung chuyển vật lý cực kỳ kín.
Có cả "chợ vật chất" tồn tại trong lòng thành phố, nơi bạn có thể mua được thứ mà ngay cả chính phủ cũng không dám công nhận.
TGTN đứng giữa khối tả và hữu toàn cầu, không chọn phe (giữ đỏ để dằn mặt, giữ xanh để hút vốn phát triển). Dùng một bên để đối trọng bên còn lại (đỏ giám sát xanh và ngược lại) tạo thế cờ tam giác, trong đó TGTN là trung tâm quyền lực. Hầu hết các đối tác sống rất dai hơn cả các nước TGTN vì nó là trục nâng đỡ quan trọng trong bàn cờ chính trị thế giới và hỗ trợ cho các thế hệ sau của nước TGTN khi nó bị sụp đổ hoặc diệt vong (nếu có thể thì hồi sinh/phục quốc) hoặc ngược lại tương tự. Thường thì đối tác xanh/đỏ đó đã được gọi là bán lãnh thổ (chưa hoàn toàn là lãnh thổ chính thức vì vẫn còn chủ quyển nhưng thân thiết như lãnh thổ chính thức trong cùng một nước). Có thể "chê" vài câu để dân yên lòng, nhưng hành động chiến lược thì luôn đồng hành như hình với bóng. Sách giáo khoa dùng từ ngữ "liên quốc", "nhà nước liên minh" thay cho "quốc gia độc lập". Đưa hình ảnh các nhân vật lịch sử của hai bên cùng lên sách giáo khoa như thể đã từng là đồng minh lâu đời. Trẻ em lớn lên trong nền giáo dục cảm tính không hề có cảm xúc riêng với quá khứ tộc mình nữa. Ngôn ngữ, nghi lễ, văn hóa, v.v đại chúng dần pha trộn. Ngôn ngữ phải linh hoạt trộn với ngôn ngữ của "bán lãnh thổ" tạo ra một ngôn ngữ dân cả hai nơi đều hiểu và cũng là điều cốt lõi quan trọng nhất. Không "ép học" mà là tiện lợi, bắt xu hướng và hợp thời để làm xói mòn ngôn ngữ bản địa. Suy nghĩ bằng ngôn ngữ hỗn hợp dẫn đến cảm giác bản sắc cũng bị hòa tan. Luật pháp dần đồng bộ. Hệ thống văn bản, hợp đồng pháp lý, tài liệu giáo dục, v.v chỉ dùng ngôn ngữ lai. Cho phép người dân nước kia mang song tịch (tức hai quốc tịch), giao dịch như cùng một nước, chế độ lưu trú (du lịch) đặc biệt không visa hay hộ chiếu, tiền tệ chung, liên thông ngân hàng, v.v. Cảnh sát, quân đội liên kết. Công nghệ giám sát nhập khẩu. Mọi nền tảng vận hành đều do nước TGTN cung cấp. Không còn tầng lớp dân tộc, chủng tộc chủ nghĩa đủ mạnh để phản kháng. Ở mức cực đoan, người dân bán lãnh thổ có thể tự coi mình là một phần dân của TGTN mà không cần giấy tờ chính thức. Đây cũng là bước cuối cùng để nuốt chửng hoàn toàn một đất nước vào lãnh thổ và kẻ chủ mưu phải rất kiên nhẫn và từ từ không quá vội vàng hay hấp tấp. Trưng cầu chỉ là cú chốt hợp thức hóa, được dàn dựng bài bản sau đó 1-2 năm khi chủ mưu đạt được mục đích với tỷ lệ đồng ý cao bất thường. Một khi dân chúng đã nghĩ như công dân nước đấy thì sự sáp nhập không còn là chuyện "nếu", mà là "khi nào." Nếu thì "bán lãnh thổ" sớm muộn sẽ chuyển sang "lãnh thổ chính thức" và khi đó không còn con đường rút lui nào cả.
Trong quá trình làm đối tác mà đối tác quá giỏi thì sẽ khiến quốc gia bị ảnh hưởng ngược lại nên việc lựa chọn đối tác phải vô cùng cẩn thận tính toán lâu dài. Trường hợp tồi tệ hơn, đối tác có thể biến chính quốc thành chư hầu mềm nếu điều phối truyền thông, dòng vốn, hay chính trị ngầm quá khéo. Không có đối tác vĩnh viễn (hết lợi ích là chết hoặc bị bỏ) chỉ có mức độ kiểm soát chặt hay lỏng. Đối tác cần phải bị làm "bận rộn" ở các mặt trận quan trọng để không có thời gian trở mặt. Bơm vốn vào các đối thủ tiềm năng để kiềm chế. Đặt điều kiện khó về công nghệ, luật thuế, chuẩn kỹ thuật, cơ chế làm việc – định cư đặc biệt và chia nhỏ quyền lực nội bộ đối tác. Không bao giờ trao toàn bộ bất kỳ chuỗi quyền lực nào cho đối tác (thông tin, dòng tiền, AI, chất xám). Luôn giữ thế "trả nợ" từ đối tác và tạo sân chơi riêng cho đối tác đấu nhau. Vậy nên mới có sự ra đời của nợ máu:
Nước TGTN chủ động làm đối tác (nhằm có đối tác xanh hay đỏ) nếu đủ mạnh thì có thể áp dụng nợ máu với đối tác của mình (nợ về kinh tế (đã từng cùng chiến tranh thương mại), quân sự (tham gia mọi chiến dịch hy sinh quân sự thật sự), ngoại giao (cứng rắn chống lại quốc tế vì nhau), v.v). Nợ máu là nếu quốc gia đối tác kia chán muốn rời đi thì ép họ trả tiền cộng với lãi suất cực cao không trả được thì trở mặt thành thù. Nước "trả nợ" đôi khi không biết mình đang mắc nợ nếu là dạng nợ tư tưởng, nghĩa vụ đạo đức cách mạng.
Khi phe nào bắt đầu suy, TGTN giả vờ xích lại, tăng nhập khẩu từ đó, nhưng chuyển tài sản vào bên còn lại. Không bao giờ "bỏ bạn" thật, chỉ đóng vai "bận".
Lý do chính quốc phát triển mạnh đa ngành, còn đối tác thì không:
Chiến lược phát triển: Tự chủ phải làm chủ mọi khâu từ gen, đất hiếm, năng lượng, dữ liệu, vũ khí, v.v
Chính trị nội bộ: Kỹ trị/phi ý thức hệ kiểm soát nhận thức, định hướng phát triển
Sự liều lĩnh: Dám đầu tư ngành không sinh lời tức thì (AI quân sự, vật liệu lượng tử...)
Nền tảng ràng buộc: Là nguồn gốc ràng buộc không sợ bị "xù"
Tư duy địa chính trị: Dài hạn, bền vững, giống kiểu chơi cờ 3D
Đối tác được "cho phép" mạnh ở một vài mảng: Sản xuất, khai khoáng, công nghệ cụ thể, quân sự vùng xung đột, v.v nhưng nếu định "nâng cấp toàn diện", nó sẽ gây mất cân bằng quyền lực nội khối thì chính quốc bóp từ trong trứng nước.
Chính quốc ràng buộc tất cả những gì quan trọng cốt lõi với nhiều đối tác (dân số, kinh tế, quân sự, thị trường, gen/ADN, khoa học-công nghệ, giáo dục, chất xám, v.v), cố ý hạn chế, gài ràng buộc và chia để trị giữa các đối tác để luôn giữ cho đối tác đủ sống và mạnh nhưng không đủ độc lập. Tập trung dòng vốn ở chính quốc để tránh rủi ro rò rỉ công nghệ hay chất xám. Hạn chế đối tác trong các ngành có tính chất chiến lược hoặc có thể sản sinh quyền lực mềm (AI, năng lượng lõi, khoa học lý thuyết, truyền thông toàn cầu, v.v):
Chia công nghệ từng phần
Cho đầu tư nhưng cột dây nợ
Hợp tác nhưng giới hạn bản quyền
Cung cấp hạ tầng AI nhưng không mở lõi
Khuyến khích đào tạo nhưng hút chất xám về mình
Ràng buộc quân sự:
Là trạng thái trong đó hai hay nhiều quốc gia có liên hệ quân sự đến mức không thể thoát ra mà không chịu tổn thất nặng nề về cả an ninh, thể diện quốc gia, và cấu trúc quốc phòng.
Lực lượng chính quốc và đối tác cùng đóng quân, chia sẻ hậu cần
Căn cứ, radar, trạm viễn thông quân sự được đặt trên lãnh thổ của đối tác
Súng, máy bay, tên lửa, v.v. được chế tạo từ linh kiện chia đều
Dữ liệu vệ tinh, radar, chỉ huy bắn phá được mã hóa đồng nhất
Sử dụng chung một nền tảng ra quyết định, một kiến trúc mã hóa
Mỗi năm tập trận không chỉ ngoài biển, mà trong đô thị, rừng, chiến tranh mạng tăng khả năng tác chiến nhưng cũng tăng lệ thuộc
AI có "chìa khóa chết" mà chỉ chính quốc nắm chỉ chạy được nếu có lệnh từ máy chủ trung tâm của chính quốc
Đầu tư xây căn cứ nước ngoài nhưng hợp tác vận hành
Chia sẻ dữ liệu vệ tinh, địa chỉ mục tiêu, phản ứng sớm khi bị tấn công
Quân đội của đối tác tham chiến như một phần của lực lượng chính quốc
Đào tạo nhân sự chéo để làm tư duy quân sự ngày càng giống nhau, khó độc lập
Sĩ quan nước này được đào tạo, giữ chức trong quân đội nước kia
Radar, AI phân tích chiến thuật, kiểm soát drone thuộc về hệ thống chung
Chính quốc phát triển vũ khí toàn diện không phụ thuộc ai
Đối tác chỉ sở hữu các nhánh phụ không bao giờ có toàn bộ chuỗi
Kiến trúc chia nhỏ nhưng kết nối lớn
Nếu một đối tác rời đi thì các đối tác còn lại xâu xé còn chính quốc ung dung làm "trung gian hòa giải", đồng thời bán vũ khí cho cả hai bên để "ổn định lại trật tự". Liên minh được tái cấu trúc, nhưng chính quốc càng nắm chặt quyền lực hơn vì đã "giải quyết khủng hoảng thành công". Một đứa phản thì có cớ siết chặt công nghệ, tăng trừng phạt, thay đổi thể chế liên minh, dùng nó làm bài học để kiểm soát các nước còn lại tốt hơn.
Cả liên minh không phải yêu thương nhau, mà cùng đồng cam cộng khổ qua lợi ích sống còn. Một đứa bị đánh mà không phản ứng → đứa kế tiếp biết mình cũng sẽ bị bỏ rơi → domino.
Chính quốc: Gánh liên minh về kinh tế (chỉ tung lính đánh thuê, mafia và của các thực thể phi quốc gia), AI tấn công mạng, vệ tinh.
Đối tác: Gánh phần quân sự
Đối tác không gánh được vì dòng tiền họ kiểm soát không đủ lớn để "làm lãi suất biến mất", tiếng nói họ trong các định chế tài chính toàn cầu không có trọng lượng, thị trường nội địa quá nhỏ để xoay trục cung ứng hoặc hấp thu khủng hoảng và không có đồng tiền mạnh để dùng làm công cụ chính sách.
Ràng buộc kinh tế:
Chia nhỏ ngành kinh tế đối tác thành từng mảnh nếu cắt đứt quan hệ, kinh tế đối tác bị đông cứng
Thiết lập quỹ hỗn hợp cùng chịu rủi ro trái phiếu (nếu vỡ nợ một bên, bên kia trả hộ cũng chết), hệ thống thanh toán nội địa nhưng chạy trên hạ tầng đặt bên kia.
Đầu tư quá nhiều vào hạ tầng thiết yếu của đối tác và đối tác nhập khẩu gần như toàn bộ đầu vào từ nước đó.
Cùng phụ thuộc vào một hệ thống tài chính nội bộ không ai khác kiểm soát được
Chia sẻ tài nguyên tài chính và tài nguyên vật lý kiểu "ngân hàng chung" hoặc "dự trữ lẫn nhau"
Liên minh công nghệ lõi
Đa tầng chuỗi cung ứng không giao hàng hoàn chỉnh mỗi phần nằm ở nơi khác nhau. Đối tác phải tiếp tục phối hợp để hàng ra thị trường.
Tài chính đan xen như tơ nhện khi một bên sụp sàn, bên còn lại gánh sóng nợ, bất ổn hệ thống, khủng hoảng niềm tin.
Dự án chung dài hạn, không thể tách (đối tác góp nguyên liệu, nước TGTN góp công nghệ, nước thứ ba là khách hàng) vì tách là mất thị trường duy nhất, cả hai "tự tay đập bát cơm".
Hệ điều hành kinh tế, mã giao dịch, blockchain, logistics, v.v. tất cả dùng chuẩn riêng. Đối tác lệ thuộc vào kỹ sư, cập nhật, phần mềm, nền tảng
Dân hai nước sở hữu cổ phần lẫn nhau, tài sản không tách rời
Nợ trái phiếu nhau, đầu tư chéo ngân hàng
Ràng buộc kinh tế nhiều nước:
Trung tâm: Nước TGTN
Nắm chuỗi giá trị lõi (hạ tầng tài chính, nền tảng dữ liệu, logistics, tiêu chuẩn kỹ thuật)
Sở hữu quyền kiểm soát hoặc chi phối các tầng trung gian (ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm)
Tạo luật chơi do chính họ vận hành
Sàn giao dịch trung tâm mọi đơn hàng lớn phải đi qua hệ thống kiểm duyệt của họ
Mạng AI nội địa thuật toán điều hành logistics, ngân hàng, giám sát dữ liệu
Quyền cấp API / mã hóa không được cấp mã hàng hóa thành đồ bỏ đi
Lưu trữ dữ liệu đám mây trung tâm ai rời hệ sinh thái mất sạch lịch sử giao dịch, dữ liệu khách hàng, chuỗi mã sản phẩm
Các "đối tác":
Đối tác xanh: Phát triển công nghệ, phần mềm, giải pháp cao cấp
Đối tác đỏ: Gia công, sản xuất, dự trữ tài nguyên, lực lượng lao động
Đối tác xám: Vùng "trung gian", lưỡng tính kinh tế
Mỗi đối tác giữ 1 mắt xích trong chuỗi sản xuất
Giao dịch chéo không cần dựa vào USD hay đồng tiền khác
ERP, AI, cloud, viễn thông, logistics kết nối đồng nhất
Mọi máy móc, quy trình, phần mềm phải dùng định dạng chung
Kỹ sư, chuyên gia, hacker, cố vấn tài chính "xoay vòng" giữa các nước
Các quỹ đầu tư, ngân hàng, công ty mẹ – con chéo lẫn nhau
Sàn giao dịch trung tâm mọi đơn hàng lớn phải đi qua hệ thống kiểm duyệt của họ
Mạng AI nội địa thuật toán điều hành logistics, ngân hàng, giám sát dữ liệu
Quyền cấp API / mã hóa không được cấp mã hàng hóa thành đồ bỏ đi
Giao thương, hợp tác quốc tế để thu hút công nghệ, vốn đầu tư, nhưng luôn duy trì khoảng cách an toàn.
Ngầm thao túng các tổ chức quốc tế, mạng lưới tài chính toàn cầu.
Chuẩn bị sẵn sàng chiến tranh, đảo chính, khủng bố mạng nếu lợi ích bị đe dọa.
Luôn gieo rắc hình ảnh "nạn nhân", "quốc gia đang phát triển" để tranh thủ cảm tình, trong khi thực chất là kẻ săn mồi ngụy trang.
Sức mạnh công nghệ cực đoan
Công nghệ tiên tiến nhất được tập trung vào hai mục tiêu:
Kiểm soát xã hội: Giám sát 24/7, theo dõi tâm lý, trí tuệ nhân tạo định hướng tư tưởng, dữ liệu cá nhân là tài sản chiến lược.
Sức mạnh quân sự: Vũ khí công nghệ cao, sinh học, AI, robot chiến tranh, chiến tranh mạng, vũ khí sinh học hoặc thậm chí công nghệ thao túng sinh học con người.
Không ký hoặc ký nhưng không tuân các công ước quốc tế
Dùng chiến tranh ủy nhiệm, nơi thử nghiệm
Nghiên cứu và sử dụng các công nghệ bị cấm trong chiến tranh mạng / sinh học / thần kinh
Phát triển công nghệ không phải để phục vụ nhân dân, mà để duy trì quyền lực và củng cố nhà nước.
Vai trò đối tác và TGTN trong quân sự:
Đối tác đỏ:
Sản xuất số lượng lớn, tốc độ cao, giá rẻ, dễ triển khai trên chiến trường khốc liệt.
Có thể chấp nhận sự lạc hậu nhất định để đổi lấy sức chịu đựng, độ bền, khả năng sửa chữa ngay tại chiến hào.
Chạy được dây chuyền vũ khí kiểu cũ lẫn mới.
Cung cấp linh kiện hoặc nguyên mẫu sản xuất hàng loạt.
Là nơi thử nghiệm vũ khí
Đôi khi giữ vai trò "máy ép xung đột" tạo ra cớ để sản phẩm được tung ra chiến trường.
Thường thiết kế dựa trên mô hình cũ nhưng tối ưu hóa, hoặc hoán cải thành nhiều biến thể.
Đối tác xanh:
Sở trường là nghiên cứu, sáng tạo, thiết kế và mô phỏng vũ khí thế hệ mới.
Có mạng lưới thu hút chất xám, hacker, kỹ sư quốc tế.
Vũ khí tinh vi, chính xác, tích hợp AI, dùng cho chiến tranh điện tử
Tạo ra các nguyên mẫu, phần mềm điều khiển, vật liệu mới, AI chiến thuật, đạn dược thông minh, v.v
Nước TGTN thu vũ khí thô của đỏ + công nghệ của xanh rồi làm ra phiên bản vũ khí hybrid có thể dùng đạn phương Tây lẫn phương Đông.
Xuất khẩu phụ tùng, phần mềm điều khiển, hệ điều hành quân sự cho cả đỏ và xanh để đối tác lệ thuộc vào chuỗi cung ứng.
Bán vũ khí không rõ nguồn gốc nhưng tương thích mọi chuẩn thích hợp cho lính đánh thuê, mafia, lực lượng ủy nhiệm.
Đỏ gửi xác vũ khí về, nước TGTN hồi sinh và nâng cấp. Xanh gửi bản vẽ thì hiện thực hóa.
Có mạng lưới buôn lậu vũ khí ngoài luồng.
Cho vay ưu đãi cực kỳ dễ dàng nhưng hợp đồng gài điều khoản bóp nghẹt nếu vỡ nợ. Tạo ra doanh nghiệp giả, thị trường giả để thao túng giá hàng hóa chiến lược. Phá giá nội tệ của đối thủ bằng thao túng chuỗi cung ứng, tin đồn, hoặc dump ngoại hối. Bơm tiền đầu tư vào những lĩnh vực gây nghiện: bất động sản, chứng khoán ảo, tiền ảo, tiêu dùng rỗng. Cắt nguyên liệu thô, bóp nghẹt vận tải, làm nghẽn hậu cần. Gieo rắc trong giới trẻ nước đối thủ rằng chính quyền họ lỗi thời, bất công, không cần thiết. Mua chuộc kỹ sư, lấy công nghệ. Sau đó tung bản nâng cấp để làm lỗi bản gốc. Tin giả được nhỏ giọt trong dân đối thủ bào mòn tinh thần. Lôi kéo đối thủ vào các hiệp định kinh tế mà đã gài bẫy sẵn để khi cần thì rút lui, bóp họ từ bên trong.
Thường vi phạm toàn diện mọi luật và công ước quốc tế đến mức tối đa và cực đoan. Họ không coi luật quốc tế là giới hạn đạo đức, mà là thứ để vũ khí hóa. Tố cáo đối thủ, bảo vệ mình, trì hoãn trừng phạt, đánh lạc hướng dư luận. Khởi kiện liên tục các quốc gia đối thủ tại tòa quốc tế. Trích dẫn các điều khoản "vì nhân quyền", "chống phân biệt đối xử", "toàn vẹn lãnh thổ" để đánh lạc hướng truyền thông, gây rối loạn đối ngoại. Dùng các tổ chức phi chính phủ (NGO) được tài trợ ngầm để gửi báo cáo quốc tế đầy tính chính trị. Kéo dài đàm phán, yêu cầu các thủ tục rườm rà mà họ vốn không tôn trọng. Nếu bị điều tra xoay sang chiêu "đang cải cách". Luôn có luật nội bộ mâu thuẫn với luật quốc tế đánh bài "chủ quyền quốc gia" để trì hoãn hoặc vô hiệu hóa nghĩa vụ. Luôn thể hiện mình là:
Quốc gia thuộc "thế giới đang phát triển"
"Bị kìm hãm bởi trật tự thế giới bất công"
"Bị hiểu lầm bởi truyền thông độc đoán"
Mỗi khi bị tố cáo, phản ứng điển hình:
"Các anh không hiểu văn hóa chúng tôi"
"Chúng tôi đang trong giai đoạn chuyển hóa phức tạp"
"Hành vi đó là tự vệ, không phải xâm phạm"
Dựng luật quốc nội mâu thuẫn với luật quốc tế, sau đó tuyên bố:
"Chúng tôi có quyền chủ quyền lập pháp."
"Luật quốc tế không có giá trị tại vùng lãnh thổ của chúng tôi."
Cố tình vi phạm quy mô nhỏ nhiều lần để cộng đồng quốc tế "quen".
Sau khi thế giới không phản ứng → tăng cấp độ.
Mỗi lần bị phát hiện → viện dẫn chính các tiền lệ họ đã tạo ra.
Xã hội đóng kín, giả lập tự do
Bề ngoài có vẻ là xã hội hiện đại, người dân "được chọn lựa", "có quyền bầu cử", "tự do kinh tế" hạn chế.
Nhưng thực tế:
Tư tưởng bị kiểm soát từ giáo dục, truyền thông, mạng xã hội.
Hệ thống tín nhiệm xã hội ngầm hoặc công khai phân loại công dân.
Các đảng phái khác biệt chỉ là bình phong, tất cả phục vụ quyền lực trung tâm.
Người dân sống trong ảo giác tự do, nhưng mọi bước đi, suy nghĩ đều nằm trong tính toán của nhà nước.
Kinh tế kiểm soát pha trộn kết hợp tư bản (ưu ái nhóm lợi ích thân chính quyền) và quốc hữu hóa ngầm (những ngành then chốt bị nhà nước thao túng hoặc trực tiếp kiểm soát)
Phát triển các tập đoàn khổng lồ đóng vai trò "chân rết" chính trị.
Tài nguyên bị khai thác triệt để, cả con người cũng là tài nguyên.
Chiếm lĩnh bằng kinh tế, dữ liệu, công nghệ, mạng lưới ảnh hưởng.
Thao túng chính trị các nước yếu hơn thông qua mạng lưới gián điệp, kiểm soát truyền thông, mua chuộc hoặc đe dọa.
Xã hội hai mặt:
Ngoài: Phô diễn công nghệ, vinh quang dân tộc, sức mạnh và hình ảnh quốc gia hiện đại.
Trong:
Đàn áp tư tưởng, kiểm soát dân số, phân hóa giai cấp hoặc thanh trừng nội bộ.
Phân hóa giai cấp ngầm: Tầng lớp trung thành được ưu ái, tầng lớp bị nghi ngờ bị vắt kiệt hoặc thanh lọc.
Tâm lý người dân:
Biết nhưng im lặng
Tự nguyện hoặc bị ép trở thành "bánh răng" trong guồng máy quốc gia.
Đa số dân chúng hiểu bản chất hệ thống, nhưng bị nhồi sọ, sợ hãi hoặc cam chịu vì không còn lựa chọn.
Một bộ phận nhỏ trung thành mù quáng là tầng lớp ưu ái.
Phản kháng gần như bất khả thi, mọi tổ chức đối lập bị thâm nhập hoặc xóa sổ từ trong trứng nước.
Các nước thế giới thứ năm thường có HDI < 0.450 (bị trừ khá nhiều về phần sức khỏe, tri thức):
Giới hạn tiếp cận y tế cấp cao, ưu tiên phòng ngừa để dân không cần khám chữa. Y tế đủ để giữ dân làm việc, đóng thuế, sinh sản, nhưng không đủ để phục hồi, sáng tạo, hay sống già tử tế. Chế độ dinh dưỡng, chăm sóc tinh thần, bảo hiểm, v.v. chỉ đạt mức duy trì công suất lao động.
Chỉ dạy vừa đủ để dân vận hành hệ thống. Hạn chế học thuật tự do, nghệ thuật, triết học, tư tưởng phản biện. Tri thức rập khuôn, thiên về kỹ năng thực dụng và lòng trung thành. Bằng cấp là danh hiệu được cấp phát chứ không phải đạt được. Trẻ em được học lập trình, logic, ngoại ngữ nhưng không học tư duy phản biện, lịch sử thật, hay triết học.
Tạo ảo tưởng thu nhập ổn định nhưng hệ thống tiêu dùng kiểm soát hút lại toàn bộ tài sản cá nhân. Thu nhập do thuật toán kiểm soát dựa trên hành vi không ai tích lũy được quyền lực từ tài chính cá nhân. Không có đói nghèo cực đoan, nhưng cũng không thể giàu vượt ra khỏi khung. Thu nhập bị kiểm soát bằng hệ thống tín dụng xã hội, công nghệ giám sát.
Mục tiêu cuối cùng của các nhà nước Thế giới thứ Năm:
Sống sót, mở rộng, kiểm soát, tồn tại bất chấp chuẩn mực quốc tế.
Khai thác mọi tài nguyên kể cả con người để củng cố quyền lực.
Tiến hóa hệ thống chính trị - xã hội thành dạng lai tạp khôn lường, vượt xa những khái niệm cổ điển để tồn tại lâu dài.
Dù có bị đánh sập 1 lớp, nó vẫn hồi phục ở hình thức khác.
Tồn tại không phải để sống, mà để không chết và bành trướng tư tưởng.
Tồn tại đủ lâu để tạo ra mạng lưới ảnh hưởng về dữ liệu, ngôn ngữ, thị trường, và tâm lý sâu sắc trên toàn thế giới để lúc nào cũng sẽ có sẵn lực lượng hồi sinh đất nước khi quốc gia sụp đổ hoặc tan rã và các lực lượng thường rất mạnh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com