Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 121 - Dư luận viên & Những kẻ chạy tội đầy ô nhục (phần 2)

Chủ nhật, 7/7/20XX.

Đà Nẵng.

"Thưa tác giả của bài báo vừa nãy," Thái ngồi lên chiếc giường bị xới tung ngay khi ông Phong ngừng đọc. "Chính bản thân tôi cũng thật chẳng hiểu tại sao một kẻ làm cái nghề thấp kém, vô liêm sỉ như ông lại tự nhận mình là một sĩ quan quân y kiêm nhà văn, nhà thơ quân đội, và lại càng không hiểu tại sao ông lại có một người bạn thân làm ở bộ Ngoại giao từ những năm 80 mà người đó lại tường tận được nội dung cụ thể của mật ước Thành Đô là gì. Hồi sáng hôm qua, chính chúng tôi đã nghe một ông tướng tên Cương khẳng định rằng mật ước này chỉ là chuyện riêng giữa hai đảng cầm quyền, chứ không phải là chuyện của hai nhà nước. Điều đó nghĩa là gì? Nghĩa là tất cả những ai làm việc ở bộ Ngoại giao, không một ai, kể cả người bạn thân mà ông vừa nhắc đến trong bài báo vừa nãy có thể biết được rõ ràng nội dung của mật ước đó trừ khi ông ta quen Đỗ Mười hoặc Nguyễn Văn Linh, tôi nói đúng chứ? Nếu như người bạn thân của ông biết được hội nghị Thành Đô có nội dung chi tiết như thế nào, thì ông cũng phải chắc chắn rằng người đó phải có một mối quan hệ thân mật nào đó với hai kẻ đã trực tiếp ký tên mình vào bản hiệp ước đáng nguyền rủa kia."

Ông Phong đọc tiếp.

"Đúng là Đại tướng Lê Đức Anh có vai trò rất lớn trong Hội nghị Thành Đô, mặc dù ông không tham gia Hội nghị. Thành viên tham dự gồm có:

Phía Việt Nam:

– Nguyễn Văn Linh, Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam

– Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng kiêm Thủ tướng

– Phạm Văn Đồng, Cố vấn cấp cao

– Hồng Hà, Chánh văn phòng Trung ương Đảng

– Hoàng Bích Sơn, Trưởng ban đối ngoại trung ương Đảng

– Đinh Nho Liêm, Thứ trưởng Bộ ngoại giao

Phía Trung Quốc:

– Giang Trạch Dân, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc

– Lý Bằng, Thủ tướng Chính phủ

– Và các cán bộ chuyên ngành

Hội nghị diễn ra trong hai ngày từ 3 đến 4/9/1990 tại thành phố Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Tại sao lại tổ chức ở Thành Đô mà không phải Bắc Kinh? Vì hai bên xác định đây là hội nghị bí mật, không muốn cho dư luận biết, bởi lúc đó Bắc Kinh đang chuẩn bị cho Á vận hội 1990 sẽ được tổ chức vào cuối tháng 9. Đã có rất nhiều nhà báo đến đây."

Đến lượt ông Phong phản biện:

"Bây giờ mày có thể cho biết tại sao một cái hội nghị mà phải tổ chức ở Thành Đô chứ không phải ở Bắc Kinh để đảm bảo bí mật mà lại có rất nhiều nhà báo đến thăm được không? Tại sao lại như vậy?"

Cái gã sử dụng acc clone im lặng, và kết quả là bị ăn tát một phát vào mặt.

"Mày im lặng ư? Ha ha, bình thường mày cãi tao gắt lắm cơ mà, tại sao hôm nay mày im lặng vậy? Hay sợ té đái ra quần rồi? Mà thôi, dù thế nào đi nữa thì mày cũng không trả lời được câu hỏi này. Tao biết mà, tụi mày cho rằng những kẻ gọi là ba que, dâm chủ là những anh hùng cào phím, nhưng rốt cục ai mới là anh hùng cào phím đây hả? Tụi mày cào thì giỏi lắm, dùng toàn "câu vàng chữ ngọc" không à, nhưng tới cái lúc tụi mày được yêu cầu giải trình những gì mà bọn bay cào phím trên mạng thì mặt tái xanh, đéo nói nổi một chữ nào!", ông Phong vừa nói vừa cười khẩy. "Người ta cũng là anh hùng bàn phím như tụi mày thôi, nhưng điểm khác biệt ở đây chính là họ sẵn sàng giải thích những gì họ gõ trên mạng, còn chúng mày thì không bao giờ! Giờ thì nghe tiếp đây nè, e hèm..."

"Tại sao lại phải bí mật? Bởi Hội nghị này chủ yếu bàn về "chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Campuchia" mà không có các phái Campuchia tham dự. Đây là điều hết sức tế nhị và phức tạp trong một sự kiện ngoại giao lớn. Chính vì vậy, cho đến tận bây giờ, cả hai bên vẫn chưa chính thức công bố nội dung của Hội nghị. Điều đó gây nên những nghi ngờ thậm chí suy luận không tốt về Hội nghị cũng như đối với các nhà lãnh đạo nước ta, trong đó có Đại tướng Lê Đức Anh.

Muốn đánh giá đúng vai trò và giá trị lịch sử to lớn của Hội nghị này, ta phải trở lại bối cảnh của Việt Nam và thế giới vào thời điểm đó.

Năm 1990, năm thứ tư của công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta có phần khởi sắc nhưng tiến triển rất chậm chạp, thậm chí nhiều ngành đang trên đà suy thoái, đời sống nhân dân vẫn rất khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu do Mỹ bao vây, cấm vận kinh tế, nước ngoài không thể đầu tư vào Việt Nam. Lúc này, hệ thống xã hội chủ nghĩa trên đà tan rã, viện trợ của các nước anh em không còn. Đặc biệt, do hơn chục năm chiến tranh biên giới, chúng ta không thể yên ổn tập trung xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, cho chiến tranh quá lớn với 1,5 triệu quân dàn trải hai đầu chiến tuyến Bắc, Nam.

Về mặt quân sự, tại biên giới phía Bắc vẫn còn xung đột nhỏ lẻ xảy ra. Trên mặt trận Campuchia, mặc dù ta đã truy đuổi tàn quân Polpot lên sát biên giới , nhưng lực lượng của chúng còn khá mạnh, trong khi Quân đội của Thủ tướng Hun Sen lại rất yếu. Chúng ta đã rút phần lớn Quân tình nguyện Việt Nam về nước, nhưng không dám rút hết vì bạn không đủ sức đơn độc chống lại lực lượng Khmer đỏ đang được hậu thuẫn mạnh mẽ từ Trung Quốc và phương Tây. Mặt khác, suốt 10 năm bố trí lực lượng trên vùng rừng núi hiểm trở, "rừng thiêng nước độc" dọc biên giới Campuchia-, bộ đội ta không những thương vong lớn trong chiến đấu mà còn hy sinh quá nhiều do mìn, sốt rét ác tính và bao căn bệnh kỳ lạ khác. Những người lính quân y phương chúng tôi biết quá rõ và rất đau đớn về tổn thất lớn lao này.

Trước tình thế đó, lãnh đạo nước ta rất muốn có một hiệp ước hoà bình cho đất nước Campuchia để quân đội Việt Nam rút hoàn toàn về nước mà chính quyền của bạn do ta hậu thuẫn vẫn đứng vững. Tuy nhiên, ta không thể đàm phán trực tiếp với Khmer đỏ và các phái đối lập được. Con đường duy nhất là phải qua Trung Quốc bởi Khmer đỏ là "con bài" nằm trong tay họ.

Lúc này, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đang ở những năm cuối cùng của nhiệm kỳ lãnh đạo. Ông muốn sớm chấm dứt chiến tranh để tập trung tiềm lực xây dựng đất nước theo cương lĩnh đổi mới mà Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra. Nguyện vọng của ông được Đại tướng Lê Đức Anh khi đó đang là Bộ trưởng Bộ quốc phòng hoàn toàn ủng hộ. Lê Đức Anh từng có 5 năm là Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Hơn ai hết, ông hiểu rất rõ những gian nan và tổn thất của bộ đội ta trên mặt trận đặc biệt này. Và có lẽ, ông cũng là người muốn chấm dứt chiến tranh hơn tất cả.

Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định gặp Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam lúc bấy giờ là Trương Đức Duy.

Lần thứ nhất ông gặp tại Văn phòng Trung ương Đảng, tuy chỉ mang tính chất xã giao, nhưng đã phát đi là: "ta muốn có một hội nghị với lãnh đạo Trung Quốc để đàm phán về bình thường hoá quan hệ Việt – Trung và lập lại hoà bình ở Campuchia". Lãnh đạo Trung Quốc sau đó đã nhanh chóng đồng ý. Họ đồng ý là điều dễ hiểu. Chế độ diệt chủng do họ dựng nên và nuôi dưỡng bị thế giới lên án chỉ còn một nhóm tàn quân có nguy cơ bị tiêu diệt, trong khi xung đột biên giới Việt – Trung đã gây tổn thất nhiều sinh mạng cho quân đội nước họ. Lãnh đạo Trung Quốc bị mất lòng dân và suy giảm trên thế giới. Lúc này, họ đang ở thế bí và cũng muốn có hoà bình, ổn định như ta.

Lần thứ hai, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ quốc phòng để bàn về nội dung cụ thể chương trình Hội nghị. Tại sao lại ở Bộ quốc phòng mà không phải ở Bộ ngoại giao theo như thông lệ (sự kiện này liên quan chủ yếu đến các chuyên gia ngoại giao). Nguyên nhân chính là do phía Trung Quốc không có thiện cảm với Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Họ cho rằng Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch có thái độ chống Trung Quốc và chỉ có Lê Đức Anh là một trong số lãnh đạo của ta muốn bình thường hoá quan hệ với họ mà thôi.

Và chẳng bao lâu sau, lãnh đạo Trung Quốc đã mời đích danh Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ tịch HĐBT Đỗ Mười, Cố vấn Phạm Văn Đồng sang dự Hội nghị Thành Đô.

Kết quả Hội nghị:

Gồm hai phần được ký kết:

+ Phần thứ nhất: Chấm dứt xung đột biên giới giữa hai nước, bình thường hoá quan hệ Việt- Trung.

+ Phần thứ hai gồm bảy điều khoản về vấn đề Campuchia. Chủ yếu là:

– Các bên ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh

– Quân đội Việt Nam rút hết về nước

– Thành lập Hội đồng hoà giải dân tộc do Norodom Shihanouk làm chủ tịch

– Tiến tới tổng tuyển cử, thành lập chính quyền mới.

Giá trị lịch sử của Hội nghị Thành Đô: Dù đã gần ba chục năm trôi qua; người ta vẫn chưa thôi bàn tán, tranh luận về Hội nghị này với những đánh giá khác nhau thậm chí là trái chiều. Một phần do tiến trình và nội dung Hội nghị không được công khai, nhưng chủ yếu là do những người đánh giá về nó đứng trên quan điểm, nhận thức khác nhau hoặc trên trận tuyến đối lập.

– Tuyệt đại đa số nhân dân trong nước tin tưởng vào lãnh đạo Đảng ta thời đó thì đánh giá: Hội nghị này đóng vai trò tích cực và có lợi cho Việt Nam.

– Một số ít cho rằng tại Hội nghị này ta bị lép vế, xuống nước trước Trung Quốc. Có lẽ do số này không nắm rõ nội dung của Hội nghị.

– Đặc biệt, khá nhiều người (chủ yếu ở nước ngoài) kết tội lãnh đạo Việt Nam đã đầu hàng Trung Cộng. Thậm chí họ còn tung tin là trong Hội nghị, lãnh đạo ta xin cho Việt Nam trở thành một tỉnh tự trị của Trung Quốc. Thật lố bịch và nực cười.

Theo đánh giá của tôi, Hội nghị là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam. Vì:

– Nhờ chấm dứt chiến tranh, bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, tiến tới cắm mốc biên giới để từ đó Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của nước ta.

– Phái Khmer đỏ dần dần bị loại bỏ, chính quyền của Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ vẫn vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước Campuchia hoà bình, biên giới Tây Nam ổn định.

– Hội nghị là tiền đề giúp ta thực hiện bình thường hoá quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, sau đó tiến tới xoá bỏ hoàn toàn bao vây và cấm vận kinh tế.

– Chấm dứt chiến tranh không những quân đội ta chấm dứt đổ máu mà còn tạo điều kiện cho ta giảm quân từ 1,5 triệu xuống còn 0,5 triệu, giảm chi phí quân sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế để nước ta có được vị thế như ngày nay.

Vậy thì, có thể gọi Hội nghị Thành Đô là một HIỆP ĐỊNH HOÀ BÌNH ký kết cho cả ba dân tộc Việt-Trung-Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém gì hai Hội nghị: Giơ-ne-vơ (1954)và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại hoà bình cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, thì Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo hoà bình lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.

Trở lại với vai trò của Đại tướng Lê Đức Anh. Chúng ta phải mang ơn ông. Chính ông cùng với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh là hai nhân vật chủ chốt kiến tạo nên thành công của Hội nghị này. Nếu không có Hội nghị Thành Đô, chiến tranh sẽ kéo dài thêm nhiều năm nữa, biết bao nhiêu chiến sỹ sẽ hy sinh và vận mệnh của nước ta sẽ đi về đâu?

Hình như có một danh nhân nào đó từng nói, đại ý: Một vị tướng tài ba là vị tướng biết phát động chiến tranh và cũng biết kết thúc chiến tranh đúng lúc. Đại tướng Lê Đức Anh không phải là người phát động cuộc chiến tranh biên giới, nhưng ông đã biết kết thúc cuộc chiến này một cách ngoạn mục. Chỉ riêng điều này thôi, ông cũng đã trở thành một vị tướng tài ba rồi...

Hôm nay, Nhà nước ta đang tổ chức lễ tang cấp Quốc gia cho Nguyên chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. Viết về Hội nghị Thành Đô, tôi muốn mọi người hiểu thêm về ông và cũng như là nén tâm nhang tỏ lòng thành kính, ghi nhận công lao to lớn của một vị tướng suốt đời chiến đấu cho độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc Việt Nam.

Nhắc đến Hội nghị Thành Đô, tôi lại nhớ đến lời của người bạn:

– Nghề ngoại giao của chúng tôi không thẳng băng, sòng phẳng như nghề y của các anh. Nó lắt léo, tế nhị và phức tạp lắm. Có những điều nói mà không làm, hoặc làm mà không nói. Có những sự kiện phải hàng chục, thậm chí hàng trăm năm sau mới hiểu hết giá trị lịch sử của nó.

Có lẽ Hội nghị Thành Đô là một trong những sự kiện như thế.

Cần Thơ 3/5/20XX"

Ông Phong ngừng đọc, không bấm nút nguồn vội. Ông vẫn còn muốn chất vấn lão này thêm một lát nữa.

"Bây giờ chúng ta sẽ sửa lỗi cho mày, dựa trên những gì mà người ta đã phản biện lại bài báo này.", ông giở sang một bài viết phản biện lại về hội nghị Thành Đô, nhấn mạnh những từ đầu tiên mà ông đang nói. "Trước hội nghị này tới mười lăm tháng, tức là tháng sáu năm 89, quân Việt Nam ta đã rút hoàn toàn khỏi Campuchia, chính thức kết thúc chiến tranh mười năm đẫm máu người Việt ta tại xứ người. Ba tháng sau, chiến tranh biên giới Việt – Trung cũng kết thúc, mà cũng là trong năm 89 chứ không phải năm 90! Điều này có nghĩa là sao? Nghĩa là nếu như các nước muốn kí kết những hiệp ước chấm dứt chiến tranh, thì những hiệp ước này phải được ký kết vào một khoảng thời gian nào đó trước khi quân đội nước nào rút về nước ấy, đó là quy luật ngoại giao bất biến mà nước nào cũng phải tuân thủ, hiểu không? Mày có thấy vô lý không, nếu như một hiệp ước kết thúc chiến tranh mà lại được ký kết sau khi quân nước nào về nước nấy? Chẳng lẽ sau những mốc thời gian mà tao nói, quân ta vẫn còn muốn ra trận đến mức mà phải tới tháng 9 năm 90 mới chính thức kết thúc chiến tranh à? Tóm lại, không bao giờ mật ước Thành Đô lại có những điều khoản mà mày vừa liệt kê ra đây cả, mà một khi đã không có những điều khoản như thế này mà vẫn được gọi là mật ước thì nội dung là cái đếch chó gì? Là bán nước! Là sáp nhập lãnh thổ nước ta, cho nước ta trở thành một tỉnh lị của Tàu cộng chứ làm con cặc gì có chuyện kết thúc chiến tranh với Campuchia! Chính vì nội dung đớn hèn, đáng nguyền rủa đến như vậy nên bọn bầy tôi khốn nạn kia, từ thời lão Linh, lão Mười đến tận đời thằng Trọng lú kia mới giấu nhẹm như vậy suốt hai mươi chín năm qua!"

Nãy giờ, gã đàn ông tên Chẩn, mặc dù đôi tai vẫn nghe những lời phản biện kèm thêm lời rủa xả của ông Phong, đôi mắt hắn nhìn Khoa thao láo. Từ nãy giờ, ngay từ lúc Khoa xuất hiện trước mắt hắn, ánh mắt của hắn dành cho Khoa đã có một chút nào đó như muốn cầu xin một điều gì đó, nhưng vì sức mạnh vô hình đáng sợ của ông Phong nên hắn không dám nói nổi một lời nào dù đã được chính ông tặng cho "đặc ân" được phát biểu.

"Ông có gì đó muốn phát biểu à?"

Hắn ta gật gù lia lịa. Rồi hắn bắt đầu luôn.

"Cậu kia... cậu... cậu có phải là... cậu là Khoa phải không?"

"Làm sao ông biết tên tôi?", Khoa chỉ tay vào người mình. "Bộ ông có quen gì với tôi hay gia đình tôi à?"

"À... bác quên mất. Thằng khỉ Tạ Đức Chẩn này đã từng là một trong người bạn thân thiết nhất của bố ruột của cháu từ thời còn cắp sách đến trường đấy Khoa à. Hồi cháu còn bé, gã này cũng thân thiết với bố cháu mặc dù hắn là một thằng theo cộng, còn bố cháu cùng với bác là những kẻ bất đồng chính kiến với đảng."

"Thật á? Bố cháu là người bất đồng chính kiến với đảng?"

"Đúng vậy. Bố cháu thời ấy rất nổi tiếng trong những lãnh vực đưa tin và chụp ảnh, nhất là đưa tin về những vụ dân oan bị mất đất. Hồi ấy chưa có Facebook như bây giờ đâu, chỉ mới có internet với Yahoo thôi, nhóm của bọn bác toàn họp nhóm kín, và hội có nhiều tấm ảnh để share với nhau về hiện tình đất nước vào những năm ấy. Bố cháu đi tù, bác đi tù cũng chính vì những bức ảnh đó, cộng thêm với sự phản bội của cái THỨ SÚC SINH NHU NHƯỢC NHƯ MÀY!", ông Phong bất chợt quay sang và đấm vào má gã đàn ông bị trói trên ghế dựa vào tường.

"Nãy giờ mày không nói, bây giờ bắt buộc mày phải nói. Trả lời tao đi, mày biết tao rõ lắm mà, tao đã từng nói với mày rằng cho dù mày có chết đi nữa, xác mày dù cho đã hóa thành xương thành cốt đi nữa tao cũng sẽ nhận ra mày. Mày biết rõ điều đó mà, đúng không? Vậy tại sao mày lại đột ngột chuyển xuống Cần Thơ sống, thay tên đổi họ ngay sau khi tòa tuyên án tao và bố thằng Khoa mười năm tù cơ chứ? Có phải mày sợ tao tới mức mày phải đổi tên họ, cắt đứt toàn bộ các mối quan hệ với gia đình và bè bạn mày để không ai có thể khám phá ra và biết về sự phản bội đầy ô nhục của mày, phải không?"

"Chính cháu cũng không hiểu tại sao một người đã trực tiếp đấu tranh với thế lực phản động đúng như chủ trương của đảng và nhà nước lại phải sống chui rúc dưới profile khác suốt mười năm giời.", Thái khoanh tay lại, đăm đăm nhìn người bị trói.

"Phải, phải, đó cũng chính là điều mà tôi..."

Rồi hắn chợt im bặt. Hắn vừa nhận ra rằng mình đang nói những câu từ vô nghĩa.

"Thực ra... thực ra em cũng không có ý trốn khỏi anh... Em biết... một người chân chính, sống lương thiện như anh Hải mà đột nhiên phải đi tù..."

"Tốt, khá khen cho việc mày còn biết điều.", ông đặt cái chai lên cái bàn mà ông không nỡ phá đi. "Mười năm qua mày không hề trốn tránh tao cũng như những họ hàng thân thích của mày hay của thằng Hải, Chẩn à, mà mày phải trốn tránh tòa án lương tâm của mình. Nhưng xem ra chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp mày chiến thắng được tòa án lương tâm của chính mày. Tư tưởng cộng sản đã trở thành kim chỉ nam cho hành vi phản bội bạn bè của mày. Tại sao? Lenin có một câu nói đã khiến tao hiểu được rõ ràng cách mày nhìn bạn bè mày ra sao: Chúng ta phải căm thù – lòng căm thù là điều cơ bản của chủ nghĩa cộng sản. Trẻ con phải được dạy để chúng biết căm thù cha mẹ chúng nếu họ không phải là những người cộng sản. Chính câu nói đó đã gây ra một trong những vụ phản bội lớn nhất trong lịch sử Việt Nam thời xã hội chủ nghĩa, đó là việc thằng Trường Chinh đấu tố chính cha mẹ ruột mình đến chết, và khi tao biết được rằng mày đã phản bội chúng tao, tao đã không ngờ rằng lại có hẳn một tên Judas đang ở ngay trong danh sách bạn bè của tao."

Đột ngột, ông lồng lộn lên, vung chân lên trời rồi đột nhiên đáp xuống ngay vào hạ bộ hắn, quát lên:

"TAO ĐÃ TỪNG NGHĨ JUDAS CHỈ TỒN TẠI TRONG KINH THÁNH, TRONG LỊCH SỬ CỦA THIÊN CHÚA GIÁO, CHO ĐẾN KHI TAO NGHE LỎM ĐƯỢC VỀ VIỆC MÀY ĐÃ BÁN ĐỨNG TAO VỚI THẰNG HẢI CHO BỘ CÔNG AN, CHO TÒA ÁN, CHO NHÀ TÙ!"

"Aauuuuu.....", hắn rên lên trong đau đớn tột cùng. "Đau quá... Tha cho em... anh Phong... xin đừng..."

"Mày thì biết đau cái con cặc gì!? Mày đã bao giờ nghĩ đến cảm giác của vợ con thằng Hải khi phải thấy chồng, cha mình đang yên đang lành đột nhiên phải đi bóc lịch chỉ vì sống theo chủ nghĩa của mình chưa hả? Hay là mày chỉ nghĩ đến khoảnh khắc hạnh phúc khi mày đi nhậu với thằng Minh đại tá và thỏ thẻ vào tai hắn rằng mày có thể giao nộp tao với thằng Hải cho hắn chỉ để đổi lấy một căn chòi tranh ở Cần Thơ và mấy triệu đồng? Rốt cục vào cái lúc mày thỏ thẻ với hắn điều đó, lương tâm mày đang cất trong cái váy đụp nào? Trả lời đi!"

"Dạ... lúc ấy em uống chút rượu nên hơi mất kiểm soát..."

"NÓI LÁO! Mày hẳn phải rất tỉnh táo mới nói được những điều như thế, bởi vì tao có biết bao nhiêu lần chung chầu với mày rồi nên tao biết, dù cho tao có chuốc cho mày say đến cỡ nào mày cũng không bao giờ nói ra được những điều nhạy cảm như vậy! Đã gây ra chuyện trời tru đất diệt như vậy mà còn núp dưới váy rượu, nhục nhã như vậy mà mày còn nói được cơ à? Mày ngụy biện, tao phải cho mày bầm dập nữa mày mới chừa cái tật thích ngụy biện phải không?"

"Bình tĩnh lại đi bác ơi!", Thái lao ra can khi ông Phong định tẩn cho hắn mấy cú nữa. Ông ngừng tay, hai mắt vẫn đang nhìn chằm chằm vào mặt hắn.

"Có một điều cháu vẫn không hiểu, là làm sao bác lại có thể đoán ra ngay rằng người sở hữu nick Trần Thanh Chương lại là người đàn ông này?", Khoa mạnh dạn hỏi ông Phong.

"Phải, nó nói đúng đó. Đó cũng chính là điều mà em đang thắc mắc."

"Câm mồm.", ông lạnh đanh đáp, quắc mắt nhìn ông Chẩn. "Không cần mày nói tao cũng biết mày đang thắc mắc rồi. Cái bài đăng về mật ước Thành Đô vừa nãy tao đọc và phản biện cho mày và hai đứa nhỏ này nghe là chìa khóa để tao giải mã tất cả về cái profile clone ấy của mày.

Thứ nhất, từ năm cấp ba, tao đã không ít lần đọc được cái lối hành văn của mày, về cái cách mày phản biện lại những kẻ có ý đồ xúc phạm nhà nước cộng sản này. Ngôn từ mày dùng rất lịch sự, chưa bao giờ văng tục chửi thề như những tên dư luận viên khác mà tao đã từng đọc trước khi đi tù. Thứ hai, cả hai chúng ta đều có người quen làm trong ngành quân y và đã từng tay cầm súng, vai vác theo túi cứu thương đi chạy chữa cho từng anh bộ đội một trong những lần đi hành quân trên chiến trường ác liệt ở Campuchia, và mày đã mô tả rất rành rọt về những vụ này thông qua những gì anh ta kể cho chúng ta nghe về chiến trường những năm ấy, như thể chính mày cũng là một sĩ quan quân y thứ thiệt như mày đã nói trong bài báo ấy – đó là điều mà không có một tên dư luận viên nào có thể viết được trong những bài viết bưng bô của mình. Thứ ba, là những điều mà mày cho là nội dung của mật ước Thành Đô – mày đã nêu ra những điều khoản mà tao dám bảo đảm rằng đến cả trưởng ban Tuyên giáo như Võ Văn Thưởng cũng không thể chế ra được những mỹ từ hay đến như vậy để bao che cho những điều khoản đớn hèn đó của mật ước ấy, dù rằng tất cả những sự kiện mà mày nêu ra đều trớt quớt hết. Mày đã viết là bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam, đó là điều mà không ai dám nghĩ đến nơi. Và thứ tư, chính là yếu tố quyết định tất cả..."

Ông mở lại màn hình điện thoại, đọc lại dòng cuối cùng của bài post ấy.

"Cần Thơ, ngày 3 tháng 5 – ngày mày viết bài báo này cũng chính là ngày tao ra tù. Ngày hôm ấy, vợ chồng tao đã tìm đến căn nhà này để hỏi tội mày, nhưng rốt cục là mày đã chuồn đi đâu mất. Hỏi ra thì người ta bảo với tao rằng người mà tao muốn gặp đã đổi tên thành Trần Thanh Chương và hiện đang sống tại căn nhà ở Cần Thơ của mình, nick Facebook của hắn cũng có tên đó. Từ đó, vài ngày sau khi tao đọc được bài báo này và biết được mày đang ở đâu, tao đã dùng chiến thuật điệu hổ ly sơn, đó là mượn nick Facebook của một gã giang hồ mà gõ status trên Facebook, nói rằng tao là một tay đòi nợ thuê và khẳng định chắc nịch rằng sẽ xuống Cần Thơ để tìm mày mà tính sổ vì số nợ mày đã gây ra cho chủ nợ cũ của mày, và thế là mày sợ co dái đặt ngay một vé khứ hồi bay thẳng lên đây để trốn khỏi tao, nhưng thực tế ra là tao vẫn ở Đà Nẵng đây để chờ mày, và kết quả là mày đã sa vào cái bẫy mà tao đã giăng sẵn."

"Ra là thế...", Thái nhắm mắt gật gù vì nể mưu kế của ông Phong. "Kể ra tên này cũng cao chạy xa bay thật, chỉ vì sợ bị trả thù nên phải đổi hẳn tên và hộ khẩu thường trú từ Đà Nẵng xuống tận Cần Thơ ngay khi bác và bố của Khoa chính thức bóc cuốn lịch đầu tiên ở thành phố này. Mười năm qua đối với ông chắc là phải nợ nần chồng chất lắm mới hoảng loạn như vậy khi nhận được tin mình sẽ bị đòi nợ?"

"Đúng thế... Tôi đã nợ quá nhiều mà không thể trả hết được... Đồng lương của dư luận viên quá bèo bọt, không đủ để tôi trả nổi nợ... Chính vì thế nên tôi rất sợ khi có ai đó nhắn tin đòi giết tôi để xóa nợ... Đồng nghiệp của tôi... một đống người cũng lâm vào hoàn cảnh nợ nần như tôi..."

"Như mày thì có lẽ mày là thằng xui rủi nhất trong số những kẻ đội bô lên đầu... vì đã có những người bạn như chúng tao. Mày không chỉ đã sống trong nhục nhã trong vòng mười năm qua, mà còn là từ khi mày gia nhập lực lượng bò đỏ đông đảo trên khắp xứ Đông Lào này.", ông ta lại lấy cái chai trên bàn, lại dí tiếp vào cổ hắn. "Tao muốn hóa kiếp cho mày lắm cơ, nhưng giết người không bao giờ là giải pháp tối ưu nhất để giải quyết vấn đề. Thế nhưng, tao vẫn sẽ không thể nào tha thứ được cho mày... mà không phải chỉ có gia đình tao hay gia đình thằng Hải là không tha thứ cho mày... bất kỳ ai nghe được đầy đủ câu chuyện này đều sẽ không bao giờ cảm thông được cho mày. Sống trên đất nước Việt Nam này, ai cũng chọn nghề đường hoàng, và không có một nghề nghiệp nào là thấp hèn cả, cho dù đó có là công nhân quét rác hay dọn vệ sinh, hay là làm nail như biết bao những thằng như mày vẫn thường miệt thị dân làm nail ở xứ Mỹ là nail tộc đi chăng nữa, ngoại trừ cái nghề bưng bô mà mày vẫn đang theo đuổi, bởi lẽ mày chỉ phải liếm láp cái đống cứt do đám cộng sản đó ỉa ra và cho đó là của trời cho để đổi lấy mấy đồng bạc chết đói – mày có bao giờ tự hỏi rằng..."

Ông chọc những mảnh nhọn của cái chai vỡ vào đùi hắn thật lực.

"...Ăn cứt của người ta và khen ngon, mày có phải là một con người không? Cái việc nhục nhã không biết để đi đâu cho hết này mà mày cũng chấp nhận làm, đơn giản chỉ vì cái thứ tư tưởng cổ hủ, mục nát đã và đang gây ra biết bao nhiêu đau thương và hủy hoại thế giới này...! Mày súc vật đến vậy sao hả Chẩn? Mày súc vật đến mức chỉ vì muốn tiếp tục làm một công việc hèn hạ mà bán đứng cả bạn bè mình với giá ngang bằng một túp lều tranh với vài triệu đồng!"

"Bình tĩnh... xin anh bình tĩnh lại... em vẫn còn là người bạn thân thiết của anh và anh Hải cơ mà...", ánh mắt ông Chẩn như ăn năn hối lỗi dần, đậm chất van nài sự tha thứ.

"Đéo bạn bè cái con cặc gì hết ráo!", ông kéo lê cái chai vỡ, tạo ra những vệt đỏ dài trên đùi hắn. "Chính mày đã qua cầu rút ván, cắt đứt mọi nghĩa tình với bạn bè mày thông qua vụ bán đứng này, vậy mà mày vẫn còn quỵ lụy van xin người ta làm bạn trở lại với mày sao...? Mày càng lúc càng bộc lộ rõ cái bản chất đê hèn của một con bò đỏ rồi đấy, rõ ràng là trong đầu mày chỉ còn cái tư tưởng còn đảng còn mình, thà mất nước còn hơn mất đảng cùng với những nỗi căm hận dành cho những người bạn không cùng chí hướng, không cùng chính kiến với mày! Đối với mày, hẳn là những vết thương từ những loạt đạn bắn thẳng vào cái chính quyền tay sai cho Tàu cộng này còn quan trọng hơn cả tình cảm bạn bè, thứ mà mày vẫn luôn coi là những đám mây mịt mờ mặc cho những mỹ từ mà mày đã dành cho chúng tao suốt ngần ấy năm chúng ta quen biết nhau!"

"Khoa à...", Chẩn ngó sang nhìn Khoa, cũng là ánh mắt cầu xin sự tha thứ. "Tha cho chú... chú biết... việc chú làm đã quá sai trái với bố cháu... Thiết nghĩ, ba cháu trong tù hẳn phải tha thứ cho chú... vì những việc chú đã làm..."

Hắn chưa nói hết thì đã bị một đá tổng thẳng vào ngực.

"MÀY CÒN DÁM NHẮC TỚI THẰNG HẢI TRƯỚC MẶT CHÁU NÓ SAO? MÀY CÓ TƯ CÁCH GÌ ĐỂ NHẮC ĐẾN BỐ NÓ TRƯỚC MẶT NÓ HẢ? THẰNG NHỎ, CÙNG VỚI CHỊ CỦA NÓ, ĐÃ LỚN LÊN MÀ KHÔNG CÓ CHA MÌNH BÊN CẠNH VÀ KHÔNG NHẬN ĐƯỢC SỰ BẢO BỌC VÀ TÌNH CẢM YÊU THƯƠNG TỪ MỘT NGƯỜI CHA ĐÚNG NGHĨA, VẬY MÀ MÀY CÒN CẦU XIN SỰ THA THỨ ĐẾN TỪ NẠN NHÂN TRỰC TIẾP CỦA HÀNH VI BỘI BẠC ĐÓ CỦA MÀY!"

"Nhắc đến chị em Khoa... tôi đã từng nghe chị ấy kể hết mọi thứ về tuổi thơ của hai chị em rồi... họ đã lớn lên mà thiếu vắng tình yêu của người cha. Tuổi thơ của họ rất buồn, tôi có thể khẳng định chắc nịch như vậy."

"Uhm... đúng là tao cũng cảm thấy là có gì đó mặc cảm, nhưng dần dần thì tao cũng quen dần với nó rồi."

"Mẹ mày có bao giờ chia sẻ với mày về việc có người phản bội bố mày chưa?"

"Chưa. Đây là chuyện mà lần đầu tao mới nghe à, và dù sao đi nữa, ba tao đi tù vì có người bạn như gã đó... Hắn ta vẫn không thể nào chấp nhận được. Hắn đã cướp mất hạnh phúc trong gia đình tao suốt mười năm qua... Nhưng dù sao đi nữa, tao đã không còn thắc mắc kẻ đó là ai nữa rồi. Mọi khuất tất về ba tao cuối cùng cũng được sáng tỏ. Bây giờ tao đã hiểu những gì ba tao cũng như bác đây đã làm – tất cả là vì muốn vạch trần những sự dối trá, bàng quan, thờ ơ của chính quyền ta, dù là mười năm trước hay là vào thời điểm hiện tại. Còn ông...", Khoa quay sang nói với gã Chẩn. "Ông đã không ủng hộ đường lối và cách suy nghĩ của bố tôi và bác đây về chính trị, mà còn miệt thị và bán đứng họ. Tội đó rất đáng chết, nhưng bản án của ông sẽ phải đánh đổi bằng cả danh dự suốt phần đời của mình."

"Cháu nói hay lắm... Cháu thám tử này, cháu có mang súng điện không?"

"Có đây ạ.", Thái đưa khẩu súng cho ông bác, cùng lúc gã đàn ông tên Chẩn bắt đầu cục cựa, rồi cố vùng vẫy trong khi tay chân đều bị khóa chặt vào ghế.

"Không! Không! Đừng mà! Hãy để tôi tỉnh táo!... Đừng đánh ngất tôi! Thả tôi ra!..."

Không do dự gì, ông bác dí đầu kích điện vào cổ hắn và bóp cò. Hắn giật run một hồi lâu rồi cuối cùng hai mắt hắn nhắm nghiền lại, đầu gục hẳn xuống, hoàn toàn không có phản ứng gì nữa ngoài những hơi thở yếu ớt.

"Có lẽ bây giờ là đã quá đủ với thằng đĩ này rồi.", ông đưa khẩu súng điện lại cho Thái. "Không biết là nên xử lý sao với cái thằng này đây ngoại trừ việc giết chết nó nhỉ?"

"Riêng cháu chẳng có thành kiến gì...", Thái đáp. "Ngoài việc bắt hắn phải sống trong sự nhục nhã đến đớn hèn... Dĩ nhiên là chúng ta vẫn phải chiều theo ý của Khoa, là không được giết hắn nhỉ?"

"Ừ. Và dù thế nào đi nữa, sau này tao cũng sẽ nghĩ rằng lòng nhân đạo của tao vẫn được đặt đúng chỗ."

...

Trong khi đó.

Cuộc đối đầu giữa người dân và cảnh sát cơ động vẫn còn đang tiếp diễn trong sự ác liệt kinh khủng, bởi mọi thứ hiện giờ đang đi theo diễn biến giống y hệt như Hồng Kông vào những ngày đầu biểu tình chống luật dẫn độ: cảnh sát bắt đầu vào cuộc với màn khai mạc là những viên đạn cao su và những quả lựu đạn hình trụ, màu xám mà trong đó chứa đầy hơi cay bắn thẳng vào đoàn người mà trong số đó có những người không mang khẩu trang và kính bảo vệ mắt. Khi loạt khói được nhả ra, đám đông buộc phải nhất loạt lùi hết xe lại, những người đi bộ cũng lùi lại hết. Một chốc sau, làn khói bốc lên giữa một mớ những tòa nhà thấp, khiến những người ở xa tưởng là có cháy.

Chị em Hoài An và Bách, Tuấn Ngọc đều đang đứng trong những căn hộ ở lầu cao, quan sát thấy những làn khói nhẹ bốc lên từ phía xa.

"Ngọc à, hình như mày cũng đang ở trong căn hộ cao tầng của mày phải không?", Hoài An nói chuyện với Ngọc qua điện thoại. "Mày có thể thấy rõ làn khói đó chứ?"

"Rõ như ban ngày.", Ngọc chỉ đáp, không nói gì thêm.

"Nhìn cảnh này sao tao lại nhớ tới Hồng Kông ngay lúc này..."

"Đúng thế. Tên bộ trưởng Công an mới đã sử dụng những chính sách chống bạo động y chang như những điều luật được áp dụng bên Tàu. Xem ra tên đàn em mới của tên lú này cũng chẳng kém cạnh gì so với lão Tô Lâm mà chúng ta đã từng đánh cắp tâm trí đen tối của hắn, nhỉ? Thậm chí còn tệ hơn thế nhiều khi hắn ta cho phép cơ động bắn đạn cao su và dùng lựu đạn hơi cay để giải tán đám đông."

"Ừm... Mong sao mọi người đừng vì những quả lựu đạn ấy mà từ bỏ công cuộc biểu tình chống hội nghị Thành Đô ha."

"Tao cũng mong là như thế. Bye."

Cô gái cúp máy, ngồi bệt xuống ban công căn hộ, nhìn về một tương lai xa xăm khi đoàn người mang lá cờ vàng ba sọc đỏ quay trở lại đất mẹ của họ, trở về nơi họ đã sinh ra và thuộc về. Trong đầu Ngọc, cũng như các thành viên khác của hội TCQĐĐ cũng có chung một hình ảnh như thế ngay khi họ thấy được đoàn người đông đúc như trẩy hội trên phố.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com