Chương 129 - Vị nhạc sĩ đến từ thời hoàng kim
Thứ 5, 8/1/20XX.
Giấc ngủ cuối cùng trước khi chính thức lên đường.
Tối nay An vẫn cứ trằn trọc hoài. Nó lo cho Bình hiện giờ đang nằm trong tay tên bạo chúa cộng sản hiện đang liếm gót Nguyễn Phú Trọng kia, liên tục nói thầm tự hỏi rằng cô nàng bây giờ ra sao rồi. Đôi môi mấp máy liên tục, nhiều lúc muốn thốt ra tiếng gọi người yêu giữa đêm dài, đó là những gì nó muốn lúc này, nhưng vì không muốn làm phiền ai nên nó cố gắng kêu khẽ nhất có thể, thậm chí không thể nghe được tiếng gì luôn.
Thế rồi nó mất dần ý thức.
Đôi mắt nó khép lại dần, cuối cùng không mở ra nữa.
...
Sàn nhà màu trắng.
Tại sao sàn nhà màu trắng?
Xung quanh toàn là một màu trắng xóa như đỉnh núi tuyết.
Tại sao xung quanh trắng xóa như vậy?
Đây là đâu?
An đã tỉnh dậy, và ngay khi vừa thấy khung cảnh trống rỗng một màu trắng trước mắt, nó đã tự mình hỏi những câu như vậy.
Con đường trước mắt không thể thấy rõ đằng xa là đường hay là bờ vực. Nó thử bước lại về phía trước, con đường tiếp tục mở rộng. Càng bước đi, nó thấy mọi thứ đang rõ ràng dần. Như thể nó đang đi trong một con hẻm giữa hai tòa nhà cao.
Cuối hẻm có một chiếc ô tô. Trông nó giống như một chiếc Ford Mustang đời 1964, cũng có màu trắng. Cũng cuối hẻm có một người đàn ông khoảng tầm trên dưới ba mươi tuổi, mặc đồ dạ hội màu đen, bên trong có áo sơ mi trắng, cài nơ đen trên cổ. Càng bước lại gần, khuôn mặt của người đàn ông cao gầy kia càng rõ ràng, và người đàn ông kia cũng bước lại tới chỗ An.
"Xin hỏi, ông là..."
"Ta chỉ là một nhạc sĩ của miền đất thủ đô Sài Gòn này thôi. Ta đang đợi một người, và người đó sẽ xuất hiện từ con hẻm này."
"Sài Gòn...", nó nhìn ra ngoài phố, có những cái biển hiệu bằng tiếng Việt, còn xen lẫn thêm một chút tiếng Anh. "Có phải tôi đang ở Sài Gòn không?"
"Đúng là như vậy."
An dời mắt ra khỏi những tấm biển hiệu, nhìn vào gương mặt sáng sủa của người đàn ông, đột nhiên nhớ ra mình đã thấy gương mặt này ở đâu rồi.
"Vậy cho tôi hỏi, ông có phải là...", An ấp úng lúc đầu, nhưng lưu loát lúc sau, kèm thêm ánh mắt tròn xoe. "...nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, tác giả của các ca khúc Phiên Gác Đêm Xuân và Chiều Mưa Biên Giới trứ danh?"
"Đúng vậy. Xin giới thiệu, ta là nhạc sĩ kiêm Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Đông, và ta rất hân hạnh được gặp cháu, một trong số rất nhiều người đến từ tương lai mà ta muốn gặp. Nào, hãy lên xe đi. Ghế nào cũng được. Chúng ta hãy cùng nhau đi khắp Sài Gòn những năm 60 nhé."
Nhạc sĩ bước ra đường, ngồi vào ghế lái trong khi An ngồi ghế trợ lái bên cạnh như một thói quen khi ngồi vào xe hơi. Chiếc xe nổ giòn giã những âm thanh mà nó chưa từng nghe bao giờ, rồi từ từ lăn bánh đi vào mặt đường nhựa.
Mặt trời lúc này đã lên cao. Những con phố rộng rãi lúc nào cũng tấp nập xe, chủ yếu là những chiếc xe lam màu trắng chở sau ghế lái khoảng bốn, năm người khách gì đó, những chiếc xích lô hay xe máy thấp có bình xăng lớn ở trước yên, có xe còn có thêm chỗ ngồi phụ ở một bên xe (sidecar), được cầm lái bởi những người đàn ông đội mũ và đeo kính mát; trên lề đường thì toàn là bóng dáng của những người đàn ông, con trai mặc áo sơ mi trắng, quần tây ống rộng, phụ nữ và các nữ sinh thì mặc áo dài, đặc biệt là các nữ sinh với màu áo trắng truyền thống làm An thoáng nhớ tới bộ ảnh kỷ yếu hồi cấp ba. Đặc biệt hơn là trên đườnghoàn toàn không thấy một cọng rác – lề đường chỗ nào chỗ nấy cũng rất sạch sẽ vàtinh tươm như thể được khoác một chiếc áo hoàn toàn mới toanh, không phủ bụihay bị sờn, rách, hoen ố dù chỉ một vết nhỏ bằng đầu ngón tay.
An ngồi ở một bên chiếc ô tô, vừa ngắm nghía đường phố Sài Gòn ngày trước mà chỉ biết thốt lên một câu thán phục, thời đó xã hội Việt Nam Cộng Hòa thật phát triển rực rỡ, còn hơn cả Singapore hay Hồng Kông cùng thời kì – An đã từng xem những tấm ảnh về hai thành phố này trên mạng rồi, Singapore hồi mới tách khỏi Malaysia vẫn còn là một nơi khá hoang sơ, còn Hồng Kông thì chỉ mới xây lên những tòa nhà cao tầng đầu tiên trong lịch sử của nó.
"Sài Gòn ngày ấy thật đẹp..."
Những lời tự thầm thì của An đã vào tai nhạc sĩ. Chính ngài cũng đang mỉm cười lạc quan, miệng ngài đang huýt sáo thành những giai điệu quen thuộc của một bài hát mà sau này nó mới nhận ra đó là ca khúc "Chiều Mưa Biên Giới" được sáng tác vào năm 1956 và bắt đầu nổi tiếng vào những năm 1960.
"Bài này có phải là...", An mất một lúc mới nhớ ra được tên bài hát. "Mấy Dặm Sơn Khê phải không, thưa nhạc sĩ? Phải thú thật với ngài là cháu cũng thích nghe nhạc của ngài đấy, đến nỗi những ca khúc này được đặt trên cái máy hát gối đầu giường của cháu đấy. Và không chỉ có cháu, cả nước trong thời hiện đại ai cũng thích nghe nhạc vàng cả."
"Đúng thế.", nhạc sĩ ngừng huýt sáo để trả lời người thua mình tới cả gần bảy mươi năm tuổi. "Ta không nghĩ rằng sau ngày ba mươi tháng tư năm 75, những ca khúc này lại được sống lại trong lòng người Việt, cả miền Nam lẫn miền Bắc. Vậy mà vào những năm tháng cuối đời ta lại thấy những ca khúc do chính ta từng sáng tác cùng với các ca khúc khác cùng thời lại được hồi sinh và nhận được rất nhiều sự đón nhận từ thính giả tứ phương...", giọng nhạc sĩ như thể đang thể hiện một ca khúc trầm lắng và chất đầy sự tiếc nuối. "Giá như sau khi bị bắt đi cải tạo về, ta có thể sáng tác được nhiều ca khúc hay hơn những ca khúc trước đây nữa... thế nhưng dòng đời đã quá nghiệt ngã đối với tâm hồn đầy thi vị của ta... Ta đã không thể tìm được nổi một nguồn cảm hứng để có thể sáng tác như trước đây ta đã từng làm."
"Khi cháu xem cuốn Paris By Night 125 nói về các tuyệt phẩm của ngài, cháu đã biết rằng ngài đã phải trải qua mười năm trong trại cải tạo của Việt cộng. Mười năm đó... giả như đó là cháu thì có lẽ cháu sẽ không còn nhìn thấy mặt trời. Những năm tháng ấy có lẽ đã là địa ngục đối với những người sống trong chế độ cộng hòa."
"Những gì mà quân nhân hay vợ con của những người cộng hòa chúng ta phải trải qua trong vòng mười năm đó là còn vượt xa những gì cháu nghĩ đó. Nó còn hơn cả địa ngục như cháu đã nói.", nhạc sĩ đáp lại ý kiến của An về chương trình học tập cải tạo mà Việt cộng đã áp dụng lên những người lính hay tri thức thời cộng hòa. "Nhưng dù sao đi nữa thì cũng cảm ơn cháu vì đã hiểu cho ta. Mặc dù trước mặt ta đây là một người trong số hàng hàng lớp lớp những người thuộc thế hệ hậu sanh, bị nhồi sọ nặng nề dưới chế độ cộng sản, ta thật mừng khi có người hiểu được những nỗi thống khổ của những người lính quốc gia khi họ bị tước đoạt nhân quyền và bị đọa đày nơi rừng sâu nước độc..."
Bẵng đi một dạo, chiếc xe đột ngột chạy xuyên qua một chiều không gian khác cũng một màu trắng xóa như ban nãy, rồi cuối cùng chiếc xe dừng lại tại một cánh cổng nhỏ. Tấm biển trên cổng đề dòng chữ lớn TRƯỜNG THIẾU-SINH-QUÂN.
"Trường Thiếu Sinh Quân..."
"Đây là nơi mà ta đã trải qua phần lớn thời niên thiếu của mình để trở thành một chiến sĩ quốc gia và là một nhạc sĩ quân đội. Chúng ta cùng tham quan một vòng nơi này nào."
Hai người đi dạo một vòng quanh phần khuôn viên rộng lớn trước tòa nhà lớn tựa một ngôi trường đại học hiện đại, trước tòa nhà ấy chỉ toàn cỏ với cỏ, và treo ngay ở mặt tiền là lá cờ vàng ba sọc đỏ truyền thống.
"Thật là một cảm giác gần gũi khi được trở lại bầu không khí thân quen của ngôi trường cũ phải không, thưa nhạc sĩ... à không, thưa đại tá?"
"Đúng vậy. Cảm giác như thể ta đang sống lại những ngày đầu mới chập chững học kỷ luật quân đội."
Đâu đó trước mắt An và vị nhạc sĩ, một tiểu đội gồm những em học sinh cỡ 15, 16 tuổi mặc bộ đồ kaki, mang tất màu trắng và giày da màu đen, xếp thành hai hàng, đứng chào cờ trước lá cờ quốc gia.
Trường Thiếu Sinh Quân Vũng Tàu, trước đây có tên gọi khác là Trường Thiếu Sinh Quân Đông Dương và thuộc quyền quản lý của quân đội Pháp nước ta còn là một quốc gia bán thuộc địa, là một trong số bảy chi nhánh hợp thành hệ thống cơ sở giáo dục quân đội trực thuộc quân đội Pháp và sau này được "nhượng quyền sở hữu" cho Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng Hòa – sáu chi nhánh kia bao gồm: Đệ nhất Quân khu (Gia Định), Đệ nhị Quân khu (Huế), Đệ tam Quân khu (Hà Nội, sau này đã được sáp nhập cùng với các trường Thiếu Sinh Quân ở miền Bắc thành trường Thiếu Sinh Quân Mỹ Tho), Đệ tứ Quân khu (Buôn Mê Thuột), Móng Cái (Hải Ninh, nay là tỉnh Quảng Ninh, cũng được sáp nhập thành trường Mỹ Tho cùng với trường Đệ tam Quân khu) và một chi nhánh nữa ở Đà Lạt mà sau này nó được chuyển thành Trường Võ bị Đà Lạt.
Các trường Thiếu Sinh Quân đều có một phù hiệu chung, đó là nền màu xanh biển đậm, trên đó có thanh gươm bạc chĩa thẳng về hướng Bắc và ba ngôi sao trắng – thanh gươm bạc tượng trưng cho sự dũng cảm, tinh thần thượng võ, uy quyền của tướng quân (nhắc tới đây không hiểu tại sao tác giả cứ liên tưởng tới thanh gươm của Godric Gryffindor trong truyện Harry Potter, bởi bảo vật nhà Gryffindor cũng thể hiện những điều tương tự với hình ảnh thanh kiếm bạc trên phù hiệu cũng như là phẩm chất của học sinh nhà Gryffindor), trong khi nền màu xanh là màu của giới trẻ, tượng trưng cho sự nhiệt huyết của tuổi trẻ. Khẩu hiệu của tất cả các trường chỉ gồm ba chữ: Nhân – Trí – Dũng. Nhân là đạo đức chung bao trùm tất cả những đạo lý, lẽ phải trên đời, trí là sự thông minh, sáng suốt, còn dũng là sự dũng cảm, hợp lại ba ý nghĩa trên ta được ý nghĩa lớn "sống làm sao cho đúng đạo làm người", trong đó, chữ Nhân đã làm nên tiêu ngữ Tổ quốc – Danh dự – Trách nhiệm của Việt Nam Cộng Hòa cũng như là phẩm chất của mỗingười lính trong quân đội quốc gia.
"Gia đình ta gửi ta vào đây vào năm 14 tuổi.", ông bồi hồi nhớ lại những ngày đầu bỡ ngỡ bước chân vào mái trường. "Ta cũng như bao nhiêu học sinh khác, cũng đã bỡ ngỡ khi mới tiếp cận môi trường nghiêm khắc của kỷ luật quân sự, nhưng sau này cũng đã dần làm quen với nó. Kỳ thực, đó chỉ mới là giai đoạn chuẩn bị thôi, những giai đoạn sau, chúng ta mới chính thức được làm quen với khói thuốc súng.
"Và sau mười năm, ngài đã quá quen thuộc với sức nặng của cây súng với ba lô đồ trên lưng, kèm thêm tiếng Pháp và thanh âm ngọt ngào của đàn guitar."
"Đúng thế. Ta đã may mắn được theo học ngành âm nhạc và được học tiếng Pháp dưới sự hướng dẫn của các giáo sư đến từ Học viện Âm nhạc Quốc gia Pháp. Ngày đó ta đã biết chơi nhiều nhạc cụ lắm, và cây đàn guitar đã là người bạn đồng hành tốt nhất của ta trong suốt thời lính cũng như là trên con đường âm nhạc vàng son... Cũng từ đó, ta bước vào cuộc đời đầy cam go với hình ảnh một người lính tay đàn tay súng. Hình ảnh của ta như vậy cũng chính là hình ảnh của một người lính quốc gia tràn đầy mộng mơ và nhiệt huyết của tuổi trẻ. Nói thế chắc cháu cũng hiểu được là hình ảnh người lính trong các tác phẩm của ta là như thế nào rồi, đúng không?"
"Dạ.", An gật đầu vài cái. An hiểu, vị nhạc sĩ đang có ý nhắc đến những tác phẩm khác nhau viết về lính. Có thể kể đến trong số những ca khúc ấy là Xin Đừng Trách Anh, Mấy Dặm Sơn Khê, Anh Trước Tôi Sau hay Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, bởi ẩn chứa sau mỗi ca khúc trên là những lời tâm tình của người lính chiến với nhau hoặc giữa họ với người họ yêu mến trong bối cảnh đất nước hỗn loạn vì chia cách Bắc – Nam. "Những ca khúc viết về đời lính, cháu cảm thấy không những là hình ảnh của những chiếc ba lô xanh và cây súng đi kèm với khói lửa quân trường, mà còn là những mảnh tình thương cất giấu trong từng lời tình trong đó."
"Ta nghĩ cháu cũng có đôi chút khiếu cảm nhận văn học...", nhạc sĩ có lời khen nhỏ cho An. "Cháu có thường xuyên nghe nhạc vàng không?"
"Dạ, cũng không thường xuyên cho lắm. Nếu nói rõ ràng hơn thì chỉ khi cháu cảm thấy tâm hồn mình yên tĩnh nhất thì cháu sẽ mở những ca khúc nhạc quê hương. Đôi khi có những ca khúc hợp với đôi tai mình, có thể cháu sẽ cảm nhận được nó."
"Ra là vậy.", nhạc sĩ tiếp tục đi thêm một vòngquanh khu vực khuôn viên trường, cuối cùng quay trở lại cánh cổng chính đi vào."Ta tưởng thời đại bây giờ người ta nghe nhạc chỉ để cho vui, chỉ để thư giãn thôi, chứ có ai ngờ được là có người lại nghe nhạc để tìm thấy những lời hay, ý đẹp trong ca khúc đó đâu. Thuở còn Việt Nam Cộng Hòa, người ta không chạy theo thị trường như bây giờ, tức là người ta viết nhạc để giãi bày những cảm xúc nhất định của mình. Các tác giả cùng thời với ta như Trịnh Công Sơn, Phạm Duy, Văn Cao, Huỳnh Anh, Thanh Sơn,... họ coi âm nhạc như là một thể loại đặc biệt của văn học vậy – văn học vốn dĩ được sinh ra để thể hiện thế giới quan và thế giới nội tâm của con người, và âm nhạc thời Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện xuất sắc điều đó khi đã kết hợp các đặc tính nổi bật của âm nhạc với đặc thù của văn học. Chính vì vậy nên nhạc vàng luôn sống mãi trong lòng các thính giả Việt như là đặc sản tinh thần của miền Nam ta."
Nhạc sĩ mở cửa ghế lái, An quay lại chỗ ngồi cũ của mình trên xe.
"Nào, bây giờ chúng ta sẽ quay trở lại Sài Gòn."
Ngài đại tá vừa nói, vừa đề xe và đạp ga chạy thẳng về phía trước.
Chiếc xe lại đi qua chiều không gian màu trắng y như ban nãy, như thể đó là đường hầm không gian nối giữa không gian ở Vũng Tàu và ở Sài Gòn. Một chốc sau, An lại một lần nữa được nghe thấy những tiếng xe lam, xe máy chạy trên đường.
Xe đi một đoạn rồi dừng lại trước một tòa nhà lớn màu trắng, bên trên đề tấm biển Thương xá Nguyễn Huệ.
"Thương xá Nguyễn Huệ...", An đọc tấm biển hiệu ở trên đầu.
"Đi nào."
Khu thương xá lớn nằm ở ngay vòng xuyến Cây Liễu, là giao tuyến giữa đường Nguyễn Huệ và phố Lê Lợi. Ở phía trên đỉnh tòa nhà thương xá còn có một tấm bảng hiệu hãng điện máy SANYO, xuất hiện khi những mặt hàng gia dụng của hãng này bắt đầu được nhập vào Việt Nam. Một khu thương xá thế này có cả chục loại mặt hàng khác nhau như siêu thị và các khu dịch vụ mua sắm thời hiện đại chứ không chỉ có mỗi quần áo hay đồ trang sức – băng đĩa nhạc có khi cũng không phải là ngoại lệ khi được bày bán trong các thương xá này.
"Đây rồi!"
Nhạc sĩ dừng lại trước một cửa hiệu khá rộng rãi, trên kệ bày bán những cuộn băng cối (trước năm 1963, người ta nghe nhạc bằng những cuộn băng cối có bán kính cỡ khoảng ba phần tư cái vô lăng ô tô – đúng hơn là một cuộn băng có dây băng nối với một cuộn khác không có dây băng rồi bấm nhạc, những băng nhạc như thế còn có tên gọi khác là băng Akai vì hãng máy nghe nhạc Akai sản xuất loại băng này là chủ yếu trong số tất cả những loại thiết bị chứa âm thanh). Ngoài ra, cửa hàng còn bán thêm những cuộn băng cassette đựng trong những chiếc hộp nhựa trong nhỏ chuyên dùng để đựng băng cassette (đương nhiên là có bìa minh họa đàng hoàng rồi) cùng với những cái bìa hình vuông lớn mà An đoán chắc bên trong đó chứa đĩa than.
"Continental...", An chú ý đến tấm biển màu xanh biển hình chữ nhật dẹt có ghi tên hãng băng cùng với địa chỉ và tên nhạc sĩ trên đó. "Cháu đã nghe đến hãng băng này cùng với hãng Sơn Ca – ngài đã thành lập hai hãng đĩa này, phải không?"
"Chính xác."
Hai người bước vào cửa hàng. Đây là lần đầu tiên An được bước chân vào một cửa hàng băng đĩa cổ. Băng đĩa cổ (băng cối, đĩa than, băng cassette có chứa nhạc được thu âm trước 75) vốn là thứ mà nhiều người muốn được sưu tầm, trong đó có Khoa. An thì không có mấy hứng thú trong việc sưu tầm những thứ này, bởi đơn giản là dù có sưu tầm được thì nó lại chẳng biết ở đâu bán máy đọc đĩa than hoặc đầu băng cối/cassette, còn nhân vật chính của chúng ta tạm cư ở Đà Nẵng thì lại muốn sưu tầm những thứ như thế này, kể cả những chiếc đĩa CD mà chỉ cần trong đó có ghi những bản thu âm trước 75 là nó sẵn sàng bỏ tiền ra mua liền.
"Ta hợp tác thành lập hãng đĩa này cùng hãng Sơn Ca là để thâu âm những ca khúc cải lương, những ca khúc nhạc vàng mới nổi để công chúng thưởng thức, đồng thời đây cũng là nơi làm nên tên tuổi của khá nhiều ca sĩ trẻ...", nhạc sĩ nhìn xung quanh những kệ hàng mới toanh. "Chắc cháu cũng biết Giao Linh và Thanh Tuyền chứ?"
"Cô Thanh Tuyền thì cháu biết rõ hơn cô Giao Linh. Cô ấy vốn đã từng học ở thành phố Đà Lạt – đó cũng là nơi sinh ra và lớn lên của cháu."
"Đà Lạt... ta nhớ rồi. Thành phố sương mù với những đồi thông mộng mơ. Đó là nơi ta đã tìm được Thanh Tuyền – một giọng ca đầy triển vọng."
Nhạc sĩ dẫn An tới một cái máy quay đĩa than, từ tốn rút một cái đĩa ra khỏi cái bọc hình vuông, đặt lên mâm quay và cắm đầu kim đọc đĩa lên bề mặt đĩa. Tiếng nhạc trầm lắng đặc trưng của hệ thống hòa âm trước 75 từ cái loa hình loa kèn gắn trực tiếp vào mâm quay đĩa, cùng với một giọng ca mà An cảm thấy dường như đã nghe nó ở đâu đó rồi khiến nó đã hiểu tại sao thằng bạn thân của nó ở Đà Nẵng lại sưu tập những bản thu âm trước 75. Những bản hòa âm đó chính là một phần của tên tuổi của những giọng ca huyền thoại thời bấy giờ, và những bản thu âm ấy, đến tận bây giờ người ta vẫn cố tìm lại như đi săn kho báu bị thất lạc tới tận vài trăm năm để thưởng thức và bảo tồn chúng.
"Đây có phải là...", An nghe xong bản nhạc dài chưa tới năm phút, bất giác đưa ra câu trả lời. "Danh ca Thanh Tuyền không?"
"Chính xác. Mặc dù giọng hát của em học trò ấy vào thời của cháu so với thời của ta có sự khác nhau khá rõ rệt nhưng cháu vẫn nhận ra được là của cùng một người thì chứng tỏ thính giác của cháu khá tốt đấy."
"Cháu cũng đã nghe một số bản hòa âm trước đây rồi. Mặc dù vậy, cháu vẫn thích giọng của cô Thanh Tuyền vào thời của cháu hơn. Cô ấy còn có sự trợ giúp của hòa âm trữ tình hiện đại nên mỗi ca khúc cô ấy hát cháu đều rất thích nghe."
"Và ta cũng có những câu chuyện nhất định muốn kể cho cháu nghe về nữ danh ca trẻ này.", nhạc sĩ cất lại cái đĩa vào vỏ, bước tới quầy thu ngân, lấy ra một cái máy chiếu phim to, nặng và đặt ở một cái bàn trống.
(Chú thích của tác giả: Năm 1964, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông 32 tuổi, còn nữ ca sĩ Thanh Tuyền khi ấy chỉ mới là một cô gái 15 tuổi. Chính vì điều này nên khi nhắc đến Thanh Tuyền trước mặt An, ông nói đó là "nữ danh ca trẻ" vì cô đã thành danh khi còn quá trẻ, hoặc "cô học trò nhỏ của ta" vì giọng hát của cô trưởng thành dần nhờ vào sự dẫn dắt, chỉ dạy nhiệt tình của ông. Ông cũng sử dụng hai cụm từ này khi nói về Giao Linh (cũng là khi nói chuyện với An))
"Máy chiếu phim...", An ngắm nghía chiếc máy quay phim cũ, đồng thời chú ý đến cuốn phim được gắn trên đó, "Còn cuốn phim này..."
"Những kí ức đáng nhớ của ta về Thanh Tuyền thuở cô học trò nhỏ mới theo nghiệp cầm ca.", ông bật máy chiếu lên, đèn máy chiếu chiếu lên tường tạo thành một hình chữ nhật trắng xóa. "Đặt tay lên ống kính máy chiếu đi, chúng ta sẽ xuyên không đấy."
An không hiểu nhạc sĩ có ý gì khi bảo mình đặt tay lên ống kính nhưng cũng tò mò đặt tay lên ống kính máy chiếu cùng lúc với vị nhạc sĩ.
"Cháu không hiểu... A a a a a a a a!!!!"
Mọi thứ đột ngột xoay chuyển xung quanh nó với tốc độ chóng mặt, như thể nó đang đứng bám trên cũi xoay trong sân chơi của trẻ con và có ai đó dốc sức đẩy cho nó quay tít mù. Nó không kịp nhìn thấy gì trước mắt, và nó nhắm chặt mắt lại để mắt nó "không bị thổi bay đi vì tốc độ cao".
Một lúc sau, mọi thứ đứng yên xung quanh nó. Nó loạng choạng một hồi vì quá chóng mặt. Đứng im một chỗ khoảng vài chục giây nữa, đầu nó mới thôi quay cuồng.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông vẫn đứng cạnh An, và bên cạnh hai người là chiếc ô tô con mà hai người dùng để đi một vòng quanh Sài Gòn và tới thương xá Nguyễn Huệ.
Bầu trời lúc này đã tối. Phố đã lên đèn, và hầu hết các hàng quán đều đã đóng cửa, ngoại trừ những khu thương xá.
"Chúng ta vẫn đang ở năm 1964.", nhạc sĩ nhìn chung quanh. "Tối nay chính là ngày mà học trò của ta sẽ tỏa sáng."
Một cô gái mặc áo dài trắng, tay mang theo túi xách, tất tả chạy tới chỗ hai người đang đứng. Không thể sai được, đó chính là nữ ca sĩ Thanh Tuyền hồi mới mười lăm tuổi – trông cô lúc này vẫn còn nhiều vẻ đẹp thanh thoát của một cô gái mới lớn. Khuôn mặt cô hiện rõ dưới ánh đèn đường, không chút son phấn gì cả, và chính vì không có chút điểm trang nào nên An mới thấy rõ được những nét hồn nhiên, thơ ngây trên gương mặt ấy.
"Thưa thầy, con đã sẵn sàng.", nữ ca sĩ trẻ lễ phép chào nhạc sĩ, và cũng không quên liếc nhìn con người với khuôn mặt và bộ quần áo lạ hoắc như thể An mới từ đất Mỹ trở về. "Còn người này là...?"
"Đây là một người quen của thầy, người sẽ đi cùng chúng ta trong đêm nay.", nhạc sĩ đáp. "Lên xe nào, sắp trễ giờ diễn rồi đấy."
Chiếc xe lặng lẽ phóng đi trong đêm sau khi An nhường chỗ ngồi ở ghế trước cho người ca sĩ còn nó ngồi ở hàng ghế sau và nhạc sĩ đạp ga cho xe chạy. Nhạc sĩ biết rõ là mình sẽ cần phải đi đâu trước khi tới rạp hát. Thế nhưng, mong muốn của cả nhạc sĩ lẫn nữ ca sĩ đều không như mong đợi khi chiếc xe dừng lại.
"Đóng cửa rồi!"
An ngoái nhìn ra nơi mà nhạc sĩ dừng xe lại. Nó lờ mờ hiểu rằng nhạc sĩ chỉ vừa mới đến nơi mà ông cho rằng đó là nhà người quen để ông có thể nhờ người đó trang điểm hộ.
"Thưa ngài..."
"Con cần phải trang điểm.", nhạc sĩ nói với học trò của mình. "Mà trong khi cả hai chúng ta đều không biết làm thế nào để trang điểm..."
"Thầy cứ thử đi hết một vòng xem?", người học trò ngồi xe bên cạnh đề nghị. "Có thể còn cửa hàng trang điểm nào đó còn mở cửa?"
Nhạc sĩ gật gù, tiếp tục đề xe đi thêm một chuyến nữa, nhưng rốt cục là vẫn không tìm thấy được một chỗ làm đẹp nào còn mở cửa. Bây giờ, cả thầy lẫn trò đã bắt đầu hoang mang.
"Khổ thật! Làm sao bây giờ?", An nghe nhạc sĩ tự nhủ thầm với mình. "Chúng ta sắp hết thời gian rồi."
"Nhạc sĩ...", An bất giác mấp máy đôi môi khi đang nghĩ cách để giúp cả hai thầy trò.
"Cháu có ý kiến gì không?"
"Cho cháu hỏi, bên trong túi xách mà cô này mang theo...", An chỉ vào cái túi xách mà nữ ca sĩ mười lăm tuổi đang mang theo. "Trong đó có chứa đồ trang điểm không ạ?"
"Có.", nữ ca sĩ lặng lẽ đáp, trong chất giọng của cô có vẻ như là không tin tưởng vào người lạ cho lắm.
"Nhạc sĩ, ngài có thể chạy xe tới rạp hát mà tối nay cô này sẽ diễn được không?", An quả quyết. "Cháu biết cách sử dụng đồ trang điểm, và một khi tới đó, cháu sẽ trang điểm cấp tốc cho cô ấy."
"Thật ư?", đôi mắt ngài đại tá như lóe lên một tia hy vọng. Ngài lập tức bẻ bánh lái để quay xe lại. "Chúng ta tới thẳng nhà hát ngay nhé!"
Chiếc xe phóng thật nhanh với tốc độ bàn thờ, tới ngay rạp hát trong chớp mắt. Cả ba người xuống xe, tìm đường đi vào hậu trường rạp hát. Một khi đã yên vị ở chỗ vắng rồi, nữ ca sĩ mới bắt đầu mở túi ra, đưa những gì có thể dùng được để làm đẹp cho An.
"Nhiêu đây có lẽ là đủ.", hai tay An mở hộp phấn, bắt đầu dùng bông đánh phấn để đánh một lớp phấn nhẹ lên mặt người ca sĩ trẻ; trong đầu nó cố gắng nhớ lại những gì nó đã thấy trong những lần tận mắt chứng kiến mẹ nó trang điểm.
Phải mất một lúc sau, công cuộc trang điểm đã hoàn thành. Nữ ca sĩ tuổi teen lúc này như trở thành một người khác, bây giờ đã lộng lẫy gấp vạn phần lúc An mới gặp.
"Thế là xong!"
Ngoài kia có tiếng MC, đang chuẩn bị giới thiệu nữ ca sĩ Thanh Tuyền như là một giọng ca trẻ được giới thiệu bởi nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông.
"Thầy ơi, đây là lúc con lên sân khấu phải không?"
"Còn hơn thế nữa đấy con.", nhạc sĩ từ tốn đáp. "Hãy cứ thể hiện hết mình đi. Sau đêm nay, nếu thành công thì con sẽ còn thành công gấp đôi, gấp ba bây giờ."
"Dạ.", nữ ca sĩ vui vẻ bước ra sân khấu khi nhạc nền bắt đầu cất lên. Tiếp đó là giọng ca thánh thót quen thuộc mà ban trước nó vừa nghe trên đĩa than. Giọng hát quá ngọt ngào khiến An chú ý lắng nghe từ đầu đến cuối, và khi nhạc nền kết thúc, toàn thể khán giả đứng lên vỗ tay cho một tài năng trẻ bắt đầu tỏa sáng.
Chính bản thân An cũng không thể ngờ được là nó đang tận mắt chứng kiến phút giây thành danh của một người ca sĩ – mà đó lại là phút giây tỏa sáng của một nữ danh ca hải ngoại mà ai cũng yêu mến. Trong mắt An, cô gái tuổi teen trên sân khấu kia sau này sẽ trở thành giọng ca mà bố nó yêu thích, và cũng đồng thời là nguyên nhân mà bố nó thích nghe bài Chiều Mưa Biên Giới, cùng với Đường Xưa Lối Cũ (Hoàng Thi Thơ) và ca khúc đầu tay của nhạc sĩ Lam Phương – Kiếp Nghèo.
"Chúc mừng con, tiếng hát dòng suối trong của thành phố Đà Lạt.", nhạc sĩ vỗ tay chúc mừng học trò mình từ sau hậu trường. Lúc này, MC tiếp tục dẫn chương trình và nữ ca sĩ trẻ lui ra sau.
"Cô chắc chắn sẽ còn thành công nữa...", An nói một câu ngắn gọn với nữ ca sĩ khi cô quay trở lại với thầy mình và cậu thanh niên lạ mặt. "...và sau này, vài năm nữa cô sẽ được ra nước ngoài ca hát."
"Cô chắc chắn sẽ còn thành công nữa...", An nói một câu ngắn gọn với nữ ca sĩ khi cô quay trở lại hậu trường sân khấu. "...và sau này, vài năm nữa cô sẽ được ra nước ngoài ca hát."
"Ra nước ngoài?"
"Tới lúc đó rồi cô sẽ biết. Bây giờ tôi chưa thể nói cho cô được."
Câu nói ấy, nữ ca sĩ hoàn toàn hiểu lầm rằng cô sẽ được nổi tiếng đến mức có thể ra nước ngoài trình diễn. Chỉ có nhạc sĩ là hiểu được những gì mà An đang ẩn chứa trong câu nói kia.
"Câu hỏi hay lắm.", nhạc sĩ từ tốn nói với học trò. "Chữ tuyền trong tiếng Hán nghĩa là suối, thanh là sự trong lành. Nói thế thôi thì chắc có lẽ con cũng đã hiểu được tại sao ta lại đặt tên cho con như thế rồi. Bây giờ đã quá khuya mất rồi, thầy đưa con về nhé."
"Dạ."
Mọi thứ lại xoay chuyển tiếp khi nữ ca sĩ về tới nơi ở mới của mình tại Sài thành, và hai người lại quay trở lại với không gian bên trong trung tâm băng đĩa Continental.
"Như tất cả những gì cháu đã thấy, đó là viên gạch đầu tiên lát trên con đường thành công của cô học trò ấy.", nhạc sĩ tắt máy chiếu đi, tháo cuộn băng phim ra. "Hoàn cảnh ấy thật trớ trêu, phải không? Trớ trêu khi cả hai thầy trò đều không biết làm thế nào để trang điểm trong khi lại không thể liên lạc được với người mà có thể giúp được chúng ta lúc ấy. Và nếu là ta, trong tình huống nguy nan ấy, có lẽ chính tay ta sẽ đánh phấn cho trò ấy thôi. Con người hoàn toàn có thể lập nên những điều phi thường khi bị dồn vào bước đường cùng mà. Trong quá khứ, quả thiệt là ta đã làm như vậy."
"Vậy còn nữ ca sĩ Giao Linh thì sao ạ? Cháu bắt đầu thích nghe cô ấy hát bài Chiếc Bóng Công Viên của ngài."
"Đó cũng là thứ ta sắp cho cháu coi đây."
Nhạc sĩ lấy ra một cuộn băng phim khác, lắp vào máy. Cuộn này có vẻ ít phim hơn cuộn kia.
"Tiếp tục đặt tay vào ống kính nhé.", nhạc sĩ bật máy chiếu lên lại. Cả hai người cùng đặt tay lên đó, và thế là cảm giác chóng mặt ấy lại được thể ập đến An một lần nữa.
Khi mọi thứ ngừng quay cuồng thì nó lại thấy chính bản thân nó ở một văn phòng. Cái bàn làm việc ở cuối phòng có tấm bảng tên đề dòng chữ Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông.
"Đây là phòng làm việc của ngài...?", An nhìn dáo dác quanh không gian nhỏ hẹp của căn phòng. An cũng để ý tờ lịch treo trong phòng là lịch của năm 1966.
"Đây chính là nơi ta điều hành hãng băng đĩa này. Mặc dù công việc của một sĩ quan quân đội không cho phép ta ghé thăm căn phòng cũng như tiệm băng đĩa ấy thường xuyên, nhưng ít ra thì nơi đây ta có thể gọi là một mái nhà tranh. Và cũng chính trong căn phòng này, ta đã chính thức bắt đầu con đường đào tạo nữ ca sĩ Giao Linh theo lời đề nghị của nhạc sĩ Thu Hồ. Khoảng vài hôm trước, cô bé Giao Linh ấy đã đến phòng thu của ta để thử giọng..."
"Vậy buổi thử giọng ấy có thành công không ạ?"
"Ta đã phải thốt lên một điều, đó là ta chưa bao giờ thấy một chất giọng trầm nào mà nghe nó ấm áp, êm tai đến như vậy – giọng hát này, chỉ cần một bàn tay chỉ dẫn, trau chuốt một cách khéo léo nữa thôi là sẽ trở thành ngọt ngào, và cô bé chắc chắn sẽ trở thành một ngôi sao sáng như trường hợp của Thanh Tuyền. Lát nữa khi cô ấy đến, ta sẽ cho cháu và cô ấy nghe lại bản thu trước khi công bố bản hợp đồng."
Nhạc sĩ vừa ngồi vào ghế làm việc thì có tiếng gõ cửa. An mở cửa hộ cho nhạc sĩ, và trước mặt An là một người đàn bà khá lớn tuổi, dáng vẻ nghèo nàn đến tội nghiệp cùng với một cô gái, cũng chỉ mới mười lăm tuổi. Cô gái ấy hoàn toàn lặng thinh, kể cả khi gặp một người lạ như An cô cũng không chào trực tiếp thành lời mà chỉ cúi đầu.
"Mời hai người vào ạ.", An bước sang một bên để hai người vào phòng.
"Thưa nhạc sĩ, hôm nay tôi dẫn cháu tới đây theo thỏa thuận của nhạc sĩ Thu Hồ."
"Đúng rồi – Hôm kia cháu vừa mới tới phòng thu của tôi để thử giọng."
Nhạc sĩ nhìn về phía người phụ nữ, trong lòng chất chứa nhiều thương cảm. Mặc dù không được nghe nhiều về gia cảnh của người phụ nữ, nhạc sĩ cũng lờ mờ đoán ra được hoàn cảnh của mẹ con nhà này rất nghèo khó, và trong sự nghèo khó ấy đã lộ ra một nhân tài trong làng nghệ thuật – một cô gái mê ca hát và sau này, cô đã bắt đầu nổi danh ở trong nước, và sau này là ở nước ngoài. Cũng trong chính hoàn cảnh đó mà đã sản sinh ra một người đặt cả cuộc đời mình vì nghệ thuật dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Nhạc sĩ bất chợt đứng dậy, lấy một chiếc đĩa than gắn vào mâm đĩa và bắt đầu nổi nhạc lên.
"Mời cô và cháu nghe lại ca khúc mà hôm bữa cháu đã thu hôm kia."
Khi giọng ca bắt đầu cất lên từ chiếc loa hình loa kèn, An đã nhận ra rằng nhạc sĩ đã đúng khi nhận xét về giọng hát này. Đó là một giọng hát trầm buồn, và giọng hát này sẽ cần rất nhiều sự chỉ dẫn, trau chuốt và nỗ lực cải thiện để trở thành một ngôi sao sáng nữa trong làng âm nhạc Việt Nam quốc gia.
Track nhạc chỉ có khoảng bốn phút trở lại. Tắt máy đi, nhạc sĩ quay trở lại ghế làm việc.
"Thưa nhạc sĩ...?"
"Thưa chị, con chị đã thể hiện rất xuất sắc ca khúc mà tôi đã yêu cầu với chất giọng trầm buồn, và giọng hát như thế này rất phù hợp với những bản nhạc tông trầm và giai điệu chậm rãi. Chính vì thế nên tôi đã soạn sẵn một bản hợp đồng dành riêng cho cháu cộng tác với trung tâm này trong vòng bốn năm."
Nhạc sĩ giở ra một tờ giấy, đưa cho mẹ con nhà nọ. Họ đọc lướt qua điều khoản hợp đồng, và khi đọc tới con số khổng lồ ở gần cuối văn bản, hai đôi mắt dãn rộng ra, và khuôn miệng họ từ từ hé mở.
"Một..."
"Trăm..."
"Năm mươi..."
"NGÀN..."
"ĐỒNG...!?
"Thưa nhạc sĩ, có phải ngài đã...", An chứng kiến vẻ mặt ngạc nhiên đến tột độ của hai mẹ con. Nhạc sĩ chỉ cười.
"Bản hợp đồng này trị giá tới MỘT TRĂM NĂM MƯƠI NGÀN ĐỒNG SAO???", cô gái mười lăm tuổi là người giật gân nhất, còn mẹ cô thì sau khi nhìn số tiền khổng lồ đó, bỗng dưng bà ngã ngửa ra sau. An chạy lại đỡ bà, tiện lấy một cái ghế có lưng cho bà ngồi.
"Trời Phật ơi...", bà lẩm bẩm. "Tôi có đang nằm mơ không? Một trăm năm mươi ngàn đồng đang ở trước mắt chúng ta...!"
"Nhạc sĩ... Số tiền này... sẽ về tay gia đình con sao?"
Lúc này, nhạc sĩ cười hiền từ.
"Đúng vậy. Từ nay con sẽ hợp tác với hãng băng đĩa này. Số tiền một trăm năm chục ngàn đồng đó là để giúp cho gia đình con trang trải cuộc sống. Đây là bản hợp đồng có giá trị đặc biệt nhất mà chưa có một công ty nào trên khắp quốc gia Việt Nam này có đâu."
Nghe nhạc sĩ nói xong, cô bé quay về phía mẹ mình, nét mặt cô rạng rỡ hẳn lên, khác hẳn với lúc ban đầu khi mới tiếp xúc với An và nhạc sĩ.
"Mẹ ơi... vậy là...", trong phút chốc, niềm vui đột ngột đã chuyển hóa thành những giọt nước mắt của hạnh phúc. "Vậy là gia đình mình từ nay thoát nghèo rồi! Con có thể sử dụng giọng hát này... để nuôi cho các em con được tiếp tục ăn học đàng hoàng rồi!"
Hai mẹ con họ thực sự mừng đến rơi cả nước mắt, họ mừng còn hơn cả trúng vé số giải đặc biệt, bởi từ hôm nay gia đình ấy sẽ chính thức thoát khỏi cảnh đói nghèo, và giọng hát chất chứa sự đam mê ấy sẽ là một cái cần câu cơm nữa của gia đình.
"Sau này, em sẽ gọi nhạc sĩ bằng thầy.", An nói với cô gái. "Khi em cộng tác với hãng, em sẽ nhận được sự chỉ bảo từ người thầy đặc biệt này đấy."
"Thật sao? Nhạc sĩ sẽ nhận em làm học trò ư?"
"Đúng vậy. Bốn năm cộng tác với chúng ta, con sẽ có cơ hội để phát triển giọng ca của mình, và con cũng sẽ nổi tiếng như Thanh Tuyền thôi.", nhạc sĩ ôn tồn đáp. "Chỉ cần con cố gắng với tình yêu âm nhạc là con sẽ chinh phục được đỉnh thành công và danh vọng."
...
Quay trở lại với hình ảnh cửa hàng băng đĩa như ban trước.
"So với Thanh Tuyền thì câu chuyện của Giao Linh có vẻ suôn sẻ hơn...", An nhận xét. "Nhưng mà, cô ấy phải luyện giọng trong sự khắc nghiệt, đúng không thưa nhạc sĩ?"
"Quả đúng là như vậy.", ngài gật đầu. "Có lần ta bắt cô ấy luyện một bài hát tận gần năm chục lần. Đương nhiên là việc đó không thể xong trong ngày một ngày hai được, và cũng phải mất khá nhiều ngày trời mới trọn vẹn được bản thu âm đó. Ta cũng có đề nghị cô ấy học cổ nhạc, và sau hai năm theo học thì cuối cùng cô ấy mới nhận ra là mình không có duyên với thể loại này. Nhưng không sao, ta nghĩ với chừng đó kiến thức và kĩ năng về thanh nhạc đương đại như vậy thôi cũng đã đủ khiến người ta mến mộ thật nhiều rồi. Và điều hài lòng nhất đối với ta ở hai giọng hát vừa rồi... là sự thánh thót, trong trẻo đi cùng năm tháng của những giọng ca do chính tay ta vun trồng nên. Những năm tháng cuối cuộc đời, mỗi khi ta nghe lại những giọng ca ấy, ta cứ lại bồi hồi nhớ lại những ngày tháng ấy... Thực sự đó là những kỉ niệm mà một đời này ta không thể nào quên được."
Bất ngờ, nhạc sĩ đứng lên.
"Hạ giới bây giờ... hiện giờ toàn đất nước Việt Nam này đang đứng lên. Ta không thể ngờ được điều này lại xảy ra, vậy mà ta lại không có cơ hội được nhìn thấy nó dù chỉ một lần, mà ta lại phải nghe tin từ trên thiên đường... Và ta có thể hiểu rõ hai điều này, thứ nhất là tinh thần hàng hàng lớp lớp đứng lên, một lòng nhất quyết giành lấy mai sau đang hiện hữu rất rõ trước mắt. Điều thứ hai..."
Nhạc sĩ bước ra hành lang, ra dấu báo hiệu An đi theo.
"Theo ta lên xe nào."
An cùng nhạc sĩ rời khỏi thươngxá, lại lên ngồi ghế trước, rồi chạy thẳng đến một địa điểm mà chỉ có nhạc sĩ mới biết.
Tại một quảng trường rộng lớn, ở giữa và trên những bậc thềm cao là bức tượng đá lớn của Trần Hưng Đạo.
Ngay khi xe vừa dừng, đất trời bất ngờ từ sáng chuyển sang tối sầm lại, và trước tượng Đức Thánh Trần là một cái bàn thờ thấpvà lư hương đồng khổng lồ.
"Thưa ngài..."
"Điều thứ hai mà ta biết được, đó chính là việc ngươi cần sức mạnh để có thể giành lấy quê hương khỏi tay chế độcộng sản bằng con đường ngắn nhất. Hãy tiến về phía trước, thắp ba nén nhang và cầu nguyện. Đức Thánh Trần nhất định sẽ hiểu cho và xuất hiện."
An vâng lời ngài đại tá, bước từng bước tới bàn thờ, rút ba nén hương và hơ vào ngọn nến cho cháy hết cả ba đầu,dùng tay phẩy dập lửa đi rồi khấn ba lần.
"Hỡi linh hồn Đức Thánh Trần cũng như hồn thiêng sông núi, hôm nay con đứng trước anh linh ngài, trước hết con xin cầu nguyện cho đất nước này sớm được an hưởng hòa bình và thoát khỏi tà quyền mang tên cộng sản.
Hiện nay, tiếng súng đã im, khói lửa cũng chìm, nhưng đất nước ta, thế nhưng, để được hoàn toàn tự do và không trở thành nô lệ cho giặc ngoại xâm Tàu vẫn còn là một con đường quá xa xăm, chông gai và đầy thách thức về lòng yêu nước. Đất nước, non sông của chúng ta, những kẻ mang cái danh nhà cầm quyền đã đem dâng bán những thước đất, dặm biển tổ tiên ta để lại cho quân xâm lược phương Bắc.
Chúng đã mở toang tất cả những cửa khẩu có thể mở để rước dân phương Bắc xuống tràn ngập khắp đất nước ta. Không những vậy, chúng còn đầu độc, phá hoại tất cả những cánh rừng, những bầu không khí, những nguồn suối trong mà ông cha ta dành cho thế hệ sau này bằng những con quái vật ngày ngày xả ra những thứ độc hại khác nhau, nhưng có cùng một tác động chết người.
Chúng đưa những tà thuyết, những giáo điều ác quỷ, đầu độc dần mòn lương tri và đạo đức của dân tộc, biến một dân tộc từ lâu vẫn có truyền thống đoàn kết chống giặc ngoại xâm thành một dân tộc yếu hèn trước tà quyền và thờ ơ trước sự nguy nan của vận nước đang dần tụt dốc không phanh theo từng canh giờ. Nói cách khác, chúng đã khuất phục dân tộc ta, để chúng dễ bề thực hiện những tội ác mà ngày trước Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống đã từng thực hiện.
Từng triều đại khác nhau, Hán, Tấn, Lương, Ngô, bất cứ triều đại nào cũng có những thân phận dám đứng lên vì quê cha đất tổ, dù đó chỉ là một thân nữ nhi chân yếu tay mềm hay là những lớp người trai tráng đầu đội trời chân đạp đất, nhưng vai ai cũng đều mang những món nợ với quê hương. Trận Bạch Đằng, ta chiến thắng hiên ngang, thế nhưng giờ này, chúng đã dâng bán giang san. Từng tấc đất, từng dặm biển đảo, rồi sau đó là cả Tổ quốc này, cả dòng giống con Rồng cháu Tiên này, tất cả rồi sẽ đi về đâu?
Ngày hôm nay, con thắp ba nén hương này, cốt để cầu xin ngài hãy hiển linh, và ban phát cho kiếp mọn này một sức mạnh, một niềm tin để con có thể chiến đấu và chiến thắng kẻ thù quốc dân, đem lại an hưởng hòa bình cho giang san, dân tộc!"
Một chốc sau, trời nổi cơn sấm sét, sét giáng thẳng vào đầu bức tượng, tỏa ra ánh sáng chói chang chưa từng có.
Hình ảnh của một vị tướng cao lớn, mặc áo lính vải hồi xưa, đầu đội khăn đóng truyền thống, hông mang thanh gươm lờ mờ xuất hiện trước mắt An như ảo ảnh, cuối cùng cũng rõ dần nhưngười thật.
"Đức Thánh Trần, ngài..."
"Ta đã nghe thấy lời thỉnh cầu của con. Một người mang dòng máu con Rồng cháu Tiên chính hiệu.", trên cao, ngài cúi xuống nhìn An. "Là một phần của hồn thiêng sông núi, ta hiểu rất rõ nguy cơ Tổ quốc ta rơi vào Bắc thuộc lần thứ năm trong lịch sử. Ta cũng thấy dân chúng cũng có phản ứng mạnh mẽ với nhà nước tà quyền và dự kiến là sẽ đủ sức lật đổ triều đại thối nát này, và chính vì nhận thấy con cũng có linh hồn chiến sĩ, ta sẽ chấp thuận lời thỉnh cầu của con."
Bầu trời tiếp tục nổi cơn dông. Sấm sét cứ ùn ùn chạy ngang bầu trời. Từ trên những đám mây đen và giữa những tia sét cứ nhảy nhót trên bầu trời, những đốm lửa ma trơi màu xanh lam nhạt hoặc xanh lục sáng chầm chậm đáp xuống ngay sau lưng. Những đốm xanh đó dần dần hóa thành những người lính mặc những bộ quân phục khác nhau, từ thời Bắc thuộc, phong kiến, cận đại đến hiện đại – riêng những bộ quân phục hiện đại bao gồm những phiên bản khác nhau của quân phục lính Cộng hòa, và còn có cả quân phục của bộ đội thời xã hội chủ nghĩa mà An đoán là họ là những tử sĩ từ cuộc chiến biên giới 1979 và Gạc Ma 1988.
"Đại tá...?", một giọng nói bí ẩn đang cố gắng bắt chuyện với nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Chính vị nhạc sĩ kiêm đại tá Quân lực Việt Nam Cộng Hòa cũng ngạc nhiên khi nghe thấy có người đang gọi mình giữa muôn trùng những đốm lửa đang biến thành những binh sĩ từ các thời đại khác nhau.
"Anh em...", nhạc sĩ bất giác thốt lên khi lại nghe thấy những giọng nói thân quen khác mà chính ông cho rằng đó là những người đồng đội đang gọi tên mình.
"Họ là...", An không thể không ngạc nhiên khi đang thấy những cảnh tượng giống nhau diễn ra trước mắt. Những đốm lửa xanh lá và xanh dương cứ thi nhau lấn chiếm hết cả khu vực quảng trường bao quanh tượng lớn, lư hương và bàn thờ, chốc chốc, tất cả đều trở thành binh lính.
"Thưa Đức Thánh Trần, chúng tôi đã diện kiến ngài đầy đủ!"
Những linh hồn tử sĩ đồng thanh hô vang, tay họ giơ kiếm, đao, giáo, mác và các loại súng. An đang cảm thấy giống như thể đó là cuộc hội ngộ giữa những người lính đã từng chiến đấu hy sinh để bảo vệ Tổ quốc đến từ những thời đại khác nhau.
"Những thời đại tự cổ chí kim, triều đại nào cũng có những con người như chúng tôi dám đứng lên trước sự xâm lăng của giặc phương Bắc. Tất cả hàng triệu triệu những máu xương này chúng tôi đã đổ vào đất mẹ, thế nhưng, tới triều đại này, mọi thứ đã tan đàn hết cả! Đất Việt chúng nó cướp được, xương máu đổ ra chúng cũng cướp được, chúng nó quyết tâm thao túng cho kỳ hết, và đem bán rẻ hết cho giặc phương Bắc chỉ để đổi lấy cái ngai quyền của chúng!
Chúng khẳng định đất nước này là của bọn chúng, và nếu không có bọn chúng thì sẽ không có được như ngày hôm nay! Và thật vậy, chúng nó đã sử dụng những thứ kiến thức chủ nghĩa thối nát để nhồi sọ, biến người khôn thành kẻ ngu, biến con người thành những cỗ máy cày tiền để chúng vơ vét thu lợi! Lúc không cần nữa thì chúng nó chẳng đoái hoài gì, thậm chí là chỉ có nước vứt đi!"
Sau lời nói ấy, những người khác cũng đồng thanh hô lên:
"Đúng thế!"
"Đúng thế!"
"Không thể nào sai được!"
Tiếp đó, một bóng dáng thấp, gầy, mặc áo lính màu xanh hoa rừng và đội chiếc nón cối đặc trưng của Việt cộng, tay cầm khẩu súng chống tăng.
"Kính thưa Đức Thánh Trần,
Con chỉ là một kẻ ngu muội, đã vô tình bị hấp dẫn bởi những lời lẽ ngọt như mật rót vào tai của triều đại cộng sản, và hôm nay con sẽ khai hết tất cả những gì nắm được ở trong tay.
Khi Trung Quốc tái xâm lược nước ta vào năm 1979, chính con đã ra tuyến đầu, cầm khẩu súng này bắn thẳng vào xe tăng quân thù để ngăn không cho chúng tràn qua biên giới Lạng Sơn. Cuộc xâm lăng ấy, cùng với trận tử chiến ở Gạc Ma, quá nhiều quân và dân đã phải nằm xuống vì sự bành trướng và tàn ác đến man rợ của Tàu, vậy mà từ những năm 1990 trở đi, bọn chúng đã lấp liếm, che giấu và thậm chí là đã phủ định công lao bảo vệ đất nước của những người lính như chúng con! Bây giờ, tất cả những khẩu súng trên đất nước này đều phải chịu cảnh bị bịt nòng hàng loạt trước sự bành trướng trên biển Đông!
Chúng con không thể nào sống mà thiếu đi tinh thần trai hùng, vậy mà những kẻ ngồi trên kia đã âm thầm bào mòn đi tinh thần yêu nước và cuộc đời trai tráng của chúng con! Chúng đã bắt chúng con phải ngậm mồm, phải giơ tay đầu hàng, thậm chí là phải vái lạy xin tha mạng trước mũi súng quân thù!
Ngày hôm nay, đất nước đã quá tàn tệ và nhu nhược trước giặc Tàu lắm rồi! Con, cũng như toàn bộ những người đang có mặt tại đây, tất cả đều muốn một lần nữa được tay cầm súng gươm, được lao vào vòng lửa quân trường để giành lấy tương lai cho đất nước này!"
Tất cả đều nhất loạt vỗ tay, còn những người lính thời phong kiến thì đồng thanh hô vang những tiếng đồng ý, kèm theo đó là tiếng những cây kiếm cọ vào nhau.
"Tất cả những gì con đã thấy đó, tiểu tử.", Đức Thánh quay lại nói với An. "Mọi người ở đây đều muốn giành lại tương lai cho quê hương cho chúng ta. Con có muốn những người này đi cùng con để tiêu diệt triều đại thối nát này không?"
"Thưa, những người này sẽ đi cùng con ạ?"
"Đúng thế."
"Cho đến khi nào ạ?"
"Cho đến khi không còn những thứ chủ nghĩa tà thuyết thối nát ngự trị trên đất nước ta nữa."
"Họ luôn nằm trong tâm trí của những người thực sự biết yêu và biết lo cho Tổ quốc này. Ta chỉ giúp con phát huy tinh thần của những người này thôi."
"Dạ, có."
"Bây giờ, hãy nhấc nó lên và giơ cao lên trời vàđọc lời thề xin giành lấy quê hương bằng bất cứ giá nào."
An nhấc lấy thanh kiếm nặng cỡ hơn hai kilogram, tuốt gươm khỏi vỏ, giơ cao lưỡi gươm lên bầu trời đầy dông sấm.
"Hôm nay, đứng trước anh linhĐức Thánh Trần cùng hồn thiêng sông núi, con giơ cao lưỡi kiếm này, trang trọngxin thề một lòng quyết giành lại non sông và dân tộc khỏi tay bạo quyền đangcai trị đất nước này."
Bầu trời nổi cơn sấm dông nghe kinh hoàng hơn trước. Những người lính đứng dưới quảng trường cũng đồng thời giơ vũ khí của họ lên trời. Nghe những lời thì thầm từ bên dưới quảng trường, An có thể hiểu được rằng mọi người cũng đang thề một điều giống như An đã làm trước mắt họ.
Những tiếng thề đồng loạt ngưng lại khi một tia sét giáng ngay vào lưỡi gươm mà An đang cầm. Lúc tia sét chạy ngang qua người nó, nó vẫn đứng im, sau khi tia sét không còn, nó vẫn chẳng hề hấn gì. Nó cảm thấy như thể là có mộtluồng sức mạnh mới đang chảy trong người nó như máu chảy khắp cơ thể.
Ngươi đã có sức mạnh của chúng ta rồi.
Một cơn đau chạy ngang qua đầu An – cảm giác đau đớn ấy cứ y hệt như lần đầu thức tỉnh năng lực Persona vậy.
Sức mạnh của lòng yêu nước bây giờ đối với ngươi đã trở thành vũ khí hữu hiệu để người có thể dẹp bỏ tà quyền rồi. Đây không phải là bản hợp đồng, bởi chúng ta chính là một và mãi mãi không thể nào tách rời.
Hãy cho những kẻ vô thần kia biết được sức mạnh của các anh hùng lịch sử là như thế nào!
Cùng nhau, chúng ta hãy tạo ra cơn bão lịch sử nhấn chìm tất cả những kẻ bán nước và cướp nước! Cùng nhau, chúng ta hãy chứng minh cho cả thế giới biết, hồn thiêng sông núi nước ta sẽ không bao giờ đội trời chung với chủ nghĩa xã hội vô thần!
"AAAAAAAAAA...!!!!"
Tiếng gào đau đớn của nó cuối cùng cũng cho ra những kết quả ngoài mong đợi.
Những người lính bên dưới, tất cả đều trở thành những con người có gương mặt và vóc dáng giống hệt An, tất cả đều mặc quân phục lính Việt Nam Cộng Hòa ở nhiều phiên bản khác nhau. Bộ đồ của An cũng hóa thành một bộ đồ khác – một bộ quân phục mà toàn thân đều một màu xanh olive, ve áo trái thêu mật danh của nó sử dụng trong Metaverse bằng chữ in hoa màu đen, hai ống tay áo xắn lại tới khuỷu, đôi bàn tay mang găng tay dã chiến hở ngón màu đen, chân phải đeo giá súng ngắn chứa ở đó khẩu Albert-01 quen thuộc. Đôi mắt sắc lẹm có ánh kim của vàng nhìn thẳng về phía "quân đội" gồm những người có hình hài, vóc dáng giống y như mình.
Một số ít những người đứng hàng đầu tiên, họ đội mũ beret màu đỏ, xanh lá hơi sẫm hoặc đen, tất cả đều đeo kính mát kiểu phi công và mặc đồ lính có họa tiết hoa rừng màu xanh lá, xanh lá – nâu, đen – xám, hoặc màu bùn xen lẫn với những vân trắng nhỏ và những vệt đen giống với những vết dài ngắn khác nhau trên bộ da hổ, hoặc màu đất cát. Những màu sắc của các bộ quânphục vừa được liệt kê lúc nãy, tất cả những người lính bên dưới đều có những màuáo như thế cả.
"Tất cả các đồng chí đã sẵn sàng chưa?"
"Thưa đại tướng, chúng tôi đã sẵn sàng!"
Tất cả đồng thanh một câu hô to, thể hiện ý chí muôn người như một.
Phần về nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, ông đã xuất hiện trở lại và trên người là bộ đồ sĩ quan, mang lon đại tá trên vai và Bảo quốc Huân chương đệ Tứ đẳng.
"Nhạc sĩ..."
"Ta rất cảm phục khi thấy những tấm lòng yêu nước từ xa xưa cho đến tận bây giờ đã tụ họp lại và làm thành một sức mạnh ban phát cho cháu. Trông cháu như thế này ta lại nhớ đến hồi mới tiếp xúc với khói lửa quân trường. Bây giờ, trước khi cả hai chúng ta tạm biệt nhau..."
Đại tá lấy ra một chiếc Bảo quốc Huân chương Đệ Tứ đẳng khác trao cho An.
"Chiếc huân chương này chính là kết tinh của tinh thần yêu nước của ta cũng như những bao người lính Việt Nam Cộng Hòa khác. Hãy giữ lấy nó như là một món quà kỉ niệm cuộc gặp gỡ giữa hai chúng ta, cũng như là tinh thần vị quốc vong thân và tinh thần Tổ quốc, danh dự và trách nhiệm mà không chỉ ta mà bất kỳ con người Việt Nam Cộng Hòa nào cũng mang theo bên mình, kể cả khi sinh thời lẫn lúc lâm chung."
Nói đoạn, ngài đại tá hóa thành hình nhân trong suốt rồi từ từ biến mất.
"Hãy dũng cảm bước ra chiến trận và mang theo những ý chí của những người lính chiến đã khuất như ta, và hãy giành lấy chiến thắng tuyệt đối như những gì cháu đã hứa trước anh linh Đức Thánh Trần và hồn thiêng sông núi."
...
An đã quay trở lại không gian của khu vực mua trang bị ở nhà an toàn của khu vực I trong Mementos.
Bộ đồ trên người nó vẫn không thay đổi, trên tay nó vẫn nắm chặt chiếc huân chương.
"Đại tá... những quân nhân quốc gia đã nằm xuống vì Tổ quốc... hãy tin tưởng ở cháu. Cháu nhất định sẽ bắt nhà nước cộng sản quái thai kia trả lại hòa bình, độc lập, tự do cho đất nước này."
Thứ 6, 8/2/20XX.
Sáng nay nó dậy sớm.
Việc đầu tiên mà nó làm sau khi bắt đầu một ngàymới với bữa sáng là bánh cuốn như thường lệ là đi thăm mẹ nó ở bệnh viện một lầncuối trước khi nó lên đường "ra trận".
Mẹ nó ở bệnh viện vẫn không hề động đậy gì, thế nhưng nhịp tim vẫn đập một cách yếu ớt.
"Mẹ... hôm nay con sẽ đi.", An lẩm bẩm. "Con xin lỗi vì đã không thể ở bên mẹ trong thời gian sắp tới, nhưng mong mẹ hãy hiểu cho con. Nay mai, con sẽ cầm súng ra trận như một người lính thực thụ, và khi con hy sinh để bảo vệ những người thân thiết của con, mẹ cũng đừng buồn nhé. Xin mẹ hãy nhớ rằng, ngày sau đất nước này thoát khỏi ách thống trị tàn bạo của cộng sản là nhờ có công sức của con."
Nó chỉ nói mỗi một lời đó thôi và lặng lẽ ra đi, bên giường bệnh để lại một lẵng hoa tươi thắm.
Một giờ rưỡi chiều.
Nghĩa trang Du Sinh là nơi chôn cái hũ đựng tro cốt của người bố đã khuất của nó.
Nó đứng trước ngôi mộ nhỏ, tay cầm ba nén nhang được quấn lại bằng mấy vòng dây thun. Nó tháo dây chun ra, dùng chiếc bật lửa hình ống màu vàng mà nó luôn mang theo người để đốt đầu nhang, khấn trước mộ ba lần rồi cắm vào lớp cát đã chôn sâu chiếc hũ tro.
Trước lớp nhang khói nghi ngút, nó âm thầm cầu nguyện cho bố nó, mong bố phù hộ cho nó trên con đường lật đổ đảng. Khi nó để lại một bó hoa khác tựa vào nấm mộ, nó lặng lẽ trở về nhà, lấy đồ đạc nó đã chuẩn bị sẵn rồi ra đi.
"Em chuẩn bị xong hết rồi đúng không?"
"Dạ."
"Không còn thiếu gì nữa, đúng không?"
"Dạ."
Nghe xong, Hồng ôm lấy An một lúc rồi buông ra.
"Đi đường bình an nhé em."
"Dạ."
Hồng nhìn theo cảnh An lặng lẽ mang túi đồ trên vai và trên tay mà ra đi, trong lòng như quyến luyến rất nhiều những giây phút chia tay. Trong lòng cô nàng vẫn thầm cầu mong An sẽ sớm bình an để trở về cùng với người mình yêu nhất.
Ba giờ chiều.
Nó đã đến trước cổng vào sân bay Liên Khương.
Nó ngoái đầu nhìn lại mọi thứ sau lưng nó một lúc rồi mới vội vã đi làm thủ tục bay. Cứ mỗi bước chân nó đi, cứ mỗi phút trôi qua, trái tim nó cứ nặng trĩu những nỗi lòng chưa dám tỏ cùng ai, cùng với sự lưu luyến thành phố nơi nó đã sinh ra và lớn lên. Không biết sau này nó có còn sống để trở lại nơi này nữa không, nhưng nó chẳng thể nào thay đổi được những gì phải xảy ra – cái gì đến cũng phải đến mà thôi, không thể làm cho những chuyện ấy không đến được. Leo lên máy bay và cài dây an toàn, nó nhìn lại sân bay nơi nó sẽ ra đi. Nó sẽ rời khỏi nơi này, có thể vài ngày nữa nó về, nhưng cũng có thể là sẽ mãi mãi không về nữa.
Vài phút sau, chiếc máy bay cất cánh dưới ánh nắngchiều nhạt phai dần sau những đám mây lớn trên trời. Khung cảnh bên dưới bắt đầu nhạt dần khi máy bay lên cao, cuối cùng biến mất khi máy bay bay cao hơn các đám mây.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com