Phân tích chức năng của tiền tệ.
t Các chức năng của tiền tệ
(VnEcon.com)
24218 lượt đọc và 24 phản
hồi
Bản chất của tiền tệ được thể
hiện qua các chức năng của nó.
Theo C. Mác tiền tệ
có 5 chức năng:
- Thước đo giá trị. Tiền tệ
dùng để biểu hiện và đo lường
giá trị của các hàng hoá.
Muốn đo lường giá trị của các
hàng hoá, bản thân tiền tệ phải
có giá trị. Vì vậy, tiền tệ
làm chức năng thước đo giá trị
phải là tiền vàng. Để đo lường
giá trị hàng hoá không
cần thiết phải là tiền mặt mà chỉ
cần so sánh với lượng vàng nào
đó một cách tưởng
tượng. Sở dĩ có thể làm được
như vậy, vì giữa giá trị của vàng
và giá trị của hàng hoá
trong thực tế đã có một tỷ lệ
nhất định. Cơ sở của tỷ lệ đó là
thời gian lao động xã hội
cần thiết hao phí để sản xuất ra
hàng hoá đó. Giá trị hàng hoá
được biểu hiện bằng tiền
gọi là giá cả hàng hoá. Do đó, giá
cả là hình thức biểu hiện bằng
tiền của giá trị hàng
hoá. Giá cả hàng hoá do các yếu
tố sau đây quyết định:
+ Giá trị hàng hoá.
+ Giá trị của tiền.
+ ảnh hưởng của quan hệ cung -
cầu hàng hoá.
Để làm chức năng thước đo giá
trị thì bản thân tiền tệ cũng phải
được đo lường.
Do đó, phải có đơn vị đo lường
tiền tệ. Đơn vị đó là một trọng
lượng nhất định của kim
loại dùng làm tiền tệ. ở mỗi
nước, đơn vị tiền tệ này có tên
gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ
và các phần chia nhỏ của nó là
tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của
tiền khi dùng làm tiêu
chuẩn giá cả không giống với
tác dụng của nó khi dùng làm
thước đo giá trị. Là thước
đo giá trị, tiền tệ đo lường giá
trị của các hàng hoá khác; là tiêu
chuẩn giá cả, tiền tệ đo
lường bản thân kim loại dùng
làm tiền tệ. Giá trị của hàng hoá
tiền tệ thay đổi theo sự
thay đổi của số lượng lao động
cần thiết để sản xuất ra hàng
hoá đó. Giá trị hàng hoá
tiền tệ (vàng) thay đổi không
ảnh hưởng gì đến "chức năng"
tiêu chuẩn giá cả của nó,
mặc dù giá trị của vàng thay đổi
như thế nào. Ví dụ, một USD vẫn
bằng 10 xen.
- Phương tiện lưu thông: Với
chức năng làm phương tiện lưu
thông, tiền làm môi
giới trong quá trình trao đổi
hàng hoá. Để làm chức năng lưu
thông hàng hoá ta phải có
tiền mặt. Trao đổi hàng hoá lấy
tiền làm môi giới gọi là lưu
thông hàng hoá.
Công thức lưu thông hàng hoá
là: H- T - H, khi tiền làm môi giới
trong trao đổi
hàng hoá đã làm cho hành vi
bán và hành vi mua có thể tách
rời nhau cả về thời gian và
không gian. Sự không nhất trí
giữa mua và bán chứa đựng
mầm mống của khủng hoảng
kinh tế.
Trong lưu thông, lúc đầu tiền tệ
xuất hiện dưới hình thức vàng
thoi, bạc nén. Dần
dần nó được thay thế bằng tiền
đúc. Trong quá trình lưu thông,
tiền đúc bị hao mòn dần
và mất một phần giá trị của nó.
Nhưng nó vẫn được xã hội chấp
nhận như tiền đúc đủ
giá trị.
Như vậy, giá trị thực của tiền
tách rời giá trị danh nghĩa của
nó. Sở dĩ có tình
trạng này vì tiền làm phương
tiện lưu thông chỉ đóng vai trò
chốc lát. Người ta đổi hàng
lấy tiền rồi lại dùng nó để mua
hàng mà mình cần. Làm phương
tiện lưu thông, tiền
không nhất thiết phải có đủ giá
trị. Lợi dụng tình hình đó, khi
đúc tiền nhà nước tìm
cách giảm bớt hàm lượng kim
loại của đơn vị tiền tệ. Giá trị
thực của tiền đúc ngày
càng thấp so với giá trị danh
nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn
đến sự ra đời của tiền giấy.
Bản thân tiền giấy không có giá
trị mà chỉ là dấu hiệu của giá trị
và được công nhận
trong phạm vi quốc gia.
- Phương tiện cất trữ. Làm
phương tiện cất trữ, tức là tiền
được rút khỏi lưu thông
đi vào cất trữ. Sở dĩ tiền làm
được chức năng này là vì: tiền là
đại biểu cho của cải xã
hội dưới hình thái giá trị, nên
cất trữ tiền là một hình thức cất
trữ của cải. Để làm chức
năng phương tiện cất trữ, tiền
phải có đủ giá trị, tức là tiền
vàng, bạc. Chức năng cất trữ
làm cho tiền trong lưu thông
thích ứng một cách tự phát với
nhu cầu tiền cần thiết cho
lưu thông. Nếu sản xuất tăng,
lượng hàng hoá nhiều thì tiền
cất trữ được đưa vào lưu
thông. Ngược lại, nếu sản xuất
giảm, lượng hàng hoá lại ít thì
một phần tiền vàng rút
khỏi lưu thông đi vào cất trữ.
- Phương tiện thanh toán.
Làm phương tiện thanh toán,
tiền được dùng để trả nợ,
nộp thuế, trả tiền mua chịu
hàng ... Khi sản xuất và trao đổi
hàng hoá phát triển đến
trình độ nào đó tất yếu nảy
sinh việc mua bán chịu. Trong
hình thức giao dịch này trước
tiên tiền làm chức năng thước
đo giá trị để định giá cả hàng
hoá. Nhưng vì là mua bán
chịu nên đến kỳ hạn tiền mới
được đưa vào lưu thông để làm
phương tiện thanh toán.
Sự phát triển của quan hệ mua
bán chịu này một mặt tạo khả
năng trả nợ bằng cách
thanh toán khấu trừ lẫn nhau
không dùng tiền mặt. Mặt khác,
trong việc mua bán chịu
người mua trở thành con nợ,
người bán trở thành chủ nợ. Khi
hệ thống chủ nợ và con nợ
phát triển rộng rãi, đến kỳ
thanh toán, nếu một khâu nào
đó không thanh toán được sẽ
gây khó khăn cho các khâu khác,
phá vỡ hệ thống, khả năng
khủng hoảng kinh tế tăng
lên.
- Tiền tệ thế giới. Khi trao đổi
hàng hoá vượt khỏi biên giới
quốc gia thì tiền làm
chức năng tiền tệ thế giới. Với
chức năng này, tiền phải có đủ
giá trị, phải trở lại hình
thái ban đầu của nó là vàng.
Trong chức năng này, vàng
được dùng làm phương tiện
mua bán hàng, phương tiện
thanh toán quốc tế và biểu hiện
của cải nói chung của xã
hội.
Tóm lại: 5 chức năng của tiền
trong nền kinh tế hàng hoá
quan hệ mật thiết với
nhau. Sự phát triển các chức
năng của tiền phản ánh sự phát
triển của sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Theo VnEcon.com
URL để chia sẻ:
________________________
Cách học hiệu quả nhất là giảng
giải cho người khác. di1ngaydang Trả Lời
Với
Thanked by 15 econs: adeverli, ai
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com