ĐÂY THÔN VĨ DẠ (KHỔ 1+2)
Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết nên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" ra đời ngay trong giây phút tuyệt diệu ấy. Đến với khổ một, hai của bài thơ ta sẽ bắt gặp bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống nơi thôn Vĩ.
Đến với khổ một là bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp, đầy sức sống và ấm áp tình người, thể hiện nỗi nhớ, tình yêu thiết tha, sâu nặng của tác giả đối với cảnh sắc và con người thôn Vĩ.
Khổ thơ mở ra với một câu hỏi tu từ khơi gợi nhiều sắc thái cảm xúc:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"
Phải chăng đây là lời của một người con gái Huế, của người thương vọng về trong tâm tưởng thi nhân. Câu hỏi rất duyên dáng, vừa có ý nhắc nhở, trách móc, giận hờn, vừa như là lời mời mọc thiết tha, chân thành và ẩn chứa nỗi nhớ, niềm thương lẫn cả sự tiếc nuối. Nó thể hiện tình người thiết tha sâu nặng? Hay là lời tự vấn, tự hỏi lòng mình của thi nhân? Đây là một hình thức phân thân để đối thoại thể hiện thái độ tự trách cứ chính mình, ẩn trong đó là một nỗi nhớ, niềm thương da diết, một niềm khao khát đến cháy bỏng là được trở về Vĩ Dạ nhưng đồng thời cũng không giấu được sự chới với, thất vọng. Câu thơ thể hiện cảm xúc đầy tiếc nuối, xót xa trước một mộng ước không thành, một khát vọng dở dang.
Sau câu hỏi đánh thức trái tim là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi nguyên, đầy sức sống về Vĩ Dạ lúc sớm mai trong kí ức của thi sĩ:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"
Với Hàn Mặc Tử, về Vĩ Dạ đầu tiên là để được nhìn nắng hàng cau thẳng tắp, duyên dáng trong ánh nắng ban mai ấm áp. Ở đây nhà thơ không tả sắc màu của nắng mà thiên về gợi vẻ đẹp tinh khôi, thanh thoát của nắng qua hình ảnh "nắng hàng cau nắng mới lên". Ở Vĩ Dạ, cau là cây cao nhất trong vườn nên là cây đầu tiên được đón tia nắng mặt trời. Nắng trên thân cau là nắng tươi, nắng mới, bởi thế mà trong trẻo, tinh khôi. Sau một đêm tắm mình trong sương, tàu cau được làm mới, nắng trên thân cau là nắng ướt, nắng long lanh, thanh khiết. Điệp từ "nắng" vừa gợi tả được sự lan tỏa của những tia nắng đang bắt đầu chiếu rọi không gian, vừa gợi tả được những hàng cau và cả khu vườn như đang bừng thức, trỗi dậy vươn mình đón ánh bình minh.
"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"
Từ "mướt" kết hợp từ "quá" toát lên vẻ non tơ, mỡ màng, đầy sức sống của khu vườn sạch sẽ, láng bóng dưới ánh mặt trời. Câu thơ tựa như một tiếng reo ngỡ ngàng đầy kinh ngạc như vừa nhận ra vẻ đẹp khu vườn. Hé lộ cho ta thấy cái náo nức, hân hoan của thi nhân. Dường như Hàn Mặc Tử đang sống dậy cái giây phút thôn Vĩ đón chào ánh mặt trời.
Phép so sánh "xanh như ngọc" đã lột tả cái thần thái của khu vườn. Vì ngọc vừa có màu vừa có ánh, là màu xanh toát ra từ bên trong, từ sự vận động của sự sống đang sinh sôi trong từng hạt diệp lục. Nó còn là màu xanh long lanh, ngời sáng được tạo ra từ cành lá mướt sương đêm dưới ánh nắng ban mai. Hàn Mặc Tử phải là người yêu thiên nhiên, thiết tha với cuộc sống, có ân tình sâu sắc với Huế và thôn Vĩ mới có thể ôm ấp, lưu giữ trong tâm hồn mình những hình ảnh đẹp đẽ như thế.
Câu thơ vừa thể hiện một tình yêu tha thiết, đắm say với Vĩ Dạ vừa ẩn chứa trong đó tâm trạng thảng thốt, tiếc nuối đầy chới với, bất lực và tuyệt vọng. Trạng thái này được thể hiện rõ qua từ "ai" – đại từ phiếm chỉ thường được sử dụng nhiều trong ca dao tạo nên một giọng điệu lấp lửng, tình tứ. Từ "vườn ai" ở đây vang lên da diết khiến cho đối tượng được đề cập thật gần gũi nhưng cũng lại rất xa xôi. Nó cho thấy thi sĩ ý thức được một khoảng cách xa vời hiện hữu giữa mình và đối tượng trữ tình, ý thức được rõ ràng những gì đẹp nhất, tinh túy nhất trần thế, thiêng liêng nhất của thôn Vĩ nói riêng và của cuộc đời nói chung đang thuộc về một thế giới khác hẳn với thế giới mà tác giả đang sống, đang nằm ngoài tầm với của thi nhân.
Đến câu thơ cuối của khổ một, trong cảnh đã xuất hiện hình bóng con người. Con người thôn Vĩ hiện lên trong trạng thái hòa hợp với thiên nhiên, đem đến cho cảnh một sức sống mới, tôn thêm vẻ đẹp của cảnh:
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền."
Nhiều ý kiến cho rằng nó gợi lên vẻ đẹp của những khuôn mặt vuông vức, đầy đặn, đó là khuôn mặt của thiếu nữ hay chàng trai thôn Vĩ. Hiểu theo cách này, câu thơ mang ý nghĩa biểu tượng, nó gợi lên bản chất chất phác, trung thực, hồn hậu của con người nơi đây. Hay là trong sự đồng hiện giữa quá khứ - hiện tại, Hàn Mặc Tử tưởng mình đang trở về với Vĩ Dạ, gương mặt thi nhân thấp thoáng sau những hàng rào tre trúc. Mang trong mình mặc cảm của một con người đứng ngoài cuộc đời, đi ngang qua cuộc đời, trở về cuộc sống ngoài kia một cách e dè, kín đáo, nhưng cũng đầy lưu luyến, nhớ thương. Bằng bút pháp chấm phá, điểm xuyết với hình ảnh lá trúc che ngang, Hàn Mặc Tử đã khiến cho khuôn mặt chữ điền trở nên kín đáo, ý nhị, gợi cảm hơn.
Bốn câu thơ mở đầu là hành trình trở về thôn Vĩ trong tâm tưởng của thi nhân. Bức tranh Vĩ Dạ hiện lên qua hoài niệm với những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu, vừa gần gũi, thân quen, vừa tinh khôi, giàu sức sống rất đỗi nên thơ & trữ tình. Bằng ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu sức biểu cảm, giọng thơ phong phú, đa dạng vừa có sự băn khoăn, day dứt, vừa có sự xót xa, tiếc nuối, đồng thời vừa ẩn chứa tình yêu niềm đắm say rạo rực. Qua đó ta thấy được tình yêu sâu nặng thiết tha của tác giả với cảnh sắc và con người xứ Huế, đồng thời là lòng ham sống, lòng khát khao tình người, tình đời đến đau đớn, chới với, bất lực của một tâm hồn luôn mang mặc cảm vì hiện tại số phận ngắn ngủi, mong manh.
Đến với khổ hai, bức tranh sông nước, mây trời chia lìa, phiêu tán, thấm đượm một nỗi buồn thương, qua đó thể hiện tâm trạng cô đơn, niềm hi vọng, khao khát tình yêu, cái đẹp nhưng khắc khoải, lo âu, vô vọng.
Ở hai câu đầu:
"Gió theo lối gió, mây đường mây"
Cảnh vật đã được ảo hóa, tâm trạng hóa. Thông thường, gió & mây luôn đi liền nhau, song hành, sóng đôi, gắn bó với nhau không thể tách rời. Gió thổi mây bay, mây nương theo làn gió mà chảy trôi nhưng ở đây gió & mây tách biệt, chia lìa. Câu thơ ngắt thành 2 vế: gió & mây, mỗi hình ảnh đóng khung trong 1 thế giới khác nhau, tách biệt nhau, gợi lên 1 sự rời rạc, không gắn kết. Điệp từ "gió, mây" đi liền với các từ gợi sự vận động khác chiều, khác hướng. Gió & mây vốn đã không gắn kết giờ đây đang chia lìa đôi ngả, khoảng cách như được đẩy xa thêm. Cảnh phi logic so với hiện thực nhưng lại rất logic so với tâm trạng. Cảnh vật phiêu tán vì được nhìn qua lăng kính của con người mang mặc cảm bệnh tật nên nhìn đâu cũng thấy chia lìa.
Ngay cả dòng nước cỏ cây cũng đang phiêu tán, thấm đượm nỗi buồn hiu hắt:
"Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay"
Câu thơ đã gợi tả được dáng trôi rất đặc trưng của Hương Giang. Với từ "buồn thiu", nhà thơ đã gợi tả được nhịp trôi rất chậm, "rất slow" (Hoàng Phủ Ngọc Tường), lững lờ của dòng sông, đồng thời còn có tác dụng nhân hóa: dòng sông mang nặng tâm trạng, nỗi niềm. Đó là một nỗi buồn hiu hắt. Cộng hưởng với nhịp trôi chậm rãi của dòng sông là hình ảnh "hoa bắp lay" – một hình ảnh khá quen thuộc trong thơ ca nhưng trong cảm nhận của Hàn Mặc Tử vẫn mang một nét mới. Từ "lay" vốn chỉ gợi sự vận động nhẹ nhàng, ở đây cộng hưởng với từ "buồn thiu" để gợi tả vẻ hiu hắt, buồn lặng của dòng sông. Dòng sông đã được tâm trạng hóa. Nỗi buồn của nhà thơ một lần nữa đã lan thấm vào cảnh vật. Dòng sông trở thành dòng tâm trạng, chất chứa nỗi buồn.
Hai câu tiếp theo, thi sĩ gợi tả một bức tranh sông nước hư ảo, huyền hồ, thể hiện khát vọng tình yêu thiết tha đi liền với nỗi buồn đau vô vọng:
"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"
Hình ảnh thơ tái hiện không gian sông nước lung linh, huyền ảo. Hương Giang lấp lánh ánh trăng trở thành sông trăng và con thuyền cũng chở đầy trăng. Từ những thi liệu quen thuộc trong thơ ca, Hàn Mặc Tử đã thể hiện một cách ám ảnh nỗi buồn đau chia lìa, sự chới với vô vọng trong tâm hồn mình. Hình ảnh sông trăng, con thuyền chở trăng ở đây mang ý nghĩa biểu tượng: đó chính là hiện thân của thế giới mơ ước, của tình yêu, hạnh phúc và cái đẹp. Con thuyền chở trăng chính là nhịp cầu nối mơ ước và hiện tại, là con thuyền chở tình yêu & hạnh phúc. Hai câu thơ thể hiện nỗi ám ảnh về sự chia lìa. Đại từ phiếm chỉ "ai" một lần nữa lại xuất hiện trong bài thơ. Từ "về" đã gợi liên tưởng về khoảng cách giữa bến sông trăng và thế giới nơi nhà thơ đang đứng. Đó chính là khoảng cách giữa mơ ước và hiện thực. Cái đẹp, tình yêu và hạnh phúc đang ở một thế giới nào đó xa vời. Câu thơ còn ẩn chứa trong đó sự lo âu về sự hữu hạn, ngắn ngủi của thời gian. Từ "kịp" đã hé lộ với chúng ta về nỗi lo âu ấy. Hàn Mặc Tử có cùng một nỗi khắc khoải về thời gian như Xuân Diệu. Tuy nhiên, nếu Xuân Diệu đang chạy đua với thời gian để giữ xuân thì, tuổi trẻ ("Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm") thì Hàn Mặc Tử níu giữ cuộc sống. Với ông thời gian đồng nghĩa với cái chết. Vì thế, câu thơ ẩn chứa một nỗi khắc khoải, lo âu, sợ hãi về một sự muộn màng, lỡ làng. Đoạn thơ kết lại bằng hai câu hỏi mang giọng điệu đa thanh. Câu hỏi vừa thể hiện một sự băn khoăn, vừa ẩn chứa một niềm hi vọng đi liền với nỗi lo âu vô vọng.
Đoạn thơ đã vẽ nên một bức tranh sông nước mây trời huyền hồ, hư ảo, li tán thể hiện những cung bậc và sắc thái cảm xúc đầy phức tạp của hồn thơ Hàn Mặc Tử: nỗi buồn, sự cô đơn, mặc cảm của một con người đang bị bỏ rơi, quên lãng; niềm khao khát, hi vọng về tình yêu, hạnh phúc đi liền với nỗi buồn đau, vô vọng. Qua đó, ta thấy được tình yêu đời thiết tha đến đau đớn của Hàn Mặc Tử.
Bằng những hình ảnh thơ giàu sức gợi, vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang tính biểu tượng. Đặc biệt đáng chú ý là những hình ảnh đã được tâm trạng hóa, ảo hóa rất lạ, rất gợi cảm, đầy ám ảnh; ngôn ngữ tinh tế, giàu chất tạo hình, nhạc tính và giá trị biểu cảm gợi lên những liên tưởng thẩm mĩ phong phú, đặc sắc. Giọng thơ rất đa thanh, vừa tha thiết, say đắm, vừa khắc khoải, lo âu, vừa hi vọng, vô vọng, trong đó đáng chú ý là những câu hỏi xuyên suốt bài thơ. Hai khổ thơ trước hết là một dòng hoài niệm thiết tha của nhà thơ về thôn Vĩ, về xứ Huế dấu yêu, thể hiện nỗi nhớ, tình yêu và sự gắn bó sâu nặng của tác giả đối với cảnh sắc và con người Vĩ Dạ, với xứ Huế, với cuộc đời trần thế nói chung. Nó còn là nỗi khát khao đi liền với niềm đau về một mối tình đơn phương vô vọng, thể hiện tình yêu đời thiết tha, đau đớn, nỗi buồn và sự cô đơn, mặc cảm chia lìa của thi nhân.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" là bức tranh đẹp về miền miền quê trên dải đất hình chữ S, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com