Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Phía sau cánh cửa - Hanh_Moon

Phía Sau Cánh Cửa

Alfred Hitchcock

Dịch giả: ĐÀI LAN

Chương 1

O.H Leslie

gôi nhà, núp bên sườn đồi, trông giống như tượng nhân sư, nhìn thật tối tăm hoang tàn thậm chí có một cái gì đó thê lương bi thảm nữa. Nhà có ba tầng, tầng cuối cùng nằm nhô ra phía trên cửa ra vào. Ngôi nhà được xây thời phồn thịnh và đã bị chủ bỏ để đến ở nơi sang trọng hơn.

Đèn pha chiếc xe mui trần chiếu sáng cổng ngoài và lối đi. Bonnie Daniels hớn hở vỗ tay, rồi nhảy xuống xe trước khi Davey kịp bóp thắng. Davey không thèm tắt đèn và máy xe, cười chạy theo hình bóng thanh mảnh và bắt kịp nàng ngay ngưỡng cửa. Hai người được chiếu sáng rực và ôm hôn nhau. Sau đó, trong khi Bonnie lục trong túi xách tìm chìa khoá, Davey quay ra xe tắt máy. Tất cả trở nên tối om và im lặng như ngôi nhà. Bonnie đã mở được cửa khi Davey quay lại với nàng.

- Ê! Davey trách móc. Sao không chờ anh!

Bonnie mò mẫm tìm thấy công tắc đèn. Phòng phía trước sáng lên, nhưng chỉ xua tan một phần cảm giác tối tăm của ngôi nhà. Có quá nhiều bóng đèn hư, đèn không có chụp, đèn chùm vô dụng thòng xuống từ những sợi dây điện bị đứt. Nét mặt cô gái sầm lại khi thấy giấy dán tường dơ bẩn, trần nhà bị nứt, bàn ghế bị phủ vải trắng như vải liệm. Davey thông cảm với nỗi buồn của nàng. Chàng bước đến đứng sau lưng, nhẹ nhàng đặt bàn tay lên vai nàng.

- Không giống như trong ký ức của em, đúng không? Chàng thông cảm hỏi. Em không đến đây từ bao lâu rồi?

- Chắc cũng phải tám năm rồi. Ba em mất lúc em chín tuổi. Gia đình em dọn nhà lúc đó.

Nàng thả mình ngồi xuống một góc đi-văng phủ vải che.

- Hè nào gia đình em cũng cho thuê nhà. Nhờ vậy mà nhà vẫn còn điện. Anh Davey à, nghĩ lại, có lẽ ta đến đây là không hay đâu, - Bonnie nói thêm và ngước mắt lên nhìn Davey.

Chàng cười, một nụ cười gượng gạo dễ thương, Davey hai mươi hai tuổi và là chàng trai đẹp trai nhất từng xuất hiện trong cuộc đời của Bonnie Daniels. Và bây giờ còn hơn thế nữa..

- Anh Davey... Bonnie nói khẽ.

Davey bước đến đi-văng, ôm Bonnie vào lòng.

Tâm trạng cô gái vui vẻ trở lại ngay. Nàng cầm lấy tay chàng, rồi cả hai cùng đi thám hiểm ngôi nhà cũ, chạy hết phòng này sang phòng khác, từ tầng này lên tầng kia, chạy trong các hành lang, cười giỡn trước bức chân dung tổ tiên, chơi trốn tìm trong mê cùng các phòng trên lầu. Hai người làm lung lay ngôi nhà bằng tiếng cười và tính bồng bột. Ở tầng cuối có một cánh cửa không chịu mở ra và Davey kêu lên:

- Bonnie ơi! Cửa này bị kẹt rồi,

Bonnie hạ giọng xuống nói:

- Không kẹt đâu. Cửa bị khoá. Hồi xưa đến giờ vẫn bị khoá.

Davey lắc tay nắm cửa thật mạnh, nhưng cánh cửa bằng gỗ sồi quá kiên cố đến nỗi hầu như không rung rinh chút nào.

- Đằng sau cửa này có cái gì vậy?

- Em không biết. Theo em nhớ, thì cửa luôn đóng kín như thế. Em nhớ ba cấm em không được đến gần phòng này, còn mẹ thì luôn căng thẳng khi nói đến nó.

- Sao mà bí ẩn quá vậy! Hay ta thử phá cửa đi... Em nghĩ sao?

- Ồ! Không được đâu anh ơi! Ta không thể làm như thế được.

- Nào, bộ em không thấy tò mò sao? Có thể phòng đầy phụ nữ bị treo cổ giống như trong lâu đài Con Yêu Râu Xanh. Hay trong đó có giấu nữ trang dòng họ....

Bonnie rùng mình.

- Anh ơi, đừng đụng đến nó. Em luôn sợ cánh cửa này từ nhỏ đến giờ.

Nhưng Davey đánh vai thật mạnh vào cửa… để xem.

Bonnie la lên:

- Đừng, anh Davey!

- Thôi đi! Tại sao cửa bị khoá kín? Chắc là trong đó phải có cái gì quý báu lắm.

Davey liếm môi; mắt anh sáng lên không chỉ vì thích thú tò mò.

- Này, làm sao em biết được. Lỡ trong đó có tiền. Rốt cuộc, ba em đã để lại nhà cho em mà, đúng không? Nếu trong nhà có một cái gì đó quý giá, thì đó là của em.

- Anh Davey, anh đã hứa với em là sẽ không nói đến chuyện tiền.

- Anh không nói về tiền của mẹ em...

- Nhưng nhà chưa thật sự là của em. Chưa hẳn của em. Phải chờ đến lúc em hai mươi mốt tuổi, mà còn đến bốn năm nữa...

- Em đừng có nguyên tắc như thế.

- Anh Davey...

Davey mỉm cười, nhưng không có tác dụng gì trong bóng tối. Thế là Davey cười thành tiếng, rồi choàng tay quanh hai vai mảnh khảnh của cô gái.

- Được rồi, nếu nghĩ vậy. Dù sao ta còn thời gian mà.

Davey định hôn cô, nhưng Bonnie vùng ra.

- Trở xuống nhà đi anh Davey, nhé?

Cả hai trở xuống dưới. Bằng những động tác trịnh trọng, Davey kéo những tấm vải dính bụi phủ bàn ghế phòng khách. Rồi anh chạy xuống tầng hầm, ôm một bó củi lên. Davey lớn lên ở thành thị, chàng tỏ vẻ cực nhọc mới đốt được lửa trong lò sưỡi khổng lồ. Hai người kéo ghế dài lại gần đống lửa, ôm nhau nằm trên đó. Đèn tắt hết, cả hai mơ mộng nhìn ngọn lửa nhảy nhót, rồi Bonnie thiếp đi trên ngực Davey.

- Mèo con của anh, Davey nói khẽ. Đến giờ đi ngủ rồi.

Davey định lay Bonnie để đánh thức cô, thì tiếng lốp xe kêu rít trên sỏi làm Bonnie tỉnh dậy. Hai chùm đèn pha xe rọi sáng các cửa sổ trước nhà, tạo thành những bóng đen to lớn trong phòng.

- Chết rồi! Davey lầm bầm. Có người đến.

Xe dừng ở lối đi. Davey và Bonnie nghe tiếng cửa xe đóng lại. Bonnie lật đật đứng dậy, kéo quần áo cho thẳng thắn , chạy ra cửa sổ rồi nín thở.

- Mẹ đến!

Bàn tay đeo găng của người mới đến đẩy mạnh cánh cửa vào không được khóa. Mẹ của Bonnie đứng ở ngưỡng cửa, như pho tượng phục thù và đôi mắt lanh lợi đã đánh giá xong tình hình. Trông bà uy nghi chỉ nhờ cơn giận, bởi vì bà rất thấp, khá mập và dường như ăn mặc rất vội vàng, tuy không quên những món phụ trợ cần thiết: nữ trang ở cổ và tay, khăn choàng lông thú trên vai. Bằng ba bước, bà đến gần con gái và nắm lấy cánh tay cô.

- Mẹ! Bonnie ấp úng. Không có gì đâu...

- Không có gì thật sao?

Bà rất giận dữ. Bà chuyển cơn giận sang Davey. Chàng trai đang lúng túng đứng trước đám lửa sắp tắt.

- Chắc anh là Davey Snowden. Tôi có nghe nói về anh, anh Snowden à. Ơn Chúa, tôi đã nảy ra ý ghé đây khi không thấy Bonnie về nhà và...

- Mẹ lầm rồi! Anh Davey, anh nói với mẹ đi!

Davey có động tác mơ hồ.

- Thưa bác Daniels, cháu..

- Khỏi nói. Tôi hiểu hết rồi. Tôi đã e sẽ có chuyện như thế này xảy ra từ khi thấy Bonnie kể về anh trong những lá thư viết từ trường về.

Bà đẩy cô con gái đi trước mình.

- Bonnie, con lấy đồ đi. Ta về nhà.

- Thưa bác Daniels!...

Bà tức giận nhìn chàng trai.

- Thưa bác, tụi cháu đã cưới nhau rồi ạ.

Bà nới lỏng tay hơn, nhưng vẫn không thả cánh tay Bonnie. Bà sửng sốt nhìn chàng trai gầy nhom đứng trước đống lửa, không còn tự tin nữa, rồi nhìn cô con gái có nét mặt mệt mỏi, môi mím chặt.

- Đúng, Bonnie nói khẽ. Tụi con đã cưới nhau hồi chiều nay ở Elkton.

- Làm sao có chuyện đó được! Con chưa đủ tuổi.

- Ở Elkton thì được, mẹ à. Chỉ cần đủ mười bảy tuổi. Davey và con đã cưới nhau; mẹ không thể đối xử với tụi con như thế.

Dường như chính Bonnie cũng sửng sốt vì đã dám cãi lại mẹ:

- Mẹ ơi, con xin mẹ, mẹ hãy hiểu cho tụi con.

- Ồ! Mẹ hiểu rất rõ.

Bà thả cánh tay con gái ra rồi bước đến chàng trai nói lạnh lùng:

- Khi bằng tuổi anh, tôi đã từng phải đối phó với khoảng một chục Davey. Mọi anh chàng đẹp trai đều cho rằng tôi là hoa hậu, bất chấp nước da xám xịt và những cái răng mọc lệch của tôi.

Bà ngã sụp xuống ghế ngồi, để bàn tay đeo găng lên má.

- Ôi! Bonnie, tội nghiệp Bonnie của mẹ.

Davey tằng hắng.

- Đây là chuyện khác, cháu yêu Bonnie thưa bác.

Bà Daniels lấy tay che mắt rồi nói:

- Chắc là cậu không có tiền.

- Kìa mẹ! Bonnie nói.

- Không có, Davey trả lời. Ba mẹ cháu là dân nhập cư. Ba cháu đã làm việc đến chết trong một đội công nhân xe lửa. Mẹ cháu còn sống, nhưng cháu cũng không biết mẹ hiện đang ở đâu.

Davey đứng thẳng người, lấy một tư thế vừa trang nghiêm vừa dũng cảm.

- Gia đình cháu không danh giá, thưa bác Daniels, nhưng cháu yêu Bonnie.

- Tại sao?

Cô gái quay đầu đi.

- Anh có nghe không, tôi hỏi anh tại sao?

Davey lưỡng lự.

- Cháu không hiểu bác muốn nói gì. Chuyện này không giải thích được.

- Bonnie xấu hoắc! Bà đột ngột nói. Anh có mù không? Bonnie xấu xí! Tại sao một anh chàng đẹp trai như anh lại muốn cưới một cô gái xấu xí như con gái tôi? Bộ anh tưởng tôi ngu hả?

Bonnie che mặt lại, còn Davey nuốt nước miếng.

- Cháu yêu Bonnie, vậy thôi. Tụi cháu đã cưới nhau rồi và bác không thể làm gì được.

Bà đứng dậy.

- Anh Snowden à, anh rất đẹp trai, nhưng anh không dược thông minh lắm. Tôi có thể làm rất nhiều việc. Tôi sẽ cho hủy cuộc hôn nhân này ngay lập tức.

- Tụi cháu sẽ không chịu, thưa bác.

Bà phản đối.

- Anh không thể làm gì để chống lại tôi, khi con gái tôi chưa đến tuổi thành niên. Đến lúc đó... ôi, thì đến lúc rồi xem.

Bà chạm nhẹ vai Bonnie.

- Bonnie à, bây giờ mẹ về nhà, và mẹ muốn con về nhà theo mẹ.

- Không!

- Con đừng làm cho sự việc nghiêm trọng thêm.

- Không, - cô gái khóc lóc. Anh Davey, anh hãy nói với mẹ rằng em không muốn đi...

- Bác đã nghe Bonnie nói rồi đó.

- Vâng, tôi nghe.

Bà thở dài rồi bước ra cửa.

- Bonnie à, con sẽ hối hận, con hãy nhớ lời mẹ nói.

- Mẹ ơi, con không thể sống thiếu anh Davey! Nếu mẹ chia lìa tụi con, con sẽ không bao giờ tha thứ cho mẹ.

- Rồi con sẽ quên, Bonnie à.

- Con sẽ tự tử! Mẹ nghe không? Con sẽ tự tử nếu mẹ làm thế.

Bà Daniels có vẻ buồn, nhưng vẫn kiên quyết.

- Con đừng nói bậy. Trái tim không bao giờ vỡ ra như thế, mà trái tim chỉ khô héo đi thôi. Chính là điều mẹ muốn tránh cho con.

- Con không nói đùa, Bonnie hét lên. Con sẽ tự tử. Con sẽ tự tử!

Bà thương hại nhìn con gái, rồi mở cửa ra. Trong lò sưởi có một ngọn lửa nhỏ đột ngột cháy lên nhưng rồi tắt ngay trên củi đen.

* * *

Davey và Bonnie rời khỏi ngôi nhà cũ sáng hôm sau lúc mười giờ, đi thành phố. Davey xấu hổ khi cho nàng xem chỗ ở khiêm tốn gồm hai phòng của anh, trong một khu nghèo. Quá khác biệt với ngôi nhà lộng lẫy của dòng họ Daniels! Bonnie nhìn những căn phòng nhỏ tồi tàn với một nụ cười thản nhiên dũng cảm, nhưng những gợi ý của Bonnie để làm cho căn hộ ấm cúng hơn nghe không thuyết phục lắm. Chỉ đến tối hai người mới quên đi nơi đang ở và lại cảm thấy hạnh phúc và an toàn.

- Anh Davey ơi, Bonnie nói khẽ. Rồi mình sẽ ra sao? Mẹ có thể làm như mẹ nói không?

- Anh không biết. Phải hỏi ý kiến luật sư.

- Nhưng nếu mẹ làm được thì sao? Em sẽ không đủ sức để chịu nổi đâu, anh Davey à.

- Em đừng lo. Em có con ách chủ bài, mèo con của anh à, và đó mới chính là điều quan trọng. Mẹ em rất thương em. Mẹ sẽ không bao giờ muốn hại em.

Sau một hồi im lặng, Bonnie hỏi:

- Anh Davey này, anh hãy nói thật với em. Anh có thấy em xấu không?

- Anh thấy em rất đẹp, Davey trả lời.

Bonnie ngủ trước, rồi Davey đốt điếu thuốc, đăm chiêu hút, mắt nhìn trần nhà.

Ngày hôm sau, Davey đến văn phòng luật sư Hellinger và Dowes, nơi cha của một người bạn học cũ làm nhân viên. Davey vắng mặt suốt buổi sáng và khi về, thấy Bonnie đang lo lắng chờ đợi. Kết quả rất buồn.

- Không ổn rồi. Luật sự nói rằng mẹ em có thể gây khó khăn cho ta rất nhiều. Nếu mẹ em cương quyết kiện anh, thì anh có thể bị tù vì đã bắt cóc em. Mèo con ơi, dường như không có lối thoát.

- Ồ! không thể như thế, anh Davey ơi. Hay anh đi nói chuyện với mẹ...?

- Mẹ em sẽ không để cho anh nói. Mẹ cứ nhất định rằng anh chỉ quan tâm đến tiền, đến số tiền mắc dịch của em...

- Còn nếu không có tiền thì sao? Hay em khước từ mọi quyền lợi đối với số tiền mà ba để lại cho em? Thì mẹ sẽ buộc phải tin ta, đúng không?

Davey đứng dậy, bước đến cuối phòng, không để Bonnie nhìn thấy nét mặt.

- Hừm, em có cách suy nghĩ cực đoan quá, Bonnie à. Bởi vì dù sao, số tiền này sẽ thuộc em khi em tròn tuổi trưởng thành. Em có quyền nhận nó.

- Em không quan tâm đến tiền, anh Davey à!

- Vâng, dĩ nhiên.

Davey chìm đắm trong suy nghĩ, cắn các đốt ngón tay.

- Chắc là có cách khác chứ! Phải tìm ra thôi.

- Anh Davey...

- Sao?

- Anh không quan tâm đến tiền chứ?

Davey không trả lời; anh quay lại, bước đến bên Bonnie, mắt sáng rỡ.

- Bonnie này, anh có một sáng kiến. Một sáng kiến rất điên rồ và anh sẽ không giận em nếu em không tán thành.

- Cái gì vậy?

- Em có nhớ những gì em nói với... ở chỗ kia không? Rằng em sẽ tự tử ấy?

- Nhớ...

Bonnie lắc đầu lúng túng.

- Anh định làm gì vậy, anh Davey?

- Dĩ nhiên là mẹ không tin em. Không ai tin khi người khác nói những chuyện như thế. Nhưng nếu bằng một cách nào đó, ta làm cho mẹ em tin rằng em thật sự yêu anh, ý anh muốn nói rằng cuộc hôn nhân này rất quan trọng đối với em...

Bonnie lùi lại, rồi Davey nở một nụ cười trấn an.

- Em này, em hãy hiểu anh cho đúng, mèo con à. Anh đang nói về một kế hoạch, một màn giả vờ, vậy thôi. Nếu mẹ em tin rằng em nói nghiêm túc khi em đòi tự tử, thì mẹ em sẽ đổi ý ngay, đúng không?

- Em nghĩ là vậy. Nhưng ta không thể đánh lừa mẹ một chuyện như thế, anh Davey à.

- Làm được, nếu làm kỹ. Em hãy suy nghĩ một phút. Giả sử em thật sự toan tự sát, không đi quá trớn, nhưng cũng đủ để trông có vẻ thật...

- Nhưng bằng cách nào? Làm sao em có thể làm một chuyện như thế?

- Có rất nhiều cách. Phải, rất nhiều.

Davey đứng dậy, đập hai nắm đấm vào nhau.

- Chẳng hạn như ga. Ý anh nói, ta có thể dàn dựng cảnh giả, như mở vòi ga chẳng hạn...

Davey ngưng nói khi thấy Bonnie tái mét.

- Mèo con, đừng làm bộ mặt như thế. Thôi, không nói nữa vậy...

- Không, anh cứ nói tiếp đi, anh Davey. Em nghe anh mà.

- Hay có lẽ cách tiện nhất là... thuốc độc. Iốt hay cái gì đó đại loại như vậy. Thậm chí sẽ dễ tin hơn nữa, bởi vì trong trường hợp đó, anh sẽ gọi bác sĩ, để rửa ruột cho em và...

- Anh Davey, em không làm như thế nổi!

- Không bắt buộc phải là thuốc độc, ta có thể dùng thứ khác. Ví dụ như thuốc ngủ.

Davey mỉm cười.

- Anh có, Bonnie à, anh có loại thuốc ngủ sẽ không hại em. Em sẽ uống hai viên thôi, liều lượng như thế sẽ không làm em đau nhiều.

Bonnie run rẩy toàn thân. Davey ôm chặt Bonnie vào lòng, để trấn an, rồi nói tiếp.

- Em sẽ viết thư cho mẹ em. Em sẽ nói với mẹ em định làm gì, nhưng anh thì không hay biết gì, em hiểu không? Em sẽ nói rằng em định uống cả một lọ thuốc, nhưng thật ra em chỉ uống vài viên. Rồi, khi mẹ em đến đây...

- Em thấy sợ quá, anh ơi. Em thấy sợ quá...

- Anh hứa với em rằng em sẽ không bị sao cả. Chỉ được cái là mẹ em sẽ tin rằng em nói thật khi nói yêu anh. Em yêu anh thật tình đến mức đó mà, phải không?

- Ồ! Có! Ồ, em rất yêu anh! Bonnie đam mê nói rồi hôn cái miệng xinh đẹp của chàng.

*

* *

Buổi chiều, Bonnie viết thư dưới sự hướng dẫn của Davey. Nội dung ngắn gọn, xúc động và dứt khoát. Bonnie thảo bản nháp đầu tiên theo giọng điệu buộc tội. Davey bắt Bonnie viết lại; nội dung cuối cùng đượm vẻ buồn bã và tha thứ. Davey mỉm cười khi dán phong bì, rồi chạy đi bỏ thùng thư ở góc đường.

Davey và Bonnie chờ đến chiều hôm sau để thực hiện kế hoạch. Lúc ba giờ, tiếng chuông điện thoại ré tai vang lên, nhưng Davey không cho Bonnie nhấc máy.

- Chắc là mẹ em, Davey nói. Có lẽ mẹ em đã nhận thư rồi và gọi điện thoại cho em. Cứ để chuông reng. Như vậy tốt hơn.

Hai người để chuông reng khoảng một chục tiếng. Rồi Bonnie rung rẩy đi tìm lọ thuốc ngủ trong tủ thuốc, mang ra phòng khách. Davey định lấy lọ thuốc, nhưng rồi dừng tay.

- Nên để em tự làm, Davey nói. Em hãy lấy ba… không bốn viên.

- Anh có chắc là không nguy hiểm không?

- Chắc chắn. Ít nhất phải một chục viên mới có hại. Mà anh sẽ gọi bác sĩ nhanh mà. Em cứ tin anh, mèo con của anh à.

- Em tin anh.

Bonnie lấy bốn viên thuốc cho vào lòng bàn tay. Rồi Bonnie đi lấy một ly nước, trở ra đi-văng.

- Anh Davey ơi, Bonnie nói.

- Gì hả mèo con?

- Anh hôn em đi.

Davey hôn nàng. Rồi Bonnie uống từng viên thuốc một.

Gần nửa tiếng trôi qua trước khi Bonnie cảm thấy buồn ngủ. Davey đề nghị Bonnie vào phòng nằm. Bonnie nghe lời, lấy lọ thuốc gần hết, đi vào phòng. Mười phút sau Bonnie đã ngủ. Davey gọi nàng, nhưng Bonnie không động đậy. Davey lấy áo khoác, xuống đường. Ở tiệm thực phẩm nơi góc đường, Davey mua thuốc hút, sữa, bánh mì. Qua kính tiệm, Davey canh chừng lối vào nhà, hy vọng thấy mẹ của Bonnie đến. Nhưng không thấy ai cả.

Davey trở về nhà, gọi Bonnie thật lớn tiếng. Nàng ngủ say. Davey tự hỏi không biết có nên thay đổi kế hoạch, gọi điện thoại cho bà Daniels để bày tỏ nỗi lo âu, thúc bà tự mình đến xem hậu quả của sự cứng đầu của bà. Nhưng nếu lỡ bà không nhận thư? Hay, nếu có nhận, lỡ bà không chịu tin?

Davey định nhấc Ống nghe điện thoại, thì nghe tiếng chân bước ngoài cầu thang. Rồi tiếng gõ cửa nóng nảy.

Davey mở cửa và buộc phải nén một nụ cười đắc thắng. Chính bà mẹ của Bonnie, tóc tai bù xù, hoảng sợ, đúng như Davey đã mong.

- Con tôi đâu? Con gái tôi đâu?

- Bonnie hả? Davey vô tư trả lời. Nhưng Bonnie đang nghỉ. Dường như Bonnie đang ngủ. Con vừa mới về tức thì.

Bà mẹ bước đến phòng ngủ; khi bà đi ngang, Davey chụp lấy cánh tay bà.

- Sao vậy? Có chuyện gì?

Bà giận dữ liếc nhìn Davey, rồi lục trong túi áo bành tô, vứt lá thư cho Davey, rồi không nói tiếng nào chạy vào phòng.

Một hồi sau, bà hét lên. Tiếng hét đau đớn, quá khủng khiếp và kéo dài lâu đến nỗi Davey giật mình, mặc dù đã biết trước. Davey lao đến cửa phòng, thấy Bonnie nằm trong tay mẹ.

- Nó chết mất rồi! Bà gào lên.

- Bonnie chết rồi! Nó chết rồi! Chết!

- Không thể được, Davey đáp. Bonnie không thể chết được!

Davey chụp lấy lọ thuốc trên bàn kê ở đầu giường, nhìn nhãn lọ với nỗi sửng sốt y như thật và nói:

- Bác sĩ. Con sẽ đi gọi bác sĩ.

Bà mẹ vùi mặt vào ngực Bonnie; bà rên, bà khóc để tỏ nỗi đau lòng. Davey chạy ra điện thoại; ngón tay hầu như cứng đờ khi quay số. Giọng Davey vỡ ra khi yêu cầu xe cứu thương. Tự Davey khâm phục sự liều lĩnh của mình. Khi bỏ ống nghe trở xuống, Davey nhìn thấy người đàn bà ở ngưỡng cửa.

- Trễ quá, bà buồn rầu nói. Anh ra tay quá trễ...

- Chính tại bà! Davey nói với sự giận dữ trung thực. Chính bà đã dồn Bonnie đến nông nỗi này. Phải chi bà để em Bonnie được yên...

- Không phải tôi. Mà là anh. Bonnie làm thế vì anh.

- Kìa, Bonnie không chết mà!

Davey xô bà để vào phòng, bế Bonnie lên, xoa cổ tay vợ.

- Mèo con, dậy đi. Tỉnh lại đi em, ổn cả mà. Tỉnh lại đi mèo con.

Trong vòng tay Davey, Bonnie mềm nhũn và không phản ứng.

- Bonnie ơi, bây giờ em hãy tỉnh lại đi, Davey nói.

Đầu Bonnie lắc lư, rồi ngã vào Davey.

- Dậy đi em, Davey hoảng sợ nói lại.

Trời ơi, bây giờ hết rồi mà. Em phải dậy chứ.

Davey kéo một mí mắt lên, con ngươi lộn lại. Con mắt trơ trơ, vô hồn khiến Davey khiếp sợ. Davey kê miệng mình gần miệng Bonnie. Anh không cảm thấy gì cả. Không có cử động nào của cơ bắp, không có hơi ấm, không thấy hơi thở.

- Bonnie! Davey hét lên. Bonnie, em có chịu dậy chưa? Dậy đi!

- Để nó yên! Bà mẹ nói. Đến bây giờ anh cũng chưa chịu để nó yên sao?

- Bonnie không thể chết được. Trong lọ không có nhiều viên, Bonnie không thể uống nhiều được...

- Bonnie không cần uống nhiều. Vì nó bị tim. Nó chẳng cần uống nhiều...

- Bà nói gì?

- Bonnie từng bị thấp khớp lúc mười bốn tuổi. Từ đó tim luôn rất yếu.

Davey nhìn cái miệng xệ, tay mềm, đôi mắt mà không một lời năn nỉ nào có thể bắt phải mở ra được.

- Anh xin em, Bonnie ơi. Em phải tỉnh lại...

Rồi một tiếng sau, cả sau khi bác sĩ đi theo xe cứu thương đã nói lời phán cuối cùng, cả sau khi tấm vải đã che trên gương mặt còn xấu đi hơn trong cái chết, Davey vẫn còn năn nỉ khẽ:

- Bonnie ơi... Bonnie, dậy đi em.

*

* *

Bức thư đến một tháng sau đám tang. Davey đọc nội dung ngắn ngủi, cố tìm hiểu xem lời mời gọn gàng đó có nghĩa là gì.

Ông Snowden kính mến,

Xin mời ông đến dự cuộc họp ở văn phòng luật sư của tôi, Hallman và Wilcox, 70 WaLl Street, ngày 3 tháng tư, lúc mười giờ ba mươi.

Sự phỏng đoán đầu tiên của Davey là người ta muốn hại anh, một kiểu hại hợp pháp mà anh sẽ bất lực không làm gì để chống lại nổi. Nhưng bà già có thể làm gì? Bonnie đã chết rồi. Suy nghĩ thứ nhì của anh, rằng người ta sợ anh có đòi hỏi gì đối với khoản thừa kế của Bonnie, thì không hợp lý lắm. Davey đã nghiên cứu thật kỹ càng vấn đề này với luật sư Hellinger và Dowes, và luật sư đã khẳng định rằng Davey không có quyền gì đối với khoản thừa kế.

Thứ tư ngày 3 tháng tư, Davey mặc bộ vét đẹp nhất, kêu taxi đi đến văn phòng luật sư. Như Davey dự kiến trước, đó là những văn phòng rộng lớn, nhưng trang bị khiêm tốn. Ông Walter Hallman, đầu hói, bụng bự, rất lịch thiệp, ra đón Davey.

- Đi ngả này, ông Snowden à, bà Daniels đang ngồi trong văn phòng tôi và chờ anh.

- Có chuyện gì vậy? Davey căng thẳng hỏi. Tôi bị kiện à?

- Bị kiện hả?

- Không hề có chuyện đó.

Hallman cười khẽ.

Luật sư mời Davey vào. Mẹ của Bonnie ngồi trong ghế bành da, vẫn mặc đồ tang.

- Mời anh vào, anh Snowden à, bà nói bằng một giọng mệt mỏi. Sẽ nhanh thôi mà.

Luật sư ngồi sau bàn viết. Davey ngồi trên đi-văng, hai tay để trên đầu gối.

- Tôi không biết anh có tò mò về khoản thừa kế của con gái tôi không? bà Daniels hỏi. Nếu anh chưa biết, thì con gái tôi chỉ được hưởng khoản thừa kế của ông chồng quá cố của tôi khi được hai mươi mốt tuổi. Do con gái tôi đã mất, thì khoản thừa kế này đương nhiên thuộc về tôi. Nên anh cũng thấy là không nên trông mong gì.

- Tôi không hề trông mong gì cả, Davey bực bội nói.

- Anh tử tế quá. Tôi cũng biết thế mà. Tuy nhiên, anh Snowden à, việc anh đã cưới con gái tôi khiến tôi có một số... nghĩa vụ. Bởi vì dù tôi có thích hay không, và xin nói thật là tôi không hề thích, thì anh vẫn là con rể của tôi. Nhưng tôi nghĩ lại là nên có một cái gì đó đối với anh.

Tim của Davey đập mạnh lên.

- Cháu không hiểu.

- Anh đừng mệt óc mà suy nghĩ, bà xẳng giọng nói. Tôi không hề có ý định thưởng cho anh về những chuyện anh đã gây ra đối với tôi và con tôi. Tôi chỉ muốn có cái gì đó tặng anh. Vì con gái tôi.

Luật sư tỏ ra mừng rỡ.

- Bà Daniels đại lượng lắm...

- Anh im đi, anh Walter, tự tôi sẽ nói.

Bà liếc nhìn Davey.

- Anh Snowden à, anh có vẻ rất thích ngôi nhà cũ của chúng tôi. Anh biết tôi nói ngôi nhà nào chứ?

- Dạ biết.

- Xưa kia ngôi nhà đó rất có giá, nhưng ngày nay chắc không quá vài chục ngàn đô-la. Nhưng cho dù giá có thế nào đi nữa, thì ngôi nhà đó là của anh, anh Snowden à.

Davey tựa lưng từ từ vào ghế.

- Thật sao? Bác thật sự muốn cho cháu ngôi nhà à?

- Vài năm nữa, lẽ ra nhà đã thuộc về Bonnie. Tôi không cần ngôi nhà nữa. Anh có quyền sở hữu khu đất, ngôi nhà và tất cả những gì chứa trong đó.

- Tất cả à? Bác nói tất cả à?

- Đúng. Ông Hallman sẽ làm thủ tục đầy đủ. Tôi chỉ muốn thông tin cho anh thôi.

- Thật sao, thưa bác...

- Anh đừng cảm ơn tôi. Tôi có thể chịu được tất cả từ anh, ngoại trừ sự biết ơn.

Bà đứng dậy.

- Và tôi thật sự mong rằng chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau nữa, anh Snowden à.

Bà uy nghi bước ra cửa, ông luật sư chạy lon ton phía sau để mở cửa cho bà.

- Bây giờ, Hallman nói sau khi trở về chỗ ngồi phía sau bàn viết, ta hãy làm việc chi tiết.

- Thưa ông Hallman, ông cho phép tôi hỏi một câu được không?

- Anh cứ hỏi đi.

- Khi bà Daniels tuyên bố rằng tôi sẽ được tất cả... ừ thì, có một số chỗ trong nhà... ý tôi muốn nói là có những phòng bị khóa, những thứ như thế. Tôi sẽ được quyền lấy tất cả?

- Anh được quyền sở hữu cho đến miếng gỗ nhỏ nhất trong nhà, anh Snowden à. Tôi sẽ giao cho anh bộ chìa khoá đầy đủ. Bây giờ... ta hãy làm việc cụ thể nhé?

*

* *

Tối hôm Davey lên đường đi tham quan ngôi nhà mới của mình, mặt trời lặn nhuộm đỏ mọi cửa sổ của ngôi nhà cũ kỹ. Davey cho rằng màu đỏ như thế là dấu hiệu tốt...

Davey dừng xe ngoài lôi đi, lấy phong bì giấy chứa đầy những chìa khóa có dán nhãn. Davey lựa ra hai chìa cho vào túi áo, bước đến cửa, rồi vào nhà.

Không có gì thay đổi từ khi Davey đã đến lần trước. Davey nhìn lò sưởi lạnh ngắt, ghế đi-văng quay về hướng những ngọn lửa đã tắt từ lâu, nhưng anh không hề cảm thấy cảm động. Davey chỉ dành ba giây cho phòng khách rồi bước đi tìm một nơi hấp dẫn hơn nhiều.

Khi lên đến tầng cuối, Davey gần như bị đứt hơi. Cho dù đang trong bóng tối, Davey vẫn dễ dàng tìm ra cánh cửa khóa kín ở cuối hành lang. Davey mò mẫm một hồi với chìa khóa trong ổ rồi vui mừng thấy chốt khoá trượt ra: cánh cửa không còn là vật trở ngại nữa.

Davey lưỡng lự một hồi, cố chế ngự sự căng thẳng. Dù sao, vẫn có thể trong phòng đó không có gì quý giá cả, không có tiền, không có chỗ giấu nữ trang, không có kho báu.

Chỉ có một cách để biết bí mật của cánh cửa đóng kín. Davey mở cửa ra, bước vào.

Ngôi nhà là một pho tượng nhân sư, và cũng giống như tượng nhân sư, ngôi nhà im lặng. Nhưng sự im lặng đột nhiên bị phá vỡ bởi một tiếng hét xé tai, tiếng hét khàn khàn, khủng khiếp thường có trước những cái chết bất ngờ.

*

* *

Walter Hallman đã giữ vẻ mặt trơ trơ trong suốt thời gian trung úy cảnh sát có ở đó, nhưng khi cửa khép lại phía sau lưng viên cảnh sát, ông luật sư đứng dậy, đứng đối mặt với thân chủ, tay khoanh lại, mày nhíu.

- Bà đã nói dối cậu ấy, luật sư nói với bà Daniels. Bà biết rõ những gì bà làm khi tặng ngôi nhà cho Snowden.

- Đúng, tôi biết, bà trả lời. Ông định tố giác tôi hả, ông Walter?

- Dĩ nhiên là không! Nhưng dù sao, phải có một cái gì đó... ơ... như đạo đức.

Người phụ nữ nở một nụ cười yếu ớt.

- Tôi biết... Tôi biết là không có kho báu phía sau cánh cửa ấy, ông Walter à. Chỉ có sàn nhà mục nát, chính vì vậy mà chúng tôi đã phải khoá hẳn phòng này cách đây khoảng mười lăm năm. Tôi từng nói chuyện với ông chồng rất nhiều về cái phòng này. Tôi đã luôn nhắc là phải cho sửa sàn nhà lại, sợ có ai bị té từ độ cao nhô ra và đập đầu xuống lối đi. Nhưng chồng tôi đôi khi hà tiện một cách lạ lùng. Thế là chúng tôi khóa cánh cửa đó lại và không còn nghĩ đến nó nữa.

Bà lấy tách trà trên bàn.

- Đó là một ngôi nhà cũ kỹ buồn bã, đầy gió lùa anh Walter à. Nhưng anh biết không, đôi khi tôi tự nhủ ngôi nhà đó cũng được lắm.

Chương 2 - ĐIỂM RƠI

Donald Martin

ắn quan sát đám đông đang tụ tập tuốt phía dưới lề đường, với vẻ mặt tò mò chường. Đám đông đó đã trở thành một biển mặt người xôn xao, ngước lên nhìn hắn. Đám đông lớn nhanh, chiếm đầy con đường. Những kẻ mới đến vội vã tiến lên, nhanh như kiến, bị thu hút vào khối đông như biển sóng từ. Xe chạy ít nhiều bị nghẹt; kết quả là những tiếng bóp còi bực tức điếc tai. Nhìn từ tầng thứ hai mươi sáu, tất cả trông thật tội nghiệp, bí ẩn, khó tin. Tiếng động vang đến tai hắn rất yếu, nhưng không thể lầm về sự kích động mà hắn gây ra.

Hắn không thèm chú ý đến những gương mặt sửng sốt, giật mình vì ngạc nhiên, liên tiếp xuất hiện ở cửa sổ để nhìn hắn, miệng há to, hoặc để năn nỉ hắn. Đầu tiên là một nhân viên phục vụ thò dầu ra: anh ta nhìn hắn dò xét với vẻ mặt không đồng tình, nhăn mũi; rồi một nhân viên thang máy xuất hiện; tằng một giọng xẵng và khó chịu, anh ta hỏi thăm xem có chuyện gì.

- Vậy chứ anh nghĩ là chuyện gì? Hắn thản nhiên đáp và nhìn thẳng vào mặt nhân viên thang máy.

- Anh định nhảy hả? Nhân viên thang máy tò mò hỏi.

- Cút đi chỗ khác, gã đàn ông đứng trên mép ra lệnh.

Rồi hắn nhìn xuống đường. Lúc đó xe vẫn lưu thông bình thường; người ta chưa để ý đến hắn.

- Sau khi nhảy một cú như thế, chắc chắn anh sẽ không đi nổi trên hai chân nữa,

- Anh nhân viên thang máy nói rồi biến mất.

Một ít lâu sau, đến lượt ông phó giám đốc thò đầu qua cửa sổ; màn cửa bay phấp phới quanh gương mặt tao nhã, cạo râu kỹ và đầy phẫn nộ.

- Xin lỗi anh, vị phó giám đốc bắt đầu nói.

Gã đàn ông ra hiệu đuổi vị phó giám đốc đi.

- Anh đang nghĩ đến một cái gì đó hoàn toàn ngốc nghếch, ông phó giám đốc nói rất tự tin vì biết mình đang có lý lẽ rắn chắc.

Cuối cùng đến phiên ông giám đốc ra mặt. Ông giám đốc có gương mặt đỏ gay mập mạp. Trước tiên ông cúi xuống đường, sau đó ông xem xét từ đầu đến chân gã đàn ông đang đứng trên gờ một hồi lâu.

- Anh làm gì ngoài đó? giám đốc hỏi.

- Tôi sắp nhảy.

- Anh là ai? Tên anh là gì.

- Carl Adams. Còn lý do tại sao tôi hành động như thế không phải là việc của ông.

- Anh hãy suy nghĩ một chút đi chứ - giám đốc nói.

Cái nọng dưới cằm ông giám đốc rung lên trong khi ông nói chuyện và gương mặt ông càng đỏ hơn do ông nỗ lực để cúi ra cửa sổ.

- Tôi đã suy nghĩ rồi. Bây giờ ông cút đi chỗ khác và để tôi yên thân.

Gờ rất nhỏ hẹp - rộng khoảng bốn mươi lăm phân. Hắn đang đứng ngay ngoài nắng, lưng tựa vào tường, giữa hai cửa sổ, và không thể đụng đến hắn từ cửa sổ nào. Hắn đã bỏ áo vét lại bên trong, cổ áo sơ mi trắng để mở, trông hắn y như tội phạm sắp bị hành hình.

Những cái đầu lại tiếp tục thay phiên nhau hiện ở cửa sổ. Người ta nói chuyện với hắn thật bình tĩnh, người ta gọi hắn là "Ông Adams". Một số khác nói với giọng điệu hạ cố, như thể tin chắc mình đang nói chuyện với một kẻ điên khùng. Một bác sĩ, nhiều loại nhân viên khách sạn, một vị mục sư cứ nối tiếp nhau như thế.

- Sao anh không vào để ta thảo luận về chuyện này? Mục sư tử tế đề nghị.

- Không còn gì để nói nữa, Adams trả lời.

- Anh có muốn tôi bước ra và dẫn anh trở vào qua cửa sổ không?

- Nếu ông hay bất kỳ ai khác bước chân ra ngoài - Adams xẵng giọng đáp, thì tôi xin thề là tôi sẽ nhảy ngay.

- Anh không thể nói cho chúng tôi biết anh đang buồn chuyện gì sao?

- Không.

- Vậy thì làm sao chúng tôi giúp anh được?

- Ông không thể giúp tôi. Đi đi.

Suốt một hồi không còn ai đến cửa sổ nữa. Rồi gương mặt của một viên cảnh sát xuất hiện, nhìn hắn một hồi, với vẻ mặt khá vô sỉ.

- Chào ông bạn, viên cảnh sát nói.

Adams nhìn người cảnh sát, xem xét gương mặt ông một hồi.

- Anh muốn gì? Adams hỏi.

- Người ta gọi tôi lên. Người ta nói có một thằng trên kia doạ nhảy xuống. Anh không định nhảy thật chứ?

- Bản tính tôi thích làm những chuyện động trời.

- Anh có đầu óc khôi hài thật, viên cảnh sát nói.

Viên cảnh sát đẩy nón kết ra sau, ngồi trên bờ cửa sổ.

- Tôi thích vậy. Anh muốn hút thuốc không?

- Không, Adams nói.

Viên cảnh sát lắc bao thuốc để lấy một điếu, châm lên. Viên cảnh sát hít thật mạnh, rồi phì khói ra nắng, khói thuốc bị gió thổi bay:

- Anh biết không, hôm nay đẹp trời thật.

- Một ngày đẹp trời để chết - Adams nói và nhìn thẳng vào mặt người cảnh sát.

- Sao anh bi quan thế. Anh có gia đình không?

- Không. Còn anh?

- Tôi có vợ.

- Còn tôi, tôi không có ai.

- Tiếc quá.

- Phải, Adams trả lời.

Cũng cách đây chưa lâu lắm, mình có một gia đình, hắn nghĩ. Thật, ngày hôm qua vẫn còn... Sáng hắn rời khỏi nhà để đi làm và Karen đã từ giã hắn ở cửa mà không hôn hắn, theo thói quen của nàng; cuộc hôn nhân của hai người đã trỏ thành một cuộc chung sống không có nụ hôn, nhưng Karen vẫn là vợ hắn, khi đó hắn vẫn chỉ yêu một mình nàng, và yêu mãi mãi; hắn sẽ không bao giờ chịu ly dị; (mặc dù nàng có nói rằng thế nào rồi nàng cũng sẽ bỏ hắn, nhưng hắn đã rất cương quyết về điểm này). Rồi đến sáu giờ tối, khi trở về nhà, hắn không còn vợ nữa, không còn tình yêu, không còn gì, chỉ mỗi cái lọ thuốc ngủ trống không, lá thư ngắn và căn hộ im lặng... và thi thể Karen nằm trên giường.

Nàng đã bỏ lại thư trên gối của hắn. Thư được viết rất kỹ, có suy nghĩ, để giải trình với hắn. Steve đã báo cho nàng biết rằng không thể ra đi cùng nàng. Steve đã lừa nàng. Nàng đã nói ra thẳng thắn, trắng trợn, sống sượng như vậy đó; nàng có thể nói với hắn về Steve như thế, và hắn sẽ hiểu - như hắn đã hiểu từ mấy tháng nay rồi. Hắn đã từng thấy hai người đi chung với nhau ở một quán cabaret gần nhà. Về phía Karen, không hề có gì giấu giếm cả. Nàng đã nói với hắn rằng cuộc hôn nhân của nàng và hắn chấm dứt và đã không giấu diếm nói về Steve.

Tối hôm đó, hắn đã ra ngoài và đi bộ trên đường phố cho đến sau mười hai giờ khuya, rồi hắn về nhà ngủ. Khi thức dậy buổi sáng, hắn hiểu ngay rằng hắn đã quyết định xong, rằng hắn sẽ thực hiện kế hoạch. Hắn đã đi bộ đến khu thành phố này, làm thủ tục ghi danh vào khách sạn, xin một phòng gần mái nhà. Hắn biết rằng sau đó mọi thứ sẽ diễn ra một cách hết sức tự nhiên.

Bây giờ đường phố đen nghẹt người - đông đúc những người há hốc hiếu kỳ, thích thú với cái chết. Cảnh sát đã buộc đám đông lui lại và đã tạo thành một khoảng trống ngay phía dưới hắn, phòng trường hợp hắn sẽ nhảy lầu. Hắn thấy lính cứu hoả với cái tấm hứng bằng vải hình tròn như cái bánh, với cái vòng tròn đỏ ngay chính giữa, nhưng hắn biết rằng tấm hứng này vô ích đối với một người rơi từ tầng hai mươi sáu xuống. Những người muốn giúp hắn không có cách nào để làm chuyện này. Thang của lính cứu hoả không đủ lên cao. Một gờ tường nhô ra ngay phía trên hắn không cho phép thử cứu hắn từ ngả đó.

- Điều anh làm thật vô ích và điên rồ, người đàn ông cúi qua cửa sổ nói.

- Đó là quan điểm của anh - Adams trả lời.

- Anh này, tôi là bác sĩ, người đàn ông hối thúc. Tôi có thể giúp anh.

- Để nhốt tôi vào bệnh viện tâm thần à?

- Không phải vậy đâu, anh Adams à, tôi xin hứa với anh.

- Bây giờ đã quá trễ rồi.

- Nếu anh nhảy, thì lúc đó mới quá trễ. Bây giờ vẫn còn kịp.

- Anh nên đi lo cho một người thật sự cần đến anh, bác sĩ ơi. Còn tôi, tôi không cần anh.

Bác sĩ biến mất. Adams nhìn kỹ đám đông bu lại phía dưới. Hắn có một cảm giác lạ lùng, rất đặc biệt, cảm giác hắn là một người ngoài lề, bởi vì suy nghĩ về cái chết đã tạo nên một cái hố giữa hắn và những người khác. Bây giờ hắn đã khác hẳn họ, hắn cô đơn và tách biệt. Tất cả những người ở dưới đang chờ đợi và chờ đợi. Vậy sẽ đáng công họ chờ đợi. Còn những người trong phòng, hắn nghe họ thảo luận với nhau, bàn bạc, âm mưu, lên kế hoạch, tìm cách dụ dỗ hắn, có lẽ đang cuống cuồng gọi điện thoại cho các chuyên gia về tự vẫn.

Hắn liếc nhìn về hướng cửa sổ: có một gương mặt quay nhìn hắn. Đó là ông mục sư, một người mặt tròn, thật thà, rõ ràng rất lo lắng.

- Có diều gì chúng tôi có thể làm cho con không? mục sư hỏi.

- Không, hắn trả lời.

- Bây giờ con có chịu trở vô không?

- Cha đang phí thời gian, thưa cha.

- Cha không phí thời gian.

- Có. Con không có ý định quay trở vào.

- Con có muốn mọi người để con yên để suy nghĩ không?

- Tùy cha.

Đầu mục sư biến mất; hắn còn lại một mình. Hắn quan sát đám đông, nhưng lần này ánh mắt để lộ vẻ hơi buồn cười. Hắn đã hơi sợ độ cao khi mới tiến bước đầu tiên trên gờ. Bây giờ độ cao không làm phiền hắn nữa. Hắn đã quen với những toà nhà mọc cao xung quanh.

Hắn tự hỏi không hiểu người ta áp dụng phương pháp cứu hộ phức tạp nào: dây, thang, lưới, ghế treo. Họ sẽ phải vô cùng thận trọng, vì họ không biết tâm trạng hắn hiện như thế nào.

Người cảnh sát tái xuất hiện đúng như dự kiến, Adams đã tỏ ra thân thiện với viên cảnh sát hơn bất cứ ai khác; nên người cảnh sát thử thuyết phục hắn lần nữa là chuyện bình thường.

- Anh Adams ơi, viên cảnh sát nói tự nhiên và lại ra ngồi trên thành cửa sổ, xét theo một kiểu, thì anh đang giúp ích tôi.

- Bằng cách nào?

- Thì, bình thường tôi phải ở dưới điều khiển giao thông. Vậy mà nhờ anh, tôi được yên thân trên này.

- À, vậy sao?

- Đúng.

- Anh ở trên này thì đã sao nào? Dù sao, dòng xe chạy cũng bị tắc ở dưới rồi.

Viên cảnh sát phá lên cười.

- Anh nói đúng. Đám người ở dưới kia - người cảnh sát nói tiếp và chỉ đám đông, đang mong chờ anh nhảy xuống. Họ đang thích thú với ý nghĩ sẽ được chứng kiến chuyện này.

- Thích thú hả? Adams hỏi lại và nhìn người cảnh sát.

- Dĩ nhiên. Họ đã quyết định rằng anh sẽ nhảy và họ muốn được xem. Anh sẽ làm họ thất vọng sao?

Adams cúi đầu; ánh mắt hắn nhìn qua những người đã tụ tập trong một khoảng dọc suốt nhiều toà nhà.

- Tuốt trên này, anh không thể nghe họ, người cảnh sát nói tiếp, nhưng họ gào thét kêu anh nhảy.

- Thật sao?

- Ừ, ừ. Họ nghĩ anh phải làm thế vì họ - sau khi bắt họ đứng chờ suốt buổi chiều.

- Y như bầy sói đói, Adams nói.

- Chính xác. Anh từ giã cuộc đời chỉ để làm cho họ rùng mình một chút sao?

Viên cảnh sát dò xét mặt Adams, và nghĩ là đã phát hiện một thoáng do dự.

- Thôi, anh trở vào đi, người cảnh sát thản nhiên nói. Cho bỏ ghét bọn người dưới kia.

- Có thể anh nói đúng.

- Đương nhiên rồi.

Adams choáng váng, lưng hắn xa tường một hồi, rồi hắn ngã trở ra phía sau và, trong giây lát, hắn dùng tay che mắt.

- Anh làm sao thế? Người cảnh sát hỏi.

- Chắc tôi hơi bị chóng mặt. Có lẽ anh nên đưa tay cho tôi.

Người cảnh sát liếc nhìn phía bên kia đường, trên mái nhà đối diện, có những tay phóng viên đang chĩa máy chụp hình. Sẽ thật là giật gân trên báo sáng mai.

- Được rồi, người cảnh sát nói. Anh chờ tôi.

Từ đám đông hiếu kỳ vang lên tiếng ồn ào kích động khiếp sợ khi thấy người cảnh sát trèo qua cửa sổ, đứng trên gờ, chỉ cách gã đàn ông mặc sơ mi trắng đứng yên có vài bước. Họ nhìn thấy người cảnh sát thận trọng bước dọc theo gờ, cánh tay dang ra.

Adams chìa tay về phía tay cảnh sát.

- Tôi biết thế nào anh cũng lên đây, hắn nói. Chính vì vậy mà tôi đã chọn chỗ này.

- Cái gì? Người cảnh sát nói và đang cố giữ thăng bằng trên gờ nhỏ hẹp.

- Tên tôi không phải là Adams, anh Steve à. Karen là vợ tôi. Anh có biết rằng tối hôm qua nàng đã....

Nỗi kinh hoàng hiện trên mặt người cảnh sát trong khi anh cố gắng lùi lại, nhưng bàn tay anh cảnh sát đã nằm chặt trong tay gã đàn ông kia; sau đó có cú giật mạnh và cái đẩy choáng váng, tiếp sau là cú bẻ. Người cảnh sát bắt đầu ngã nhẹ nhàng xuống khoảng không về hướng tiếng hét tăng dần của đám đông. Cảm giác cuối cùng của người cảnh sát là cái bàn tay cứng ngắc bấu lấy tay anh như cái kẹp.

Chương 3 - BỘ ÁO GIÁP CỠ 36

Bryce Walton

ần đầu đầu tiên Morris Slater gặp Joe Scudmore là vào một buổi sáng thứ hai, lúc mười giờ mười lăm. Vào buổi chiều cùng ngày hôm đó, lúc hai giờ, Slater gặp lại Scudmore, rồi vào lúc hai giờ hai mươi, Slater quyết định giết Scudmore. Một người gặp một người khác mà lại căm ghét đến nỗi nhất định thủ tiêu người đó bốn giờ năm phút sau đó, thì đây là chuyện cần phải giải thích thêm.

Slater đến nhà riêng của đại tá de Kalb lúc mười giờ sáng, như ông vẫn thường đến rất đúng giờ từ mười ba năm nay, ngoại trừ ngày chủ nhật và những ngày ông bị bệnh. Như thường lệ, ông bước vào bằng cửa sau. Với tư cách là thư ký riêng của đại tá de Kalb, lẽ ra Slater được phép vào cửa chính, nhưng Slater thích qua cửa nhỏ hơn, để không bị để ý và cũng để đám gia nhân đừng ganh tị.

Hôm đó là một buổi sáng trời xám xịt và có mưa nhỏ. Khi đút chìa khoá vào ổ, hình bóng gầy nhom của Slater run rẩy như một chú chim ướt nhẹp trở về tổ. Trong sương mù, ngôi nhà riêng trông giống một lâu đài thời trung cổ hơn bao giờ hết. Vào những ngày như thế, khi đang ở trong phòng áo giáp gần lò sưởi lớn, Slater cảm thấy mình cách ly khỏi thế giới bên ngoài và hoàn toàn có cảm giác như đang sống ở thế kỷ thứ XV, Vừa mới đến, Slater đi ngay đến chỗ để bộ sưu tập dao găm mà đại tá de Kalb vừa mới mua. Slater phân loại các dao găm trở lại trong một tủ kính mới, tùy theo sự tiến triển qua các thế kỷ.

Slater vừa mới mở cửa, thì có tiếng leng keng mạnh, xuất phát từ dưới sân. Tiếp theo là tiếng chửi thề, rồi tiếng cười the thé chế giễu. Slater phân vân một hồi, rồi bước nhanh qua lớp sương mù dày và bị chặn đường bởi một chiếc xe tải đang de lui để đậu dọc bên cánh trái ngôi nhà, trước cửa hai cánh dẫn vào phòng áo giáp.

Slater lưỡng lự bước đến phía sau xe.

Một người đàn ông vạm vỡ, mặc áo vét da đen, đang lượm từ dưới bùn lên tâm ngực của một bộ áo giáp, ném lên xe với tiếng kêu khủng khiếp. Một người khác đang loạng choạng khiêng phần còn lại của bộ áo giáp, xà cạp, rồi mảnh che tay lần lượt sút ra, rơi xuống đất. Sau đó đến phiên bao tay sắt, các khớp tay văng rải rác trên nền xi măng ướt. Hai người đàn ông càu nhàu lượm lên, ném lộn xộn vào thùng xe.

Một cơn hoảng sợ quá mạnh và quá đột ngột khiến Slater lao nhanh đến. Slater toan giật cái bao tay sắt từ tay gã đàn ông mặc vét da:

- Đưa cho tôi cái này, Slater hổn hển nói. Đã bảo đưa tôi!

Gã đàn ông mặc vét da to con như lực sĩ. Hắn phóng vào Slater, giật lại bao tay, miệng chửi thề lớn tiếng. Slater như bị bắn vào không gian, đụng mạnh vào cột nhà có khía.

- Thằng này bị làm sao vậy? gã đàn ông vét da vừa nói vừa nhìn chằm chằm Slater qua sương mù.

Gã đàn ông kia cười khẩy. Rồi một gã đàn ông thứ ba, cao lớn, mũi khoằm, xuất hiện ở cửa, hai tay ôm đầy gươm và kiếm. Slater hoàn toàn lúng túng loạng choạng tiến tới:

- Anh làm gì ở đây?

- Mày đừng nhúng mũi vào, đồ gầy nhom!

- Tôi sẽ gọi cảnh sát! Slater nói.

- Mày có chịu để bọn tao yên không?

- Tôi là thư ký của đại tá de Kalb.

- de Kalb hả? Không biết!

Slater chụp lấy tay cầm của một thanh gươm. Cả đống gươm đang khiêng rơi xuống nền xi măng trong tiếng leng keng khủng khiếp.

- Mày sẽ biết tay tao, đồ nhỏ con - gã đàn ông mặc vét da la lên.

Rồi hắn chụp lấy cổ áo Slater kéo lên khỏi mặt đất ba mươi phân.

Slater nhớ lại cả một cuộc đời nhẫn nhục và lo sợ, và dập tắt mọi ý định chống cự trong bụng. Slater lắc lư như một cái bị ướt nhẹp, lủng lẳng ở cổ tay gã đàn ông.

- Xin ông hãy bỏ tôi xuống đất trở lại, Slater rên rỉ.

Gã đàn ông vét da đẩy Slater tựa vào cột.

- Trời ơi, nhưng mày có chuyện gì vậy? Gã đàn ông hung hăng hỏi.

- Có phải đại tá de Kalb gọi các ông đến đây không?

- Đã bảo là không quen biết gì tay de Kalb của mày mà! Sao mày cứ kiếm chuyện với bọn tao?

- Nhưng đây là nhà của đại tá de Kalb mà! Slater kêu.

- Chưa bao giờ nghe nói đến tay này - gã đàn ông mặc vét da lập lại.

Rồi hắn nói với đám bạn:

- Làm việc tiếp đi. Phải dọn xong đống này trước bốn giờ!

*

* *

Slater chạy nhanh trong hành lang dài. Sương mù bên ngoài đã tràn ngập vào phòng. Các bộ áo giáp nằm trên nền đan đá, như những xác chết, và thùng gỗ chất đầy dưới đất. Một người trèo trên thang đang lột những cây kích và những tấm chắn treo trên tường.

Slater bắt đầu toát mồ hôi dữ dội. Slater cố gắng nén đi cảm giác nghẹt thở, rồi đến phòng làm việc, chạy giữa hai hàng áo giáp trong một hành lang chật hẹp. Cửa văn phòng khoá. Slater mở ra, bước vào và thoáng cảm thấy nhẹ nhõm. Bộ áo giáp gôtic đen thời 1460, mà đại tá de Kalb đã tặng cho Slater để cảm ơn công lao trung thành của Slater, vẫn còn đứng trong góc phòng, cạnh bàn viết. Bộ áo giáp như đang nhìn Slater qua khe mắt. Hai bàn tay Slater sờ soạng khắp bàn viết như hai con chim đỏ. Không có thư nhắn của đại tá. Bàn viết vẫn y như lúc Slater về sáng thứ bảy.

Slater hấp tấp chạy ra, leo lên một cầu thang xoắn ốc, trở xuống một tiền sảnh khác hơi tối, gõ vào cửa gỗ sồi hai cánh dẫn vào phòng làm việc của đại tá, gõ khẽ mặc dù đang hoảng hốt.

- Vào đi! Một giọng khàn khàn trả lời, không phải giọng đại tá de Kalb.

Slater bước vào, khép nhẹ cánh cửa lại, nhìn khắp phòng, nhìn các tấm lát tường bằng gỗ sồi đánh bóng, nhìn các dãy kệ sách, các tấm vải treo tường, nhìn những vách tường có treo kích, dao găm, mã tấu, mâu, thanh lao, ngọn giáo có trang trí lông vũ và chùy lởm chởm mũi nhọn. Slater sửng sốt thấy ngay giữa phòng một người khổng lồ hai tay áo sơ mi xắn lên trong tư thế người chơi gôn, tay cầm gậy đánh gôn. Người đàn ông này chỉ liếc nhìn Slater thật nhanh, vì đang bận đánh banh vào lỗ hở của cái mũ chiến không có lưỡi trai đặt dưới đất.

- Anh là Slater phải không? Người đàn ông nói.

- Đúng, Slater trả lời.

Slater càng thu mình lại hơn nữa trước vóc dáng đồ sộ của người đàn ông trông như cựu vô địch bóng đá. Người này cân nặng ít nhất một trăm hai chục ký và cao gần hai mét. Slater tự giới thiệu:

- Tôi là Morris Slater, thư ký của đại tá de Kalb.

Rồi Slater nhìn hai cổ tay của người khổng lồ đang cầm gậy gôn - những cổ tay to bằng chân của chính Slater - với các ngón tay phủ đầy lông đen, gương mặt vuông vức như hình dáng, tóc mọc sát xuống trán...

- Còn tôi là Joe Scudmore. Chắc là anh đã nghe nói đến chúng tôi rồi chứ. Chúng tôi có mặt ở đây vì việc cầm cố của đại tá.

- Tôi cần gặp đại tá de Kalb, ngay lập tức.

Scudmore đánh một quả banh khác. Banh lăn trên thảm, ngoan ngoãn rơi vào cái miệng há to của chiếc mũ chiến.

- Westside Chapel, Scudmore nói. Đại tá sẽ ở đó cho đến sáng mai.

Scudmore quay lại trong khi cổ họng của Slater thốt ra một âm kỳ lạ.

- Xin lỗi anh bạn, nhưng tôi tưởng anh đã biết chuyện.

- Biết chuyện gì? Slater hỏi.

- Bộ anh không đọc báo sao? Anh không xem truyền hình sao?

Slater lắc đầu từ từ, vẫn nhìn chằm chằm gương mặt to rộng của Scudmore.

- Phải, lão già tội nghiệp bị cơn nhồi máu cơ tim và chết hôm chủ nhật, lúc khoảng một giờ sáng.

Slater ngã sụp, gần như biến mất, xuống một ghế bành bằng da đen.

Scudmore nhắm một quả banh thứ ba, chỉnh tư thế lại.

- Xin chia buồn cùng anh. Tôi hiểu đây là cú sốc đối với anh. Anh làm việc cho đại tá từ mười ba năm nay, đúng không?

- Gần mười bốn năm, Slater trả lời bằng một giọng xa vời.

- Vậy anh uống một ly đi, Scudmore vừa nói vừa vẫy tay về hướng một chai whisky trên bàn viết. Lão già trữ rượu ngon lắm!

- Cám ơn, tôi không quen uống rượu, Slater nói.

Slater nhìn chằm chằm một hồi quả banh lạc trên thảm, rồi đột ngột quay đầu đi. Vách tường mà Slater đang nhìn nhoà đi. Cuối cùng, Slater hỏi không rõ:

- Thế còn bây giờ, thưa ông Scudmore?

- Bây giờ hả?

Scudmore quay lại, chau mày nhìn kỹ Slater.

- Anh bạn này, anh đừng buồn. Có gì phải lo đâu? Sau khi làm việc cho một người như đại tá de Kalb, anh có bao nhiêu kinh nghiệm. Ngày mai, anh ghé qua ngân hàng đi, thế nào chúng tôi cũng tìm ra một chỗ cho anh mà!

- Bộ sưu tập riêng của đại tá! Họ mang đi tất cả! Slater rên rỉ.

Scudmore đá một cú vào mũ chiến, khiến cái mũ sắt lăn trên thảm, va vào tường. Rồi Scudmore tự rót thêm một ly whisky mới, đứng đó tò mò quan sát Slater.

- Ừ, bọn tôi làm việc nhanh lắm!

Scudmore hít thở thật sâu, ra cửa sổ nhìn ra ngoài.

- Hai tuần nữa sẽ dọn xong đống đá cũ mốc này. Slater à, anh có biết cái gì sẽ mọc lên chỗ này không? Một cao ốc căn hộ hiện đại. Ba mươi lăm tầng. Mỗi phòng tám chục đô-la. Có sân thượng riêng để tắm nắng. Còn ngay phía trên cùng là một siêu thị.

- Nhưng đại tá de Kalb đâu muốn thế!

Scudmore từ từ quay lại, nhíu mày:

- Chuyện gì nữa đây?

- Đại tá đã nói điều này với tôi nhiều lần, ông Scudmore à. Đại tá muốn nhà này trở thành viện bảo tàng. Và tôi... tôi sẽ quản lý nhà bảo tàng.

Scudmore đi vòng qua bàn viết, đến gần Slater.

- Tôi rất mến đại tá, Scudmore nói. Nhưng lão là một người kỳ quặc. Anh có hiểu ý tôi không? Say mê mấy thứ thời trung cổ. Ngày nay ai thèm quan tâm nữa? Ta hãy nhìn thẳng vào sự việc: nếu mở viện bảo tàng ở đây, thì sẽ có bao nhiêu thằng khùng đến tham quan? Chắc chắn là sẽ không có ma nào! Thật là phí! Sẽ nhanh chóng phá sản thôi!

- Nhưng không đời nào đại tá lại muốn như thế, Slater la lên.

Slater tháo mắt kính ra chùi.

- Những gì anh làm thật là thô lỗ và đáng xấu hổ, Slater nói thêm rồi quay đầu đi.

Gương mặt to tướng của Scudmore chuyển đỏ. Scudmore lùi lại, tựa vào bàn viết.

- Tôi hiểu, Scudmore nói, tôi hiểu rằng anh mất một miếng rất ngon tại đây. Có phải ý anh nói vậy không?

Hoảng sợ vì đã không kiềm mình, Slater nói tiếp bằng một giọng phục tùng trở lại:

- Đúng, đúng, thưa ông Scudmore! Tôi rất thích công việc ở đây. (giọng Slater hơi nghẹn ngào.) Đó là cả cuộc đời tôi.

Scudmore uống một hớp hết ly rượu, với một vẻ thản nhiên.

- Anh bạn ơi, chuyện đó dễ thương lắm, nhưng phải suy nghĩ thực tế một chút chứ. Hai hécta đất ngay giữa trung tâm thành phố! Lãng phí tiền thuê để khu đất này lên mốc lên meo chỉ vì đông sắt cổ như thế thật là ngu xuẩn! Anh phải hiểu sự thật chứ.

Slater không dám có lời nhận xét nào.

Scudmore uống thêm một ly. Mặt mày đỏ gay, Scudmore đi đi lại lại trong văn phòng, trong tình trạng phấn khởi tột độ, rõ ràng rất tự mãn.

- Tôi đã khổ công lắm, anh bạn à, nhưng tôi đã cho chất xám làm việc. Tôi đoán trước rằng lão đại tá sẽ không còn sống bao lâu, nên tôi đã tiến hành moi thông tin cô con gái lão. Anh biết không, lão để lại hết cho con gái. Lão đại tá không hề viết di chúc giấy trắng mực đen rằng ngôi nhà này phải trở thành viện bảo tàng. Lão chỉ muốn con gái được thừa hưởng ngôi nhà, anh có hiểu không? Lão để cho con gài tùy ý hành động: lão tưởng rằng con gái nghĩ giống lão về chuyện bảo tàng.

Scudmore lại chụp lấy chai whisky.

- Slater à, thật ra, cô con gái bị nổi da gà trong căn nhà này. Có bao nhiêu người cha thật sự hiểu con mình? Anh thử nghĩ xem! Khi tôi nói với cô gái kia một toà nhà ba mươi lăm tầng với siêu thị trên cùng sẽ mang lại bao nhiêu lãi, thì không còn chuyện bảo tàng nữa. (Scudmore phá lên cười.) Đúng, hoàn toàn không còn chuyện đó nữa!

- Tôi hiểu rồi, Slater nói rồi đứng dậy.

Bàn tay to của Scudmore xà xuống vai ông thư ký, trong khi ông đi ra cửa.

- Phải suy nghĩ như thế đấy, anh bạn ơi! Phải tiến theo thời đại mình chứ! Ngày mai, anh cứ ghé qua ngân hàng gặp tôi. Thiếu gì việc làm, kể cả đối với với một người có kinh nghiệm như anh.

*

* *

Ngồi trong văn phòng nhỏ của mình ở tầng dưới, Slater hoài công cố không nghe tiếng ồn ào khó chịu xuất phát từ tầng trên đang bị giao cho sự tàn phá phạm thượng của đám công nhân dọn nhà. Slater cảm thấy kiệt sực, thần kinh sắp suy sụp; Slater cảm giác như có luồng gió lạnh thổi xuyên qua mình. Mỗi cú búa gõ làm Slater giật mình, như thể bị giật điện. Và tiếng ồn cứ tăng dần, tạo cho Slater cảm giác đang ở trong một toà nhà to lớn sắp sụp đổ.

Đột nhiên Slater cảm thấy cô đơn khủng khiếp và gọi điện thoại về nhà.

- Selma hả?

- Anh Morris ơi, anh bệnh hả? Anh bị cảm lạnh rồi hả?

Đây là lần đầu tiên, Slater gọi điện thoại về cho vợ trong ngày.

- Selma ơi, đại tá de Kalb chết rồi. Hôm sáng chủ nhật.

- Sao! Ôi! Anh yêu!...

- Và đại tá đã không... ý anh nói ngôi nhà sẽ không trở thành nhà bảo tàng. Người ta đang dọn dẹp mọi thứ đi.

- Mong sao Chúa phù hộ cho linh hồn đại tá! Đại tá là người rất tốt. Nhưng theo một kiểu, thì em rất mừng!

- Kìa Selma!

- Từ nay anh sẽ về nhà đúng giờ hơn, anh sẽ sống như một người bình thường, có việc làm đàng hoàng. Em đã chán có chồng là một cái bóng rồi.

Trước khi gác máy xuống, Slater nghe tiếng kính vỡ phía trên lầu. Có lẽ là một tủ kính, có lẽ tủ chứa bộ sưu tập dao găm. Và bộ áo giáp gôtic năm 1460 như bắn những ánh nhìn buộc tội đến Slater qua khe mắt đen.

Slater đứng dậy, đến ngồi cạnh bộ áo giáp, nhìn thẳng vào mắt bộ áo giáp. Suốt một hồi, Slater không nghe tiếng động nào. Sự im lặng dễ chịu này khiến Slater nhớ lại lúc Slater đã ngồi xuống lần đầu tiên bên bộ áo giáp này, mười bốn năm trước đây, khi Slater bắt đầu làm việc cho đại tá de Kalb.

* * *

Morris Slater có một đặc tính chung cho tất cả những kẻ sát nhân: trông Slater như không thể nào dùng đến bạo lực, kể cả bạo lực dưới hình thức nhẹ nhất. Lúc mười bốn tuổi, Slater cao một mét năm mươi và cân nặng năm mươi hai ký. Từ đó, ba chục năm đã trôi qua mà trong đời Slater không có sự kiện quan trọng nào khác ngoài việc tăng cân một ký và thấp xuống nửa phân.

Slater không những nhỏ mà còn gầy yếu - gần như mảnh yếu như một chú chim, với làn da mỏng đến nỗi lộ rõ gân. Slater ăn mặc sạch sẽ nhưng theo một cung cách tẻ nhạt khiến như hoà lẫn vào những gì nằm xung quanh. Cách nói chuyện của Slater cũng bình thản và kín đáo. Một từ có thể xác định nhân cách của Slater: thận trọng.

Không một ai nghi ngờ Slater che giấu tính khí thật của mình. Người mẹ quá cố của Slater có thể nói về vài cơn bạo lực của con trai lúc còn nhỏ. Nhưng không bao giờ có ai quan tâm đến Slater, cả lúc còn nhỏ.

Bạn bè cùng trường, từng tiễn cậu bé Slater chảy máu mũi về nhà cùng tiếng la ó trêu chọc, có thể kể lại những cơn thịnh nộ tức giận bất lực của Slater chống lại sự nhục nhã. Nhưng ai thèm đi hỏi lời chứng của chúng?

Vợ của Slater, cao lớn và mạnh mẽ hơn Slater, đã lấy Slater chỉ vì khiếp sợ đàn ông to con. Và chính Slater cũng cảm thấy an tâm trước hình dáng đồ sộ hơn của vợ. Bà vợ biết những cơn thịnh nộ đôi khi xảy ra của chồng nhưng chỉ cười: bà biết những cơn giận này vô hại. Khi bà vợ nhận thấy sắp có triệu chứng của một cơn giận, bà chỉ đẩy Slater xuống tầng hầm, khoá cửa thật kỹ nhốt dưới đó. Còn lại một mình, Slater ném xuống đất hoặc đá văng những đồ vật mà Selma đã cố tình để đó; bởi vì bà rất giỏi tìm đủ thứ cách để trấn an chồng. Thế là Slater sống tách biệt một thế giới mà ông hận thù, mà dần dần ông đã đi đến mức căm ghét và sợ nó. Slater không chịu thích nghi với một nền văn minh có các giá trị được biểu trưng bởi toà Empire State Building và những phát minh mới nhất của General Motors.

Nhưng khi Slater đến làm việc ở nhà đại tá de Kalb, một tấm màn đã rơi xuống giữa quá khứ và chính ông. Cuối cùng Slater sẽ được biết một cuộc sống mới, một cuộc sống hạnh phúc. Ngay từ ngày làm việc đầu tiên ở nhà riêng của đại tá, Slater kiểm kê tất cả những gì chứa trong nhà. Ông đã đứng cạnh bộ áo giáp gôtic năm 1460 và nhanh chóng nhận thấy rằng chiều cao của khối sắt đáng sợ đó chỉ vượt hơn chiều cao của chính Slater có hai phân. Phản ứng đầu tiên của Slater là cho rằng bộ áo giáp là đồ giả. Slater đặt câu hỏi đại tá và đại tá trả lời:

- Anh hãy nhìn các bộ áo giáp khác. Ngoại trừ vài trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, người thời đó rất nhỏ, nhất là người Pháp và người Ý, là những người đã chế tạo ra phần lớn các bộ áo giáp này. Tôi nghĩ trung bình họ không cao quá một mét năm mươi. Còn phụ nữ còn thấp hơn nữa. Nếu anh nhìn được họ tập trung ở Triều Đình, có thể anh sẽ tưởng họ là người lùn.

Slater hân hoan trở về phòng trưng bày các bộ áo giáp. Slater tiến hành xem xét thật kỹ từng bộ áo giáp, bắt đầu từ bộ áo giáp cổ xưa nhất, một bộ áo giáp thời hậu La Mã năm 650. Rồi đến phiên bộ áo giáp dân tộc Franc năm 850, bộ áo giáp Roman năm 1050, áo giáp lưới sắt năm 1250, bộ áo giáp chuyển tiếp năm 1350, những đồ vật năm 1440 và 1460, đến bộ áo giáp của hoàng đế Maximilien, và hai bộ mới nhất - một bộ áo giáp trọn vẹn năm 1535 và một bộ áo giáp bán thân năm 1650.

Ngoại trừ hai bộ, Slater có thể mặc bất cứ bộ áo giáp nào, như thể áo đã được rèn riêng cho Slater!

Vào thời đại hạnh phúc đó, người cao lớn gần giống như một con thú kỳ lạ!

Có thể khẳng định rằng từ lúc đó, Slater sống một cuộc đời hạnh phúc thích hợp với nhân cách, mặc dù hoàn toàn phụ thuộc vào đại tá de Kalb. Suy nghĩ hận thù và cay đắng nhường chỗ cho sự chấp nhận số phận. Chỉ là do Slater ra đời quá trễ vài thế kỷ, thế thôi! Thời xưa, Slater có thể là một vị anh hùng, một hiệp sĩ điển hình, một nhà vô địch cưỡi ngựa thi đấu thương... Slater có thể đấu giáo với những người giỏi nhất rồi được người hát rong ca ngợi chiến công thi đấu trong những bản hùng ca.

Dù sao, Slater vẫn trở thành nhà vô địch quản lý viện bảo tàng. Chẳng bao lâu, từng bộ phận áo giáp sáng bóng như crôm đánh bóng. Không thể tìm ra một hạt bụi. Những bản lề hay dây cu-roa hư được thay thế hết sức kỹ lưỡng, để sao cho giống y bản gốc. Nước gỗ dùng để thay những phần bị mục của báng súng bắn tên cũng giống y gỗ cũ. Slater chà bóng phần sắt của các cây giáo và lưỡi gươm thời năm 200 trước công nguyên. Rồi Slater treo vào các tấm trải tường Pháp những tấm chắn da dạng: khiên hình ê-líp, khiên tròn có mũi nhọn...

Sự thật đương thời không còn làm cho Slater đau khổ nữa. Ngoài những chuyến đi hằng ngày bằng xe buýt để đi làm, ngoài vài buổi tối và ngày chủ nhật ở cùng Selma, thế giới hiện đã không còn tồn tại đối với Slater nữa.

Slater không hề ngần ngại làm thêm ngoài giờ. Selma thường gọi điện thoại khuya để buộc chồng phải về nhà, và những ngày chủ nhật bà cũng phải ép buộc chồng ở nhà. Selma đã nhanh chóng cảm thấy rất ganh tị và gớm ghiếc các bộ áo giáp. Và dĩ nhiên là Selma cấm không cho chồng nói gì đến Lịch Sử - trừ phi là chuyện xảy ra sau lần cuối cùng Selma đi thăm bà chị Blanche.

Nhưng đại tá thì lại rất thích thú với nỗi đam mê của ông thư ký và đã tặng cho ông thư ký bộ áo giáp gôtic năm 1460.

Slater không bao giờ mang bộ áo giáp về nhà. Bởi vì Selma sẽ không cho đặt ở nơi nào khác ngoài tầng hầm - mà đó rõ ràng là một nơi quá ẩm ướt đối với một bộ áo giáp gôtic thời 1460.

*

* *

Đến hai giờ chiều, Slater leo lên cầu thang, bước vào phòng làm việc cũ của đại tá de Kalb mà không thèm gõ cửa. Scudmore đang ngồi trong đó, hai chân gác trên bàn viết, tay phải cầm chai whisky. Trông hắn y như một nhân vật quan trọng đang say rượu.

- Anh không thể để họ làm thế! Slater kêu bằng một giọng nghẹn ngào.

- Anh bạn mà dám nói thế à! Anh có thể đứng lọt trong lòng bàn tay họ!

- Anh phải bắt họ ngưng tay ngay.

- Thôi, uống một ly đi, đừng kêu ca nữa.

- Tôi không thể khoanh tay đứng đó nhìn họ làm. Họ đang đập phá, làm hỏng tất cả.

- Đập phá hả?... Đập phá cái gì?

- Họ cứ vứt mọi thứ lộn xộn xung quanh, họ làm vỡ những đồ vật quý, họ làm lộn xộn các bộ phận. Họ khuân vác dưới trời mưa, mọi thứ sẽ bị rỉ mất.

Scudmore cười khúc khích.

- Đồ cổ, đúng không? Thì sẽ có giá hơn. Cũng giống như người ta khoét lỗ vào gỗ để người khác tưởng gỗ bị mọt ăn!

- Họ không có quyền phá hủy tất cả...

- Đó là do họ rất vội. Họ cứ đòi trả thù lao theo giờ, nhưng tôi đã nói: không được đâu nhé! Các anh sẽ lãnh thù lao khoán cho toàn bộ công việc, và đống này phải ra khỏi đây trước năm giờ!

- Vậy anh hãy bảo họ làm việc đàng hoàng. Tôi xin anh, anh Scudmore ơi, ít nhất anh hãy bảo họ như vậy dùm tôi.

- Này, anh có thôi quấy rối tôi nữa không đó?

- Anh Scudmore ơi...

- Tôi nói nghiêm túc đấy. Anh ra khỏi đây đi!

- Tôi xin anh...

- Thì bị trầy, bị móp một chút đã sao nào?... Mấy thứ đó bị đánh đập suốt mấy thế kỷ rồi mà. Càng tăng giá trị thêm thôi. Có một gã ở Canada chào tôi giá khá lắm. Uy tín nhà sưu tập của đại tá de Kalb đã đủ làm cho gã này quyết định. Không cần đến xem hàng! Ký hợp đồng, gửi ngân phiếu. Và gã đó sẽ nhận được tất cả những bộ phận đã đặt mua. Cứ việc xoay xở tự ráp lại lấy.

Slater run lên. Giọng nói đã nhỏ xíu chỉ còn thều thào.

- Anh Scudmore à, anh phải biết xấu hổ chứ. Tôi căm thù anh!

Scudmore ngồi thẳng lên, đứng dậy, rồi đi vòng qua bàn, đến đứng ngay bên cạnh Slater, nhìn xuống:

- Bực mình lắm rồi! Anh cút đi chỗ khác, nhanh lên!

Chỉ cặp mắt xanh nhạt của Slater là để lộ một cảm xúc khác ngoài sự phục tùng, trong khi ông lùi ra cửa.

- Anh là một người thô lỗ, Slater thì thầm. Vừa thô lỗ vừa ngu xuẩn.

Scudmore phóng nhanh đến Slater, huơ nắm đấm lên.

- Này anh bạn nhỏ, anh có muốn nếm thử cái này không vậy?... Muốn hả?...

Slater hấp tấp mở cửa ra. Khi đã ra ngoài hành lang, Slater lắc đầu.

- Không, cám ơn, anh cứ giữ lấy cho anh, Slater nói.

Khi bước xuống cầu thang chìm trong bóng tối, Slater nhận ra, mà không hề cảm thấy bị sốc hay bị ngạc nhiên, rằng mình sẽ giết chết Scudmore. Mọi thứ diễn ra như thể Slater đã biết hắn từ lâu và đã quyết định hạ hắn từ lúc mới sinh ra.

Mối bận tâm duy nhất của Slater là làm thế nào giết chết Scudmore mà chính mình không bị sao - và không bị bắt.

Slater thản nhiên tìm gặp gã đàn ông mặc vét da đang đổ mồ hôi hột trong khi vứt mũ chiến vào thùng.

- Đúng, gã đàn ông mặc vét da xác nhận. Phải giở xong lúc bốn giờ. Như vậy chúng tôi về kho bãi, đậu xe và chấm công đúng năm giờ. Chúng tôi thuộc công đoàn mà.

Slater cũng phải làm xong mọi việc lúc bốn giờ.

*

* *

- Thì, tôi cũng không biết tôi có... vài phút sau gã đàn ông mặc vét da gãi đầu nói.

- Bộ áo giáp này là của tôi, Slater bình tỉnh trả lời. Chẳng lẽ anh nghĩ tôi muốn lấy trộm nó à?

- Đâu có, tôi không hề nói thế.

- Muốn lấy trộm một cái gì đó, thì đời nào tôi lại công khai như thế. Còn anh? Mà ai lại thèm đi ăn trộm một đống sắt vụn?

- Tôi chưa bao giờ nói anh định trộm gì...

Slater rút bóp tiền ra, lấy vài tờ giấy bạc. Bây giờ, mỗi hành vi, mỗi từ mà Slater thốt ra làm gia tăng sự khoan khoái trong lòng. Trước kia, chưa bao giờ Slater dám đút lót hối lộ ai. Slater đưa hai tờ mười đô-la.

Gã đàn ông mặc vét da đút vào túi, mỉm cười, và đột nhiên có vẻ sẵn sàng phục vụ Slater.

- Bộ áo giáp trong văn phòng tôi, ở cuối hành lang. Tôi cần người của anh để mang đến đó một cái thùng. Cái thùng kia rất được. Bộ áo giáp không được tháo ra, mà phải đặt kỹ vào trong thùng. Rõ chưa?

Gã đàn ông mặc vét da gật đầu.

- Không được tháo bất cứ chi nào của bộ áo giáp, nếu không nó sẽ bị hư, anh hiểu rõ chứ?

- Đồng ý, chúng tôi sẽ để y nguyên.

- Bộ áo giáp đã dược hàn và gia cố bằng chì. Anh hãy cho nó vào thùng, nằm ngửa.

- Hiểu rồi.

Slater nhìn đồng hồ.

- Bây giờ là hai giờ rưỡi. Có việc cần phải thực hiện đối với bộ áo giáp trước khi mang nó đi, và tôi muốn tự tay mình làm. Tôi sẽ làm xong trước bốn giờ vài phút. Anh có thể cho giở bộ áo giáp cuối cùng hết, như vậy cũng tiện hơn để anh giao về nhà tôi, trên đường về kho bãi. Địa chỉ tôi đây.

Slater đưa một tờ giấy cho gã đàn ông mặc vét da.

Hắn đọc kỹ, rồi cất vào túi. Rồi hắn gọi gã đàn ông mập mũi khoằm. Cả hai, Slater đi theo sau, khiêng cái thùng có hình dạng gần giống quan tài, đặt xuống sàn phòng làm việc. Slater chỉ bộ áo giáp, lập lại:

- Trước bốn giờ một tí bộ áo giáp sẽ sẵn sàng để mang đi.

- Rõ, gã đàn ông mặc áo da nói.

Khi còn lại một mình trong văn phòng, Slater bắt tay vào công việc khó nhọc là mặc vào người bộ complê thép nặng gần 150 ký này. Vào thời xưa, đã có nhiều tay hậu cần hăng hái giúp đỡ; nhưng cảm giác hùng mạnh da diết và bất khả chiến bại mà Slater sắp có được bù lại sự khổ nhọc khi phải làm công việc đó một mình.

Tất nhiên là trước tiên Slater phải tháo hoàn toàn bộ áo giáp. Slater đặt nằm xuống đất tấm ngực và tấm lưng đã nối sẵn với nhau, gỡ chỗ cài ở vai ra, rồi bò chui vào, thò đầu qua cổ áo giáp. Slater cực nhọc đứng dậy. Run rẩy do hấp tấp, Slater cài nhanh những phần che bụng và bẹn. Rồi Slater cài phần đùi trước và sau.

Sau cùng hết, Slater xỏ xà cạp và giáp che thân. Slater đau đớn nỗ lực để đụng được lưng bằng cách thò cánh tay qua vai để kiểm tra xem tấm che lưng và che bụng có nằm đúng chỗ không. Slater phải ngưng tay nhiều lần để cho hai cánh tay đau nghỉ mệt và thở một chút. Slater muốn nghẹt thở vì nóng nực, thân thể ông như phình lên trong cái vỏ bọc sắt. Chỉ ý nghĩ mình có thể thất bại cũng đủ làm cho Slater hoảng hốt lên. Slater cần phải được che chắn hoàn toàn, để không một phần thân thể nào có thể bị Scudmore đánh - và cũng để đám khuân vác không nghi ngờ gì khi cho bộ áo giáp lên xe tải.

Slater vật lộn mãi và rốt cuộc cũng cài được cái móc cuối cùng của mảnh áo giáp che thân.

Chỉ còn đội lên đầu cái mũ chiến vĩ đại có mõ như mõ chó dữ, gắn những tấm to bảo vệ cùi chỏ và sau cùng hết là xỏ bao tay vào - thao tác này là cuối cùng hết, bởi vì Slater phải để các ngón tay tự do để làm những thao tác trước.

Lúc định cầm mũ lên, thì Slater nhớ ra là phải gọi điện thoại về cho Selma. Slater bước nặng nề trong văn phòng, ở mỗi bước hai cái chân bọc sắt cứ rơi xuống nền như hai khối gang. Slater đặt mũ chiến xuống bàn, cầm ống nghe lên:

- Selma ơi, hãy nghe anh thật kỹ.

- Cái gì?

- Hãy nghe anh thật kỹ, và nhớ đừng ngắt lời anh.

- Thì anh nói đi!

- Đại tá de Kalb đã ban cho anh một vinh dự lớn là tặng cho anh món quà trước khi qua đời. Một bộ áo giáp nguyên vẹn. Anh sẽ cho gửi về nhà. Bộ áo giáp sẽ đến nhà vào lúc khoảng bốn giờ rưỡi.

- Không được! Em không muốn có cái đó trong nhà...

Cả phòng rung lên khi Slater giậm chân thép xuống sàn.

- Em sẽ nhận bộ áo giáp Selma à, nếu không, em sẽ phải hối hận đấy. Rõ chưa?

- Anh Morris!

- Bộ áo giáp này rất quan trọng đối với anh, đừng quên Selma nhé.

Slater gác máy xuống, đội mũ chiến lên đầu. Slater dừng lại một hồi, hít thở thật sâu và nhìn vào khe hẹp. Hai bàn tay toát mồ hôi trượt trên sắt khi Slater cài năm cái móc gắn mũ chiến vào cổ áo giáp. Slater bước vài bước trong phòng, nhận thấy bộ áo giáp kêu cọt kẹt, nhưng ông sửa ngay bằng cách cho dầu vào khớp. Cuối cùng, Slater xỏ bao tay sắt, dài bằng cánh tay và cột vào các tấm chắn ở cùi chỏ. Đó là những bao tay thép khổng lồ cử động được ở mu bàn tay nhưng không có ngón tay ngoại trừ ngón cái cử động được. Mỗi bao tay cân nặng mười lăm ký lô. Hồi xưa hiệp sĩ bị mất hay bị gãy gươm dùng bao tay như những cái chùy. Trước tiên Slater cài bao tay trái bằng ngón tay phải. Nhưng Slater phải gõ bao tay phải nhiều lần lên tường mới cài được.

Lúc đó ba giờ hai mươi lăm và Slater còn rất ít thời gian để giết Scudmore.

*

* *

Trước đây chỉ cần vài bậc thềm là Slater thấy hổn hển cho dù chỉ phải chịu trọng lượng của chính thân mình. Nhưng bây giờ, khi cân nặng 225 ký, leo lên tầng hai là chuyện dễ dàng đối với Slater. Slater có được năng lực cần thiết từ nguồn dự trữ bên trong mà mỗi người đều có, nhưng chỉ dùng vào những trường hợp rất đặc biệt.

Slater bước vào hành lang tối tăm, băng qua với sự hùng mạnh cương quyết như dòng nham thạch chảy.

Không lưỡng lự, Slater gõ cửa văn phòng Scudmore bằng cánh tay thép. Tấm gỗ rung lên và nứt ra. Scudmore mở cửa ra đột ngột, Slater lao vào hắn. Slater đu đưa bao tay phải, rồi bao tay trái, xô Scudmore đến bàn viết, đẩy Scudmore ngã sụp xuống đó.

- Trời! Scudmore rên. Cái gì...

225 ký lô của Slater làm cho Scudmore văng mạnh vào tường. Một bao tay sắp làm gãy hai xương sườn của Scudmore. Theo bản năng, người đàn ông to lớn phản công bằng một cú đấm rất khéo, rồi thét lên một tiếng: khớp tay bị vỡ vào áo giáp sắt. Mười lăm ký sắt dập nát mũi và răng Scudmore. Scudmore toan ôm Slater, nhưng rồi kêu rên ngã quỵ xuống, bị gãy một đốt sống ở cổ.

Khi đó Slater gỡ một vũ khí gắn trên tường, quay vòng vòng dây xích và quả cầu đầy gai nhọn ngay phía trên đầu nạn nhân đang cực nhọc bò ra cửa..

* * *

Slater nằm trong thùng nghe tiếng mưa nhỏ rơi lên mũ chiến. Nước mưa chảy xuống mặt Slater qua khe bộ áo giáp, mỗi giọt mưa lạnh ngắt làm Slater giật mình.

Slater nghe tiếng gã đàn ông mặc áo vét da và một kẻ khác càu nhàu trong khi khiêng Slater trong bộ áo giáp leo vào bậc thềm của cổng chính. Slater đã biết trước rằng mình sẽ thành công và thoát. Sẽ không ai nghi ngờ ông. Slater tin chắc như thế. Không một viên cảnh sát nào, mà cũng không một bồi thẩm đoàn nào gồm những người có trí thông minh bình thường lại có thể buộc tội một người đàn ông nhỏ gầy đối xử với Joe Scudmore như Slater đã làm. Cuộc điều tra sẽ hướng về một gã to con hung dữ. Chứ không về hướng Morris Slater.

- Tôi không muốn cái này trong đây, giọng của Selma la lên.

Slater chau mày.

Thưa chị, người ta đã dặn chúng tôi giao ở địa chỉ này mà, gã đàn ông áo vét da trả lời.

- Chẳng lẽ các anh mang cái này vào nhà tôi, làm dính bùn tùm lum. Các anh hãy đi vòng ra sau nhà từ phía bên phải, đi xuống tầng hầm. Tầng hầm không có cửa, chỉ có cửa sổ hầm để cho than vào. Để tôi đi mở, các anh chỉ việc quẳng cái này vào bên trong.

Slater ngọ nguậy, cảm thấy khó chịu. Lưỡi trai của mũ chiến đè bờ mắt kính cạ vào mặt làm Slater rất đau.

- Nhanh lên! Gã đàn ông vét da kêu. Ta không được trả thêm ngoài giờ đâu!

Slater cảm thấy mình đang rơi, nghe tiếng va, rồi sau đó là bóng tối. Slater mở mắt ra, nhưng trời tối thui như trong mỏ than. Slater cực nhọc ra được khỏi thùng, bước nặng nề mò mẫm tìm công tắc điện. Nhưng rồi Slater nhớ ra là nó nằm trên cao cầu thang. Không quan trọng. Trước hết, phải ra khỏi bộ áo giáp. Slater không tin tưởng Selma. Slater không muốn vợ thấy mình trong bộ áo giáp.

Slater mò mẫm trên người một hồi rồi mới nhận ra rằng với bao tay sắt không thể nào với đến móc cài của bộ áo giáp. Làm thế nào để cởi bao tay? Slater gõ chúng nhiều lần vào tường đá. Slater tìm thấy cái búa và tự gõ vào mình những cú rất mạnh.

Không thể xác định lúc nào thì Slater hoảng lên và mất bình tĩnh.

Có lẽ Slater đã la hét. Nhưng giả sử Selma có thể nghe được tiếng chồng qua mũ chiến và sàn nhà, thì cũng không được gì. Như mọi tối thứ hai, Selma tham dự buổi tối gặp mặt ở thị trấn.

Những bậc thềm rung rinh của cầu thang vỡ ra dưới trọng lượng của Slater trong khi cố gắng tìm cửa nhà bếp. Slater nhón chân lên để tìm cửa sổ hầm, chỗ để đổ than vào. Nhưng cho dù có với đến, Slater cũng không đủ sức chui ra.

Chẳng bao lâu Slater trở nên yếu đến nỗi không dậy nổi. Slater nằm ngửa, thiếp ngủ đi.

Sáng thứ ba, rất sớm, một chiếc xe tải đổ năm tấn than qua cửa sổ tầng hầm.

Chương 4 - MỘT NƠI KHỈ HO CÒ GÁY

Douelas Farr

ã đàn ông xuất hiện ngay sau lúc mười hai giờ trưa, vào ngày tháng bảy nóng nực đó. Chính Stella nhìn thấy hắn đầu tiên và Stella cảm thấy không thích bộ mặt hắn.

Hắn đến từ hướng tây, và tiến tới trên con đường bằng những bước đi kéo lê, đội một cái mũ phớt vành rộng để bảo vệ đầu khỏi nắng mặt trời. Hắn cứ thong thả và trông giống một người đang dạo bộ trên đại lộ có bóng cây che mát hơn là kẻ lang thang, bởi vì rõ ràng hắn là một kẻ lang thang, cuốc bộ một mình trên con đường xa vắng này, cách chỗ có người mười lăm cây số.

Stella Cousins đang đứng ở thềm cửa nhà, tận hưởng một trong các khoảnh khắc nghỉ ngơi hiếm hoi. Đôi khi Stella hay đứng đó nhìn đường, mặc dù chính cô cũng không biết tại sao cô có thói quen này. Hay tại sao cô lại đứng đó nhìn đường, thay vì ở trong nhà bếp, ngồi bàn, đối diện với Emery trong khi anh ăn hết bữa trưa. Một người vợ tốt lẽ ra phải đang làm như thế.

Nếu Stella đã làm đúng nghĩa vụ, thì Stella đã không đứng ở thềm cửa đúng lúc đó, có thể gã đàn ông đã không nhìn thấy cô... và có thể hắn đã không dừng lại.

Nhưng một người đi qua trên con đường này là một cảnh tượng không bình thường. Có khi có một chiếc xe tải hay ô tô đi qua, nhưng rất hiếm khi thấy người đi bộ, nên ngẫm lại, dường như Stella không nhớ rằng chuyện này từng xảy ra. Thế là Stella đứng lại trên thềm cửa, như bị mê hoặc.

Tất nhiên là gã đàn ông đã nhìn thấy ngôi nhà. Chắc chắn ngôi nhà đã thu hút sự chú ý của hắn, vì đó là ngôi nhà độc nhất thấy được trên đoạn đường này. Nhưng hắn không có vẻ như đang tiến về ngôi nhà này.

Vậy hắn đi đâu? Stella tự hỏi. Hắn là ai? Không phải là hàng xóm. Khó mà có thể là người xin quá giang hoặc người lái xe đang bị cạn xăng. Vậy, hắn phải là kẻ lang thang. Stella rùng mình; Stella rất ghét những kẻ lang thang.

Trong khi Stella quan sát gã đàn ông, và lo sợ hắn dừng lại, thì hắn lại đứng yên gần lối đi, hất nón ra sau. Hắn vẫn còn cách Stella năm mươi mét và Stella không thể nhìn rõ xem hắn ra sao; Stella chỉ hơi thấy được rằng mặt hắn đen đen, hắn đang nhìn cây đào sau nhà, phía bên trái.

Ôi! không, Stella nghĩ bụng, đừng, đừng! Hắn đang thấy rằng đào gần chín và hắn đang tự hỏi xem có cần phụ giúp không? Chúng tôi không cần... có, có thể cần... nhưng không cần gã đàn ông này...

Rồi Stella đột nhiên thấy rằng ánh nhìn của hắn đã rời cây đào và đang nhìn chằm chằm vào ngôi nhà. Mà cũng không phải chính xác là ngôi nhà. Mà nhìn Stella. Lẽ ra Stella phải bước ra khỏi vùng sáng trên ngưỡng cửa, nhưng bây giờ đã quá trễ, gã đàn ông đã nhìn thấy Stella rồi.

Suốt một hồi, Stella không thể nào động đậy. Ánh mắt gã đàn ông giữ chặt Stella tại chỗ như một bàn tay thô bạo. Và cảm xúc của Stella là nỗi khiếp sợ.

Khi gã đàn ông rẽ vào lối đi, Stella rời bỏ thềm cửa, lao vào nhà bếp. Stella thở hổn hển, như thể đã chạy một đoạn đường rất dài.

Emery vẫn ngồi ở bàn, đang dọn đồ ăn thừa, đậu, jambon, cà chua - cà chua do chính anh trồng ở nông trại - và có vẻ hoàn toàn tập trung làm việc đó. Mái tóc màu vàng bù xù hơi thòng xuống trán, nhưng dường như anh không thấy phiền. Gương mặt tầm thường, không có vẻ đẹp đặc biệt nào, rất bình thản.

- Anh Emery ơi, Stella nói, có người ngoài lối đi.

Emery có vẻ không nhận thấy nỗi lo sợ của Stella.

- Một người hả?

- Anh ta nhìn cây đào. Em nghĩ anh ta muốn...

Cuối cùng Emery quan tâm đứng dậy. Emery không cao, tầm vóc trung bình. Anh chùi ngón tay vào áo sơ mi đã bẩn.

- Nếu anh ta muốn thu hoạch đào, thì tuyệt!

- Không được, anh Emery ơi!

- Em bị làm sao vậy? Emery hỏi hơi ngạc nhiên.

- Anh Emery ơi, em không muốn anh thuê gã đàn ông này.

- Tại sao vậy?

- Em không nói được. Em không giải thích được...

Bây giờ Emery đã ít nhiều nhận thức về nỗi lo sợ của vợ, mặc dù rõ ràng anh không hiểu gì. Emery đẩy ghế ra phía sau, đi vòng qua bàn:

- Stella, em bị làm sao vậy?

- Anh Emery này, anh hãy nghe em, anh đừng thuê người đó.

- Em yêu, ta đang cần người phụ việc. Đã đến lúc phải thu hoạch đào. Hai trăm cây ra trái cùng một lúc. Và ở đây rất hiếm khi có dịp thuê nhân công. Năm ngoái ta đã từng bị đào rụng khỏi cây và thúi dưới đất.

Có tiếng gõ cửa. Bàn tay Stella bấu lấy cổ tay chồng.

- Chính người đó, Stella kêu khẽ.

- Vậy thì em mời anh ta vào đi.

- Đừng, anh Emery... em xin anh.

Cuối cùng Emery hơi tỏ ra bực bội.

- Stella này, anh không hiểu em muốn gì. Nếu gã kia muốn hái đào, thì anh sẽ thuê anh ta!

- Đừng, anh Emery! Em sẽ không để anh làm như thế!

Stella xiết cổ tay Emery một cách tuyệt vọng đến nỗi suốt một hồi Emery không thể nào động đậy.

- Em có muốn đào được hái hay không? Emery hỏi và cố trấn an vợ.

- Không!

- Em có muốn thu tiền số đào kia hay không?

- Không!

- Thế còn bộ áo ngủ mà em đang ao ước thì sao...?

- Em không muốn nữa. Em xin anh! Anh hãy nghe em...

Nhưng Stella ngưng giữa câu. Bởi vì Stella cảm thấy rằng nài nỉ chồng cũng vô ích, rằng đã quá trễ. Stella quay lại vừa kịp lúc thấy kẻ lạ bước vào nhà bếp.

- Có lẽ anh chị không nghe tôi gõ cửa, hắn nói, có lẽ bởi vì anh chị nói chuyện to quá.

Khi đó, Stella nhìn hắn lần đầu tiên. Stella cũng không biết cô chờ đợi sẽ thấy một gương mặt như thế nào nữa. Có thể là một gương mặt biến dạng, với ánh mắt quỷ quái.

Nên, theo một kiểu, Stella bị thất vọng. Nhưng ngoài ra, không thể nào đoán được tuổi gã đàn ông. Hắn có thể ba chục tuổi, mà cũng có thể hơn. Như Stella đã để ý, gương mặt hắn tối sậm; râu đen mọc che má và cằm hắn. Tóc hắn cũng màu sẫm, rối rắm; chuyến đi bộ lâu dưới nắng làm cho tóc ướt đẫm mồ hôi. Do tương phản, mắt hắn có vẻ sáng. Chắc chắn không phải là gương mặt đẹp, nhưng cũng không xấu.

- Nhưng mà... anh cần gì?

Chính Emery vừa mới đặt câu hỏi này. Stella để ý điều này, lòng tràn trề hy vọng: việc gã đàn ông đến đột xuất có vẻ làm cho Emery bực bội. Hay Emery bắt đầu cảm thấy lo sợ y như Stella.

- Tôi nhìn thấy đào, gã đàn ông trả lời, và tôi tự nhủ có thể anh chị cần người giúp thu hoạch đào.

Hắn nói chuyện ung dung, nhưng trong giọng nói có âm điệu thô lỗ và uy quyền.

- Vậy thì hoá ra anh gõ cửa vì chuyện đó, Emery nói. Đó không phải là lý do để vào thẳng đây.

Nếu Emery không phải chồng cô, nếu cô không biết rõ Emery đến thế, thì có thể Stella đã không nhận ra rằng Emery đang giả vờ. Đúng! Emery sợ - Stella chắc chắn anh ấy sợ - nhưng dĩ nhiên anh ấy cố gắng không để lộ. Không, Stella không thể tin. Stella không dám tin. Emery không sợ đâu. Emery chỉ bị bất ngờ.

Stella nhận ra cô đang so sánh hai người đàn ông. Stella đột ngột thấy rằng kẻ lạ cao hơn. Cao hơn Emery nửa đầu. Hai vai quá xệ, nên có vẻ không rộng vai, nhưng gã đàn ông vạm vỡ và rắn chắc. Có lẽ phải hơn Emery hai mươi lăm ký, Stella nghĩ bụng.

Gã đàn ông lạ không hề lợi dụng uy thế thể lực.

- Tôi xin lỗi, hắn nói bằng một giọng dịu lại. Nếu anh muốn tôi đi, thì tôi sẽ đi.

Rồi hắn lùi một bước.

Có sự lưỡng lự từ cả hai phía Trong khi Emery quyết định xem sẽ làm gì, gã đàn ông cố tình không nhìn Stella. Ánh mắt hắn nhìn một vòng nhà bếp, đi từ cái tủ lạnh cũ nhưng sạch sẽ, đến rèm cửa, rồi dừng ở cây leo tường và chậu cây xanh.

Không phải là kín đáo, Stella nghĩ, mà là hỗn láo. Hắn đang khám xét hiện trường xem có đáng ở lại hay không. Nhưng hắn có giỡn mặt Emery không? Emery có muốn bị giỡn mặt không? Ôi! phải chi Emery đừng quá lo cho vụ thu hoạch đào!...

- Chắc chắn đào cần được hái, Emery nói.

Kẻ lạ mặt vẫn xem xét nhà bếp, như có vẻ mỉm cười.

- Dĩ nhiên là chúng tôi không bao giờ cho nhân công ở lại trong nhà. Phía sau có một góc cho anh.

- Dĩ nhiên, gã đàn ông nói.

- Anh sẽ được ăn ở. Còn về thù lao, thông thường tôi...

Stella không thử ngăn Emery. Stella biết cô không thể ngăn. Nếu như lúc đầu Emery đã sợ hay không tin tưởng gã đàn ông, thì bây giờ anh đã quên rồi. Emery chỉ nghĩ đến đào.

*

* *

Bây giờ khi đã cam kết sẽ nuôi một người và trả công cho người đó, Emery muốn bắt đầu hái đào ngay. Thà hái lúc hơi xanh còn hơn là hơi chín quá, Emery nghĩ bụng, và dù sao đào cũng sẽ không to thêm nữa. Emery có hợp đồng với một nhà máy đồ hộp gần đó, nhưng nhà máy chỉ mua sản phẩm tốt và không nhận trái cây quá chín hay lượm dưới đất.

Trước hết Stella phải cho gã đàn ông ăn - hắn nói tên hắn là Jesse. Hắn ăn rắt nhiều, nhưng Stella không quan trọng chuyện này. Ít nhất, hắn không quan tâm đến Stella nhiều quá khi mà hắn tập trung ăn.

Hắn ở ngoài vườn cây ăn trái suốt buổi chiều, cùng với Emery. Còn lại một mình, lần đầu tiên Stella có dịp suy nghĩ, tự hỏi tại sao cô luôn cảm thấy sợ tên Jesse kia.

Khi rửa chén xong, Stella vào phòng mình, đứng trước tủ phấn. Gương phản chiếu hình ảnh một người phụ nữ đúng tuổi mình - ba mươi hai - hay thậm chí có thể hơn. Tóc Stella không được chải chuốt lắm, chỉ cột ra phía sau bằng cái nơ, nhưng trong mái tóc đen, chỉ thấy một hai mớ bạc. Stella chưa hề thật sự là người phụ nữ đẹp. Stella từng là một cô gái trẻ, bây giờ thì không còn trẻ nữa. Những năm sống ở đây, trong cát bụi, đã mãi mãi lấy đi tuổi xuân của cô và những gì đẹp mà cô từng có. Về một người phụ nữ, Stella chỉ còn mỗi tên gọi.

Ý nghĩ này khiến Stella quên đi Jesse. Stella cảm thấy ngấm ngầm hận chồng. "Mình chỉ là một người phụ nữ", Stella tự nhủ và Emery đã trông mong quá nhiều từ một người phụ nữ đơn thuần. Những gì Emery đã mong muốn khi cưới Stella, là có nhân công rẻ tiền. Và Emery bắt Stella làm việc cho đến khi trong cô không còn gì là nữ tính nữa..

Nhưng ý nghĩ về Jesse trở lại.

Stella có gì đặc biệt, mà Jesse đã chọn đến ngôi nhà này thay vì bất cứ nhà nào khác? Emery đã yêu Stella vì khối lượng công việc mà cô có thể hoàn tất. Nhưng còn Jesse, hắn muốn gì ở cô?

Điều bí ẩn này khiến hắn càng đáng sợ hơn nữa. Phải chi Stella biết tự mình lái chiếc xe tải nhẹ! Stella sẽ lên thành phố, ở khách sạn vài ngày, đủ thời gian để hái hết đào và chờ Jesse cút đi. Nhưng Stella không biết lái; vậy phải để Emery chở đi. Vậy thì sẽ phải thuyết phục Emery, thế thôi!

Stella suy nghĩ về vấn đề suốt cả buổi chiều và buổi tối. Hai người đàn ông không về trước hoàng hôn. Chiếc xe tải nhẹ chất quá nhiều thùng trái cây đến nỗi bánh xe lún sâu vào nền đất bụi.

Cả hai đều mệt và bữa ăn diễn ra không có gì đặc biệt. Emery không ngừng nhận xét rằng Jesse làm việc rất tốt, nhưng nhân viên có vẻ không đếm xỉa gì đến ý kiến của chủ thuê mình. Hắn có vẻ còn mệt mỏi hơn cả Emery.

Nhưng chính sự im lặng, sự mệt mỏi của hắn làm Stella thắc mắc. Xét lại cho cùng, thì Jesse có phải là người giúp việc nông trại kinh nghiệm không? Lẽ ra hắn không mệt mỏi như hắn có vẻ. Hắn đã mong muốn tìm việc, nhưng bây giờ hắn lại tạo cảm giác như hối hận vì đã nhận việc. Vậy thì tại sao hắn nhận? Tại sao hắn có mặt ở đây? Tại sao hắn ở lại?

Hắn cứ ngồi đó, gương mặt trơ trơ lạ lùng không để lộ dự định của hắn, cũng như bản chất hắn. Chỉ đến lúc Stella đưa cho hắn những trái đào ăn tráng miệng, thì hắn mới thể hiện một cái gì đó. Hắn nhìn ba trái đào đặt trước mặt hắn, rồi ngẩng đầu lên mỉm cười với Stella.

- Ngán đào lắm rồi, hắn đột ngột nói.

- Nếu hái được thì ăn được, Stella sẵng giọng trả lời.

Câu trả lời đã phát sinh trên hết từ nỗi khao khát chứng tỏ với gã đàn ông rằng Stella không còn sợ hắn nữa. Hắn nhún vai, nhưng thay vì đẩy đào ra, hắn thọc tay vào túi quần, rút ra một con dao. Bằng ngón cái, hắn ấn cán dao, rồi một lưỡi dao dài mười phân bắn ra với tiếng cách. Hắn mổ một quả đào, cắt nhiều múi đưa lên miệng, những múi đào ghim trên mũi dao.

Stella quan sát hắn và nhận thấy rằng Emery cũng theo dõi hắn. Trước đây, Stella chưa bao giờ thấy một con dao như vậy. Trông giống một vũ khí hơn một công cụ. Bình thường, Jesse đã không ăn một quả đào bằng cách này. Cử chỉ của hắn không tự nhiên và không thoải mái. Rõ ràng, hắn chỉ muốn cho hai vợ chồng thấy rằng hắn có một con dao.

Trong bầu im lặng tuyệt đối, hắn tiếp tục công việc với sự chậm rãi cố ý. Hắn ăn hết ba quả đào - sau khi đã nói là không muốn ăn - rồi hắn chùi kỹ lưỡi dao trên cái khăn ăn đã dơ, và bằng ngón tay cái cho lưỡi lam trở về chỗ.

Tuy nhiên, khi Emery đứng dậy khỏi bàn ăn, hắn cũng đứng dậy và chậm rãi bước ra cửa sau, không đợi ai nói gì.

- Chào Jesse nhé, Emery nói bằng một giọng nhẹ nhõm.

Hắn quay lại, nhưng có vẻ như chỉ nhìn một mình Stella.

- Chào, hắn trả lời rồi bước ra qua cửa sau và biến mất vào bóng tối.

- Anh... Stella bắt đầu nói từ từ sau khi hắn đã đi, ngày mai em muốn...

Emery đã quay đi không nhìn vợ. Có lẽ anh giả vờ như đã không để ý đến con dao, hoặc có thể anh muốn làm Stella nghĩ rằng con dao không hề có nghĩa gì đối với anh.

- Ngày mai, Emery nói, anh sẽ dậy khoảng bốn giờ sáng, anh sẽ lấy xe tải nhẹ mang đào đến nhà máy đồ hộp. Rồi anh sẽ về kịp để thực hiện một ngày làm việc trọn vẹn.

- Em muốn đi theo anh, Stella nói.

- Để làm gì?

- Em muốn anh bỏ em ở khách sạn. Ớ thành phố. Em muốn ở lại khách sạn cho đến khi người đàn ông kia đi.

- Em lại nói chuyện đó nữa à? Emery nói nhưng cố ý không nhìn vợ.

- Anh ơi...

- Hắn đã làm gì nào? Em nói cho anh biết đi. Đi! nói đi... hắn đã đi cả ngày cùng anh và hắn làm việc tốt. Anh cần hắn và anh muốn hắn ở lại. Hắn đã làm gì nào? Hắn đã nói gì em? Hắn đã làm gì em?

- Hắn có con dao, Stella thốt ra.

Stella đã chạm vào một điểm tế nhị, Stella chạm tự ái của Emery bằng cách nhắc rằng con dao cũng đã làm cho anh lo lắng. Nhưng đó là một sai lầm. Stella nhận ra ngay. Emery quay sang vợ, vẻ mặt tức giận.

- Được rồi, anh sẽ đưa em lên thành phố. Em sẽ được ở lại khách sạn. Anh và hắn cần em ở đây để nấu ăn, nhưng em không thèm quan tâm. Ta cũng cần đến số tiền mà vụ đào sẽ mang lại, nhưng em sẽ đi tiêu xài một cách ngu xuẩn ở khách sạn.. Em cứ nói thẳng với anh rằng lỗi tại anh, rằng anh không phải là người chủ nông trang giỏi, rằng anh kiếm không đủ tiền! Và em cũng đừng quên nói với anh rằng anh không đủ sức bảo vệ vợ anh.

Emery đang ứa nước mắt, và khi Stella thấy những giọt lệ đó, cô vòng tay ôm cổ chồng, hôn anh nhiều lần. Stella cố nói bằng lời rằng anh là một người tốt, một người chồng tốt, một người bảo vệ tốt, rằng cô tin anh. Và điều quan trọng trên hết, rằng cô yêu anh... cho dù bất cứ chuyện gì có thể xảy ra.

*

* *

Khi đồng hồ báo thức reng, Emery lẳng lặng dậy, thay đồ trong bóng tối. Stella nghe tiếng chồng bước ra khỏi phòng, băng qua nhà bếp, ra ngoài bằng cửa sau. Cuối cùng có tiếng động cơ xe tải nhẹ đang nổ máy. Xe tải nhẹ chạy ngược lại lối đi, sang số trên con đường lớn, rồi tiếng ồn mất dần để nhường chỗ cho im lặng.

Stella nằm trong bóng tối suốt một hồi lâu, cố không nghĩ rằng hiện cô đang ở một mình cùng Jesse. Stella cố gắng nghĩ đến chuyện khác, chẳng hạn như bộ đồ gỗ hai vợ chồng sẽ sắm được sau vụ thu hoạch đào. Khi ánh sáng ban ngày bắt đầu xuất hiện, Stella tưởng tượng bộ đồ gỗ nằm trong phòng và tự nhủ rằng nó thật là đẹp.

Đã hơn năm giờ sáng khi Stella rời giường, thay đồ, xuống bếp chuẩn bị bữa ăn sáng. Emery sẽ về khoảng sáu giờ. Stella quyết định làm bánh. Đó là bữa ăn sáng khoái khẩu của Emery và sẽ rất tốt đối với ngày làm việc đang chờ đợi anh.

Stella không nghe tiếng Jesse, khi hắn bước vào qua cửa không khoá phía sau lưng Stella. Hắn cố tình ho để báo trước cho Stella. Khi Stella quay lại, hắn đang đứng tựa vào tủ lạnh, quan sát cô.

- Chào, Stella vội vàng nói.

Hắn không trả lời. Hắn vẫn chưa cạo râu, nên lông tóc hắn dài và rậm hơn bao giờ hết. Cái khối đen quanh mặt hắn làm mắt hắn có vẻ sáng hơn nhiều, gần như không màu, do tương phản.

- Bữa ăn sáng chưa xong, Stella nói.

- Tôi biết. Emery vẫn chưa về.

Vậy là hắn biết. Tất nhiên là Emery đã nói với hắn về kế hoạch của anh. Nhưng hắn có biết nhà máy đồ hộp nằm cách bao xa, hoặc mấy giờ thì Emery sẽ về? Stella chống lại nỗi khiếp sợ đang bao trùm làm nghẹt thở. Bằng cách này hay cách khác, Stella biết rằng cô không được để lộ cho gã đàn ông này biết cô đang sợ hãi đến mức nào.

- Anh có thể chờ đến giờ ăn sáng ở bên ngoài, Stella gợi ý.

- Sao tôi không thể ở lại đây?

- Anh đã nghe lệnh chồng tôi rồi. Người giúp việc chỉ vào nhà vào giờ ăn thôi.

Hắn không thèm để ý đến giọng điệu ra lệnh.

- Stella, sao cô lại sợ tôi dữ vậy? Hắn hỏi bất ngờ.

Stella giật mình khi nghe tên mình từ miệng gã đàn ông. Hắn đã cố ý dùng kiểu nói thân mật. Trước khi kịp hoàn hồn, Stella đã bước xa hắn khoảng nửa bước.

- Điều gì làm anh nghĩ tôi sợ anh?

- Khi cô nhìn tôi, tôi thấy được máu rút đi khỏi má cô, mặt cô tái đi. Có nghĩa cô sợ.

- Thật là vô duyên, Stella nói và cố gắng mỉm cười.

Nhưng kiểu cách hắn mỉm cười đáp lại cho Stella biết rằng lời phản đối là vô ích. Nói láo với hắn không được gì.

- Nếu chỉ có nhìn anh thôi mà tôi lại sợ, Stella nói tiếp với sự dạn dĩ đột ngột, thì tại sao anh không nói cho tôi biết xem trong anh có điều gì làm tôi sợ?

- Tôi không biết, gã đàn ông trả lời giả vờ vô tư - nhưng hắn trong tư thế thủ.

- Anh nói láo. Tại sao anh đã dừng lại đây? Anh đâu có thích thú gì chuyện hái đào.

Một nụ cười rộng lớn đột nhiên sáng lên trên gương mặt gã đàn ông. Nhưng theo một cách, nụ cười đó lại làm nổi bật sự dị dạng của gương mặt. Trông hắn gần như một con quỷ xấu xí. Quỷ quyệt.

- Cô có muốn tôi nói cho cô nghe không?

- Có, Stella trả lời bằng một giọng cương quyết, tôi muốn anh nói.

- Bởi vì tôi nhìn thấy, thậm chí đã thấy từ ngoài đường, rằng cô không muốn tôi dừng lại, bởi vì cô sợ tôi.

Nếu hắn đã cố ý tìm một cái gì đó để cho Stella có thể hoảng sợ trở lại, có thể hoá đá đi vì hoảng hốt, thì hắn không thể tìm điều gì hay hơn câu này. Stella không còn khả năng giấu giếm hắn nỗi sợ hãi của mình, cô biết rằng nét mặt làm lộ mình, rằng gã đàn ông không thể không thấy Stella đang run rẩy toàn thân.

- Nhưng để làm gì? Stella hỏi lại không còn quan tâm đến giọng nói sợ hãi nữa. Tại sao anh lại muốn làm tôi sợ?

Gã đàn ông bước lại gần Stella thêm hai bước, mỉm cười khi thấy cô không còn khả năng tránh xa hắn.

- Bởi vì tính tôi thế, Stella à, hắn nói. Tôi thích thế. Bộ cô nhìn tôi thôi, cũng không đủ để hiểu sao? Người ta luôn sợ tôi. Nhất là phụ nữ. Có những thằng được phụ nữ mời mọc, và bọn chúng thích thế. Những thằng đó thích được mời mọc. Bọn chúng cảm thấy sướng. Nhưng tôi, thì người ta không mời. Cái tôi đạt được từ phụ nữ, là điều hoàn toàn ngược lại. Phụ nữ nói với tôi: "Đừng đến gần tôi." Giống như cô vậy, Stella à. Xưa kia tôi không thích thế. Nhưng rồi tôi đã làm cho một người phụ nữ phải hối hận vì đã nói câu đó.

Stella nghe hắn, nhưng lời nói của hắn không hề có ý nghĩa. Stella muốn hét lên, nhưng không có ai để nghe tiếng hét của cô. Stella muốn bỏ chạy, nhưng không có nơi nào để đi. Thậm chí nước mắt cũng có thể làm cho Stella cảm thấy nhẹ hơn, làm cho thân thể đỡ cứng đờ, nhưng Stella không khóc nổi. Stella chỉ có thể đứng đó và để cho gã đàn ông nhìn cô bằng cặp mát nhợt nhạt kỳ lạ, cười khẩy bằng cái miệng méo.

- Được rồi, cứ cho là tôi sợ anh... Stella bất đầu nói.

- Cô cứ gọi tôi là Jesse, hắn nói.

- Không... tại sao tôi lại?...

Mắt gã đàn ông như thôi miên cô. Mắt trống rỗng đến nỗi chỉ nhìn vào thôi, Stella có cảm giác như là một vực thẳm không đáy. Nỗi sợ của Stella chuyển thành sự chóng mặt.

- Cứ gọi tôi là Jesse, hắn lập lại.

- Được rồi... anh Jesse.

Stella cố không nói gì, cố rút tên hắn trở về cổ họng như thể đó là một lời cấm đoán. Nhưng Stella vẫn nói ra, và nó làm bỏng môi cô khi cô phát âm, nhưng đúng lúc đó chiếc xe tải nhẹ ồn ào rẽ vào lối đi, phá vỡ bầu im lặng lẫn sự mê hoặc kia. Tay giúp việc bước xa khỏi Stella, miệng vẫn mỉm cười, rồi ra bàn ngồi. Emery vào từ cửa sau, mừng rỡ và phấn khởi. Thậm chí có lẽ anh không hề để ý thấy rằng Jesse đang có mặt trong bếp.

- "Chất lượng tuyệt hảo", họ bảo anh thế, Emery hài lòng nói. Em nghĩ sao? Đào của anh là chất lượng tuyệt hảo.

Emery bước ra bồn rửa chén để rửa tay. Rồi anh trở ra bàn ngồi cạnh Jesse. "Bây giờ ta chỉ còn mỗi việc hái những quả còn trên cây."

Stella bất lực nhìn hai người. Bây giờ Jesse không còn chú ý đến Stella nữa, mà lại nhìn Emery. Hai bàn tay to của hắn nằm dài, bất động trên bàn ở hai bên dĩa ăn. Cánh tay dày đặc lông đen - lông rậm đến nỗi gần như chằng chịt vào nhau, trông giống bờm thú hơn là da người. Bên cạnh hắn, trông Emery thật nhỏ bé và yếu ớt.

- Đào chất lượng tuyệt hảo, Emery nói, em nghĩ sao?

Không, Stella nghĩ bụng, không thể để anh ấy muốn nói gì thì nói. Stella cảm thấy căm thù anh, và những thứ mọc trong bụi, những thứ làm cho ta muốn gãy xương sống khi phải lượm chúng lên, cho chúng vào thùng rồi gửi chúng đi để người khác ăn.

Sao bây giờ không nói? Lập lại với anh những gì Jesse đã nói cô? Nhưng Stella sẽ kết thúc bản tường thuật như thế nào? Làm thế nào Stella diễn đạt được những gì Jesse không diễn đạt được do Emery về đến kịp thời? Jesse đến đây để làm cho Stella sợ... rồi bây giờ chuyện gì sẽ xảy ra..?

*

* *

Khoảng trước mười hai giờ trưa, khi hai người đàn ông đang ngoài vườn cây ăn trái, những đám mây rải rác đầu tiên bắt đầu nhóm lại. Chưa có gì chắc chắn hay đáng lo ngại; nhưng Stella là vợ người làm nông và cô biết rằng cần phải dè dặt mọi sự thay đổi.

Khi hai người đàn ông trở về ăn trưa, Stella thấy rằng Emery cũng đang lo thời tiết. Anh bật đài trong phòng khách lên. Phát thanh viên chỉ nói về một vùng mát lạnh đang di chuyển từ từ.

Hai người đàn ông ăn vội vã. Jesse có vẻ càng mệt mỏi hơn hôm qua nữa. Hai người nhanh chóng trở ra vườn, việc thu hoạch không thể chờ đợi.

Nhưng hai người không làm việc nhanh bằng hôm qua. Gần đến giờ ăn tối, thì cả hai trở về với chuyện đào thứ nhì. Bữa ăn diễn ra trong im lặng.

Jesse lại không hề chú ý đến Stella, và đi ngủ ngay khi xong bữa tối.

Emery bảo anh quá mệt để đi nhà máy đồ hộp ngay tối nay. Phải chờ ngày mai. Emery hàm ý chính sự mệt mỏi của Jesse đã làm cho công việc bị chậm trễ. Nhưng Stella không nói gì. Stella sẽ không toan đuổi Jesse nữa.

Cứ một chút, là Emery ra ngoài để xem xét bầu trời đêm. "Mây đen kịt," Emery nói khẽ. Thỉnh thoảng có những cơn gió rất mạnh. Thay vì đi ngủ, Emery ra nằm trên ghế dài gần đài, vặn volume đủ lớn để thức chờ tin tức thêm về thời tiết.

Stella nhìn chồng suốt một hồi. Bây giờ thì Stella cảm thấy buồn cho chồng. Chính anh cũng đã sợ, mặc dù với lòng kiêu hãnh đặc thù của nam giới, anh đã cố không để lộ. Nhưng bây giờ anh chỉ lo lắng cho vụ thu hoạch.

Emery không hề tỏ ra ích kỷ. Nếu anh muốn thu hoạch đào, là vì chính anh lẫn Stella. Anh là một người chồng tốt theo khả năng anh. Chính anh đã tìm trong quyển catalo bộ đồ gỗ phòng ngủ và chọn đúng kiểu mà vợ có thể thích, đúng không? Emery yêu cô; Stella không hề nghi ngờ.

Nhưng Stella không chào anh khi bước qua phòng ngủ. Stella chỉ ra khỏi phòng khách, đóng cửa lại phía sau, rồi áp tai vào cửa để xem Emery có biết Stella đi rồi hay không. Chỉ có tiếng đài phát nhạc thay vì phát những tin mà Emery đang quan tâm.

Stella không bật đèn lên. Cô biết rành phòng ngủ đủ để tìm tất cả những gì cô muốn lấy mà không cần ánh sáng. Chiếc vali nhỏ nằm trên kệ tủ và Stella chỉ cho ít đồ vào. Cho dù Stella có định mang đi mọi vật dụng cá nhân, thì cũng không có gì nhiều mà cho vào vali.

Năm phút sau Stella đã sẵn sàng. Lương tâm không hề cắn rứt Stella. Dù sao, Stella đâu có bỏ Emery đi luôn. Khi đã hái xong đào, khi Jesse đã đi rồi, thì Stella sẽ quay về. Và Stella sẽ cố gắng làm cho chồng tha thứ vì đã bỏ anh ra đi.

Stella đóng vali lại, mở cửa lá sách ra. Bên ngoài, mây dày đặc đã che mất mặt trăng và các vì sao, bóng đen như không thể nhìn xuyên qua nổi. Stella bỏ vali qua cửa sổ rồi bước ra cũng bằng ngả đó.

Khi đã ra ngoài, Stella đứng yên một hồi, lắng tai nghe ngóng. Tiếng nhạc từ đài phát thanh nghe rõ từ ngoài cũng như từ trong phòng đã át được tiếng bước chân của Stella. Bây giờ Stella đã tự do. Cô sẽ ra đường cái, đi bộ về hướng thành phố. Nếu không có ôtô hay xe tải nào đi ngang cho cô quá giang, thì Stella chỉ cần đi bộ một hai cây số, rồi sẽ tìm ven đường một chỗ để ngủ cho đến khi trời sáng. Khi đó, Stella sẽ không thấy sợ nữa và chắc chắn sẽ tìm được một chiếc xe chở cô ra thành phố.

Stella vừa mới cúi xuống cầm vali lên, thì bản năng cảnh báo cho cô biết về một sự hiện diện trước khi cô kịp phản ứng.

Stella không động đậy, đột ngột bị tê liệt bởi nỗi khiếp sợ giống như lúc sáng. Dần dần, các giác quan xác nhận với Stella điều mà cô đã biết rồi. Hình bóng của Jesse đang đứng trước cô, đen tôi hơn cả bóng đêm. Hắn ngỏ một lời chào hết sức bất ngờ:

- Chào Stella.

Stella không biết hắn muốn gì, không biết hắn sẽ làm gì. Và chính vì vậy mà Stella sợ hắn. Stella chỉ biết rằng hắn sẽ không để cho cô thoát. Hắn có khả năng chạy nhanh hơn cô. Như một con thú, hắn có khả năng thấy trong bóng tối. Và hắn khoẻ mạnh hơn cô rất nhiều. Đầu óc của Stella, lúc đầu thì tê liệt, từ từ hình dung ra tất cả.

Đài phát thanh vẫn ồn ả trong nhà. Stella bám vào tiếng động này như một mối liên lạc cuối cùng với một thế giới nơi tất cả đều bình thường và lành mạnh. Giọng nói ung dung, quen thuộc của phát thanh viên vang đến tai cô: "Bây giờ là bản tin dự báo thời tiết... sau tin ngắn này..."

Có lẽ Emery đang ngồi cạnh đài. Emery là chồng của Stella. Đó là ý nghĩ trong đầu Stella khi cô hét lên. Một tiếng hét xé tai, một tiếng hét thật to lấp đầy khoảng trống xung quanh cho đến khi tiếng hét đó bị ngắt bởi bàn tay của Jesse ập xuống miệng cô.

Stella chưa bao giờ thật sự ước lường sức của một người đàn ông mạnh như thế nào. Sức lực của Emery - những lần hiếm hoi mà Stella cảm nhận được - chỉ mạnh hơn chính sức của Stella một chút thôi. Bàn tay của Jesse thô bạo, man dại. Nó bịt mũi và miệng cô, hoàn toàn không cho cô thở nữa, làm môi cô dập vào răng, đè đầu cô rất đau vào tường nhà đến nỗi Stella có cảm giác sọ cô muốn vỡ ra và cô sẽ chết. Trừ phi Emery đến kịp trước khi quá trễ.

Emery đang ở đâu? Chỉ nghe mỗi giọng nói đều đều nhàm chán của phát thanh viện lập lại nhiều lần: "Với Miller quý vị sẽ làm ăn tốt." Nhưng giọng đó như nghe rất xa và yếu dần... yếu dần... "Miller... làm ăn tốt..."

Đột nhiên bàn tay của Jesse để cho Stella thở một chút.

- Stella, tại sao cô đã làm thế?

Miệng của Jesse đang sát bên tai Stella, hơi thở hắn nóng, hầu như hữu hình.

- Cô muốn Emery bước ra và thử cứu cô, đúng không Stella? Có phải cô muốn điều đó không? Vậy thì cũng hay đấy. Có lẽ tôi cũng rất muốn Emery bước ra. Emery là một tay chỉ huy nô lệ, đúng không? Lúc nào cũng luôn miệng: "Nhanh lên Jesse, trời đâu có nóng lắm đâu. Nào Jesse, khiêng mấy cái giỏ kia lên. Cao hơn, Jesse. Đi, cứ đổ mồ hôi một chút, Jesse ơi, đổ mồ hôi rất tốt." Ừ, cứ để Emery ra. Bây giờ thì không có mặt trời, nhưng đến phiên Emery toát mồ hôi!

Cũng đột ngột như vậy, Jesse buông miệng Stella ra, bước lùi một bước và không còn chạm đến cô nữa. Nhưng hắn mỉm cười.

Mặc dù trời tối, nhưng Stella biết. Hắn đang mỉm cười với cô.

- Stella, cô cứ hét lên để nó ra. Tôi muốn Emery ra.

Stella nghe một tiếng động, tiếng cách rất khô. Stella biết ý nghĩa của âm này. Jesse đã rút con dao bẩn thỉu ra khỏi túi và đã bật lưỡi dao ra.

- Hét đi Stella. Cứ để nó ra! Để nó nói tôi một lần nữa: "Làm đi Jesse", rồi tôi sẽ chặt nó ra thành từng miếng nhỏ bằng mấy quả đào của nó, tôi sẽ cho nó vào giỏ và tôi sẽ gửi đi nhà máy. Người ta sẽ dán nhãn gì trên những cái hộp đựng Emery? Hét đi Stella!

Stella hiểu rằng cơn nổi giận của kẻ điên khùng kia đã chuyển sang mục tiêu khác. Cơn giận đó xém nổ vào Stella, vì cô căm ghét và khinh thường hắn, nhưng bây giờ cơn giận đang chuyển sang anh Emery tội nghiệp. Emery, người chỉ muốn kẻ quái dị kia làm việc để kiếm ăn...

- Tôi thách cô đó, Stella à! Tôi thách cô la!

Nhưng Stella không la. Cho dù hắn có làm gì cô, Stella sẽ không phát ra âm nào. Về điểm này, Stella mạnh hơn hắn. Cũng may là Emery ngủ và Stella sẽ không bao giờ đánh thức anh. Bởi vì Stella yêu anh. Chỉ thế thôi.

Đài phát thanh ngắt lời hai người:

"... Trạm dự báo thời tiết yêu cầu đài kêu gọi mọi nông trang vùng Thung lũng Lớn hãy cảnh giác. Dự báo rằng sẽ có mưa đá lớn..."

- Mưa đá, Jesse lập lại.

Rồi hắn phá lên cười. Stella chưa bao giờ bước vào một nhà thương điên, nhưng khi nghe tiếng cười này, Stella tự nhủ có lẽ người khùng nhất trong những người khùng thể hiện nỗi vui của mình như thế đó. Stella không nhìn thấy Jesse trong bóng tối, nhưng xét theo tiếng động, Stella có thể tưởng tượng hắn đang nhảy một vũ điệu man dại. Và trong khi Stella bám vào tường nhà để giữ bình tĩnh, tiếng la hét của tên khùng cứ tăng dần.

*

* *

Hắn đã đi. Hắn đã lấy đi chiếc xe tải nhẹ cùng với số đào mới hái. Stella đứng lại bên tường, lắng nghe tiếng máy xe yếu dần trên đường cái về hướng đông.

Hắn đã đi rồi... Stella trở về phòng qua cửa sổ cùng với chiếc vali. Stella giấu vali vào tủ, vì không muốn Emery biết rằng cô đã xém bỏ trốn. Stella vào phòng tắm, bật đèn lên, đứng trước gương cố giấu đi hoặc làm giảm dấu vết mà bàn tay mạnh bạo của Jesse đã để lại trên mặt. Rồi Stella mặc áo ngủ vào, khoác thêm áo dài, bước sang phòng khách. Emery vẫn nằm trên ghế dài, đúng chỗ trước khi Stella bỏ đi, nhưng mắt anh nhắm và đầu nghiêng về phía trước gục xuống ngực. Stella băng qua phòng, quỳ xuống bên cạnh ghế dài.

- Anh Emery ơi, Stella nói thật khẽ. Anh Emery ơi, anh tỉnh dậy đi.

Lúc đầu không có phản ứng nào. Stella phải lập lại tên anh nhiều lần, mỗi lần mạnh hơn. Cuối cùng Emery mở mắt ra. Lẽ ra Stella có thể nói với chồng về bản tin dự báo thời tiết đến thật đúng lúc và đã cứu sống cô, có thể là cứu mạng cả hai vợ chồng. Nhưng điều đó để sau. Trước tiên có một việc thực tế hơn phải làm.

- Anh Emery ơi, Stella nói, có lẽ anh nên gọi cảnh sát. Jesse đã lấy xe tải nhẹ bỏ đi rồi. Hắn ăn cắp xe...

- Jesse hả? Emery nói và ngồi dậy.

- Có kẻ đã lấy cắp xe, Stella vội chỉnh lại. Có lẽ là Jesse.

Emery đứng dậy khỏi ghế dài, đi qua trước mặt Stella, băng qua nhà bếp, bước ra ngoài bằng cửa sau. Không đầy một phút sau, Emery quay lại.

- Đúng là xe tải nhẹ đã biến mất, Emery nói.

Nhưng dường như anh không còn khả năng hành động. Bàn tay anh run rẩy, gương mặt tái mét và Emery cứ nhất định tránh nhìn vợ. Tội nghiệp anh Emery... Anh ấy cứ tự trách móc chính bản thân, trong khi tất cả là lỗi tại Stella. Nếu Jesse đã vào nhà hai vợ chồng, chính là tại Stella.

- Em sẽ gọi điện thoại cho cảnh sát, Stella nói. Nhất định phải lấy lại xe tải nhẹ...

- Em đừng bận tâm! Emery đột ngột la lên. Dù sao, lấy xe tải nhẹ lại để làm gì? Sắp có mưa đá và đào sẽ hỏng hết thôi...

Stella nhìn Emery, ghê tởm không thể tả nổi. Emery đã không hiểu những gì anh vừa mới nói. Emery cứ ngắm bầu trời đêm. Bây giờ có sấm chớp sáng trên trời.

Nhưng Emery không phải là nhà tiên tri về thời tiết. Emery đã nghe bản tin dự báo thời tiết, bản tin duy nhất thông báo về mưa đá, suy ra Emery cũng đã nghe tiếng hét của Stella. Và tiếng cười của Jesse. Vậy mà Emery đã không bước ra.

Stella đã sẵn sàng hy sinh, thà không để chồng phải chịu nguy hiểm... Stella đã ngốc nghếch quá... Còn Emery, thì dám thản nhiên để vợ bị thương... hoặc bị giết. Stella yêu anh... Còn anh, anh đã không yêu cô... hoặc yêu từ xa... Bây giờ Stella hiểu ra rằng bao nhiêu năm hy sinh vừa qua đều là bấy nhiêu năm mất mát.

*

* *

- Vâng, thưa anh cảnh sát trưởng, Stella nói trong điện thoại. Hắn tên là Jesse. Tôi chỉ biết một mình tên đó. Nhưng anh dã biết nhận dạng hắn và nhận dạng của chiếc xe tải nhẹ. Vâng, hắn đi về hướng đông. Không sao, tôi không bị sao cả. Nhưng nếu được, thì nhờ anh cho bác sĩ đến đây. Cũng sẽ không giúp ích gì được cho chồng tôi nữa. Jesse đã đâm nhà tôi bằng con dao bếp, ít nhất khoảng một chục nhát dao...

Khi Stella gác ống nghe xuống, tiếng lách tách đều đặn bắt đầu vang trên mái nhà. Đã bắt đầu trận mưa đá. Hạt rất to. Stella lắng nghe và mỉm cười.

Chương 5 - CUỘC SĂN CỦA BÁ TƯỚC ZAROFF

Richard Connell

ằng kia, đâu đó bên hướng phải, có hòn đảo lớn, Whitney nói. Đảo khá bí ẩn...

- Đảo gì vậy? Rainsford hỏi.

- Trên bản đồ cũ, đảo mang tên: Bẫy Tàu, - Whitney trả lời. Một cái tên đầy ý nghĩa, đúng không? Thủy thủ sợ đảo này một cách lạ lùng. Tôi không biết lý do. Chắc là mê tín dị đoan gì đó...

- Tôi không thấy đảo, Rainsford nhận xét và cố nhìn qua màn đêm nhiệt đới.

Không khí ẩm bao trùm cái bóng dày ấm lên tàu khiến màn đêm như chạm vào được.

- Mắt anh tinh lắm mà, Whitney cười nói. Tôi từng chứng kiến anh thấy được một con nai sừng tấm đang di chuyển sau bụi rậm cách đớ hơn ba trăm mét. Nhưng tầm nhìn ta không thể vượt được sáu cây số vào một đêm không trăng ở biển Caraibes.

- Sáu mét còn không nổi nữa, - Rainsford thừa nhận. Gớm! Y như nhung lụa bị ướt.

- Ở Rio sẽ sáng hơn, Whitney hứa. Vài ngày nữa là ta đến. Hy vọng súng săn beo đã đến nhà Purdey rồi. Chắc là ta sẽ có vài cuộc săn thú vị khi đi ngược dòng sông Amazone. Săn bắn là môn thể thao tuyệt vời.

- Đó là môn thể thao tuyệt nhất thế giới, Rainsford đồng tình.

- Đối với người săn thôi, Whitney chỉnh. Chứ không hay đối với con beo.

- Whitney, anh đừng như thế, Rainsford nói. Anh săn thú to, chứ đâu phải làm triết lý. Ai thèm quan tâm đến cảm xúc con beo làm gì?

- Có thể chính nó, Whitney nhận xét.

- Ôi! Nó đâu đủ thông minh.

- Tôi nghĩ beo hiểu được ít nhất một điều: nỗi sợ hãi. Sợ đau và sợ chết.

- Vớ vẩn! Rainsford cười nói. Trời nóng làm lòng anh yếu mềm đi, Whitney à. Anh hãy thực tế lên đi chứ. Thế giới này chia làm hai loại: kẻ săn và kẻ bị săn. May mắn thay, anh và tôi thuộc nhóm kẻ săn. Anh nghĩ ta đã vượt qua đảo chưa?

- Tôi cũng không biết nữa, trời tối quá. Hy vọng là qua rồi.

- Tại sao? Rainsford hỏi.

- Nơi đó có tiếng... có tiếng xấu.

- Thổ dân ăn thịt người hả? Rainsford gợi ý.

- Không hẳn vậy. Cả dân ăn thịt người cũng không chịu ở một nơi đã bị các thần linh lãng quên như thế này. Nhưng không hiểu tại sao, đám thủy thủ lại biết đảo này. Anh có để ý thấy hôm nay họ hết sức căng thẳng không?

- Có, bây giờ nghe anh nói, thì đúng là tôi thấy đám thủy thủ hơi lạ. Chính thuyền trưởng Nielsen...

- Đúng, ông già Thụy Điển chai dạn kia, dám đi xin quỷ châm lửa giùm điếu thuốc, mà cũng sợ. Cặp mắt xanh lạnh lẽo của ông có một ánh nhìn mà tôi chưa bao giờ thấy trước kia. Tôi chỉ moi được ông mỗi câu: “Thưa ông, chỗ này có tiếng xấu trong giới đi biển.” Rồi ông còn nghiêm trang nói với tôi: “Ông không cảm thấy gì sao? Như thể không khí xung quanh ta thật sự hôi thối.” Vậy mà anh đừng cười tôi nếu tôi thú thật với anh điều này: đột nhiên tôi cảm nhận một cái gì đó khiến tôi lạnh người. Trời đứng gió. Biển phẳng lặng như tấm gương. Khi đó ta đang đến gần đảo. Khi đó, điều mà tôi cảm nhận, cái lạnh giá ấy, trong đầu tôi là một nỗi kinh hoàng đột ngột.

- Trí tưởng tượng thuần túy! Rainsford nói. Nỗi sợ hãi của một thủy thủ cũng đủ lây cho mọi người trên tàu.

- Có thể. Nhưng đôi khi, tôi tin rằng dân thủy thủ có một giác quan đặc biệt báo động cho họ về mối nguy hiểm. Có lúc tôi nghĩ rằng sự nguy hiểm là một cái gì đó hữu hình, có tần số, giống như ánh sáng và âm thanh vậy đó. Có thể nó là một nơi bị nguyền rủa có khả năng toả những rung động tinh quái. Nói gì thì nói, tôi lấy làm mừng rằng ta đang xa dần khỏi khu vực xấu xa này. Chắc là tôi về phòng thôi, Rainsford à.

- Tôi không buồn ngủ, Rainsford nói. Tôi sẽ ra boong sau hút thêm một ống điều nữa.

- Vậy thì chào nhé. Sáng mai gặp lại tại bàn ăn sáng.

- Chào. Chúc anh ngủ ngon, Whitney à.

Trong khi Rainsford ngồi đó, không có một tiếng động nào làm xáo động đêm khuya, ngoại trừ tiếng động khẽ của máy tàu và tiếng vỗ bập bềnh nhẹ của sóng biển.

Rainsford nằm trên chiếc ghế dài kéo vài ngụm thuốc từ ống điếu bằng rễ thạch thảo. Sự đờ đẫn thú vị của đêm khuya đè nặng lên Rainsford.

“Trời tối đen đến nỗi tôi có thể ngủ mà không nhắm mắt, Rainsford nghĩ. Màn đêm sẽ là mí mắt của tôi.”

Tiếng động đột ngột khiến Rainsford giật mình. Anh nghe thấy thứ tiếng đó ở xa đằng kia, phía bên tay phải. Đôi tai sành sỏi của anh không thể lầm được. Anh nghe lại cũng âm thanh đó, thêm một lần, rồi một lần nữa. Ở một nơi nào đó đằng xa, trong bóng tối, có người đã bắn ba phát súng.

Rainsford tò mò đứng phắt dậy, chạy ra bờ thành tàu. Anh ra sức nhìn về hướng nghe mấy phát súng, nhưng cứ như cố nhìn xuyên qua một tấm chăn. Anh nhảy lên bờ thành tàu, đứng cân bằng trên đó để có thêm độ cao. Ống điếu của anh va vào sợi dây, văng ra khỏi miệng anh. Anh nhào ra phía trước để toan chụp ống điếu lại. Anh kêu lên một tiếng ngắn và khàn khi nhận ra mình đã ra quá nhiều và bị mất thăng bằng. Tiếng kêu bị ngắt hẳn bởi làn nước biển Caraibes, ấm nóng như máu, khép lại trên đầu anh.

Rainsford vùng vẫy để trở lên mặt nước và cố la thật to, nhưng những ngọn sóng tạo ra do chiếc tàu chạy nhanh quật vào mặt anh, rồi khi anh há miệng ra, nước mặn trào vào làm anh ngộp. Rainsford ra sức bơi về hướng đèn tàu đang chạy xa dần, nhưng dừng lại khi đã đi được khoảng năm mươi mét. Anh đã lấy lại được bình tĩnh: đây không phải là lần đầu tiên anh rơi vào một tình huống khó khăn. Có cơ may trên tàu nghe tiếng la của anh, nhưng cơ may này rất nhỏ và đang giảm dần khi tàu chạy tiếp con đường của nó. Rainsford cực nhọc cởi hết quần áo và hét thật to. Ánh đèn tàu chỉ còn là những vệt mờ nhạt. Rồi màn đêm xoá hẳn đèn tàu.

Rainsford nhớ lại tiếng súng, xuất phát từ phía bên phải. Thế là anh cương quyết bơi về hướng đó, bơi những sải dài và đều đặn để giữ gìn sức lực. Suốt một thời gian như bất tận, Rainsford chống chọi lại với biển cả. Anh bắt đầu tuyệt vọng đếm từng sải bơi; có thể anh sẽ bơi thêm được mười sải nữa, rồi...

Rainsford nghe một tiếng động như chui ra từ bóng đêm; một tiếng hét cao thé, tiếng thét của một con thú đang khiếp sợ ở mức tột đỉnh.

Rainsford không nhận dạng được con thú thốt ra âm thanh đó; anh không cố gắng nhận ra. Như có thêm nguồn sinh lực, anh bơi về hướng tiếng la đó. Một lần nữa, tiếng hét vang lên, rồi bị cắt ngang bởi một tiếng khác, đứt đoạn và sẵng.

- Khẩu súng lục, Rainsford nói khẽ rồi bơi tiếp.

Sau mười phút nỗ lực bơi, tai Rainsford lại nghe được một tiếng động khác, dễ chịu vô cùng: tiếng rì rào khẽ và tiếng sóng gầm gừ vỗ vào đá trên bờ. Rainsford rơi vào đá hầu như trước khi kịp nhìn thấy chúng; nếu đêm tối hơn, thì anh đã bị dập nát rồi. Rainsford dùng hết sức lực còn lại để thoát khỏi dòng nước. Những tảng đá gồ ghề nhọn như hiện lên trong bóng đêm mờ ảo; Rainsford mệt nhọc leo lên trên đỉnh. Anh đứt hơi lên đến một chỗ bằng phẳng, hai bàn tay rát đau. Rừng rậm dày đặc trải dài theo bờ vách đá. Những bụi cây chằng chịt kia chứa đựng nguy hiểm gì dây? Hiện Rainsford không thèm để ý đến. Anh chỉ biết mình đã thoát được kẻ thù biển cả và đang kiệt sức. Rainsford thả mình nằm bên rìa rừng rậm rồi chìm vào một giấc ngủ say nhất chưa từng biết.

Khi mở mắt ra, xét theo vị trí mặt trời, Rainsford nhận thấy đang là đầu giờ chiều. Giấc ngủ đã giúp anh được hồi sức; anh đang cảm thấy đói bụng dữ dội. Anh nhìn xung quanh, với một niềm vui sướng nào đó.

- Ở chỗ có tiếng súng lục, thì có người. Ở chỗ có người, thì có thức ăn, Rainsford nghĩ bụng. Nhưng loại người như thế nào, Rainsford tự hỏi, ở một nơi rùng rợn như thế này ?

Dãy rừng chằng chịt liên tục viền dọc theo bờ biển.

Rainsford không thấy đâu đường mòn nào trong mớ cây và cỏ đó. Đi dọc theo bờ biển dễ hơn; Rainsford lội bì bõm trong nước. Anh dừng lại không xa chỗ anh đã lên bờ.

Một sinh thể bị thương, có lẽ là một con thú to xét theo dấu vết, đã xông vào bụi cây. Cây cỏ bị đè nát và lớp rêu bị rách. Tại một điểm, có một vệt đỏ sậm trên cỏ. Một vật sáng sáng thu hút sự chú ý của Rainsford. Đó là một vỏ đạn trống không.

- Đạn hai mươi hai ly, Rainsford nhận xét. Lạ thật. Bởi vì chắc con thú to lắm. Chắc người săn phải gan dạ lắm mới dám tấn công nó bằng súng cỡ nhỏ như thế. Rõ ràng con thú đã tự vệ. Có lẽ ba phát súng mà mình nghe đã được bắn trong khi người săn đuổi theo con thú cho đến đây rồi kết liễu nó.

Rainsford xem xét thật kỹ nền đất và phát hiện cái mình muốn tìm: dấu vết ủng săn. Dấu chân quay về hướng vách đá và đi theo hướng mà Rainsford đã đi. Rainsford nóng lòng háo hức bước đi nhanh, đôi khi bị trượt trên một cành cây mục hay một cục đá rung rinh, nhưng anh vẫn tiến tới. Màn đêm bắt đầu rơi xuống đảo.

Bóng tối buồn tẻ bao trùm lên biển và rừng khi Rainsford nhìn thấy ánh đèn. Rainsford tìm ra ánh sáng ở một khúc quẹo bờ biển. Thoạt đầu anh nghĩ mình đang đứng trước một ngôi làng, bởi vì có rất nhiều ánh sáng. Nhưng khi tiến tới, Rainsford sửng sốt thấy rằng tất cả mọi điểm sáng đó xuất phát từ một tòa nhà to tướng và cao lớn, có những tháp nhà đâm sâu lên cao vào bóng đêm. Mắt Rainsford nhìn ra đường nét mơ hồ của một tòa lâu đài vĩ đại sừng sững trên một vách đá cao. Ba mặt lâu đài đều có đá đâm sâu đến tận chỗ sóng biển vỗ vào.

- Ảo ảnh, Rainsford tự nhủ.

Nhưng khi mở cổng có song sắt to lớn, anh nhận ra đó không phải ảo ảnh. Các bậc thềm bằng đá là thật; cánh cửa đồ sộ có cái búa gõ hình quỷ cười khẩy cũng là thật, tuy nhiên bao trùm trên mọi thứ vẫn có một cái gì đó không thực.

Rainsford nhấc búa gõ cửa lên, nó hơi gắt và kêu cọt kẹt như thể chưa bao giờ được dùng cho đến nay. Rainsford thả nó rơi xuống và giật mình khi nghe gầm vang lên. Một lần nữa, Rainsford nhấc búa gõ lên, rồi thả rơi xuống. Khi đó cánh cửa mở ra, mở ra đột ngột như có lò xo, và Rainsford đứng yên hấp háy mắt trước ánh sáng vàng mạnh tràn ra. Điều đầu tiên Rainsford nhìn thấy là một người đàn ông, một người to lớn, rắn chắc, có bộ râu đen dài đến tận thắt lưng. Người đàn ông cầm trong tay một khẩu súng lục nòng dài chỉ thẳng vào tim Rainsford.

Trong mớ lông rậm phủ mặt ông, có hai con mắt nhỏ đang nhìn Rainsford.

- Xin anh đừng sợ, Rainsford nói với một nụ cười thật dễ thương. Tôi không phải là kẻ trộm; tôi bị rơi từ một chiếc tàu. Tên tôi là Sanger Rainsford, đến từ New York City.

Ánh nhìn người đàn ông vẫn hung hăng.

Khẩu súng vẫn chĩa đến cứng đờ như thể tên khổng lồ này là một pho tượng. Không có gì để lộ rằng ông hiểu lời nói của Rainsford, hay thậm chí rằng ông nghe thấy lời anh nói. Ông mặc bộ đồng phục màu đen có lông xám.

- Tôi là Sanger Rainsford, từ New York, Rainsford nhắc lại. Tôi bị rơi xuống biển từ một chiếc tàu. Tôi đói bụng.

Thay vì trả lời, người đàn ông dùng ngón tay kéo cái bậc búa súng lên. Rainsford thấy ông đưa bàn tay không cầm súng lên trán để chào theo kiểu quân đội. Ông chập hai gót chân lại với nhau kêu đánh cách, rồi đứng nghiêm. Một người đàn ông khác đang bước xuống cầu thang rộng lớn bằng đá hoa cương. Ông nói bằng một giọng kiểu cách, có lai giọng nước ngoài nhẹ làm nổi bật cách nói chậm rãi và chính xác cố tình của ông:

- Thật là vinh hạnh và thích thú khi được đón tiếp tại nhà ông Sanger Rainsford, nhà săn bắn lừng danh.

Theo bản năng, Rainsford bắt tay ông.

- Tôi đã đọc quyển sách của ông về chuyện săn beo tuyết ở Tây Tạng, người đàn ông giải thích. Tôi là đại tá Zaroff.

Điều đập vào mắt Rainsford trước tiên là cái đẹp rất đặc biệt của người đàn ông này, sau đó là nét độc đáo, gần như lạ lùng của gương mặt ông ta. Đó là một người đàn ông cao lớn, chắc đã nhiều tuổi, vì mái tóc ông bạc trắng. Nhưng chân mày rậm, cũng như bộ ria nhọn của ông lại đen thui như màn đêm mà Rainsford vừa mới thoát ra được. Mắt ông cũng đen, hai gò má cao, mũi thẳng, gương mặt gầy, nước da không trắng lắm, diện mạo của một người quen chỉ huy: gương mặt của một nhà quý tộc. Đại tá quay sang con người khổng lồ mặc đồng phục ra hiệu. Tên khổng lồ cất súng, chào kiểu quân đội rồi rút lui.

- Ivan là một người có sức mạnh phi thường, đại tá nhận xét, nhưng rất xui là anh ấy bị câm và điếc. E rằng anh hơi khờ, nhưng rất hung dữ như người thuộc chủng tộc đó.

- Anh ấy là người Nga à?

- Lính Cô dắc, đại tá cười để lộ môi đỏ và răng nhọn. Tôi cũng vậy. Nhưng, - ông nói, ta không nên đứng ở đây nói chuyện. Ta sẽ có dịp nói chuyện sau. Hiện anh cần quần áo, thức ăn và nghỉ ngơi. Anh sẽ có tất cả. Chỗ này nghỉ ngơi rất tốt.

Ivan đã xuất hiện lại, và đại tá nói chuyện với Ivan bằng cách nhấp nháy môi mà không thốt ra âm thanh nào.

- Ông Rainsford à, xin mời ông cứ đi theo Ivan, đại tá nói. Tôi sắp ăn cơm tối, thì ông đến. Tôi sẽ chờ ông. Tôi nghĩ ông sẽ mặc vừa quần áo của tôi.

Rainsford bước theo tên khổng lồ im lặng vào một gian phòng rộng mênh mông có xà lộ rõ trên trần và có một cái giường có thể chứa sáu người. Ivan soạn một bộ complê mặc buổi tối. Khi mặc vào, Rainsford thấy bộ đồ xuất xứ từ một nhà may ở Luân Đôn, mà nhà may này chỉ dùng kéo và kim may để phục vụ những người tối thiểu phải có chức công tước.

Phòng ăn, nơi Ivan dẫn Rainsford vào, đáng chú ý ở nhiều mặt. Nó lộng lẫy theo kiểu trung cổ và làm ta nghĩ đến phòng lớn của một vị nam tước thời phong kiến, với tường lát gỗ sồi, trần nhà rất cao, cái bàn rộng có thể cho bốn chục người ngồi. Xung quanh phòng ăn, nhìn thấy đầu nhồi rơm của đủ loại thú: sư tử, cọp, voi, tuần lộc, gấu, loại lớn nhất, hoàn hảo nhất mà Rainsford từng thấy. Đại tá ngồi ở cái bàn lớn, một mình.

- Uống một ly cốc tai, ông Rainsford nhé, đại tá gợi ý.

Ly cốc tai tuyệt hảo, và Rainsford để ý rằng toàn bộ đồ dùng: náp bàn, khăn ăn, muỗng nĩa bạc, đồ sứ đều hết sức tinh xảo.

Rainsford và đại tá ăn món súp yêu thích của người Nga, món súp đậm đà, đỏ, có kem hơi chát. Đại tá Zaroff nói như để xin lỗi:

- Chúng tôi đã cố gắng hết sức để lưu giữ được những tiện nghi của nền văn minh. Tôi xin ông bỏ qua những điều không phải. Chúng tôi ở quá xa đường xá mà! Ông có cho rằng rượu sâm banh bị dở đi do vận chuyển xa không?

- Hoàn toàn không, Rainsford tuyên bố.

Rainsford thấy đại tá là một chủ nhà nhã nhặn, chăm lo cho khách. Tuy nhiên có một cái gì đó khiến Rainsford thấy khó chịu. Mỗi khi ngước mắt lên khỏi dĩa, Rainsford thấy đại tá đang quan sát mình, ước chừng giá trị của mình.

- Có thể ông ngạc nhiên rằng tôi biết tên ông, đại tá Zaroff nói. Đó là vì tôi đã đọc mọi quyển sách đã xuất bản về đề tài săn bắn, bằng tiếng Anh, Pháp, Nga. Tôi chỉ có một niềm đam mê trong đời: săn bắn!

- Đại tá có những con thú tuyệt đẹp, Rainsford vừa ăn món thịt bò nấu rất khéo vừa nói. Con trâu ở Cap kia là con lớn nhất tôi từng được thấy.

- Ô! con này, thưa ông, là con quái vật...

- Tôi luôn cho rằng, Rainsford nói, trong số thú săn to, con trâu ở Cap là loại nguy hiểm nhất.

Đại tá không trả lời ngay. Đại tá mỉm cười với nụ cười kỳ lạ trên cặp môi đỏ.

- Không phải, thưa ông, ông lầm rồi; trâu ở Cap không phải là loại thú săn nguy hiểm nhất đâu.

Đại tá uống rượu vang từng hớp nhỏ.

- Tại đây, trong khu bảo tồn của tôi, tôi săn một loại thú nguy hiểm hơn nhiều.

Rainsford tỏ ra ngạc nhiên.

- Trên đảo này có thú săn to à?

Đại tá gật đầu.

- Thứ to nhất.

- Thế à?

- Ồ, dĩ nhiên, nó không sống tự nhiên. Tôi phải đưa nó lên đảo.

- Thưa đại tá, vậy đại tá đã du nhập loại thú săn nào vậy? Rainsford hỏi. Cọp à?

Đại tá mỉm cười.

- Không, đại tá nói. Từ nhiều năm tôi đã chán săn cọp rồi. Tôi đã khai thác hết khả năng của loài này. Cọp không còn làm tôi rùng mình nữa. Tôi không phải chịu mối nguy hiểm nào cả. Ông Rainsford à, tôi sống vì nguy hiểm.

- Nhưng loại thú săn nào...? Rainsford định nói.

- Tôi sẽ nói cho ông biết, đại tá nói. Ông sẽ thấy thích thú, tôi biết, nhưng tôi khiêm nhường thừa nhận rằng có lẽ tôi đã thành công một thứ rất hiếm lạ. Tôi đã phát minh một cảm giác mới mẻ. Tôi rót cho ông một ly rượu khác, ông Rainsford nhé?

- Cám ơn đại tá.

Đại tá rót đầy hai ly rồi nói:

- Chúa đã tạo ra một số người là nhà thơ. Chúa cho một số khác làm vua, số kia làm kẻ hành khất. Còn tôi, Chúa đã cho tôi sinh ra làm kẻ đi săn. Cha tôi từng nói, bàn tay tôi được chế tạo để bóp cò. Cha tôi rất giàu có, sở hữu nửa triệu hécta ở Crimée và là người say mê săn bắn. Tôi chưa đầy năm tuổi, thì cha tặng cho tôi một cây súng nhỏ, chế tạo tại Moskva riêng cho tôi, để tôi bắn chim sẻ. Tôi dùng súng để bắn vài con gà tây được giải của cha; nhưng cha không hề phạt tôi; cha tôi khen tôi bắn chính xác. Tôi giết được con gấu Caucase đầu tiên khi mười tuổi. Cả cuộc đời tôi chỉ là một cuộc săn dài. Tôi gia nhập quân đội; đó là điều mà các con trai gia đình quý tộc phải làm. Suốt một thời gian, tôi chỉ huy một sư đoàn kỵ binh Cô dắc, nhưng việc mà tôi thật sự quan tâm đến vẫn là săn bắn. Tôi đã săn đủ loại thú tại tất cả các nước. Tôi không thể nào nói cho ông tôi đã giết bao nhiêu con thú.

Đại tá hít vào một ngụm thuốc lá.

- Sau khi Sa hoàng sụp đổ, tôi rời bỏ đất nước này. Sĩ quan Sa hoàng không nên ở lại làm gì. Nhiều dòng họ quý tộc đã mất hết gia tài của cải. Còn tôi, cũng may mắn là tôi đầu tư những khoản tiền lớn vào trái phiếu Mỹ, nhờ vậy tôi không phải mở phòng trà ở Monte-Carlo hay làm tài xế taxi ở Paris. Dĩ nhiên là tôi tiếp tục săn: gấu grizzli ở vùng Rocky Mountains nước Mỹ của ông, cá sấu sông Hằng, tê giác Đông Phi. Chính tại châu Phi mà tôi đã bị con trâu ở Cap hành hung, buộc tôi phải nằm liệt giường suốt sáu tháng. Ngay khi lành vết thương, tôi đi săn beo ở vùng Amazone, vì nghe nói chúng đặc biệt tinh khôn. Điều này không đúng lắm. - Đại tá thở dài. - Chúng không hề ngang tầm với trình độ một người săn bình tĩnh có cây súng cỡ to. Tôi bị thất vọng cay đắng. Tôi nằm cả một đêm dưới tấm lều với một cơn nhức đầu dữ dội, thì một suy nghĩ kinh khủng hiện trong đầu tôi. Tôi bắt đầu thấy chán săn bắn! Mà ông hãy nhớ rằng săn bắn là cả cuộc đời tôi. Tôi nghe nói rằng ở Mỹ các doanh nhân suy sụp khi buộc phải từ bỏ công việc từng là cả cuộc đời mình.

- Đúng, chính xác như vậy, Rainsford nói.

Đại tá mỉm cười.

- Tôi không muốn bị suy sụp, đại tá nói cần phải làm một điều gì đó. Mà, ông Rainsford à, tôi có đầu óc phân tích. Có lẽ vì thế mà tôi thấy thích thú các vấn đề trong cuộc săn.

- Có lẽ thế, đại tá Zaroff à.

- Thế là tôi tự hỏi, đại tá Zaroff nói tiếp, tại sao săn bắn không còn làm tôi say mê nữa. Ông Rainsford à, ông nhỏ tuổi hơn tôi nhiều, và ông chưa đi săn nhiều như tôi, nhưng ông có thể đoán ra câu trả lời.

- Câu trả lời là?

- Đơn giản thế này: cuộc săn không thể gọi là thú giải trí nữa. Săn bắn đã trở nên quá dễ. Tôi chưa bao giờ hụt con mồi của tôi. Không có gì buồn chán bằng sự hoàn hảo.

Đại tá châm thêm một điếu thuốc nữa.

- Từ nay không có con thú nào có cơ may sống sót với tôi. Đây không phải là lời nói khoác. Mà là một xác thực toán học. Con thú chỉ có mấy cái chân và bản năng của nó. Bản năng không làm gì được lý trí. Khi ý nghĩ này đến với tôi, tôi xin thề với anh rằng đó là một giây phút bi kịch.

Rainsford say sưa nghe những gì ông chủ nhà nói và cúi qua bàn.

- Tôi đột nhiên hiểu ra mình phải làm gì, đại tá nói tiếp.

- Và đó là gì?

Đại tá mỉm cười, một nụ cười bình thản của một người đã đấu tranh với một chướng ngại vật và đã vượt qua.

- Tôi đã chế ra một loài mồi săn khác.

- Mồi săn khác à? Đại tá nói đùa chứ.

- Không hề, đại tá Zaroff nói. Tôi không bao giờ đùa khi nói về săn bắn. Tôi cần một con thú mới. Tôi tìm ra một con. Thế là tôi mua hòn đảo này, xây ngôi nhà này và săn bắn tại đây. Hòn đảo hoàn toàn phù hợp với ý đồ của tôi. Có rừng rậm là chỗ chứa mê cung, đồi, đầm lầy...

- Nhưng còn con thú, thưa đại tá Zaroff?

- Ồ! Đại tá kêu. Nhờ con thú này mà tôi có những cuộc săn hấp dẫn nhất thế giới. Không có cuộc săn nào so sánh nổi. Mỗi ngày tôi đi săn và tôi không bao giờ thấy buồn chán, bởi vì tôi phải đối phó một loài thú săn mà tôi có thể vận dụng trí thông minh của mình với nó.

Sự chưng hửng hiện rõ trên nét mặt của Rainsford.

- Tôi muốn một con thú săn lý tưởng, đại tá giải thích. Thế là tôi tự hỏi: “Đặc điểm của của một mồi săn lý tưởng là gì?” Và dĩ nhiên câu trả lời là nó phải dũng cảm, mưu trí và trên hết là có khả năng suy luận.

- Nhưng không có con thú nào có khả năng suy luận, Rainsford bắt bẻ.

- Ông Rainsford à, có một con, đại tá nói.

- Nhưng đại tá không định nói đến...

- Rainsford không dám nói tiếp.

- Tại sao không?

- Tôi không thể tin ông nói nghiêm túc, đại tá Zaroff à. Đây là một trò đùa rùng rợn.

- Tại sao tôi không thể nghiêm túc? Tôi đang nói về săn bắn mà.

- Săn bắn à? Chúa ơi, đại tá Zaroff, ông đang nói về chuyện sát nhân thì đúng hơn.

Đại tá Zaroff cười hết sức vô tư và ranh mãnh liếc nhìn Rainsford.

- Tôi không thể tin rằng một chàng trai trẻ hiện đại và văn minh như ông lại có thể nuôi giữ những suy nghĩ lãng mạn như thế về nhân mạng. Chắc chắn kinh nghiệm về chiến tranh...

Đại tá dừng lại.

- ... đã không khiến tôi có thái độ khoan dung đôi với chuyện sát nhân có cân nhắc, Rainsford khó chịu nói hết câu.

Đại tá rung lên vì cười.

- Ông thật là kỳ cục buồn cười! đại tá nói. Đâu phải ngày nào cũng có thể gặp, cả ở nước Mỹ, một người từ một giới gọi là trí thức mà lại có những suy nghĩ ngây thơ như thế, tôi xin mạn phép có sự đánh giá này, mang nặng dấu ấn của tư tưởng thời Victoria. Cũng y như tìm thấy một cái bao thuốc hút trong chiếc xe limousine. À! chắc là tổ tiên ông là tín đồ Thanh giáo. Giống như bao nhiêu người Mỹ. Tôi bảo đảm ông sẽ quên hết tư tưởng của ông khi đi săn với tôi. Những cảm xúc thật và chưa từng có đang chờ đợi ông, ông Rainsford à.

- Cám ơn, tôi là người săn bắn, chứ không phải kẻ sát nhân.

- Chúa ơi, viên đại tá bình thản nói, lại cái từ xấu xa kia. Nhưng tôi xin hứa sẽ chứng minh được rằng ông ngại ngùng như vậy là không có cơ sở.

- Vậy sao?

- Sự sống dành cho kẻ mạnh, và khi cần thì được tước bỏ bởi kẻ mạnh. Kẻ yếu được sinh ra để giúp vui cho kẻ mạnh. Tôi mạnh. Tại sao tôi lại không sử dụng lợi thế này? Nếu tôi thích săn bắn, thì tại sao tôi không được làm thế? Tôi săn cặn bã của thế giới này, thủy thủ tàu hàng, bọn vô lại, bọn Đen, bọn Tàu, bọn da trắng, bọn lai. Một con ngựa thuần giống hay một con chó giống trị giá gấp hai chục lần bọn chúng.

- Nhưng họ là người, Rainsford nhanh miệng nói.

- Chính vì thế, đại tá nói. Chính vì thế mà tôi sử dụng chúng. Làm như vậy tôi thấy thích thú. Chúng có khả năng suy luận ít nhiều. Nên chúng nguy hiểm hơn.

- Nhưng ông lấy họ từ đâu?

Mí mắt trái của đại tá sụp xuống thành cái nháy mắt.

- Hòn đảo này tên là: Bẫy Tàu, đại tá trả lời. Đôi khi, trong cơn thịnh nộ, một vị thần biển cả gởi chúng đến cho tôi. Đôi khi, khi ý trời không khoan dung, thì tôi giúp ý trời một chút. Mời ông ra cửa sổ với tôi.

Rainsford tuân lệnh và nhìn ra biển.

- Nhìn kỹ đi, kia, ngoài khơi, đại tá thốt lên, ngón tay chỉ vào bóng đêm.

Mắt Rainsford chỉ thấy màn đêm. Đại tá ấn một nút; ngoài khơi, Rainsford thấy ánh sáng bắn ra.

Đại tá có tiếng cười tự mãn.

- Đèn sáng tạo ra một đường nước không có thật. Có những dãy đá ngầm to tướng núp dưới biển như thế đang há to mồm. Đá có thể làm vỡ một chiếc tàu dễ dàng như tôi đập vỡ hạt dẻ này.

Đại tá thả rơi một hạt dẻ xuống sàn gỗ cứng, rồi dùng gót chân đạp nát.

- Ồ! đúng, đại tá nói như để trả lời một câu hỏi. Tôi có điện. Ở đây chúng tôi cố gắng sống văn minh.

- Văn minh à? Vậy mà ông bắn vào con người?

Tia sáng giận dữ thoáng hiện trong mắt đại tá trong khoảnh khắc một giây, nhưng rồi ông nói bằng giọng thật tử tế:

- Chúa ơi! Một chàng trai đạo đức thế! Tôi xin cam đoan với ông rằng tôi không hề làm những gì ông nói. Như thế là man rợ. Tôi đối xử với những vị khách này với lòng kính trọng. Chúng không hề thiếu thốn thức ăn và luyện tập. Chúng nhanh chóng có được tình trạng thể lực hoàn hảo. Chính ông sẽ thấy vào ngày mai.

- Ý ông muốn nói sao?

- Ta sẽ đi tham quan trung tâm luyện tập của tôi, đại tá mỉm cười nói ở dưới tầng hầm. Hiện tôi có khoảng một chục học viên. Chúng đến từ con tàu Tây Ban Nha San Lucar, đã kém may mắn va vào đá đằng kia. Một lô hàng chất lượng kém, tôi rất tiếc là phải nói thế. Những mẫu vật tồi tàn, quen ở trên boong tàu hơn ở trong rừng.

Đại tá đưa tay lên, và Ivan, cũng là gia nhân, mang cà phê Thổ Nhĩ Kỳ đậm ra. Rainsford phải cố gắng để không nói chuyện.

- Đây chỉ là một trò chơi, ông hiểu cho, đại tá nói nhã nhặn. Tôi đề nghị một cuộc săn với một tên trong bọn chúng. Tôi cho nó lương thực và một con dao săn rất tốt. Tôi chấp nó ba giờ. Đã thoả thuận là tôi sẽ theo nó, với một khẩu súng cỡ nhỏ, tầm ngắn. Nếu con mồi của tôi thoát khỏi tôi trong ba ngày, thì nó chiến thắng. Nếu bị tôi tìm thấy... - đại tá nở một nụ cười - thì nó thua.

- Còn nếu anh ta không chịu làm mồi săn?

- Ồ! đại tá kêu, dĩ nhiên là tôi cho nó quyền lựa chọn. Nó không bắt buộc phải chơi, nếu không muốn. Nếu nó không muốn tham gia cuộc săn, thì tôi giao nó cho Ivan. Xưa kia, Ivan từng được vinh dự làm đao phủ roi da đúng chức vị của Nga hoàng Vĩ Đại, và Ivan có suy nghĩ riêng về cách giải trí. Luôn luôn, ông Rainsford à, luôn luôn chúng nó chọn cuộc săn.

- Còn nếu họ thắng?

Nụ cười trên gương mặt đại tá nở rộng hơn.

- Cho đến ngày hôm nay, tôi chưa bị thua, đại tá nói.

Rồi đại tá nói thêm ngay:

- Tôi không muốn ông nghĩ tôi nói khoác, ông Rainsford à. Đa số bọn chúng chỉ gây ra vấn đề thuộc loại cơ bản nhất. Lâu lâu, tôi gặp được một con mồi săn tầm cỡ một chút. Có một tên xém thắng cuộc. Cuối cùng tôi buộc phải vận dụng lũ chó.

- Lũ chó à?

- Mời ông đi ngả này. Tôi sẽ cho ông xem.

Đại tá dẫn Rainsford đến một cửa sổ. Đèn từ cửa sổ chiếu một thứ ánh sáng nhảy nhót tạo những hình bóng kỳ quặc trên nền sân phía dưới. Rainsford thấy ba bốn cái bóng đen to di chuyển. Khi chúng quay lên hướng Rainsford, mắt chúng sáng lên màu xanh lục.

- Theo tôi nghĩ, đây là một đội quân cũng khá, đại tá nhận xét. Chúng được thả lúc bảy giờ mỗi tối. Nếu có ai toan lẻn vào nhà tôi, hoặc trốn ra, thì sẽ gặp những chuyện rất tệ hại.

Đại tá hát lầm rầm một đoạn bài hát ở Folies-Bergères.

- Và bây giờ, đại tá nói, tôi sẽ cho ông xem bộ SƯU tập những cái đầu mới của tôi. Xin mời ông đến thư phòng cùng tôi.

- Tôi mong ông sẽ thứ lỗi cho tôi tối nay, thưa đại tá Zaroff, Rainsford nói. Tôi hoàn toàn không cảm thấy khoẻ.

- À, thế à? - Đại tá ân cần hỏi thăm. Tôi nghĩ đó là điều không có gì bất bình thường cả; ông đã bơi lội nhiều quá mà. Ông cần ngủ một đêm cho ngon giấc để lấy lại sức. Tôi bảo đảm ngày mai ông sẽ thấy khác hẳn. Khi đó, ta sẽ đi săn nhé? Tôi có một kế hoạch khá hay...

Rainsford vội vàng bước ra khỏi phòng.

- Tôi rất tiếc ông không thể đi cùng tôi tối nay, - đại tá la với theo. Tôi hy vọng sẽ có một cuộc săn hấp dẫn: một thằng da đen to lớn, khoẻ mạnh. Trông nó rất lanh lợi. Vậy chúc ông ngủ ngon, ông Rainsford nhé. Hy vọng tối nay ông sẽ ngủ ngon.

Giường ngủ rất êm, bộ áo ngủ bằng lụa mềm mại. Rainsford cảm thấy mệt mỏi trong từng sớ thịt trong cơ thể. Tuy nhiên, giấc ngủ không mang lại sự bình yên cho trí óc anh. Rainsford nằm trên giường, mắt mở to. Có một lần, Rainsford có cảm giác nghe tiếng chân bước rón rén ngoài hành lang, ngay bên ngoài phòng ngủ. Anh định mở cửa thật mạnh ra; nhưng nó không mở. Rainsford ra cửa sổ nhìn ra ngoài. Phòng anh nằm trên một tháp cao. Bây giờ đèn trong lâu đài đã tắt hết. Tất cả đều tối tăm và lặng lẽ; nhưng có một mảnh trăng vàng; ánh sáng mờ ảo cho phép thấy được sân. Những hình thù đen, lặng lẽ, lẻn vào dải tối rồi trở ra, liên tục.

Lũ chó nghe thấy Rainsford và ngẩng đầu lên; ánh mắt xanh lục của chúng có vẻ chầu chực. Rainsford trở về giường, nằm xuống. Rainsford cố gắng thiếp ngủ bằng đủ mọi cách. Rainsford đã lim dim được một chút, lúc mặt trời bắt đầu ló ra, thì đột nhiên anh nghe tiếng súng khẽ, ngoài rừng.

Đến lúc ăn trưa đại tá Zaroff mới xuất hiện. Đại tá mặc bộ complê vải tuýtxi, y như một nhà quý tộc ở quê. Đại tá hỏi thăm sức khoẻ Rainsford.

- Còn tôi, đại tá thở dài, tôi cảm thấy không khoẻ lắm. Tôi lo lắm, ông Rainsford à. Tôi hôm qua, tôi bắt gặp trong mình các dấu hiệu của căn bệnh cũ.

Khi thấy ánh mắt dò hỏi của Rainsford, đại tá trả lời:

- Buồn chán; nỗi buồn chán.

Rồi, sau khi lấy thêm bánh, đại tá giải thích:

- Cuộc săn tối hôm qua không tốt lắm. Thằng đó bị hoảng lên. Nó chạy thẳng phía trước, trên một con đường hết sức dễ theo. Đó là sự phiền phức của bọn thủy thủ. Trí óc bọn chúng rất tồi tàn và chúng không biết định hướng trong rừng. Chúng làm những việc ngu ngốc quá hiển nhiên. Thật là chán chường. Tôi rót cho ông một ly rượu chát mới, ông Rainsford nhé?

- Thưa đại tá, Rainsford nói bằng một giọng cương quyết, tôi muốn rời khỏi đảo này ngay.

Đại tá giương đôi mày rậm lên. Trông đại tá có vẻ phật ý.

- Nhưng thưa ông, đại tá nói, ông vừa mới đến mà. Ông chưa đi săn.

- Tôi muốn ra đi ngay hôm nay, Rainsford nói.

Rainsford thấy cặp mắt đen của đại tá dán vào mình; quan sát mình. Đột nhiên gương mặt đại tá Zaroff sáng lên.

Đại tá rót cho Rainsford một ly rượu từ một cái chai bụi bậm.

- Tối nay, đại tá nói, ông và tôi sẽ đi săn.

Rainsford lắc đầu.

- Không, thưa đại tá, Rainsford nói, tôi không muốn đi săn.

Đại tá nhún vai rồi ăn nho trồng trong nhà kính.

- Tùy ông thôi, ông bạn à, đại tá nói. Chính ông sẽ là người quyết định, một mình. Nhưng ông cho phép tôi gợi ý với ông rằng ông sẽ thấy quan niệm về săn bắn của tôi hấp dẫn hơn quan niệm của Ivan chứ?

Đại tá hất đầu chỉ vào góc nơi tên khổng lồ đang đứng, hai tay khoanh trước cái ngực to như thùng phuy.

- Chẳng lẽ đại tá nói rằng... Rainsford phản đối.

- Ông bạn à, đại tá nói, tôi đã nói trước với ông rằng tôi không bao giờ nói đùa khi nói về săn bắn sao? Đúng là một cảm hứng. Tôi xin nâng ly chúc mừng một đối thủ chất lượng đáng so sánh với tôi, cuối cùng...

Đại tá nâng ly lên, và Rainsford mở to mắt nhìn ông.

- Ông sẽ thấy là trò này rất đáng chơi, đại tá hăng hái nói. Trí thông minh của ông chống lại trí thông minh của tôi. Kiến thức về rừng rậm của ông chống lại kiến thức tôi. Sức lực, sự dẻo dai của ông chống lại tôi. Một ván cờ vua ngoài trời! Và phần thưởng rất có giá trị, đúng không?

- Còn nếu tôi thắng...? Rainsford bắt đầu nói bằng một giọng khàn khàn.

- Tôi sẽ vui vẻ công nhận tôi thua cuộc nếu như, đúng mười hai giờ khuya, ngày thứ ba, tôi không tìm ra ông, đại tá Zaroff nói. Tàu của tôi sẽ đưa ông về đất liền, gần một thành phố.

Đại tá đi guốc trong bụng Rainsford.

- Ô! ông cứ tin tôi, đại tá nói. Tôi xin hứa lời danh dự quân tử và người săn. Dĩ nhiên là phần ông, ông phải hứa không được nói gì về chuyến thăm chỗ này.

- Tôi sẽ không hứa gì cả, Rainsford nói.

- À! đại tá kêu, nếu vậy... nhưng cần gì thảo luận ngay bây giờ? Trong ba ngày nữa ta sẽ bàn chuyện này bên chai sâm banh Veuve Cliquot, trừ phi...

Đại tá đang nhấm nháp rượu. Rồi tự nhiên đại tá sốt sắng lên và nói với Rainsford như một doanh nhân lanh lợi:

- Ivan sẽ cung cấp cho ông trang phục đi săn, lương thực, dao. Tôi khuyên ông nên đi giày mọi; dấu vết để lại nhẹ hơn. Tôi cũng khuyên ông nên tránh khu đầm lầy lớn ở góc đông - nam hòn đảo. Chúng tôi gọi nó là Đầm lầy Chết chóc. Ở đó có những chỗ cát lún thụt. Một thằng ngu ngốc đã thử mạo hiểm vào đó. Chuyện tồi tệ nhất là con Lazarus đi theo nó. Ông dễ dàng đoán cảm xúc của tôi, ông Rainsford à. Tôi rất thương con Lazarus, con chó đẹp nhất bầy. Nhưng bây giờ tôi xin lỗi ông. Tôi luôn ngủ trưa sau bữa ăn. E rằng ông chỉ kịp ngủ một giấc ngắn thôi. Có lẽ ông sẽ đòi đi ngay. Tôi sẽ không lần theo ông trước hoàng hôn. Cuộc săn giàu cảm xúc vào ban đêm hơn ban ngày, ông có nghĩ thế không? Tạm biệt, ông Rainsford, tạm biệt.

Đại tá Zaroff chậm rãi rời khỏi phòng ăn, cúi chào lịch thiệp.

Ivan bước vào bằng một cửa khác.

Ivan đang cầm trong một tay bộ trang phục đi săn bằng kaki, một bị lương thực, một bao da chứa con dao săn lưỡi rất dài; tay kia Ivan đặt trên một khẩu súng lục đã lên cò sẵn và nhét trong sợi dây nịt đỏ cột quanh eo...

Suốt hai tiếng, Rainsford cực nhọc tìm đường qua rừng rậm.

“Phải giữ bình tĩnh; phải giữ bình tĩnh”, Rainsford cắn chặt răng tự nhủ.

Rainsford đã bị cuống lên khi cổng lâu đài khép lại phía sau lưng anh với tiếng kêu rắc. Thoạt đầu, Rainsford chỉ có một ý nghĩ: tạo khoảng cách giữa mình và đại tá Zaroff. Anh đã đâm thẳng phía trước mặt mà chạy, với một cảm xúc rất gần như hoảng hốt. Nhưng bây giờ anh đã bình tĩnh hơn, anh dừng lại, suy nghĩ và đánh giá tình thế.

Rainsford hiểu ra rằng chạy trốn theo đường thẳng là ngốc nghếch, việc này chắc chắn sẽ dẫn anh ra biển. Anh bị kẹt trong một cái khung có nước bao quanh, và dĩ nhiên mọi chuyển động của anh phải nằm trong cái khung này.

- Mình phải tạo cho hắn dấu vết để mà theo, Rainsford nói khẽ.

Rainsford rời bỏ con đường đang theo để đâm vào rừng rậm không có đường mòn. Anh đi những vòng khép kín phức tạp, và nhiều lần bước trở lui theo dấu chân vừa mới đi, cố nhớ lại tất cả những gì đã ghi nhận về cuộc săn cáo và mưu mẹo của con cáo. Đến đêm, anh dừng trên một ụ đất nhô có cây mọc sát nhau, tay chân và mặt mày bị cành cây cào xước. Rainsford thừa biết đi mò trong đêm là chuyện điên rồ, giả sử anh còn sức. Anh đang cần nghỉ ngơi. Rainsford nghĩ bụng: “Mình đã đóng vai con cáo rồi; bây giờ mình phải làm con mèo trong truyện ngụ ngôn.” Ngay đó có một cây thân to, cành xoè; Rainsford cẩn thận không để lại dấu vết, leo lên chạc cây, rồi nằm trên một cành to. Nghỉ ngơi khiến Rainsford tự tin lại; anh cảm thấy gần như an toàn. Một người săn, cho dù có hăng say như đại tá Zaroff cũng không thể tìm ra anh, Rainsford tự nhủ như vậy; vào ban đêm, chỉ có quỷ mới đi theo dấu vết rối rắm như thế xuyên qua rừng nổi. Nhưng có thể đại tá Zaroff chính là quỷ.

Ban đêm kéo dài, bất tận, đầy đe doạ, như một con rắn bị thương. Giấc ngủ không đến với Rainsford, mặc dù sự im lặng của một thế giới chết ngự trị trên khu rừng rậm. Đến sáng, khi bầu trời nhuộm màu xám chì, tiếng một con chim giật mình kêu lên khiến Rainsford chú ý đến hướng đó. Một cái gì đó đang tiến tới, xuyên qua bụi rậm, tiến tới chậm chạp, thận trọng, tiến qua chính lối đi mà Rainsford đã đi. Rainsford nằm thật sát vào cành cây và rình rập xuyên qua lá cây dày như tấm rèm. Vật đang tiến đến gần anh là một con người.

Chính là đại tá Zaroff. Đại tá tiến tới, mắt nhìn chằm chằm xuống đất, tập trung tột độ. Đại tá dừng lại, gần như ngay dưới cây, quỳ xuống xem xét nền đất. Phản ứng đầu tiên của Rainsford là muốn nhảy xuống đất, như một con beo, nhưng anh nhìn thấy một vật kim loại nhỏ trong tay phải của đại tá; khẩu súng lục tự động.

Người đi săn lắc đầu nhiều lần, như thể không hiểu nổi. Rồi đứng dậy, rút ra khỏi bao thuốc một điếu thuốc lá đen. Khói cay bay lên đến mũi Rainsford. Anh nín thở. Ánh nhìn của đại tá đã rời khỏi mặt đất và đang đi lên, từng phân một, dọc theo thân cây. Rainsford nằm yên trên đó, mọi cơ bắp căng ra đề phòng. Nhưng kẻ đi săn dừng mắt trước khi đến cành cây nơi Rainsford đang nằm. Một nụ cười hiện trên gương mắt rám nắng của đại tá. Với sự chậm rãi tính toán, đại tá phà lên không khí một vòng khói tròn, rồi quay lưng lại với cây, ung dung bỏ đi, theo lối đi cũ mà đại tá đã đến. Tiếng ủng cạ vào bụi cây kêu sột soạt khẽ dần.

Phổi Rainsford phì ra một lần lượng khí nóng kẹt trong đó. Ngay khi lấy lại được khả năng suy nghĩ, Rainsford cảm thấy choáng váng và ê ẩm. Đại tá có thể theo được dấu chân vào ban đêm, xuyên qua rừng. Đại tá có thể theo một dấu vết rất phức tạp; có lẽ đại tá có năng khiếu siêu tự nhiên.

Đại tá đã suýt phát hiện con mồi.

Suy nghĩ thứ nhì của Rainsford càng khủng khiếp hơn nữa và khiến anh rùng mình với cảm giác lạnh xương sống.

Rainsford không chịu tin điều mà lý trí anh mách bảo, nhưng sự thật hiển nhiên như tia nắng mặt trời đang chiếu qua sương mù ban mai. Đại tá đang đùa giỡn với anh! Đại tá tha cho anh để kéo dài trò chơi thêm một ngày nữa! Đại tá là con mèo, Rainsford là con chuột. Chính vào lúc đó, Rainsford cảm nhận được thế nào là nỗi khiếp sợ.

- Mình không muốn mất bình tĩnh. Mình không muốn mất bình tĩnh.

Rainsford thả mình trở xuống đất, rồi bỏ đi vào rừng. Nét mặt căng thẳng, anh buộc đầu óc phải làm việc. Đi xa được cách chỗ trốn khoảng ba trăm mét, Rainsford dừng ở chỗ khối to của một cây chết tựa mong manh vào một cây khác còn sống và nhỏ hơn. Rainsford bỏ bị lương thực xuống, rút dao ra khỏi bao rồi tập trung hết năng lực bắt tay vào việc.

Khi làm xong, Rainsford thả mình sau một khúc cành rơi cách đó khoảng một trăm mét. Rainsford không phải chờ lâu. Mèo trở lại tìm chuột để giỡn.

Đại tá Zaroff đang đến, lần theo dấu chân chắc chắn như một thám tử. Không có gì thoát khỏi đôi mắt đen của đại tá, không một chiếc lá bị chà đạp nào, không một cành cây cong, không một dấu chân trên rêu, dù nhẹ đến mấy. Hắn quá tập trung đi theo dấu chân đến nỗi đụng phải cái mà Rainsford đã bố trí trước khi kịp nhìn thấy. Chân đại tá chạm cành cây nhô ra đóng vai trò cò súng. Đúng lúc chạm vào đó, đại tá cảm nhận được nguy hiểm và nhảy lùi ra phía sau khéo léo như một con khỉ. Nhưng đại tá không đủ nhanh; cây chết, tựa nhẹ trên cây sống, mà Rainsford đã chặt, sụp đổ xuống thật mạnh và trúng đại tá, trượt dọc theo vai đại tá. Nếu không phản xạ nhanh, thì chắc chắn đại tá đã bị đè bẹp dưới khối cây. Đại tá choáng váng, nhưng không ngã và không thả súng. Đại tá đứng đó bất động, xoa cái vai bị trúng. Rainsford lại bị nỗi sợ dày vò khi nghe tiếng cười chế giễu của đại tá vang lên trong rừng.

- Rainsford ơi, đại tá la lên, nếu ông ở tầm nghe, như tôi đoán, thì xin cho tôi có lời khen. Rất ít người biết làm một cái bẫy người như ở Mã Lai. Cũng may cho tôi, tôi từng đi săn ở bán đảo Malacca. Ông là người rất thú vị, ông Rainsford à. Bây giờ tôi sẽ đi băng bó vết thương. Chỉ bị thương nhẹ thôi mà. Rồi tôi sẽ quay lại, tôi sẽ quay lại.

Khi đại tá, đang xoa cái vai đau, đã đi xa rồi, Rainsford tiếp tục chạy trốn. Bây giờ đúng là một cuộc tháo chạy, một cuộc tháo chạy dữ dội, điên cuồng, suốt mấy tiếng đồng hồ. Hoàng hôn xuống, rồi màn đêm, nhưng Rainsford vẫn tiến tới với cùng tốc độ. Nền đất mềm hơn dưới giày mọi của anh: cây cối rậm rạp um tùm hơn; côn trùng tấn công để đốt anh. Khi tiến tới, chân anh lún xuống bùn. Rainsford cố rút ra, nhưng bùn lầy cứ hút chân anh thật mạnh, như một con đỉa to tướng. Chỉ bằng nỗ lực rất lớn, Rainsford mới kéo cái chân ra được. Bây giờ Rainsford đã biết mình đang ở đâu: Đầm Lầy Chết Chóc và vùng cát lún.

Rainsford nắm chặt hai tay cứng ngắc, như thể sự bình tĩnh của anh là một cái gì đó hữu hình đang bị một kẻ nào đó trong bóng tối toan giật lấy khỏi tay anh. Nền đất mềm nhũn làm anh nảy ra một ý. Rainsford lùi xa khoảng vùng cát lún khoảng một chục mét rồi tiến hành lục soát, y như một con hải ly thời tiền sử khổng lồ.

Hồi thời chiến, Rainsford từng đào chỗ trú cho mình ở Pháp khi mà mỗi giây trễ nãi có thể gây ra cái chết. Lúc đó chỉ là một trò giải trí bình yên so với việc anh đang làm bây giờ. Hố trở nên sâu hơn. Khi miệng hố cao hơn vai, Rainsford bước ra, chặt vài cây nhỏ cứng chắc, gọt đầu cho nhọn làm thành chông. Anh cắm dưới hố, mũi nhọn hướng lên trên. Bằng ngón tay nhanh nhẹn như bay, Rainsford dệt một tấm thảm thô sơ bằng cỏ và cành cây, che lại miệng hố. Rồi ướt đẫm mồ hôi, người ê ẩm do mệt mỏi, Rainsford núp sau gốc cây bị sét làm cháy.

Rainsford biết kẻ truy lùng mình đang rất gần. Anh nghe tiếng chân bước trên nền đất mềm. Gió đêm mang đến cho anh mùi thuốc lá của đại tá. Rainsford có cảm giác đối thủ đang tiến tới với độ nhanh bất bình thường. Không mò mẫm, từng bước một. Từ chỗ núp, Rainsford không thể nhìn thấy đại tá và cái bẫy. Trong vòng một phút, Rainsford như sống qua một năm trời. Rồi anh muốn hét lên vui mừng khi nghe tiếng cành cây kêu rắc lúc nắp bẫy vỡ ra. Rồi có tiếng thét đau đớn khi chông nhọn có tác dụng. Khi đó Rainsford lao ra khỏi chỗ núp, rồi kinh hoàng lùi lại.

- Công việc xuất sắc, ông Rainsford à, giọng nói của đại tá la đến. Cái bẫy cọp kiểu Miến Điện của ông đã làm mất mạng con chó giỏi nhất của tôi. Ông lại ghi thêm được một điểm. Để tôi xem ông làm gì được chống lại cả bầy chó săn. Bây giờ tôi về nhà nghỉ đây. Cám ơn ông về buổi tối vui thích này.

Lúc rạng sáng, Rainsford, đang nằm gần đầm lầy, bị đánh thức bởi một tiếng động khiến anh hiểu ra mình chưa biết hết về nỗi sợ hãi. Tiếng động xa, yếu và không rõ ấy, Rainsford đã nhận ra: tiếng sủa của bầy chó săn.

Rainsford biết rằng có thể có hai quyết định. Ở lại tại chỗ và chờ đợi, tương đương với tự sát. Bỏ chạy, là chỉ đẩy lùi việc tất yếu phải xảy ra. Rainsford ở lại đó suy nghĩ một hồi. Một ý nghĩ nảy vào đầu anh, dường như có bóng dáng cơ may bay thoáng qua. Anh siết chặt dây nịt, đi về hướng ngược lại với đầm lầy.

Tiếng sủa của bầy chó săn nghe gần lại; gần hơn, càng lúc càng gần lại, luôn luôn gần lại dần. Rainsford trèo lên cây trên một đồi nhỏ. Cách đó khoảng nửa cây số, Rainsford thấy bụi cây động đậy. Ánh mắt căng thẳng của Rainsford nhìn thấy hình bóng gầy của đại tá Zaroff. Ngay phía trước đại tá, Rainsford thấy một hình bóng khác có đôi vai vuông vức nhô ra khỏi cỏ cao. Đó là Ivan, tên khổng lồ. Trông hắn như bị một lực vô hình kéo về phía trước. Rainsford suy ra hắn đang cầm dây dắt bày chó săn.

Chẳng bao lâu bọn chúng sẽ đến chỗ Rainsford. Trí óc Rainsford hoạt động rất nhanh. Và anh nhớ đến một cái mẹo mà dân bản xứ ở Ouganda đã chỉ cho anh. Rainsford trượt xuống đất, chụp lấy một cây con mềm dẻo, cột con dao vào đó, lưỡi dao hướng ra con đường mòn. Anh dùng cọng cây nho dại, bẻ và cột cây con lại. Rồi Rainsford chạy hết sức mình. Tiếng bày chó săn tăng lên khi chúng phát hiện dấu vết mới mẻ. Bây giờ Rainsford đã biết một con thú bị dồn đến bước đường cùng cảm thấy như thế nào.

Rainsford phải dừng lại để thở. Tiếng chó sủa chấm dứt đột ngột và tim của Rainsford cũng dừng theo. Có lẽ bọn chúng đã đến chỗ con dao.

Rainsford leo lên cây, nhìn lại phía sau. Bọn rượt theo anh đã đứng lại. Nhưng tia hy vọng len trong lòng Rainsford khi leo lên cây lại tan biến. Trong thung lũng không sâu, Rainsford thấy đại tá Zaroff vẫn đứng đó. Nhưng Ivan đã biến mất. Con dao, bắn ra nhờ kéo cây con, đã không phải không trúng đích.

Rainsford chỉ vừa kịp thả mình trở xuống đất, thì tiếng sủa vang lên tiếp.

- Bình tĩnh! Bình tĩnh! Bình tĩnh! Rainsford hổn hển đâm thẳng về phía trước.

Bày chó săn vẫn cứ tiến lại gần. Rainsford chạy ra chỗ trống. Anh ra đến đó. Bờ biển. Phía bên kia vịnh, Rainsford nhìn thấy lâu đài đá xám rùng rợn. Không đầy ba mét phía dưới, sóng biển kêu rít và gầm gừ. Rainsford lưỡng lự. Anh nghe tiếng bày chó săn. Khi đó, Rainsford nhào xuống biển, thật xa.

Khi đại tá và đàn chó săn đến chỗ Rainsford đã nhảy xuống biển, đại tá dừng lại. Đại tá đứng đó nhìn suốt vài phút, quan sát biển xanh mênh mông. Rồi đại tá nhúng vai, ngồi xuống, uống hớp cognac trong cái chai bạc, châm điếu thuốc thơm, hát lầm rầm một điệu nhạc mà ông ưa thích.

Tối hôm đó, đại tá Zaroff ăn một bữa tối ngon lành trong phòng ăn có lợp gỗ ở tường. Có hai bóng tối khiến niềm vui của đại tá không được hoàn hảo: ý nghĩ rằng sẽ khó tìm người thay Ivan và ý nghĩ rằng con mồi đã thoát. Dĩ nhiên, tay người Mỹ này không chơi đúng luật, đại tá vừa nghĩ vừa uống rượu giúp tiêu hoá. Trong thư phòng, đại tá ngồi đọc những đoạn Marc- Aurèle để tự an ủi. Lúc mười giờ, ông lên phòng ngủ. Đại tá cảm thấy mệt mỏi một cách thích thú, rồi khoá cửa phòng lại. Ngoài trời có chút ánh trăng. Trước khi bật đèn lên, ông ra cửa sổ nhìn xuống sân, thấy bầy chó săn to rồi la với chúng:

- Lần sau tụi mày sẽ may mắn hơn.

Rồi đại tá bật đèn lên.

Một người đàn ông đã núp sau rèm cửa sổ, và đang đứng đó.

- Rainsford! đại tá hét lên. Làm thế nào anh lên được đến đây?

- Bơi, Rainsford trả lời. Tôi thấy bơi nhanh hơn đi bộ qua rừng.

Đại tá hít thật sâu, rồi mỉm cười.

- Chúc mừng ông, đại tá nói. Ông đã chiến thắng.

Rainsford không mỉm cười.

- Tôi vẫn còn là một con thú bị dồn đến bước đường cùng, Rainsford nói bằng một giọng khàn và trầm. Đại tá Zaroff, đại tá chuẩn bị đi.

Đại tá cúi chào thật thấp.

- Tôi hiểu rồi, đại tá nói. Tuyệt! Một trong hai ta sẽ làm bữa ăn cho bày chó săn. Người kia sẽ được ngủ trong cái giường êm ấm này. Chuẩn bị đấu đi, Rainsford à.

“Mình chưa bao giờ được ngủ trong một cái giường êm như thế này”, Rainsford nghĩ bụng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: