quan he cong chung
(Viết về khoa Đông Phương – Đại học Lạc Hồng)
Đồng Nai là một tỉnh công nghiệp nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam (bao gồm: Đồng Nai, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu), có nhiều khu công nghiệp được hình thành từ trước những năm 1975. Đến những năm 1990, thực hiện chủ trương của Đảng – Nhà nước về công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước thong qua việc tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Đồng Nai đã ngày càng hình thành và phát triển thêm nhiều khu công nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu cung ứng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa của Đồng Nai nói riêng và khu kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung; nguyện vọng của Đảng bộ, Chính Quyền và nhân dân Đồng Nai mong muốn có một trường Đại học tại Đồng Nai.
Từ những năm 1993 -1994, lãnh đạo tỉnh đã nhìn thấy nhu cầu bức thiết phải xây dựng một trường Đại học tại Biên Hòa – Đồng Nai nhằm tạo nguồn nhân lực kịp thời đáp ứng đà phát triển kinh tế - xã hội tại tỉnh nhà. Đó là cơ sở thuận lợi cho việc sớm ra đời một trường đại học tại Đồng Nai.
Trường Đại học Lạc Hồng được thành lập theo Quyết định số 790/TTg ngày 24/09/1997 của Thủ tướng Chính phủ và hoạt động theo Quyết định số 3678/GD – ĐT ngày 13/11/1997 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Trường Đại học Lạc Hồng là một cơ sở giáo dục đa ngành, đa cấp học; gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, chuyến giao công nghệ trong các lĩnh vực kỹ thuật công nghệ, kinh tế và xã hội nhân văn. So với các nhóm ngành khác, ngành xã hội nhân văn được thành lập muộn hơn và đang trong giai đọan hoàn thiện cả về nội dung lẫn chất lượng đào tạo.
Khoa Đông Phương học – Trường Đại học Lạc Hồng được thành lập năm 2002. Khi mới thành lập, Khoa chỉ có chuyên ngành Trung Quốc học. Sang năm 2003, Khoa mở thêm chuyên ngành Nhật Bản học và Hàn Quốc học. Ngoài ra, để đáp ứng nhu cầu của người học, trong năm 2007, Khoa Đông Phương học đã mở thêm ngành Việt Nam học (chuyên về Hướng dẫn du lịch). Hiện nay, toàn Khoa Đông Phương học có 1508 sinh viên đang theo học ở cả 4 chuyên ngành nói trên, trong đó 276 sinh viên ngành Trung Quốc học, 614 sinh viên ngành Nhật Bản học, 411 sinh viên ngành Hàn Quốc học và 207 sinh viên ngành Việt Nam học.
Sinh viên khoa Đông Phương được học trong một môi trường có điều kiện vật chất tốt nhất. Với các môn học Đại cương sinh viên có thể học tại những giảng đường lớn với sức chứa trên 400 sinh viên. Với các môn học chuyên ngành như: Nghe; nói; đọc; viết ngoại ngữ, sinh viên có thể học tại các phòng học có sức chứa 50 sinh viên.
Ngoài ra, với sự giúp đỡ của tổ chức Banpaku (Nhật Bản), sinh viên ngành Nhật Bản học được học tập và nghiên cứu tại phòng Tư liệu Nhật Bản học, đây cũng chính là một trong những điểm khác biệt so với các ngành khác, hỗ trợ rất lớn cho sinh viên chuyên ngành Nhật Bản học nói riêng và toàn sinh viên khoa Đông Phương nói chung trong việc ra cứu tài liệu, củng cố thêm kiến thức đã được học tại lớp.
Song song với việc hoàn thiện về cơ sở vật chất, vấn đề nhân sự cũng được khoa quan tâm, chú trọng. Với phương châm đầu tiên là phải “Dạy tốt” - hiện khoa có 30 giảng viên; nhân viên cơ hữu; trong đó có 1 Tiến sỹ; 3 Thạc sỹ, 1 Kỹ sư và 25 Cử nhân.
Nhân sự khoa Đông Phương đang được hoàn thiện dần về chuyên môn nghiệp vụ, hiện đang có 1 học tiến sỹ ở Đài Loan; 2 học Thạc sỹ tại Trung Quốc; 1 học Thạc sỹ tại Hàn Quốc; 2 học Thạc sỹ tại Nhật Bản; 3 học Thạc sỹ tại Việt Nam. Với đặc thù của từng ngành, công tác giảng dạy còn có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài đầy kinh nghiệm.
Phối hợp hài hòa với chất lượng giảng dạy là công tác quản lý sinh viên. Tuy chặt chẽ nhưng lại không gò bó sinh viên vào những khuôn phép đã hạn định, quản lý nhưng không quá tách rời trong việc tìm hiểu và lắng nghe nguyên vọng từ sinh viên, khoa đã và đang làm tốt nhiệm vụ “đầu tàu” đưa con thuyền mang tên Đông Phương vận hành đúng hướng. Tin rằng, với đội ngũ nhân viên chất lượng, đầy tâm huyết với nghề, khoa Đông Phương sẽ có bước trở mình trong thời gian tới, góp phần rất lớn trong việc khẳng định thương hiệu Đại học Lạc Hồng không chỉ trong phạm vi quốc gia mà sẽ vươn tầm quốc tế.
Bên cạnh việc học tập, Khoa Đông phương học luôn xác định hoạt động phong trào hoạt động Đoàn – Hội, Câu lạc bộ cũng là một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết để thúc đẩy công việc học tập của sinh viên. Vì vậy, trong những năm qua Khoa luôn động viên và tổ chức cho sinh viên tham gia các hoạt động của Trường cũng như của Khoa. Đặc biệt, trong năm học 2007 – 2008, Khoa Đông phương học lần đầu tiên tổ chức cuộc thi “Duyên dáng Đông phương”. Đây là một trong những sân chơi rất bổ ích dành cho các nữ sinh và đã thu hút được sự chú ý và tham gia của đông đảo sinh viên Khoa Đông phương. Đoàn khoa Đông phương cũng tổ chức các cuộc thi, hội thao như: Bóng đá nam nữ; nấu ăn; hội trại…
Ngoài ra, Khoa còn tổ chức các cuộc giao lưu văn hoá với sinh viên học sinh đến từ các nước: Trung, Nhật, Hàn.
Cùng với hoạt động Đoàn – Hội khoa Đông Phương học còn có hoạt động của các Câu lạc bộ của 4 ngành: Trung Quốc học; Nhật Bản học; Hàn Quốc học; Việt Nam học. Bắt đầu từ năm 2008, Câu lạc bộ các ngành lần lượt ra đời mở ra một sân chơi mới cho các bạn sinh viên trong khoa. Tại sân chơi đó, các bạn sinh viên có thể áp dụng những kiến thức tiếng chuyên ngành để giao lưu, trao đổi những suy nghĩ quan điểm sống, tham gia các trò chơi vui nhộn, qua đó nâng cao trình độ cũng như sự tự tin trước đám đông của các bạn sinh viên.
Có thể nói, đây là những cơ hội tốt cho sinh viên trau dồi thêm vốn kiến thức, đồng thời nâng cao khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ bản địa.
Giống như những quân bài hay những viên xúc xắc, giống như tờ giấy hay như bàn tay của con người, trong quá trình phát triển và hoàn thiện, bên cạnh thành tựu vẫn tồn tại song hành nhiều vấn đề đáng được lưu tâm, là vật cản rất lớn trong bước đường phát triển của cả một tổ chức.
Để giải quyết được những vấn đề còn tồn tại thì việc tìm ra căn nguyên đóng vai trò quan trọng. Thật vậy ,xét trên nhiều khía cạnh, khoa Đông Phương đã bộc lộ rất rõ nhiều yếu điểm cần được quan tâm, điều chỉnh trong thời gian ngắn nhất có thể.
Trong thời đại ngày nay, bên cạnh sự hiện đại về cơ sở vật chất thì vị trí của một cơ sở đào tạo phải hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi mới đảm bảo được khả năng thu hút sinh viên ; tuy nhiên đứng trên khía cạnh của một sinh viên để nhìn nhận thì thật sự con đường vào giảng đường chính của khoa Đông Phương khiến nhiều người phải “lúng túng”. Vâng – từ “lung túng” trong trường hợp này không nhằm nghĩa bóng mà ta nên hiểu theo nghĩa đen. Không nằm trên trục đường chính, muốn tìm đến các giảng đường chính của khoa Đông Phương, sinh viên phải chịu khó trong việc quan sát khi di chuyển. Tòa nhà E – nơi học tập và làm việc của gần 1600 con người ẩn mình trong một con hẻm nhỏ với cánh cổng đã bạc màu nhiều phần theo thời gian : đình thần Bạch Khôi. Lối vào nhỏ, lại chưa được bê tông hóa, đất đá ngổn ngang, gập ghềnh nhiều ổ gà khiến nhiều sinh viên gặp khó khăn trong khi di chuyển. Trời nắng, bụi bặm tăng dần theo số lượng phương tiện; trời mưa, rác thải, lá cây từ các ngả đường theo con nước tràn lan khắp nơi. Mỗi người một giải pháp, có sinh viên còn chủ động đi theo con đường khác nhằm tránh những phiền hà trên. Thiết nghĩ, câu nói mà các em học sinh cuối cấp thường nói với nhau “con đường đến với giảng đường đại học rất khó khăn” hóa ra lại đúng trong trường hợp này.
Tuy nhiên, xét cho cùng thì vị trí bất lợi vẫn chưa phải là nguyên nhân chính khiến khoa Đông Phương chưa thu hút sinh viên, nội dung giảng dạy mới là câu chuyện chưa có hồi kết. Nghiệm ra từ 3 năm ngồi trên ghế giảng đường, nhiều sinh viên tặc lưỡi khi nghĩ đến những giáo trình, những bài thi mà mình từng trải qua. Cứ mỗi dịp đầu năm học là sinh viên được phen đôn đáo trong việc tìm và định hình tài liệu cho từng môn học. Giáo trình nhiều khi không phụ thuộc vào tên môn học mà phụ thuộc vào việc ai sẽ là người đứng lớp những môn ấy. Trường hợp giảng viên này dạy thì giáo trình này, giảng viên khác dạy thì giáo trình cũng thay đổi theo không còn là trường hợp cá biệt chưa từng xảy ra, với một cuốn giáo trình, có thể năm này sử dụng được nhưng năm sau thì lại trở thành “kỉ niệm đầy tiếc nuối”, nhất là với những sinh viên không may phải học lại môn học đó. Dẫu biết đổi mới trong giáo dục là điều đáng hoan nghênh, nhưng cách đổi mới giáo trình liên tục khiến sinh viên không tránh khỏi sự nặng nề về tâm lý, dẫn đến nhiều tiêu cực trong thi cử cũng không phải là điều quá khó hiểu. Thi đạt lần đầu thì thở phảo nhẹ nhõm, thi lại lần hai thì giương cao khẩu hiệu “phải qua bằng mọi cách” lắm lúc cũng gây ra nhiều câu chuyên dở khóc dở cười cho những người cả trong và ngoài cuộc.
Song song với việc giáo trình bất nhất chính là việc chương trình học chưa sát với thực tế. Với phương pháp giảng dạy 60% lý thuyết, 40% thực hành thì không có gì đáng để bàn, điều đáng bàn là khoa vẫn chưa có sự áp dụng linh hoạt phương pháp này cho từng chuyên ngành. Điển hình như chương trình học của sinh viên ngành Việt Nam học, với đặc thù là học về du lịch, nhưng đa số những địa điểm du lịch được học theo cách “qua màn ảnh nhỏ”. Giảng viên không được phát huy hết năng lực giảng dạy nhất là những môn như Hướng dẫn tại điểm tham quan du lịch, Thuyết minh du lịch…sinh viên thì mơ hồ về những kiến thức được xây dựng nên từ các trang báo mạng, trang tìm kiếm thông tin google… lắm lúc lại thấy “thèm” cảm giác khi về quê nghỉ tết, nghỉ hè, hay nhớ lại những lần đi du lịch xa cùng bạn bè, gia đình… vì biết đâu những địa danh này mình đã từng đi qua. Tuy nhiên nếu công tâm mà nhìn nhận thì vấn đề kinh phí cũng là trở ngại lớn khiến khoa Đông Phương chưa thể đáp ứng mọi yêu cầu từ phía sinh viên, nhưng nếu vì vấn đề tài chính lại khiến cho một ngành học mất dần đặc trưng vốn có là điều không nên. Bài toán thu – chi sẽ vẫn còn bỏ ngõ một khi Khoa chưa thật sự mạnh dạn trong việc đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo. “Cây” chỉ cho “quả ngọt” khi được vun trồng đúng cách, học tập chỉ thực sự hiệu quả khi phương pháp giảng dạy đúng hướng – không phải đạo lý nhưng những kết luận trên chắc hẳn chưa phải quá xa xôi khi nói về Việt Nam học – một ngành học còn khá mới mẻ của khoa Đông Phương.
Nối tiếp câu chuyện giáo trình còn giang dở, chính là đề tài học gì, thi gì. Nhiều người khi đọc câu hỏi này thì vô tư trả lời rằng học gì thi nấy. Đó là điều hiển nhiên nhưng vấn đề là sự hiển nhiên đó có thực sự tồn tại 100%?
Còn nhớ đơt thi Hán – Nôm 1 của lớp 08VN111, đề lúc thi là của khóa 07, trong khi lại được áp dụng cho khóa 08. Nhiều sinh viên kiến nghị đổi đề nhưng không được đáp ứng, vẫn phải làm đề mà mình không có kiến thức vì thế điểm số cũng không thể đúng với thực lực của từng sinh viên. Méo mặt, tặc lưỡi, nằm dài trên bàn, nộp giấy trắng ra về hay cố gắng hình dung trong đầu đã từng gặp chữ này ở đâu …những lúc như thế mới hiểu được lợi ích rất lớn từ việc thi trắc nghiệm, giá có thể trắc nghiệm lúc này thì quá hay! … nhiều cung bậc cảm xúc được thể hiện dù nguyên nhân chỉ có một: “Sai xót trong khâu kiểm đề”. Trách nhiệm ấy do ai không rõ, nhưng hầu quả là hơn nửa lớp 08VN111 “họp mặt sớm” mừng xuân trong phòng thi lại khiến nhiều sinh viên thở dài ngao ngán. Thi lại vẫn mãi là vết đen không thể xóa được trong học bạ dù phần lỗi rất lớn không phải do bản thân sinh viên.
Hơn thế nữa, khâu thi cử của trường cũng gây nhiều khó khăn không chỉ cho sinh viên mà cho chính những người ra đề, những người cầm cân nảy mực. Với yêu cầu mỗi giảng viên phải ra 16 bộ đề, tương đương với 32 câu hỏi cho mỗi môn thi (mà chương trình học nặng về lý thuyết), nhiều giảng viên cảm thấy lúng túng trong khâu biên soạn câu hỏi, câu hỏi dài thì lo sinh viên không nhớ nổi, ngắn thì lại nghĩ cho điểm sao đây, khó thì lại sợ sinh viên rối không làm được, dễ thì lại chứng tỏ chưa đạt chuẩn chưa trình… đúng là lo cả trăm bề.
Về phần sinh viên thì mội niềm vui được “dập tắt” khi trên tay là bảng 32 câu hỏi ôn tập để thi, thử làm một phép tính nhỏ, nếu bạn học trung bình một học kỳ khoảng 7 môn nặng về lý thuyết, số lượng câu hỏi ôn tập bạn phai học là 256 câu, một con số không hề nhỏ; thời gian biên soạn đáp án lắm lúc gây Stress, sức khỏe cũng bị giảm sút nhiều trong thời gian ôn luyện. Bước vào phòng thi mà cảm giác cứ “lâng lâng”, cầu mong sao trúng tủ, trúng đề… ngạn ngữ “hay không bằng hên” được nhiều sinh viên chọn như một cách để tránh việc đối diện với vấn nạn “học nhiều, nhớ chẳng bao nhiêu”.
Công tác chấm điểm cũng bộc lộ nhiều hạn chế, có những bạn không đi học đầy đủ nhưng điểm chuyên cần vẫn 10, nhập điểm vào bị sai khiến sinh viên tốn nhiều thời gian trong việc tìm về những thứ vốn dĩ thuộc về mình.
Với những vấn đề được nhắc đến ở trên, thực sự cho nhiều sinh vên cảm thấy bất an dù đang được học trong một ngôi trường xếp hạng 7 trường Đại học của Việt Nam trong danh sách 100 Đại học hàng đầu Đông Nam Á.
…
Thời gian nói lên nhiều điều nhưng không phải nói lên tất cả - đó là điều mà khoa Đông Phương đã dùng chính bước đường hoạt động của mình để chứng minh. Tồn tại bên cạnh những thuận lợi luôn là những khó khăn, những bất cập. Làm thế nào để phát huy thế mạnh cũng như khắc phục những điểm còn hạn chế? Câu hỏi không dành riêng cho một cá nhân cụ thể mà cho chính bản thân của những người đã, đang và sẽ làm việc, học tập các chuyên ngành của Khoa Đông Phương.
Hy vọng trong tương lai không xa, Khoa Đông Phương sẽ đạt được những bước tiến dài đến thành công, cùng với trường Đại học Lạc Hồng phấn đấu trở thành một trong những trường Đại học hang đầu của Việt Nam, góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kì hội nhập kinh tế toàn cầu.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com