Quyển 4 HỒI 3
Trên phù kiều hỏa quang dần tắt, hai thành Tương Phiền trở về tĩnh mịch. Bá Nhan nghe tiếng nước sông rì rào, trầm ngâm không thốt một câu, rất lâu sau mới nói :
- Ai có thể hủy được tòa phù kiều (1) này, sẽ được trọng thưởng!
Trên thuyền chợt lặng lại, chúng tướng đối mặt nhìn nhau. Chợt nghe Lương Tiêu hỏi:
- Lời này có là sự thật?
Bá Nhan ngẩn người, hỏi lại:
- Lẽ nào ngươi có phương pháp?
Lương Tiêu nói:
- Ta mới nghĩ đến một cách, tuy rất hao nhân lực vật lực, nhưng lại có thể không tổn hại một binh sĩ nào. Chẳng những hủy được phù kiều, còn khiến nó không thể trùng tu được nữa.
- Hao phí nhân lực thì không thành vấn đề. Người mệt còn có thể nghỉ lấy sức, chứ người chết thì không thể hồi sinh lại. Chỉ cần ngươi làm được, ngươi muốn gì, miễn là trong khả năng của ta, ta sẽ cho ngươi cái đó.
Lương Tiêu gật đầu :
- Được lắm. Quan trọng nhất, chính là chặn dòng Hán giang, tích nước thượng lưu.
Mọi người nghe vậy không ai không kinh ngạc.
Sử Thiên Trạch cau mày:
- Ngươi muốn tích nước để đẩy phù kiều ư? Thế thì rất khó. Một là người Tống khi kiến tạo phù kiều, đem mấy trượng gỗ lớn đóng xuống đáy nước, rất kiên cố. Hai là vì Hán thủy chậm rãi, mặt sông rộng lớn, không dễ tích thế nước hủy được phù kiều đâu.
Hắn thân là lão thần danh tướng, suy nghĩ chu đáo, hơn nữa lại là người chuyên dẫn dắt thủy quân, thông hiểu thủy tính, những lời này nói ra ai nấy đều gật đầu.
Lương Tiêu lắc đầu:
- Ta không phải dùng nước đẩy cầu, cùng lắm là mượn đỡ thế nước mà thôi!
Bá Nhan hỏi:
- Mượn thế bằng cách nào?
Lương Tiêu cười:
- Khoan, bây giờ ta chưa nói ra vội. Trước hết để ta quan sát thế nước, rồi sẽ gặp và báo cáo với các vị sau.
Lại hướng qua Bá Nhan nói:
- Nhưng không biết Giang Tâm thạch đài là ai xây dựng?
Bá Nhan cau mày:
- Ngươi hỏi cái này làm gì?
Lương Tiêu nói:
- Ngay giữa chỗ nước xoáy mà dựng nên được thạch đài như vậy, nhất định phải có cách riêng ngăn cản dòng nước.
Bá Nhan bảo:
- Người đó ở Đại Đô chứ không ở đây.
Lương Tiêu cau mày, lại nghe Lan Á nói:
- Ta cũng biết chút ít về thủy lợi, có thể đến giúp ngươi!
Lương Tiêu hoan hỉ:
- Được cô tương trợ, hơn hẳn thiên quân vạn mã.
Lan Á không ngờ Lương Tiêu tán thưởng mình trước mặt mọi người như vậy, xấu hổ không chịu nổi, mặt đỏ rần rần, cúi đầu xuống.
Bá Nhan nghĩ ngợi:
- Việc này mất sức quá. Nếu không thành công thì sao?
Lương Tiêu thuận miệng nói:
- Vậy thì chặt đầu ta.
Mọi người đều kinh ngạc, Lương Tiêu nói câu này ra, không nghi ngờ gì đã lập quân lệnh trạng.
A Thuật hơi mấp máy môi, định lên tiếng thì Bá Nhan đã nói:
- Được lắm. Việc quân chẳng thể nói chơi, nếu không thành công, ta cũng không thể lưu tình. Từ hôm nay về sau, binh hay sĩ giỏi thợ thuyền tất cả tùy ngươi điều động. Ngươi cần bao nhiêu thời gian?
Lương Tiêu nhẩm tính rồi nói:
- Hai tháng là đủ.
Bá Nhan sang sảng giọng:
- Được, nội trong hai tháng, ta đợi tin ngươi. - Nói rồi lập tức quay mình đi thẳng lên bờ, không hề ngoảnh lại.
Chúng tướng thi nhau đưa mắt nhìn Lương Tiêu, nhiều phần là hạnh tai lạc họa (2). Họ thấy Bá Nhan luôn nâng đỡ người này, sớm đã bất mãn, lại chứng kiến Lương Tiêu vì háo hức lập đại công mà dám nhận một việc như vậy, thảy đều mừng thầm:
- Ngăn sông cách dòng, thời gian hai tháng làm sao mà đủ? Tiểu tử này quá mong lập được công danh, có chết cũng đáng.
A Thuật nhìn hắn một cái, thở dài, cũng phất tay áo bỏ đi.
A Lí Hải Nha và Lương Tiêu đi cùng đường lên bờ, cả hai đều không nói gì, sóng vai đi một lúc. Hồi lâu sau, A Lí Hải Nha nhịn không được hỏi:
- Lương Tiêu, ngươi có mấy phần thành công?
Lương Tiêu nói:
- Bảy tám phần!
A Lý Hải Nha nói:
- Ta tưởng ngươi chắc chắn mười phần, mới dám đại ngôn như thế.
Lương Tiêu cười:
- Thiên hạ đâu có việc thập toàn thập mỹ.
A Lí Hải Nha gật đầu:
- Nói cũng đúng. Nếu cần ta giúp, cứ lên tiếng.
Lương Tiêu nói: "Đa tạ!", rồi trở về Khâm Sát doanh.
Hôm sau, Lương Tiêu chế tạo được thiết bị đo sóng động, cùng Lan Á đi ra Hán Thủy kiểm tra, ước lượng độ sâu của từng khúc sông. Quả không uổng công, ba ngày sau, hai người đã tìm thấy nơi thích hợp để đắp đê. Hôm đó quay về đại doanh, Lương Tiêu suy nghĩ mất một đêm, vẽ ra đồ họa thủy khố và các loại cơ giới, lại cùng với Lan Á thương nghị định đoạt.
Thương nghị qua hai ngày thì chính thức dùng bản vẽ con đê. Lan Á chiêu tập thợ, theo đồ bản chế tạo cơ giới, cải tạo hạm thuyền.
Lương Tiêu không lo không hoảng, ban ngày vẫn thao luyện binh mã, đêm xuống học Hồi Hồi số thuật, sau đó mới nghe Lan Á thuật lại tình hình công trình. Lan Á nghĩ hắn đã lập quân lệnh trạng, trong lòng lo lắng vạn phần, nhưng Lương Tiêu đã dặn nàng trước mặt A Tuyết đừng đề cập đến chuyện quân lệnh trạng, nên nàng cũng không tiện nói nhiều. Nhưng khi truyền thụ Hồi Hồi số thuật, trong lòng nàng vẫn thấp thỏm không yên, thường tính sai đề mục. Lương Tiêu vừa nhìn qua đã biết, không nhịn được trêu ghẹo mấy câu khiến Lan Á dở khóc dở cười.
Thời gian như tên bay, chớp mắt đã mười ngày. Hôm nay, Lương Tiêu ở doanh trại thao luyện kỵ binh, lệnh cho ba quân chơi mã cầu chi hí. Mã cầu hí vốn là trò chơi của giới quý tộc Hán, có tác dụng khảo sát kỵ thuật của người tham gia. Sau khi người Mông Cổ học được, lấy làm phép luyện kỵ binh. Làm một quả mã cầu và sáu cái cầu môn, kỵ giả phân làm đội thi đấu. Trên lưng ngựa mỗi người cầm một cây gậy màu, bên nào đánh cầu vào cầu môn nhiều hơn là thắng. Trò chơi này vốn là hai đội đấu nhau, Lương Tiêu lại có ý muốn khảo nghiệm trận hình của quân lính, chỉ đặt bốn cầu môn, đem hơn hai ngàn người phân thành ba trăm bảy mươi đội, mỗi đội sáu người, dùng Lục hoa chi trận, tranh đánh ba quả mã cầu.
Lương Tiêu đứng trên soái đài, phát hiệu lệnh. Trên thao trường, hơn hai ngàn người vây quanh ba quả mã cầu màu đỏ bắt đầu tranh đoạt, cứ sáu người một đội, ai nấy đều lo giữ trận thế không dám loạn chút nào. Trận thế hễ bị loạn, là tính như thua. Nhất thời, chỉ thấy trên giáo trường hơn ba trăm đội nhân mã xuyên qua xẹt lại, ai nấy biến hóa trận thế, bao vây ngăn chặn, kéo bắn ngáng trở. Tình hình đó thực giống như thi nhân từng nói:
"Bán không thải trượng phiên tàn nguyệt
Nhất điểm phi cầu bính lạc tinh
Thúy liễu tiểu đình huyên cổ xuy
Ngọc tiên kiêu mã túc lôi đình."
Tạm dịch nghĩa :
Giữa bầu trời treo mảnh trăng khuyết vằng vặc
Một đốm sáng bay vụt qua như sao băng
Liễu xanh nơi tiểu đình lả lơi theo làn gió thổi
Roi ngọc thúc ngựa như sấm sét
Tạm dịch thơ :
Nửa vầng trăng treo lờ lững giữa đêm
Chợt sáng chói một tinh cầu vụt mất
Bên tiểu đình liễu vờn theo gió hát
Tiếng vung roi thúc ngựa động càn khôn
(@BT)
Hoặc :
Nửa vầng trăng giữa đêm sâu
Sáng *** một bóng tinh cầu vút qua
Tiểu đình liễu gió hát ca
Tiếng roi giục ngựa như là lôi giăng
(@Kiếp Nô)
Nói ra thì tiêu sái khôn tả. Nhưng đó vốn là trò chơi của mười mấy người, mà lúc này lại có hơn hai ngàn người tranh đoạt. Kỹ thuật cưỡi ngựa tinh thông cố nhiên không thể thiếu, nhưng nếu không đem Lục hoa trận biến hóa ra kỳ lạ, cũng rất khó để đoạt được giải nhất, tức là dùng công phu của sự khéo léo hơn là dùng sự kỳ diệu của tài phi ngựa.
Lương Tiêu đứng xa quan sát, chỉ thấy ba chấm mã cầu vào ra không thể đoán trước được ở bốn cầu môn. Nếu là người bình thường, chắc khó mà nhớ được chỉ trong sát na quả cầu vào ra bao nhiêu lần. Nhưng khả năng tính toán của Lương Tiêu là thiên hạ hiếm có, mã cầu đến đến đi đi tuy nhiễu loạn mất trật tự, hắn vẫn nhìn thấy rõ, tính rõ, không hề để lọt một quả nào. Vì thế tuy đây là phép luyện binh thiên hạ vô song, nhưng khắp thiên hạ này e rằng cũng chỉ có mình Lương Tiêu dùng được. Nếu không, các đội tự mình nhớ được bóng vào bao nhiêu quả, người xem cầu mà tính thiếu, nhất định có thể gây oán giận, vốn là việc tốt, nhưng lại biến thành việc xấu rồi.
Một lát sau, hơn hai trăm đội nhân mã đều phải nhận thua, lui sang một bên. Còn một trăm đội vẫn đang giao chiến. Lương Tiêu ghi lại rất rõ, hai đội vào cầu nhiều nhất là đội của Thổ Thổ Cáp và Lý Đình, cơ hồ không phân trên dưới. Nang Cổ Ngạt, Dương Giác, Vương Khả ba người đều ở trong những đội đó. Chỉ vì năm người này theo Lương Tiêu đã lâu, về Lục Hoa trận lĩnh ngộ tương đối sâu sắc, vì thế trận thế biến hóa vượt xa quân sĩ Khâm Sát về sự lợi hại. Lại thêm ba khắc công phu, tại trường đấu chỉ còn mười đội. Lương Tiêu ra lệnh lấy đi một quả cầu, chỉ lưu lại hai quả cầu để tranh đoạt.
Trong khoảnh khắc, năm đội kia đều bị đội ngũ của mấy người Thổ Thổ Cáp đánh tan. Lúc này tính ra, Thổ Thổ Cáp là đội có cầu vào nhiều nhất, Lý Đình thì ít hơn ba quả cầu. Chỉ một lúc sau, ba đội của Nang Cổ Ngạt, Dương Giác, Vương Khả lục tục rời đi, trên trường biến thành trận quyết đấu của hai đội Thổ Thổ Cáp và Lý Đình. Lương Tiêu lại ra lệnh lấy một quả cầu, trên trường đấu chỉ còn lại một quả mã cầu.
Cả đội Thổ Thổ Cáp có ba bách phu trưởng, kỵ thuật rất tinh thâm. Đội của Lý Đình tuy là quân sĩ bình thường, nhưng Lý Đình cơ trí thiện biến, chỉ huy đúng đắn, trận hình biến hóa đa đoan, rất khó để đánh tan. Nhất thời, hai đội đều chiếm lấy các cứ điểm, đấu đến khó phân cao thấp, người đến kẻ đi, chỉ một quả mã cầu mà đánh cho bay như phi tiễn.
Lúc này, sĩ tốt Khâm Sát thấy hai đội đấu mãi mà không phân thắng bại thì hết sức vô vị. Khi luyện binh, Lương Tiêu nghiêm túc ít ai bằng, nhưng thời gian còn thừa thì mặc cho lười biếng. Cho nên quân sĩ Khâm Sát lúc này thấy tẻ nhạt quá, bắt đầu bày trò cá độ xem đội nào thắng đội nào thua. Có người còn chè chén ca hát, đại tiện tiểu tiện. Trường đấu một phen trở nên náo loạn.
Lương Tiêu chú mục rất lâu, thấy Thổ Thổ Cáp hơi thắng hơn một bậc, Lý Đình cũng không phải loại dễ dàng đối phó, bất giác hơi gật đầu, cảm thấy rất được an ủi: "Quả không uổng công ta hao tâm tổn khí, hai người này nếu luyện tập nhiều hơn, sau này nhất định sẽ có thể trở thành đại tướng chi tài." Nghĩ tới đây, chợt hơi có cảm giác bèn liếc mắt nhìn, chỉ thấy Bá Nhan và A Thuật dẫn thân binh ngồi trên mình ngựa đứng ở đằng xa nhìn lại. Sau lưng hai người có một vị văn quan người Hán, râu đen dài tới ngực, khuôn mặt thanh tú, đôi con ngươi nhìn chăm chăm vào trường đấu, lấp lánh tỏa sáng.
Lương Tiêu đứng dậy, roi ngựa lăng không giật một cái, một tiếng lanh lảnh vang khắp toàn trường, Lý Đình và Thổ Thổ Cáp vội lùi sang bên; lại giật một nhát roi nữa, Khâm Sát quân hạ xuống những việc trong tay, ngay cả đi đại tiện cũng không kịp chùi đít, nhấc quần nhảy lên ngựa, cùng chạy điên cuồng về trước soái đài. Lương Tiêu giật nhát roi thứ ba xong, Khâm Sát quân đã tập trung ở dưới đài, xếp hàng tăm tắp, một chút cũng không loạn.
Bọn Bá Nhan phi ngựa vào, Lương Tiêu tiến lên nghênh tiếp. Bá Nhan cười điềm đạm:
- Mã cầu hí hay lắm, thật là sôi động! -
Hắn chăm chú nhìn chúng quân, nói:
- Vừa rồi rối bời bời, mà đã đến đủ rồi à?
Lương Tiêu nghe nói giương mắt nhìn, chợt thốt lên một tiếng kinh ngạc nói:
- Tại sao thiếu mất hai người rồi?
Một bách phu trưởng đứng ra khỏi hàng tâu:
- Ngạt Vật Lão bụng đau, Tiết Tư Đà theo hắn đến khám đại phu, vừa rồi cùng với ta nói qua. Ta không kịp báo, ngươi đã chiêu binh rồi!.
Lương Tiêu gật đầu:
- Ngươi đi xem hắn có trở ngại gì không? Ta lát nữa sẽ đến thăm hắn.
Bách phu trưởng lĩnh mệnh vội vã đi.
Bá Nhan ngạc nhiên nói:
- Ngươi chưa điểm binh, làm sao biết thiếu người?
Lương Tiêu định nói, văn quan người Hán đã đột nhiên cười ha ha:
- "Tam nhân đồng hành thất thập hi
ngũ thụ mai hoa nhập nhất chi
thất tử đoàn viên chỉnh bán nguyệt
trừ bách linh ngũ tiện đắc tri"! (3)
Lương Tiêu tâm niệm chợt động, cung tay cười:
- Dám hỏi tiên sinh đại danh?
A Thuật cười :
- Vị này là Quách Thủ Kính Quách đại nhân, Đô thủy thiểu giám của triều đình, là người thông minh hiếm có trong số Hán nhân. Lần này ngài phụng chỉ đến đây, kiến tạo thủy trạm cho đại quân.
Lương Tiêu biết quân Nguyên đông đến hai mươi vạn người, không chỉ lương thảo vận tải hết sức gian nan, nước uống cũng thế. nếu uống phải nước không tinh khiết, dịch bệnh lây nhiễm, sẽ chết hàng ngàn hàng vạn người, tổn thất không thể tính được. Vì thế việc kiến lập thủy trạm là một việc khá lớn, không tinh thông thủy lợi không làm được.
A Thuật giơ roi chuyển thân, hướng về Khâm Sát quân ra lệnh:
- Các ngươi đi đi!
Nào ngờ chúng quân hoàn toàn không động đậy. A Thuật cau mặt định nói, chỉ thấy Lương Tiêu huy roi giật nhẹ, cười bảo:
- Giải tán đi!
Chúng quân mới hô một tiếng rồi giải tán dần. A Thuật sững người, đấm Lương Tiêu một quyền, mắng:
- Giỏi cho ngươi Lương Tiêu, đã dạy dỗ cái lũ lưu manh này ngoan thế? Đến lời của ta mà họ cũng không nghe.
Lương Tiêu cười:
- Họ nghe lời ta, ta nghe lời huynh vậy!
A Thuật khẽ vỗ một cái lên vai hắn, cười ha hả.
Bá Nhan ho khẽ, hỏi Quách Thủ Kính:
- Bài thơ mới rồi có ý nghĩa gì?
Quách Thủ Kính mỉm cười:
- Bài thơ này là một khẩu quyết toán đề. Đề bài tên là Vật bất tri số, lại là Tôn Tử toán đề, do Binh thánh Tôn Vũ Tử lưu lại. Toán đề ra rằng: "Vật bất chi số, ba nhân ba thừa hai, năm nhân năm thừa ba, bảy nhân bảy thừa hai, hỏi vật này có bao nhiêu?" Bài thơ mới rồi, chính là bí quyết giải đề, cứ theo đó mà giải, cuối cùng khai triển theo nó, ta được vật là hai ba.
A Thuật nói:
- Ngươi nói bóng bẩy ta cũng không hiểu. Nhưng Tôn Vũ Tử đại danh ta lại có nghe. Chỉ bất quá, đề mục này với điểm binh có quan hệ gì?
Quách Thủ Kính nhìn Lương Tiêu, cười bảo:
- Lương tướng quân, ta thật là "múa búa trước cửa Lỗ Ban" (4) rồi!
Lương Tiêu phẩy tay:
- Ngài nói đi đâu thế!
Quách Thủ Kính tiếp tục:
- Đề này là di pháp của Tôn Vũ, tự nó cũng có ám hợp binh pháp bên trong. Nói ra, đây vốn là phép tính toán rất xảo diệu, chỉ cần binh tốt căn cứ theo ba ba, năm năm, bảy bảy trận thế xếp hàng, là có thể suy ngược lại tổng số binh viên. Hán đại danh tướng Hàn Tín, Đường thái tông Lý thế dân các vị nhất định phải biết. Hai người đó sở trường dụng binh không ai bằng, cũng đều là cao thủ về phép này. Vì thế điểm binh thuật lại tên là Hàn tín điểm binh hoặc Tần vương ám điểm binh, chính là cho dù có bao nhiêu binh mã, chỉ cần theo đúng trận xếp ra, đại tướng lặng lẽ quan sát trận thế, chỉ trong sát na là biết được số mục.
Nói tới đây, hắn chăm chú nhìn Lương Tiêu, nói.
- Đạo lý đó nói ra tưởng dễ, nhưng vận dụng vào thì lại khó càng thêm khó. Nếu không phải trong lòng tính toán đến xuất thần nhập hóa, rất khó vừa nhìn một cái là ra. Từ Đường Thái Tông và Lý Tịnh tới nay, kỳ thuật điểm binh này cơ hồ đã thất truyền, cận đại chỉ nghe nói có Nhạc Phi thông hiểu, nhưng cũng chỉ là nghe nói. Nhạc Vũ Mục chết oan trong ngục, không có binh pháp truyền ra hậu thế, phép này cũng chính là không có người dùng. Không ngờ ở chỗ Lương tướng quân, Quách mỗ lại được nhìn thấy Tôn Vũ diệu thuật!
Bá Nhan thần sắc nghiêm túc, gật đầu, hướng Lương Tiêu nói:
- Ngươi viết phép này thành chương trình, gủi đến chỗ ta để truyền ra toàn quân, khiến đại tướng nào cũng biết được. Cái gọi là binh quý thần tốc, điểm binh chi pháp này rất có tác dụng.
Lương Tiêu đáp ứng. Quách Thủ Kính nghĩ thầm:
- Sợ rằng đại tướng khác cho dù biết cách cũng không thể dùng tốt được.
Mọi người vừa nói chuyện vừa tiến vào trướng. Lương Tiêu cho người dâng lên rượu pha sữa ngựa, Bá Nhan uống một hớp, nói:
- Ngươi lúc trước không phải từng hỏi ta ai xây Giang Tâm thạch đài ư?
Lương Tiêu mục quang khẽ chuyển, nhìn Quách Thủ Kính, cười nói:
- Nghĩ chắc là Quách đại nhân rồi.
Bá Nhan thở dài:
- Việc quân không thể nói chơi được. Ngươi là tiểu tử mà gan to bằng trời, trước mặt chúng tướng dám lập quân lệnh trạng với ta, không cần mạng nữa sao? May mà trời còn thương cho Quách đại nhân kịp thời đến nơi.
Lương Tiêu lại cười, nói:
- Thật là trùng hợp.
Quách Thủ Kính cau mày:
- Lương tướng quân chỉ cần hai tháng kỳ hạn. Bây giờ tính ra chỉ còn chưa đến một tháng rưỡi, tướng quân chắc đã có chuẩn bị rồi?
Lương Tiêu nói:
- Cái này ta cũng không mười phần chắc chắn, đều là Lan Á đang làm.
Ba người còn lại nhìn nhau. Bá Nhan cau mày:
- Đến lúc đó ta sẽ chặt đầu ngươi chứ Lan Á không có liên quan gì cả.
Lương Tiêu khe khẽ lắc đầu, nghiêm sắc mặt:
- Ta tin Lan Á.
A Thuật có vẻ không vui:
- Cô ta là một nữ nhân mà cũng có thể tin ư?
Lương Tiêu trông ra xa, điềm đạm nói:
- Cô ấy là nữ nhân, nhưng cũng là học trò của Nạp Tốc Lạp Đinh.
Bá Nhan, A Thuật nghe lời này, mặt đều trầm xuống. Chưa kịp trách móc, Quách Thủ Kính đã cười nói:
- Bây giờ đã gặp Lương tướng quân rồi, đại nguyên soái việc quân bận rộn, xin cứ về trướng đi!
Bá Nhan nghe vậy, trong lòng hồ nghi nhưng đành đứng dậy. Lương Tiêu tiễn hắn ra khỏi lều, chợt thấp giọng nói.
- Cám ơn.
Bá Nhan hừ lạnh, cũng không đáp lời, nhảy lên ngựa, cùng A Thuật ra khỏi viên môn.
A Thuật cười:
- Hai người đúng là cùng một nhà mà ra. Ngươi thì nói một đằng nghĩ một nẻo, rõ ràng là việc công, lại âm thầm chiếu cố gã sư điệt ấy rất cẩn thận. Hắc, với cái danh tu sửa thủy trạm, dùng mấy mươi khoái mã đi suốt ngày đêm, từ đại đô đem Quách đại nhân đưa tới quân trung. Còn tiểu tử này? Miệng không nói, nhưng trong lòng thì rõ hết.
Bá Nhan cau mày, thở dài:
- A Thuật, hài tử này tài hoa cái thế, ngươi và ta đều không bằng. Nhưng hắn hay tỏ ra sắc sảo quá mức, ta sợ hắn bị người khác đố kỵ.
A Thuật cười lạnh:
- Kẻ nào muốn động đến hắn, trước tiên phải vượt qua cửa ta đây.
Bá Nhan lắc đầu:
- Nếu trong hai tháng hắn không phá được phù kiều, ai cũng cứu không được hắn!
A Thuật cười:
- Ngươi yên tâm, ta biết tính Lương Tiêu. Đúng là hắn luôn đặt mắt trên đỉnh đầu, nhưng xưa nay chưa từng nói láo.
Bá Nhan ngậm miệng không nói, ngoảnh nhìn Khâm Sát đại doanh, thở một hơi dài.
-----------------------
(1) Phù kiều : cầu nổi. (BT)
(2) Hạnh tai lạc họa : vui mừng trước tai họa của người khác. (BT)
(3) Bài thơ này bao hàm lối chơi chữ của người Hoa cổ, dùng những từ vừa có nghĩa cũng vừa là số, nếu dịch số thì mất nghĩa mà dịch nghĩa thì mất số. Do tiếng Việt không có những từ chức năng tương tự, nên chúng tôi đành để nguyên. (BT)
(4) Nguyên văn : "ban môn lộng phủ". Ban: Tên Ban, họ Công Thâu, người nước Lỗ thời Xuân Thu Chiến Quốc, nên thường được gọi là Lỗ Ban, làm mộc rất giỏi, về sau được tôn là Ông Tổ nghề thợ mộc. Môn: Cửa. Lộng: Múa. Phủ: Cái búa. Câu này nghĩa tương tự như "múa rìu qua mắt thợ". (BT)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com