Mặt Trời Nơi Biên Giới (1)
Rạng sáng mùa hè tháng sáu năm 1950, Quân đội Nhân dân Bắc Triều Tiên dưới sự hậu thuẫn của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Liên bang Soviet đã vượt qua vĩ tuyến thứ 38 và chính thức tấn công Nam Triều Tiên, sau khi cuộc đàm phán thống nhất thất bại. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc lên án hành vi xâm lược của Bắc Triều Tiên, đã cho phép thành lập Bộ Tư lệnh Liên hợp quốc, và gửi lực lượng sang Nam Triều Tiên hỗ trợ đẩy lùi đường tiến công của Bắc Triều. Tuy nhiên, chỉ sau hai tháng chiến tranh, Lực lượng vũ trang Hàn Quốc cùng với quân đội gấp rút từ Mỹ đang trên bờ vực bị đánh bại, và phải rút về vành đai phòng tuyến Pusan.
Ki-myung sẽ không bao giờ có thể quên được mùa hè năm ấy.
Mùa đông năm 1949, Ki-myung tròn mười tám tuổi. Nhà anh là một gia đình có truyền thống quân đội, người cha quá cố của anh cũng là một sĩ quan. Ngay từ khi còn nhỏ Ki-myung đã được định sẵn là sẽ tiếp bước cha mình, nhập ngũ và trở thành một quân nhân.
Nhưng Ki-myung lại không thích như thế.
Anh thích cầm cuốc hơn cầm súng, và cái ý tưởng phải đặt dấu chấm hết cho sinh mệnh của người khác bằng nó làm anh thấy ớn lạnh. Ki-myung không cảm thấy khoái lạc gì khi phải dấn thân vào những cuộc chiến đẫm máu và nước mắt. Anh chỉ thích một cuộc sống yên bình, không có dấu vết của chiến tranh, dù cho có phải làm nông cả đời cũng được. Và nếu như anh may mắn, có thể sẽ còn kiếm được một cô vợ, sau đó sinh hai đứa con, nuôi dạy chúng trưởng thành. Cuộc đời như thế là quá hoàn mỹ, anh không còn cầu mong gì nhiều hơn nữa.
Nhưng hiện thực như một cái tát vả thẳng vào mặt anh. Mâu thuẫn chính trị dẫn đến một cuộc chiến tranh không biết bao giờ mới kết thúc. Là con trai của một gia đình quân nhân, việc cầm súng là không thể nào tránh khỏi đối với anh. Mùa hè năm 1950, khi mâu thuẫn giữa Nam Bắc Triều lên đến đỉnh điểm, Ki-myung lên đường nhập ngũ.
Cuộc sống trong quân ngũ thời chiến khác hoàn toàn với những ngày tháng còn ở quê nhà. Ngoại trừ những thói quen sinh hoạt khác biệt - cái này thì Ki-myung có thể tập làm quen, còn có những nỗi sợ dai dẳng khác kéo theo. Một trong số chúng xuất hiện ở những đêm họ phải lội qua bùn lầy, cho đến tận bây giờ Ki-myung vẫn chưa thể nào quên được cảm giác nhớp nháp đến rợn người đó trên từng thớ da thịt. Nhưng đó vẫn chưa phải là những điều tệ nhất. Cơn ác mộng thật sự bắt đầu khi một trong số những người lính bị nhiễm bệnh. Trình độ y học thời bấy giờ vẫn còn chưa tiên tiến, ngay cả ở thời bình số người chết vì bệnh dịch đã không thể nào đếm được, đừng nói đến những ngày chiến đấu. Khi một người bị bệnh, cả tiểu đội đều nơm nớp lo sợ. Sợ rằng người tiếp theo bị lây nhiễm sẽ là mình. Biết là vậy, nhưng ngoài cắn răng và chấp nhận trò may rủi của số phận, họ còn có thể làm gì nữa đâu. Họ không có quyền lựa chọn những căn phòng được cách ly an toàn, bởi vì làm gì có thứ đó ở nơi mà họ có thể chết vì bom đạn bất cứ lúc nào chứ.
Ki-myung vẫn còn nhớ rõ một đêm tháng sáu, chỉ ba ngày sau chiến dịch Pokpung (*), lúc đó anh đóng quân ở Seoul. Để ngăn chặn quân đội Bắc Triều Tiên, lực lượng vũ trang Hàn Quốc đã phá nổ cầu Hangang bắt ngang sông Hàn, trong lúc bốn nghìn dân tị nạn đang băng qua đó, làm hơn hàng trăm người thiệt mạng. Xung quanh anh là một màu đỏ rực của biển lửa và máu tươi. Các đồng đội chiến đấu ở phía bắc cây cầu cũng bị kẹt lại. Đó có thể là những người hoàn toàn xa lạ, cũng có thể là những gương mặt anh vừa mới quen. Nhưng mặc kệ anh có quen biết những con người đó hay không, anh vẫn có thể nghe được tiếng thét gào trong tuyệt vọng khi cây cầu sụp đổ. Mãi cho đến bây giờ, gương mặt đẫm nước mắt của những người lính kẹt lại nơi phía bên kia cây cầu vẫn hiện lên rõ nét trong cuộn băng ký ức của anh. Anh không biết kết cục của họ như thế nào, anh chỉ hiểu rằng mình có thể sẽ không bao giờ gặp lại họ được nữa.
Mặc kệ mọi nỗ lực ngăn chặn đường tiến công của Bắc Triều Tiên, Seoul vẫn bị đánh chiếm vào cùng ngày hôm đó. Khi họ rút quân về phía nam, tìm nơi trú ẩn và chữa trị cho những người lính bị thương, Ki-myung bắt đầu cảm thấy mình như bị hoang tưởng.
Anh chỉ bị thương nhẹ, không đến mức thoi thóp như người lính nằm bên cạnh. Nhưng người Ki-myung không thể nào ngừng run rẩy. Mồ hôi anh túa ra lạnh toát. Ki-myung cắn móng tay, miệng lẩm bẩm những lời vô nghĩa.
Nếu hôm nay anh đang ở giữa cầu thì sao? Anh sẽ nổ tan xác như những người dân vô tội đang trốn thoát khỏi thành phố chứ? Hay là tệ hơn, nếu như anh bị kẹt lại ở phía bên kia cây cầu, bị bắt giữ, chuyện gì sẽ xảy ra với anh, như những người lính đó?
Hình ảnh của người lính kia bất chợt hiện ra trong tâm trí, khuôn mặt đẫm nước mắt của anh ấy và tiếng thét tuyệt vọng văng vẳng bên tai Ki-myung. Đột nhiên, anh há hốc miệng, ôm ngực khó khăn thở dốc. Bởi vì gương mặt bị ánh lửa méo mó che phủ ấy dần biến dạng, và trở thành chính gương mặt của Ki-myung. Phản chiếu trong đôi con ngươi là hình ảnh không chút còn tia hy vọng nào đó của chính mình. Anh nhìn thấy bản thân đã gào khóc như thế nào, hoảng loạn tìm cách quay trở về ra làm sao, nhưng tất cả mọi cố gắng đều vô ích, và tiếng súng vang lên từ đằng sau chấm dứt tất cả mọi đau đớn của Ki-myung. Anh ngã xuống, và chìm vào trong giấc ngủ vĩnh hằng.
Ki-myung đột ngột bừng tỉnh. Có lẽ nỗi sợ hãi cái chết đã kéo anh ra khỏi ảo tưởng kinh hoàng ấy. Đầu móng tay bị anh cắn đến nỗi chảy đầy máu tươi. Những giọt máu nóng hổi từng giọt rơi xuống trên nền đất lạnh lẽo. Người anh vẫn còn ấm, tim anh vẫn còn đập, máu anh vẫn còn rơi, anh vẫn còn sống, nhưng người đồng đội ấy có lẽ bây giờ đã chỉ còn là một cái xác lạnh.
"Urg..."
Ki-myung cắn môi, trừng mắt nhìn những giọt máu thấm trên lớp đất, chẳng mấy chốc đã bị màu nâu sậm của nó làm cho vô hình. Thế nhưng biển máu của ngày hôm nay, phải mất đến bao lâu mới có thể gột rửa được hết?
Ki-myung sẽ còn có thể may mắn được bao nhiêu lần nữa? Anh liếc nhìn người lính đang trút hơi thở cuối cùng bên cạnh mình. Có thể ngày mai, nằm ngay cạnh chỗ đấy, sẽ là cái xác chết thê thảm của anh.
Ki-myung lắc đầu, cố không nghĩ về những việc tiêu cực đó nữa. Anh nên cảm thấy biết ơn vì mình đã còn sống. Anh phải trân trọng cơ hội mà số phận đã trao cho mình. Anh phải tin vào một ngày mai tươi sáng.
Nhưng cái "ngày mai" ấy lại không bao giờ đến.
Chưa đến một ngày sau, một sắc lệnh đã được ban xuống, thảm sát toàn bộ hơn 200 nghìn người theo chủ nghĩa cộng sản và bị nghi ngờ ủng hộ cộng sản. Hàng chục nghìn người bị giam cầm, rồi bị xử tử mà không cần phải xét xử và tuyên án. Ki-myung nhìn những nhóm người bị lôi đi trước mặt, thậm chí trong đó có những đứa trẻ chỉ tầm mười ba, mười bốn tuổi. Bọn nó thật sự sẽ biết chủ nghĩa cộng sản là gì ư?
Không, những gì Ki-myung nhìn thấy chỉ là những con người vô tội phải bỏ mạng vì bị cái lý tưởng chính trị ngớ ngẩn làm hại mà thôi. Bọn họ bị trói hai tay sau lưng, và kéo đi thành hàng. Có những thanh niên trai tráng ngoan cường chống cự, thì bị đánh bằng báng súng đến gãy cả xương lưng. Họ bị bắt nằm sấp trên đất, và những người lính đứng ngay phía sau, với khẩu súng đã lên nòng.
Ki-myung là một trong số những người lính ấy.
Ngón tay anh run rẩy đặt trên cò súng, mồ hôi túa ra đầy trên trán. Trước mặt anh là một người phụ nữ đã đứng tuổi, nước mắt bà ấy giàn dụa chảy dài trên khuôn mặt già nua. Bà ấy ngoái đầu lại nhìn anh, miệng liên tục lặp lại lời nói mình vô tội.
"Làm ơn... Xin đừng giết tôi... Tôi vô tội... Làm ơn... "
Nhưng những lời cầu xin của bà ấy đều bị bỏ ngoài tai. Đại đội trưởng dí nòng súng vào đầu bà ấy, và ấn mặt bà ấy lại xuống đất.
"Nằm xuống!"
Có vẻ như bà ấy cũng đã từ bỏ tia hy vọng cuối cùng để được sống. Bà ấy yên lặng, buông thõng hai vai, và không còn chống cự nữa. Bà ấy đã sai lầm khi tin tưởng vào lòng từ bi của những người lính. Rõ ràng trên chiến trường không thể có bất kỳ sự từ bi thừa thãi nào. Có lẽ bà ấy cũng đã hiểu ra sự thật tàn nhẫn này, đôi mắt bà mờ dần, cả người không còn chút sức sống nào nữa. Bà ấy đã chấp nhận số phận của mình.
Ki-myung nuốt nước bọt, hơi thở anh gấp gáp, phải cố lắm anh mới có thể bắt mình đứng vững được. Anh chuẩn bị đóng vai thần chết, và sẽ cướp lấy sinh mạng của một con người bằng chiếc lưỡi hái là khẩu súng trên tay. Giá như đây chỉ là một vở kịch thì tốt biết bao - Ki-myung sẽ có thể thở phào nhẹ nhõm khi màn kịch kết thúc dưới tràn vỗ tay của khán đài, nhưng đáng tiếc là nó không phải. Đây là hiện thực, và cũng là lần đầu tiên Ki-myung giết người.
Dưới lệnh của đại đội trưởng, tất cả những người lính bắt đầu ngắm bắn, bao gồm cả Ki-myung. Tay anh vẫn không thôi run rẩy. Phải làm sao đây? Phải làm thế nào đây? Anh sẽ bóp cò chứ? Anh có làm thế được không?
"Chuẩn bị... Bắn!"
Cuối cùng Ki-myung vẫn bóp cò.
Viên đạn xuyên thủng đầu của người đàn bà trước mặt, và tất cả những tiếng la ó kháng cự khác đồng loạt tắt ngúm. Dưới mặt đất la liệt hàng chục, hàng trăm cái xác, và những người lính cứ việc dẫm lên đó mà bước đi, tựa như những sinh mệnh họ vừa kết liễu chả khác gì ngọn cây ngọn cỏ ven đường.
Máu tươi bắn ra từ vết thương, vấy lên những bộ quân phục, nhưng họ nào có quan tâm. Máu của những con người đã nằm xuống cũng đã từng nóng ấm như dòng máu đang chảy trong người Ki-myung và tất cả những người lính khác. Vậy thì họ lấy quyền gì để cướp đi mạng sống của người khác chứ?
Chiến tranh. Tất cả là tại chiến tranh.
Ki-myung cắn môi đến bật máu. Máu của anh thấm trên bộ hanbok trắng của người phụ nữ. Lòng anh bắt đầu dấy lên một cỗ thương tiếc và hối hận.
Tại sao anh lại bóp cò làm gì chứ?
Nhưng nếu như thời gian có thể quay lại vài phút trước, Ki-myung vẫn sẽ lựa chọn giết chết người đàn bà ấy.
Bởi vì nếu không làm, người tiếp theo bị bắn sẽ là anh.
Lý tưởng chính trị cực đoan nghi ngờ tất cả những người vô tội đã nằm xuống ở đây. Nếu như anh không bắn bọn họ, anh sẽ bị nghi ngờ là đồng cảm với cộng sản viên, và kết cục của anh cũng sẽ không kém bọn họ là bao.
Mẹ kiếp! Mẹ kiếp! Mẹ kiếp!
Kể từ khi nhập ngũ và cầm trên tay khẩu súng, Ki-myung đã không còn quyền lựa chọn nữa.
Giây phút viên đạn thoát ra khỏi họng súng, Ki-myung chợt ước rằng anh vẫn còn ở vùng nông thôn quê nhà, trên tay anh là một cái cuốc, và trước mặt anh không phải là một người tuyệt vọng chờ chết, mà là những con người bình thường được sinh sống trong hòa bình và không có dấu vết của chiến tranh.
Nhưng anh biết, đó chỉ là ao ước mà thôi.
(*) Chiến dịch Pokpung (Operation Pokpung): Chiến dịch vượt qua vĩ tuyến thứ 38 của Bắc Triều Tiên nhằm mục đích nắm quyền và thống nhất toàn bộ bán đảo Triều Tiên. Diễn ra từ ngày 25 đến 30 tháng 6 năm 1950.
Đêm hôm đó Ki-myung không thể nào ngủ được. Cứ mỗi lần nhắm mắt, gương mặt đẫm nước mắt của người phụ nữ sẽ hiện ra đầy ám ảnh. Và rồi anh lại thấy sợ, sợ rằng mình sẽ phải giết thêm bao nhiêu người nữa đây. Xung quanh lều trại của anh là những người lính đang khoe chiến công của mình. Chiến công mà họ đang nói đến chính là số sinh mạng mà mình đã đoạt đi quyền sống ngày hôm nay.
"Làm ơn... Tôi còn có con nhỏ... Xin đừng giết tôi... Haha, mấy anh sẽ không thể tưởng tượng được bộ dạng hèn mọn của hắn lúc đấy đâu!"
Ki-myung ôm chặt hai tai, không muốn nghe những lời cay độc ấy.
Ai mà không tham sống sợ chết, nếu đổi lại là anh thì anh cũng thế thôi, rõ ràng là không ai xứng đáng chịu đựng cái chết tức tưởi như thế cả.
Ki-myung vùi mặt vào trong hai cánh tay, cố chìm vào giấc ngủ, nhưng dù có gắng sức thế nào, anh vẫn không thể xóa bỏ gương mặt của người phụ nữ ấy khỏi tâm trí.
Làm ơn, xin hãy ra khỏi đầu tôi đi.
Nhưng dường như lời cầu xin của anh chả có tác dụng gì, cũng như anh đã bỏ ngoài tai tiếng khóc than của bà ấy.
Đúng là quả báo mà.
Nhận ra được việc cố gắng ru mình vào giấc ngủ là vô ích, Ki-myung ngồi bật dậy và bước vào rừng.
Đêm nay không có trăng, cũng chẳng có sao, những đám mây đỏ che phủ khắp cả bầu trời, báo hiệu cho cơn mưa sắp đến. Ki-myung không biết liệu nó có thể rửa sạch đi những vệt máu đã đổ xuống ngày hôm nay không.
Làm sao mà có thể, ngay tại bây giờ thôi đã chết hết mấy trăm người, còn hôm sau, hôm sau nữa thì sẽ thế nào? Ki-myung sẽ còn phải giết thêm bao nhiêu người nữa chứ?
Sự phẫn nộ từ sâu thẳm bên trong tâm hồn bất chợt bùng lên, và Ki-myung căm ghét sự bất lực của bản thân mình. Anh hét lên, và đấm vào thân cây bên cạnh.
"Mẹ kiếp! Mẹ kiếp!"
Ki-myung không dừng lại, dù cho mu bàn tay đã rách nát. Anh liên tiếp trút giận lên cái cây tội nghiệp đó. Đúng là thảm hại, sẽ có gì tốt đẹp hơn xảy ra nếu như anh đổ hết mọi lỗi lầm lên hoàn cảnh hiện tại sao? Anh đã lựa chọn giết chết người phụ nữ đó, vậy thì anh lấy tư cách gì để tỏ ra vẻ như mình mới là người bị hại chứ?
Anh vẫn chỉ là một kẻ hèn nhát chỉ biết làm theo mệnh lệnh mà thôi.
Ki-myung cảm thấy mệt mỏi với những tháng ngày này. Anh thậm chí còn nghĩ, nếu như ngày hôm ấy, người bị kẹt lại trên cây cầu là anh thì tốt biết mấy. Ít nhất thì, nỗi đau dai dẳng và chua xót như dằm nhọn đâm vào tay này sẽ không còn ám ảnh linh hồn anh nữa.
Ki-myung cứ nghĩ những ngày tháng sau này của mình vẫn sẽ lặp đi lặp lại vòng tuần hoàn sinh tồn trong khói đạn, cho đến khi anh gặp được người đó.
Tháng bảy năm 1950, Bộ Tư lệnh Liên hợp quốc gửi lực lượng vũ trang sang trợ giúp Nam Triều Tiên, chính thức bước vào cuộc chiến. Lực lượng Liên hợp quốc có đến 90% là lính Mỹ, số còn lại đến từ các nước đồng minh. Tuy nhiên, vũ khí của họ không thể phá hủy xe tăng bọc giáp của Quân đội Nhân dân Bắc Triều Tiên. Chỉ sau hai tháng, Nam Triều Tiên và quân đội Mỹ đã bị đánh bại, phải rút về vành đai phòng tuyến cuối cùng ở Pusan.
Rốt cuộc, cũng đã bắt đầu xuất hiện những con người có suy nghĩ giống như Ki-myung.
Sau khi thua trận ở Osan (*), những người lính dần mất đi sự bình tĩnh. Sự tỉnh táo của họ phai dần đi theo thời gian, khi mà xác đồng đội nằm la liệt khắp mọi nơi. Họ bắt đầu mất lòng tin vào chính phủ, cũng như không còn hy vọng chiến thắng trận chiến này. Nét u buồn hiện rõ trên gương mặt xám xịt của bọn họ. Nhưng mặc kệ tất cả, dù là thành công hay thất bại, họ vẫn phải dũng cảm đối mặt với cuộc chiến vì danh dự của người lính. Họ không được phép cúi đầu, bởi vì một khi đã cầm súng với tư cách của một quân nhân, họ không thể nào chối bỏ trách nhiệm và sứ mệnh của mình. Tuy vậy, sức chịu đựng của một số người đã đến giới hạn.
"Làm ơn, cho tôi giải ngũ đi! Tôi chịu đủ lắm rồi! Chúng ta sẽ thua, rồi thì chúng ta cũng sẽ thua thôi!"
Một người lính với giọng địa phương vùng Gangwon đột nhiên la hét. Anh ta cào cấu loạn xạ khắp người. Đầu tóc anh ta rối bù, nước da vàng vọt bủn beo, còn mắt thì thâm quầng, hệt như đã mấy ngày không ngủ. Không ai biết anh ta đang nói chuyện với người nào. Anh ta dường như cũng chẳng để ý những cái nhìn chỉ trích của mọi người, mà miệng vẫn tiếp tục lẩm bẩm.
Một người không chịu nổi nữa liền bước ra ngăn cản.
"Thôi đủ rồi đấy, anh đang nói cái quái gì vậy? Đại đội trưởng mà nghe thấy là anh xong đời đấy!"
Nhưng người đàn ông kia vẫn không chịu dừng lại.
"Tôi nói sai sao? Chúng ta đã có chi viện nhưng vẫn thua cuộc, giờ thì chỉ còn sót lại cái xó xỉnh ở Pusan này. Rồi chẳng bao lâu nữa nơi đây cũng sẽ bị Bắc Triều Tiên đánh tới thôi! Chúng ta làm gì còn hy vọng nữa! Tôi muốn về nhà! Tôi muốn về nhà! Cho tôi ra khỏi đây!"
Người đàn ông ấy bắt đầu gào lên, và tóm lấy cổ người lính kia. Anh ta đè người lính xuống đất, và dùng sức bóp cổ người lính ấy.
Xung quanh bắt đầu ầm ĩ, và cố kéo anh ta ra, bao gồm cả Ki-myung. Nhưng dường như cơn tuyệt vọng cùng cực đã khiến người ta mờ mắt. Cặp mắt anh ta đỏ ngầu, nước dãi chảy ra từ khóe miệng, anh ta nghiến chặt hàm răng ố vàng, cổ họng phát ra tiếng gầm gừ.
Người lính tội nghiệp khó khăn hít thở. Mặt anh ấy tái xanh, trông anh ấy giống như đã thấy cái chết cận kề mình.
Đột nhiên, có thứ gì đó giống như kim loại lóe lên dưới ánh trăng. Ki-myung cảm nhận được có một bàn tay xô mình sang một bên. Đám đông bị dạt ra, và một cú đấm rơi thẳng xuống mặt người lính điên loạn ấy. Máu tươi nhuốm đầy trên kim loại màu vàng, tạo nên sự tương phản chói mắt.
Ki-myung nhìn dòng máu nhỏ giọt dưới đất, rồi hướng mắt lên trên. Hóa ra đó là một bàn tay gấu.
Đôi mắt của Ki-myung lại ngước lên cao thêm nữa, và trước mặt anh là một người lính cao lớn, độ tuổi có lẽ cũng xấp xỉ mình. Hắn cau mày, trừng mắt nhìn khuôn mặt bê bết máu của người lính kia.
"Nhà à? Làm gì còn nhà để mà về? Mày quên mất Gangwon cũng bị quân Bắc Triều chiếm đóng rồi à? Thay vì trở nên mạnh hơn để đập bỏ mẹ mấy cái thằng cướp nhà mình, mày lại ở đây khóc than với ai? Mày có khóc thì thế giới này cũng đếch quan tâm đâu."
Đám đông dần im bặt.
Bởi vì những lời nói của người lính đó hoàn toàn đúng. Họ từ lâu đã không còn nhà để quay về nữa rồi.
Ki-myung chợt nhớ đến người mẹ ở quê nhà Incheon, không biết bây giờ bà ấy đã ra sao. Quê của anh cũng đã bị quân Bắc Triều càn quét. Anh chỉ thầm mong rằng bà ấy vẫn an toàn, anh chỉ còn mỗi mình bà là người thân. Ki-myung bất chợt nhận ra, mình vậy mà đã chưa hề gửi cho bà một bức thư nào, kể từ khi lên đường nhập ngũ.
Có lẽ khi con người ta sắp mất đi thứ gì đó, mới học được cách trân trọng. Ki-myung vẫn luôn nghĩ sự tồn tại của bà trong cuộc sống của anh là chuyện hiển nhiên, cho đến khi anh nhận ra mùa hè ấy có thể là lần cuối anh nhìn thấy mẹ mình.
Ki-myung đột nhiên cảm thấy nhớ mẹ một cách da diết. Bây giờ nếu như anh viết thư, anh sẽ nhận được hồi âm, như những lúc làm sai gì đó, mẹ anh vẫn sẽ luôn chấp nhận và tha thứ cho anh chứ?
Nỗi nhớ cồn cào xoắn lên từng cơn trong lồng ngực. Nhưng bây giờ, Ki-myung lại không còn ý nghĩ muốn về nhà như trước đây nữa.
Bởi vì những lời nói của người lính ấy đã giúp anh nhận ra một sự thật mà anh vẫn luôn cố trốn tránh. Đó là thời gian một khi đã trôi qua thì không thể nào quay lại được nữa. Anh không có cách nào trở về với những tháng ngày hòa bình ở quê nhà. Con đường duy nhất mà anh bắt buộc phải chọn là chiến đấu. Nếu như ngay cả một người lính cầm súng như anh mà cũng từ bỏ hy vọng, tương lai của mảnh đất này rồi sẽ đi đến đâu? Sinh mệnh của tất cả những người vô tội vì lý tưởng chính trị sai lầm mà phải ngã xuống thì tính thế nào? Không, nuối tiếc về quá khứ không có ích gì cả. Anh phải bước tiếp, và đấu tranh đến tận cùng. Đã đến lúc Ki-myung phải học cách đối diện với hiện thực, chứ không phải quay lưng lại và trốn chạy khỏi nó.
Ki-myung nhìn chằm chằm người thanh niên với tay gấu đeo trên tay. Không hiểu vì sao, anh lại có cảm giác cơ thể hắn như tỏa ra thứ ánh sáng diệu kỳ dưới ánh trăng bạc, làm Ki-myung không thể thôi ngắm nhìn. Anh không biết là bởi vì những lời hắn nói, hay là vì chiếc tay gấu lấp lánh, mà Ki-myung cảm thấy hắn ta thật cuốn hút. Anh nhìn hắn giống như một con quạ đen bị thứ ánh sáng rực rỡ của đá quý lôi cuốn. Ngay tại giây phút đó, anh cảm nhận được trái tim mình đập nhanh từng hồi. Ki-myung không biết vì sao lại như vậy. Anh đặt tay lên lồng ngực. Anh tự hỏi khi con quạ cắp lấy viên ngọc quý, trái tim nó có đập như thế này không?
Mãi cho đến tận sau này, Ki-myung mới biết đó là tình yêu.
(*) Trận Osan (Battle of Osan): Trận đánh đầu tiên Mỹ can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên. Diễn ra vào ngày 5/7/1950, với sự chiến thắng của quân đội Bắc Triều Tiên.
Tháng 8 năm 1950, Quân đội Nhân dân Bắc Triều Tiên tấn công vành đai Pusan, với mục đích nghiền nát phòng tuyến cuối cùng của Nam Triều Tiên. Tuy nhiên, dựa vào thế mạnh của bến cảng, Lực lượng vũ trang Hàn Quốc được viện trợ binh sĩ cũng như lương thực và vũ khí từ bên ngoài. Ngược lại, quân đội Triều Tiên vì thiếu thốn lương thực, cùng với sự yếu kém trong tương quan số lượng, đã bị đánh bại vào giữa tháng 9 năm 1950.
Ki-myung lấy gấu áo lau mồ hôi trên mặt. Cái nóng của mùa hè làm lưng áo anh ướt cả mảng mồ hôi. Sau khi lực lượng Liên hợp quốc thắng trận Masan (*), các binh sĩ dần có thêm hy vọng. Ki-myung cùng các sĩ quan khác trong tiểu đội vừa mới hoàn thành xong nhiệm vụ canh gác và đổi ca cho đội khác. Thời gian rảnh rỗi các binh sĩ thường rèn luyện thêm các kỹ năng, và các buổi đấu tập cũng khá là phổ biến.
Kể từ ngày anh nhận ra bản thân trước đây đã hèn nhát như thế nào, Ki-myung đã dần dần thay đổi. Anh trở nên tích cực hơn, năng động hơn, khi làm nhiệm vụ cũng tập trung hơn và thôi nghĩ về mấy chuyện tiêu cực. Dù cho mỗi khi cầm súng, anh vẫn bất giác rùng mình khi nhớ lại những ký ức u tối ngày xưa, nhưng mà Ki-myung đã có thể học cách vượt qua những nỗi ám ảnh và chiến đấu như một người lính thực thụ. Ki-myung thậm chí đã được thăng bậc, từ Hạ sĩ quan lên thành Trung sĩ.
Tất cả là nhờ vào người thanh niên ấy.
Ki-myung liếc mắt nhìn sang lều trại phía bên kia.
Dù có là ban ngày, hắn ta trông vẫn tỏa sáng như thường lệ. Ki-myung không biết người khác có nghĩ giống mình hay không, nhưng anh phải thừa nhận là hắn rất ưa nhìn. À phải rồi, hình như tên của hắn là Seong-eun.
Ki-myung cảm thấy mình giống như một kẻ mù lòa, tại sao ngần ấy thời gian anh lại chưa từng chú ý đến Seong-eun dù chỉ một lần? Mà cũng phải, hắn và anh ở cùng một tiểu đoàn, nhưng lại khác đại đội. Giữa cả ngàn thanh niên ai cũng giống như ai trong bộ áo lính, Ki-myung làm sao có thể đặc biệt chú ý đến hắn được.
Nhưng đó là chuyện của ngày trước, còn bây giờ, chỉ cần nhìn một cái, Ki-myung cũng có thể nhận ra hắn giữa biển người. Anh không biết là do kiểu tóc, vóc dáng, hay là nụ cười, mà tất cả mọi thứ trên người hắn đối với anh đều rất nổi bật. Bản thân anh cũng không biết vì sao mình lại để tâm đến hắn nhiều đến vậy. Giống như là phản xạ tự nhiên, hay là một loại thói quen, ánh nhìn của Ki-myung sẽ luôn đổ dồn lên người hắn bất cứ khi nào hắn xuất hiện trong tầm mắt.
Hôm nay, Ki-myung đã thể hiện rất tốt trong buổi đấu tập. Anh vốn dĩ không hề yếu ớt, mà còn rất mạnh là đằng khác. Chỉ là bởi vì những ngày tháng sống trong dằn vặt đã biến anh thành một con người ủ dột và không biết phấn đấu. Nhưng con người của anh bây giờ đã khác. Anh cống hiến hết sức mình vào tất cả mọi việc được giao, bao gồm cả những buổi rèn luyện. Chẳng mấy chốc mà cái tên của anh đã được tuyên dương trong tiểu đoàn, bởi vì anh hầu như chưa từng thua bất cứ một buổi diễn tập nào cả.
Ki-myung phải thầm cảm ơn mọi sự cố gắng và nỗ lực của mình, bởi vì chúng đã giúp anh thu hút được sự chú ý của người đó.
(*) Trận Masan (Battle of Masan): Một phần của trận chiến vành đai Pusan. Diễn ra từ ngày 5 tháng 8 đến 19 tháng 9 năm 1950, với sự chiến thắng của quân đội Liên hợp quốc.
Một buổi chiều tháng tám, Ki-myung ngồi ở một gốc cây sau khi làm xong công việc của mình. Anh móc một lá thư vẫn còn đang viết dở ra từ trong túi áo, và vụng về cầm bút, viết lên những dòng chữ từ sâu tận đáy lòng.
Gửi mẹ yêu dấu,
Con vẫn khỏe, không có thương tích gì. Con xin lỗi, vì đã không hề gữi cho mẹ một lá thư nào kể từ khi nhập ngủ. Mẹ có khỏe không? Mẹ vẫn oan toàn chứ? Mẹ hiện dờ đang ở nơi nào? Con rất nhớ mẹ...
Ki-myung vò tóc, cảm thấy xấu hổ vì bức thư chỉ mới viết được có mấy dòng, mà lại sai chính tả quá nhiều. Anh đã nói rồi mà, anh chỉ thích hợp cầm cuốc thôi. Trông đợi gì ở một cái thằng chữ nghĩa còn chưa biết đến nơi đến chốn như anh chứ?
Ki-myung tính dẹp luôn chuyện viết thư, nhưng lương tâm của một người con không cho phép anh làm thế. Anh cắn bút, không biết phải viết thêm gì tiếp. Đột nhiên, có một giọng nói trầm khàn vang lên từ phía sau, cắt đứt dòng suy nghĩ của anh.
"Này, mày là Ki-myung ở đại đội số 6 phải không?"
Anh vội gấp bức thư lại, và ngoái đầu lại nhìn.
Ngay lập tức, trái tim anh bắt đầu đánh trống liên hồi.
Bởi vì đứng ngay tại đó, đằng sau gốc cây mà anh đang ngồi, chính là người thanh niên có tên Seong-eun.
Đây là lần đầu tiên anh ở gần Seong-eun đến vậy, kể từ hồi người lính Gangwon kia phát điên, gần đến mức anh thậm chí có thể nghe thấy mùi thuốc lá thoang thoảng trên người hắn. Anh vẫn luôn ngồi ở một góc đằng xa mà nhìn hắn. Anh chưa bao giờ có đủ can đảm để thử bắt chuyện với hắn lần nào. Bây giờ anh nên nói gì đây? Xin chào tôi là Ki-myung tôi ngưỡng mộ anh đã lâu? Không được rồi, cái đầu dốt nát của anh không biết phải nói gì hết. Ki-myung thầm sỉ vả bản thân mình vì ngày xưa đã không chịu học hành cho đàng hoàng.
Seong-eun tất nhiên là cũng không chờ cho bộ não trì trệ của anh nghĩ ra được cái gì đó để bắt chuyện. Trông hắn cũng không có gì là để tâm đến thái độ im lặng của anh. Hắn trỏ ngón cái về phía mình và nói.
"Tao là Seo Seong-eun, ở đại đội số 2. Dạo này tao cứ nghe bọn sĩ quan nhắc đến mày suốt, Ki-myung xuất sắc thế nào, tiến bộ ra làm sao... Phiền bỏ mẹ. Mày đấu với tao một trận thử xem nào."
Seong-eun nói nhiều đến như vậy, nhưng Ki-myung chỉ nghe chữ được chữ không. Tất cả mọi chú ý đều đổ dồn vào màn giới thiệu bản thân của hắn. À, thì ra hắn họ Seo, ở đại đội số 2. Vậy anh có nên gọi hắn là sĩ quan Seo không nhỉ?
Lúc này Seong-eun mới nhận ra anh từ đầu đến cuối đều không thèm nghe mình nói. Đầu óc thằng đần này cứ như là đã trôi theo những đám mây đến tận phương trời nào rồi. Seong-eun cảm thấy bực tức. Thằng khốn này, nó xem lời hắn nói như tiếng muỗi kêu à? Vậy nên hắn cũng chẳng thèm chờ xem người ta có đồng ý đánh nhau với hắn hay chưa, mà đã vung nắm đấm với bàn tay gấu đánh thẳng vào mặt Ki-myung.
Cú đấm như trời giáng này cuối cùng cũng làm Ki-myung bừng tỉnh. Anh chợt nhận ra dường như đối phương đã hiểu lầm gì đó. Anh cuối cùng cũng chịu mở miệng để giải thích.
"Có nhầm lẫn gì không? Tôi hình như đâu có gây sự gì với anh?"
Nhưng Seong-eun chỉ cười, không trả lời mà lại tiếp tục vung một đòn khác. Lần này Ki-myung đã phản ứng lại, và chặn lấy cú đấm của Seong-eun.
"Tôi không thích đánh nhau."
Seong-eun dùng tay còn lại đấm vào bụng Ki-myung, làm anh phải buông tay kia của hắn ra. Hắn chớp cơ hội lao đến và lại làm thêm một cú uppercut (*1) vào cằm của anh.
"Còn tao thì thích chết đi được."
Lực đấm mạnh làm Ki-myung chảy cả máu miệng. Đến nước này rồi thì Ki-myung cũng không nhẫn nhịn nữa. Anh tóm lấy cổ tay trái của hắn và lách người ra đằng sau hắn, làm một đòn khóa tay (*2) và ấn vai hắn xuống, nhưng tay kia của Seong-eun đã vòng ra sau và nắm lấy tóc anh giật mạnh. Hắn dẫm chân vào Ki-myung, cùng lúc gạt mạnh tay ra khỏi gọng khóa.
Ki-myung nhanh chóng hồi phục lại và lao đến vật hắn xuống đất, sau đó đấm một đòn vào mặt hắn, xem như là trả lại cú đấm vào mặt mới nãy. Anh kẹp cổ hắn và siết (*3), hai chân khóa lấy hông Seong-eun, cố giữ hắn trong tư thế bị kiềm trong gọng khóa. Seong-eun trông có vẻ chật vật. Hắn khó khăn hít thở, nhưng rồi với cái sức mạnh khủng khiếp của mình, hắn một tay đấm vào bụng Ki-myung, tay kia tóm lấy cổ áo anh và giật anh ra khỏi người mình. Chẳng cho anh cơ hội kịp phản ứng, Seong-eun tóm lấy hai vai anh và vật anh lại xuống đất, đảo ngược vị trí của hai người. Hắn đấm liên tiếp vào mặt và ngực của Ki-myung, bàn tay gấu dần nhuốm màu máu đỏ. Ki-myung cố gắng giữ cho mình bình tĩnh. Anh nâng đầu gối và thúc mạnh vào lưng hắn, sau đó tóm lấy bàn tay đang chuẩn bị hạ nắm đấm xuống mặt mình và làm một đòn bẻ tay. Nhân lúc cơn đau từ khớp cổ tay làm Seong-eun phân tâm, anh cụng trán mình vào trán hắn, và nâng chân đá hắn ra khỏi người mình.
Lần này Ki-myung là người tấn công trước, anh lao đến và lại định khóa tay hắn, nhưng hắn đã lường trước được và lách người tránh né, hắn đấm vào thái dương của anh, làm anh xiểng niểng. Hắn chớp cơ hội lao đến, tóm lấy đầu anh và làm một đòn đầu gối (*4) vào mặt Ki-myung. Lại nữa, sao hắn thích đánh vào mặt quá vậy.
Seong-eun cảm thấy máu nóng trong người như dồn lên tận não. Adrenaline kích thích đến tận các tế bào, làm hắn cảm thấy hưng phấn. Đã lâu lắm rồi hắn mới gặp được một đối thủ xứng tầm với mình như thế này. Làm hắn không thể ngăn được ham muốn hành cái bản mặt vênh váo đó ra bã. Hắn hết đấm rồi lại đá, đắm chìm trong cái khoái cảm sung sướng đến tột cùng này.
Vậy nên hắn lơ là không chú ý đến khi Ki-myung đột nhiên nắm lấy cổ tay mình và lại bắt đầu chuẩn bị xoay người. Lại cái trò khóa tay cũ rích, đừng nghĩ hắn sẽ lại trúng đòn lần thứ hai. Hắn định giữ anh lại trước khi anh kịp khóa mình, nhưng đòn đánh mà Ki-myung thực hiện lại không phải khóa tay. Seong-eun ngạc nhiên khi Ki-myung xoay cổ tay tránh khỏi cái nắm của hắn. Anh vòng ra sau hắn và đẩy lưng hắn về phía trước bằng đòn lòng bàn tay (*5). Trước khi Seong-eun có cơ hội quay người, Ki-myung đã lao đến và nhảy lên lưng hắn. Hai chân Ki-myung kẹp lấy hông hắn, còn hai cánh tay thì siết chặt lấy cổ hắn từ phía sau, vật ngược xuống đất. Đây gọi là đòn siết cổ sau (*6), nhằm chặn lại động mạch cảnh ở hai bên cổ của đối thủ. Một khi đã dính đòn này thì khi thoát ra sẽ rất khó. Đúng là vậy thật, Seong-eun bắt đầu vùng vẫy, nhưng làm sao cũng không khiến cho gọng kìm trên người nới lỏng ra được. Hắn cảm thấy trước mắt tối sầm, sự thiếu hụt oxy làm hắn choáng váng.
Nhưng đột nhiên gọng kìm trên người hắn lại nới lỏng. Ki-myung thả tay khỏi cổ hắn, chờ cho hắn hít thở bình thường rồi mới đẩy hắn ra và đứng dậy. Tuy là anh đã khóa được hắn lại bằng đòn kết liễu, nhưng mà tình trạng hiện tại của anh trông thê thảm hơn hắn nhiều. Lực đấm của Seong-eun cộng thêm bàn tay gấu làm cả người Ki-myung đều đau nhức. Mặt anh là thảm nhất, mắt thì bầm, má thì sưng tấy, mũi miệng bê bết máu tươi. Anh lấy tay áo lau máu trên mặt và nhìn hắn.
Ngay khi được thả khỏi đòn khóa, Seong-eun vội bật dậy, ôm ngực thở hổn hển. Chưa bao giờ hắn thấy trân trọng oxy đến như thế. Không khí dần tràn vào trong buồng phổi khô cạn, làm nó lần nữa sống lại. Sau khi cơn chóng mặt qua đi, Seong-eun chống cổ tay nhói đau ngồi dậy. Mẹ thằng chó đó, mấy đòn của nó dù ít gây ra vết thương trên da thịt, nhưng lại đem đến cơn đau ở các khối cơ và khớp. Hắn xoay xoay cổ tay, nhổ một ngụm máu xuống đất, và trừng mắt nhìn anh.
"Sao mày dừng lại? Thương hại tao à?"
Ki-myung lắc đầu. Anh không hiểu nổi hắn đang nghĩ gì nữa.
"Không phải. Đánh nhau đến chết để làm gì chứ?"
Ki-myung không biết tại sao Seong-eun lại sinh sự với mình. Rõ ràng là anh chưa từng làm gì hắn cả.
Bây giờ, anh mới có cơ hội nhìn hắn thật kỹ. Thường ngày anh chỉ có thể quan sát hắn từ phía xa, ở khoảng cách gần thế này, những đường nét trên người hắn hiện ra rõ rệt. Và chết tiệt, trái tim anh lại đập vang từng hồi trong lồng ngực.
Seong-eun trông có vẻ rất không vừa lòng với thái độ của anh. Hắn vươn vai, xoay các khớp, và chỉnh lại tay gấu đeo trên tay. Điệu bộ của hắn giống như lại muốn tiếp tục đánh với anh trận nữa. Trước khi anh kịp nghĩ ra lý do gì đó để ngăn hắn lại, hắn đã lao về phía anh. Hắn căn bản không muốn nghe anh lải nhải cái gì cả. Nhưng lần này, trận đấu của họ rất nhanh đã phải kết thúc. Bởi vì vắng mặt quá lâu, đã đến giờ chuẩn bị cơm chiều nhưng họ vẫn chưa trở lại lều trại, vậy nên đại đội trưởng đã đi tìm hai người.
"Thượng sĩ Seo, Trung sĩ Kim, hai người đang làm cái trò gì ở đây vậy?"
Đại đội trưởng Lee của đội 6 khó chịu nhìn bộ dạng như vừa mới ra chiến trường của hai người. Seong-eun nhăn mặt, bực bội vì trận đấu của mình bị phá hỏng, nhưng hắn cũng đủ thông minh để biết cãi lại thượng cấp lúc này là chuyện không hề sáng suốt, nhất là khi lỗi sai thật sự nằm ở phía họ. Hắn cười giả lả, khoác vai Ki-myung và bày ra vẻ mặt vô hại.
"Haha, tôi thấy màn đấu tập của anh Kim lúc nãy rất ấn tượng, nên muốn học hỏi anh ấy vài ngón võ ấy mà, phải không anh Kim?"
Hắn bóp chặt vai anh. Ki-myung có thể nghe thấy tiếng xương bả vai của mình kêu răng rắc. Anh thở dài, và gật đầu, nhưng không nói gì thêm. Anh không nghĩ đội trưởng sẽ dễ bị gạt vậy đâu.
Đội trưởng Lee lia mắt nhìn hai người bọn họ. Tất nhiên là anh không tin vào cái lý do qua loa để đối phó đó. Mặc kệ lý do là gì, đánh nhau trong quân ngũ là tội khó có thể nhắm mắt cho qua được.
"Trung sĩ Kim, anh bị phạt vì tội đánh nhau gây thương tích cho đối phương. Kể từ hôm nay thời gian gác đêm của anh tăng thêm hai tiếng, và phải chịu trách nhiệm phục vụ bữa ăn cho tiểu đoàn hết một tuần. Còn về phần thượng sĩ Seo, tôi sẽ báo cáo lại cho đại đội trưởng của anh biết. Hai người mau quay về trại và băng bó vết thương đi."
Ki-myung và Seong-eun làm động tác chào của quân nhân rồi sau đó quay về lều trại của mình dưới sự giám sát của đội trưởng Lee.
Suốt cả quãng đường về trại, Seong-eun cứ khiêu khích nhìn Ki-myung, ánh mắt kiêu ngạo của hắn như muốn nói, không bị phá đám là anh xong đời với hắn rồi. Ki-myung thì chỉ có thể giả vờ như không thấy. Anh có cảm giác, hắn ta trông chẳng khác gì một đứa con nít thích hơn thua với người khác. Điều đáng chết nhất là, tim anh cứ đập bình bịch mỗi khi nhìn thấy cái thằng con nít đó.
Ki-myung nhớ lại hình phạt dành cho mình mà thở dài ngao ngán. Nhưng mà thôi vậy, ít ra thì cũng không bị phê bình trước tập thể, và phạt thế này đã là quá nhẹ nhàng rồi. Không biết Seong-eun thì thế nào nhỉ. Anh chỉ mong là hắn sẽ không bị phạt quá nặng. Dù sao thì anh đánh trả lại hắn cũng là có lỗi rồi. Nếu như hình phạt của hắn nặng hơn anh, anh sẽ cảm thấy áy náy lắm.
Cuối cùng thì họ cũng về đến trại của mình. Vì khác đại đội nên Ki-myung và Seong-eun phải tách nhau ra ở cổng trại. Ki-myung nhìn bóng lưng của hắn rời đi, lòng thầm mong rằng sẽ có thể nói chuyện với hắn một lần nữa. Đó sẽ là một cuộc trò chuyện bình thường như giữa những người bạn với nhau, anh mong là như thế.
Anh bước vào lều trại, cố mặc kệ những ánh mắt kỳ dị mà đồng đội dành cho mình. Có lẽ bởi vì bộ dạng máu me đầy người của Ki-myung lúc này quá đáng sợ, không một ai tiến lên bắt chuyện với anh. Hiện tại đã quá giờ cơm, vậy nên thức ăn còn lại không còn nhiều. Ki-myung nhìn vài cọng rau lát đát còn sót lại trong nồi, tự nhiên không có cảm giác thèm ăn nữa. Anh lấy chậu rửa sạch máu trên mặt, rồi qua loa bôi thuốc lên miệng những vết thương hở. Tối nay anh có ca gác đêm, vậy nên anh quyết định sẽ đi ngủ sớm.
Ki-myung tìm đại chỗ nào đó và đặt lưng nằm xuống. Văng vẳng bên tai anh là tiếng nói cười của những người lính khác. Ngày thường anh sẽ nằm yên và lắng nghe câu chuyện của mỗi người bọn họ. Cảm giác khi nhớ lại những kỷ niệm hạnh phúc nơi quê nhà thật là ấm áp. Chúng tiếp thêm hy vọng cho những con người phải sống trong bom đạn của chiến tranh. Ki-myung sẽ tự vẽ lên hình ảnh làng quê yên bình trong tâm trí theo lời kể của những người lính. Bầu trời trong xanh không có dấu vết máy bay khiến tâm hồn anh như bay bổng. Ki-myung mơ ước một ngày nào đó những hồi ức tươi đẹp ấy sẽ trở thành sự thật, và khi anh quay lại quê nhà, anh sẽ thấy hình bóng của mẹ chờ anh ở đầu con ngõ nhỏ.
Thế nhưng hôm nay, Ki-myung lại không để tâm đến những câu chuyện đó nữa. Hình bóng của Seong-eun là thứ duy nhất xuất hiện trong tâm trí anh.
Không biết anh sẽ còn có cơ hội nói chuyện với Seong-eun không nhỉ? Chắc là không đâu, hôm nay họ cũng đánh đã đời rồi, lại còn bị phạt nữa. Anh không nghĩ Seong-eun sẽ lại kiếm chuyện với anh lần thứ hai.
Ki-myung cảm thấy có chút thất vọng.
Nhưng mà anh không biết, lần gặp nhau thứ hai với Seong-eun lại đến sớm hơn anh nghĩ rất nhiều.
(*1) Uppercut: Còn gọi là undercut, là một cú đấm móc từ dưới lên của môn boxing, thường tấn công vào cằm của đối thủ.
(*2) Khóa tay (Armlock): Một đòn trong các môn vật (grappling), nhằm kéo căng các khớp khuỷu tay và khớp vai của đối thủ.
(*3) Kẹp cổ và siết (Guillotine choke): Đây là đòn kẹp cổ từ phía trước của các môn võ vật như MMA, Judo, Jiu Jitsu.
(*4) Đòn đầu gối (Knee strike): Đòn tấn công bằng đầu gối khi đầu của đối thủ bị giữ. Thường xuất hiện trong các môn Muay Thai và kickboxing.
(*5) Đòn lòng bàn tay (Palm strike, hay còn gọi là Open-hand strike): Là đòn có xuất xứ từ Đông Á, tấn công bằng lòng bàn tay ở các chiêu như chưởng và đẩy.
(*6) Siết cổ sau (Rear naked choke): Đòn siết xuất hiện ở các môn vật. Đòn này sẽ siết chặt lấy cổ của đối thủ từ phía sau, chặn lại động mạch cảnh khiến đối thủ không thở được. Một trong những đòn kết liễu của MMA.
Buổi tối hôm đó, Ki-myung ra ngọn đồi để gác đêm. Mặc dù bây giờ đang là mùa hè, nhưng thời tiết đã sắp vào thu, buổi tối sương xuống cũng có cảm giác se lạnh. Dạ dày Ki-myung đột nhiên quặn lên, anh khó chịu vỗ vỗ cái bụng trống không của mình. Hối hận quá, lẽ ra hồi chiều nên vét được cọng rau nào thì hay cọng đấy, đừng để bụng đói như vậy. Bây giờ cơn đói cồn cào cộng thêm sự thiếu ngủ làm đầu óc Ki-myung trống rỗng. Anh lắc đầu, cố tập trung vào nhiệm vụ của mình.
Một cơn gió thổi qua, cắt vào miệng những vết thương hở trên mặt. Ki-myung khẽ hít một hơi, cảm giác đau rát và cái lạnh làm anh run rẩy. Anh rút người vào bộ quân phục, mong là sự lạnh lẽo sẽ vơi bớt đi phần nào. Đột nhiên, anh bừng tỉnh khỏi cơn mơ màng, bởi vì trong làn gió có mang theo mùi thuốc lá.
Ki-myung quay đầu lại nhìn phía sau. Lúc này thì cảm giác buồn ngủ đã hoàn toàn biến mất. Bầu trời hôm nay rất đẹp. Nó trái ngược hẳn với những đêm u ám thuở Ki-myung mới vừa nhập ngũ không bao lâu. Những ánh sao rọi xuống con sông Naktong (*), làm cho dòng sông như một bầu trời thứ hai thắp sáng lên màn đêm u tối. Dưới bầu trời sao rực rỡ ấy, anh nhìn thấy Seong-eun. Hắn đút một tay vào túi quần, miệng ngậm điếu thuốc lá. Hắn ngửa đầu rít một hơi dài, rồi lại phà ra một làn khói. Rồi hắn nghiêng đầu, di chuyển ánh mắt nhìn về phía Ki-myung.
(*) Sông Naktong (Nakdong): Con sông dài nhất Hàn Quốc, chảy qua các thành phố lớn như Daegu và Pusan. Trong trận vành đai Pusan, các binh sĩ sẽ canh gác ở vòng cung sông Naktong (Naktong Bulge), nhằm quan sát và phản công lại Quân đội Nhân dân Bắc Triều Tiên nếu như họ vượt qua sông.
Ki-myung không biết hắn có ý định làm gì, hắn cứ đứng nhìn anh một lúc như vậy. Cho đến khi điếu thuốc tàn, hắn mới tiến lại gần chỗ anh đang ngồi.
Ki-myung e dè nhìn hắn. Nếu hắn lại muốn đánh nhau, anh phải làm gì bây giờ? Đã bị phạt mà còn tiếp tục phạm lỗi, Ki-myung rùng mình, nhớ lại người lính Gangwon mà anh chưa từng gặp lại kể từ dạo đó.
Nhưng Seong-eun dường như không có vẻ muốn gây sự. Hắn hòa nhã và lịch sự hơn hồi chiều. Seong-eun móc bao thuốc ra từ trong túi, và đưa nó ra trước mặt anh.
"Này, làm điếu không?"
Ki-myung nhìn Seong-eun như thể hắn là thứ sinh vật lạ kỳ nào đó. Mới ban chiều hắn còn đòi sống mái với anh, thế nhưng bây giờ lại tử tế đến vậy. Seong-eun có lẽ cũng nhận ra sự do dự của anh, không đợi anh trả lời, hắn mở miệng nói tiếp.
"Yên tâm, tao không đánh mày nữa đâu. Mẹ nó, chiều nay thằng cha đội trưởng cứ lải nhải suốt. Bảo tao mà còn kiếm chuyện là đá đít tao xuống làm hậu cần. Đừng có giỡn, xuống đó rồi thì biết làm cái mẹ gì giờ."
Seong-eun thoải mái nói chuyện với hắn, cứ giống như hai người là những người bạn bình thường. Bàn tay của hắn vẫn chìa ra trước mặt Ki-myung, anh nuốt nước bọt, nhìn bao thuốc trước mặt.
Ki-myung chưa từng hút thuốc bao giờ. Ngày trước người cha ít khi có nhà của anh cũng nghiện thuốc lá. Thật ra số lần anh gặp cha mình chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong ký ức của anh, hình dáng của ông ấy chỉ là một bóng hình mờ nhạt. Nhưng có một chuyện mà Ki-myung vẫn nhớ rất rõ, ấy là mỗi khi anh trở về nhà sau buổi rong chơi cùng đám nhóc trong thôn, nếu như ngửi thấy mùi thuốc lá, nghĩa là cha của anh đã được nghỉ phép về nhà. Mùi thuốc lan tỏa khắp căn nhà bình dị, tràn vào buồng phổi của Ki-myung. Anh đã từng ghét cái mùi hương cay xè khó chịu đó. Chúng ám vào quần áo, làm mất đi mùi của nắng vương trên những bộ đồ được phơi khô ngoài trời. Cho đến mỗi khi cha anh hết kỳ phép và lại phải quay về quân ngũ, Ki-myung mới có cảm giác mất mát. Anh mong nhớ mùi thuốc lá của cha, bởi vì đó là dấu vết duy nhất cho thấy ông từng có mặt ở nhà. Rồi đến khi cha anh mất, Ki-myung không còn có cơ hội để càu nhàu về mùi thuốc lá của ông nữa. Bao thuốc với vị mà ông yêu thích được đặt trong cỗ quan tài, chôn cùng với ông. Khi nắp hòm đóng lại, bao thuốc đó đã mang đi mất những kỷ niệm anh có cùng cha. Ngay tại giây phút đó, anh tự nhiên lại không còn ghét mùi thuốc lá nữa.
Một thời gian sau khi cha anh mất, có lẽ bởi vì mẹ cũng nhớ nhung sự hiện diện của cha trong cuộc đời mình, bà ấy bắt đầu hút thuốc. Điếu thuốc đầu tiên mà mẹ anh hút là vị yêu thích của cha, dường như bà ấy muốn biết vì sao cha anh lại nghiện cái thứ có mùi nồng nặc ấy. Bà ấy rít một hơi, và làn khói cay làm bà ấy ho sặc sụa. Ki-myung không biết là do khói thuốc, hay là bởi vì những hoài niệm, mà ngày hôm đó, anh thấy mẹ đã khóc.
Kể từ khi anh có nhận thức cho đến tận khi ấy, anh chưa thấy bà khóc bao giờ. Cho dù là khi cha anh vắng nhà, hoặc là khi ông ấy quay về rồi chẳng mấy chốc lại phải rời đi, sự hụt hẫng hiện rõ trên khuôn mặt của bà ấy, nhưng bà lại không hề rơi một giọt lệ nào. Hay là những khi Ki-myung đánh nhau với bọn nhóc trong làng rồi bị thương bầm dập khắp người, khuôn mặt bà ấy vẫn lãnh đạm và băng bó cho anh khi anh kêu la oai oái vì vết thương đau. Đã có lúc Ki-myung từng nghĩ lẽ nào trái tim của mẹ làm từ sắt đá ư, tại sao bà ấy có thể giữ nét mặt bình thản như tất cả mọi việc xung quanh đều tẻ nhạt đó? Lần đầu tiên anh nhìn thấy những giọt nước mắt của mẹ, anh mới biết được, hóa ra bà ấy cũng là một người phụ nữ bình thường với trái tim mỏng manh khao khát được yêu thương, chỉ là bà ấy phải tỏ ra mạnh mẽ để đương đầu với cuộc đời đầy sóng gió này mà thôi.
"Mẹ mày, có hút không thì nói một tiếng. Tay bố sắp gãy rồi này."
Ki-myung giật mình, thoát khỏi dòng hồi tưởng. Thì ra nãy giờ anh đã thả hồn trôi đến tận nơi đâu, và Seong-eun thì bắt đầu mất kiên nhẫn. Hẳn là hắn đã phải dùng hết tất cả sức bình sinh để nhẫn nhịn và không đấm vào mặt anh một lần nữa.
Ki-myung ngại ngùng nhìn bao thuốc trước mặt. May mà trời tối, bằng không Seong-eun sẽ nhìn thấy lỗ tai đỏ ửng của anh mất. Ki-myung cũng thầm trách mắng mình, tại sao cả hai lần hắn bắt chuyện (chính xác là chỉ một lần, bởi vì lần đầu tiên hắn đến để kiếm chuyện mà, thế nhưng con tim đang nổi loạn của Ki-myung lại mặc kệ luôn sự thật hiển nhiên đó), anh đều cứ nghĩ đến mấy chuyện đâu đâu. Anh chỉ hy vọng hắn không nghĩ mình là một thằng đần có phản ứng chậm chạp - thật ra là hắn đã nghĩ đúng như thế rồi. Không muốn chút sự kiên nhẫn còn sót lại của hắn cũng bay đi mất, anh vội rút một điếu từ trong bao thuốc hắn mời.
Seong-eun trông có vẻ như đang thầm cảm ơn thánh thần vì thằng ngốc trước mặt cuối cùng cũng chịu đáp lại mình. Hắn cất bao thuốc, và lấy một cái bật lửa từ trong túi áo ra đưa cho anh.
Ngọn lửa lập lòe tỏa ra ánh sáng màu cam nhạt, chiếu lên gương mặt góc cạnh của Seong-eun. Mặc kệ cái lạnh của ban đêm, bàn tay Ki-myung vẫn túa mồ hôi ướt đẫm. Ngọn lửa bắt vào đầu thuốc, và một làn khói lờ mờ bắt đầu tỏa ra, làm cho anh có cảm giác gương mặt của Seong-eun càng thêm hư ảo.
Ki-myung không biết vì sao mình lại nhận điếu thuốc, rõ ràng là anh chưa từng hút thuốc bao giờ. Dù anh đã quá quen với mùi khói thuốc, nhưng anh chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ thử hút chúng. Thuốc lá là một thứ dễ gây nghiện, anh sợ một khi đã dính vào rồi thì khó mà dứt ra được nữa.
Cũng giống như Seong-eun.
Dù anh đã tự nói với bản thân nhiều lần rằng sự chú ý mà anh dành cho hắn chẳng qua chỉ là sự hâm mộ, lẫn với chút biết ơn vì hắn (vô tình) đã giúp anh tỉnh ngộ và biết phấn đấu hơn vì ngày mai. Thế nhưng Ki-myung chợt nhận ra một điều, càng ngày anh càng không thể rời mắt ra khỏi hắn. Bất cứ lúc nào hắn xuất hiện trong tầm mắt, cứ như lực hút của nam châm, ánh mắt anh lại tự động dán lên người hắn. Ki-myung không biết tại sao anh lại như vậy, việc để mắt đến hắn đã trở thành một loại thói quen. Và mỗi khi đêm đến, nằm trên "chiếc giường" tạm bợ trên nền đất, anh lại nhớ đến nụ cười của Seong-eun.
Hắn chưa bao giờ cười với anh, bởi vì hắn có biết anh là ai đâu, nhưng không hiểu sao anh lại thấy hạnh phúc mỗi khi nhìn thấy hắn cười. Và trước khi Ki-myung kịp nhận ra, môi của anh đã tự vẽ nên một nụ cười, chỉ vì nhớ đến gương mặt rạng rỡ ấy của Seong-eun.
Seong-eun cứ như một loại thuốc phiện, càng ngày càng len lỏi vào sâu tận trong tim của Ki-myung, xâm lấn từng tế bào, kích thích từng mạch máu. Và tựa như những con nghiện, một khi đã dính vào thì không thể nào dứt ra, Ki-myung cảm thấy bản thân mình cũng giống như vậy.
Có lẽ bởi vì anh không muốn Seong-eun phải thất vọng và chê bai mình là kẻ yếu đuối, Ki-myung rít một ngụm thuốc, thầm mong rằng mình sẽ không bị quá mất mặt trước Seong-eun.
Làn khói cay nồng xộc thẳng vào trong vòm họng, tràn vào buồng phổi của Ki-myung. Cảm giác ban đầu thật khó chịu. Mùi thuốc lá trong khoang mũi làm cho đầu óc Ki-myung choáng váng. Anh ho sặc sụa, ứa cả nước mắt. Seong-eun ngồi bên cạnh thì cười phá lên và vỗ lưng anh.
"Haha, tưởng như nào, hóa ra là lần đầu hút thuốc à. Thế thì phải nói chứ, tao cũng có bắt mày hút đâu."
Sau khi cơn ho qua đi, Ki-myung ổn định lại hơi thở. Anh nhìn cái con người vẫn đang cười ngặt ngẽo kia mà thở dài. Biết thế ngay từ đầu khỏi hút cho xong, thật là xấu hổ hết sức.
Vì muốn giữ lại chút thể diện cho mình, Ki-myung mở miệng hỏi.
"Sao anh lại ở đây vậy?"
Seong-eun ngừng cười, hắn ngồi thẳng dậy, mặt tự dưng nhăn lại như khỉ.
"Bị phạt đấy, lẽ ra hôm nay chưa đến ca phải gác đêm nhưng vẫn bị dựng đầu dậy đây này. Thời gian lại tăng thêm hai tiếng nữa. Mẹ bọn nó chứ."
Ki-myung nhận ra một điều là Seong-eun có vẻ rất thích chửi thề. Từ nãy đến giờ hắn nói chưa được mấy câu, nhưng câu nào cũng phải "mẹ nó" vài lần thì mới thỏa mãn. Lúc trước Ki-myung rất bài xích chuyện này, nhưng không hiểu sao lời lẽ gì mà phát ra từ miệng Seong-eun, vào tai anh rồi cũng thành dễ nghe hết.
"Tôi cũng bị phạt giống vậy đấy."
Ki-myung nói. Seong-eun "ồ" một tiếng, rồi ngã lưng nằm xuống bãi cỏ. Hắn thư thái nhắm mắt lại, bộ dạng giống như chuẩn bị đi ngủ.
"Thế thì chúng ta là bạn chịu phạt chung rồi đấy anh Kim à."
Ki-myung chợt khựng lại khi nghe đến từ "bạn". Bạn sao? Seong-eun xem anh là bạn thật ư? Nhưng rõ ràng ban chiều hắn nói chuyện với anh như kẻ thù không đội trời chung mà?
Ki-myung một nửa muốn hỏi hắn, một nửa lại thôi. Anh không thể nào hiểu nổi cái thái độ thất thường của hắn. Nhưng anh cũng sợ mình nói sai gì đó, rồi lại chọc giận Seong-eun. Thế nhưng nếu như không biết vì sao Seong-eun lại kiếm chuyện với mình, lòng anh lại bứt rứt không thôi. Ki-myung đắn đo hồi lâu, rồi cuối cùng cũng chịu mở miệng hỏi. Mặc kệ vì sao Seong-eun lại nổi điên, anh cũng phải biết rõ lý do mới được.
"Này... Sao hồi chiều anh lại đánh nhau với tôi? Có hiểu lầm gì ư?"
Seong-eun mở mắt ra nhìn anh. Vẻ mặt hắn giống như đang nhìn một thằng đần vậy.
"Thì nói rồi đấy. Dạo này tao cứ nghe bọn sĩ quan khen mày, chịu không được nên mới đến tìm, xem mày tài giỏi thế nào. Mà công nhận là mày cũng ghê gớm đấy, bọn nó khen không ngoa đâu. Lần đầu tiên mới có người làm tao chật vật vậy đấy."
Mặt Ki-myung càng ngày càng nghệch ra dần. Hóa ra chỉ là bởi vì cái tính ganh đua đấy của hắn. Thế mà Ki-myung cứ tưởng mình đã làm gì sai rồi bị hiểu lầm. Anh cũng đến chịu thua cái nết trẻ con đấy.
Seong-eun lại lần nữa nhắm mắt, trông có vẻ như không muốn để ý đến anh nữa.
"Chiều giờ cứ nghe thằng đội trưởng lải nhải suốt, buồn ngủ chết mẹ. Có ai đến thì nhớ gọi tao dậy đấy."
Nói rồi hắn hít thở đều đều, chẳng bao lâu đã ngủ mất rồi.
Ki-myung kinh ngạc nhìn cái tốc độ đánh giấc của cái con người trước mặt. Giá mà anh cũng có khả năng đặt lưng xuống là ngủ ngay được như hắn. Anh xoa bọng mắt thâm quầng của mình.
Lúc này, Ki-myung mới chợt nhớ ra mình quên chưa trả lại bật lửa cho hắn. Anh lấy gấu áo lau chiếc bật lửa, sợ mới nãy mồ hôi tay của mình dây lên đó. Mắt anh đột nhiên chú ý đến điếu thuốc mà anh chỉ vừa mới hút một ngụm đã vội dập tắt rồi vứt trên bãi cỏ. Anh nhìn nó một lúc, rồi lại nhặt nó lên, lau phần đầu lọc một chút, và châm lửa.
Lần này, Ki-myung đã có kinh nghiệm hơn. Anh không hút liền một hơi dài, mà rít từng ngụm một chút một, để cho lồng ngực có thể thích ứng với làn khói xâm nhập vào buồng phổi. Cảm giác sau khi cơn nóng rát qua đi cũng thật kích thích, đưa người ta chìm vào cơn mê. Giờ thì Ki-myung đã hiểu vì sao thuốc lá lại làm người ta nghiện đến vậy. Mùi hương của thuốc lá làm anh nhớ lại những ngày anh còn nhỏ, với bóng hình mờ nhạt của cha và gương mặt bình thản của mẹ. Đột nhiên, anh cảm thấy khóe mắt mình cay cay. Anh không biết đó là do thuốc lá, hay là bởi vì nỗi hoài niệm sâu thẳm trong lòng. Anh chợt nhớ đến lá thư viết dở vẫn còn cất sâu trong túi áo. Anh nhả ra một hơi khói, hy vọng một ngày anh sẽ sớm có thể gửi nó đi.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com