Sao lại cúi đầu trước Trung Quốc
Sao lại cúi đầu trước Trung Quốc?
Các chính sách sai lầm của chính phủ Trung Quốc làm trầm trọng thêm sự chênh lệch giàu nghèo ở đây.
Christian Caryl & Mary Hennock (Newsweek 21, 25/5/2009)
Phạm Hồng Sơn dịch
Thông Luận
Ngày càng có nhiều học giả châu Á và phương Tây tuyên bố rằng thời điểm của Trung Quốc cuối cùng cũng đã tới. Ai có thể phản bác được họ? Khi Hoa Kỳ đang phải gắng vật lộn với sự suy giảm nghiêm trọng về kinh tế và phải khôi phục lại hình ảnh đã bị hoen ố do hai cuộc chiến vẫn còn đang tiếp tục như vô tận, Trung Quốc đang lớn lên và khuếch trương ảnh hưởng ra thế giới. Sự tự tin có thể sờ được ở mọi chỗ trên khắp "Vương quốc Trung nguyên" (Middle Kingdom). Tháng trước, tại Diễn đàn Bác-Ngao (câu trả lời của Bắc Kinh đối với Diễn đàn Davos), một loạt các diễn giả Trung Quốc đã không còn lên tiếng với vẻ khiêm nhường thường có nữa và còn chế nhạo Washington về chuyện yếu kém trong quản lý tài chính. Những diễn giả này kêu gọi thiết lập một loại tiền dự trữ mới thay cho Đô-La và đòi hỏi có nhiều ảnh hưởng hơn trong hệ thống kinh tế thế giới. Vài ngày sau đó, nhân dịp kỷ niệm 60 năm thành lập Hải quân Trung Quốc, Bắc Kinh, lần đầu tiên, đã phô cho thế giới thấy hai Tàu ngầm hạt nhân và tuyên bố lực lượng hải quân của họ sẽ sớm phóng sức mạnh ra Thái Bình Dương và xa hơn nữa.
Vấn đề ô nhiễm ở Trung Quốc đã trở nên "nổi tiếng"
Nhưng điều gây ngạc nhiên đặc biệt về sự trỗi dậy của Trung Quốc là việc mọi người rất ít xem lại thực lực của nó có phù hợp với vị thế quốc gia đứng đầu châu Á không. Thực trạng này cũng diễn ra ngay cả ở Nhật Bản, quốc gia có nền kinh tế gấp 10 lần Trung Quốc. Hoạt cảnh Bắc Kinh đang giữ một vai trò đứng đầu tại các cuộc gặp thượng đỉnh, nơi mà Tokyo nhìn chung không nổi bật, cũng dường như đang được chào đón ở khắp nơi như một sự tưởng thưởng gấp gáp. Ngày càng có thêm các lãnh đạo ở khắp thế giới âm thầm cúi đầu trước Trung Quốc như một siêu cường với hết thảy động lực cho kinh tế. Đó cũng là thông điệp không nói ra khi Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy, ngay tháng trước, đã xin lỗi Chủ tịch Hồ Cẩm Đào về việc đã tiếp kiến Đức Dalai Lama, hoặc khi Hoa Kỳ lặng lẽ dừng việc lên án Trung Quốc thao túng đồng tiền nội địa. Các báo phát hành từ London cho tới Seoul đều đang chạy các tin về sự nổi lên của Trung Quốc như một quốc gia điều khiển thế giới, và nhà báo Martin Jacques gần đây còn dự báo trong tờ The Guardian là Thượng Hải sẽ sớm thay New York làm «trung tâm tài chính thế giới». Ông ta còn không nhắc đến những đối thủ khác trong vùng như Tokyo, Singapore hay Seoul.
Các học giả như David Kang của UCLA (Đại học California, Los Angeles) thậm chí còn cho rằng sự nổi dậy của một trật tự thế giới xoay quanh Trung Quốc có thể là một tiến triển tích cực và mang lại sự ổn định. Trong phần lớn của hai nghìn năm qua, ông ta ghi nhận, rằng người châu Á đã coi sự thống trị của Trung Quốc như một phần của cuộc sống. Và sự thống trị đó thường là hiền lành: trong khi đế chế Trung Quốc muốn các nước láng giềng thừa nhận sự thống lĩnh của nó và phục dịch nó thì ngược lại nó cũng thường để cho các nước đó được yên thân. Tham vọng bá quyền của Trung Quốc đã chứng tỏ rõ ràng tính ổn định và mềm dẻo. Kang còn nói "Nếu nhìn vào lịch sử, bạn sẽ không thể kết luận ngay được là Trung Quốc càng lớn thì càng nguy hiểm".
Có thể thực tế đã đúng như những nhận định vừa nêu. Nhưng sẽ đích đáng để xem xem Trung Quốc đã thực sự sẵn sàng làm thủ lĩnh, ngay ở mức độ trong khu vực, hay chưa. Trong khi châu Á hiện tại vẫn còn hỗn độn, đa cực về sức mạnh, nó chưa thể tự gò mình vào một thứ tôn ti nào. Trung Quốc đúng là lớn hơn rất nhiều các nước láng giềng về qui mô kinh tế, nhưng với các thước đo khác như công nghệ, GDP/đầu người hoặc sức mạnh của các định chế trong xã hội, Trung Quốc còn xa mới tới được vị trí số 1. Nhà quan sát châu Á Bill Emmott đã viết trong cuốn Rivals (Các đối thủ) mới ra gần đây, rằng sự tăng trưởng của Trung Quốc đang bị mắc kẹt vào các loại đầu tư hoang phí, các xuất khẩu vốn qui mô lớn (massive capital export), dự trữ ngoại hối kiểu phô trương và nạn ô nhiễm trầm trọng. Chính thủ tướng Trung Quốc, Ôn Gia Bảo, gần đây đã nói rằng các sai lầm về cấu trúc đang gây ra tình trạng "phát triển bất ổn định, bất cân bằng, bất đồng điệu và bất bền vững".
Mô hình Trung Quốc hiện tại khó có thể giúp Trung Quốc vượt qua được các đối thủ để lãnh đạo châu Á. Nhật Bản hiện tại kém xa Trung Quốc về tham nhũng và được quản lý tốt hơn, và vẫn đang giữ một vị trí vững chắc đứng đầu về công nghệ. Trong khi nền kinh tế Nhật Bản hướng về xuất khẩu đang phải chịu một suy giảm lớn từ suy sụp tài chính toàn cầu, các công ty giàu vốn của Nhật vẫn đang tiếp tục dồn tiền vào Nghiên cứu - Phát triển (R&D) cho đủ loại sản phẩm, từ điện tử cho tới sắt thép. Chính vì thế mà Nhật Bản đang dẫn đầu thế giới về công nghệ xe hơi "xanh", và Trung Quốc không thể theo kịp. Charles Gassenheimer, Tổng giám đốc của hãng xe hơi - "xanh" Ener1 của Hoa Kỳ, cho rằng tổng đầu tư của Nhật Bản vào việc phát triển loại ắc-qui tối tân nhất đã luôn gấp 10 lần Hoa Kỳ suốt một thập niên qua (từ năm 1998). Trong khi Trung Quốc chỉ mới bước vào cuộc chơi (dù với một tốc độ cao).
Ngay cả Nam Hàn - một nước khó chịu với thân phận bị gọi là "hạng tôm tép giữa đám cá voi" - cũng đã và đang nổi lên như một sức mạnh, đang là một trong những nền kinh tế năng động nhất, có tính sáng tạo nhất và có công nghệ cao nhất thế giới. Theo Chỉ số Đổi mới Quốc tế (International Innovation Index) gần nhất, Nam Hàn đứng thứ nhì thế giới, còn Trung Quốc thứ 27. Nam Hàn là một ví dụ cho thấy châu Á ngày nay có rất nhiều thủ lĩnh tùy theo lĩnh vực: Trung Quốc xuất chúng trong việc tạo ra các sản phẩm giá thấp, nhưng Nhật Bản và Nam Hàn lại đứng đầu về đổi mới và sản phẩm công nghệ cao.
Do vậy, dưới nhiều phương diện, ý nghĩa trọn vẹn của Số 1 đã trở nên lỗi thời. Một số chuyên gia cho rằng người châu Á vẫn bị đóng chặt vào ý nghĩa đó của Số 1 là do ảnh hưởng của học thuyết Khổng Tử-nhấn mạnh phải tôn trọng hệ thống thứ bậc có tôn ti, trật tự. Nhưng, hãy nhìn cách Singapore đang khai thác giá trị gia tăng của công nghệ thông tin để chiếm một vị thế trên thế giới khác với mức nhỏ bé về lãnh thổ. Hoặc hãy xem cách tác động của hoạt động thương mại thế giới và mạng Internet làm cho Bắc Kinh ngày càng thấy gay go trong việc duy trì trật tự ở trong nước. Rõ ràng thời đại toàn cầu hoá không chấp nhận quan điểm thứ bậc tôn ty của Khổng Tử.
Những chiến lược gia về ngoại giao theo quan điểm duy thực vẫn thích chỉ ra thực tế của khu vực chưa bao giờ thấy cả hai (Trung Quốc và Nhật Bản) cùng mạnh một lúc. Những chuyên gia này lo ngại sự tiến triển đó có thể dẫn đến xung đột và sợ rằng sức mạnh hải quân Trung Quốc, có thể bị các đảo của Nhật Bản vây hãm khi có xung đột, đã được điều đi thăm dò hệ thống phòng vệ của Nhật Bản rồi. Trong khi đó Tokyo đang tăng cường Lực lượng Bảo vệ Bờ biển quanh các đảo có tranh chấp và đưa máy bay tới kiểm soát các dàn khoan dầu của Trung Quốc. Aaron Friedberg, nhà nghiên cứu chính trị tại Princeton, đã so sánh châu Á hiện đại với châu Âu trong thế kỷ 19 khi các nước lớn vẫn còn dùng mánh «diễu võ giương oai» để giành quyền kiểm soát.
Điều này nhấn mạnh vào việc phải xem còn bao xa Trung Quốc mới đạt được vị thế thống trị trong khu vực. Vào thế kỷ 19, không có một dân tộc đơn lẻ nào tại châu Âu có khả năng khống chế cả châu Âu. Tương tự, không có gì chắc chắn cho thấy Trung Quốc có thể thắng Nhật ngay cả trong một cuộc xung đột nhỏ, và khả năng càng ít hơn đối với một xung đột lớn-sẽ làm người đồng minh lớn nhất của Nhật phải tham dự. Hơn nữa: dù ngân sách quốc phòng của Trung Quốc có tăng liên tục trên 10% hàng năm thì cũng cần phải ít nhất một thập niên nữa Trung Quốc mới có thể hạ thủy được tàu sân bay đầu tiên - dấu chỉ của hải quân đủ khả năng áp đặt được sức mạnh (trong khi Hoa Kỳ hiện đã có 11 chiếc).
Dĩ nhiên Trung Quốc không tuyên bố bất kỳ khát vọng nào về thống trị quân sự hay bá chủ kinh tế, và cũng có thể Trung Quốc đang cần giữ gìn về lời ăn tiếng nói. Vấn đề quan trọng hiện nay là giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đang có một ràng buộc lớn theo kiểu chủ nợ-con nợ và kẻ mua-người bán. Điều tương tự cũng đang xảy ra giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Trung Quốc đã vượt Hoa Kỳ để trở thành bạn hàng số 1 của Nhật Bản vào năm 2007. Một nước Nhật già cỗi đang tận dụng nhân công giá rẻ của Trung Quốc, trong khi các nhà máy tại Đồng bằng Sông Ngọc (đông nam Trung Quốc-ND) thường dùng các máy móc và công nghệ made in Japan. Hợp tác cấp thế giới và vùng đang có ý nghĩa rất lớn cho lợi ích của cả hai quốc gia.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là không có lý do để các nước láng giềng phải chuẩn bị cho một Trung Quốc hung hãn hơn. Vẫn có các nỗ lực nhằm xây dựng một tổ chức tự vệ khu vực chung, nhưng đang gặp trở ngại do những khác biệt về nguồn lực và ý thức hệ và do cả nỗi e ngại có thể làm Bắc Kinh tức giận. Nhưng vẫn có nhiều cách khác để thúc đẩy một châu Á tiến theo chiều đa cực. Chính quyền Obama dường như đang đi theo hướng này: khi tới thăm châu Á tháng Hai vừa qua, Hillary Clinton đã tới Nhật Bản trước tiên, sau đó là Seoul, nhằm thúc giục hai bên hợp tác với nhau. Sau đó Hillary Clinton tới Indonesia, một chế độ dân chủ lớn và mới hình thành. Chỉ sau đó, Hillary Clinton mới dừng ở Bắc Kinh và kêu gọi Trung Quốc, Nhật Bản hợp tác với nhau trong vấn đề biến đổi khí hậu. Đó chính là một dạng vấn đề liên quốc gia cần đến sự hợp tác, chứ không cần kiểu "giễu võ, dương oai" - một mánh lới đang trở nên phổ biến, nhưng chỉ là kiểu "múa rìu qua mắt thợ".
THẾ GIỚI RA SAO KHI KHÔNG CÓ MỸ
Tàu bệnh viện USNS Mercy của Hải quân Mỹ, từng neo đậu 11 ngày từ 19/6 đến 29/6/2008 trong vịnh Nha Trang.
Đã bao giờ bạn tưởng tượng giả thử trái đất này không có nước Mỹ, hoặc nước Mỹ biến mất, khi ấy thế giới chúng ta đang sống sẽ ra sao?
Câu hỏi này nghe có vẻ kỳ lạ, song thực ra rất có ý nghĩa hiện thực. Bạn thử nghĩ, giả thiết tàu chiến Mỹ vắng mặt trên Thái Bình Dương thì ai mừng, ai lo? Giả thử Mỹ không tham gia khối NATO thì châu Âu sẽ ra sao? ... Câu hỏi ấy toát lên vai trò của nước Mỹ, siêu cường thế giới suốt một trăm năm nay, và siêu cường duy nhất trên thế giới kể từ thập niên 90 thế kỷ XX. Câu hỏi này có thể có ý nghĩa thời sự vì hiện nay địa vị bá chủ thế giới của nước Mỹ đang bị lung lay, dòm ngó.
Có một người đã nghĩ như vậy và thậm chí còn dựng hẳn một cuốn phim dài khoảng 90 phút lấy tên Thế giới không có nước Mỹ (The World Without US).
Người ấy là Mitch Anderson, thủa nhỏ chạy trốn khỏi khói lửa chiến tranh tại quê hương Romania, đi bộ xuyên qua Hungary, cuối cùng tới nước Áo và xin được tư cách dân tị nạn, nhờ đó di cư sang Mỹ.
Năm 2005 Anderson nảy ra ý tưởng làm bộ phim Thế giới không có nước Mỹ nhằm tìm lời giải đáp câu hỏi của mình - ông nghĩ mãi cũng không hiểu vì sao nước Mỹ lại rơi vào vũng lầy chiến tranh Iraq, vì sao nước Mỹ bỏ hàng trăm tỷ đô-la để bảo vệ an toàn cho các quốc gia cách xa Mỹ hàng nghìn dặm...
Bộ phim chia 3 phần:
• Liên minh châu Âu EU có thể thay chân Mỹ được không,
• dầu mỏ Trung Đông và các vấn đề dính dáng đến nó;
• vấn đề bảo vệ Hàn Quốc, Đài Loan và Nhật. Riêng về vấn đề Đài Loan, người làm phim đến tận hòn đảo này quay phim hải quân Đài Loan và phỏng vấn dân biểu quốc hội Đài Loan Túc Mỹ Cầm, hai giáo sư La Chí Chính và Sát Vỹ.
Lời giải đáp cuối cùng rất rõ ràng: thế giới này không thể không có nước Mỹ. Tuy cách giải thích trong phim có chỗ chưa chi tiết, song vấn đề tác giả nêu ra làm người xem phải suy nghĩ nhiều.
Nước Mỹ là một đế quốc ?
Đúng là sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, trên thế giới này không có nước nào so đọ được với nước Mỹ. Nửa thế kỷ trôi qua, Mỹ vẫn cung cấp sự bảo vệ an toàn quân sự cho các nước lớn kinh tế như Nhật, Đức, Hàn Quốc. Toàn là những việc tốn vô khối tiền của, thậm chí sinh mạng thanh niên Mỹ. Người Mỹ rất khó tính khi đồng ý cho chính phủ mình chi tiền đóng thuế của dân vào những việc không đâu, nhưng lại "dễ tính" duyệt cho chính phủ chi mỗi năm hàng trăm tỷ đô-la vào việc viện trợ các nước nói trên, nói chính xác là việc duy trì vai trò siêu cường bá chủ thế giới của nước mình. Hai nước Nga và Trung Quốc tuy đã nổi lên nhưng trong giai đoạn hiện nay còn phải hợp tác với Mỹ trên nhiều vấn đề. Đa số dân trên thế giới vẫn còn hy vọng khá nhiều vào nước Mỹ, vào vai trò "sen đầm" bảo vệ các giá trị phổ quát của loài người - dân chủ, tự do, nhân quyền .... Đối với phái Tân Bảo thủ (Neo-conservatives) ở Mỹ thì đây là một cơ hội lịch sử hiếm có để, trong tình hình không có sự thách thức và ràng buộc của các thế lực cường quyền khác, đẩy mạnh dân chủ, truyền bá các tư tưởng, xây dựng trật tự quốc tế thuộc về Mỹ.
Đối với những người Tân bảo thủ, đây là một kỷ nguyên đơn cực Mỹ (American unipolar age). Nhất là sau vụ 11 tháng 9, cuộc chiến chống khủng bố làm cho phe cánh ông Bush tin rằng tôn trọng chủ quyền của nước khác là một việc có điều kiện (contingent sovereignty) và họ có quyền "đánh đòn phủ đầu trước' (preemptive strike). Việc Mỹ đưa quân vào Iraq làm cho quan điểm thế giới một cực của phái bảo thủ Mỹ càng trở nên hiện thực. Người ta trở lại cuộc tranh cãi: nước Mỹ có phải là "đế quốc Mỹ" (American empire) hay không.
Giáo sư G.John Ikenberry ở ĐH George (Mỹ) cho rằng nước Mỹ chẳng những là một siêu cường quyền chạy theo lợi ích của mình, mà bá quyền (hegemony) Mỹ cũng là sản phẩm sinh ra dưới trật tự thế giới hiện nay mà các nước ủng hộ xây dựng nên. Nếu nới lỏng định nghĩa "đế quốc" (Empire) thì nước Mỹ tuyệt đối phù hợp với định nghĩa đó. Niall Ferguson, giáo sư sử học ĐH Oxford và là cố vấn chính của bộ phim nói trên trong tác phẩm "Tượng đài khổng lồ: sự thăng trầm của đế chế Mỹ" (Colossus: The Rise and Fall of The American Empire) lại ví sức mạnh của nước Mỹ ngày nay là một đế chế "Tân La Mã" (new Rome) vượt qua bất kỳ đế chế nào trong lịch sử. Trong mắt ông, nước Mỹ là một "đế chế tự do" (liberal empire) dựa vào việc gìn giữ hòa bình để thực hiện việc bảo vệ lợi ích chung, quyền tự do đi lại trên biển và trên không, quản lý hệ thống tài chính quốc tế.
GS Ikenberry cho rằng đối với đa số các nước, nước Mỹ đang lãnh đạo một trật tự quốc tế có thể tiến hành thương lượng nội bộ. Trật tự này có ba đặc tính: bảo đảm lợi ích chung, ủng hộ các chính quyền mở cửa thương mại; dùng các quy tắc và tổ chức để vận hành sức mạnh; các nước nhỏ cũng có cơ hội phát ngôn như nhau. Nhà sử học Charles Maier gọi đó là "Đế chế kiểu thỏa hiệp" (Consensual Empire).
Nước Mỹ không thừa nhận mình là "đế quốc", nhưng sự lãnh đạo (leadership) toàn cầu của nước Mỹ là một tồn tại thực tế. và cảm giác thực có từ sau Đại chiến II tới nay ấy lại càng bắt nguồn từ niềm tin của người khác. GS Ferguson mong muốn nước Mỹ có thể thừa nhận tư cách đế quốc của mình, vì điều đó có lợi cho việc nước Mỹ nhận rõ họ cần gánh vác trách nhiệm đạo đức.
Có lẽ vì không thừa nhận mình là đế quốc nên trong 7 năm qua cuộc chiến tranh chống khủng bố đã làm nước Mỹ nhanh chóng đánh mất tính lý tưởng, lòng tự tin và sự tín nhiệm của người khác. Nhiều người trên thế giới cho rằng nước Mỹ do Tổng thống Bush lãnh đạo đã biến thành "kẻ xâm lược" chỉ biết theo đuổi lợi ích và quyền lực của mình. Thảo nào ông Bush trở thành vị Tổng thống rời nhiệm sở ít được lòng dân nhất trong lịch sử nước này.
Sức mạnh khôn ngoan
Người đầu tiên (năm 2004) đề ra khái niệm Sức mạnh khôn ngoan (Smart Power) là Suzanne Nossel, trưởng điều hành Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Chief of Operations for Human Rights Watch). Bà đã ra sức phê bình thói đạo đức giả của chính phủ Bush. Bà nói chính sách ngoại giao của Bush con mang nhãn mác dân chủ và nhân quyền song thực tế lại là một chính sách đơn phương (unilateralism) có tính xâm lấn. "Một siêu cường không được người khác coi là dân chủ thì không thể được người ta tín nhiệm để đảm nhiệm chức trách kẻ bảo vệ chủ nghĩa tự do".
Rõ ràng, bà muốn nói chính phủ Bush con thiếu sức mạnh khôn ngoan. Suzanne Nossel nhấn mạnh, nước Mỹ nên trở lại nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế tự do (liberal internationalism), tìm kiếm lại sự tín nhiệm của thế giới đối với nước Mỹ, nên tuân theo chủ nghĩa lý tưởng của Woodrow Wilson để xây dựng trật tự thế giới. Cũng như ngày xưa khi lãnh đạo phe đối kháng với Liên Xô, bản thân sức mạnh của Mỹ chưa phải mãi mãi là sự lựa chọn tốt nhất, nước Mỹ nên tích cực dựa vào sức mạnh lý tưởng đạo đức để kêu gọi người khác tán thành mình, cùng cố gắng qua các tổ chức quốc tế giành lấy sự an toàn và tái lập sự lãnh đạo của nước Mỹ.
Thiết tưởng cũng nên nhắc lại rằng chủ nghĩa lý tưởng của Tổng thống Woodrow Wilson chỉ giúp ông được tặng giải Nobel Hòa bình 1919, chứ Quốc hội Mỹ thì phủ quyết mọi cố gắng của ông - do không muốn nước Mỹ dính dáng đến (nền hòa bình) châu Âu lắm rắc rối ở tít tận bên kia Đại Tây Dương nên họ bỏ phiếu phản đối nước Mỹ tham gia Hội Quốc Liên (League of Nations) do chính ông đề xuất - vì thế ông đã từ chức Tổng thống, còn Hội Quốc Liên không có Mỹ dĩ nhiên chẳng làm nên trò trống gì trong việc ngăn chặn chiến tranh thế giới lần thứ II. Chuyện ấy cách nay đã 90 năm, ngày ấy vượt Đại Tây Dương là cả một vấn đề về khoảng cách không gian và thời gian. Còn bây giờ vấn đề ấy không có gì ghê gớm lắm. Tên lửa vượt đại châu, máy bay siêu âm ... làm cho châu Mỹ và phần còn lại của thế giới đã quá gần nhau, người ta quen gọi cả thế giới chỉ là một cái làng. Nước Mỹ ngày nay không thể theo chủ nghĩa cô lập như ngày xưa nữa mà chủ động tham dự hầu như mọi công việc ở các châu lục khác.
Trong buổi điều trần tại Thượng viện hôm 13/1, bà Hillary Clinton khi trình bày ý tưởng ngoại giao trên cương vị Quốc vụ khanh đã không dưới mười lần nhắc tới khái niệm sức mạnh khôn ngoan. Bà nói nước Mỹ phải tăng cường sự lãnh đạo thế giới, xác định nước Mỹ là một sức mạnh chính diện trên thế giới này. Muốn thế nước Mỹ cần thêm bạn bớt thù, cùng nhau đối phó với mọi sự đe dọa và nắm chắc cơ hội. Bà nhấn mạnh, tuy sức mạnh quân sự là cần thiết nhưng đó chỉ là giải pháp cuối cùng; nước Mỹ sẽ tăng cường sử dụng các tổ chức quốc tế để hợp tác với các nước khác, tăng cường phát triển kinh tế, cùng giải quyết các tranh chấp. "Chúng ta phải cùng với mọi người mọi nước tìm kiếm các giá trị và mục đích tương đồng, có thế chúng ta mới có thể vượt qua thù hận, bạo lực, thất vọng và hỗn loạn."
Đổi mới sự lãnh đạo của nước Mỹ (Renewing American Leadership) là tên một bài viết quan trọng của ông Obama trong dịp tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2008. Tuy không dùng tới từ sức mạnh khôn ngoan nhưng ông viết: "Công việc của nước Mỹ là tạo ra sự lãnh đạo toàn cầu có thể cùng với nước khác phân hưởng sự an toàn và các giá trị. Ý tưởng của chúng ta là ở hy vọng, đây là lý do tại sao chúng ta có thể chiến thắng bọn khủng bố." Dưới sự chủ trì của Joseph S. Nye (người đầu tiên đưa ra khái niệm sức mạnh mềm soft power) và Richard L. Armitage, từ năm 2006 Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Mỹ (CSIS) đã tiến hành nghiên cứu đặc biệt về sức mạnh khôn ngoan. Bản báo cáo nghiên cứu của CSIS viết: "Định nghĩa thắng lợi đã thay đổi. Thắng lợi quyết định ở chỗ có thể lôi kéo được bao nhiêu người đứng cùng mặt trận với mình và có thể giúp họ xây dựng một quốc gia dân chủ và có năng lực."
Nói tóm lại, chính sách ngoại giao của Barack Obama sẽ trở về ý tưởng "dùng đạo đức để lôi kéo lòng người", tìm lại uy tín lãnh đạo cho nước Mỹ. Bộ phim của Mitch Anderson đưa người xem đi tới kết luận: bất kể có là "Đế quốc" hoặc là "Thời đại không phân cực" (The Age of Nonpolarity) hay không, trật tự quốc tế giai đoạn hiện nay vẫn cần nước Mỹ tiếp tục lãnh đạo và bảo vệ - sự thật này không thể nghi ngờ.
(Báo Đông Tác)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com