Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

scorpion9xa

THam khảo bài viết sau xem thế nào bạn nhé!

Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ thương mại với 160 nước và vùng lãnh thổ, tham gia 86 hiệp định thương mại, 46 hiệp định hợp tác đầu tư và 40 hiệp định chống đánh thuế 2 lần, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của trên 70 nước, chính thức là thành viên thứ 150 của WTO năm 2006. Đối với mỗi quốc gia, thuế quan có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ nền sản xuất trong nước; đóng góp nguồn thu cho ngân sách và điều tiết hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của mỗi quốc gia.

Thuế quan là thuế chính phủ đánh vào hàng hóa được chuyên chở qua biên giới quốc gia hoặc lãnh thổ hải quan. Thuế quan gồm thuế đánh vào hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu (thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu). Thuế xuất khẩu là một công cụ mà các nước đang phát triển thường sử dụng để đánh vào một số mặt hàng nhằm tăng lợi ích quốc gia. Trái lại, ở nhiều nước phát triển người ta không sử dụng thuế xuất khẩu do họ không đặt mục tiêu tăng nguồn thu ngân sách từ thuế xuất khẩu. Vì vậy, ở những nước đó, khi nói tới thuế quan người ta đồng nhất nó với thuế nhập khẩu. Để xác định mức độ chịu thuế của các hàng hóa khác nhau mỗi nước đều xây dựng một biểu thuế quan. Biểu thuế quan là một bảng tổng hợp quy định một cách có hệ thống các mức thuế quan đánh vào các loại hàng hóa chịu thuế khi xuất khẩu hoặc nhập khẩu. Biểu thuế quan có thể được xây dựng dựa trên phương pháp tự định hoặc phương pháp thương lượng giữa các quốc gia. Có hai biểu thuế quan là biểu thuế quan đơn và biểu thuế quan kép. Biểu thuế quan đơn là biểu thuế quan trong đó chỉ quy định một mức thuế quan cho mỗi loại hàng hóa. Hiện nay, hầu hết các nước không còn áp dụng biểu thuế quan này. Biểu thuế quan kép là biểu thuế quan trong đó mỗi loại hàng hóa quy định từ hai mức thuế trở lên. Những loại hàng hóa có xuất xứ khác nhau sẽ chịu những mức thuế khác nhau.

Thuế quan có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau, theo phương pháp tính thuế, thuế quan được chia thành thuế quan đặc định, thuế suất theo giá trị và thuế suất hỗn hợp. Thuế suất đặc định là thuế tính trên một đơn vị hiện vật của hàng hóa, ví dụ thuế tính trên 1 tấn, 1 chiếc... Thuế trị giá là thuế đánh vào giá trị hàng hóa và được tính theo tỷ lệ phần trăm của giá trị hàng hóa đó. Thuế quan hỗn hợp là sự kết hợp giữa thuế đặc trưng và thuế suất theo giá trị. Theo mục đích đánh thuế, thuế quan được phân chia thành thuế quan tài chính và thuế quan bảo hộ. Thuế quan tài chính là thuế quan nhằm vào mục tiêu tăng thu cho ngân sách quốc gia. Thuế quan bảo hộ là thuế quan nhằm bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, làm giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Theo mức thuế, thuế quan được chia ra mức thuế tối đa, mức thuế tối thiểu và mức thuế ưu đãi. Mức thuế tối đa được áp dụng cho những hàng hóa có xuất xứ từ các nước chưa có quan hệ thương mại bình thường. Mức thuế tối thiểu được áp dụng cho những hàng hóa có xuất xứ từ các nước có quan hệ bình thường. Mức thuế ưu đãi được áp dụng cho hàng hóa xuất xứ từ các nước có thỏa thuận hợp tác.

Hoạt động thuế quan ở nước ta xuất hiện từ thời Lý (thế kỷ XI) và trở thành một bộ phận hữu cơ của nền ngoại thương. Năm 1945 Cách mạng Tháng Tám thành công, Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam. Chỉ một tuần sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, ngày 10-9-1945, Sở thuế quan và thuế gián thu được thành lập. Thuế quan Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược (từ 19-12-1946 đến tháng 7-1954): về cơ bản, luôn có mối quan hệ mật thiết với các lực lượng vũ trang, dân quân du kích và ngoại thương. Thuế quan Việt Nam thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam đã phục vụ nhiệm vụ cách mạng trong mỗi giai đoạn lịch sử có nét đặc thù riêng.

Ngày 29-12-1987, Quốc hội khóa VIII kỳ họp lần thứ 2 thông qua Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, đồng thời có ban hành kèm theo biểu thuế chung, biểu thuế xuất nhập khẩu cho từng mặt hàng, chưa tách 2 biểu thuế riêng biệt. Biểu thuế này, được xây dựng dựa trên danh mục hàng xuất nhập khẩu Việt Nam theo tiêu chuẩn của Hội đồng Tương trợ kinh tế (khối SEV). Biểu thuế này hoàn toàn tuân theo từng mục đích sử dụng. Nói chung, biểu thuế xuất nhập khẩu và cả Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu chỉ phù hợp cho giai đoạn nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc xuất nhập khẩu theo chế độ nghị định thư ký giữa các chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa (thị trường khu vực I), sau đó cải tiến ban hành thêm khung thuế xuất nhập khẩu để chính phủ kịp thời điều chỉnh cho hợp lý.

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Luật Thuế xuất - nhập khẩu cũ bộc lộ nhiều nhược điểm và chưa bảo vệ nền sản xuất hàng hóa nội địa, hướng dẫn tiêu dùng, tăng thu cho ngân sách... Vì vậy, Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng và trình Quốc hội thông qua Luật Thuế xuất - nhập khẩu ngày 26-11-1991. Mục đích của thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là bảo vệ nền kinh tế trong nước, tăng thu ngân sách cho Nhà nước và hướng dẫn bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Năm 1993, 1998 Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu cho phù hợp với tình hình kinh tế chính trị của từng giai đoạn lịch sử. Sau 20 năm đổi mới, nước ta đã hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới, tham gia và ký kết nhiều cam kết, hiệp định quốc tế. Do đó, chính sách pháp luật cũng phải thay đổi để phù hợp với thông lệ quốc tế. Ngày 14-6-2005, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Ngày 7-11-2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, chúng ta phải thực hiện Cam kết về thủ tục nhập khẩu.

Mức cam kết chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong vòng 5 - 7 năm. Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9% thực hiện trong vòng 5 - 7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm.

Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ô-tô, xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định. Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải. Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của WTO, nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.

Thuế quan ở nước ta đóng vai trò quan trọng trong việc thu ngân sách quốc gia (chiếm khoảng 30% tổng thu ngân sách). Trong giai đoạn 2001 - 2005, ngành hải quan luôn đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách của Bộ Tài chính. Số thu năm sau luôn cao hơn số thu năm trước, cụ thể: năm 2001 đạt 29.381 tỷ đồng, năm 2002 đạt 36.784 tỷđồng, năm 2003 đạt 39.178 tỷ đồng, năm 2004 đạt 46.017 tỷ đồng, năm 2005 đạt 52.000 tỷ đồng và năm 2006 đạt khoảng 58.000 tỷ đồng (tốc độ tăng thu bình quân hàng năm 15%). Đây là một nỗ lực rất lớn của ngành hải quan trong bối cảnh chúng ta đang thực hiện cắt giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế (như cắt giảm thuế theo lộ trình thực hiện CEPT trong ASEAN, các hiệp định song phương và gia nhập WTO). Đặc biệt, đây là giai đoạn đầu thực hiện xác định trị giá hải quan theo các nguyên tắc của Hiệp định trị giá GATT, tình trạng trốn thuế, gian lận qua giá còn khá phổ biến, nhưng ngành đã tập trung chỉ đạo và đưa ra nhiều giải pháp nhằm đảm bảo nhiệm vụ thu thuế đồng thời chống thất thu qua gian lận trị giá.

Tác động của thuế quan đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế cho nước đánh thuế. Nhưng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, thuế quan lại làm giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền kinh tế thế giới. Nó làm thay đổi cán cân thương mại, điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia. Thuế quan có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Thuế quan cao sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa được tiêu thụ. Thuế quan cao cũng sẽ kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan càng cao, buôn lậu càng phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm lượng khách hàng ở nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế. Đồng thời nó cũng không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng năng xuất, chất lượng và giảm giá thành. Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước xuất khẩu. Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa, đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm tăng giá hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, điều đó cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Thuế nhập khẩu có thể giúp cải thiện thương mại của nước đánh thuế. Có thể có nhiều sản phẩm mà giá của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này thuế quan có thể khuyến khích nhà sản xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận sẽ được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới của hàng hóa nhập khẩu.

Chính sách thuế quan trong điều kiện hội nhập: Nhìn chung chính sách thuế quan của các quốc gia trong điều kiện hiện nay đều có ảnh hưởng nới lỏng sự hạn chế thương mại, từng bước giảm dần các mức thuế trên cơ sở các hiệp định đa phương và song phương. Thương lượng trong việc xây dựng biểu thuế quan được coi như là một đặc trưng cơ bản của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong những thập kỷ gần đây. Sự hình thành của các liên minh thuế quan đã có những ảnh hưởng nhất định đến lượng hàng hóa được trao đổi giữa các nước trong liên minh và các nước ngoài liên minh. Chính sách liên minh thuế quan đã có tác động làm tăng đáng kể khối lượng thương mại giữa các nước thuộc liên minh trong khi đó nó tạo ra một hàng rào ngăn cản hàng hóa của các nước ngoài liên minh. Điều này dường như đã trở thành một xu hướng trong việc hoạch định chính sách thuế quan hiện nay nhằm tự do hóa thương mại giữa các nước trong khu vực và bảo hộ thị trường khu vực trước sự cạnh tranh của hàng hóa đến từ bên ngoài. Trong trường hợp tự do hóa thương mại, lợi ích thương mại cho các thành viên không còn là điều phải tranh cãi vì mỗi quốc gia nhờ đó sẽ tận dụng triệt để những nguồn lực có thế mạnh, loại bỏ những ngành sản xuất không hiệu quả, đồng thời người dân cũng sẽ được tiêu dùng những sản phẩm rẻ hơn với chất lượng tốt hơn. Trong trường hợp bảo hộ thị trường khu vực, nếu chỉ xét trong một ngành duy nhất, có thể có một số nước sẽ lâm vào tình trạng bất lợi do phải nhập khẩu những sản phẩm của các nước trong liên minh với giá cao hơn giá quốc tế. Tuy nhiên, liên minh thuế quan là một thỏa thuận hợp tác giữa các nước tham gia. Do vậy, nếu như một nước chịu thiệt hại về một ngành nào đó thì đổi lại nó sẽ được lợi từ một ngành khác trên cơ sở cân bằng về lợi ích giữa các thành viên.

Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế và chính trị. Là thành viên của WTO, nước ta có được vị thế bình đẳng trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng, hợp lý hơn, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử. Điều đó tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu, mở rộng kinh doanh, dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hóa, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, nhất là pháp luật về thuế quan, một số vấn đề về thuế quan cần nghiên cứu thực hiện ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO:

Một là, Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, mặc dù đã được sửa đổi nhiều lần, nhưng vẫn chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quát hết các đối tượng và nguồn thu. Thuế nhập khẩu ở nước ta vừa đánh theo tính chất hàng hóa, vừa đánh theo mục đích sử dụng dễ tạo ra những sơ hở, bất hợp lý để cho các đối tượng làm ăn bất chính triệt để lợi dụng. So với các nước khác, biểu thuế suất của Việt Nam vẫn còn phức tạp, bao gồm hàng chục nghìn dòng thuế, nhiều nhóm hàng, mặt hàng có nhiều mức thuế suất khác nhau: giữa các mức thuế lại có sự chênh lệch rất lớn vừa không phù hợp với xu thế hội nhập, vừa tạo kẽ hở để đối tượng nộp thuế lợi dụng trốn thuế. Chẳng hạn, cùng một loại hàng hóa nhưng lúc nhập khẩu chỉ cần khai báo sai lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng mức thuế suất có lợi hơn hoặc chỉ cần khai đặc tính của loại hàng hóa có thuế suất thấp, nhưng sau khi nhập khẩu sẽ cải tạo, thay đổi kết cấu thành loại hàng hóa có trị giá thương mại cao hơn. Do vậy, cần tiếp tục sửa đổi các biểu thuế suất.

Hai là, cần ban hành ngay các loại thuế như: thuế chống bán phá giá, thuế hạn ngạch, thuế phản kháng, thuế chống trợ cấp... để chống lại "cuộc chiến thương mại" được núp bóng tinh vi trong cái "áo khoác" tự do thương mại và toàn cầu hóa.

Ba là, vấn đề cho nợ thuế kéo dài, cơ chế quản lý hàng tạm nhập tái xuất, hoàn thuế VAT cùng với thủ tục thành lập, giải thể công ty lỏng lẻo... là những sơ hở để các đối tượng xấu triệt để khai thác trốn thuế. Đặc biệt lợi dụng chính sách ân hạn thời gian nộp thuế nhưng không có chế tài ràng buộc đã làm cho danh sách chây ỳ, chiếm đoạt tiền thuế xuất nhập khẩu ngày một dài thêm. Theo ước tính hiện nay có số tiền thuế xuất nhập khẩu trên cả nước (khoảng 3.000 tỉ đồng) còn nợ đọng kéo dài, khả năng không thể thu hồi. Đề nghị bãi bỏ thời gian ân hạn thuế quy định trong Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu. Chỉ nên dùng một trong hai hình thức: nộp thuế ngay hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng trước khi thông quan hàng hóa.

Bốn là, trình độ nhận thức và thái độ chấp hành của người nộp thuế xuất nhập khẩu. Người nộp thuế chính là đối tượng trực tiếp thực hiện chính sách, luật lệ về thuế xuất nhập khẩu. Vì vậy, trình độ nhận thức và thái độ chấp hành nghĩa vụ thuế của họ đóng vai trò quyết định trong việc thu thuế và chống thất thu thuế. Cho dù hệ thống chính sách, pháp luật hoàn thiện, phương pháp, hình thức quản lý đổi mới, cán bộ thuế đáp ứng năng lực trình độ song vẫn không thể ngăn chặn triệt để việc trốn, lậu thuế nếu người nộp thuế thiếu ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế. Do đó để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, một mặt cần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật; mặt khác, phải tuyên truyền giáo dục, vận động người nộp thuế tự giác chấp hành đúng nghĩa vụ và quyền lợi của họ.

Năm là, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của WTO, phải nâng cao năng lực của cơ quan thuế nói chung, hải quan nói riêng; sắp xếp lại tổ chức bộ máy cơ quan thuế, đào tạo và đào tạo lại công chức ngành thuế quan theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp; xây dựng hệ thống quản lý đạt chuẩn ISO 9001.

Ngày gửi: 09/12/2008 - 15:40

Như tên gọi của nó, hạn ngạch thuế quan là mức hạn ngạch mà ở đó thuế quan có sự thay đổi. Hạn ngạch chỉ ra một số lượng mặt hàng nhất định, nhập khẩu dưới mức đó được hưởng thuế quan ưu đãi, còn nhập khẩu trên mức đó phải chịu thuế suất thông thường hoặc thuế suất mang tính phân biệt đối xử.

Ngày gửi: 04/03/2008 - 21:33

Nhà nước sẽ quy định số lượng nhập khẩu một mặt hàng nào đó với thuế suất thấp. Khi vượt qua số lượng này, hàng hóa nhập khẩu sẽ phải chịu thuế suất nhập khẩu cao hơn. Số lượng hàng hóa nhập khẩu với thuế suất sẽ được tính toán dựa trên sự cân đối giữa nhu cầu và năng lực sản xuất trong nước. Ví dụ: trong nước sản xuất được 40.000 tấn đối với mặt hàng X mà nhu cầu lên tới 70.000 tấn thì sẽ áp dụng thuế suất nhập khẩu thấp cho 30.000 tấn đầu tiên nhập về, đến tấn thứ 30.001 thì phải áp dụng thuế cao hơn. Đây là công cụ quản lý nhập khẩu nhiều nước đã dùng.

hạn ngạch thuế quan trong đó nhà nước sẽ đánh thuế phụ thuộc vào tỷ lệ ta nhập hay xuất hàng hóa, nguyên vật liệu và có một định mức để đánh thuế, nếu ít hơn thì không phải chịu thuế và nhiều hơn thì phải chịu thuế.

Ngày gửi: 24/02/2009 - 13:27

Câu trả lời hay nhất - Do người sử dụng bình chọn

theo giáo trình kinh tế quốc tế ĐH Kinh tế ĐHQGHN thì

Hạn ngạch (quotas)là rào cản thương mại phi thuế quan quan trọng nhất.Đây là biện pháp trực tiếp hạn chế số lượng hàng hóa được phép nhập khẩu hay xuất khẩu vào quốc gia trong một thời kì nhất định.

Nguyên nhân của hạn ngạch:có 3 lí do để các quốc gia phải sử dụng hạn ngạch để hạn chế nhập khẩu mà khi thuế quan vô tác dụng

+sự không chắc chắn : đây là nguyên nhân chính .Nếu một nước biết được hình dạng của các đường cung và dường cầu của 1 sản phẩm thì nước này có thể thiết lập được một mức hạn ngạch dẫn đến cùng một kết quả như là áp dụng đối với thuế.Nhưng nhìn chung 1 nước không thể biết được hình dạng của các đường cung và đường cầu hàng hóa ,đặc biệt đó lại là đường cung của sản phẩm của nước ngoài .Do đó áp dụng thuế để hạn chế nhập khẩu hàng hóa vào là không có hiệu quả do đó ta phải áp dụng hạn ngạch là hợp lí nhất.

+Sự cứng nhắc trong cung nước ngoài: Trong trường hợp mà thuế không làm tăng giá cả hàng nhập khẩu và không làm giảm khối lượng hang nhập khẩu thì hiệu quả duy nhất của nó là cải thiện tỉ lệ trao đổi và tạo thu nhập cho chính phủ vì thu được tiền thuế cho người nước ngoài .Do vậy chỉ có hạn ngạch mới hạn chế được đượng lượng hàng nhập khẩu vào nội địa

+Cơ hội hành chính: việc sử dụng thuế quan đã được thể chế hóa trong các hiệp ước thương mại thông qua điều khoản quốc gia được ưu đãi nhất .Theo đó giảm thuế áp dụng cho 1 trong các nước thành viên được áp dụng 1 cáh tự động cho tất cả các nước còn lại.từ đó không thể thay đổi mức thuế đối với hàng hóa của nước đối tác khi cần thiết .Như vậy là thuế đã không hợp nhất

Vai trò của hạn ngạch:

+hạn ngạch là công cụ tham gia bảo hộ thị trường nội địa trong trường hợp thuế quan không phát huy tác dụng .Hạn ngạch nhập khẩu được sử dụng ở các nước công nghiệp phát triển để bảo hộ ngành công nghiệp phát triển và được sử dụng ở các nước đang phát triển để khuyến khích việc sản xuất thay thế nhập khẩu và vì nguyên nhân cân bằng cán cân tanh toán .

+Hạn ngạch là công cụ thực hiện phân biệt đối sử trong quan hệ buôn bán và gây áp lực với các đối thủ cạng tranh

+Hạn ngạch tham gia điều tiêt cung cầu đối với những sản phăm xuất khẩu và nhập khẩu quan trọng trên thị trường chiến lược

Kết luận : có thể nói hạn ngạch là biện pháp bóp méo cạnh tranh trong thương mại ,làm giảm hoặc triệt tiêu vai trò điều tiết của thị trường,làm mất tính ổn định của môi trường thương mại và là một trong những nguyên nhân chính của sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường

29-09-2008, 10:50 PM

#3

di1ngaydang

Offline

Tham gia từ: Sun Nov 2007

Đến từ: Ho Chi Minh city

Bài Viết: 1,151

Cảm ơn: 371

Được cảm ơn 5,876 lần.

Có 603 bài viết hay.

Bạn bè: 0

________________________________________

Đối với các DN Châu Âu thì có hạn ngạch thì là một trở ngại chứ không phải là quyền lợi đâu bạn. Hạn ngạch nhập khẩu (import quota) tức là giới hạn về số lượng một loại hàng hóa nhất định vào một thị trường nhất định trong một khoảng thời gian xác định (thường là 1 năm).

Ví dụ, một nước giới hạn số lượng đường nhập khẩu vào nước đó là 50 tấn/năm.

Hạn ngạch là một loại rào cản thương mại để bảo vệ nhà sản xuất trong nước với chi phí của người tiêu dùng loại hàng hoá đó trong nước.

Người ta cho rằng hạn ngạch dẫn tới tham nhũng (hối lộ để được cấp quota), buôn lậu (để tránh hạn ngạch) và giá cả hàng hóa đắt đỏ mà người tiêu dùng phải trả.

Xin nói thêm là xét trên khía cạnh kinh tế, quota có hiệu quả kinh tế thấp hơn thuế quan, và thuế quan lại có hiệu quả thấp hơn thương mại tự do.

________________________

Cách học hiệu quả nhất là giảng giải cho người khác.

di1ngaydang

Thăm nhà, xem giới thiệu

Gởi nhắn tin tới di1ngaydang

Tới trang web của di1ngaydang

Tìm bài viết khác của di1ngaydang

01-10-2008, 08:25 PM

#4

soibui

Thành viên cấp 2

Tham gia từ: Mon Jul 2008

Đến từ: Vô Định

________________________________________

Trích:

VN đã là thành viên WTO rồi thì EU đâu có quyền áp đặt hạn ngạch NK đối với các hàng hóa của VN xuất khẩu sang thị trường EU nữa

Vậy theo bạn, hiện tại EC và Mỹ đã bỏ hạn ngạch rồi à..??

Click here

Click here

Trích:

Xin nói thêm là xét trên khía cạnh kinh tế, quota có hiệu quả kinh tế thấp hơn thuế quan, và thuế quan lại có hiệu quả thấp hơn thương mại tự do.

Ý mình không hỏi các khái niệm hạn ngạch và thuế quan, và mình không so sánh công cụ bảo hộ Hạn Ngạch và Thuế Quan.

Mình chỉ hỏi hạn ngạch nhập khẩu của Mỹ và EC, đúng ra phải cấp phát, hoặc đấu thầu hạn ngạch, phần lợi ích kinh tế thế, sao EC và Mỹ không làm cho các DN nhập khẩu của họ được hưởng, mà họ lại cấp ngược lại cho Việt Nam mà cụ thể là Bộ Thương Mại

#5

________________________________________

Tiếc là mình chưa hiểu câu hỏi của bạn cho lắm. Vì hạn ngạch dùng để áp dụng cho tất cả các nước khác, hoặc phân bổ cho riêng một quốc gia nào đó.

Có phải ý bạn muốn hỏi là: Tại sao EC và Mỹ không để các doanh nghiệp nhập khẩu của họ có quyền tự đi tìm nguồn hàng ở nước ngoài, cho đến khi đủ lượng nhập khẩu cần thiết (đủ hạn ngạch), mà phải phân bổ hạn ngạch riêng cho từng quốc gia (Việt Nam chẳng hạn)?

________________________

Cách học hiệu quả nhất là giảng giải cho người khác.

________________________________________

bạn axpro nói đúng câu hỏi của mình đấy ? Hạn ngạch là do chính phủ nước Nhập Khẩu đặt ra, cụ thể là Bộ Thương Mại nếu nhận thấy 1 ngành nào đó, cần phải được bảo hộ thì đặt ra hạn ngạch nhập khẩu, thông thường các hạn ngạch này được cấp phát (miễn phí) cho các DN nhập khẩu, hoặc tổ chức đấu thầu (để thu về 1 ít lợi ích kinh tế cho chính phủ). Nhưng đặc biệt các quốc gia EC và Mỹ, lại đem hạn ngạch ấy cấp lại cho các Doanh Nghiệp Xuất Khẩu (ví dụ Việt Nam, Trung Quốc...). Tại sao có việc cấp ngược lại ?

#7

________________________________________

Mình xin nói một vài điều mà mình biết về việc cấp hạn ngạch của Mỹ.

Hạn ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ được chia làm 2 loại: Loại tuyệt đối và loại tỉ suất thuế.

- Loại hạn mức tỉ suất thuế không được áp dụng cho Việt Nam vì chúng ta có thể chế chính trị cộng sản (Mỹ quy định các quốc gia có thể chế chính trị cộng sản không được áp dụng loại hạn mức tỉ suất thuế - Trừ một số trường hợp đặc biệt)

- Hạn ngạch tuyệt đối là hạn mức số lượng sản phẩm được phép nhập khẩu trong thời gian hạn mức, một vài hạn mức tuyệt đối được áp dụng cho toàn cầu, một số khác được phân bổ theo quốc gia. Như vậy, vẫn có sự phân bổ hạn ngạch như soibui nói, tức là các nước trên thế giới đều có quyền nhập vào Mỹ, đến khi đủ thì thôi (Số lượng hàng vượt quá hạn mức có thể bị giữ lại và chờ cho tới thời kỳ hạn mức kế tiếp cho khu vực đó hoặc được đưa vào nhà kho hoặc có thể được tái xuất hoặc hủy bỏ). Còn trường hợp được phân bổ theo quốc gia, hiện nay mình vẫn chưa biết được các tiêu chuẩn để Mỹ phân bổ hạn ngạch theo quốc gia. Sự phân bổ theo quốc gia nhiều hay ít, có thể là một sự ưu tiên cho đồng mình, các nước thân Mỹ,...

Tìm bài viết khác của di1ngaydang

08-10-2008, 05:44 PM

#8

soibui

Thành viên cấp 2

________________________________________

Thật ra mình hỏi câu này vui thôi, các bạn đã từng nghiên cứu về khái niệm Nước Lớn sẽ là câu trả lời. Nước lớn được hiểu là một quốc gia mà một sự thay đổi trong chính sách kinh tế quốc gia sẽ có tác động lên thị trường thế giới, điển hình Mỹ và EC.

Theo mình hiểu, hạn ngạch bảo hộ chặt chẽ hơn nhiều so với thuế quan. Ví dụ sản phẩm X nào đó,chính phủ muốn bảo hộ nó, và thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước,nếu dùng thuế quan, sẽ có những người vì nhu cầu, sẵn sàng bỏ nhiều tiền hơn giá thực tế để được mua nó (điển hình một số đại gia sắm toàn xe xịn hàng hiệu... ), còn như nếu sử dụng hạn ngạch, qui định số lượng cụ thể thì bó tay.

Trở lại vấn đề hạn ngạch, tại sao có việc ngược đời 1 quốc gia cấp hạn ngạch cho quốc gia khác. Vì 4room không cho vẽ sơ đồ đường Cung Cầu mình cũng khó giải thích sao cho rõ ràng được. Nếu bạn vẽ 1 đường cung, cầu (của 1 quốc gia lớn) và dùng trục P làm trục đối xứng để vẽ đường cung cầu của phần còn lại của thế giới (đa số là các quốc gia nhỏ), bạn sẽ thấy nước lớn nhập khẩu nhưng không có bị thiệt hại, trái lại nước lớn sử dụng hạn ngạch có thế giúp gia tăng lợi ích kinh tế cho mình và gây thiệt hại về lợi ích kinh tế cho các nước xuất khẩu. Điều này có thể gây tranh chấp xung đột trong hệ thống kinh tế thế giới, nước lớn có thể thỏa thuận với các nước xuất khẩu là sẽ cấp hạn ngạch nhập khẩu của mình cho nước xuất khẩu để đổi lấy việc các nước xuất khẩu đồng ý cắt giảm sản xuất,cắt giảm xuất khẩu. Đây còn được gọi là thoả thuận hạn chế xuất khẩu tự nguyện .

Tương tự thế nếu sử dụng thuế quan người ta gọi đó là THUẾ QUAN TỐI ƯU

Phản hồi: Hạn ngạch nhập Khẩu ??? (VnEcon.com)

3120 lượt đọc và 8 phản hồi

________________________________________

Theo các bạn ,tại sao ở các nước phát triển chủ yếu chỉ có hạn nghạch nhập khẩu mà không có hạn nghạch xuết khẩu?

theo mình nghĩ để bảo hộ nền sản xuất trong nước và còn nhiều vấn đề nữa mình mong các bạn đóng góp ý kiến

cuncon87

Như tên gọi của nó, hạn ngạch thuế quan là mức hạn ngạch mà ở đó thuế quan có sự thay đổi. Hạn ngạch chỉ ra một số lượng mặt hàng nhất định, nhập khẩu dưới mức đó được hưởng thuế quan ưu đãi, còn nhập khẩu trên mức đó phải chịu thuế suất thông thường hoặc thuế suất mang tính phân biệt đối xử.

Ví dụ: Hạn ngạch thuế quan cho mặt hàng đường là 10.000 tấn, thuế suất trong hạn ngạch là 10%, thuế suất ngoài hạn ngạch là 45%. Như vậy, 10.000 tấn đường đầu tiên nhập khẩu về sẽ được hưởng thuế suất 10%. Từ tấn đường nhập khẩu thứ 10.001 sẽ phải chịu thuế suất 45%.

Ngày gửi: 24/01/2008 - 23:21

Hàng rào phi thuế quan là gi? ảnh hưởng của nó đến xuất khẩu hiện nay?

các bác giúp em với nhé. Thanhs !

Câu trả lời hay nhất - Do người đặt câu hỏi bình chọn

Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp phi thuế do chính phủ một số quốc gia đặt ra để bảo vệ hàng hoá nhập khẩu/xuất khẩu không vượt quá số lượng đã ấn định, bằng cách tăng thuế nhập khẩu, giới hạn hàng nhập khẩu, giới hạn thị trường hoạt động trong nước của các nước ngoài để bảo vệ doanh nghiệp trong nước.

Các biện pháp phi thuế gồm nhiều lĩnh vực như nông nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng, vận tải, bảo hiểm, ngân hàng, chứng khoán, viễn thông, năng lượng, v.v...

Một số doanh nghiệp sẽ có lợi và một số khác sẽ bất lợi khi có hàng rào phi thuế quan cũng như khi dỡ bỏ hàng rào này dựa trên các thỏa thuận thương mại giữa các quốc gia.

.

Hàng xuất khẩu cũng vậy, một số hàng xuất khẩu sẽ có lợi và một số hàng xuất khẩu sẽ bất lợi tùy vào thị trường xuất khẩu.

Thuế quan là một công cụ đắc lực và cần thiết của mỗi Nhà nước để thực hiện các mục tiêu sau:

- Đem lại nguồn thu cho ngân sách: với nhiều nước đang phát triển, thuế thu từ hàng hoá xuất nhập khẩu (đặc biệt là nhập khẩu) đóng góp một tỷ lệ lớn vào số thu thuế nói riêng và ngân sách nói chung

- Phục vụ các mục tiêu kinh tế (bảo hộ sản xuất)

- Phục vụ các mục tiêu phi kinh tế: giảm bớt việc nhập khẩu các hàng hoá mà Nhà nước không khuyến khích vì có ảnh hưởng tới đời sống, môi trường, đạo đức xã hội, ví như các mặt hàng rượu bia, thuốc lá, ô-tô, v.v...

- Làm cơ sở cho đàm phán thương mại.

Ngày gửi: 21/01/2008 - 22:15

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: #cap