Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Hương Bích La Xuân


Nếu có thời gian mong các bạn tìm đọc điển tích về nàng Vương Chiêu Quân - một trong Tứ Đại Mỹ Nhân Trung Hoa cổ - qua khúc "Bình sa lạc nhạn", có chú thích trong video đính kèm. Đơn giản là một khúc nhạc tựa như cánh nhạn bay giữa trời đất trong cái buồn tủi được nàng Vương Chiêu Quân gảy lên trên cung đường bị gả sang đất của kẻ lạ. Tương truyền vì khúc nhạc quá buồn thảm đã làm một cánh nhạn sa xuống chân nàng, nên có tên là khúc nhạc nhạn sa.

_______

Một tiếng "Đoàng" vang lên giữa quảng trường lớn. Mấy cánh hoa sữa bị dẫm nát bầy dưới dấu chân của đoàn người ở bến Hoàng Phố. Mặt trời lặn đằng Tây như thường lệ, nhuộm lên mấy lớp ngói khu Tô Giới một màu cam vắt.

Gió đông tát từng cơn vào da thịt đến thấu những mao mạch đỏ hoằm, dù vậy đám người kia cũng không muốn thức tỉnh, họ vẫn mong đây chỉ là ác mộng chứ không phải là hiện thực. Tôi tránh người qua một bên mặc mọi người giẫm đạp lên nhau chạy trốn đám lính người Anh đang chĩa những khẩu súng, đâm những mũi giáo nhọn vào người của những kẻ xui xẻo dẫn đầu đám làm loạn.

Tôi lấy trong túi áo dạ ra một điếu thuốc, mất một hồi mới châm lên được trong cái gió buốt thịt ở hải cảng. Nhíu mắt lại trông từ đằng xa có thể thấy vài chiến thuyền của Tây Ban Nha đang nổ mấy phát đại bác ra hiệu một cách lỗ mãn, mà cũng chẳng cần hăm doạ ai, dù sao chính quyền nơi đây đã âm thầm quỳ rạp dưới chân lũ người da trắng kia từ rất lâu rồi.

Nhiều thứ người trên phố, nhiều thứ tiếng được nói ra. Tiếng Quảng, tiếng Quan Thoại, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, mỗi thứ tiếng trộn lẫn một ít vào cái tạp âm tứ phía, ai cũng phải biết vài ba câu để chìa đôi bàn tay đen đúa của mình ra xin vài đồng bạc lẻ. Nhiều người không có nhà, vất va vất vưởng dưới mấy cái lầu cao ngất có bảng "Cấm chó và người Hoa" ngay trên cái đất tổ tiên họ đã sống chết bao đời nay. Người ta ôm nhục và ôm hận, nhưng cũng chẳng thoát ra được cái mùi anh túc vịn chặt trên vạc áo nát nhàu của đám người lúc nhúc dưới đáy Thượng Hải hào nhoáng.

Tôi mở nắp chiếc đồng hồ quả quýt khắc tinh xảo được đặt làm từ Anh Quốc vài tháng trước khi còn đang theo học ở Học Viện, chỉ có tôi và một cậu người Nhật khác đến từ phương Đông. Tôi lấy khăn lau đi vết bùn vấy trên đôi giày được đánh vẹc-ni bóng loáng, chắc là bị bắn lên bởi lũ người chạy loạn lúc nãy.

Từ đâu có một cô ả diện xường xám, xẻ dọc bắp đùi trắng phau, chân không mang giày lại giẫm lên đống lởm chởm vụn nát trên đường, ngược dòng người tháo chạy khỏi đám lính Anh. Tia sáng loé lên từ bàn tay trắng ngần dù tươm máu lỗ chỗ của nàng ta bắt lấy ánh nhìn của tôi, một con dao găm sắc lẻm. Ánh mắt nàng, cho dù trước mắt tôi là đám đông hỗn tạp, tôi vẫn nhớ như in cái nỗi thống hận hằn sâu trong ánh nhìn khi tiến đến đám đông đang bị đám lính Anh khống chế, thể như chỉ cần vô tình nhìn vào quá lâu thôi thì cũng đủ bị giết chết rồi.

Tôi không kịp nghĩ gì, vươn người ra kéo một cái thật mạnh cô ả vào hẻm tối.

"Đừng có nghĩ đến chuyện đó."

Nàng dùng lực hất tay tôi ra, cả người nàng rung chuyển, chiếc trâm nơi mái tóc đen tuyền được búi cao rơi xuống nền đất lạnh rồi vỡ tan, tóc nàng xoã dài và đôi mắt nhìn tôi. Tất cả những gì tôi thấy được chỉ là căm hận.

"Bỏ ra! Chúng đã giết em trai tôi!"

Tôi dùng chút võ được dạy bên Anh Quốc, đánh một cái nhẹ nhưng dứt khoát vào cổ tay cô ả đang bấu lấy con dao. Con dao rơi xuống đất, nàng ta kêu lên một tiếng nhẹ.

"Nếu cô muốn mình là người tiếp theo thì cứ việc!"

Một cái tát đủ mạnh làm tôi nếm được vị mặn và mùi máu tanh trong khoang miệng mình, phụ nữ Á Đông đúng là không thể nói xem thường là được.

"Tôi mất hết rồi! Cha mẹ anh em cũng chết cả rồi! Còn cái gì để mà tiếc?"

Cô ả lớn giọng trong khi cổ tay vẫn bị tôi giữ chặt, vì tôi sợ nếu thả ra thì nàng sẽ lao vào đám người kia như những con thiêu thân rồi mất mạng lúc nào chẳng hay.

Hoa sữa vương vài cánh trên mái tóc nàng, tôi chẳng nỡ hất xuống.

Nàng đổ vào người tôi tự lúc nào, khóc nấc lên như một đứa trẻ lên năm bị đám con nít cướp lấy những cây kẹo hồ lô.

Tôi cõng nàng ta băng qua con phố, ngược với đám đông vẫn còn chưa nguôi tiếng gào thét. Mùi thuốc súng và bụi bặm bám bên hai cánh mũi, lẫn một chút vào mùi hoa sữa chưa ngớt trên mấy tán cây. Tôi chưa bao giờ thích cái mùi này.

Tôi đi ngang khu Tô Giới, nếu đi bằng đường này thì sẽ tránh được đám hỗn loạn kia mà đi đến chỗ an toàn nhanh hơn. Tôi thì mặc Âu phục, không việc gì, còn cô ả vẫn vận trên người xường xám -môi đỏ chói, da thịt trắng ngần như tuyết- chúng sẽ bắt bọn tôi lại ngay thôi.

"Tôi không phải người Hoa."

Nàng ta mở miệng, hơi ấm phả nhẹ vào mang tai tôi.

"Tôi cũng vậy. Tôi là người Triều Tiên."

"Vậy chúng ta đến từ cùng một nơi."

Tôi cõng nàng, đi bao lâu chẳng nhớ.

______

"Kim tiểu thư làm gì ở Thượng Hải?"

Nàng ta vén tấm màn đỏ, phía sau là một màn khói thuốc mù mịt từ đám người ở xóm trọ xập xệ cuối con phố nào đó tôi chưa bao giờ đặt chân đến. Tôi biết đó là mùi anh túc dù chưa một lần thử qua, nhưng nếu đã ở Thượng Hải thì ắt hẳn sẽ phải nhận ra được cái mùi này.

Nàng nói muốn mời tôi cốc trà. Tay cầm chiếc tích sứ đã cũ, nghiêng người nhẹ sang một bên, tóc nàng ta cũng thế đổ dài, sống mũi cao, giọng nói cứ như muốn đưa người ta vào mộng.

Tôi ngồi bệt trên tấm phản lớn, đưa mũi hít lấy một hơi trà ngút khói, là Bích La Xuân.

Nhấp một ngụm nhẹ nơi đầu môi, vị đắng chẳng thấy đâu, một phần vì trà Bích La Xuân vốn có vị ngọt thanh, phần khác tôi đoán là do xác trà lâu ngày đã không thay, cứ thế chêm nước vào tích rồi đổ ra.

"Tôi vừa học ở Anh Quốc về, gia đình có chút công chuyện cần tôi làm ở Thượng Hải, sang xuân sẽ về lại."

Bàn tay trắng muốt của nàng dính vài vệt máu khô, bắt lấy chiếc tách sứ bị mẻ còn lại sau khi rót vào cho tôi chiếc tách còn nguyên vẹn, nàng cũng nhấp một ngụm, hơi nóng từ tách Bích La Xuân bốc lên đọng lại mi mắt nàng một hàng sương mỏng.

Tôi lôi trong túi áo ra một chiếc khăn mùi xoa, với lấy đôi tay nàng đang đặt ngay ngắn trên đùi.

"Mạn phép."

Nàng quay mặt sang hướng khác, giấu đi ánh nhìn của mình sau mái tóc đen dài. Tay tôi lau lấy những vệt máu trên đôi tay trắng ngần của nàng, xong rồi đặt chúng lại vị trí ban đầu.

"Cảm ơn, Kim tiểu thư."

"Không có gì. Trà cô pha rất vừa miệng."

Dưới ánh đèn dầu loe lói cùng ánh đỏ mập mờ bên cửa sổ căn trọ, tôi đánh tầm mắt mình đi một vòng, đồ đạc tuy đã cũ nhưng sắp xếp gọn gàng, chiếc phản lớn đủ chỗ cho hai người nằm, được ngăn bởi một tấm phong cũ. Lúc bọn tôi ngồi lên phản nàng đẩy tấm vách xếp lại một chỗ. Cạnh cửa sổ là một chiếc bàn nhỏ chất đủ thứ sách báo tuyên truyền. Có thể nhận ra nàng ta đã sống ở nơi chật hẹp này với người em trai của nàng.

"Tôi tên là Kim Trí Nghiên, người Triều Tiên. Gia đình đến Thượng Hải đã được gần năm năm, hai năm trước cái ngày Hiệp ước Nam Kinh được ký. Giờ cũng chẳng còn gì ở Triều Tiên, không còn ai để quay lại."

Khoé miệng nàng ta mấp máy, môi nàng đỏ một màu. Tôi ít khi đụng đến mỹ phẩm nhưng cũng nhận ra, hộp Xuân Cung Đồ được đặt ngay ngắn trên bàn trang điểm, tôi khẽ đỏ mặt, tò mò đôi chút.

"Kim tiểu thư đã xuất giá chưa? Thứ lỗi nếu tôi quá lời."

Khoé môi nàng cong lên, mỉm cười một điệu thật nhẹ. Có vẻ nàng đoán ra được nơi ánh mắt tôi hướng đến, nhẹ nhàng đáp.

"Tôi chưa. Đó là kỷ vật của mẹ tôi. Bà để đó thì tôi cũng chỉ biết vậy. Chỗ này bé như vậy, chẳng có gì quý giá, nếu là khuê phòng đài cát thì sẽ phải phép hơn."

Tôi chẳng kiềm được, thở phào một cái nhẹ. Mắt nhìn ra được cây đàn tranh dựng trong góc phòng. Đàn tuy không được chạm trỗ đồi mồi như mấy món được trưng bày ở khu nhà khách tôi lưu lại, nhưng nhìn rất mới, có vẻ nàng ta rất quý thứ đồ này.

"Kim tiểu thư biết chơi đàn tranh không?"

Trí Nghiên lại một lần nữa bắt được ánh nhìn tôi, đi đến góc phòng cầm lên cây đàn tranh rồi trở lại tấm phản lớn.

"Tôi không. Nhưng có biết một chút dương cầm."

"Phải rồi. Đàn của người Tây."

Trí Nghiên cười nhẹ, mắt nàng cong lên hình bán nguyệt, lẫn sau làn khói anh túc toả ra từ mấy gian lầu dưới. Tôi đoán qua nàng không nghiện thứ thuốc đó, vì bộ dáng của nàng chẳng giống đám người kia.

Nàng ngồi xuống, quỳ gối trên phản xoay người về phía cửa chính gian trọ, nghiêng đầu đổ mái tóc dài sang một bên, tay gảy khúc "Bình sa lạc nhạn".

Tôi nhắm nghiền mắt được mấy nốt đầu, đoạn sau kiềm không được mà quay sang nhìn Trí Nghiên. Nàng tựa thẳng lưng, tay trắng ngần còn rướm máu gảy từng nốt lưng chừng, lúc trầm lúc thăng. Tôi có nghe qua "Bình sa lạc nhạn" vài ba lần, duy chỉ lần này tâm trí như bị mê hoặc, nhìn trong cái khói thuốc anh túc mập mờ mà vẽ ra được cái chân trời buồn thảm ngày nàng Vương Chiêu Quân bị gả về đất Hung Nô. Như tiếng ai oán man mác cả một buổi chiều, mắt cố nhân ngoái lại nơi đất mẹ mà ngậm đắng gảy lên khúc nhạc.

Tôi nhìn trộm Trí Nghiên, mắt nàng vương chút buồn, làm lòng tôi cũng trũng một đoạn.

Tôi đi sang Anh Quốc mới hai năm đã nhớ cha nhớ mẹ. Nàng ta ở đây côi cút một mình, làm sao chịu được.

Cánh nhạn cứ bay liệng giữa trời đất, có mỏi mệt luyến tiếc quay đầu lại cố hương cũng chẳng ngừng được. Nàng gảy đàn, tôi tưởng như bên tai mình có tiếng nhạn đập cánh, buồn hiu hắt.

Trí Nghiên ngưng tay, đặt cây đàn sang một bên, cười chua một cái, tay lại với lấy cốc trà đã nguội đi từ lúc nào.

Tôi đờ người, cái rét chốn hải cảng này còn không làm tôi rùng mình như cách Trí Nghiên đàn khúc nhạc ban nãy.

______

Từ sau hôm tôi cõng nàng về, tôi lấy cớ sang thăm vết thương nơi chân nàng mà lưu lại nơi xóm trọ cũ kỹ.

Nàng nói rằng nàng hay chơi đàn cho một đoàn kịch nhỏ trên phố. Mỗi đêm người ta trả nàng vài đồng bạc, đủ cơm canh áo mặc qua mùa đông ở Thượng Hải.

Có vài hôm tối muộn tôi đợi nàng trước xóm trọ, thấy nàng bước ra từ xe hơi đen cóng của mấy gã Tây, miệng tôi chợt có vị đăng đắng, dù sao cũng là cái nghề của người ta.

Vẫn là tích trà Bích La Xuân như thường lệ. Nàng vẫn rót cho tôi vào chiếc tách không bị mẻ, màu trà xanh bích làm đầu óc tôi thư thái. Hôm nay trà đọng lại vị đắng đầu lưỡi, tôi khẽ nhíu mày và Trí Nghiên cũng nhìn thấy, cười xoà một cái.

"Hôm nay tôi mới có dịp ghé hàng trà, họ mới hái về vài hôm nên chưa kịp phơi đủ độ, cũng tại đang là mùa đông nữa. Kim tiểu thư không phiền chứ?"

Nàng lại đưa tay rót vào tách tôi. Hôm nọ tôi có mua tặng nàng chiếc trâm cài tóc được chạm đá quý tôi thấy trong lồng kính trưng trên phố, chỉ biết nói là đền cho cái trâm hôm đó tôi mạnh tay hất nàng mà rơi xuống vỡ trên đất thì Trí Nghiên mới nhận. Nay Trí Nghiên dùng chiếc trâm tôi tặng nàng búi lên thật cao, để lộ cái gáy trắng phau, nghiêng nghiêng trước tầm mắt tôi dụ hoặc.

"Không hề. Trà Trí Nghiên pha lúc nào cũng ngon hết. Trà phải có chút đắng mới đúng vị trà."

Mắt nàng lại cong lên hình bán nguyệt, môi đỏ nhoẻn nụ cười bẽn lẽn. Dù có ngắm trăng cả một kiếp, tôi cũng phải thề thốt chẳng có vầng trăng nào rọi trên dòng Hoàng Phố buổi đêm đẹp bằng ánh cười của nàng ta.

Trí Nghiên lại hỏi tôi có muốn nghe nàng đàn nữa không. Tôi mở miệng từ chối không được, nhưng càng sợ lòng mình buồn thêm như cái hôm nàng gảy khúc Nhạn Sa.

Thật may hôm nay Trí Nghiên gảy một khúc khác, cũng trong Thập Đại Danh Khúc của Trung Hoa nhưng với âm sắc vui tươi hơn, tôi chưa kịp hỏi tên, Trí Nghiên vừa dứt tay tôi liền quay sang nhìn vào đôi mắt nàng.

"Trí Nghiên muốn cùng tôi về lại Triều Tiên không? Tôi có thể tìm thêm một tấm vé nữa, không thành vấn đề gì. Chỉ cần Trí Nghiên muốn là được."

Trí Nghiên đặt cây đàn tranh lên tấm phản, đi vòng ra sau gian bếp được ngăn với phòng nàng bằng một tấm bình phong. Nàng quay trở ra với mồi lửa trên que diêm nhỏ, châm giúp tôi điếu thuốc.

Mắt nàng hướng lên di ảnh ba người được đặt ngay ngắn trong khung hình, tôi đoán là nàng rất hay lau chùi chỗ đó. Trí Nghiên cúi mặt, giọng nàng vẫn êm dịu như thường, nay lại run nhẹ.

"Mồ mã cha mẹ và em trai tôi đều ở đây cả. Tôi đi rồi ai hương khói cho họ."

Ngoài trời tuyết rơi trắng một mảng, gió lạnh lùa vào gian nhà trống hoe của Trí Nghiên, tôi lần tay mình đến bàn tay nhỏ của nàng ta, chẳng hay hơi ấm đến từ tách trà, hay là do tay nàng vốn đã ấm, tôi chạm vào thấy lòng mình cũng ấm áp theo.

"Kim tiểu thư, thứ lỗi cho tôi. Tôi cần thời gian suy nghĩ."

Trí Nghiên lấy tay còn lại xoa nhẹ lên tay tôi, mi mắt nặng trĩu.

______

Còn hai hôm nữa là tôi phải lên tàu về lại Đại Hàn. Tôi đứng đợi Trí Nghiên trước xóm trọ, hôm nay trời lại rét thấu xương.

Nàng tiến lại từ đằng xa, lấy hai tay đeo găng ren mà đặt lên đôi tay lạnh cóng của tôi. Xường xám xanh thẫm ôm trọn từng đường nét tuyệt mỹ trên cơ thể, áo lông khoác hờ trên vai gầy, tôi nhận ra môi mình đã cong lên tự lúc nào.

Trí Nghiên gật đầu một cái, tôi thấy lòng mình như có ngọn lửa ấm.

______

Trước hôm ra bến cảng, lúc đang dọn dẹp ở nhà khách, liền nghe thấy tiếng dưới sảnh lớn vọng lên ồn ào. Tôi chạy ra hành lang mà nhìn xuống.

Người ta nói về việc đám lính Anh châm lửa đốt một xóm trọ nghèo vì nghi ngờ bọn họ chứa chấp kẻ cầm đầu đám tạo phản lúc trước. Đến tra hỏi thì đám người kia nhất quyết không ho he, tên Tổng quản ra lệnh tẩm xăng.

Tôi không nhớ mình bằng cách nào đã chạy đến xóm trọ nhanh nhất có thể, gió đông tát thẳng vào da thịt tôi từng cái điếng người, tôi cũng chẳng để tâm.

Tôi đờ người ra trước cái màu đỏ rực bập bùng trước mắt mình, giờ thì nóng đến bỏng rát da thịt, ngọn lửa nuốt chửng cái xóm trọ xập xệ tôi cõng Trí Nghiên về buổi chiều hôm đó. Người ta kéo tôi ra khi những gian phòng bắt đầu đổ sập xuống. Họ vô vọng hất những xô nước, mặc cho đám lính Anh chĩa súng vào mà lớn tiếng đe doạ.

Tôi nhận ra khung cửa sổ có tấm mành đỏ của Trí Nghiên, mắt tôi khô khốc, muốn khóc mà gió đông thổi ngược thật cay.

Mùi cây anh túc từ mấy phòng trọ bên dưới bị đốt lên, mang cái hương quỷ quyệt đã giết chết Trung Hoa từ thuở nào xộc lên cánh mũi tôi.

Tôi nhìn lên, lẫn trong mùi anh túc bại hoại là mùi dịu thanh của tích trà Bích La Xuân hôm nào, bên tai vang vảng khúc "Bình sa lạc nhạn", tôi oà khóc lên như một đứa trẻ.

Về sau tôi có nếm thử lại trà Bích La Xuân, vị chẳng như lúc tôi còn ở Thượng Hải. Khúc sau có người mách tôi rằng, tương truyền người ta biết được cái ngon của Bích La Xuân là nhờ hơi nóng người trinh nữ đã kẹp mấy lá trà nơi ngực mình, dân làng hái lá đi ngang qua người trinh nữ thì thấy có mùi thơm, từ đó mang về để pha trà. Lúc đầu được gọi là trà Nhân Hương, sau này Hoàng đế Khang Hi cho đổi lại thành Bích La Xuân. Bích La Xuân pha bởi những người chưa xuất giá lại càng có cái mùi thanh dịu hơn.

Tôi nhấp ngụm trà, ngước lên nhìn bức hoạ có những cánh nhạn tưởng chừng như mất hút nơi chân trời đỏ rực.

Giờ tôi mới thấu, tại sao tách Bích La Xuân của Trí Nghiên lại làm đầu óc tôi mụ mị đến vậy.

End.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com