Chap 7: Đại ân
Ánh nắng lấp loá nhảy nhót trên rặng cây, chiếu xiên thành vệt xuống gương mặt cậu trai nhỏ, ấm áp. Những khóm hoa rừng đang đến độ nở rộ, và không khí ấm áp như làn da, rộn lên thanh âm rả rích khoái hoạt của côn trùng, chim chóc.
Cậu bé nằm vắt vẻo bên bờ sông Đà, bàn tay đưa lên ngang mặt, hai mắt khẽ nheo lại đón tia nắng nhỏ mềm mại xuyên qua kẽ tay mình. Cậu chu miệng tinh nghịch, huýt lên một giai điệu ngẫu nhiên vừa nảy ra trong tâm trí.
Sóng nước reo vang, hoà ca cùng giai điệu ấy. Cậu trai nhỏ thích thú bật ngồi dậy, lắng nghe tiếng gọi êm đềm từ làn nước xanh thăm thẳm mà cậu chắc mẩm chỉ mình cậu nghe thấy.
Con sông, dòng chảy bình thản lững lờ của nó đang vẫy gọi cậu. Những xoáy nước kỳ vĩ với bọt nước trắng xoá, mang một thứ xúc cảm quyến luyến quấn lấy toàn thân cậu. Cậu luôn yêu thích cảm giác vừa dịu êm lại vừa mãnh liệt ấy, chẳng cách nào cưỡng lại được sức hút từ nó. Nỗi khao khát được trầm mình cồn lên trong cậu. Cậu chớp đôi mắt đẹp tựa biển khơi, ngần ngừ vài giây trước khi tiến gần tới gần mé sông.
Bàn tay còn chưa kịp chạm đến mặt nước mềm mại kia, một tiếng gọi bất thình lình kéo giật cậu lại.
"A Thuỷ, quay lại đây!"
Cậu thảng thốt xoay đầu, vừa kịp bắt gặp khuôn mặt nửa giận dữ nửa âu lo của một bà lão.
"Con lại muốn xuống nước nghịch nữa đấy à?"
Bà lão hùng hổ xộc tới nắm chặt lấy tay cậu bé, tức tối đến nỗi những nếp nhăn xô cả vào với nhau trên gương mặt già nua nhăn nheo. Bà dùng toàn bộ sức lực vốn chẳng bao nhiêu của mình, nghiến răng nghiến lợi lôi cậu đi xềnh xệch. Vừa lật đật lôi lôi kéo kéo, bà vừa mắng cậu xơi xơi.
"Cái thằng ranh con này! Năm lần bảy lượt bà dặn con tránh xa con sông này ra, sao con không chịu nghe lời? Có thể con không nhớ nổi một điều gì, nhưng chí ít cũng phải nhớ mình đã từng suýt mất mạng như thế nào chứ?"
"Gần một năm trước, cái ngày ta tìm thấy con nằm ướt nhẹp thoi thóp ở đây, nếu không phải ta nhanh chóng gọi người đến cứu, có lẽ con đã bỏ mạng rồi. Còn không biết quý trọng công sức của ta, hết lần này đến lần khác trốn ra bờ sông nghịch nước? Con cho rằng mình là con nòng nọc sao? Không có nước thì không sống nổi chắc?"
"Suýt chết đuối còn không biết sợ! Quan tài đặt trước mặt, con vẫn còn không thèm đổ lệ! Con về đây, về đây, lần này ta phải cho con ăn đòn nát đít!"
"Bà ơi... Bà ơi, bà đừng đánh con mà. Con đã kịp xuống nước đâu ạ?" Cậu bé khổ sở phân bua, cố gắng gỡ mình khỏi những ngón tay nhăn nheo khỏng khoẻo của người mà cậu gọi là "bà".
Người phụ nữ này là ân nhân, cũng là gia đình của cậu, kể từ khoảnh khắc cậu mệt nhọc mở mắt tỉnh dậy trong nhà bà sau cơn ngủ mê man mà chính cậu cũng không rõ nổi căn nguyên, với một khoảng trắng bất tận trong tâm trí.
Cậu mơ mơ màng màng nói với bà, tên mình là Thuỷ. Ngoài tên gọi ra, cậu không còn biết bất cứ điều gì về bản thân, đối với thế giới xung quanh cũng hoàn toàn không lưu lại chút nhận thức nào. Thậm chí hình ảnh phản chiếu của chính mình vọng lại từ tấm gương đồng cũng khiến cậu bàng hoàng sợ hãi: Tóc đen, da trắng, nhìn qua có vẻ hoàn toàn giống một đứa trẻ bình thường, chỉ có đôi mắt khác lạ.
Đối diện với đôi mắt xanh sáng quắc lạ thường kia, cậu run rẩy thốt lên hai chữ.
"Yêu quái..."
Khoảnh khắc ấy, bà lão ngỡ ngàng đôi chút, hình như còn có cả đau lòng. Bà nhìn sâu vào gương mặt non nớt của cậu, đôi mắt đục ướt đẫm hơi sương. Cuối cùng, bà thở hắt, nhàn nhạt buông một câu.
"Yêu quái gì mà yêu quái, chẳng qua màu mắt có đôi chút khác người. Làm gì có con yêu quái nào yếu ớt như nhà ngươi?"
"Ở lại đây. Không ai thân thích thì ta đành nuôi ngươi vậy! Ta sống một mình, nhà nghèo kiết xác nhưng chút khoai sắn ngoài vườn cũng vừa đủ để thêm một miệng ăn."
Câu nói này nghe qua có chút khô khan miễn cưỡng, nhưng sau một thời gian chung sống với người phụ nữ này, cậu nhận ra bà cho dù nói năng cộc cằn nhưng lại thật lòng thật dạ thương mình như cháu ruột.
Thực ra, nhiều năm trước bà có một đứa cháu trai. Cậu bé đuối nước chết trên sông Đà, khi qua đời vừa vặn ở độ tuổi của cậu bây giờ. Con gái bà – mẹ ruột của đứa trẻ, vì cứu con mà cũng không may từ trần. Từ đó về sau, vì nhớ con nhớ cháu, ngày nào bà cũng lang thang bên bờ sông ấy. Cũng nhờ vậy mà phát hiện ra cậu bất tỉnh bên sông và mang cậu về nhà. Suốt thời gian qua dù bà không khi nào thừa nhận, nhưng cậu biết rõ hơn ai hết, sâu trong thâm tâm, bà luôn cho rằng cậu chính là sự bù đắp mà thần sông dành về cho bà.
Bà gọi cậu hai tiếng A Thuỷ, mỗi ngày đều vì cậu mà chịu khó đi dệt thuê kiếm chút tiền mua thêm gạo thêm thịt. Người trong bản rất sợ cậu, họ xa lánh cậu vì đôi mắt màu xanh dị thường, cho rằng cậu là yêu quái, có người xui bà đem cậu bỏ vào rừng, liền bị bà chỉ tay vào mặt mắng như tát nước. Bà nói, có chết bà cũng sẽ không bỏ rơi cậu, đừng nói là mắt xanh, cho dù cậu có mọc ra ba đầu sáu tay và bò lổm ngổm như nhền nhện, bà cũng sẽ giữ cậu lại bên cạnh bà. A Thuỷ nghe được những lời này, miệng bật cười nhưng nước mắt trào dâng như sóng.
Bà thương cậu như vậy, lại thêm nỗi ám ảnh trong quá khứ, cho nên đối với chuyện sông nước bà vẫn thường xuyên phản ứng rất gay gắt, có phần quá đà. Chưa bàn tới việc nhảy xuống tắm sông, chỉ riêng việc mon men tới gần con sông đó, A Thuỷ của bà cũng tuyệt nhiên không được phép nghĩ tới.
Tuy thế, cậu trai kia vì tuổi còn nhỏ, rất ham chơi, lại thêm trí nhớ được liệt vào hạng "nước đổ lá khoai", cho nên không dưới vài lần bị bà bắt quả tang mò ra sông nghịch nước. Lần nào cậu cũng bị phạt đứng góc nhà, nhưng chỉ vài ngày sau lại ngựa quen đường cũ, tái phạm hết lần này đến lần khác.
"Bà, bà ơi... Bà bỏ tay con ra đi mà!" A Thuỷ níu lấy cánh tay bà nằn nì. "Con biết lỗi rồi! Con hứa sẽ không ra sông chơi nữa đâu!"
Bà nhẫn nại cắn răng không nói, nhưng trong đầu chao chát mắng mỏ: Thằng nhóc thối, thề thốt hứa hẹn hết lần này đến lần khác, có đần độn mới đi tin nhà ngươi!
Mãi đến lúc họ về đến nhà bà – căn nhà ọp ẹp tuềnh toàng nằm nép mình ở một góc cuối bản, bà mới chịu buông tay cậu ra. Bà thở hắt ra một hơi, chẳng rõ là bất nhẫn hay là nhẹ nhõm vì cuối cùng cũng lôi được cậu cháu trai nghịch ngợm không biết nghe lời của mình về đến nơi an toàn.
Bà lật đật múc một gáo nước đầy đưa về phía cậu, đôi đồng tử mờ đục gợn lên nỗi xót xa.
"Bà biết con mang thể chất không giống người thường, mỗi ngày đều phải uống rất nhiều nước và luôn cần được ngâm mình trong nước. Vì lẽ đó, bà đã mang về bao nhiêu chum, hứng bao nhiêu nước sạch lưu trữ trong nhà cho con dùng. Con vì sao cứ phải tìm ra bờ sông đó làm gì? Nhỡ ngã xuống đuối nước thì sao? Lần trước còn may mắn dạt vào bờ, nhưng lần này chắc gì đã may mắn như thế?"
A Thuỷ mím môi, vừa vội vã vừa cẩn thận đón lấy gáo nước từ tay bà đưa lên miệng uống cạn rồi đưa tay áo quệt một đường ngang miệng, cười hì hì lấy lòng.
A Thuỷ mang cơ địa đặc biệt, nếu không nói là dị thường. Cậu rất dễ dàng khát nước, gần như luôn trong trạng thái cần uống nước. Cậu tắm và ngâm mình mỗi ngày trong thau nước lớn nhưng luôn cảm thấy không đủ. Không gian đó quá chật hẹp với cậu. Như một chú cá chép bé nhỏ ôm mộng vượt Long Môn hoá rồng nơi biển lớn, cậu lúc nào cũng thèm khát được giải toả bản thân mà lặn ngụp thoả thích dưới làn nước mênh mang của sông hồ, biển cả, muốn cưỡi trên lưng cá kình, muốn đạp sóng mà vươn thẳng ra khơi xa. Điều gì đó từ sâu bên trong mách bảo cậu, rằng biển hồ đầy ắp mới là nơi cậu thuộc về.
Thế nhưng, làm bà mình lo lắng và đau lòng, cậu lại không nỡ, chỉ có thể cắn răng nuốt trọn nỗi niềm nhức nhối, mỗi ngày mỗi ngày đều âm thầm tự múc nước ngâm mình trong căn nhà nhỏ hẹp tối đen như mực.
Hôm ấy, cũng như bao lần bị bà bắt được, cậu bị phạt đứng úp mặt vào tường. Lần này, bà đặc biệt tặng thêm cho cậu ba phát vụt vào bắp chân. Bà bảo "để cho con nhớ". Vì da cậu vừa trắng vừa mỏng, nơi đó hằn lên ba vệt dài đỏ ửng mãi không tan, bà sau đó vì điều này mà day dứt mãi không thôi. Thấy bà đau xót mình như thế, A Thuỷ ăn năn cúi đầu, tự hứa lần sau sẽ không tìm ra bờ sông chơi nữa, sẽ chỉ nghịch nước trong chum thôi, dù thèm nước tới cỡ nào cũng sẽ cố vì bà mà nín nhịn.
Ở thời điểm đó, cậu không hề lường trước được rằng, suốt sáu tháng sau trời không hề đổ dù chỉ một cơn mưa phùn. Tất cả chum tích trữ trong nhà đều cạn nước. Độ ấy là giữa mùa hạ, thời tiết đặc biệt nóng nực, đất đai khô cằn, cây cối héo hon. Bản nhỏ nơi cậu sống nằm bên mé sông, việc đi lấy nước có thể coi là dễ dàng hơn những nơi khác, nhưng cũng chỉ chống chọi được thêm hơn hai tháng cho tới khi nước cạn khô, trơ ra đáy sông nứt toác.
Đối mặt với thiên nhiên hung dữ khắc nghiệt, loài người thấp cổ bé họng chẳng thể làm gì ngoài ngửa cổ chắp tay, van lạy thần linh chừa cho họ con đường sống.
Hùng Vương với vai trò là người đứng đầu đất nước đã thực hiện các chính sách cứu tế, chẩn cấp cho dân, sai các đại thần có đức hạnh làm lễ cầu khấn, mong thần linh bốn bề rủ lòng thương mà ban mưa xuống, giải cơn khát và cứu đất đai đồng ruộng, mùa màng cho dân, nhưng không mang lại kết quả gì...
Mà, kẻ nhẫn tâm gây ra đại hoạ khiến thế gian rơi vào cảnh lầm than ấy lại thản nhiên như không có chuyện gì, phớt lờ cả chiếu thư cảnh cáo được gửi xuống từ thiên giới.
Hôm ấy, hắn nhàn tản cưỡi trên lưng đại bàng, vừa lướt gió bay lượn trên bầu trời vừa đưa đôi mắt màu hoả diệm tàn khốc, lạnh lùng nhìn ngắm những vạt cỏ héo rũ trong cơn nắng. Nắng nhuộm vàng ệch cả ngọn núi khổng lồ nơi hắn sống, thiêu đốt đến tận cùng từng nhành cây ngọn cỏ, đất đá cũng dường như chỉ chực chờ tan chảy thành dung nham, mà lòng dạ kẻ được coi là Sơn Thánh kia lại không hề mảy may đau xót.
Sơn Tinh nhảy khỏi lưng đại bàng, phất tay đuổi nó bay đi chỗ khác. Theo thói quen, hắn thường không ghé thăm miếu Tản Viên trong những ngày gây cơn hạn, nhưng lần này là một ngoại lệ. Hắn hiện tại cảm thấy đặc biệt nhàm chán, lại đang thèm rượu đến ngứa ngáy toàn thân. Thứ rượu hạ thổ mà Thổ Công dâng lên hắn chẳng thể nào thơm ngon bằng rượu thần dân Văn Lang chưng cất và mang đến miếu thờ được. Vì lẽ đó, hắn bất đắc dĩ vẫn phải mò tới đây tìm rượu.
Sơn Tinh lười nhác nằm dài trên điện thờ, cầm cả chùm rượu lúc la lúc lỉu. Hắn vô cùng khoái trá, mở một hũ ra uống. Quả nhiên, gây hạn càng lâu, lễ vật và rượu nhận về càng nhiều. Con người, trong suy nghĩ của hắn, chính là những kẻ yếu đuối ngu ngốc như vậy, rất dễ dàng rơi vào sợ hãi, rất dễ dàng bị hắn thao túng.
Con rồng cháu tiên ư? Cũng chỉ là những kẻ lực bất tòng tâm, tự mình không cứu được mình.
Hắn cười khẩy, nét cười vừa ung dung vừa tràn ngập rắp tâm trên gương mặt chữ điền ngời ngợi, đôi mắt thăm thẳm hằn lên tia độc địa hiểm ác.
Và, trong lúc hắn đang nhấm nháp niềm vui bắt rễ từ chính những khổ đau hắn đang gieo rắc, một bà lão mang dáng vẻ khắc khổ xuất hiện trong điện thờ.
Có vẻ như bà đã lặn lội qua cả chặng đường dài khó nhọc để tìm tới được đây, bằng chứng là mồ hôi chảy mướt mải trên làn da nâu sậm chi chít những vết đồi mồi của bà, làm bết dính những lọn tóc mai bạc phơ và thấm ướt đẫm áo bà. Thân hình gầy guộc, lưng cong gập xuống, khiến hắn nảy sinh cảm giác nếu thiếu đi chiếc gậy chống đỡ, có lẽ cả cơ thể bà sẽ rạp xuống đất như vạt cỏ đang héo rũ ngoài kia.
Mãi tới khi bà lão nhọc nhằn tiến gần tới điện thờ, án ngữ trước mặt hắn, Sơn Tinh mới nhận ra bà không tới một mình. Trên lưng bà mang theo một đứa bé.
Cậu bé đang ngủ, đầu ngoẹo hẳn về một bên, mắt nhắm nghiền.
Đôi mày lưỡi mác của hắn khe khẽ nheo lại, khoảnh khắc bà lão khó nhọc hạ đứa bé khỏi vai và đặt nó nằm trước điện thờ. Trong suốt quá trình đó, cậu không hề động đậy, cả thân thể rũ mềm không vương dù chỉ một chút sinh lực.
"Chết rồi sao?" – Hắn lẩm bẩm tự hỏi.
Sơn Tinh không mảy may nâng mình ngồi dậy. Vẫn duy trì tư thế nằm vắt vẻo và một nét mặt mang theo ba phần thờ ơ bảy phần bất nhẫn, hắn cau mày ca thán.
"Bà mang xác chết tới miếu của ta để làm gì, bà lão kia? Thực khiến ta mất hứng! Mau mang nó đi chôn trước khi ta nổi giận!"
Tất nhiên con người chẳng thể nhìn, cũng không thể nghe thấy những gì Sơn Tinh nói (nếu như hắn không cho phép), bà lão sau khi quệt ngang nước mắt và mồ hôi đầm đìa trên mặt, liền liên tiếp lạy dập đầu trước điện, vừa khấn vừa lẩy bẩy khóc. Dù cơn nức nở khiến câu từ đứt gãy thành từng mảnh vụn, Sơn Tinh vẫn bất đắc dĩ nghe ra lời khẩn cầu van xin lặp đi lặp lại từ bà.
"Sơn Thánh, người ta bảo ngài linh lắm, cầu xin ngài hãy cứu lấy đứa trẻ tội nghiệp này. Tôi trăm lạy ngàn lạy, xin ngài cứu lấy cháu tôi. Nó cần nước để sống. Không có nước, nó sẽ chết khô trước cả cây cối trên mặt đất này. Xin ngài hãy ngừng làm hạn hán, để cho mưa rơi xuống nhân gian... Xin ngài... Thằng bé sắp không chịu đựng nổi nữa rồi. Nó sẽ chết mất, xin ngài, làm ơn làm phước, thân già này cắn rơm cắn cỏ van lạy ngài..."
"Xin hãy mang tôi đi thay cho nó, có được không, Sơn Thánh? Nếu như ngài cần lễ vật, tôi sẵn sàng giao cho ngài linh hồn già cỗi này, dù nó vô giá trị..."
Sơn Tinh thở hắt, tai hắn luôn dễ dàng đau nhức vì những tiếng khóc than, đây cũng là lý do hắn hiếm khi tìm tới miếu thờ khi có người. Con người luôn cho rằng có thể khiến hắn thương cảm bằng nước mắt và những lời giãi bày vô nghĩa, cũng cho rằng hắn sẽ nảy sinh trắc ẩn mà hoá giải giúp họ những lầm than. Hắn tặc lưỡi, cau có bật dậy, quẳng chùm rượu sang một bên rồi chồm hỗm ngồi trên điện thờ của chính mình.
"Ta lấy cái linh hồn rẻ mạt của bà làm cái gì? Đừng có khóc nữa, lão bà bà! Thứ ta ghét nhất trên đời này, ngoài lão rồng già quéo Long Vương thì chính là nước mắt của con người đấy! Thực phiền muốn chết!"
"Bà có khóc đến khô người cũng chẳng ích gì đâu, Sơn Thánh ta đây dù chỉ một chút cũng đếch quan tâm đến chuyện sinh tử của con người các ngươi!"
Hắn nhảy xuống khỏi nơi đang ngồi, toan rời khỏi đó. Thế nhưng, khoảnh khắc lướt qua thân xác khô héo bất động của đứa trẻ, điều gì đó đã níu ánh mắt hắn lại.
Khuôn mặt nhỏ nhắn xanh xao khẽ nhăn lại trong đau đớn, rèm mi rung nhè nhẹ, cậu bé chậm chạp hé mắt.
Đôi đồng tử màu xanh lam loé lên ánh sáng le lói dưới rèm mi đen nhánh, Sơn Tinh khẽ rùng mình khi bắt gặp thứ ánh sáng kỳ ảo diễm lệ ấy. Chạy dọc toàn thân là một xúc cảm lạ lẫm hắn chưa từng trải nghiệm, vừa đáng ghét lại vừa dễ chịu, giống như mỗi lần được ngụp lặn dưới chân con thác kỳ vĩ trắng xoá đổ xuống từ hẻm núi cao vút sâu trong rừng kia.
Sơn Tinh luôn cho rằng mình căm ghét nước biết bao, cho đến khi tình cờ tìm được con thác ấy. Tương tự như vậy, hắn luôn cho rằng mình căm ghét màu xanh dương biết mấy, cho đến khoảnh khắc này.
Hai luồng xúc cảm trái ngược loang loáng vụt qua tâm trí, làm hắn trong phút chốc choáng ngợp.
"Cái quái gì..." Hắn nghiến răng, không cách nào rời mắt khỏi gương mặt nhỏ yếu nhược kia.
Cậu bé mấp máy đôi môi khô nẻ, thều thào gọi bà. Chỉ một cử động nhỏ như vậy dường như cũng tiêu tốn toàn bộ mảnh sức lực nhỏ nhoi mà cậu có. Cậu ho khan đôi ba tiếng, đôi mắt lại một lần nữa đóng lại, ánh sáng màu lam nhạt tuyệt mỹ kia cũng theo đó mà lụi tàn. Một giọt nước mắt trong suốt rơi khỏi khoé mắt cậu.
Tim hẫng đi một nhịp. Rất nhẹ. Nhưng nhiêu đó cũng đã đủ khiến kẻ lòng dạ cứng rắn như đá tảng kia phải ngơ ngác. Lần đầu tiên Sơn Tinh hoài nghi chính mình. Hắn mơ màng nhận thấy thứ gì đó âm thầm bén rễ trong tâm trí.
"Là lòng trắc ẩn sao? Chu Điểu Vương ta mà cũng tồn tại thứ cảm xúc đó?" Hắn tự hỏi mình một câu, bất giác lặng người trong một tích tắc rồi nâng miệng tự giễu.
"Quả nhiên, nước mắt con người là thứ ta kỵ nhất!"
Dứt lời, Sơn Tinh khoát tay một cái, thu lại hoả diệm vô hình giăng giăng khắp đất trời. Cơn nóng vẫn càn quấy nhân gian suốt nửa năm ròng lập tức thuyên giảm. Nhiệt độ tụt nhanh chóng, không khí dịu lại vài phần. Gió thổi tung cánh cửa gỗ, ùa vào điện thờ, mang theo khí mát và cả hơi ẩm vờn lấy thân thể bất động nhỏ bé kia.
Cảm nhận sự dễ chịu thanh mát chạm tới làn da và lan toả khắp chung quanh, cậu trai nhỏ khó nhọc nâng mắt. Cậu rất mệt nhưng cũng cố gom nhặt đủ tỉnh táo để nhận ra cơn mưa lớn đang kéo về.
Bập bùng vọng đến bên tai cậu, lẫn với tiếng reo vui phấn khởi của bà, là thanh âm trầm đục thấm đẫm cả từ tính lẫn uy lực từ một người đàn ông.
"Hôm nay, coi như số kiếp ngươi may mắn gặp được ta."
"Tuy nhiên, Sơn Thánh ta vốn không phải kẻ làm ra những hành động tuỳ hứng không mang chủ đích rõ ràng."
"Ngươi nợ ta một mạng. Nhớ kỹ lấy, sau này khi thời điểm đến, một mạng đó, ta sẽ bắt ngươi trả lại cho ta."
"Nhất định, sẽ bắt ngươi trả lại cho ta..."
----
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com