II. Bản giao hưởng số 6
Sáng ngày thứ bảy, tôi nghe theo tiếng gọi rầm rì từ khu rừng bạch dương đang bước sang một dáng thu bình dị, không bao lâu nữa chúng sẽ rụng hết lá và rồi nằm chìm ngỉm trong biển trắng của mùa đông. Tôi ngồi ngẩn ngơ và hoài niệm về miền kí ức mơ hồ nào đó. Tôi ngắm mãi căn nhà gỗ cũ kỹ từ phía xa và tưởng chừng tôi đang tìm một chất liệu cho những ý tưởng đang kêu cót két trong bộ óc khô khan của mình. Từ phía xa, ánh nắng đầu ngày đang dát vàng vào đáy mắt tôi, và có lẽ từ giây phút đó tôi đã biết yêu, yêu lấy vẻ phiền muộn và yên lặng mà Mát-xcơ-va đang e ấp trong tiết trời mê hoặc lòng người.
Tôi đắm chìm trong làn không khí mát dịu và nghĩ mình đang ngồi trên một con dốc phủ đầy cát óng ánh. Giờ thì tôi chả thèm khát gì mấy chai rượu Laphit, Mađer hay Xêret. Chúng chả là gì so với việc ngồi trầm ngâm ở đây và nghiền ngẫm về lịch sử nhân loại, về nền hòa bình mà họ tạo ra sau bao nhiêu trận đánh bom tan tác. Bởi vậy mà trái tim tôi luôn run rẩy mỗi lần nhắc đến (vì tôi cảm thấy ngưỡng mộ vô cùng). Nhưng cái quyến rũ tôi không phải nền hòa bình vĩnh cửu đó mà là cái chết. Cái chết với tôi mới huy hoàng làm sao, sau cái chết đó sẽ là một anh hùng ghi danh vào lịch sử. Thế rồi tôi tự hỏi, một thằng cỡm như tôi mê mẩn cái chết đến vậy mà sao vẫn chưa thể ra đi mà bất đắc dĩ trở thành một vị thánh sống như bây giờ?
"Ô, vậy thì có nghĩa là gì?"
Và rồi tôi bật cười ngả ngớn khi thấy thân mình vững chãi như dân thành La Mã, tôi ngâm nga những câu thơ của Shengel (một thói quen giống hệt cha tôi ngày trước): "Các bạn hỡi, chúng ta là những người La Mã. Chúng ta đổ máu mình ra..." và cứ thế tôi cất lên câu chữ đứt đoạn bằng một trí nhớ cọt kẹt tưởng sắp qua đời.
Tôi đã lang thang một ngày trời trong rừng bạch dương, không hề cảm thấy đói hay mệt mỏi. Tôi nghĩ bản thân mình như vừa được sinh ra một lần nữa, không còn là một vị thánh sống với thân hình cao to, không còn thích chống gậy và vấn khăn trên đầu. Tôi giờ đây đã trở thành một người con nước Nga, đang trên đường thực hiện một kế hoạch lãng mạn của đời người.
Ráng chiều vụt tắt, tôi sửa soạn cho mình bộ đồ được làm từ vải lanh, một đôi giày cao cổ, một quyển ghi chú bọc nhung và 2 cây bút máy (tôi bắt chước những tay tri thức thôi, tôi chả biết làm như thế thì được cái mốc xì gì!) và cuối cùng là ôm theo cây đèn dầu hoả có chao hình hoa tuy-lip phòng đường tối.
Ngang qua anh bạn cối xay gió Dukine, tôi khẽ gửi lời chào bằng một cái cúi đầu kính trọng. Có vẻ anh bạn không bao giờ biết mệt mỏi này cũng đang lim dim những giấc mộng nào đó, tôi khẽ thầm cảm ơn vì nếu không có Dukine tôi sẽ cô đơn tới chết mất.
Tôi đánh những bước chân vội vã qua bìa rừng đang xào xạc, xung quanh tôi không có ai và từ xa ngôi nhà của tôi dường như đang trở thành một ảo ảnh xa tít. Tôi nhận ra cái lặng lẽ của vùng Đông Âu tuy có chút âm thầm nhưng sâu thẳm lại dễ bắt gặp những tiếng đập vồn vã nhịp của sống của thiên nhiên hoang dại. Đột nhiên trái tim tôi dâng lên một thứ cảm giác nuối tiếc, nuối tiếc cho những gót chân đã đi mãi về miền xa xăm không người tỏ.
Và rồi tôi rời căn nhà gỗ, tiến vào được thành phố, hít lấy hít để cái mùi nhộn nhịp bấy lâu chưa gặp lại. Tôi đã bắt gặp hàng vạn những câu chuyện dang dở trước mắt qua mười giây dòm ngó: một người bán bánh pirozhki ế ẩm, hai tay bợm rượu đang phân bua và ba hành khất ngồi dưới vệ đường với gương mặt nhăn nhúm. Thế rồi tôi chỉ lặng lẽ nhìn họ và cảm thông trong lòng, thế đấy, vì tôi cũng chẳng khá hơn là bao.
Đúng tám giờ tối, tôi đi một mạch tới nhà hát lớn và kiếm chỗ ngồi của mình. Tôi đã chuẩn bị cho mình một ít "nước mắt giả tạo" phòng khi nghe thấy bài nhạc bất hủ lại vô tình xúc động bật khóc. Tôi kín đáo đặt cơ thể xuống ghế và từ xa tôi trông thấy một gã đàn ông lạ lùng. Anh ta đi với điệu bộ khập khiễng, mặc một chiếc áo lông xám ngắt trong chiếc quần xanh lá cây, cổ áo sơ mi trắng toát, cà vạt đen, thắt lưng khảm bạc, dắt theo một cây ba toong màu đồng. Khuôn mặt anh ta hẩm hiu ẩn sau mái tóc phủ xuống thành nếp và trông có vẻ xanh xao bơ phờ. Tôi tự hỏi:
"Quái lạ, nhân loại cũng có thể vác điệu bộ nhếch nhác đó đến những nơi như thế này sao?"
Và rồi tôi thấy gã ta tiến đến gần phía mình và lặng lẽ ngồi xuống một cách nhẹ nhàng nhất, khoảng cách giữa chúng tôi bây giờ chỉ bằng một sải tay. Tôi có thể nhìn rõ người đàn ông đang thở dài và hướng đôi mắt vô định về phía sân khấu, nhưng rồi tôi cũng dừng việc quan sát lại vì cho rằng điều đó thật kì cục với một người lạ.
Thế rồi cả tôi và những con người còn lại trong nhà hát đều đã nín thinh để chờ đợi sự xuất hiện của dàn nhạc giao hưởng. Tôi đã phải bụm miệng mấy lần vì suýt la ó lên trước những thứ đang xảy ra trước mắt. Tâm hồn tôi được khơi lên từ tiếng kèn, tiếng đàn và tiếng sáo. Tôi đi từ vui sướng sang buồn tủi, rồi từ nỗi buồn đó chuyển sang tức giận, cứ thế tôi từ một thằng cỡm loi choi đương đóng vai thành một nhà tri thức rởm trong nhà hát.
Và cuối cùng, cuối cùng cũng xuất hiện bản giao hưởng số 6 mà tôi hằng chờ đợi. Tôi thề có đức thánh nhân, làm sao Tchaikovsky có thể viết nên một giai điệu tuyệt diệu đến thế, tôi đã phải thốt lên mấy lần trong đầu và trái tim tôi đập rộn ràng như chưa bao giờ được tha thiết đến như vậy. Thứ âm nhạc chảy dọc trên da thịt tôi, mơn man một cảm giác không thể thốt thành lời.
"Ôi chúa ơi!"
Và đó là cách tôi lẩm bẩm trong đầu. Nhưng có vẻ bên tai tôi không chỉ là tiếng nhạc day dứt lòng người đó, tôi có thể nghe thấy tiếng khóc sụt sùi ở đâu đó xung quanh mình. Tôi tưởng bản thân tôi đang vô thức dùng chút "nước mắt nhân tạo" mà tôi đã chuẩn bị kĩ lưỡng. Nhưng không! Tiếng khóc nghẹn ngào phát ra từ gã đàn ông kì cục ban nãy, nhói lòng làm sao khi tôi nhìn thấy hai dòng nước mắt nóng hổi lăn trên gương mặt thiếu sức sống của anh ta. Một cảm giác đau đớn sóc vào tâm can tôi, tưởng chừng muốn tê liệt. Và trong vô thức đôi mắt tôi cũng rỉ ra hai dòng nước mặn chát, chẳng biết vì lí do gì!
Kể từ giây phút đó tôi đã ngồi im bặt cho đến khi bản nhạc kết thúc, tôi không còn loi choi như một thằng giả danh tri thức vừa dậy thì. Giờ đây tôi chụm hai chân lại, hai tay bỏ lên đùi và lưng tôi thẳng một cách nghiêm chỉnh. Tôi - một người đàn ông sống sót qua cơn đại dịch và tự nhận mình là "thánh sống" đã phải nín thinh trước tình cảnh khi ấy. Cho đến khi buổi hoà nhạc kết thúc, tôi chửi thề một câu và quyết định sẽ không trở thành quý tộc nữa. Cả người tôi mỏi nhừ vì phải gồng trong suốt thời gian ngồi nghe nhạc, và lúc này tôi mới biết tôi yêu cái giường của tôi đến nhường nào (tôi cần nằm ngay lập tức). Vu vơ một lúc tôi liền bắt gặp người đàn ông ngồi cạnh tôi:
"Kia rồi!"
Tôi ba chân bốn cẳng chạy theo dáng người khập khiễng đang hoà vào đại lộ. Tôi chỉ sợ rằng mình bỏ lỡ điều gì đó, tôi muốn hỏi tại sao anh ta lại bật khóc như đang ấm ức điều gì, và tôi cũng muốn biết...vì sao trông anh ta lại đơn độc đến vậy.
"Này anh bạn!" - tôi gọi.
Và rồi như bản năng vốn có, anh ta quay lại nhìn tôi với đôi mắt bối rối cùng khó hiểu. Có vẻ điều này có chút đột ngột nhưng chẳng sao cả. Trước mắt tôi đang là một gương mặt thanh tú nhưng ảm đạm (điều này phải đứng gần mới thấy). Trong đôi mắt ấy ánh lên những đường nét đơn sơ nhưng rất u sầu. Anh khẽ hỏi tôi:
"Nào, cậu cần gì ở tôi?"
Tôi thề giọng anh ta nhẹ nhàng đến mức khiến tôi run rẩy, tôi không hiểu vì sao thứ âm thanh trong veo và êm tai này lại phát ra từ một người mang dáng vẻ lâm li bi đát đó. Đầu óc tôi đang bùng lên cơn say mèm, và:
"Anh ta thật thánh thiện."
Có lẽ là năm từ duy nhất có thể thốt thành lời.
Tôi khẽ kéo bản thân ra khỏi cơn mê muội bất đắc dĩ, liếc qua cái gậy ba toong mà anh ta vẫn nắm chặt từ đầu tới bây giờ rồi tiếp tục mở lời:
"Anh đến buổi hoà nhạc một mình sao?"
"Phải, như cậu đã thấy." Anh ta mỉm cười.
"Ồ, có phải điều cô đơn này đã khiến anh khóc trong bản Giao hưởng số 6 được chơi khi nãy không?"
Tới đây người đàn ông trước mặt tôi bắt đầu ngập ngừng, có vẻ anh ta đang cân nhắc điều gì đó khi đối diện một người xa lạ như tôi. Phải thôi, điều đó là đương nhiên mà, nhưng tôi nhận ra trong đôi mắt anh ta là một khát khao muốn được biểu lộ thành lời. Và điều đó đã biến thành sự thật khi anh ta gõ chiếc gậy ba toong xuống đất:
"Là vì điều này đây thưa quý ngài vô danh."
Sau đó anh ta kéo chiếc quần màu xanh lá cây lên tới đầu gối, để lộ những vết sẹo lồi hằn sâu vào đôi mắt tôi. Trong đó có một vết thương lớn kéo dài cả gang tay. Và có vẻ đây là lí khiến anh ta không thể đi lại bình thường.
Tôi - một thằng cỡm luôn vênh mặt lên tới trời nay đã từ bỏ mọi sĩ diện để có thể xin được tên tuổi của người đàn ông trước mắt. Tôi cũng phép được đưa anh ta về dưới ánh đèn dầu mà tôi thủ sẵn trong người. Băng qua đại lộ đông đúc, anh ta bắt đầu coi tôi như một người bạn để trút bầu tâm sự. Rằng anh là Daniel - một thuỷ thủ trên con tàu viễn dương Knyaz Vladimir (một trong những con tàu có tiếng ở Nga). Daniel trước mặt tôi là một người con của biển, thích nghe tiếng sóng và ngậm thuốc lá ba số trong những chuyến đi dài.
Anh ta kể tôi nghe về những điều kì diệu trên biển, về thuyền buồm và các loại thừng chão mà anh ta đụng chạm qua. Dưới lời kể của Daniel, tất cả đang bừng lên một bức tranh sống động không khác một ảo ảnh. Tôi có thể tưởng tượng ra anh ta trong bộ dạng cao to với tiếng thét lấn tiếng sóng, tôi có thể nhìn thấy một người thuỷ thủ mặc áo na-to và đứng trước mũi con thuyền, uy nghiêm, kiên định, oai phong nhìn quả cầu lửa đang lặn xuống và ngủ gật ở bờ bên kia. Tôi còn cảm nhận được mùi muối biển đang sóc vào khoang mũi tôi và nó khoan khoái một cách kì lạ.
Thế rồi trong một chuyến phiêu lưu từ cảng Sochi qua Biển Đen. Một chuyến đi dài ngày mà Daniel đã dày công chuẩn bị, anh ta cũng như bao lần khác, luôn đứng trên boong tàu để chào đón một hành trình mới. Thế nhưng sự cố lại kéo tới vào nửa đêm cùng ngày, một cơn bão không kịp báo trước ập đến và mang theo trận chiến nảy lửa giữa thuyền bè và sóng dữ, giữa con người và cái chết cận kề. Thiên nhiên nổi dậy giằng co với sự sống của những sinh linh đang nghiêng ngả trên thuyền, nó vùng lên quật tan con tàu viễn dương như vung một cú đánh thấu trời. Hàng chục thuỷ thủ như Daniel rơi vào thế khủng hoảng. Một số quỳ gối cầu nguyện, số khác gào thét gọi người tình và người thân. Số còn lại (trong đó có Daniel) gấp gáp điều chỉnh thiết bị định vị để phát tín hiệu về đất liền, Daniel đã phải liên tục dùng vật nhọn cứa vào chân để làm bản thân tỉnh táo. Hai tay anh run rẩy và hơi thở thì gấp gáp như đang đè vỡ lồng ngực. Thế rồi...sự nỗ lực lần đầu tiên bị từ chối. Biển cả nuốt chửng bọn họ trong tíc tắc và mọi thứ đang chìm xuống vực sâu...
Nghe tới đây tôi đã phải rùng mình vì không hiểu bằng cách nào anh ta vẫn có thể sống và đứng trước mặt tôi. Không lẽ anh ta cũng là một vị "thánh sống" giống như tôi? Sau đó anh ta tiếp lời bằng chất giọng cô đặc, cứng rắn mà không còn dịu dàng như lúc đầu nữa. Vì trong những câu chữ Daniel thốt lên đều mang vẻ chua xót và đau đớn tột cùng, anh ta nén lại dòng nước mắt trực trào để nói về kỳ tích đã xảy ra với mình. Rằng bản thân đã nhảy xuống một miếng ván bung ra từ mạn thuyền, nằm bất tỉnh trên mặt biển, tưởng chừng sẽ chết nhưng nhờ thân thể khoẻ mạnh cường tráng sau chuỗi ngày lao động quần quật, anh đã khiến kỳ tích xảy ra và được đón về đất liền.
Nhưng có vẻ anh ta không mảy may gì với điều đó vì sau tai nạn chỉ còn được năm thuỷ thủ và hai hành khách sống sót. Điều đó đã giáng lên anh một nỗi đau muôn thuở, không một cách nào có thể chữa lành được vết thương đó và anh ta phải gặm nhấm nó tới cuối đời. Sau khi đưa vào đất liền, anh được chuyển đến bệnh viện dã chiến để khẩu lại những vết rạch ở chân, nhưng có vẻ đã có một cú va chạm lớn khiến chân anh biến dạng và buộc phải chuyển đến bệnh viện trung ương ngay sau đó. Rồi trải qua các cuộc chẩn đoán và xét nghiệm, đôi chân của anh không những tổn thương về xương mà các dây thần kinh cũng trong tình trạng nguy hiểm.
Và cuối cùng họ cứu sống anh nhưng không thể biến đôi chân anh ta trở lại bình thường. Vì những chấn thương từ dây thần kinh đã nhiến anh tê liệt, tới nay đi lại khập khiễng đã là một điều kỳ diệu mà anh có. Anh đã phải bỏ công việc trên biển, trên những con tàu viễn dương mà anh hằng tha thiết. Rồi Daniel trở về quê nhà, nhìn ngắm những di vật còn lại của sự sống buồn tẻ và bắt đầu công việc làm đồ chơi bằng gỗ cho trẻ em trong thành phố: những chiếc thuyền buồm, các loại thừng chão, dăm ngọn hải đăng, vài chiến hạm có gắn lá cờ tổ quốc...
Tới đây Daniel im lặng một lúc lâu, không kể thêm điều gì. Cuối cùng cả tôi và anh ta dừng lại trước con đường dẫn đến nhà của người thuỷ thủ lừng lẫy. Tôi đã phải thán phục trước người đàn ông này, anh ta vốn toát ra sức sống kiêu hùng khi nhắc tới biển, thế rồi tôi cũng xót xa cho số phận bi kịch ấy. Có lẽ anh ta mới chính là vị "thánh sống" trong truyền thuyết mà không phải một kẻ bịp bợm tự xưng như tôi.
"Vậy thì, anh đã khóc vì cuộc đời này cướp đi một bên chân này sao?" Tôi vừa hỏi vừa chỉ tay xuống.
"Thật là ra không phải như thế, tôi chưa kể cậu nghe điều này. Đó là trước cái chết đang bao trùm những người anh em của tôi, một trong số đó đã nghẹn ngào đánh lên khúc tiễn biệt tạ từ này. Từ đó tới nay mỗi lần nghe thấy tôi đều bật khóc vì quá nhớ họ."
Nghe tới đây tôi đều im bặt, có lẽ bản giao hưởng cuối cùng của cố nhạc sĩ đã đưa chúng tôi gặp gỡ nhau. Và tôi đang rất biết ơn về điều đó, nếu không tôi vĩnh viễn không biết đến một sự sống kì diệu khác đang tồn lại. Cuối cùng Daniel chào tôi bằng chất giọng êm ái:
"Chào Steve, chúng ta phải về rồi!"
Tôi ậm ừ trong họng và không muốn một cuộc chia tay nào xảy ra. Thế rồi tôi vu vơ láo liếc xung quanh và gặng hỏi thêm một câu nữa:
"Anh sống ở đường Feodora?"
"Phải!"
"Nhưng có vẻ đám dân đen còn gọi Feodora là đại lộ đau khổ?"
"Đúng là như vậy, có vẻ rất phù hợp với tôi đấy chứ!"
Daniel nói với giọng điệu nửa bông đùa nửa nghiêm túc, sau đó anh ta không để tôi hỏi thêm bất cứ điều gì mà trực tiếp đưa cho tôi một tấm danh thiếp bên trên có ghi tên người làm đồ chơi - Daniel Volkov. Rồi lặn vào trong màn đêm đen kịt, người cựu thuỷ thủ biến mất như một giấc mơ đẹp còn tôi ngẩn ngơ trước đại lộ ấy và lẩm bẩm:
"Feodora, Feodora, ôi con đường đau khổ Mát- xcơ-va. Xin đừng đem bất hạnh đến cho người đàn ông làm đồ chơi kia nữa!"
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com