Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

III. Đại lộ đau khổ của một miền xứ sở

Tôi trở về nhà nhưng tâm trí lại treo ngược ở đại lộ Feodora. Chưa bao giờ mà tôi thấy con đường trở về khu rừng bạch dương lại dài như vậy, mặc dù trước đây tôi đã đi bộ vài lần để ra phố mua lấy một ít gỗ sồi về đóng giá sách. Bây giờ tôi cảm giác bản thân như một linh hồn trong cõi hư vô xanh thẳm, lửng lơ, trôi nổi, mịt mù. Tôi không còn nghe thấy tiếng hát ru của Mát-xcơ-ca nữa, trong tôi đang dội lại những tiếng xì xầm của đám dân đen về đại lộ đau khổ đó. Từ xa vọng về, tôi cảm nhận từng con gió kéo xẹt qua mặt tôi rồi tít tới chân trời mờ dạng.

Tôi nhớ ra rồi, phía trong đại lộ Feodora là một câu chuyện đau đớn làm sao. Tôi có nghe đám dân đen kể về một người goá phụ và đứa con trai vừa tròn mười tám tuổi của bà. Bất ngờ thay họ không phải máu mủ của nhau, người goá phụ nhận thằng bé về làm con và thương yêu nó chẳng khác gì ruột thịt. Thằng bé lớn lên và làm việc trong chuồng ngựa của một tay thương gia khét tiếng, lão mến mộ mẹ của thằng bé nhưng bà một mực từ chối, bà cho rằng cả đời này chỉ dành để yêu thương con mình, dù nó chẳng phải máu mủ. Kết cục vì không cam chịu với hiện thực này nên lão đổ hết sự uất ức lên thằng bé bằng việc vu oan cho nó. Và nó bị kết án tử hình trước toà. Ôi anh bạn biết đấy, còn gì thê thảm hơn tiếng khóc của người mẹ mất con, xé nát cõi lòng!

Sau sự việc đó, người goá phụ ngày ngày đi hết con đường Feodora để than khóc. Tiếng khóc rấm rứt không nguôi khiến cho cảnh tượng càng thêm não lòng, thuở ấy Mát-xcơ-va chưa đông đúc như bây giờ nên để tìm được một người đứng ra lấy lại công bằng cho gia đình nọ thì không có. Từ đó trở đi Feodora cứ thế mà được nhắc đến với cái tên "Đại lộ đau khổ."

Tôi khẽ rùng mình vì dòng ký ức này cứ trôi nổi như đang tái hiện trước mắt. Tôi đang tự hỏi rằng vì sao người thuỷ thủ kia lại chọn sống trong con đường đó nữa. Tôi không kìm lòng được trước dáng đi siêu vẹo của anh ta, thương tật làm cho bước chân khập khiễng ấy in sâu vào trí óc tôi một cách tự nhiên không tự chủ. Tôi đoán rằng chỉ sớm mai thôi, khi trời tang tảng sáng tôi sẽ ghé tới nhà anh ta như một lẽ thường tình.

"Rét quá!"

Tôi thốt ra trước cơn gió bấc đang thôi phà phà vào cơ thể, bước chân tôi chậm hơn và ngọn đèn trên tay tôi đương tắt ngúm. Dẫu vậy, trong khung cảnh ấy tôi vẫn thấy được anh bạn Dukine đanh cật lực quay những cánh tay to khoẻ, tôi đang mừng thầm vì sắp về tới ngôi nhà thân yêu nằm giữa khu rừng bạch dương, nơi mà người ta vẫn gọi là cái vùng lặng lẽ của Mát-xcơ-va đấy.

Như lẽ thường tình tôi sẽ đi vào giấc ngủ một cách mau chóng, thế mà hôm nay, có lẽ là đêm đầu tiên tôi trằn trọc không tài nào ngon giấc. Trước khi bình minh tới, trái tim tôi bừng nên loại cảm xúc âu yếm cùng thương xót vô tận. Năm giờ sáng, tôi choàng dậy trước cơn gió lạnh tỉ tê đang ù ù ngoài cửa. Sớm thôi mùa đông sẽ tới và căn nhà lại chìm trong cô quạnh. Và tôi thì rẫu rĩ quấn chăn một góc ngủ đông, tôi làu bàu:

"Ông trời không thể nào làm cho thời tiết ấm hơn sao, tôi có thể không chết cóng nhưng thằng Dukine ngoài kia có lẽ đang run cầm cập!"

Tôi ngao ngán mở hé cửa sổ và đưa mắt nhìn ra ngoài, trời tờ mờ sáng. Hàng dây phơi đồ lỏng lẻo bị gió thổi tung lên, hai chiếc khăn mặt vắt vẻo đương rớt xuống. Từ xa mùi khói bạch dương của mấy gã đốn gỗ len qua cánh mũi tôi như một áng mây trời, xa hơn nữa là tiếng đàn du dương đang rộ lên trong thành phố (có lẽ một thánh lễ vừa bắt đầu).

Cảnh trời có chút buồn tẻ, tôi rời khỏi giường và xỏ ủng. Khoác áo dạ và choàng khăn lên cổ, đúng là tôi đã rời khỏi nhà khi trời tang tảng sáng, nhưng tôi thề là tôi vẫn thích những buổi hoàng hôn đầy sương khói hơn. Rồi tôi đi về phía con đường Feodora, nghiêng mình thán phục trước sự hiên ngang của người bạn cối xay gió. Tôi lầm lũi băng qua cánh rừng bạch dương, đi như một ông lão đội mũ sụp vành bụi bặm.

Khi tôi đến được đại lộ đau khổ, những áng mây mịt mù như cũng vừa tan ra, lẩn đi và quả cầu lửa ở đằng đông đang ló dạng. Những tia nắng yếu ớt đầu ngày rọi xuống trông quang cảnh đỡ cô quạnh hơn. Giờ thì tôi mới nhìn rõ con đường Feodora mà đám dân đen đồn thổi - con đường kéo dài mãi, tưởng chừng vô tận, nhưng nhà cửa lại xơ xác và thưa thớt. Hai bên đường trồng nhiều cây lãnh sam, dọc đó là những cửa hàng tạp hoá nhỏ và lụp xụp. Một hàng báo được thồ trên xe, và gần đó là một khu nhà nguyện chưa được trùng tu lần nào.

Feodora đã chào đón tôi như thế, nhạt nhẽo và vô vị, thế nhưng tôi không để tâm lắm. Tôi nóng lòng đi về phía cuối đại lộ và dễ dàng trông thấy một bảng hiệu, nom đã cũ sờn và nứt nẻ:

"Nhà của Biển."

Ngắn gọn một hàng chữ khiến tôi thêm tò mò, trái tim tôi mách bảo đây chắc chắn là nhà của Daniel, thế nhưng tôi lại cảm thấy rụt rè khi bước gần tới. Tôi tự hỏi mình đến đây vì điều gì? Vì tò mò về người cựu thuỷ thủ? Vì để xin anh ta một bữa sáng? Hay là để nghía qua tay nghề lừng lẫy của một dân chơi trên biển?

"Ồ quý hoá quá, Steve đến chơi đấy à?"

Là Daniel, câu hỏi tưởng chừng như chúng tôi đã thân thiết với nhau từ lâu, nó được nhẹ nhàng thốt lên sau lưng tôi. Sao mà tôi nhầm được, tôi quay mình lại, thoáng giấu đi vẻ mặt nặng trĩu mà tôi đang có. Tôi nhìn anh ta trong chiếc áo len xanh biển giản dị, chân bước nhè nhẹ, khập khà khập khiễng.

Daniel lịch sự mời tôi vào nhà, tôi lặng lẽ theo sau, bước qua chiếc cổng sắt được sơn màu đồng, rồi tới con đường lát xi-măng dẫn vào trong, kết thúc ở hàng cây thường xuân trồng trước hiên nhà. Đoạn đường anh ta không nói với tôi lấy một lời, thế nhưng khi anh ta mở cửa tiệm thì lại niềm nở hẳn với tôi:

"Chào vị khách đầu tiên trong ngày đến với Nhà của Biển!"

Tôi bật cười trước câu nói của Daniel vì nó làm cho tôi nhẹ nhõm hơn một chút, tôi đưa mắt nhìn kho tàng của anh ấy. Chao ôi, hình như tôi vừa bước vào một đại dương xanh thẳm nào đó, đôi mắt tôi no nê trước những con thuyền lớn nhỏ được trưng bày. Sát cửa ra vào là hai ngọn hải đăng cao ngang bụng tôi, màu trắng và có điểm thêm một vài đường tròn đỏ. Phía trong trưng bày những con thuyền được điêu khắc tỉ mỉ và tinh tế đến lạ. Tôi có thể thấy những cánh buồm to khoẻ, vững vàng và uy quyền làm sao. Tôi cũng có thể thấy các loại thừng chão lớn nhỏ được móc nghiêm trang trên những chiếc đinh đóng tường. Tôi lẩm bẩm:

"Anh làm hết chỗ này sao?"

"Phải đấy, tuyệt chứ?"

"Ồ hiển nhiên rồi, phải gọi là nghệ nhân ấy chứ!"

Daniel bật cười trước câu nói của tôi, có lẽ anh ta nghĩ rằng tôi đang tâng bốc quá đà. Nhưng nếu vậy thì quả là sai sự thật, thế rồi anh ta chỉ dặn tôi trông cửa hàng như một đầy tôi tớ sau đó lẳng lặng lui vào bếp để chuẩn bị bữa sáng (tất nhiên là cho cả tôi). Daniel nói sẽ có bánh mì, bơ và súp.

Sao mà tôi thấy thân thương đến lạ, tôi tưởng như đây là cuộc gặp gỡ của những bạn người tri âm tri kỷ. Tôi trông có vẻ đã suy tư và yên tĩnh hơn ngày trước, không còn là một thằng con ngáo ngơ hay nhận mình là thánh sống nữa. Giờ đây tôi đang trầm ngâm trước một khung ảnh được treo cùng với những chiếc dây thừng khắc khoẻ - Daniel oai hùng trên con tàu viễn dương. Tôi có thể hiểu được đây là giấc mơ, là sự nghiệp, là thiên đàng của anh ấy. Người thuỷ thủ trong dáng vẻ kiêu hãnh, tay cầm điếu thuốc ba số, cười thật tươi, mắt híp lại trước cảnh một chim bói cá bay xẹt qua mũi tàu như tên bắn.

Quả là một tay chơi trên biển, trông Daniel mới sảng khoái làm sao. Tôi bắt đầu đi dạo một vòng, tay sờ nắn trên những cái mỏ neo rắn chắc, môi cứ lầm bầm khen ngợi vì anh ta không những là một vị thánh sống mà còn có công ăn việc làm. Không hề lông bông như tôi. Đoạn Daniel gọi tên tôi với chất giọng khàn khàn:

"Steve! Cậu ăn được rau mùi chứ?"

"Được, gì tôi cũng ăn!"

"Thế thì cậu xuống dùng bữa được rồi đấy."

Tôi bắt đầu mon men xuống căn bếp nhỏ xinh của người thuỷ thủ. Tông màu ghi và nâu nhẹ nhàng tràn vào mắt tôi một cảm giác ấm cúng và dễ chịu vô cùng. Căn bếp be bé, xây dựng theo kiểu những miền quê của các nước châu Âu lân cận. Đối diện bàn ăn là một khung cửa sổ khá lớn, gói gọn cảnh trời như một bức tranh kì diệu. Trên bàn ăn được trải khăn ca-rô màu huyết dụ, đặt lên là hai đĩa súp vàng óng, hai chiếc bánh mì, một hũ bơ vơi nửa và chai nước sốt chưa mở nắp. Tôi khá choáng ngợp vì với tôi đây là một bữa ăn thịnh soạn nhất từ trước tới giờ:

"Daniel, Chúa đã tạo ra anh một cách khôn ngoan tới nhường nào!"

"Tôi sẽ xem như một lời khen nhé, giờ thì ăn đi kẻo nguội."

"Nhưng liệu tôi có quá hồ đồ khi tới đây không?"

"Ôi anh bạn, chúng ta đâu thể thiếu bữa sáng, hãy xem như tôi đang tiếp đãi một người bạn quý đi."

Nói tới đây Daniel kéo ghế ngồi xuống trước mặt tôi, tay thuần thục phết một miếng bơ và từ tốn ăn sáng. Tôi bắt đầu ngồi xuống, nhờ ánh nắng chiếu qua ô cửa sổ mà bây giờ tôi mới thể thấy rõ gương mặt của Daniel. Một kiểu người nghiệt ngã! Thật sự thì sao mà tôi thấy thương xót con người trước mặt quá, anh ta cứ lầm lũi ăn, lặng yên như tờ, chỉ để lại tiếng va leng keng của thìa và nĩa. Gương mặt Daniel khá ảm đạm nhưng vẫn toát ra vẻ trong sáng, thánh thiện. Tôi đặt cơ thể xuống rồi khẽ nói:

"Tôi xin phép dùng bữa!" Nhưng tay chân tôi lại lóng ngóng một cách khá buồn cười.

"Tự nhiên đi Steve, dẫu sao một ngày của tôi cũng khá nhàn rỗi."

"Vậy tôi có thể ở lại đây thêm?"

"Được thôi, nhưng nếu ở không thì quá lãng phí, nếu muốn tôi sẽ chỉ cậu một vài thứ khá thú vị đấy."

Tôi tỏ ra hào hứng nên chén ngay chiếc bánh mì đang còn nóng, tôi không ăn cùng bơ mà chấm với súp một cách ngon lành. Daniel cứ bật cười trước điệu bộ ăn uống có chút thô lỗ của tôi, anh khen tôi có khiếu hài hước. Nhưng sự thật rằng cái "thằng cỡm" trong tôi vốn hậu đậu như thế! Suốt bữa ăn tôi đã kể Daniel nghe về lịch sử cuộc đời tôi, vì sao tôi lại đến với nước Nga. Và dù có thế nào nữa thì tôi cũng buông thêm vài lời chửi rủa thằng cha kiến trúc sư mà tôi từng nhắc đến. Tôi cũng giới thiệu về ngôi nhà của tôi được khu rừng bạch dương bao bọc như thế nào, ôi tôi vẫn nhớ Daniel đã tha thiết về nó, anh ta đã ao ước được ghé qua và tất nhiên là tôi sẵn sàng ngay lập tức.

Và cũng thể thiếu anh bạn cối xay gió Dukine của tôi, tôi đã khoe khoang về anh chàng bằng những câu từ ong bướm nhất. Tôi cao giọng:

"Daniel, tin tôi đi anh sẽ trở thành một hạt đậu khi đứng dưới chân người hàng xóm của tôi."

"Thế sao, có khi điều đó cũng giống như lúc tôi đứng dưới ngọn hải đăng." Anh đáp lại.

"Ồ không thể nào, sao mà sánh được với Dukine, anh ta vạm vỡ với những cánh tay quay vù vù đấy!"

Tôi không hiểu vì sao tôi cứ khăng khăng về độ lì của của anh bạn hàng xóm nữa, nhưng chắc chắn một điều rằng tôi đang rất phấn khởi để dẫn Daniel đi chào hỏi Dukine. Anh bạn cao to này sẽ rất vui vì có thêm người đến thăm hắn đấy (tôi cá chắc), rồi sau đó tôi sẽ dẫn Daniel đi chu du khắp vùng lặng lẽ Mát-xcơ-va.

Sau khi dùng bữa sáng, tôi theo chân Daniel trở về bàn làm việc của anh ta. Trước mắt tôi giờ đây rất nhiều thứ đồ dùng đẽo gọt khác nhau và tôi thấy chúng như một đống tù mù. Thế nhưng Daniel không ngần ngại giải thích những thứ đó cho tôi, anh ta dùng chất giọng của người từng trải để chỉ bảo tôi. Nhưng tay chân lóng ngóng của tôi đã làm hỏng hết cả, vì thế mà tôi chỉ biết ngồi im và bện dây thừng.

Nhưng dù chúng tôi có làm việc chăm chỉ như thế nào thì con đường Feodora cũng quá ảm đạm. Tôi thấy một ngày ở đây mới thê thảm làm sao, từ sáng tới chiều chỉ nghe tiếng gió hú, xa xăm tôi tưởng đó là tiếng khóc than của người goá phụ. Khung cảnh heo hút, lay lắt, vật vờ như đang trong giờ lâm chung. Lượng khách tạt qua con đường thì ít, công việc buôn bán ế ẩm thế nhưng tôi không hề nghe thấy một tiếng rên rỉ từ Daniel, anh ta chỉ khập khiễng đi ra rồi lại đi vào. Tôi đành hỏi:

"Buôn bán như thế thì sao anh lại chọn con đường Feodora, anh biết rõ nó sẽ không đem lại lợi ích nào mà? Anh vẫn nên chọn một mặt tiền hút khách thay vì nơi này."

"Ồ không đâu, một lát nữa đám trẻ đồng xanh sẽ ghé đến đây, cậu không biết Gabriel sẽ vui sướng như thế nào đâu."

Tôi ngờ nghệch một lúc sau đó nhìn Daniel với đôi mắt dò hỏi, tôi cũng đang thắc mắc niềm vui sướng trên đại lộ này là gì.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com