2. Khúc Tiễn Đưa - Tương Lai
Không phải gu nhạc của đa số người trẻ nhưng mình đã mượn câu chuyện của bài hát "Cô lái đò bến Hạ" để viết oneshot này🍃
__________________________________
Gió bấc thổi lồng lộng qua bãi cỏ dại, mang theo mùi phù sa ngai ngái và tiếng gió rì rào trên mặt nước sông Cửu Long. Bến Hạ nằm chênh vênh giữa đôi bờ lởm chởm tre gai, có một con đò cũ kỹ bập bềnh theo nhịp sóng, chở người qua sông, chủ yếu là những người lính giải phóng, mang theo nỗi niềm mong ngày đất nước được giải phóng. Con đò cũ có từ thời bà cụ Trần, sau truyền lại cháu trai Trần Anh Khoa, vì thân thể gầy gò ốm yếu hay đổ bệnh, không đủ điều kiện đi lính, nên Anh Khoa tiếp tục nghề đò này. Chàng lái đò gầy gò với vành nón lá sờn mép và đôi mắt đen như tro bếp. Khoa sống ở đó từ thuở mồ côi cha mẹ, lớn lên bên tiếng gà gáy trưa và tiếng mái chèo khua nước, cả cuộc đời gắn bó với con đò nhỏ cọc cạch mà bà ngoại để lại. Ngày ngày, Khoa chèo đò đưa khách sang sông, mòn mỏi với nhịp đời lặng lẽ, giữa những lời dèm pha, giễu cợt của trai làng – rằng "đàn ông mà đi lái đò như gái". Nhưng Khoa mặc kệ, chỉ cúi đầu chèo mái, để mặc cho sông nước cuốn trôi mọi lời ong tiếng ve ấy. Khoa không nói nhiều, ít cười, nhưng lòng cậu lại mềm như cỏ ven bờ – một tấm lòng chắt chiu dành trọn cho bóng hình đã in sâu vào trái tim mình...
Vì tấm lòng băng trinh ai đã nguyện cho người thời chiến chinh
Đoàn anh hùng sang sông trái tim nàng trao về một bóng hình
Một người lính chiến đánh trận quên mình
Lính trận chân thành lính trận chung tình
Ngày ấy là một buổi chiều oi nồng tháng Giêng năm 1968, trời miền Tây vàng ủ rũ, tiếng máy bay rền rĩ trên không. Khoa đang thả mái chèo đưa một toán khách sang bờ bên kia thì có tiếng gọi to, một giọng miền Bắc đanh thép:
"Anh cho chúng tôi quá giang, gấp lắm!"
Khoa ngoái lại, thấy một người lính mặc bộ đồ bà ba nâu bạc phếch, ba lô vải trận sờn cũ trên vai, súng AK buộc ngang ngực, khuôn mặt trẻ mà cương nghị lạ thường. Người ấy nhảy phắt lên đò, động tác nhanh nhẹn như một con báo giữa rừng. Anh ta thở hổn hển, mồ hôi túa đầy trên trán, nhưng ánh mắt vẫn sáng rực như đốm lửa le lói giữa đêm tối. Không hỏi han gì nhiều, Khoa chỉ nhẹ giọng:
"Anh ngồi xuống đi. Đò nhỏ, lắc dữ lắm."
Sóng nước vỗ mạn đò kêu lách tách, tiếng gió rít qua bãi lau, và tiếng thở khàn khàn của những người lính. Ai ai cũng tranh thủ phút nghỉ chân này lấy lại chút sức lực, rồi lại tiếp tục tiến về chiến trường Sài Gòn. Người lính hồi nãy ới đò Khoa cất tiếng hỏi thăm cậu:
"Anh tên gì?"
"Khoa... Trần Anh Khoa. Còn anh?"
"Sơn... Nguyễn Huỳnh Sơn. Tôi... lính giải phóng."
Câu nói ấy nghe nhẹ bẫng, nhưng Khoa nghe mà thấy lòng chùng xuống. Miền Nam này chiến tranh loạn lạc đã lâu, ai cũng biết khi một người lính miền Bắc xuất hiện ở đây, là báo hiệu cho một trận mưa bom bão đạn chuẩn bị càn quét. Nhưng Khoa không thấy sợ, cậu chỉ thấy thương. Thương cho người lính, dáng vẻ gầy gò, mắt sáng nhưng đầy bụi bặm, chắc hẳn đã đi bộ cả tháng trời băng rừng, vượt suối vào Nam. Thương cho người dân, lại sắp mất nhà, mất ruộng, mất lúa, mất người thân.
Đò sang đến nửa đường thì một người lính trong đoàn la oái lên. Có vẻ anh ta có vết thương khá nặng, không thể chịu được nữa. Đêm ấy, Sơn xin tá túc tạm bên mái chòi ven bến của Khoa. Họ ngồi bên nhau, nhấm nháp chén nước lá vối nhạt thếch, nghe tiếng đạn pháo vọng về từ xa, và kể nhau nghe chuyện đời. Sơn kể về miền Bắc, về Hà Nội - nơi có Bác Hồ, có tướng Giáp vẫn đang ngày đêm mòn mỏi tìm đường tìm nước cứu nhân dân, cứu đất nước. Ngoài ấy còn nghèo, nhưng ít bị giặc đánh phá nên cũng đỡ khổ hơn đồng bào miền Nam. Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng. Sơn bảo có gian truân , có chịu đói chịu khổ thế nào, nhất định cũng sẽ giải phóng miền Nam, thống nhất đấy nước. Khoa kể về cuộc sống bên bến sông, về con đò, về những mùa nước nổi và cơn lũ năm nào cũng cuốn trôi cái chòi này. Khoa bảo cậu cũng muốn ra chiến trận, cũng muốn đứng trong hàng ngũ lính cụ Hồ, mà sức yếu quá không đi được. Sơn an ủi Khoa, nói rằng con đò này của cậu cũng đang góp phần vào công cuộc chung của nước nhà.
Họ cười, họ nhìn nhau, lần đầu tiên Khoa nhìn thấy một đôi mắt đẹp như thế. Có lẽ chàng lính này còn đang đèn sách ngoài Bắc, nghe theo tiếng gọi Tổ quốc mà mắc võng trên đường Trường Sơn, rồi vào đến vùng đất này. Ánh mắt Sơn ấm áp như lửa bếp củi giữa mùa đông, và Khoa thấy tim mình đập rộn ràng như sóng vỗ vào bờ.
Sáng hôm sau, Sơn đi, để lại một lời hẹn vỏn vẹn:
"Chờ tôi... Ngày đất nước hòa bình , tôi sẽ quay lại... tìm anh."
Khoa không trả lời, chỉ lặng lẽ nhìn theo bóng dáng người lính khuất dần sau lũy tre làng.
Những năm sau đó, chiến tranh vẫn tiếp tục – đạn bom, súng đạn, tin tức về những trận đánh lớn nhỏ ào ào như bão nổi. Người ta vẫn đi qua con đò của Khoa, nhưng ai cũng thấy Khoa gầy hơn, xanh xao hơn, tóc rối bời. Cậu không còn cười nói nhiều như trước, ánh mắt lúc nào cũng chỉ lặng lẽ nhìn về luỹ tre làng, nơi bóng hình người lính đã mất hút từ lâu.
Năm 1975, chiến tranh cuối cùng cũng kết thúc. Khách qua đò của Khoa không chỉ là người dân làng hay bộ đội, mà còn có người từ miền khác đến. Khoa gặp nhiều người, nghe giọng Bắc, Trung, Nam cũng đủ cả. Chỉ điều, không ai giống giọng người lính Bắc ấy. Rồi một hôm, vào một buổi chiều mưa rả rích, có người lính chống gậy qua đò, đưa Khoa một lá thư nhàu nát. Trên đó là nét chữ xiêu vẹo, thấm đẫm mồ hôi và máu:
"Khoa...Tôi không về tìm anh được rồi, không thể cùng anh lái đò bến Hạ. Tôi đi trước, đừng chờ tôi, nhé?"
Người anh hùng hy sinh nhưng ước thề cô đò còn khắc ghi
Người anh hùng ra đi không quay về đau lòng người bến Hạ
Và từ tin đó khách đò trông chờ
Bến Hạ bơ phờ vắng chàng đưa đò
Khoa đọc thư, bàn tay run run, nước mắt rơi xuống ướt đẫm giấy, mờ đi cả những nét chữ cuối cùng. Đêm ấy, bến Hạ vắng lặng. Có người hấy Khoa ngồi bên mái đò suốt đêm, mắt nhìn trân trân về phía bờ xa, môi mấp máy không thành tiếng. Rồi sáng hôm sau, người ta tìm thấy Khoa gục bên mạn đò, gương mặt thanh thản như đang ngủ, đôi môi vẫn còn khẽ nở một nụ cười buồn. Trên tay Khoa, vẫn nắm chặt mảnh thư cũ nát, như sợ nó sẽ bay mất trong gió lộng. Họ chôn Khoa bên bến sông, khắc lên bia một dòng chữ giản dị:
"Trần Anh Khoa – người lái đò bếnHạ"
Rồi trong lửa khói súng giặc điên cuồng
Giết người chung tình bến Hạ u buồn
Người ta kể lại rằng, vào những đêm trăng mờ, giữa làn sương mỏng tang trên mặt sông, vẫn thấy thấp thoáng một bóng người mặc áo lính, đứng bên mái đò, đưa tay về phía người lái đò năm xưa – như một lời hẹn hò chưa kịp trọn, như một mối duyên còn dang dở. Bến Hạ vẫn trôi, nước vẫn chảy, chỉ có người xưa là không trở về nữa.
•
•
•
•
Huỳnh Sơn đưa tay gạt đi nước mắt lăn dài trên gò má người yêu. Hôm nay Anh Khoa tự dưng nổi hứng rủ anh đi xem bói, bảo là muốn xem tiền kiếp hai đứa có duyên với nhau không. Khoa bảo bà thầy bói này đáng tin lắm, mà Sơn chả biết có đáng tin hay không chứ anh thấy hơi đáng ghét, có mỗi câu chuyện chẳng có thật hay không mà người yêu anh khóc 2 tiếng rồi. Sơn dắt tay em người yêu đi dưới ánh nắng nhạt của buổi chiều tối, tiếng còi xe inh ỏi trên đường Nguyễn Trãi, tiếng người bán vé số, tiếng rao bánh mì vỉa hè,..
Hai đứa yêu nhau cũng đã hơn hai năm, Khoa là người đầu tiên Sơn làm quen sau khi cãi lời mẹ, quyết bỏ vào Sài Gòn lập nghiệp. Hắn mở một cái studio nhỏ, sáng tác vài bài hát rồi thu âm cho vài ca sĩ underground. Nói chung là đủ sống, nuôi thêm em người yêu không thành vấn đề.
Bàn tay Khoa trong tay anh vẫn lạnh, nhưng lại xiết chặt lấy anh hơn. Khoa nấc nghẹn, khẽ cất tiếng, giọng run run:
"Sơn... Anh tin không? Mình... là họ thật không? Là Khoa... và Sơn... của bến Hạ năm nào?"
Sơn im lặng, chỉ nhìn sâu vào đôi mắt Khoa, nơi long lanh ánh lệ, mà thấy lòng mình đặc quánh. Rồi anh nghe tiếng em nói khẽ:
"Không phải tự nhiên em rủ Sơn đi xem tiền kiếp đâu... tại dạo này em gặp những giấc mơ lạ lắm... em thấy chúng mình là Khoa và Sơn của bến Hạ năm đó, cảm giác như kí ức ùa về vậy. Nên em mới kêu Sơn đi cùng."
Một lát sau, Khoa ngẩng đầu lên, lau nước mắt lấm tấm trên má, cười gượng gạo:
"Anh... Anh đừng cười em khùng nha... Em biết nghe mấy chuyện tiền kiếp này hơi mê tín, nhưng em... em không hiểu sao cứ mơ thấy như thiệt vậy đó. Mỗi lần tỉnh dậy là tim nhói lắm, đau y như hồi nãy em khóc luôn á... Rồi em mới sợ... lỡ kiếp này mình cũng không đi hết được cùng nhau thì sao..."
Sơn đưa ngón tay chặn nhẹ lên môi Khoa, lắc đầu:
"Không đâu. Kiếp này, anh sẽ không để em chờ nữa. Anh không phải lính trận, em không phải người lái đò... Anh là Nguyễn Huỳnh Sơn, em là Trần Anh Khoa... mình đang ở đây, giữa Sài Gòn này. Anh sẽ nắm tay em, dẫn em đi khắp nơi, không có chiến tranh, không có hy sinh, không có chia xa."
Khoa khẽ cười, nụ cười còn vương nước mắt, mắt long lanh như mặt sông đón nắng chiều tà. Cậu thì thầm:
"Sơn hứa rồi đó nha... Kiếp này phải đi cùng nhau tới già nghe không."
Sơn gật đầu, xiết tay cậu chặt hơn, mắt anh lấp lánh ánh đèn xe và...
Tiếng còi xe tải rít lên, xé toang bầu không khí Sài Gòn cuối chiều oi ả. Sơn vẫn còn đang mỉm cười, nắm tay Khoa, thì bỗng trước mắt anh, một bóng đen khổng lồ lao ập tới – một chiếc xe tải chở hàng, thắng gấp nhưng tiếng phanh rít lên tuyệt vọng, bánh xe nghiến vào mặt đường tóe lửa, rồi... gầm rú lao thẳng lên vỉa hè, hệt như con quái thú điên cuồng xổng khỏi lồng sắt.
Mọi thứ diễn ra trong một nhịp thở ngắn ngủi –
Khoa thấy ánh đèn xe chói lòa hắt thẳng vào mắt mình, cậu hét lên, giọng vỡ ra như tiếng thủy tinh rạn nứt:
"SƠN!"
Cậu xô mạnh Sơn về phía sau, sức mạnh bùng lên từ một góc sâu thẳm nào đó, như thể tất cả sức lực của bao nhiêu kiếp người dồn lại trong khoảnh khắc ấy. Sơn lảo đảo ngã ngửa, trán đập vào góc biển quảng cáo, máu túa ra, nhòe nhoẹt.
Âm thanh va chạm vang lên rợn người – tiếng thép nghiền nát xương thịt, tiếng gầm rú khủng khiếp của động cơ đang nghiến nát mọi thứ trên đường đi của nó. Thân hình Khoa bị hất tung lên không, va mạnh vào cột điện, nghe rõ tiếng "rắc" khô khốc của xương gãy, rồi rơi xuống mặt đường với một âm thanh nặng nề, khô lạnh như bao tải cát vỡ.
Tiếng hét kinh hoàng của người đi đường vang vọng khắp nơi, tiếng phanh xe vẫn riết rít, tiếng kính vỡ, tiếng kim loại méo mó, và giữa tất cả là hình ảnh Khoa nằm bất động giữa vũng máu đỏ tươi loang lổ, đôi mắt mở trừng trừng nhìn về phía Sơn – một ánh nhìn đau đớn, bàng hoàng, và... tiếc nuối
Sơn bò lồm cồm, như kẻ mất hồn, trên mặt đường nóng rát và dính đầy bụi bặm, lao về phía Khoa.
Anh lật người Khoa lên – và trời ơi, máu! Máu vọt ra từ miệng Khoa, từ ngực cậu, từ cả phần bụng bị bánh xe chèn nát bấy! Đôi chân gãy gập một cách quái dị, bàn tay vẫn còn duỗi về phía Sơn, móng tay tím tái cào xước mặt đường.
Sơn gào lên, tiếng gào vỡ toang như xé nát cả buổi chiều:
"KHOA ƠI!!! KHÔNG!!! EM ƠI!!!"
Khoa thều thào, giọng đứt quãng, máu trào ra khỏi khóe môi, trộn lẫn với hơi thở yếu ớt:
"Sơn...ơi...mình... lại... chờ nhau... kiếp sau nhé... Em...sẽ... tìm...tìm Sơn"
Hơi thở của cậu yếu dần, ánh mắt đờ đẫn, rồi chùng xuống như bầu trời sập tối. Máu vẫn không ngừng tuôn, nhuộm đỏ cả vạt áo trắng và lòng bàn tay Sơn đang siết chặt tay cậu. Sơn gào thét như kẻ hóa điên, lay gọi Khoa, đập tay xuống mặt đường, đôi mắt đỏ ngầu, giọng khản đặc:
"KHOA ƠI!!! EM MỞ MẮT RA NHÌN ANH ĐI!!! EM ĐỪNG BỎ ANH MÀ, LÀM ƠN!!!"
Anh cúi rạp người, áp mặt vào má Khoa, thì thầm nức nở như một kẻ lạc lối:
"KHOA ƠI!!! SAO CHÚNG MÌNH LẠI KHỔ THẾ NÀY KHOA ƠI!!!"
Tiếng khóc của Sơn hòa lẫn trong tiếng còi cứu thương, tiếng bước chân hỗn loạn, tiếng người dồn dập gọi nhau...Khoa nằm đó, giữa vũng máu loang lổ, đôi mắt khép hờ, hàng mi khẽ rung lên lần cuối cùng, rồi bất động, đôi môi tím tái vẫn hé mở, còn in đậm một chữ "Sơn" khắc khoải trên bờ môi. Kiếp này, Khoa đi trước. Khoa đã đi rồi. Đi như bọt nước tan vào dòng đời, như chiếc lá rụng xuống sông, như lời hẹn ước chưa kịp thành hình đã vỡ vụn tan tác. Sơn ôm chặt Khoa vào lòng, mặc kệ máu nhuộm đỏ cả người mình.
Sau đám tang Khoa, Sài Gòn dường như trở nên lặng câm với Huỳnh Sơn. Những ngày sau đó, anh như kẻ mất hồn, lang thang giữa phố xá nhạt nhòa, đôi mắt hằn đỏ vằn máu, mái tóc rối bời, quần áo xộc xệch. Tiếng còi xe, tiếng người rao hàng, tiếng nhạc từ quán cà phê lầu trên, tất cả như xa lạ, nhòe nhạt, chẳng thể chạm vào anh được nữa. Anh đã thử sống tiếp, thử ngồi bên cây đàn cũ trong studio Khoa từng hát, thử viết thêm một ca khúc, nhưng... tiếng Khoa gọi anh từ đâu đó vẫn vẳng về, yếu ớt và xa xăm lắm.
Một đêm, khi cơn mưa phùn đầu mùa đổ xuống, Huỳnh Sơn tìm về lại bến Hạ. Con sông năm nào, giờ chỉ còn là một dải nước đục ngầu phù sa, bờ lau lách mọc um tùm, không còn con đò cũ kỹ nữa – chỉ có một tấm bia đá rêu phong cũ kỹ dựng bên bờ, khắc tên người lái đò năm nào:
"Trần Anh Khoa – Người lái đò bến Hạ. "
Sơn đứng lặng trước tấm bia, gió từ sông thổi qua làm mái tóc anh rối bời, hơi nước lành lạnh tạt vào mặt, như bàn tay của Khoa vuốt nhẹ lên gò má anh – bàn tay từng nắm lấy anh giữa phố Sài Gòn hôm nào, từng run run áp lên má anh giữa giấc mơ dở dang.
Sơn cúi đầu, thì thầm trong làn gió khàn khàn:
"Anh đến rồi đây, Khoa... Em chờ anh lâu quá rồi phải không? Anh xin lỗi... Anh đến chậm quá..."
Rồi như người say trong cơn mộng mị, anh lê từng bước chân xuống bờ sông lầy lội, từng bước, từng bước, cho đến khi nước ngập đến đầu gối, đến ngực, rồi cuốn lấy cả thân người anh. Dòng nước lạnh buốt cắn vào da thịt, nhưng Sơn không giãy giụa, không vùng vẫy – anh thả lỏng người, mặc cho nước xiết cuốn đi, mặc cho bầu trời lùi dần xa, mặc cho những đám mây xám xịt trên đầu tan vào nhau thành một màu tro buồn thê lương. Anh nhắm mắt lại, trong đầu vang vọng tiếng Khoa cười khe khẽ, mặc trên người bộ bà ba sờn cũ, dang tay đón lấy người lính trong bộ quân phục xuất hiện từ sau luỹ tre làng.
Khi người ta phát hiện ra xác Sơn, trời đã ngả về chiều, gió sông hun hút thổi từng cơn rát bỏng. Thân người anh trôi dạt về đúng bên bờ, ngay dưới tấm bia mộ cũ kỹ của người lái đò. Như một khúc tình ca dang dở, như một lời hẹn ước khắc khoải –
"Sơn ơi... Khoa chờ anh mãi rồi..."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com