steve job.2
Để ngăn lại chu ỗi hành động gây bất l ợ i c ủa Jobs, S culley đã gọi cho Wozniak và thuy ế t
phục Woz lên ti ếng: “Steve là gã có th ể xúc ph ạm và gây hại cho m ọi ngườ i” - Wozniak nói vớ i
Time ngay tu ần đó. Woz còn ti ết l ộ thêm r ằng Jobs đã đ ề nghị anh tham gia vào công ty m ớ i - Jobs
đã s ử dụng cách x ảo quyệt này đ ể gi áng m ột đòn vào ban qu ản trị hi ện tại c ủa Apple. Còn vớ i báo
San Francisco Chronicle, Wozniak đã thuật l ại vi ệc bị Jobs can thi ệp và dừng các ho ạt động c ủa
Frog Design từ xa v ớ i cái c ớ là đi ều đó có th ể cạnh tranh vớ i các s ản ph ẩm của Apple: “Tôi rất
trông ch ờ m ột s ản ph ẩm tuyệt vờ i và tôi cũng mong là cậu ấ y thành công nhưng tôi không còn
ni ềm tin vào cậu ta nữa”.
Hãy tự đ ứng lên b ằng đôi chân c ủ a bạn:
“Điều đúng đắn nh ất đối vớ i Jobs mà nói thì đó là khi chúng tôi sa th ải anh ta” - Arthur
Rock nói. Theo lý thuyế t thì nh ững tình yêu gặp trở ngại s ẽ làm ngườ i ta trư ở ng thành và hi ểu bi ết
hơn. Nhưng m ọi chuy ệ n không đơn giản như thế. Tại công ty mà Jobs thành lập sau khi bị cách
ch ức t ại Apple, Jobs có th ể th ỏa sức th ể hi ện con ngư ờ i mình, c ả t ốt l ẫn xấu. Ông không bị ràng
buộc. K ết qu ả là m ột lo ạt s ản ph ẩm đặc sắc đã khai sáng cho th ị trườ ng công ngh ệ ảm đạm. Đây
m ớ i là nh ững kinh ngh i ệ m học hỏi đích thực. Những gì đã đưa ông đến vớ i nh ững thành công
không ph ải là vi ệc bị cách chức kh ỏi Apple mà là vi ệc ông h ọc đư ợ c t ừ chính nh ững thất bại c ủa
mình.
Đi ều đầu tiên mà ông làm là thể hi ện ni ềm đam mê c ủa mình v ớ i thi ết kế. ông chọn cho
cô ng ty m ớ i một cái tên r ất c ở i mở : Next (k ế ti ếp). Để khiến nó tr ở nên thật khác bi ệt, ông đã đi họ c
m ột l ớ p thi ết kế logo. Vì th ế, ông k ết thân vớ i Paul Rand, m ột chuyên gia thiết kế logo. Vào năm
1971, nhà thiết kế đồ họa sinh ra tại Brooklyn này đã t ạo ra nh ững logo n ổi tiếng nhất trong ngành
kinh doanh, bao gồm logo cho Esquire, IBM, Westinghouse, ABC, và UPS. Anh ta vẫn đang còn
hợ p đồng vớ i IBM và giám sát viên ở đó nói rằng hiển nhiên anh ta sẽ gặp rắc rối nếu thi ết kế logo
cho m ột công ty khác. Vì thế Jobs đã nhấc đi ện thoại gọi cho giám đ ốc đi ề u hành của IBM, John
Akers. Akes đang không ở th ị tr ấn và Jobs lại nài n ỉ Phó ch ủ t ị ch Paul Rizzo để đượ c thông qua
vi ệc này. Sau kho ảng 2 ngày, Rizzo đã đúc rút được r ằng phản kh áng l ại Jobs là điều vô ích và ông
đã cho phép Rand đượ c làm việc cho Jobs.
Rand bay tớ i Palo Alto và dành th ờ i gian đi bộ, nói chuy ệ n và lắng nghe quan điểm của
Jobs. Máy tính s ẽ có hình lập phương, Jobs tuyên bố. ông yêu hình kh ối. Nó hoàn h ảo mà gi ản đơn.
Vì thế Rand quy ết đị nh logo s ẽ là m ột hình l ập phương v ớ i t ự a đề s ẽ nghiêng 1 góc 280. Khi Jobs
đề nghị Rand thiết kế 1 vài l ựa ch ọn để xem xét thì Rand nói r ằng anh không thi ết kế những mẫu
khác nhau cho khách hàng: “Tôi chỉ gi ải quyết vấ n đề của anh và anh tr ả công tôi.
Anh có th ể s ử dụng s ản ph ẩm tôi làm ra hoặc có th ể không dùng nhưng tôi sẽ không tạo ra
nhiều lựa ch ọn và anh vẫ n sẽ phải trả ti ền cho tôi.”
Jobs rất khâm phục l ối suy nghĩ c ủ a Rand, và ông quy ết đị nh cượ c m ột phen. Công ty s ẽ
phải trả m ột khoản phí l ớ n khoảng 100,00 0 đô - la ch ỉ để có m ột m ẫu thi ết kế. “M ối quan hệ của
chúng tôi rất rõ ràng” - Jobs nói - “Anh ta là một nghệ sĩ chân chính nhưng l ại r ất s ắ c sảo khi giải
quyết các v ấn đề kinh doanh. Rand có v ẻ ngoài c ứ ng nhắc, trông có v ẻ thô l ỗ nhưng th ực ra l ại r ấ t
nhẹ nhàng”. Đó là m ột trong nh ững l ờ i đánh giá cao nhất mà Jobs t ừng nói: chân chính như một
nghệ sĩ.
Rand chỉ m ất hai tu ần và quay tr ở l ại để đưa t ận tay Jobs k ết qu ả công vi ệc. T ại nhà Jobs ở
W oodside, họ đã cùng ăn t ối, sau đó Rand đưa ông một cu ốn sổ tay nhỏ đượ c thi ết k ế r ực r ỡ nhưng
rất tao nhã, cu ốn sổ mô t ả quá trình tư duy của ông. ở trang cuối, Rand trình bày v ề logo mà ông
ch ọn: “Trong thiết kế này, sự phối màu, phương hướ ng, logo này đích th ị là m ột trư ờ ng h ợ p tiêu
bi ểu cho s ự tương ph ản”. “Logo đ ượ c thi ết k ế vui nhộn vớ i việc cách đi ệu góc, xoay nghiêng khối,
không hề ki ểu cách và th ể hi ện rõ nét s ự thân thiện và gần gũi như m ột bi ểu tư ợ ng Giáng sinh hay
dấu tri ện xác nhận trên nh ững con tem cao su. Ch ữ “next” đư ợ c chia thành 2 dòng và vi ết vừa vặn
trong các ô vuông trên cùng một m ặt c ủa kh ối l ập phương và chỉ có riêng ch ữ “e” đư ợ c vi ết
thư ờ ng. Ch ữ e trở nên nổ i trội, theo quyể n sổ của Rand gi ải thích thì nó bao hàm nghĩa các nghĩa:
“giáo d ục (education), xu ất s ắc (excellent)... e=mc(^®)”.
R ất khó đoán trướ c Jobs sẽ phản ứng thế nào vớ i màn giớ i thi ệu m ột s ản ph ẩm m ớ i c ủa
Rand. ông có thể coi nó là rác rưở i, cũng có th ể cho nó là xu ất chúng, không ai bi ết ch ắc đư ợ c
những suy nghĩ củ a ông. Nhưng vớ i m ột chuyên gia thiết kế huyề n thoại như Rand thì r ất có th ể
Jobs sẽ gây áp lực vớ i b ản đồ Ấn đó. ông nhìn chằm ch ằm vào trang cu ối cùng r ồi l ại nhìn Rand ròi
cu ối cùng ông ôm ch ầm lấ y anh ta. Họ ch ỉ có m ột chút không đ ồng tình v ớ i nhau trong thiết kế:
Rand dùng màu vàng sậ m cho chữ “e” nhưng Jobs l ại mu ốn đổi tông màu s áng hơn như s ắc vàng
nguyên th ủ y. Rand đ ấm m ạnh tay xu ống bàn và tuyên bố: “Tôi đã làm vi ệ c này 50 năm r ồi và tôi
bi ết tôi đang làm cái gì”. Jobs d ị u lại.
Vậ y là công ty không chỉ có logo m ớ i mà còn có cả tên mớ i. Ngay trướ c đó tên công ty còn
là Next, bây gi ờ thì đã thành NeXT. Những ngư ờ i khác có lẽ s ẽ không hi ểu đư ợ c sự ám ảnh đ ằng
sau một m ẫu logo, cũng có thể nó không đáng vớ i cái giá 100.000 đô nhưng v ớ i Jobs, NeXT là s ự
khở i đầu cho một cu ộc sống mớ i vớ i bộ nhận di ệ n thương hi ệu mang đ ẳng c ấp qu ốc t ế m ặc dù
công ty chưa thự c sự s ản xu ất ra m ột s ản ph ẩm nào. Như Markkula đã d ạ y ông, m ột công ty lớ n
phải có kh ả năng khiến mình tr ở nên có giá tr ị t ừ những ấn tư ợ ng đ ầu tiên.
Thêm vào đó, Rand còn đồng ý sẽ thiết kế danh thiếp cá nhân cho Jobs, ông đã thi ết kế nó
s ặc sỡ như ý thích của Jobs nhưng cuối cùng họ l ại nổ ra m ột cu ộ c tranh cãi r ất căng th ẳng v ề vị trí
của dấu ch ấm sau chữ “P” trong tên “Steven p. Jobs”. Rand đã đ ặt dấu ch ấ m ở bên ph ải ch ữ “P.”
như ki ểu thông d ụng lúc bấ y gi ờ nhưng Steve lại thích dấu ch ấm về bên trái ngay dướ i ph ần cong
của ch ữ “P.” như ki ểu ch ữ k ỹ thuật s ố. Và lần này thì Jobs đã th ắng. Susan Kare nhớ l ại: “Đó th ự c
s ự là m ột cu ộc cãi vã l ớ n về những thứ nhỏ nhặt”.
Để chuy ển logo NeXT sang s ản ph ẩm th ực, Jobs cần m ột chuyên gia thi ết kế công nghi ệp
mà ông tin tưở ng, ông nói chuy ệ n vớ i m ột vài ứng c ử viên nhưng không ai trong số họ gây ấn
tư ợ ng v ớ i ông nhi ều như Hartmut Esslinger - m ột ngườ i Bavaria ngông cu ồ ng - ngư ờ i đã đư ợ c
nhận vào
Apple làm việc, cũng là ngư ờ i có những mẫu thi ế t kế đượ c ch ọn cho một s ố cửa hàng tại
thung lũng Sillicon và cũng là ngư ờ i nh ận đư ợ c m ột hợ p đồng béo bở nhờ s ự giúp đ ỡ củ a Jobs.
Thuyết ph ụ c IBM cho phép Paul Rand làm việc cho NeXT là m ột điều kỳ di ệu, nó đã khích l ệ ni ềm
tin có chút không th ự c t ế của Jobs. Vi ệc làm này cũng không th ể đem ra só s ánh vớ i vi ệc thuy ế t
phục Apple cho phép Esslinger làm vi ệ c cho NeXT đượ c.
Suy nghĩ đó cũng không th ể khiến Jobs cố ch ấp th ử. Đầu th áng 11 năm 1985, khoảng 5
tu ần sau khi Apple kh ở i ki ện Jobs, ông vi ết thư xin phép Eisenstat: “Cu ối tu ần này, tôi đã nói
chuy ệ n vớ i Hartmut Esslinger và anh ta nói tôi nên viết m ột bức thư ngắn cho c ậu gi ải thích lí do
tôi mu ốn cậu ấ y làm việc và thi ết k ế cho các s ản ph ẩm mớ i c ủa NeXT”. Thật đ áng ngạc nhiên, Jobs
bi ện minh rằng ông không bi ết chi ti ết trong các s ản ph ẩm của Apple nhưng Esslinger thì biết.
“NeXT hoàn toàn không bi ết về các đị nh hướ ng hiện tại l ẫn tương lai cho các thi ết kế s ản ph ẩm
của Apple và cũng không làm vi ệc vớ i b ất c ứ công ty thiết k ế nào khác nên những m ẫu thi ết k ế s ản
phẩm của hai hãng s ẽ ch ỉ vô tình gi ống nhau. Để đ ả m bảo rằng chuyện này không di ễn ra, cả Apple
và NeXT ch ỉ còn bi ết đặt ni ềm tin vào cách làm việc chuyên nghi ệp củ a Hartmut.” Lúc đó,
Eisenstat đã rất s ửng s ốt v ề s ự táo b ạo của Jobs và ông đã trả l ờ i c ộc l ốc r ằng “Lúc trư ớ c tôi đã thay
m ặt Apple thể hi ện quan đi ểm của mình khi anh th ực hi ện công vi ệ c kinh doanh c ủa mình mà s ử
dụng những thông tin kinh doanh bí m ật c ủa Apple. Câu nói ‘hoàn toàn không biết về các đị nh
hướ ng hi ện tại l ẫn tương lai cho các thi ết kế s ản ph ẩm của Apple’ trong b ức thư c ủa anh không h ề
làm gi ảm sự quan tâm của tôi mà thậm chí còn đẩy nó lên cao hơn, câu nói đó chẳng đúng s ự th ật
chút nào.” L ờ i đề nghị còn khi ến Eisenstat cảm th ấ y kinh ng ạ c hơn chính là ch ỉ m ột năm trư ớ c,
chính Jobs là ngườ i đã bu ộc Frog Design ng ừng hoạt động thiết kế thiết bị đi ều khiển từ xa c ủa
Wozniak.
Jobs nhận ra rằng đ ể đượ c làm việc vớ i Esslinger (vì m ột s ố lý do khác nhau) thì c ần ph ải
gi ải quyết ngay vụ ki ện vớ i Apple. Th ật may là Scull ey cũng đ ị nh như vậ y. Tháng giêng năm 1986
thay vì cùng ra tòa, h ọ đã đi đ ến m ột th ỏ a thu ận không gây tổn hại về tài chính. Apple s ẽ thôi theo
đuổi vụ ki ện, đổi l ại NeXT buộc ph ải ch ấp nh ận m ột s ố hạn ch ế: trư ớ c th áng 3 năm 1987, s ản
phẩm của NeXT s ẽ đượ c ti ếp th ị như m ột máy tính cao c ấp và ch ỉ đượ c bán tr ực tiếp cho các
trườ ng cao đẳng, đ ại học mà không đư ợ c bán sang th ị trườ ng khác”. Apple cũng khăng khăng các
máy móc của NeXT “không sử dụng h ệ đi ều hành tương thích vớ i Macintosh” mặc dù ngư ờ i ta
tranh c ãi rằng Apple có th ể có l ợ i hơn n ếu đưa ra quyết đị nh ngư ợ c l ại.
Sau khi gi ải quyế t xong, Jobs ti ếp t ục “mua chu ộc” Esslinger cho đến khi chuyên viên thiết
kế này dừng hợ p đồng vớ i Apple. Đi ều đó giúp cho các thiết k ế của NeXT ra mắt k ị p vào cuối năm
1986. Esslinger cũng nói vớ i Jobs là mu ốn có th ờ i gian làm vi ệc tho ải mái như Paul Rand: “Thỉ nh
thoảng b ạn ph ải ‘dùng g ậ y’ v ớ i Steve” - Esslinger nói. Như Rand, Esslinger cũng giống một nghệ
sĩ và Jobs cũng s ẵn sàng tạo đi ều ki ện làm việc đặ c bi ệt cho anh ta.
Jobs ra ch ỉ th ị là các máy tính phải có hình hộp hoàn hảo vớ i các c ạnh có đ ộ dài b ằng nhau
và các góc chính xác bằng 90 đ ộ. Ông ấ y thích hình lập phương. Nó có dáng v ẻ sang tr ọng nhưng
l ại mang hơi hư ớ ng như m ột th ứ đồ chơi . Nhưng kh ối l ập phương NeXT là một ví dụ đi ển hình về
nhu cầu thi ết kế “đ ặc Jobs”. Các b ảng mạ ch đi ện đư ợ c thi ết kế phù hợ p vớ i dạng hình h ộp pizza
nay đư ợ c tái cấu hình và xếp chòng khít vào nhau thành dạng hình h ộp.
Tệ nữa là các khối hình hộp vớ i các chỉ s ố chính xác như th ế rất khó s ản xu ất. H ầu hết các
phần như thế đều ph ải r ậ p theo khuôn v ớ i các góc lớ n hơn 90 độ m ột chút đ ể dễ gỡ thành ph ẩm ra
khỏi khuôn (cũng như vi ệc làm bánh vớ i nh ững khuôn lớ n hơn 90 độ s ẽ dễ l ấ y bánh ra hơn).
Nhưng Esslinger đư ợ c ch ỉ th ị làm th ế và Jobs thì r ấ t hào h ứng v ớ i ý tưở ng đó, không thể để những
“góc lỗi” như th ế làm hỏ ng s ự hoàn h ảo và tinh khi ết c ủa hình l ập phương đượ c. Vì v ậ y họ đã phải
s ản xu ất các c ạnh riêng, sử dụng các khuôn có giá 650.000 đô - la v ớ i m ột máy s ản xu ất đặc bi ệt ở
Chicago. Đam mê s ự hoàn h ảo của Jobs đã vư ợ t quá t ầm kiểm soát khi ông để ý đến một đư ờ ng k ẻ
nhỏ bên sư ờ n của khuôn, đư ờ ng k ẻ đó là đi ều không thể tránh khỏi và hoàn toàn ch ấp nh ận đư ợ c
trong việ c sản xu ất máy tính. Nhưng ông đã đáp chuyến bay đ ến Chicago và thuyết ph ụ c nhà sản
xuất làm l ại nh ững khuôn dập cho hoàn hảo. “Không có nhi ều khuôn d ập đư ợ c ngườ i n ổi tiếng bay
đến thăm đâu,” một trong nh ững k ỹ sư nhấn m ạnh. Jobs cũng nh ờ công ty này mua m ột máy chà
nhám trị giá 150.000 đô - la đ ể xóa hết t ất c ả các đư ờ ng k ẻ mà c ác khuôn vẫn thườ ng g ặp ph ải và
khăng khăng r ằng magiê dễ làm lộ các nhượ c đi ể m hơn khi b ề m ặt nó chuy ể n sang màu đen.
Jobs luôn trăn tr ở rằng những phần không nhìn thấy của sản ph ẩm phải đư ợ c làm thủ công
đẹp như b ề ngoài c ủa nó, như cha Jobs đã dạ y ông đ i ều đó khi h ọ cùng nhau d ựng m ột cái hàng rào.
Tính cách này đã đạt đến cực điểm khi cái tôi của ông đượ c NeXT giải phóng, ông đ ảm bảo t ất các
ốc vít bên trong máy đều đư ợ c mạ đắt tiền. Ông ấ y cũng nh ất quyết là nh ững b ề m ặt bị m ờ đen bên
trong ph ải đư ợ c sơn phủ cẩn th ận m ặ c dù ch ỉ có những thợ s ửa máy m ớ i nhìn th ấ y nó.
Trong một bu ổi họp nhân viên của NeXT, Joe Nocera - phóng viên Esquire, đã nhận xét
cách mà Jobs tham gia buổi họp như sau:
Nói là ông ấ y đang ngồi h ọp nhân viên thì cũng không đúng b ở i thực ra thì chẳng phải Jobs
đang ngồi họp hành gì hế t, m ột trong nh ững cách điều ph ối bu ổi họp của Jobs là vi ệc ông c ứ l ục
đục, ch ẳng ngồi yên lúc nào c ả. Lúc thì tôi th ấ y ông ta quỳ xuống ghế, lúc sau l ại th ấ y ng ồi thư ờ n
thư ợ t, lúc sau nữa l ại thấ y ông ta nhả y hẳn kh ỏi cái gh ế và ngu ệ ch ngo ạ c vài nét ở cái b ảng phía sau
lưng, ông ta quá là ki ểu cách, ông ta cắn móng tay, nhìn ch ằm ch ằm vào những ngư ờ i đang nói
khiến họ m ất tinh thần. Đôi tay ngả vàng khó hi ểu của ông ấ y thì cứ chuy ển động không ngừng.
Đi ều gây ấn tư ợ ng mạnh cho Nocera là Jobs “xử trí m ọi vi ệc thi ếu khéo léo và r ất ngoan
cố”. “Không phải là ông ta không bi ết cách che giấu cảm xúc, ý kiến của mình khi có ai đó nói ra
đi ều mà ông ta cho là ngu ngốc, ông ta hoàn toàn nh ận thức đư ợ c và luôn tỏ ra ng ang ng ạnh, ngoan
cố; luôn hạ nhục ngườ i khác và tỏ ra là mình thông minh hơn h ọ. Ví dụ như khi Dan’1 Lewin nộp
bản cơ cấu tổ ch ức công ty, Jobs đ ảo m ắt qua r ồi nh ận xét: “ĐÒ bỏ đi”. Và hòi còn ở Apple, tính
cách c ủa ông ta cũng luôn như v ậ y. M ột nhân viên kế toán tham gia bu ổi họp và Jobs đã không
ngớ t l ờ i ca t ụng v ớ i anh ta r ằng “đư ợ c, đư ợ c, cậu làm t ốt đấ y” trong khi m ớ i hôm trư ớ c Jobs còn
quẳng vào m ặt anh ta m ộ t câu r ằng: “Mày làm cái c ứt gì đây”.
M ột trong 10 nhân viên đ ầu tiên c ủa NeXT là một chuyên gia thiết kế nội th ất cho tr ụ s ở
công ty t ại Palo Alto. M ặc dù văn phòng đó đư ợ c Jobs thuê mớ i và đã đư ợ c thi ết kế s ẵn rất đẹp rồi
nhưng Jobs vẫn phá toàn b ộ bên trong và xây m ớ i l ại. Các bức tư ờ ng đượ c thay bằng kính, các tấm
th ảm thì đượ c thay hết bằ ng sàn gỗ s áng bóng. Đế n năm 1989, quá trình đó l ại đư ợ c l ặp lại khi
NeXT chuyể n t ớ i một khu văn phòng l ớ n hơn ở Redwood City. Mặc dù tòa nhà đượ c xây khá hi ện
đại nhưng Jobs v ẫn khăng khăng là thang máy mà đư ợ c chuy ể n sang phía hành lang của l ối vào thì
s ẽ ấn tư ợ ng hơn. C ậ y quyền, Jobs đã ra lệnh cho I. M. Pei thi ết kế m ột c ầu thang lớ n tựa như đang
lư ớ t trong không trung v ậ y. Chủ th ầu nói r ằng không th ể xây đư ợ c nhưng thế nhưng Jobs khăng
khăng là có thể và đúng như v ậ y, vài năm sau đó, Jobs đã xây đượ c nh ững cầ u thang như th ế t ại các
chuỗi c ửa hàng của Apple.
Máy tính
Trong nh ững tháng đầu tiên t ại NeXT, Jobs và Dan’1 Lewin cùng một s ố đ ồng nghi ệp đi
đến các trườ ng đ ại học và trưng c ầu ý kiến, ở Harvard, họ gặp Mitch Kapor, chủ t ị ch c ủa ph ần
m ềm Lotus và cùng ăn tố i t ại nhà hàng Harvest. Khi Kapor b ắt đầu ph ết bơ lên bánh m ỳ, Jobs hỏi
ông ta: “ông đã bao gi ờ nghe nói về cholesterol trong máu chưa?” Kapor trả l ờ i: “Tôi có th ỏa thu ận
th ế này nhé, anh không nói gì về cách ăn u ống c ủa tôi và tôi cũng sẽ miễn bình lu ận về tính cách
của anh”. Nó có vẻ hài hư ớ c nhưng sau đó Kapor đã nói rằng: “giao tiếp không phải là th ế m ạnh
của anh ta”. Lotus đã đồng ý vi ết m ột chương trình lập trình máy tính điện tử phù hợ p vớ i hệ đi ề u
hành c ủa NeXT.
Jobs muốn gói g ọn nh ững n ội dung tiện ích ngay trong một chi ếc máy, vì th ế k ỹ sư Michael
Hawley đã phát triển t ừ đi ển điện t ử. Anh ta nh ớ l ại r ằng có một ngườ i b ạn củ a anh t ại nhà xuất b ản
đại học Oxford đã từng tham gia vào việ c sắp ch ữ để biên tập các tác ph ẩm của Shakespear. Đi ều
đó có nghĩa là bàn tay con ngườ i có th ể tác đ ộng tr ực tiếp vào băng máy tính và tích h ợ p nó vào bộ
nhớ của NeXT. “Vì thế tôi đã gọi cho Steve và ông ấ y nói điều đó th ật tuy ệ t vờ i vì th ế chúng tôi
cùng bay tớ i Oxford”. Vào một ngày đẹp trờ i mùa xuân năm 1986, h ọ gặp nhau tại tòa nhà xu ất
bản lớ n nằm ở ngay trung tâm Oxford, ở đây, Jobs đã đưa ra giá đ ề nghị mua bản quyền xu ất bản
vớ i các tác phẩm đã biên tập của Shakespear v ớ i giá 2.000 đô - la và c ộng v ớ i 74 xu khi m ỗi máy
tính đư ợ c bán ra. Jobs tranh lu ận: “Nó là m ột món l ờ i quá d ễ ki ếm vớ i các ông. Trư ớ c đây chưa
t ừng có ti ền lệ th ế này, các ông s ẽ là nh ững ngư ờ i đầu tiên”. H ọ đồng ý vớ i th ỏa thu ận như vậ y rồi
cùng nhau ra ngoài tán gẫu, nói chuyện tầm phào tại quán bia mà Lord Byron thườ ng u ống. Tại
th ờ i điểm đượ c tung ra thị trườ ng, NeXT có c ả t ừ đi ển đơn, bộ t ừ đi ển l ớ n và Từ đi ển các trích d ẫn
của Oxford đã bi ến nó tr ở thành một trong nh ững ngư ờ i tiên phong trong ý tư ở ng thực hi ện nh ững
cu ốn sách đi ện tử tìm ki ế m dễ dàng.
Thay vì s ử dụng chip x ử lý d ạng giá cho NeXT, Jobs nhờ các kỹ sư thiết kế m ột con chip
tích hợ p th ật nhi ều tính năng. Nhiệm vụ như th ế đã quá đủ nặng n ề rồi nhưng Jobs c òn mu ốn th ực
hi ện đi ều gần như không thể là ti ếp tục hi ệu ch ỉ nh các tính năng mà ông ấ y muốn. Sau m ột năm,
đi ều đó rõ ràng đã gây tr ở ngại và làm ch ậm tiến độ.
Ông cũng kiên quyết xây d ựng m ột nhà máy hoàn toàn t ự động và mang tầm vóc của tương
lai (tương t ự như khi ông nghĩ đ ến vi ệ c sáng t ạo Macintosh), sau Macintosh, dườ ng như ông vẫn
chưa rút ra đư ợ c bài h ọc nào cho mình và l ần này ông đã phạm sai lầm tương t ự, th ậm chí còn quá
đáng hơn. Máy móc và ngư ờ i máy đư ợ c sơn đi sơn lại vì ông bu ộc chúng phải có màu như ông
thích. Các b ức tư ờ ng đượ c sơn kiểu màu trắng như trong các bảo tàng, đây cũng là màu sơn đượ c
s ử dụng trong các nhà máy sản xu ất Macintosh, ở đó còn có thêm những chiếc gh ế da đen giá
20.000 đô - la và m ột c ầu thang đượ c xây riêng, y như t ại cá c trụ s ở . ông còn cương quyết là dây
chuy ề n thi ết bị dài 165 phút Anh (feet) ph ải l ắp ráp thiết bị theo chiều từ phải sang trái như đã xây
dựng. Vì thế những khách tham quan có thể xem quy trình dễ dàng hơn từ các khu quan sát. Những
bảng m ạch r ỗng đượ c đư a vào một đ ầu, không dùng bất c ứ nhân lực nào và chỉ 20 phút sau, đầu kia
s ẽ cho ra m ột bảng mạch hoàn chỉ nh. Quá trình đư ợ c theo dõi b ở i nguyên t ắ c kanban của ngườ i
Nhật là mỗi máy móc chỉ ti ếp nh ận nhi ệm vụ của mình khi máy ti ếp theo đã sẵn sàng nh ận tiếp một
phần vi ệc nữ a.
Jobs không m ả y may nghĩ đến cách gi ải quyế t vớ i các nhân công hiện có. Tribble nhận xét
là: “ông ấ y đã sỉ nhục m ột cách công khai mà hay ho là l ần nào ông cũng có lý do rằng việc mình
làm đem l ại hi ệu qu ả”. Nhưng th ỉ nh tho ảng thì cũng có những trườ ng h ợ p ngoại lê. K ỹ sư David
Paulsen đã làm vi ệc 90 tiếng / tuần trong 10 tháng đầu tiên làm vi ệc t ại NeXT nhưng “khi đi tản bộ
vớ i Steve vào m ột chi ều thứ 6, Steve đã nói là ông ta chẳng có tý ấn tư ợ ng nào về những gì tôi đang
làm” và David b ỏ vi ệc ngay sau đó. Khi tu ần báo Business Week hỏi Jobs là t ại sao ông lại đối xử
khắc nghiệt v ớ i nhân viên như v ậ y, Jobs tr ả l ờ i r ằng đi ều đó tốt cho công ty. “M ột vài ngư ờ i không
quen v ớ i một môi trư ờ ng luôn mưu c ầu sự hoàn h ả o. Phần trách nhiệm của tôi là luôn đảm bảo các
s ản ph ẩm đều ph ải đạt chu ẩn ch ất lư ợ ng”. Nhưng ông vẫn gi ữ v ữn g tinh thần và uy tín c ủa mình.
M ặc dù tham gia vài chuy ế n thực đị a, gặp gỡ các võ sư aikido và thu mình tĩnh tâm nhưng ông vẫn
gi ữ nguyên b ản tính nóng nả y, khó ch ị u của mình. Sau khi sa thải công ty đã th ực hi ện qu ảng cáo
“1984” - Chiat/Day, Apple đã đăn g m ột qu ảng cáo trên báo v ớ i nội dung “Chào m ừng IBM -
nghiêm túc đấ y”. Jobs sau đó cũng quảng cáo nguyên trang trên tạp chí Wall Street Journal vớ i
thông báo là, “Chúc mừng Chiat/ Day - Nghiêm túc đấ y... b ở i vì tôi đ ảm bảo rằng sau khi r ờ i bỏ
Apple, cu ộc sống mớ i th ực sự bắt đầu”.
Có l ẽ đi ểm chung l ớ n nh ất gi ữa nh ững ngày làm vi ệc t ại Apple và sau khi r ờ i đi đó là Jobs
vẫn gi ữ nguyên cái “tri ết lý bóp méo s ự th ật” c ủa mình. Nó đư ợ c đưa ra trong bu ổi dã ngoại đầu
tiên của công ty tại bãi bi ển Pebble vào cuối năm 1985. Tại đó Jobs đã tuyên b ố rằng máy tính đầu
tiên của NeXT s ẽ đượ c bán và chuyể n đi hết trong vòng 18 tháng. Rõ ràng là đi ều này là không
tư ở ng nhưng Jobs đã lờ lờ i gợ i ý c ủa m ột kỹ sư r ằ ng vi ệc này chỉ có th ể tr ở thành hiện th ực nếu kế
hoạch v ận chuyển đó rờ i ngày đến năm 1988. “Chúng ta làm đượ c điều đó, th ế gi ớ i s ẽ không đứng
yên đâu, công nghệ thì c ứ trôi vùn v ụt ròi tất c ả những gì chúng ta đã làm lại ph ải vứt đi hết thôi”
- ông tranh cãi.
Joanna Hoffman, m ột thành viên k ỳ cựu củ a nhóm thực hi ện Macintosh thì l ại t ỏ ra thách
th ức Jobs: ‘“Bóp méo s ự th ật’ có giá trị mang tính thúc đẩ y và tôi nghĩ là nó cũng t ốt thôi.” Cô này
nói khi Jobs đ ứng trướ c bảng tr ắng. “Tuy nhiên, khi đ ặt ra m ột ngày hạn ròi ngày h ạn đó ảnh
hưở ng đ ến vi ệc thi ết kế thì chú ng ta s ẽ gặp rắ c rối l ớ n đấ y”. Jobs phản đối: “Tôi lại nghĩ là đôi khi
chúng ta ph ải lái m ọi th ứ theo ý ta và n ếu chúng ta đ ể cơ h ội tu ột m ất thì uy tín c ủa chúng ta cũng
s ẽ gi ảm dần”. Còn một đi ều mà m ọi ngườ i mong đ ợ i nhưng ông không đ ề c ập đến là việ c để hụt
m ục tiêu cũng sẽ khiến công ty m ất m ột khoản tiề n. V ớ i đi ều ki ện không đ ạt doanh thu và gi ữ
vững t ốc độ chuy ển hàng trong vòng 18 th áng thì Jobs ph ải ký qu ỹ đảm bả o trị giá b ả y tri ệu đô.
Ba tháng sau, khi h ọ tr ở l ại bãi bi ển Pebble chuẩn bị cho bu ổi dã ngo ại tiếp theo, Jobs b ắt
đầu chuỗi châm ngôn c ủa mình b ằng câu: “Tu ần trăng m ật đã kết thúc”. Vào đ ợ t nghỉ th ứ 3 ở
Sonoma (th áng 9 năm 1986), kế hoạ ch làm vi ệc dầ n trôi qua và có v ẻ như họ s ẽ đạt đư ợ c m ục tiêu
tài chính đề ra.
Vị cứu tinh - Perot
Cuối năm 1986, Jobs g ửi cho các công ty đ ầu tư m ột bản đề án m ờ i họ đ ầu tư 10% cổ phần
vào NeXT (tương đương 3 tri ệu đô - la). Đi ều đó đã giúp ư ớ c lư ợ ng đượ c t ổ ng giá trị công ty là
khoảng 30 triệu đô, s ố li ệ u này không rõ Jobs lấ y đư ợ c t ừ đâu. G ần 7 triệu đô đã đư ợ c chi dùng cho
công ty và giờ còn l ại một ít đ ể trang tr ải nh ững thứ như: logo tinh xảo, nh ững văn phòng hợ p mốt.
Không doanh thu, không sản ph ẩm cũng chẳng có hy vọng gì t ừ th ị trườ ng. Cũng không ng ạ c
nhiên khi tất c ả các doanh nghiệp đều từ ch ối đề nghị đầu tư của Jobs.
Tuy nhiên lại có m ột chàng cao b ồi chú tâm đ ến nó - Ross Perot, anh chàng ngườ i Texas
lo ắt cho ắt, ngư ờ i s áng l ậ p nên h ệ th ống d ữ li ệu đi ện tử (Electric Data System) và bán nó cho
General Motors vớ i giá 2,4 t ỷ đô - la, đã vô tình trông th ấ y nh ững tài liệu PBS, Nhữ ng chủ doanh
nghi ệp, trong đó có ph ần về Jobs và NeXT vào tháng 11 năm 1986. Ông ngay l ập t ứ c đồng c ảm vớ i
Jobs, ông th ấ y họ trên chương trình tivi và nói r ằng “tôi s ẽ giúp họ”. Perot ngay ngay ngày hôm sau
đã g ọi đi ện cho Jobs như cách Sculley v ẫn thườ ng làm m ột cách kỳ l ạ: “N ế u anh c ần m ột ngườ i
đầu tư thì g ọi l ại cho tôi”.
Thực sự là Jobs r ất, rất c ần và đã g ọi l ại cho Perot nhưng ông cũng r ất c ẩn th ận để không
bi ểu lộ nó ra bên ngoài. M ột tu ần trôi qua Ross mớ i gọi l ại. ông c ử m ột chuyên gia phân tích đ ể
ướ c lư ợ ng l ại giá tr ị của NeXT nhưng Jobs đã trự c tiếp làm việc cùng để x ử lý vi ệ c này. Sau đó
Perot đã thốt lên r ằng mộ t trong nh ững điều hối hậ n lớ n nh ất trong đờ i là ông ấ y đã không mua
Microsoft hay một lư ợ ng l ớ n cổ phần của công ty này khi chàng thanh niên tr ẻ Bill Gates tớ i
Dallas thăm ông vào năm 1979. Th ờ i điểm Perot g ọi cho Jobs, Microsoft vừa mớ i ra mắt v ớ i trị giá
m ột t ỷ đô. Perot đã m ất đi cơ hội ki ếm đượ c bội tiền và m ột phi v ụ đ ầu tư đáng giá. Và ông quyế t
s ẽ không để vi ệc này tái diễn lần nữa.
Jobs đưa ra cho Perot một đ ề nghị có giá trị gấp 3 l ầ n so vớ i đ ề nghị cho các nhà đầu tư mạ o
hi ểm vài tháng trướ c đó. V ớ i 20 tri ệu đô, Perot có th ể nhận đư ợ c 16% v ốn cổ phần trong công ty
sau khi Jobs đ ầu tư thêm 5 tri ệu đô vào. Đi ều này có nghĩa là công ty s ẽ có t ổng giá trị là 126 tri ệu
đô. Nhưng tiền không phải là v ấn đề l ớ n đối vớ i Perot. Sau khi g ặp m ặt Jobs, ông ta tuyên b ố là s ẽ
tham gia, ông bảo Jobs rằ ng: “tôi chọn ngườ i đua ngự a, anh s ẽ t ự ch ọn ng ự a và cư ỡ i chúng. Anh là
ngư ờ i mà tôi đ ặt tiền cư ợ c và anh t ự phải bi ết tính toán vớ i nó”.
Perot mang đến cho NeXT m ột món tiền cứu sinh trị giá 20 tri ệu đô: ông ấ y đư ợ c ví như
ngư ờ i c ổ động tinh th ần cho toàn công ty và có thể vay khoản tiền lớ n bằng uy tín của mình. “Đối
vớ i m ột công ty m ớ i thành l ập, đây là động thái đem đến ít r ủi ro nh ất 25 năm qua trong ngành
công nghi ệp máy tính mà tôi t ừng thấ y”, ông nói vớ i t ờ New York Times - “Chúng tôi có nh ững
ngư ờ i gi ỏi trong ch ế t ạo ph ần cứng. Steve và toàn bộ nhóm làm vi ệc của NeXT là những ngư ờ i c ầ u
toàn kinh khủng nhất mà tôi t ừng biết.”
Perot cũng đưa Jobs tham gia vào các hoạt động du l ị ch trong giớ i kinh doanh, ông ấ y đưa
Jobs tớ i bữa t ối c ủa gi ớ i thư ợ ng lưu mà Gordon and Ann Getty tổ ch ức cho vua Juan Carlos I củ a
Tây Ban Nha t ại San Francisco. Khi nhà vua h ỏi Perot là ngài nên gặp ai, Perot ngay l ập tức gi ớ i
thiệu Jobs. Chẳng m ấ y ch ốc họ cùng đàm đ ạo vớ i nhau về cái mà Perot g ọi là “cu ộc đối tho ại đi ện
t ử”. Jobs đã r ất hào h ứng mô tả làn sóng tiếp theo trong công ngh ệ tin h ọc. Cuối cùng, v ị vua
nguệ ch ngo ạ c vài chữ và đưa cho Jobs. “Chuy ện gì đấ y?” - Perot h ỏi. Jobs nói r ằng: “Tôi đã bán
cho vị ấ y m ột cái máy tính”.
Chuyện này và nhi ều câu chuyệ n khác nữa đư ợ c t ổng h ợ p thành loạt truyệ n th ần thoại về
Jobs mà Perot đem kể ở bất c ứ đâu mà ông tớ i. Khi tham gia câu lạc bộ báo chí quốc gia ở
Washington, ông đã thêu dệt câu chuyệ n về cu ộc đờ i Jobs như một thanh niên nghèo khó, t ội
nghi ệp, không đủ ti ền để học đại học, làm vi ệ c khuya t ại các ga- ra, vui đùa cũng nh ững con chip
máy tính là thói quen củ a anh, và ngườ i cha - có di ện m ạo như một nhân vật trong tranh c ủa
Norman Rockwell - đã nói vớ i Steve r ằng “Steve, hoặc là con làm ra th ứ gì đó có thể bán đượ c,
không thì đi làm đi”. 60 ngày sau đó, anh chàng này đã t ạo ra chi ế c máy tính Apple đ ầu tiên, nó
đượ c đựng trong chi ế c hộp bằng g ỗ mà cha đã làm cho anh. Và chàng thanh niên m ớ i ch ỉ t ốt
nghi ệp THPT này đã làm thay đ ổi c ả th ế gi ớ i.
M ột đi ều có th ật là Paul Jobs th ực sự trông giống một nhân vật trong b ứ c họa của
Rockwell. Và có lẽ đi ều đáng nói cuối cùng là Jobs đang thay đổi c ả th ế gi ớ i và Perot tin chắ c vào
đi ều đó. Cũng giống Sculley, ông ta nhìn thấ y chính mình trong Jobs, ông đã nói vớ i phóng viên
David Remnick của Washington Post như sau: “Steve giống tôi. Số m ệnh c ủa chúng tôi gi ống
nhau, chúng tôi là những ngư ờ i bạn tâm giao”.
Gates và NeXT
Bill Gates thì không phải là một ngườ i b ạn tri kỷ. Jobs đã thuy ết ph ụ c Bill s ả n xu ất các ứng
dụng phần mềm cho Macintosh và nó đã trở thành ngu ồn l ợ i kh ổng lò c ủa Microsoft. Nhưng Gates
là ki ểu ngườ i đối nghị ch v ớ i tri ết lý bóp méo s ự th ật c ủa Jobs và kết quả là ông quyết đị nh không
vi ết ph ần m ềm dành riêng cho hệ máy tính của NeXT. Gates t ớ i California đ ể tham gia các cuộc
bi ểu tình đị nh k ỳ nhưng m ỗi cu ộc bi ểu tình đó ch ẳng gây đư ợ c ấn tư ợ ng mấ y, ông nói v ớ i t ờ
Fortune rằng: “Macintosh thực sự độc đáo nhưng cá nhân tôi không th ấ y đư ợ c sự độc đáo đó t ừ
công ty máy tính m ớ i c ủa Jobs.”
M ột ph ần của vấn đề là nh ững k ẻ khổng lò này bẩ m sinh đã đối đầu vớ i nhau, chúng không
th ể tôn trọng nhau đượ c. Trong chuy ến đến thăm NeXT đầu tiên t ại trụ s ở ở Palo Alto của Ga tes
vào hè 1987, Jobs đã đ ể anh ta ph ải ch ờ nửa tiếng ở hành lang m ặ c dù qua l ớ p kính, Gates bi ết r ằng
Jobs ch ỉ đi lại trong phòng và nói chuyện bình thườ ng v ớ i các nhân viên mà thôi. Gates đã nhận xét
là: “Tôi đã t ớ i NeXT, đã có một ly Odwalla - ly nướ c cam cà r ốt đắt nh ất mà tôi biết và cũng đã
ch ứng ki ến nh ững văn phòng công nghệ cao cực kỳ lãng phí”. Gates nhớ l ại vớ i một cái lắc đầu và
nụ cư ờ i đầ y hàm ý: “Và Steve còn mu ộn nửa tiếng so v ớ i gi ờ hẹn nữa.”
Vớ i Gates, họ hợ p tác đơn gi ản vì “Chúng ta đã cùng t ạo ra Mac”. Jobs nói: “Anh th ấ y
công vi ệc đó như th ế nào? H ẳn là rất t ốt. Bây gi ờ , chúng ta l ại s ắp làm việc cùng nhau và l ần này
cũng s ẽ tuyệt thôi”.
Nhưng Gates đã r ất thô l ỗ vớ i Jobs, gi ống như cách Jobs đối xử vớ i nh ững ngư ờ i khác:
“Cái máy này đúng là rác rưở i. Đĩa quang h ọc có độ tr ễ quá thấp và cái thứ ch ết tiệt này có cái giá
quá đắt. Nó thật là l ố bị ch”. Sau đó ông đã quyết đị nh và khẳng đ ị nh là cho dù Gates có thêm một
chuy ế n đến thăm
NeXT nữ a thì nó cũng không khi ến Microsoft huy động l ực lư ợ ng c ủa mình từ các dự án
khác đ ể sang phát tri ển các ứng d ụng cho NeXT. T ệ hơn nữa, ông l ặp lại đi ều đó trướ c báo giớ i
khiến ch ẳng ai muốn dành th ờ i gian đi phát tri ển ứ ng d ụng cho NeXT, ông nói v ớ i t ờ InfoWorld
như sau: “Phát triển nó ư? T ôi thà tè lên nó còn hơn”.
Khi họ vô tình ch ạm m ặt nhau t ại hành lang m ột hội nghị , Jobs bắt đầu trách móc Gates vì
đã từ ch ối vi ết ph ần m ềm cho NeXT. Gates đáp trả : “Khi nào anh có một th ị trườ ng nhất đị nh, tôi
s ẽ xem xét”. Jobs đã r ất t ức gi ận. K ỹ sư c ủa Xerox PARC - Adele Goldberg nói rằng: “M ột trận
chiến la hét đã n ổ ra ngay gi ữa m ọi ngườ i”. Jobs c ứ khăng khăng r ằng NeXT là làn sóng tin học
của tương lai. vẫn như mọi khi, Gates ch ẳng mả y may để tâm khiến Jobs càng tứ c t ối hơn. Cu ối
cùng ông ấ y lắc đầu và b ỏ đi.
Nguyên nhân sâu xa c ủa sự cạnh tranh - và s ự miễ n cư ỡ ng tôn trọng nhau chính là sự khác
nhau cơ b ản về tri ết lý giữa họ. Jobs tin rằng các ph ần cứng và phần mềm đượ c tích h ợ p liên t ục sẽ
giúp ông tạo ra m ột chi ếc máy tương thích v ớ i nh ữ ng chiếc máy khác. Gates thì lại tin và ki ếm lợ i
nhuận t ừ m ột thế gi ớ i vô vàn các công ty khác nhau t ạo ra nh ững chiế c máy tính khác nhau. Chúng
tương thích v ớ i nhau là vì ph ần cứng c ủ a chúng chạ y chung một hệ đi ều hành (h ệ đi ều hành
Window của Microsoft) và như th ế chúng có th ể s ử dụng các ph ần mềm ứng d ụng gi ống nhau (như
phần m ềm word và excel của Microsoft). “S ản ph ẩm của anh ta ra đ ờ i vớ i m ột đặc đi ểm rất thú v ị
đượ c gọi là tính không tương thích” - Gates nói vớ i t ờ Washington Post -“nó sẽ ch ẳng chạ y bất c ứ
phần mềm nào hiện có. Nó thì là một chi ế c máy tính siêu đ ẹp và tôi không nghĩ là tôi có th ể thiết k ế
gì đượ c vớ i m ột cái máy tính không tương thích như th ế”.
Năm 1989, việc Jobs và Gates xu ất hi ện liên t ục trên một di ễn đàn ở Cambridge,
Massachusetts đã cho thấ y sự cạnh tranh về th ế gi ớ i quan của họ. Jobs nói v ề những làn sóng tin
học đư ợ c cải tiến vài năm m ột l ần trong ngành công nghi ệp máy tính. Sự ra đ ờ i c ủa Macintosh
mang tính cách mạng cho di ện m ạo đồ họa lúc đó và bây gi ờ NeXT sẽ th ự c hi ện đi ều đó vớ i l ập
trình đ ị nh hướ ng đ ối tư ợ ng g ắn liền vớ i m ột máy tính công su ất l ớ n dựa trên nền tảng đĩa quang
học. Các nhà cung cấp ph ần m ềm lớ n đều nh ận ra họ buộc ph ải trở thành một ph ần của xu hư ớ ng
này, “tr ừ Microsoft” - ông nói. Đến lư ợ t Gates, ông nói l ại ni ềm tin của mình rằng ý tư ở ng kiểm
soát liên t ục ph ần m ềm và phần cứng c ủa Jobs ch ắ c ch ắn sẽ th ất bại, cũng như Apple đã th ất bại
khi c ạnh tranh l ại vớ i m ẫ u chuẩn củ a Microsoft Windows, ông cũng cho rằ ng “thị trườ ng phần
cứng và phần mềm tách biệt nhau”. Khi đượ c hỏi v ề những thiết k ế tuyệt v ờ i theo cách tiếp cận của
Jobs, Gates ch ỉ về phía nguyên m ẫu đầu tiên c ủ a NeXt v ẫn còn đang để trên sân kh ấu và ra hi ệu
ch ế nhạo: “Nếu bạn thích màu đen thì tôi có thể cho bạn cả m ột thùng sơn”.
IBM
Jobs n ả y ra một thủ đoạn khá “mềm mỏng” để ch ố ng lại Gates, ý tư ở ng này có th ể thay đ ổ i
s ự cân bằng quy ền lực trong ngành công nghi ệp máy tính mãi mãi. Nó đòi h ỏi Jobs ph ải làm đượ c
hai việc trái v ớ i b ản ch ất c ủa ông: cấp giấ y phép cho ph ần mềm của ông cho m ột nhà s ản xu ất ph ần
cứn g khác và bắt tay v ớ i IBM. ông là ngư ờ i có tính thực dụng, mặ c dù hơi nhỏ m ọn. Vì th ế nên ông
có th ể miễn cư ỡ ng chấp nh ận. Nhưng ông ch ẳng bao gi ờ th ấ y hài lòng v ớ i nó, đó cũng chính là lí
do khi ến m ối liên minh này s ớ m kết thúc.
Nó b ắt đầu bằng b ữ a tiệc sinh nh ật l ần th ứ 70 thực sự đáng nhớ của nhà xuất bản
Washington Post - Katharine Graham vào tháng 6 năm 1987 ở Washington. Buổi tiệc có sự góp
m ặt c ủa 600 v ị khách trong đó có c ả t ổng thống Ronald Reagan. Jobs bay t ừ
Carlifornia và ch ủ t ị ch t ậ p đoàn IBM - John Akers thì từ New York đ ến. Đó là l ần đầu tiên
họ gặp nhau. Jobs n ắm lấy cơ hội nói x ấu Microsoft và cố gắng thuyết ph ục IBM không s ử dụng h ệ
đi ều hành Windows nữ a. Jobs nói: “Tôi không thể ngừng nói về nó đượ c, tôi nghĩ IBM đã tham gia
m ột canh bạc khổng lò và đ ặt cư ợ c toàn bộ vào chi ến thuật ph ần m ềm của Microsoft, b ở i vì tôi
th ấ y ph ần m ềm của họ cũng chẳng t ốt l ắm.”
Akers đã đáp lại s ự hào hứng c ủa Jobs bằng câu hỏ i: “Th ế anh có th ể giúp chúng tôi như thế
nào?”. Vài tuần sau, Jobs đã có m ặt t ại Armo nk, trụ s ở chính c ủa IBM tại New York cùng v ớ i kỹ
sư phần m ềm Bud Tribble của mình. B ản gi ớ i thi ệu của NeXT đã gây ấn tư ợ ng v ớ i các k ỹ sư c ủ a
IBM. Đặc bi ệt là NeXTSTEP - hệ đi ều hành đị nh hướ ng đ ối tư ợ ng. Tổng giám đ ốc chi nhánh củ a
IBM đã nhận xét: “NeXTS TEP gi ải quyết đư ợ c r ất nhi ều trình làm việc nh ỏ nhặt đã t ừng làm ch ậm
quá trình phát tri ển ph ần m ềm”.
Các cu ộc đàm ph án di ễn ra đến tận năm 1988. Jobs v ẫn ngang ngạnh, gây khó ch ị u vớ i
t ừng chi tiết, ông t ỏ vẻ kẻ cả trong các bu ổi họp vớ i nh ững b ất đồng v ề màu sắc và thi ết kế và chỉ
có Tribble hoặ c Lewin mớ i làm ông bình tĩnh tr ở l ại. Dườ ng như ch ẳng có hãng nào, IBM hay
Microsoft làm ông s ợ . Vào tháng 4, Perot quy ế t đ ị nh tham gia vớ i vai trò trung gian và t ổ ch ứ c một
phiên làm vi ệc t ại trụ s ở c ủa mình ở Dallas và đã đi đ ến một thỏa thu ận: IBM s ẽ cấp gi ấ y phép cho
phiên b ản hiện t ại c ủa ph ầ n mềm NeXTSTEP và nế u nh ững nhà qu ản lý thích nó thì phần mềm này
s ẽ đượ c sử dụng trong hệ th ống văn phòng củ a IBM. IBM g ửi t ớ i Palo Alto m ột bản hợ p đồng dài
125 trang. Jobs li ệng nó xuống sàn và ch ẳng thèm đọc. “Đừng hòng” - ông nói đoạn ròi ra khỏi
phòng. Ông yêu cầu m ột bản hợ p đồng ngắn gọn hơn trong vòng m ột tu ần nữa.
Jobs muốn th ỏa thu ận này phải hoàn toàn bí m ật vớ i Bill Gates cho đ ến khi máy tính củ a
NeXT đư ợ c ra mắt vào th áng 10. Nhưng IBM đã không thực hiện đúng và Gates đã rất giận dữ khi
bi ết thông tin này. Gates nh ận ra rằng điều này có thể khiến các máy tính IBM hoàn toàn không sử
dụng h ệ đi ều hành củ a Microsoft nữa: “NeXTSTEP ch ẳng tương thích vớ i cái gì c ả ” - Gates nổi
cơn th ị nh n ộ vớ i các giám đ ốc của IBM.
Đầu tiên Jobs có vẻ như đã thành công trong vi ệ c t ạo nên cơn ác mộng t ồi t ệ nhất đối vớ i
Gates. Hầu hết các công ty s ản xu ất máy tính khác s ử dụng h ệ đi ều hành của Microsoft, đ ặc biệt là
C ompaq và Dell đã yêu cầu Jobs quyền đư ợ c sao in NeXT và c ấp gi ấ y phép cho NeXTSTEP.
Thậm chí còn có những l ờ i đề nghị ch ấp nh ận trả nhiều tiền hơn nếu NeXT không tham gia vào
vi ệc kinh doanh phần cứ ng n ữ a.
Như th ế là quá nhi ều vớ i Jobs, ít nh ất là trong th ờ i đi ểm hi ện tại. ông t ừ ch ố i t ất c ả các đề
xuất sao in. Và ông bắt đầu tỏ ra ôn hòa v ớ i IBM. V ị th ế hai bên gi ờ đượ c ho Ấn đổi. Khi ngườ i
th ực hi ện th ỏa thu ận củ a IBM chuy ể n đi, Jobs đã t ớ i Armonk đ ể gặp ngườ i kế nhiệm - Jim
Cannavino. Họ vào một phòng tr ống và nói chuy ệ n tay đôi vớ i nhau. Jobs đ ề nghị IBM nhi ều tiền
hơn để duy trì m ối quan hệ này cũng như cấp gi ấ y phép cho nh ững phiên bản m ớ i hơn c ủa
NeXTSTEP. Cannavino không cam kết th ực hi ện đi ều gì và sau đó cũng ch ẳng g ọi l ại cho Jobs.
Thỏa thu ận thất bại. NeXT kiếm đượ c một chút tiề n t ừ phí c ấp phép nhưng nó cũng đã tuột mất cơ
hội thay đ ổi c ả th ế gi ớ i.
L ễ ra mắt, th áng 10 năm 1988
Vớ i m ục tiêu vư ợ t lên h ẳn nh ững gì đã làm, t ừ gi ớ i thi ệu sản ph ẩm, Jobs đã sâu khấu hóa
cho bu ổi ra mắt đ ầu tiên c ủa máy tính NeXT vào 12 tháng 10 năm 1988 ở Khán phòng Giao hư ở ng
ở San Francisco. Ông muốn thổi bay những hoài nghi. Trong những tu ần chuẩn bị cho sự ki ện, hầu
như ngày nào ông lái xe đến San Francisco và ở ẩ n tại ngôi nhà xây ki ểu ki ến trúc Victoria c ủa
Susan Kare - nhà thi ết kế đồ họa cho NeXT và cũng là ngư ờ i đã hoàn thành nh ững phông ch ữ gốc
và các bi ểu tư ợ ng cho Macintosh. Cô cũng giúp Jobs chu ẩn bị t ất c ả phần thuy ết trình của Jobs t ừ
ngôn t ừ cho đến màu nền xanh lá. “Tôi thích màu xanh đó” - ông nói đ ầ y tự hào như thể họ vừ a
th ực hi ện m ột bản ch ạ y th ử trướ c các nhân viên - “màu xanh tuy ệt vờ i, màu xanh tuyệt vờ i” - họ
cùng thì thầm đồng ý vớ i nhau.
Không có chi tiết nào quá nh ỏ. Jobs xem qua danh sách khách m ờ i và th ậm chí c ả th ực đơn
bữa trưa (nư ớ c khoáng, bánh s ừng bò, phomat kem, giá đỗ), ông ấ y thuê m ột công ty trình chiếu
video v ớ i chi phí khoảng 60.000 đô - la. Và ông cũng thuê George Coates - nhà sản xu ất theo
trườ ng phái h ậu hiện đại đ ể dàn dựng buổi diễn. Coates và Jobs đã th ống nhất là không dàn dựng gì
gây ng ạc nhiên c ả mà chỉ để sân kh ấu trông m ộc m ạc và gi ản dị . Kh ối l ập phương hoàn h ảo màu
đen này s ẽ có màn ra m ắt vô cùng đơn gi ản vớ i m ột nền đen, một bàn phủ vải đen, một m ạng che
máy tính cũng màu đen và một bình hoa đơn gi ản. B ở i c ả phần cứng l ẫn hệ đi ều hành đều chưa
th ực sự hoạt động nên Jobs đượ c ch ỉ th ị mô phỏng chúng. Nhưng ông đã từ ch ối. Bi ết là việ c này
m ạo hiểm như ngườ i đi trên dây mà không có lư ớ i đ ỡ nhưng Jobs vẫn quyết đ ị nh th ực hiện thao tác
tr ực tiếp.
Hơn 3000 ngư ờ i đã có m ặt t ại s ự ki ện và ch ờ đợ i hàng gi ờ trướ c khi m ở màn. H ọ đã không
bị th ất vọng, ít nhất là bở i bu ổi di ễn. Jobs đã đ ứng trên sân kh ấu ba ti ếng đ ồng h ồ và m ột l ần nữ a
ông lại ch ứng minh đư ợ c nh ững l ờ i khen củ a Andrew Pollack trên New York Times: “màn gi ớ i
thiệu sản phẩm của Andrew Lloyd Webber, b ậ c th ầ y tinh t ế của sân khấu và nh ững hiệu ứng đ ặ c
s ắc”. Wes Smith c ủa t ờ Chicago Tribune thì nói bu ổi ra m ắt là: “màn trình diễn sản ph ẩm tựa như
đại hội c ủa tòa th ánh Vatican II”.
Jobs đã khi ến khán gi ả cổ vũ ngay t ừ câu mở màn của mình: “Đư ợ c trở l ại th ật tuy ệt”. Ông
bắt đầu vớ i màn thu ật l ại l ị ch s ử của viêc cấu tạo nên máy tính cá nhân và ông h ứ a r ằng gi ờ đây họ
có th ể ch ứng kiến sự ki ệ n “chỉ di ễn ra m ột ho ặ c hai l ần trong m ột th ập kỷ - s ự ki ện làm thay đổi
di ện mạo của ngành tin học”. Phần cứng và phần m ềm NeXT đã đư ợ c thi ết kế sau ba năm thăm dò
ý ki ến các trườ ng đ ại học cả nướ c. “Chúng tôi nh ậ n ra rằng việc nâng cao chất lư ợ ng giáo d ục cần
phải có nh ững h ệ th ống máy tính cá nhân l ớ n”.
Như thườ ng l ệ, nó đư ợ c gán những tính từ r ất ưu ái như: “không th ể tin đư ợ c”, “đi ều tuyệt
nhất mà ta có th ể tư ở ng tượ ng”, ông ca ng ợ i vẻ đẹ p của nó th ậm chí n ằm ẩn ở cả những phần mà ta
không nhìn th ấ y đư ợ c. Các bảng mạ ch vuông vức có th ể nằm cân bằng trên các đầu ngón tay ẩn
mình trong khối h ộp vuông thành sắc cạ nh, ông nhiệt tình: “hy v ọng là sau này các bạn sẽ có cơ h ội
đượ c nhìn nh ững v ật nh ỏ bé này. Đó là những b ảng m ạch đ ẹp nh ất mà tôi t ừng th ấ y trong đ ờ i”. Sau
đó ông cho mọi ngườ i xem cách bật m ột bài hùng biện trên máy tính - ông đã ch ọn bài hùng biện
“Tôi có một gi ấc mơ” củ a King và “Đừng h ỏi” c ủ a Kennedy - và g ửi t ệp âm thanh bằng việc đính
kèm vào email, ông ghé vào micro của máy tính và thu âm: “Xin chào, tôi là Steve, tôi đang gửi đi
thông điệp của m ột ng ày lị ch s ử” ròi ông đề nghị khán gi ả thêm ti ếng v ỗ tay vào b ản ghi âm và họ
đã hưở ng ứng.
M ột trong nh ững triết lý qu ản lý quan trọng c ủa Jobs là ném xúc x ắc và “đ ặt cư ợ c công ty”
vào nh ững công ngh ệ và ý tư ở ng mớ i. Trong bu ổi gi ớ i thi ệu NeXT, ông đã kiêu hãnh đưa ra ví dụ
đó. Ban đ ầu, nó không ph ải là một trò cá cư ợ c khôn ngoan: Đĩa quang h ọ c có kh ả năng đ ọ c và ghi
chép lớ n (nhưng ch ậm) và không có đĩa mềm sao lưu. “Hai năm sau chúng tôi đi đến m ột quyết
đị nh. Chúng tôi nhìn các công ngh ệ m ớ i và chúng tôi quyết đị nh mạo hi ểm vớ i công ty củ a mình”
- ông nói.
Sau đó ông chuy ể n sang m ột đặc tính quen thu ộc vớ i m ọi ngườ i hơn. Jobs phát bi ểu:
“Chúng tôi đã th ực hiện nh ững cuốn sách điện t ử đích th ực đầu tiên” - kèm theo vi ệc nh ấn mạnh s ự
l ồng ghép các tác phẩm Shakespears của Oxford cùng các cu ốn sách khác. “Có m ột s ự cải thi ện
công ngh ệ đáng k ể khi một lo ạt các tác ph ẩm nghệ thuật đư ợ c số hóa t ừ sau dự án Gutenberg.”
Nhiều khi Jobs lôi nh ững điểm yế u của mình ra thành trò tiêu khi ển và ông sử dụng những
cu ốn sách đi ện tử này để ch ọc cư ờ i m ọi ngườ i về chính b ản thân ông. “Một t ừ th ỉ nh tho ảng đượ c
dùng đ ể mô t ả tôi là ‘không kiên đ ị nh’”, ông nói r ồi dừng l ại m ột chút. Khán gi ả đượ c ch ủ ý dàn
x ếp cư ờ i ồ lên, đặc bi ệt là nh ững hàng ghế đầu, những hàng ghế đượ c các nhân viên NeXT và các
cựu thành viên c ủ a nhóm dự án Macintosh ngồi kín. R ồi ông d ừng l ại trư ớ c m ột t ừ trong cu ốn từ
đi ển trên máy tính và đ ọ c đị nh nghĩa đầu tiên: “có liên quan đ ến, thuộc về hoặc đư ợ c sinh ra t ại sao
Thủ y (Mercury)”. Cu ộn màn hình xu ống một chút ông nói: “tôi nghĩ đ ị nh nghĩa thứ ba m ớ i chính
xác: ‘tính cách khó đoán trướ c và cảm xúc dễ thay đ ổi”. L ại thêm m ột tràng cư ờ i nữa. “Nếu chúng
ta kéo t ừ đi ển xu ống một chút, ta có th ể th ấ y từ trái nghĩa ‘l ầm lì (saturnine)’, ồ, nó có nghĩa gì
đây? R ất đơn gi ản, bạn kích đúp chu ột vào đó, chúng ta có th ể ngay lập tứ c tra đượ c nghĩa c ủa t ừ
này trong từ đi ển và đây: ‘l ạnh lùng và tính khí ổn đị nh. Cân nhắc trong hành đ ộng hoặc thay đổi.
Thư ờ ng thích những chỗ buồn và ảm đạm”, ông mỉ m cư ờ i m ột cách t ự nhiê n và đợ i ch ờ m ột tràng
cư ờ i nữa ròi đưa ra kết lu ận: “À! Th ự c ra thì tôi không nghĩ ‘không kiên đ ị nh’ là xấu”. Sau tràng
pháo tay, ông sử dụng cuốn sách trích dẫn để tăng tính thuy ết ph ục cho “tri ế t lý bóp méo s ự th ật”
của ông. ông s ử dụng trích d ẫn Qua tấm gương soi của Lewis Carroll.
Sau khi Alice than vãn r ằ ng dù có cố gắng thế nào cô vẫn sẽ ch ẳng tin vào những điều
không th ể. Nữ Hoàng Tr ắng (White Queen) đáp lại: “sao th ế, trư ớ c bữa sáng, ta thỉ nh tho ảng v ẫn
t ập tin sáu điều không tưở ng đ ấ y”. Đến đây, những hàng ghế đầu cư ờ i r ộ lên.
Tinh th ần vui v ẻ đã khiế n cho b ầu không khí tr ở nên tho ải mái hơn, và làm mọi ngườ i
không nh ớ đến nh ững tin đòn b ất l ợ i nữa. Đ ến lúc đ ọc báo giá chiếc máy tính, Jobs nh ắc l ại đặc
tính sản ph ẩm, mô tả nó như th ể nó “đáng giá h àng ngàn đô la” và để cho khán gi ả t ự tư ở ng tượ ng
giá tiền đắt đỏ củ a nó, ông vẫn thườ ng dùng cách này trong các buổi gi ớ i thi ệu sản ph ẩm. R ồi sau
đó thông báo mong muố n có m ức giá th ấp cho ngườ i dùng: “Để nâng cao vi ệc giáo dục đào t ạo
chúng tôi đ ể m ứ c giá 6.500 đô cho mỗi s ản ph ẩm”. Thực t ế là cũng có ti ếng v ỗ tay r ải rác. Tuy
nhiên mặt bằng giá chung mà Jobs đã hứa với các c ố vấn học viện là giữ m ức giá chỉ khoảng 2.000
đến 3.000 đô thôi nên họ cứ nghĩ là Jobs sẽ gi ữ l ờ i hứa. M ột vài ngư ờ i th ực sự bàng hoàng trướ c
m ức giá đó. Và h ọ có th ể s ẽ còn bàng hoàng hơn khi mà biết r ằng n ếu thêm máy in nữ a thì giá s ẽ
tăng lên 2.000 đô và t ốc độ ch ậm ch ạp của đĩa quang sẽ khiến ngườ i dùng ph ải mua ngoài m ột đĩa
quang khác giá 2.500 đô n ữa.
Còn một điểm đáng th ất v ọng khác mà Jobs đã cố nói giảm nói tránh: “Đ ầu năm sau, chúng
tôi s ẽ phát hành b ản 0.9, phiên bản dành cho nh ững ngư ờ i phát tri ển ph ần m ềm và những ngư ờ i
dùng cuối yêu thích việ c công vi ệ c liên quan đến ph ần mềm”. Có m ột s ố ti ếng cườ i thể hi ện sự bồ n
ch ồn, lo lắng. Ông ấ y nói như v ậ y ng hĩa là phiên bản chính thức củ a máy tính này và phần m ềm
dành cho nó (đượ c hi ểu là phiên b ản 1.0) s ẽ không th ể ra m ắt trong đ ầu năm 1989. Thực t ế thì ông
còn chưa xác đị nh mốc th ờ i gian ra m ắt cho nó. ông ch ỉ dám nói r ằng thờ i đi ểm th ực t ế s ẽ rơi vào
khoảng quý II năm đó. Cuối năm 1985, khi NeXT không có đ ộng thái gì, ông đã từ ch ối m ọi vi ệc
bất ch ấp sự hối thúc c ủa Joanna Hoffman khi ông đã từng nói rằng s ẽ hoàn thành cái máy tính vào
đầu năm 1987. Bây gi ờ thì đã gần hai năm ròi.
S ự ki ện kết thúc vớ i nh ững tín hiệu lạc quan. Jobs đã mờ i m ột nghệ sĩ violon từ dàn giao
hưở ng San Francisco đ ến chơi bản giao hư ở ng violon A Minor của Bach khi chi ếc máy tính NeXT
xuất hi ện trên sân khấu. M ọi ngườ i nổ những tràng pháo tay nồng nhi ệt , vấ n đề giá c ả và trì hoãn
th ờ i đi ểm phát hành chính thức đã bị lãng quên nhanh chóng. Khi một phóng viên h ỏi ông ngay sau
s ự ki ện là t ại sao các máy tính l ại bị hoãn muộn như v ậ y thì Jobs tr ả l ờ i r ằng: “Như th ế không ph ải
là muộn vì nó đã đi trướ c 5 năm so vớ i các máy tính cùng th ờ i rô i .
Khi đư ợ c coi là m ột s ản ph ẩm chuẩn m ực, Jobs đ ề nghị cung c ấp các bài ph ỏng v ấn “đ ộc
quyền” dành cho các ấn ph ẩm truyề n thông và đ ổi l ại họ s ẽ đăng câu chuy ệ n của ông lên trang bìa.
Lần này ông đã đ ẩ y tính “độc quyề n” đi quá xa m ặc dù nó chẳng gây tổn hại đến ai. ông đã đồng ý
vớ i Katie Hafner c ủ a Business Week đượ c phép đưa tin độc quyề n trư ớ c khi gi ớ i thi ệu sản ph ẩm
nhưng ông l ại cũng nh ận lờ i vớ i Newsweek rồi đến Fortune. Nhưng ông lại không biết r ằng t ổng
biên tập của Fortune - Susan Fraker - đã k ết hôn vớ i biên t ập viên Maynard Parker c ủ a Newsweek.
Tại cu ộc họp báo v ớ i Fortune, khi mà m ọi ngườ i đang hào h ứng bàn tán về quyền lợ i c ủ a họ,
Fraker nói r ằng cô vô tình biết r ằng Jobs cũng đã hứa hẹn độc quyề n vớ i Newsweek mà báo đó còn
phát hành trướ c mấ y ngày so v ớ i Fortune. Thế nên tuần đó Jobs ch ỉ đượ c xu ất hiện trên hai bìa báo.
Newsweek chạ y dòng tít báo “Ngài Vi M ạch” kèm ảnh ông đang tựa vào chi ếc NeXT đ ẹp đẽ,
chiếc máy đư ợ c tuyên b ố là “máy tính thu hút nhất”. Business Week l ại đưa ra một bức ảnh t rông
ông như một thiên th ần trong b ộ đò tối màu, các ngón tay n ắm hờ ch ống c ằm như một giáo sư ho ặ c
m ột nhà truy ền giáo. Nhưng Hafner đưa tin m ột cách châm ch ọc rằng s ự đ ộc quyền này thực ch ất
đang b ị thao túng, cô viết: “NeXT c ẩ n thận chia các bài ph ỏng v ấn theo loạt v ề nhân viên, nhà cung
cấp và ki ểm duyệt họ. Chi ến thuật này hi ệu qu ả đ ấ y nhưng vớ i cái giá c ủa nó - th ủ đoạn và tàn
nhẫn - đã cho th ấ y m ặt tính cách khi ến Steve phải nh ận qu ả đắng ở Apple. Và Jobs c ần đặc bi ệt
quan tâm đến vi ệc ki ểm soát các s ự ki ện tiếp theo”.
Khi chi ến dị ch rùm beng này th ất b ại thì nh ững s ự quan tâm dành cho máy tính NeXT cũng
gi ảm dần đi, đ ặc bi ệt là nó vẫn chưa đư ợ c chính th ức thương m ại hóa. Bill Joy chuyên gia giỏi và
k ỳ cựu ph ụ trách chính về khoa h ọc thu ộc công ty đối th ủ Sun Microsystems gọi đây là “trạm làm
vi ệc đầu tiên c ủ a nh ững ngư ờ i trẻ đ ầ y tham vọng,” và đây không đơn thu ầ n là một l ờ i khen. Như
đượ c kỳ vọng, Bill Gates tiếp t ục thể hi ện nh ững phát ngôn tiêu cực vớ i giớ i truyề n thông, ông phát
bi ểu vớ i vớ i t ờ Wall Street Journal như sau: “nói thật là tôi cảm thấ y rất thất vọng. Như năm 1981,
chúng ta thự c sự r ất hào h ứng v ớ i Macintosh mà Steve gi ớ i thi ệu vì khi đ ặ t c ạnh những chiế c máy
tính khác, nó hoàn toàn khác bi ệt vớ i nh ững gì chúng ta từng biết trư ớ c đây”. N hưng NeXT thì
không đư ợ c như thế. “Nhìn t ổng quát thì thấ y rằng h ầu hết các tính năng th ự c sự t ầm thườ ng”. Bill
Gates còn nói rằng Microsoft kiên quy ết không viế t ph ần m ềm cho NeXT. Sau lờ i tuyên b ố trên,
Gates đã viết m ột email châm biếm gửi cho các nhân viên của mình, mở đầ u bằng câu “Hiện th ự c
đã hoàn toàn b ị ch ững lại”. Nh ớ l ại vụ vi ệc đó, Gates đã cư ờ i và nói r ằng “đó là cái email hay nhất
tôi t ừng viết”.
Khi máy tính NeXT đượ c tung ra th ị trườ ng vào gi ữa năm 1989, nhà máy đư ợ c trang b ị đ ể
s ản xu ất ra 10.000 chiếc m ột th áng, s ố lư ợ ng s ản xu ất như v ậ y nhưng doanh s ố bán hàng chỉ vào
khoảng 400 chiếc một tháng. Nh ững nhà máy robot tuyệt đ ẹp vớ i l ớ p sơn còn nguyên quá nhàn rỗi,
và NeXT tiếp tục đổ ti ền vào đ ầu tư.
Chú thích
(25) Nhân v ật th ần thoại Hi L ạp
(26) M ột qu ập bang N ew Jersey.
Chương 19: PIXAR
Sự tương giao gi ữ a công nghệ và ngh ệ thuật
Ed Catmull, Steve Jobs, và John Lasseter, 1999
B ộ phận máy tính củ a xưởn g phim Lucas
Khi Job đã mất đi v ị th ế của mình tại Apple vào mùa hè năm 1985, ông và Alan Kay đã g ặp
nhau, Alan Kay là ngườ i t ừng làm vi ệ c t ại Xerox PARC và sau đó tr ở thành một thành viên c ủa
Apple. Kay biết Job có h ứng thú vớ i s ự tương giao gi ữ a sáng t ạo và công ngh ệ, vì thế ông đã gợ i ý
vi ệc họ s ẽ đến gặp m ột ngườ i bạn của ông l à Ed Catmull, ngườ i qu ản lý bộ phận máy tính t ại
xưở ng phim George Lucas. Họ thuê m ột chi ếc Limo và lái xe đến chi nhánh Skywalker c ủ a Lucas,
nơi Catmull làm vi ệc cùng vớ i bộ phận máy tính c ủa mình. “Tôi đã thực sự bị ấn tư ợ ng, và tôi đã
quay tr ở l ại để cố thuy ế t ph ục Scully mua thi ết bị đó cho Apple,” Jobs nhớ l ại. “Tuy nhiên, nh ững
nhà điều hành Apple l ại không h ề hứng thú gì vớ i vi ệc này, họ còn đang bận tìm cách đuổi c ổ tôi”.
Phòng máy tính của xư ở ng phim Lucas đã t ạo ra ph ần cứng và phần m ềm để hi ển th ị hình
ảnh k ỹ thu ật s ố, và nó cũng t ạo ra m ột nhóm chuyên phụ trách v ề đồ họa để t ạo ra các đoạn phim
ngắn và đư ợ c dẫn dắt bở i m ột chuyên gia tài năng đam mê v ớ i ho ạt hình - John Lassater. Lucas,
ngư ờ i đã hoàn thành tác ph ẩm đầu tay c ủa mình là ba ph ần bộ phim star Wars (chi ến tranh gi ữa các
vì sao), đã b ị dính vào m ột cu ộc tranh ch ấp li dị , và vì th ế ông ấ y cần ph ải bán đi m ột ph ần của
xưở ng phim, ông ấ y đã nh ờ Catmull tìm m ột ngườ i có th ể mua nó trong thờ i gian s ớ m nhất.
Vào mùa thu năm 1985, sau vài ngườ i mua tiềm năng tỏ ra ngần ng ại, Catmull và đồng s ự
của mình là Alvy Ray Smith đã quyết đị nh đi tìm nh ững nhà đầu tư để họ có th ể t ự mua chính b ộ
phận của mình. Vì thế họ đã tìm đến Jobs, sắp xếp m ột bu ổi gặp m ặt và lái xe v ề ngôi nhà
W oodside c ủa ông. Sau khi đàm phán , Jobs đề nghị ông sẽ mua toàn bộ xưở ng phim Lucas.
Catmull và Smith đã phản đối, họ muốn m ột nhà đ ầu tư ch ứ không ph ải m ột ngườ i ch ủ m ớ i.
Nhưng m ọi chuy ệ n đã nhanh chóng đượ c gi ải quyết khi Jobs đưa ra ý ki ến rằng ông có th ể mua
phần lớ n và sẽ tr ở thành ch ủ t ị ch, nhưng cho phép Catmull và Smith điều hành nó.
“Tôi muốn mua nó bở i vì tôi th ực sự có h ứng thú vớ i đồ họa máy tính,” Jobs nhớ l ại. “Tôi
nhận ra rằng h ọ là nh ững ngư ờ i dẫn đầu trong lĩnh vực kết hợ p giữa nghệ thuật và công ngh ệ, đi ều
mà tôi luôn luôn quan tâm.” Ông đã đ ề nghị tr ả Lucas năm triệu đô la cộng thêm một khoản đầu tư
5 tri ệu đôla nữa để bi ến bộ phận đó tr ở thành một công ty độc l ập. S ố ti ền này ít hơn so v ớ i nh ững
gì Lucas đã yêu c ầu, tuy nhiên h ọ th ấ y rằng lúc này là thờ i đi ểm thích hợ p. H ọ quyết đị nh đàm
phán để đưa ra m ột th ỏa thu ận.
Giám đ ốc tài chính c ủa xư ở ng phim Lucas th ấ y Jobs kiêu ng ạo và khó tính, vì thế, khi cu ộc
họp chuẩn bị di ễn ra, ông đã nói v ớ i Catmull “Chúng ta c ần ph ải thể hi ện rõ vị th ế của mình”. Theo
kế hoạch thì họ s ẽ t ập hợ p m ọi ngườ i l ại trong m ột căn phòng cùng v ớ i Jobs, sau đó giám đ ố c tài
chính s ẽ vào mu ộn vài phút và giớ i thi ệu mình chính là ngườ i đi ều hành bu ổi họp. “Nhưng một
đi ều thú v ị đã x ả y ra”, Catmull nh ớ l ại. “Steve đã b ắt đầu bu ổi họp mà không có giám đ ốc tài
chính, và lúc ông này bư ớ c vào thì Steve đã t ự mình điều khiển cu ộc họp m ất ròi.”
Jobs ch ỉ gặp George Lucas một l ần duy nhất, ông là ngư ờ i đã cảnh báo Jobs về vi ệc nh ững
ngư ờ i ở trong b ộ phận này quan tâm t ớ i vi ệc t ạo ra đư ợ c các b ộ phim hoạt hình hơn là việc làm ra
những chiếc máy tính. “Ông bi ết đấ y, họ chính là nh ững ngư ờ i th ực sự tâm huyết vớ i ho ạt hình,”
Lucas nói vớ i Jobs như v ậ y. Lucas nh ớ l ại. “tôi đã nh ắc nh ở ông ấ y rằng, v ề căn bản chính đó là k ế
hoạch c ủa Ed và John. Tôi nghĩ rằng trong tim Jobs, ông mua công ty này b ở i nó cũng chính là k ế
hoạch c ủ a ông.”
Thỏa thu ận cu ối cùng mà h ọ đã đ ạt đư ợ c là vào tháng Giêng năm 1986. B ản th ỏa thu ận đó
nói r ằng v ớ i s ố ti ền đầu tư 10 tri ệu đôla đó, Jobs sẽ s ở hữu 70% công ty, và toàn b ộ s ố cổ phiếu còn
l ại đư ợ c phân ph ối cho Ed Catmull, Alvy Ray Smith và 38 nhân viên t ừ nhân viên chủ ch ốt cho t ớ i
l ễ tân. Thiết bị phần cứng quan trọng nhất c ủa bộ phận này đượ c gọi là Pixar Image Computer
(Máy tính hoạt ảnh Pixar), và công ty đã đư ợ c đặt tên th eo nó.
Trong một th ờ i gian dài, Jobs đ ể Catmull và Smith điều hành Pixar mà không can thiệp
nhiều. C ứ hàng th áng hoặc lâu hơn, h ọ l ại m ở m ột cu ộc họp hội đồng quản trị , thư ờ ng là tại trụ s ở
chính NeXT, nơi mà Jobs t ập trung quản lý tài chính và chi ến lư ợ c. Dù v ậ y, bằng s ự m ạnh mẽ
đượ c th ể hi ện qua tính cách và kh ả năng ki ểm soát của mình, Jobs đã nhanh chóng đóng m ột vai
trò quan trọng hơn. ông đã đưa ra hàng lo ạt các ý tư ở ng, một s ố thì h ợ p lý nhưng một s ố khác thì l ại
khá kỳ quặc về vi ệc phát tri ển ph ần cứng và phần m ềm của Pixar. Qua các bu ổi ghé thăm thư ờ ng
xuyên của ông t ại văn phòng Pixar, ông đã truyền đư ợ c cảm hứng cho toàn bộ nhân viên. “Tôi l ớ n
lên ở miền nam Baptist, và chúng tôi cũng đã có nh ững buổi họp khơi dậ y nhiệt huyết nhưng l ại
đượ c thuy ết trình b ở i nh ững k ẻ th ối nát”, Alvy Ray Smith k ể l ại. “Steve thì khác, l ờ i nói c ủa ông
có m ột s ức mạnh khiến mọi ngườ i bị thu hút. Chúng tôi đã nh ận ra đư ợ c điề u đó qua các cuộc họp,
vì th ế chúng tôi đã tạo ra các d ấu hiệu - gãi mũi hoặc kéo tai - vớ i nh ững ai bị hút vào khả năng bóp
méo của Steve và anh ta c ần ph ải đư ợ c kẻo trở về vớ i th ực t ế.”
Jobs luôn đánh giá cao ưu điểm tích hợ p nh ững phần cứng và phần mềm hiệu qu ả mà Pixar
đã làm và phần m ềm dựng hình c ủ a nó. Nó cũng tạo ra nh ững n ội dung sáng t ạo, ch ẳng h ạn như
những b ộ phim hoạt hình và đồ họa. Đó chính là ba lợ i ích đư ợ c t ạo ra t ừ vi ệc kết hợ p giữa sự s áng
t ạo nghệ thuật và công ngh ệ của Jobs. “Nh ững nhà đi ều hành ở thung lũng Silicon không thực sự
đánh giá cao ki ểu sáng t ạ o của
Hollywood, và những nhà qu ản lý Hollywood thì lại nghĩ r ằng những c Ấn bộ k ỹ thuật ch ỉ
là nh ững ngư ờ i mà h ọ thuê và h ọ không cần thi ết ph ải gặp m ặt,” Jobs cho bi ết. “Pixar là m ột nơi
mà c ả hai văn hóa này đư ợ c tôn tr ọng”.
Doanh thu ban đầu đư ợ c cho là chủ yếu t ừ các ph ầ n cứng. Pixar Image Computer đượ c bán
vớ i giá125,000 đô - la. Các khách hàng chính là nh ững ngư ờ i chuyên thi ết kế đồ họa và hi ệu ứng
động, nhưng thiết bị này cũng sớ m tìm đượ c th ị trườ ng đ ặ c bi ệt trong ngành công nghi ệp y khoa
(CAT quét d ữ li ệu có th ể đưa ra đư ợ c hình ảnh đồ họa ba chiều) và các lĩnh vực tình báo (đ ể truy ề n
và d ựng các thông tin t ừ các chuy ế n bay do thám ho ặc các v ệ tinh). Vì thương vụ vớ i Cơ quan An
ninh Quốc gia, Jobs đã ph ải hoàn t ất các th ủ t ục an ninh cần thi ết, m ột công vi ệc khá vui vẻ đối v ớ i
nhân viên FBI đượ c giao nhi ệm vụ khám xét ông. ở m ột th ờ i đi ểm nào đó, m ột nhà quản lý của
Pixar nhớ l ại, Jobs đã b ị thanh tra gọi về vi ệ c liên quan đến sử dụng ma túy và ông đã trả l ờ i m ột
cách th ẳng th ắn. “Lầ n cu ối tôi sử dụng nó là...”, trong trườ ng hợ p đó, ông ấ y đã có th ể hoặ c nên tr ả
l ờ i là ông ấ y chưa bao giờ th ử lo ại thu ốc đó.
Jobs đã thúc đ ẩ y Pixar xây dựng một phiên b ản máy tính có chi phí th ấp hơn vào kho ảng
30,000 đô - la. ông nh ấn m ạnh r ằng Hartmut Esslinger đã thiết kế nó, bất ch ấp sự phản đối c ủa
Catmull và Smith v ề chi phí ông đưa ra. Nó trông giống v ớ i phiên b ản ban đ ầu của Pixar Image
Computer là m ột kh ối l ập phương v ớ i vòng tròn võng ở gi ữa, nhưng nó có thêm chữ ký c ủa
Esslinger ở rãnh.
Jobs muốn máy tính c ủa Pixar hướ ng đ ến thị trườ ng đại chúng, vì thế ông ấ y đã m ở các đại
lý bán hàng ở các thành phố l ớ n, nơi mà ông sẽ phê duyệ t các thiết kế, dựa trên lý thuyết nh ững
ngư ờ i s áng t ạo sẽ s ớ m thích ứng đượ c vớ i t ất c ả các cách sử dụng máy tính. “Quan đi ểm củ a tôi là
con ngườ i là loài đ ộng v ậ t s áng t ạo và họ s ẽ tìm ra đư ợ c nh ững cách thông minh đ ể s ử dụng các
công c ụ mà các nhà phát minh không bao giờ tư ở ng tượ ng ra,” sau này ông cho biết. “Tôi nghĩ
rằng điều này s ẽ x ả y ra đối vớ i máy tính Pixar, như đã x ả y ra vớ i Mac.” Nhưng những chiếc máy
đó đã không nhận đư ợ c sự ủng h ộ của ngườ i tiêu dùng. Nó có chi phí quá l ớ n và không có nhiều
phần m ềm chương trình.
Về phía ph ần m ềm, Pixar đã tạo ra m ột trình duyệt dựng hình, đư ợ c bi ết vớ i cái tên Reyes
(Renders everything you ever saw - mô phỏng t ất c ả những gì b ạn đã từng thấ y), đ ể t ạo ra đồ họa
và hình ảnh 3D. Sau khi Jobs tr ở thành ch ủ t ị ch, công ty đã tạo ra đư ợ c một ngôn ng ữ l ập trình vào
giao di ện mớ i, đư ợ c đặt tên là RenderMan, nó đư ợ c hy vọng s ẽ tr ở thành chu ẩn mực cho việ c dựng
hình đồ họa 3D, cũng giố ng như vi ệ c ph ần m ềm in laze PostScript của Adobe.
Gi ống v ớ i nh ững gì ông đã làm vớ i ph ần cứng, Jobs quy ết đị nh r ằng h ọ nên thử tìm m ột thị
trườ ng đ ại chúng cho ph ầ n mềm họ t ạo ra thay vì ch ỉ t ập trung vào các thị trườ ng chuyên biệt, ông
chưa bao gi ờ có m ột m ục tiêu duy nhất cho công ty hay chỉ nhắm vào các thị trườ ng cao cấp
chuyên ngành. “Jobs mu ốn hư ớ ng RenderMan tr ở thành một ph ần m ềm dành cho tất c ả m ọi
ngư ờ i,” Pam Kerwin, giám đ ốc Marketing c ủ a Pixar nhớ l ại. “Ông ấ y luôn luôn đưa ra nh ững ý
tư ở ng v ề vi ệ c làm sao m ột ngườ i bình thư ờ ng có thể s ử dụng phần m ềm đó đ ể t ạo ra nh ững b ức
ảnh sinh đ ộng chân thực và hình ảnh đồ họa 3D tuy ệ t vờ i.” Nhóm dự án củ a Pixar c ố gắng thuyết
phục ông b ằng cách nói rằng vi ệc sử dụng RenderMan không hề d ễ dàng như là sử dụng Excel hay
Adobe Illustrator. Sau đó Jobs bướ c đến t ấm bảng và chỉ cho họ th ấ y cách làm nó trở nên đơn giản
và thân thiện vớ i ngườ i s ử dụng. “Chúng tôi g ật đ ầ u và cảm thấ y ph ấn khích và thốt lên “Đúng th ế,
nó s ẽ th ực sự rất tuy ệt!””. Kerwin nhớ l ại. “Và ngay sau khi ông ấ y đi, chúng tôi đã cân nh ắ c l ại ý
tư ở ng đó và không thể hi ểu nổi ông ấ y đã nghĩ cái gì”, ông ấ y th ực sự khiến ngườ i khác bị thu hút
m ột cách kỳ l ạ và b ạn sẽ gần như ph ải đả thông l ại tư tư ở ng ngay sau khi bạ n nói chuyệ n vớ i ông
ấ y. ” Th ực t ế, ngườ i tiêu dùng bình dân l ại không h ề hứng thú vớ i m ột ph ần m ềm đắt tiền giúp họ
t ạo dựng đượ c nh ững hình ảnh chân thự c. RenderMan đã không đư ợ c đưa ra.
Tuy nhiên, l ại có m ột công ty hứng thú vớ i vi ệc dựng các hình vẽ hoạt hình thành hình ảnh
màu sắc cho b ộ phim. Khi Roy Disney chủ trì vi ệ c đổi m ớ i ban quản trị của công ty mà chú Walt
của anh ta đã s áng l ập ra, giám đ ốc đi ều hành m ớ i - Micheál Eisner đã hỏi Disney r ằng anh muốn
vị trí nào. Disney nói rằng anh ta muốn ph ục hồi l ại bộ phận thi ết kế hoạt họa. M ột trong nh ững
s áng ki ến đầu tiên c ủa ông này là tìm cách tin học hóa quá trình, và Pixar đã giành đư ợ c hợ p đồng.
Nó t ạo ra m ột gói phần cứng và phần m ềm tùy chỉ nh đượ c bi ết đến vớ i cái tên CAPS, Computer
Animation Production System (hệ th ống s ản xu ất ho ạt họa máy tính). Nó đư ợ c sử dụng l ần đầu
vào năm 1988 trong c ảnh cuối c ủa bộ phim The Little Mermaid (Nàng tiên cá) khi mà vua Triton
vẫ y chào tạm bi ệt Ariel. Disney đã mua hàng tá máy tính hoạt họ a Pixar vì CAPS là m ột ph ần
không th ể thiếu trong quá trình s ản xu ất.
Hoạt ảnh
Công việ c của nhóm đ ồ h ọa động k ỹ thuật s ố t ại Pixar - m ột nhóm thư ờ ng làm các b ộ phim
hoạt hình - lúc đ ầu có m ụ c đích ch ủ yếu là sử dụng và quảng cáo luôn chính những phần cứng và
phần m ềm của công ty. Nó đư ợ c đi ều hành bở i John Lasseter, m ột ngườ i có khuôn mặt trẻ con và
có phong thái của m ột nhà ngh ệ thuật c ầu toàn có th ể s ánh ngang vớ i Jobs. Đượ c sinh ra t ại
Hollywood, Lasseter l ớ n dần lên cùng v ớ i s ở thích xem chương trình ho ạt hình s áng th ứ
Bả y hàng tu ần. Vào năm lớ p 9, ông đã vi ết m ột bả n báo cáo v ề l ị ch s ử của xư ở ng phim
Disney, và sau đó ông quyế t đị nh việ c ông mong muốn có m ột cu ộc sống như th ế nào.
Khi ông t ốt nghi ệp cấp 3, Lasseter tham gia vào m ột dự án phim hoạt hình t ại Học vi ện
nghệ thu ật California - thành l ập bở i Walt Disney. Khi ngh ỉ hè và vào những lúc rảnh r ỗi, ông đã
nghiên cứu về những tài liệu lưu tr ữ của Disney và làm vi ệc như một hư ớ ng d ẫn viên của chuy ến
tham quan Jungle Cruise t ại Disneyland. Nh ững kinh nghiệm sau đó dạ y ông giá tr ị củ a th ờ i gian
và nhị p độ kể m ột câu chuyện, m ột bư ớ c quan trọng nhưng khá là khó đ ể có th ể nắm vững cách t ạo
dựng t ừng khung hình và từng đoạn phim ngắn, ông đã giành giải Student Academy Award (Giải
thư ở ng hàn lâm giành cho sinh viên) cho b ộ phim ngắn ông đã làm khi là sinh viên năm nhất, Lady
and the Lamp (Quý bà và cây đèn), b ộ phim này có lẽ chính là cái duyên c ủ a ông đ ối vớ i hãng
phim Disney và nó cũng có thể là m ột đi ềm báo trư ớ c về tài năng c ủa ông trong vi ệ c bi ến các v ật
vô tri vô giác như những chiếc đèn thành nh ữn g nhân vật có tính cách của con ngư ờ i. Sau khi ông
t ốt nghi ệp, ông nh ận m ột công vi ệc mà có l ẽ s ố phận đã dành cho ông, đó chính là một nhà làm
phim hoạt hình t ại xư ở ng phim Disney.
“Một vài ngư ờ i trẻ tu ổi chúng tôi mu ốn bi ến bộ phim star Wars thành m ột bộ phim hoạt
hình ngh ệ thuật ch ất lư ợ ng, nhưng chúng tôi đã g ặ p ph ải trở ngại là bộ phim đã b ị gi ữ l ại để ki ểm
tra,” Lasseter nh ớ l ại. “Tôi đã b ị vỡ m ộng, và sau đó tôi bị cu ốn vào cuộc chi ến thù đ ị ch gi ữ a hai
ông ch ủ, và sau đó ngườ i đứng đ ầu nhóm làm phim đã sa thải tôi.” Vì th ế vào năm 1984 Ed
Catmull và Alvy Ray Smith đã có thể tuyể n dụng ông để làm vi ệc cho hãng phim Lucas, nơi mà
ch ất lư ợ ng c ủa bộ phim star Wars đượ c xác đ ị nh. Th ế nhưng George Lucas l ại đang lo l ắng v ề chi
phí c ủa bộ phận máy tính thì li ệu ông có ch ấp thuậ n vi ệc thuê một nhà làm phim ho ạt hình toàn
th ờ i gian, vì vậ y Lasseter đã đư ợ c gọi là là “nhân viên thiết kế giao di ện”.
Khi Jobs đặt chân vào công ty này, ông và Lasseter bắt đầu chia s ẻ cùng nhau v ề ni ềm đam
mê v ớ i công vi ệc thi ết k ế đồ họa. “Tôi là nghệ sĩ suy nh ất t ại Pixar, vì th ế tôi có thể phát tri ển đư ợ c
những ý tư ở ng thiết kế của Jobs,” Lasseter nói. ông là một ngườ i thích giao du, tính cách vui tươi
và ấm áp, một ngườ i đàn ông v ớ i chi ế c áo Hawaii, luôn gi ữ văn phòng c ủa mình đầ y ắp nh ững món
đồ chơi cổ, và ông r ất yêu thích bánh mì phô mai. Jobs thì lại là một ngườ i hay t ức giận, ăn chay và
m ọi th ứ xung quanh ông luôn ph ải đư ợ c gọn gàng. Tuy nhiên họ l ại c ực kỳ hợ p nhau, Lasseter là
m ột nghệ sĩ, vì th ế Jobs rất tôn tr ọng ông còn ông luôn xem Jobs là một ngườ i đặc bi ệt, như là một
khách hàng đánh giá cao v ề ngành nghệ thuật và bi ết cách làm th ế nào để đan xen nó vớ i công nghệ
và thương mại.
Jobs và Catmull quyết đị nh r ằng, đ ể có th ể quảng bá đượ c ph ần m ềm và phần cứng c ủ a họ
thì Lasseter nên s ản xu ất m ột bộ phim hoạt hình khác cho SIGGRAPH vào năm 1986, m ột hội
nghị về đồ họa máy tính thườ ng niên. Vào thờ i điểm đó, Lasseter đang sử d ụng chiếc đèn bàn Luxo
như m ột m ẫu dựng hình đ ồ họa, và ông đã quy ết đị nh biến chi ế c đèn Luxo đó thành một nhân vật
s ống. Một ngườ i bạn nh ỏ của ông đã t ạo cảm hứng cho ông t ạo ra nhân vật Luxo Jr., và ông trình
bày một s ố th ử nghi ệm của mình đ ối vớ i m ột nhà làm phim khác, ngư ờ i đã hối thúc ông v ề vi ệc
ông ph ải ch ắ c ch ắn tạo ra đư ợ c m ột câu chuyện có ý nghĩa. Lasseter nói r ằng ông ấ y ch ỉ đang làm
m ột đo ạn phim ngắn, nhưng nhà làm phim kia nói r ằng một câu chuyệ n th ậm chí có thể đượ c t ạo
nên ch ỉ trong có vài giây. Las seter c ảm th ấ y th ực sự th ấm thìa về bài h ọc này. Luxo Jr. chỉ kéo dài
trong hơn hai phút, nó k ể m ột câu chuyện về chiế c đèn b ố và chiế c đèn con đang chơi bóng cùng
nhau cho đến khi quả bóng b ị vỡ , khi ến đứa trẻ th ất vọng.
Jobs th ực sự rất vui m ừng vì ông đ ã t ừ bỏ những áp l ực t ại NeXT đ ể cùng làm vi ệc vớ i
Lasseter chuẩn bị cho hội nghị SIGGRAPH đượ c t ổ ch ức ở Dallas vào tháng 8. “Không khí rất
nóng n ự c và ẩm ướ t khi chúng tôi đi d ạo, và c ả hai đ ều cảm th ấ y khó chị u,” Lasseter nhớ l ại. Có
hàng chụ c ngàn ngườ i t ại hội ch ợ thương m ại đó, và Jobs th ực sự thích thú vớ i điều đó. Ngh ệ thuật
s áng t ạo đã tạo cho ông m ột nguồn năng lư ợ ng d ồi dào, đ ặc bi ệt là khi nó đư ợ c kết hợ p vớ i công
nghệ.
Có một hàng dài x ếp hàng đến ch ỗ khán phóng nơi mà bộ phim đượ c chi ếu, nhưng Jobs là
ngư ờ i không thích ch ờ đ ợ i nên đã nói khéo v ớ i nh ững ngư ờ i khác đang x ếp hàng để đượ c lên
trướ c. Luxo Jr đượ c hoan nghênh nhiệt liệt và đư ợ c vinh danh là bộ phim xuất s ắc nh ất, “ồ th ật là
tuyệt, tôi th ự c sự đã hi ểu đư ợ c nó”. Sau đó Jobs đã gi ải thí ch r ằng, “Phim c ủa chúng ta là b ộ phim
duy nh ất không chỉ đượ c làm v ớ i công nghệ t ốt mà còn ch ứa đựng ngh ệ thuậ t trong đó, Pixar đã có
ý đị nh k ết hợ p chúng, như Macintosh đã từng làm.”
Luxo Jr. đã đượ c đề cử gi ải Academy Award (Gi ả i hàn lâm), và Jobs đã ba y đến Los
Angeles đ ể tham d ự l ễ trao gi ải. B ộ phim đã không giành đư ợ c giải nhưng Jobs đã cam k ết r ằng s ẽ
làm ra m ột bộ phim mớ i m ỗi năm, m ặc dù về l ợ i ích kinh doanh thì không có nhiều lý do đ ể làm
vi ệc đó. Vào th ờ i đi ểm nhạ y cảm củ a công ty, ông là ngườ i đã đưa ra nh ững quy ết sách cắt gi ảm
chi phí quy ết liệt nh ất. Sau đó Lasseter có hỏi Jobs về s ố ti ền mà h ọ đã ti ết ki ệm để dành cho bộ
phim ti ếp theo của ông, và Jobs đã đ ồng ý.
Tin Toy
Không ph ải t ất c ả các mối quan hệ của Jobs t ại Pixar đ ều tốt. Xung đ ột l ớ n nh ất c ủa ông là
vớ i ngườ i đồng s áng l ập vớ i Catmull, Alvy Ray Smith. Là một tín đ ồ của Baptist đến từ m ột vùng
nông thôn ở phía bắ c Texas, Smith tr ở thành một trở thành một k ỹ sư hình ả nh v ớ i một phong cách
khá phóng túng, ông có một cơ th ể khỏe m ạnh, m ột gi ọng cườ i sang s ảng và một cái tôi l ớ n. “Vớ i
tính cách củ a Alvy thì ông rất d ễ khiến Jobs cảm thấ y khó chị u. H ọ đ ều là nh ững ngư ờ i có t ầm nhìn
xa, ngu ồn năng lư ợ ng d ồ i dào và cái tôi l ớ n. Alvy s ẽ không sẵn sàng th ỏa hi ệp và bỏ qua mọi
chuy ệ n như Ed đã làm.”
Smith thấ y Jobs là một ngườ i b ị cái tôi và sự uy tín khi ến ông trở nên l ạm dụ ng quy ề n hành.
“Ông ấ y như một nhà truy ề n giáo,” Smith nói. “ông ấ y muốn đi ều khiển m ọi ngườ i, nhưng tôi sẽ
không trở thành nô l ệ của ông ấ y, đó là lý do vì sao chúng tôi x ả y ra mâu thuẫn. Ed thì l ại thư ờ ng
thuận theo số đông.” Jobs đôi khi kh ẳng đ ị nh s ự th ống tr ị củ a mình tại một cu ộc họp bằng cách nói
m ột điều gì đó thái quá hoặc không đúng s ự th ật. Smith s ẽ cảm thấ y khoái chí khi đáp lại bằng m ột
ti ếng cườ i l ớ n hay chỉ l à m ột cái cư ờ i m ỉ m. Điều này khi ến Jobs không ưa ông.
M ột ngày nọ, t ại cu ộ c họ p qu ản trị , Jobs bắt đầu trách móc Smith và các giám đốc đi ều
hành khác c ủa Pixar vì sự ch ậm trễ trong việc hoàn thành các bàng mã cho phiên b ản mớ i c ủa Pixar
Image Computer. Vào th ờ i đi ểm đó, NeXT cũng đang khá chậm ch ạp trong vi ệc hoàn thành b ảng
mã cho máy tính củ a công ty, và Smith đã ch ỉ ra đi ều đó: “Chính ông cũng đang chậm trễ vớ i bãng
mã c ủa NeXT, vì th ế đừng có xen vào vi ệ c củ a chúng tôi nữa.” Jobs đã vô cùng tứ c gi ận đặ c bi ệt
khi Smith muốn ám chỉ Jobs là k ẻ “ngo ại đ ạo”. Mỗi khi Smith cảm thấ y bị đả kích ho ặc bị đối ch ấp
thì ông thư ờ ng l ạc gi ọng sang nói bằng giọng miề n Tây nam c ủa mình. Jobs b ắt đầu ch ế gi ễu vào
nhạo báng nó. “Đó là một chi ến thuật c ủa ông ấ y, và tôi đã th ực sự phát điên đúng như bản ch ất
‘mi ền Tây nam’”, Smith nhớ l ại. “Trư ớ c khi tôi kị p nh ận ra, thì chúng tôi đã đứng đ ối m ặt vớ i
nhau, chỉ cách nhau có 3 inches và hét vào mặt nhau.”
Jobs rất thích vi ệc để chiế c bảng tr ắng tinh su ốt bu ổi họp, vì th ế, khi mà Smith “lực lư ỡ ng”
đã g ạt Jobs sang m ột bên và b ắt đầu vi ết lên nó, Jobs đã quát lên r ằng “ông không đượ c làm v ậ y”.
“Sao?” Smith đáp trả, “Tôi không thể vi ết lên chiế c bảng c ủ a ông sao? Th ật là vớ vẩn”.
Đến đây thì Jobs không thể ch ị u đựng đượ c nữ a.
Smit h cu ối cùng đã từ ch ức và thành l ập m ột công ty m ớ i về các ph ần m ềm vẽ k ỹ thu ật s ố
và chỉ nh s ửa ảnh. Jobs đã không cho phép Smith sử dụng một s ố mã mà ông đã tạo ra khi còn làm
vi ệc ở Pixar, điều này càng khi ến m ối quan hệ củ a họ càng tr ở nên gay g ắt. “Alv y cu ối cùng cũng
có đượ c nh ững gì mà ông ấ y muốn,” Catmull nói, “nhưng ông đã bị căng th ẳng trong vòng m ột
năm li ền và sau đó ông đã bị nhiễm trùng phổi.” Cu ối cùng thì m ọi vi ệc cũng di ễn ra thuận lợ i,
Microsoft đã mua công ty củ a Smith, và đã ch ỉ ra cho ông thấ y đư ợ c sự khác bi ệt gi ữa vi ệ c làm
ngư ờ i s áng l ập của một công ty đư ợ c bán cho Jobs và ngườ i s áng l ập củ a mộ t công ty đư ợ c bán cho
Gates.
John th ực sự cảm th ấ y bực t ức khi vào th ờ i đi ểm đó, ba lĩnh vực ch ủ yếu của Pixar - phần
cứng, phần mềm và nội dung phim hoạt hình l ại đang thua l ỗ. “Tôi đã đưa ra k ế hoạch này, và cuối
cùng tôi v ẫn tiếp tụ c ph ải rót thêm ti ền vào đó,” ông nhớ l ại. ông đã muốn dừng l ại nhưng sau đó
ông lại tiếp tục vi ết chi phi ếu. Sau khi thất bại ở Apple và NeXT, ông không còn đủ tài chính cho
bất kỳ s ự m ạo hi ểm nào nữa.
Để ngăn chặt thi ệt hại, ông đã quyế t đị nh mạnh tay sa th ải m ột lo ạt nhân viên. Như Pam
Kerwin nói thì ông ấ y không h ề bày t ỏ tình cảm và cũng không hề có m ột khoản trợ cấp nào cho
những ngư ờ i mà ông đã đu ổi vi ệc. Jobs nh ấn m ạnh r ằng việc sa th ải nhân viên này c ần ph ải đư ợ c
th ực hi ện ngay lập tức và họ s ẽ không đư ợ c trả ti ề n công. Kerwin đã đi dạo cùng vớ i Jobs ở ngoài
công viên và c ố nài n ỉ rằ ng những nhân viên đó cần ph ải đư ợ c thông báo ít nh ất trư ớ c hai tu ần.
“Đư ợ c thôi”, ông nói, “v ậ y thì thông báo này sẽ có hi ệu lực t ừ hai tuần trư ớ c đây”. Catmull lúc đó
đang ở Mat- cơ -va và Kerwin đã gọi liên t ục cho ông ấ y. Khi ông trở v ề, ông đã giảm bớ t s ố lư ợ ng
nhân viên b ị sa th ải và cố gắng làm dị u m ọi chuy ệ n.
Có một th ờ i đi ểm mà các thành viên trong đội thi ế t kế hi ệu ứng đ ộng c ủa Pixar đã c ố gắng
thuy ết ph ục Intel cho phép họ th ực hiện một s ố quảng cáo, và Jobs đã thực sự m ất bình tĩnh. Trong
m ột bu ổi họp, khi mà giám đ ốc Marketing c ủ a Intel đang b ị phê bình thì Jobs đã nhấc đi ện thoại
lên và gọi trực tiếp cho giám đốc điều hành Andy Grove. Grove v ẫn đóng vai trò là một c ố vấn, đã
cố dạ y Jobs m ột bài h ọc: ông ta vẫn ủng h ộ nhà điều hành củ a Intel. “Tôi g ặp khó khăn vớ i nhân
viên của mình,” ông nhớ l ại. “Steve không có v ẻ muốn đư ợ c đối đáp gi ống như m ột nhà cung c ấp.”
Grove cũng đóng vai trò cố vấn khi Jobs đ ề nghị Pixar s ẽ đưa ra các g ợ i ý cho Intel v ề cách
cải thi ện các b ộ vi xử lý trong việ c thực hiện việc dựng đồ họ a 3D. Khi mà các k ỹ sư c ủ a Intel ch ấp
nhận l ờ i đề nghị , thì Jobs đã gửi một bức thư nói rằ ng Pixar c ần ph ải đư ợ c trả công cho vi ệc tư vấn
đó. Kỹ sư trưở ng c ủ a Intel đã tr ả l ờ i l ại r ằng “Chúng tôi chưa bao giờ c ần sử dụng đ ến tài chính đ ể
đổi l ấ y nh ững ý tư ở ng cho các bộ vi x ử lý c ủ a mình trong quá khứ và cũng khô ng có ý đ ị nh s ử
dụng cách đó trong tương lai.” Jobs đã đưa câu trả l ờ i đó cho Greve và nói ông cho r ằ ng s ự đáp l ại
của kỹ sư đó thể hi ện sự kiêu ng ạo và cho thấ y sự nghèo nàn trong hi ểu bi ết c ủa Intel đối vớ i đồ
họa máy tính. Grove đã gửi l ại Jobs m ột bức thư th ẳng thắn nói r ằng việ c chia s ẻ ý tư ở ng là việc
những công ty b ạn và nh ững ngư ờ i bạn thườ ng làm cho nhau, ông cũng nói thêm rằng ông cũng
thư ờ ng xuyên thoải mái chia s ẻ ý tư ở ng c ủ a mình cho Jobs trư ớ c đây và khuyên Jobs không nên
quá hám l ợ i như v ậ y. Jobs đã như ợ ng b ộ. “Tôi đã m ắc ph ải r ất nhi ều lỗi, nhưng m ột vài ngư ờ i
trong s ố họ đã không quay lưng lại” ông tr ả l ờ i. “Và tôi đã thay đ ổi quyết đị nh c ủa mình 180 độ
rằng chúng ta sẽ giúp h ọ không công. C ảm ơn vì đã đưa ra cho tôi một quan đi ểm rõ ràng hơn.”
Pixar đã t ạo ra một s ố phầ n mềm mạnh m ẽ nhắm đế n các khách hàng bình dân, ho ặc ít nhất
là tớ i nh ững những ngư ờ i tiêu dùng trung bình mà có cùng ni ềm đam mê v ớ i Jobs về thiết kế. Jobs
vẫn hy vọng r ằng khả năng tạo ra hình ảnh 3D chân th ực ngay tại nhà s ẽ khiế n cho loại máy tính đ ể
bàn đó tr ở thành một cơn s ốt khi đượ c tung ra th ị trườ ng. Trình di ễn củ a Pixar cho phép ngư ờ i
dùng thay đ ổi bóng m ờ c ủa các đ ối tư ợ ng 3D họ đã tạo ra, từ đó h ọ có th ể cho hi ển th ị chúng ở
nhiều góc đ ộ khác nhau nhờ đánh bóng thích h ợ p. Jobs nghĩ rằng nó thự c sự thuy ết ph ục, nhưng
hầu hết khách hàng đ ều sống mà không c ần đến nó. Đó là một trư ờ ng h ợ p mà niềm đam mê c ủa
ông đã ph ản bội ông: Ph ần m ềm có rất nhi ều các tính năng tuy ệt vờ i bổ sung những phần căn b ản
mà trướ c đây Jobs đ ã yêu c ầu. Pixar không th ể c ạnh tranh đư ợ c vớ i Adobe, m ột công ty thi ết kế
những phần m ềm kém tinh vi hơn nhưng lại ph ức t ạp và đắt đỏ hơn nhiều.
Ngay c ả khi các s ản ph ẩ m phần cứng và các dòng phần m ềm của Pixar đang không đượ c
ủng h ộ thì Jobs v ẫn tiếp tục bảo vệ nhóm ho ạt họ a. Nó đã trở thành một hòn đ ảo nghệ thuật nh ỏ
th ần kỳ có th ể khiến ông chìm sâu vào ni ềm đam mê đó, và ông sẵn sàng nuôi dư ỡ ng và đ ặt cư ợ c
vào nó. Vào mùa xuân năm 1988, công ty của ông không còn đủ ti ền m ặt và ông đã ph ải tri ệu tập
m ột cu ộc họp bàn v ề vi ệ c cắt gi ảm chi tiêu. Khi mọi vi ệc đã qua, Lasseter và nhóm làm vi ệc củ a
ông quá lo l ắng đ ến nỗi không dám đ ề nghị thêm m ột kho ản tiền cho một b ộ phim ngắn khác. Cuối
cùng h ọ cũng đ ề cập đến vấn đề đó và Jobs đã ng ồ i im lặng, đ ắn đo suy nghĩ. Nó có th ể phải c ần
đến gần 300.000 đô - la ngoài túi ti ền củ a ông. Sau một vài phút, ông h ỏi họ có c ốt truyện không.
Catmull d ẫn ông xuống văn phòng đồ họ a, và lúc mà Lasseter bắt đầu thuy ết trình và th ể hi ện sự
nhiệt huyết đối vớ i s ản ph ẩm của mình, Jobs đã b ắt đầu trở nên dễ ch ị u hơn.
Câu chuy ệ n kể về tình yêu c ủa Lasserter, nh ững món đồ chơi cổ. Câu chuy ệ n đư ợ c kể vớ i
bối c ảnh g ồm một ban nhạc đồ chơi vớ i anh chàng tên là Tinny, anh chàng này đã b ị m ột đ ứa bé đe
dọa. Tr ốn thoát dướ i chi ế c gh ế dài, Tinny cố tìm ki ếm m ột đồ chơi giúp anh bảo vệ mình, nhưng
khi đứa bé đó b ị cộc đầu và chiếc gh ế ròi khóc, thì Tinny lại quay lại để dỗ dành c ậu bé.
Jobs nói r ằng ông có th ể cấp tiền cho h ọ. “Tôi tin vào nh ững gì John đã làm,” ông nói. “Đó
là ngh ệ thuật. C ậu ấ y quan tâm và tôi cũng quan tâm đ ến nó. Tôi luôn luôn nói có.” L ờ i nh ận xét
duy nh ất c ủa ông ở cu ối bu ổi thuy ết trình của Lasseter là “Tất c ả những gì tôi mong muốn ở cậu,
John, chính là làm cho nó trở nên tuy ệt vờ i.”
Tin Toy đã giành chi ến thắng tại l ễ trao gi ải Academy Award năm 1988 cho phim ho ạt hình
ngắn, và b ộ phim đ ầu tiên do máy tính t ạo ra. Đ ể k ỷ ni ệm, Jobs đã đưa Lasseter và nhóm làm vi ệc
của ông t ớ i Greens, m ột c ửa hàng chay tại San Francisco. Lasseter c ầm lấ y chi ếc cúp đang đư ợ c
đặt ở gi ữa bàn, nâng lên cao và hướ ng v ề phía Jobs nói “T ất c ả những gì anh mong mu ốn là chúng
ta đã làm đư ợ c m ột bộ phim tuy ệt vờ i.”
Nhóm nghiên cứu m ớ i t ại Disney gồm giám đốc đi ều hành là Micheál Eisner và Jeffrey
Katzenberg Ở bộ phận phim, bắt đầu có ý mu ốn Lasseter quay trở l ại làm vi ệ c cho h ọ. Họ thích b ộ
phim Tin Toy và h ọ nghĩ rằng s ẽ có th ể t ạo ra đư ợ c m ột bộ phim mà ở đó các món đồ chơi cũng có
s ự s ống và tính cách như con ngườ i. Nhưng v ớ i Lasseter, ông r ất coi tr ọng và biết ơn lòng tin mà
Jobs đã dành cho mình, ông c ảm thấ y rằng Pixar là nơi duy nh ất ông có thể t ạ o ra đư ợ c một thế gi ớ i
m ớ i cho những nhân v ật ho ạt hình, ông nói v ớ i Catmull, “Tôi có th ể đến Disney và tr ở thành một
giám đ ốc, ho ặc tôi ở l ại đây và t ạo nên l ị ch s ử.” Vì t hế Disney bắt đầu bàn v ề vi ệc đạt m ột th ỏa
thuận về vi ệc sản xu ất vớ i Pixar. “Nh ững b ộ phim ngắn của Lasseter thự c sự hấp dẫn từ cách k ể
chuy ệ n đến cách sử dụng k ỹ thu ật,” Katzenberg nhớ l ại. “Tôi đã r ất c ố gắng đ ể thuy ết ph ục anh ấ y
làm vi ệc cho Disney nh ưng anh ấ y th ực sự trung thành v ớ i Steve và Pixar. Vì th ế nếu bạn không
th ể đánh bại họ thì b ạn hãy gia nh ập cùng họ. Chúng tôi quyết đị nh tìm ki ếm cách để có th ể làm
vi ệc cùng vớ i Pixar và nhờ đó Pixar s ẽ có th ể làm m ột bộ phim v ề đồ chơi cho chúng tôi.”
Vào thờ i đi ểm này, Jobs đã đổ gần 50.000 đô la ti ền túi củ a mình vào Pixar - hơn m ột nửa
s ố ti ền ông ấ y có đư ợ c sau khi rờ i Apple - và ông vẫn tiếp tục ph ải m ất thêm ti ền vào NeXT, ông
khá cứng r ắn về vấn đề này, ông đã bắt t ất c ả các nhân viên của Pixar từ bỏ những lựa ch ọn của họ
như m ột ph ần thỏa thu ận của ông đ ể có th ể thêm m ột vòng kinh phí cá nhân vào năm 1991. Nhưng
ông lại lãng mạn nơi tình yêu củ a ông thăng hoa cùng vớ i s ự tương giao gi ữa ngành ngh ệ thuật và
công ngh ệ. Ni ềm tin của ông v ề vi ệc nh ữn g khách hàng bình dân s ẽ yêu thích nh ững mô hình 3D
đượ c làm t ừ phần mềm của Pixar hóa ra đã lầm, nhưng nó nhanh chóng đượ c ch ứng minh r ằng b ản
năng đó là đúng khi sự kế t h ợ p giữa nghệ thuật và kỹ thu ật s ố có th ể bi ến đổi nh ững phim hoạt hình
nhiều hơn bất cứ đi ều gì đã xả y ra từ năm 1937 đ ế n th ờ i đi ểm đó, khi mà
Walt Disney mang lại s ự s ống cho Nàng Bạch Tuy ết.
Nhìn lại c ả m ột quá trình, Jobs đúc k ết r ằng, n ếu ông biết nhi ều hơn thì ông đã có th ể t ập
trung vào k ỹ thuật ho ạt hình s ớ m hơn và không c ầ n ph ải lo l ắng v ề vi ệc đẩ y m ạnh phát triển các
ứng d ụng phần cứng và phần m ềm. Mặt khác, n ếu ông biết r ằng phần cứng và phần m ềm không
bao giờ có th ể mang lại l ợ i nhuận thì ông đã không mua l ại Pixar. “Cu ộc sống đôi lúc khi ến cho
chúng ta ph ạm sai lầm nhưng cũng có th ể đó là m ột bư ớ c đệm cho những gì t ốt đẹp hơn.”
Chương 20: M Ộ T NGƯỜ I BÌNH THƯ Ờ NG
“Love” cũng chỉ là m ột t ừ có b ốn ch ữ cái
Mona Simpson và v ị hôn phu c ủa bà, Richard Appel, 1991
Joan Baez
Năm 1982, khi vẫn còn đang làm việc trong nhóm Macintosh, Jobs đã g ặp m ột ca sĩ nh ạc
đồng quê nổi tiếng - Joan Baez thông qua em gái c ủa bà là Mimi Farina, ngư ờ i đứng đ ầu m ột t ổ
ch ức t ừ thiện đang cố gắ ng đ ể huy động ngu ồn quyên góp máy tính cho các nhà tù . M ột vài tu ần
sau đó, ông và Baez đã ăn trưa t ại Cupertino, ông nh ớ l ại: "Tôi đã không mong đ ợ i nhi ều, nhưng cô
ấ y th ự c sự thông minh và hài hư ớ c". Vào thờ i đi ể m đó, ông đã g ần như kết thúc quan hệ vớ i
Barbara Jasinski. H ọ đã từng cùng nhau đi nghỉ ở Hawaii, ở chung trong m ột căn nhà ở vùng núi
Santa Cruz, và th ậm chí đã cùng đến xem m ột bu ổi bi ểu di ễn của Baez. Khi m ối quan hệ của ông
vớ i Jasinski tr ở nên căng th ẳng, Jobs đã bắt đ ầu nghiêm túc hơn v ớ i Baez, ông lúc đó mớ i hai mươi
bả y tu ổi trong khi Baez bốn mươi m ốt tu ổi, tuy v ậ y, họ đã s ống h ạnh phúc v ớ i nhau trong m ột vài
năm. "Nó đã tr ở thành một m ối quan hệ nghiêm túc giữ a hai ngư ờ i bạn tình cờ muốn trở thành
ngư ờ i yêu c ủa nhau", Jobs kể l ại vớ i m ột gi ọng điệ u hơi ti ếc nu ối.
Elizabeth Holmes, một ngư ờ i bạn của Jobs tại trư ờ ng cao đẳng Reed, tin rằng một trong
những lý do ông h ẹn hò v ớ i Baez, không ph ải là vì th ực t ế rằng cô này xinh đ ẹp, hài hư ớ c và tài
năng mà vì cô đã từng là ngư ờ i yêu c ủa Bob Dylan. Bà còn cho biết "Steve yêu s ự kết nối đó vớ i
D ylan”. Baez và Dylan từng có quan hệ yêu đương vào đ ầu nh ững năm 1960, và sau đó họ đi lưu
di ễn vớ i nhau như nh ững ngư ờ i bạn, bao gồm cả chuy ến lưu diễn Revue Rolling Thunder vào năm
1975. (Jobs đã có những b ản in lậu các buổi hòa nhạc đó.)
Khi gặp Jobs, B aez đã có m ột đứa con trai mườ i bốn tu ổi, Gabriel, t ừ cu ộc hôn nhân vớ i
nhà ho ạt động chống chiế n tranh David Harris. Có m ột l ần, trong b ữa trưa, bà đã nói vớ i Jobs r ằng
bà đang c ố gắng đ ể dạ y cho Gabe cách đánh máy. Jobs đã h ỏi “Ý ch ị là trên m ột máy đánh ch ữ ư?".
Khi bà ấ y nói đúng, ông bảo rằng: "Nhưng máy đánh ch ữ là đ ồ l ạ c hậu rồi."
"Nếu m ột máy đánh ch ữ là đò l ạc hậu, thì điều đó có ảnh hưở ng gì đ ến tôi không?" Bà hỏi
l ại. Đã có một kho ảng lặng kì c ụ c trong b ầu không gian hôm đó. Sau đó, Baez đã nói vớ i tôi, "Ngay
khi tôi nói ra điều đó, tôi nh ận ra câu trả l ờ i r ất rõ ràng. Câu hỏi đó ch ỉ làm bầu không khí tr ở nên
căng th ẳng. Th ật kh ủng khi ếp."
M ột ngày, trướ c sự ngỡ ngàng củ a đội dự án Macintosh, Jobs đã xông vào văn phòng cùng
vớ i Baez và cho bà th ấ y nguyên m ẫu của máy Macintosh. Họ đều ch ết l ặng khi thấ y ông s ắp tiết l ộ
về chiếc máy tính v ớ i m ột ngườ i ngoài cu ộ c, cho dù ông có m ột nỗi ám ảnh v ề vi ệc gi ữ bí m ật,
nhưng họ th ậm chí càng ngạ c nhiên hơn trướ c sự hi ện di ện của Joan Baez, ông đã t ặng cho Gabe
m ột chi ếc Apple II, và sau đó ông đã t ặng cho Baez m ột máy tính Macintosh. Qua nh ững l ần đến
thăm, Jobs đã khoe vớ i bà về các tính năng mà ông thích. "Cậu ấ y là ngườ i ng ọt ngào và kiên nh ẫn,
nhưng lại quá uyên bác nên cậu ấ y khá v ất vả để hướ ng d ẫn cho tôi hiểu", bà nh ớ l ại.
Ông bỗng nhiên trở thành một t ỉ phủ, còn bà là một nhân vật có danh ti ếng tầm cỡ th ế gi ớ i,
nhưng lại khá thực t ế và không quá giàu có. Bà không bi ết đi ều gì đã tạo nên một con ngư ờ i như
ông, và v ẫn còn c ảm thấ y khó hiểu khi nói về ông sau g ần ba mươi năm. T ại một b ữa t ối khi h ọ m ớ i
bắt đầu m ối quan hệ, Jobs bắt đầu nói chuyện về Ralph Lauren và c ửa hàng Polo của ông, bà đã
th ừa nh ận mình chưa bao gi ờ đến cửa hàng này. "Có một chi ếc váy màu đ ỏ r ất h ợ p vớ i em", ông đã
nói v ậ y, và sau đó đã lái xe đưa bà đ ến một c ửa hàng trong Trung tâm mua s ắ m Stanford. Baez nhớ
l ại, "Tôi đã nghĩ th ầm, thật l ạ lùng và cũng thật tuy ệ t vờ i, tôi đang h ẹn hò v ớ i m ột trong nh ững
ngư ờ i đàn ông giàu nh ất th ế gi ớ i và anh ấ y mu ốn tặng tôi chi ếc váy đ ẹp đẽ này". Khi chúng tôi tớ i
cửa hàng, Jobs đã mua m ột vài chiếc áo sơ mi cho mình và chỉ cho bà chiếc váy màu đ ỏ. "Em nên
mua nó," ông nói. Bà hơi ng ỡ ngàng, và nói vớ i ông r ằng bà thực sự không đủ khả năng mua nó.
ông đã im l ặng, và họ ra v ề. Bà h ỏi tôi: "Anh có nghĩ rằng n ếu ai đó đã thao thao b ất tuy ệt về về
m ột th ứ gì đó suốt c ả buổi t ối như v ậ y thì ngư ờ i ta s ẽ mua nó cho anh?" bà dườ ng như th ực sự bối
rối về vi ệc này. "Chi ế c váy màu đ ỏ tư ở ng như đã n ằm trong tầm tay. Tôi c ảm th ấ y hơi l ạ v ề đi ều
này", ông đã t ặng bà máy vi tính nhưng lại không t ặng một chi ế c váy, thậm chí khi ông mang hoa
t ặng bà, ông còn kh ẳng đ ị nh v ớ i bà r ằng chúng là số hoa còn sót l ại t ừ m ột s ự ki ện ở công ty. Bà kể:
“Anh ấ y vừ a là ngườ i lãng mạn vừ a là ngườ i s ợ s ự lãng m ạn”.
Khi ông đang thực hi ện d ự án v ề máy tính NeXT, ông đã đi đến nhà c ủa Baez ở W oodside
và khoe v ớ i bà về khả năng chơi nhạc vư ợ t trội c ủ a nó. "Jobs đã để chiếc máy chơi một bản tứ t ấu
của Brahms, anh ấ y nói v ớ i tôi rằng cuối cùng thì máy tính sẽ chơi nh ạ c còn hay hơn là con n gườ i,
th ậm chí còn có âm bội và nh ị p đi ệu tốt hơn," Baez nhớ l ại. Bà đã r ất giận về ý tư ở ng này "Anh ấ y
thì đang hân hoan v ớ i thành qu ả lao đ ộng say mê c ủa mình trong khi tôi đang chìm đ ắm trong một
cơn th ị nh n ộ và suy tư. Làm sao mà anh ấ y có th ể làm ô uế âm nh ạc như v ậ y?"
Jobs tâm sự vớ i Debi Coleman và Joanna Hoffman v ề m ối quan hệ của mình vớ i Baez và lo
l ắng v ề vi ệc liệu mình có th ể kết hôn v ớ i m ột ngườ i đã có m ột c ậu con trai tu ổi thi ếu niên và có lẽ
ngư ờ i đó cũng đã qua th ờ i đi ểm muốn có thêm con. Hoffman đã nói r ằng “ Đôi khi Jobs coi bà ấ y
như là một ca sĩ quá ‘ph ứ c t ạp’ và không ph ải là một ca sĩ 'chính tr ực' th ực sự như Dylan.” Bà ấ y là
m ột ngườ i ph ụ nữ m ạnh mẽ, còn ông muốn ch ứng t ỏ mình có quyền ki ểm soát. Hơn nữa, lúc nào
ông cũng nói r ằng ông muốn có m ột gia đình, và v ớ i bà ấ y, ông bi ết r ằng đó là việc không thể.”
Và như vậ y, sau kho ảng ba năm, họ đã k ết thúc mối tình c ủa mình và tr ở thành b ạn bè. “Tôi
đã tư ở ng r ằng tôi yêu cô ấ y, nhưng th ự c sự tôi chỉ thích cô ấ y rất nhi ều thôi,” sau này ông n ói v ậ y.
"Chúng tôi đã không đ ến đư ợ c vớ i nhau. Tôi mu ốn có con, còn cô ấ y thì không mu ốn sinh thêm bất
k ỳ đứ a con nào n ữa". Trong cu ốn hòi ký c ủa mình năm 1989, Baez đã vi ết về s ự tan v ỡ của bà vớ i
chòng cũ và lý do t ại sao bà không bao gi ờ tái hôn: “Tôi k hông thu ộc về ai, t ừ đầu đã vậ y, th ỉ nh
thoảng điều đó lại bị gi Ấ n đoạn như nh ững buổi dã ngoại”, bà đã thêm m ột nh ận đị nh t ốt đẹp ở
cu ối cu ốn sách “Steve Jobs đã bu ộc tôi phải s ử dụ ng một chi ế c máy xử lý văn bản bằng cách đ ặt
m ột chi ếc trong b ếp nhà tôi”.
Tìm th ấy Joane và Mona
Khi Jobs ba mươi mốt tu ổi, m ột năm sau khi bị Apple sa thải, bà Clara, m ẹ của ông, m ột
ngư ờ i nghiện thu ốc lá, đã m ắc bệnh ung thư phổi. Ông dành th ờ i gian bên giư ờ ng b ệnh, trò chuy ệ n
vớ i bà theo nh ững cách mà trư ớ c đây hiếm khi ông làm, Jobs cũng hỏi mẹ mình một s ố câu hỏi mà
t ừ trướ c đến nay ông đã kiềm ch ế không nói ra. “Khi m ẹ và cha kết hôn, m ẹ là m ột trinh nữ phải
không?” ông h ỏi. Bà g ặp khó khăn khi nói chuy ện nhưng cũng ph ải mỉ m cư ờ i. Đó là lúc bà nói v ớ i
Jobs rằng trướ c đó bà đã k ết hôn v ớ i m ột ngườ i đàn ông đã mãi mãi không bao gi ờ tr ở l ại t ừ cu ộc
chiến tranh. Bà còn k ể chi ti ết cho Jobs nghe v ề vi ệc bà và Paul Jobs đã nhận nuôi ông như th ế nào.
Ngay sau đó, Jobs đã thành công trong việ c l ần ra dấu vết c ủa ngườ i ph ụ nữ đã cho ông đi
làm con nuôi. Jobs bí m ật tìm hi ểu về m ẹ đ ẻ củ a mình từ đầu nh ững năm 1980, lúc đó ông đã thuê
m ột thám tử nhưng đã không biết đư ợ c thông tin gì. Sau đó, ông chú ý đ ến tên c ủa vị bác sĩ ở San
Francisco trên gi ấ y khai sinh của mình, “ông ấ y có tên trong danh bạ đi ện thoại, vì v ậ y tôi đã g ọi
cho ông,” Jobs nhớ l ại. V ị bác sĩ nọ đã không giúp đượ c gì. ông này khẳng đ ị nh r ằng hò sơ đã bị
cháy h ết trong m ột vụ hỏa ho ạn. Đi ều đó là không đúng. Thực t ế, ngay sau khi Jobs gọi đến, vị bác
sĩ đã vi ết m ột lá thư, cho vào một chi ếc phong bì và niêm phong l ại, trên đó ông vi ết “G ửi Steve
Jobs khi tôi qua đờ i”. Khi ông qua đ ờ i m ột th ờ i gian ng ắn sau đó, vợ củ a vị bác sĩ đó đã gửi cho
Jobs b ức thư đó. Trong đó, vị bác sĩ giải thích rằng mẹ của ông là một sinh viên đ ã t ốt nghiệp chưa
l ập gia đình đ ến từ Wisconsin tên là Joanne Schieble.
Jobs đã phải m ất thêm m ột vài tu ần và thuê m ột thám tử khác đ ể đi ều tra thêm v ề bà. Sau
khi sinh ông, bà đã cư ớ i cha đ ẻ của ông là Abdulfattah "John" Jandali, và họ đã có một đứa con
khác, Mona. Jandali đã bỏ rơi h ọ năm năm sau đó, và Joanne k ết hôn v ớ i mộ t hư ớ ng d ẫn viên trư ợ t
tuyết có tính cách r ất màu mè, George Simpson. Cu ộc hôn nhân thứ hai này đã không kéo dài lâu,
và năm 1970, bà bắt đầu m ột cu ộc hành trình dài cùng vớ i Mona (c ả hai ngườ i đều s ử dụng tên
Simpson) đ ến Los Angeles.
Jobs miễn cư ỡ ng đ ể Paul và Clara, nh ững ngư ờ i ông coi là cha m ẹ đẻ của mình bi ết về vi ệc
ông đang tìm hiểu về m ẹ đẻ của mình. V ớ i s ự nhạ y cảm khác thườ ng và những tình cảm sâu nặng
mà ông dành cho “cha m ẹ Jobs” c ủa mình, ông đã lo r ằng h ọ có th ể bị xúc ph ạm. Vì vậ y, ông
không bao giờ liên lạ c vớ i Joanne Simpson cho đ ến sau khi m ẹ Clara qua đờ i vào đ ầu năm 1986.
"Tôi không bao giờ muốn họ cảm th ấ y như thể tôi đã không coi họ là cha m ẹ mình, bở i vì họ th ực
s ự là cha m ẹ tôi," ông nh ớ l ại. "Tôi yêu thương họ nhiều đến nỗi mà tôi không bao gi ờ muốn họ
bi ết về vi ệc tìm kiếm của tôi, và tôi th ậm chí đã cố “b ị t mi ệng” các phóng viên khi bất kỳ ngư ờ i
nào trong số họ “đánh hơi” đượ c đi ều gì đó." Khi Clara qua đờ i, ôn g quyết đị nh k ể cho Paul Jobs
nghe, ngư ờ i cha đã hoàn toàn tho ải mái và nói ông không đ ể bụng n ếu Jobs liên l ạc vớ i m ẹ đẻ của
mình.
Vì vậ y, m ột ngày Jobs đã goi cho Joanne Simpson, nói cho bà bi ết ông là ai, và s ắp xếp một
chuy ế n đi đến Los Angeles đ ể gặp bà. Sau đó, ông đã kh ẳng đ ị nh r ằng ông làm vậ y vì ch ỉ muốn
thoát khỏi sư tò mò. “Tôi tin vào môi trườ ng nuôi dưỡ ng nhiều hơn là s ự di truy ền quyết đị nh nhân
cách m ột con ngư ờ i, th ế nhưng chúng ta v ẫn ph ải t ự hỏi m ột chút về nguồn gốc của mình” Jobs
phân tr ần. Ông cũng muố n trấn an Joanne rằng những gì bà đã làm là đúng. “Tôi muốn gặp m ẹ đẻ
của mình ch ủ yế u là để th ấ y bà ấ y vẫn ổn và cảm ơn bà ấ y, tôi đã r ất vui vì cu ộc đờ i mình đã không
kết thúc b ằng vi ệ c phá thai. Bà ấ y mớ i có 23 tu ổi và đã ph ải trải qua n hi ều khó khăn để sinh ra tôi.”
Joane đã rất xúc đ ộng khi Jobs đến nhà c ủa bà tại Los Angeles. Bà biết r ằng ông nổi tiếng
và giàu có nhưng v ẫn băn khoăn v ề lý do ông đ ạt đư ợ c nh ững điều đó. Bà bắt đầu không kìm nén
đượ c cảm xúc mình. Bà nói rằng bà thấ y vô cùng căng thẳng khi đặt bút ký vào những giấ y tờ để
cho ông đi làm con nuôi, và bà ch ỉ đồng ý làm v ậ y sau khi bi ết r ằng ông sẽ đượ c hạnh phúc trong
ngôi nhà của cha mẹ m ớ i. Bà đã luôn nh ớ ông và rất đau khổ về những gì đã làm. Bà liên t ụ c xin
l ỗi, ngay c ả khi Jobs cam đoan vớ i bà rằng ông hi ể u, và vi ệ c cho ông đi làm con nuôi hóa ra l ại là
m ột hành động đúng đ ắn.
Khi bình tĩnh l ại, bà nói vớ i Jobs r ằng ông có m ột ngườ i em gái ru ột là Mona Simpson,
ngư ờ i sau này là m ột tiểu thuy ết gia đ ầ y tham vọng ở Manhattan. Bà chưa bao gi ờ nói vớ i Mona
rằng cô có một ngườ i anh trai, và trong ngày hôm đó, cô đã đư ợ c bi ết sơ qua v ề tin này qua đi ện
thoại. “Con có một ngườ i anh trai, anh ấ y tuyệt vờ i, nổi tiếng, và mẹ s ẽ đi cùng anh con đến New
York, vì v ậ y con có thể gặp an h,” bà nói. Mona đang dần hoàn thành một cu ốn tiểu thuyết v ề m ẹ và
chuy ế n đi của họ t ừ Wisconsin tớ i Los Angeles mang tên “Anywhere but here” (Bất c ứ đâu trừ nơi
đây). Những ngư ờ i đã đọ c nó sẽ không ng ạ c nhiên r ằng Joanne có phần khó hiểu trong cách nói
ch o Mona biết v ề anh trai mình. Cô từ ch ối tiết l ộ anh mình là ai - ch ỉ nói là ông đã t ừng nghèo khó
nhưng gi ờ thì đã giàu có, đ ẹp trai và nổi tiếng, mái tóc đen dài, và hiện đang sống t ại California.
Mona sau đó đã làm việ c t ại Paris Review, một t ạp chí văn học củ a George Plimpton nằm ở t ầng
tr ệt c ủa tòa nhà gần Sông Đông ở khu vự c Manhattan. Cô và các đồng nghiệp đã bắt đầu m ột trò
chơi đoán về ngư ờ i có kh ả năng là anh trai cô. John Travolta? Đó là m ột trong nh ững d ự đoán đượ c
yêu thích. Các di ễn viên khác cũng là những ứng viên ti ềm năng. Có lúc đã có ngườ i đoán đượ c
rằng “Có th ể đó là m ột trong nh ững ngư ờ i t ạo ra máy tính Apple” nhưng không ai có th ể nhớ đượ c
tên c ủa ngườ i đó.
Buổi gặp gỡ di ễn ra trong ti ền sảnh c ủa khách s ạn st Regis. "Anh ấ y rất bộc trực và đ áng
m ến, m ột ngườ i gi ản dị và ngọt ngào",
Mona nhớ l ại. Ba ngư ờ i họ ngồi xuống và nói chuy ện trong vài phút, sau đó ông đã ti ễn em
gái mình m ột đo ạn dài, chỉ có hai anh em. Jobs đã vui m ừng khi th ấ y ông có môt cô em gái quá
gi ống mình. H ọ đều cương qu yế t trong lĩnh vực của mình, quan sát môi trư ờ ng xung quanh, nhạ y
cảm nhưng lại có ý chí m ạnh m ẽ. Khi đi ăn t ối cùng nhau, h ọ đã nhận thấ y nh ững đi ểm tương đồng
và cuộc nói chuyệ n củ a họ tr ở nên hào h ứng sau đó. "Em gái tôi là m ột nhà văn!", ông ph ấn kh ở i
khoe v ớ i các đồng nghi ệ p của mình tại Apple khi ông phát hiện ra đi ều đó.
Khi Plimpton t ổ ch ức m ột bu ổi tiêc ra m ắt cu ốn “Anywhere but here” vào cuối năm 1986,
Jobs đã bay tớ i New York đ ể đi cùng v ớ i Mona. Họ ngày càng g ần gũi, mặc dù bắt đầu xu ất hi ện
những đi ều ph ứ c t ạp xoay quanh mối quan hệ của họ, kèm theo nh ững câu hỏi h ọ là ai và t ại sao h ọ
l ại đi cùng nhau. Sau này ông cho bi ết “Ban đ ầu Mona không hoàn toàn vui m ừng khi có sự xuất
hi ện của tôi trong cuộc sống c ủa con bé và cách m ẹ dành tình cảm trìu mến cho tôi”. “Khi
đã hi ểu nhau, chúng tôi đã th ực sư trở thành hai ngư ờ i b ạn, con bé là gia đình c ủa tôi. Không có nó,
có l ẽ tôi chẳng biết làm gì c ả. Tôi không th ể tư ở ng tượ ng một ngườ i em gái nào t ốt hơn. Tôi chưa
bao giờ thân thi ết vớ i ch ị nuôi Patty của tôi cả.” Mona cũng đã dành cho ông một tình c ảm sâu s ắc,
có lúc hơi b ảo thủ, thế nhưng sau này cô đã viết về ông bằng m ột ngồi bút s ắ c sảo, A Regular Guy,
cu ốn tiểu thuy ết mô t ả những thói quen c ủa ông chính xác đến khó chị u.
M ột trong vài điều ngườ i ta tranh cãi là phục trang c ủa cô. Cô ăn m ặc như một tiểu thuy ết
gia “đói rách”, và ông thì trách sao cô không m ặc nh ững b ộ đồ “quy ến rũ”. Đã có lúc nh ững l ờ i
bình lu ận của ông làm cô khó chị u đến m ức cô đã vi ết cho ông m ột lá thư “Em là m ột nhà văn tr ẻ,
đây là cu ộc sống c ủa em, và em không hề cố gắng bi ến mình thành một ngườ i mẫu”, ông đã không
tr ả l ờ i.
Nhưng ngay sau đó, có một chi ếc hộp đư ợ c gửi t ừ cửa hàng của Issey Miyake, nhà thiết kế
th ờ i trang Nh ật Bản có phong cách thiết kế cứng nhắc và ch ị u ảnh hưở ng n ặ ng b ở i công nghệ, một
phong cách ưa thích c ủa Jobs. "Anh ấ y đã mua đồ cho tôi", sau này Mona còn cho hay, “anh Jobs
đã chọn nh ững thứ tuyệt vờ i, chính xác số đo c ủa tôi, màu s ắc cũng rất bắt m ắt nữa.” ở đó còn có
m ột b ộ vest ông r ất thích, và đ ề nghị họ chuy ể n cả ba b ộ, giống h ệt nhau, ông nói “Tôi v ẫn còn nhớ
những b ộ đồ đ ầu tiên tôi gửi cho Mona, m ột chi ếc qu ần vải lanh vớ i chi ếc áo màu xanh xám nhạt
trông r ất hợ p vớ i mái tóc màu hung đ ỏ của con bé”.
Ngư ời ch a th ất l ạc
Trong khi đó, Mona Simpson lại đang cố gắng đ ể tìm ki ếm ngườ i cha đ ẻ, ngườ i đã bỏ đi
chu du kh ắp nơi khi cô năm tu ổi. Thông qua Ken Auletta và Nick Pileggi, hai nhà văn n ổi tiếng ở
Manhattan, cô đượ c gi ớ i thi ệu vớ i m ột c ảnh sát nghỉ hưu ở New York, ngư ờ i có m ột phòng thám
t ử riêng. "Tôi trả ông m ột ít ti ền", Simpson nhớ l ại, nhưng vi ệ c tìm kiếm không thành công. Sau
đó, cô đã gặp một thám t ử tư khác ở California, và ông này đã tìm thấ y một đ ị a ch ỉ của Abdulfattah
Jandali tại Sacramento thông qua m ột cu ộc tìm kiếm của Cục phương ti ện cơ gi ớ i. Simpson kể l ại
vớ i anh trai mình và cô đã bay t ừ New York đ ến để gặp ngườ i đàn ông có khả năng là cha củ a họ.
Jobs không muốn đi gặp ông ta. “ông ấ y không đ ố i xử t ốt vớ i tôi”, sau này Jobs gi ải thích.
“Tôi không ghét gì ông ta c ả - tôi thấ y hạnh phúc khi đư ợ c sống. Nhưng điề u làm tôi thấ y khó chị u
đó là ông ta đã không đối xử t ốt vớ i Mona. ông ta đã b ỏ rơi con bé”. B ản thân Jobs cũng đã b ỏ rơi
Lisa, cô con gái ngoài giá thú của mình, và giờ ông đang cố gắng hàn gắn m ối quan hệ của họ.
Nhưng sự phức t ạp đó cũng không hề làm dị u đi suy nghĩ c ủa ông dành cho Jandali. Simpson đã đi
Sacramento m ột mình.
Simpson nh ớ rằng “Ý nghĩ mu ốn gặp cha đã thôi thúc tôi”. Cô thấ y cha mình đang làm việ c
trong một nhà hàng nh ỏ. Thoạt đầu ông dư ờ ng như rất vui khi nhìn th ấ y cô, nhưng sau đó khá là
khiên cưỡ ng. Họ nói chuyệ n vài gi ờ , và ông k ể r ằng, sau khi ông r ờ i kh ỏi Wisconsin, ông d ạ y học,
ròi sau đó thì chuy ể n sang kinh doanh nhà hàng.
Jobs nhắc nh ở Simpson không đượ c nh ắc đến bố và cô đã làm v ậ y. Nhưng có m ột l ần cha
cô tình cờ nói r ằng ông và m ẹ cô đã có một đ ứa con, một bé trai, trư ớ c khi cô đượ c sinh ra. “Anh ấ y
sao ròi cha?” cô hỏi. Ông đáp l ại r ằng: "Chúng ta sẽ không bao giờ th ấ y anh con n ữa. Nó chết ròi”.
Simpson bật dậ y nhưng không nói gì.
Có những điều đáng kinh ngạc hơn khi Mona nghe Jandali mô t ả về những nhà hàng trướ c
đó ông đã đi ều hành, ông nh ấn m ạnh r ằng ông đã có một s ố nhà hàng khá đẹ p, còn sang trọng hơn
cả hệ th ống nhà hàng Sacramento nơi mà sau này h ọ có đ ến. Cha cô vớ i cô m ột cách trìu m ến rằng
ông mu ốn cô có th ể nhìn th ấ y ông khi ông qu ản lý một nhà hàng Đị a Trung Hải ở phía B ắc củ a San
Jose. "Đó là m ột nơi tuy ệ t vờ i," ông nói. "T ất c ả những v ị khách đến đây, hầu hết đều là nh ững
ngư ờ i thành công trong lĩc h vực công nghệ, c ả Steve Jobs n ữa” Simpson choáng váng, " ồi, cậu ấ y
đã từng hay đến đây, một chàng trai ng ọt ngào và luôn tr ả ti ền boa h ậu hĩnh", cha cô nói thêm.
Mona phải ki ềm ch ế đ ể không hét lên “Steve Jobs là con trai củ a bố!”.
Khi bu ổi gặp m ặt kết t húc, cô đã lén gọi cho Jobs t ừ m ột máy điện thoại trả ti ền tại nhà
hàng và h ẹn gặp ông t ại quán cà phê Espresso Roma ở Berkeley. Như m ột chi ti ết khá đ ắt trong câu
chuy ệ n đầ y kị ch tính v ề cá nhân cũng như gia đình Jobs, thì lúc đó, ông đã mang theo Lisa, lúc đó
đang là h ọc sinh ph ổ thông, đang s ống cùng mẹ, Chrisann. Khi c ả ba ngư ờ i họ đến quán cà phê thì
đã g ần đến 10 gi ờ đêm, và Simpson đã thu ật l ại câu chuyện. Jobs ng ạc nhiên là đi ều dễ hi ểu khi cô
đề cập đến cái nhà hàng gần San Jose. Ông vẫn nh ớ nơi đó và th ậm chí c ả ngư ờ i đàn ông là cha đ ẻ
của mình. “Th ật đáng ngạc nhiên”, sau này ông cho biết. “Tôi đã đ ến nhà hàng đó vài l ần, và tôi
nhớ có g ặp ông chủ, m ột ngườ i đàn ông hói đầu gốc Xy -ri. Chúng tôi đã bắ t tay nhau.”
Tuy nhiên, Jobs vẫn không mu ốn gặp ông ấ y. “Tôi là m ột ngườ i đàn ông giàu có và lúc đó
tôi không tin ông ta s ẽ không cố gắng t ống ti ền tôi hay cho báo chí biết về m ối quan hệ của chúng
tôi”, ông nh ớ l ại “Tôi đã đ ề nghị Mona không nói vớ i ông ta v ề tôi.”
Cô không bao giờ nói ra điều này, nhưng vài năm sau đó, Jandali thấ y mối quan hệ của ông
vớ i Jobs lan tràn trên m ạ ng. (M ột blogger th ấ y Simpson đã nói Jandali là cha đẻ mình trong một
cu ốn sách tham kh ảo và đã lu ận ra rằng đó cũng là cha c ủa Jobs.) Lúc đó Jandali đã k ết hôn l ần thứ
tư và làm quản lý th ực ph ẩm và nướ c gi ải khát t ại Khu ngh ỉ dưỡ ng Boomtown và Sòng b ạc ở phía
Tây của Reno, Nevada. Khi ông đưa v ợ m ớ i c ủa mình, Roscille đến thăm Simpson vào năm 2006,
ông đã nh ắc đến vấn đề này. "Câu chuyện về Steve Jobs là sao?" ông hỏi. Cô khẳng đ ị nh chuyệ n
đó là thật, nhưng nói thêm r ằng cô nghĩ Jobs không mu ốn gặp ông. Jandali có v ẻ như cũng ch ấp
nhận đi ều này. “Cha tôi là ngư ờ i chu đáo và là m ột ngườ i kể chuy ệ n hay, nhưng ông r ất, rất th ụ
động”. Simpson kể l ại. “ông đã không bao gi ờ liên lạc vớ i Steve.”
Mona đã biến công cu ộc tìm kiếm ngườ i cha Jandali thành cơ s ở cho cu ốn tiểu thuy ết th ứ
hai c ủa cô, The Lost Father (Ngư ờ i cha th ất l ạc), đượ c xu ất bản vào năm 1992. (Jobs đã thuyết
phục Paul Rand, ngư ờ i thi ết kế logo NeXT, thiết kế trang bìa cho cu ốn tiểu thuy ết, nhưng theo
Simpson, "Nó tồi t ệ vô cùng và chúng tôi không bao gi ờ s ử dụng nó.") Cô cũng đi ều tra v ề các
thành viên khác của gia đình Jandali, ở Homs (thành phố phía tây Xy -ri) và ở M ỹ, và vào năm
2011, cô đã vi ết một cu ốn tiểu thuyết v ề n gu ồn gố c Xy - ri của mình. Đ ại s ứ Xy - ri tại Washington
đã m ờ i cô ăn tối, anh h ọ và v ợ của ông, ngườ i sau này sống tại Florida cũng bay đ ến trong d ị p này.
Simpson cho r ằng Jobs cuối cùng sẽ ch ị u gặp Jandali, nhưng khi thờ i gian trôi qua, ông
th ậm chí càng ít quan tâm đến đi ều đó. Năm 2010, khi Jobs và con trai, Reed, đến bữ a t ối m ừng
sinh nh ật Simpson ở Los Angeles, t ại nhà c ủ a cô, Reed đã dành th ờ i gian xem ảnh ông nội mình,
nhưng Jobs lại ph ớ t l ờ chúng, ông cũng không có vẻ quan tâm về dòng máu Xy - ri của mình. Khi
vấn đề Trung Đông đượ c đưa ra trong cu ộc trò chuyện, thì chủ đ ề này không h ề thu hút ông ho ặ c
khiến ông bày tỏ những quan điểm mạnh m ẽ, ngay cả sau khi Xy - ri bị càn quét trong cu ộ c nổi d ậ y
mùa xuân năm 2011 tại Ả R ập. "Tôi không nghĩ lại có ai đó bi ết về những gì chính quyền nên làm
ở đó," ông trả l ờ i vậ y khi tôi hỏi liệu chính quy ền của t ổng thống Obama có nên can thi ệp sâu hơn
nữa vào cuộ c chi ến ở Ai C ập, Li - băng và Xy - ri. “Can thi ệp cũng ch ết, mà không cũng chết”
Jobs v ẫn duy trì mối quan hệ thân tình vớ i m ẹ đẻ của mình, Joanne Simpson. Nhi ều năm
qua đi, bà và Mona thườ ng đón Gi áng sinh tại nhà Jobs. Nh ững chuyế n thăm đó có thể ấm áp tình
thân, nhưng cũng đ ầ y nư ớ c mắt. Joanne nhiều khi còn bật khóc, nói r ằng bà yêu ông nhiều như thế
nào, và xin l ỗi vì đã bỏ rơi ông. Hóa ra t ất c ả m ọi chuy ện đều ổn, Jobs thườ ng tr ấn an bà. Như ông
đã nói vớ i bà trong m ột dị p Gi áng sinh, "M ẹ đừng lo. Con đã một tu ổi thơ tuy ệt vờ i. M ọi chuy ện
đều ổn mà."
Lisa
Lisa Brennan, trái l ại, không có m ột tu ổi thơ êm đềm. Khi còn bé, cha cô hầu như chẳng
bao giờ ghé thăm. “Tôi không muốn trở thành một ngườ i cha, vì thế tôi s ẽ không làm cha,” sau này
Jobs đã nói như vậ y ch ỉ v ớ i m ột chút ăn năn trong gi ọng nói. Nhưng đôi khi ông cũng cảm nhận
đượ c sợ i dây ràng buộc gia đình. Một ngày, khi Lisa ba tu ổi, khi lái xe ngang qua ngôi nhà ông đã
mua cho cô bé và Chrisann, Jobs quy ết đị nh d ừng l ại. Lisa không biết ông là ai. ông ngồi trên b ậc
cửa, không hề đi vào trong và nói chuy ện vớ i Chrisann. C ảnh tượ ng này lặp lại m ột, hai l ần m ỗi
năm. Jobs s ẽ đến mà không báo trư ớ c, nói chuyệ n m ột chút về vi ệc ch ọn trư ờ ng hay các vấn đề
khác c ủ a Lisa, sau đó lái chiếc Mercedes đi kh ỏi.
Nhưng đến năm 1986, khi Lisa lên tám tu ổi, nh ững chuyế n vi ếng thăm diễ n ra thườ ng
xuyên hơn. Jobs không còn chìm đắm vào những n ỗ l ực mệt mỏi để s áng t ạ o ra Macintosh hay sau
đó là những cuộc tranh đ ấu quyề n lực vớ i Sculley n ữa. ông làm việc ở NeXT, m ột nơi bình l ặng
hơn, thân thi ện hơn, và có tr ụ s ở ở Palo Alto, g ần nơi Chrisann và Lisa sống. Thêm vào đó, cho đến
khi cô vào trung học, rõ ràng Lisa đã b ộc l ộ là m ột đ ứa trẻ thông minh và có năng khi ếu nghệ thuật,
đượ c các giáo viên chú ý bở i kh ả năng vi ết lách c ủ a mình. Cô mạnh mẽ, ho ạ t bát, th ừa hư ở ng một
chút ương ngạnh c ủa cha. Lisa khá giống ông, v ớ i hàng lô ng mày cong và dáng v ẻ cứng c ỏi ki ểu
Trung Đông. Một hôm, trư ớ c sự ngạc nhiên c ủa các đồng nghi ệp, ông đưa cô bé đến công ty. V ừa
nhào lộn trong hành lang, cô bé vừa kêu lên: “Nhìn con này!”
Avie Tevanian, một kỹ sư g ầ y gò và d ễ m ến ở NeXT và là bạn của Jo bs, nhớ l ại r ằng l ần
nào họ đi ăn tối, họ đều dừng l ại gần nhà c ủa Chrisann để đón Lisa. “ông ấ y đối xử vớ i con bé r ất
dị u dàng,” Tevanian nh ớ l ại. “Ông là m ột ngườ i ăn chay, Chrisann cũng v ậ y, nhưng cô bé thì
không. Ông ấ y thoải mái v ớ i đi ều đó. ông gợ i ý cô bé nên g ọi th ị t gà, và cô bé đã làm v ậ y.”
Ăn thị t gà trở thành s ở thích nho nh ỏ của cô khi cô s ống như con thoi giữa cha và mẹ mình,
những ngư ờ i ăn chay và luôn quan tâm đ ặc bi ệt đế n các loại th ức ăn tự nhiên. “Chúng tôi mua đò
ăn - rau diếp xoăn, h ạt quinoa, c ần tây, quả h ạch b ọc carob - trong một c ửa hàng sặ c mùi men, nơi
phụ nữ không nhuộm tóc”. Sau này cô có viết về th ờ i gian cô sống v ớ i m ẹ. “Nhưng đôi khi chúng
tôi cũng thử những món ăn nư ớ c ngoài. Có vài l ầ n chúng tôi mua gà tẩm ướ p cay trong m ột cửa
hàng th ự c ph ẩm cao cấp có cả m ấ y dãy gà đang đư ợ c quay trên xiên, rồi ngồi trên xe và dùng tay
ăn gà t ừ chiếc túi trang trí hình chi ếc lá.” Cha cô, ngườ i đặc bi ệt sùng tín ch ế độ ăn kiêng, thì khó
tính hơn khi ch ọn đò ăn. Một l ần cô th ấ y ông phun ra cả m ột đống súp sau khi bi ết r ằng nó có ch ứ a
bơ. Sau này khi công việc ở Apple đã vào guồng, ông lại quay trở l ại ch ế độ ăn kiêng nghiêm ng ặt.
Ngay c ả khi còn tr ẻ Lisa đã b ắt đầu nh ận ra rằng n ỗi ám ảnh v ề ch ế độ ăn c ủa cha phản ánh m ột
tri ết lý s ống, trong đó s ự khổ hạnh và s ự thiếu th ố n có th ể ti ếp thêm sứ c m ạ nh cho nh ững c ảm xúc
sau đó. Cô nói: “Cha tin rằng những v ụ mùa bội thu là quả ngọt c ủa nh ững vùng đất khô c ằn, và
ni ềm vui kết trái t ừ s ự thiếu th ốn. Cha tôi bi ết m ột đẳng thứ c mà h ầu hết m ọi ngườ i kh ông bi ết:
“Kết qu ả không bao giờ như chúng ta mong muốn”
Vì vậ y, sự thiếu vắng và v ẻ l ạnh lùng c ủa cha cô khi ến cho những kho ảnh khắc ấm áp hi ếm
hoi ở bên ông càng trở nên quý giá hơn nhi ều. “Tôi không sống v ớ i cha, nhưng đôi khi ông d ừng
l ại trư ớ c nhà chú ng tôi, như một v ị th ần đột ng ột xu ất hiện để l ại trong chúng tôi khoảng dư v ị ngọt
ngào trong giây lát hay vài gi ờ đồng h ồ sau đó” cô nh ớ l ại. Hai cha con đã cùng đi d ạo khi Jobs
th ấ y con bé khá thú vị và có thể tâm sự đượ c. Ông cũng đi gi ầ y trư ợ t cùng vớ i cô bé trên nh ững khu
phố vắng v ẻ của Palo Alto và thườ ng d ừng l ại trư ớ c nhà c ủa Joanna Hoffman và Andy Hertzfeld.
Lần đầu tiên ông d ẫn cô bé đ ến để gặp Hoffman, ông ch ỉ gõ c ửa và gi ớ i thi ệu, “Đây là Lisa”.
Hoffman đã nh ận ra ngay. “Rõ ràng là con bé là con gái anh ấ y” cô nói vớ i tôi, “Không ai có khuôn
hàm ấ y. Đó là một khuôn hàm r ất riêng”. Hoffman, cũng đã t ừng phải nếm trải nỗi đau c ủa m ột
ngư ờ i không biết gì về ngư ờ i cha đã li d ị vớ i m ẹ c ủa mình cho đến tận khi bà lên 10 tu ổi, đã đ ộng
viên Jobs hãy là m ột ngườ i cha t ốt hơn. ông đã làm theo l ờ i khuyên của bà, và sau này phải c ảm ơn
bà v ề đi ều đó.
M ột l ần ông mang Lisa theo trong m ột chuy ế n công tác t ớ i Tokyo, và họ ở trong khách s ạn
Okura gọn gàng và xinh đ ẹp. ở quầ y sushi thanh nhã bên dư ớ i, Jobs đã g ọi m ột khay l ớ n unagi
sushi, một món ăn ông thích đến nỗi đã t ự cho phép m ột ngườ i ăn chay như mình đượ c thưở ng
th ức món lươn nóng. Nh ững miếng sushi đư ợ c ph ủ m ột l ớ p muối tinh ho ặc l ớ p m ỏng nướ c sốt
ngọt, và Lisa sau này nhớ l ại chúng đã tan ra trong mi ệng cô như th ế nào. Kho ảng cách giữa hai
cha con h ọ cũng v ậ y. Cô đã viết, “Đó là l ần đầu tiên tôi cảm th ấ y ở bên cạ nh cha th ật dễ ch ị u và
thoải mái, tôi phát hi ện ra rằng, ngoài tính khí nóng nả y thườ ng ngày, ẩn sâu trong con ngư ờ i ông
là s ự ấm áp, và những g óc khu ất trong tâm hồn ông đang dần đần hé m ở . ông b ớ t nghiêm kh ắc vớ i
bản thân mình hơn và tr ở thành một con ngư ờ i đi ề m tĩnh hơn trong khung cảnh tuy ệt đẹp vớ i
những mái vòm lớ n vớ i nh ững chiếc gh ế nhỏ, vớ i món th ị t, và v ớ i tôi.”
Nhưng không ph ải m ọi khoảnh khắc cũng đều ng ọ t ngào và d ễ ch ị u. Jobs đ ối xử vớ i Lisa
cũng th ất thư ờ ng như v ớ i hầu hết m ọi ngườ i, ch ỉ quay vòng vòng giữ a nh ữ ng cái ôm và s ự l ạnh
nhạt. Chuy ế n đến thăm lầ n này ông có thể s ẽ rất vui v ẻ, khôi hài, nhưng lần sau có thể ông sẽ l ạnh
lùng, th ậm chí bẵng đi một th ờ i gian ông không h ề đến. “Cô bé luôn c ảm th ấ y hoài nghi về m ối
quan h ệ gi ữa cha con họ ”, theo như Hertzfeld nói. “Tôi đã đến một bữa tiệc sinh nh ật c ủa cô bé, và
Steve cũng đư ợ c m ờ i đến, nhưng anh ấ y đã đến rất r ất mu ộn. Cô bé đã cực kì lo l ắng và thất vọng.
Nhưng cu ối cùng khi anh ấ y đến, thì cô bé l ại ho ạt bát h ẳn lên”.
Vì thế, Lisa cũng học đư ợ c tính khí th ất thư ờ ng c ủa ông. Trong vài năm m ối quan hệ cha
con họ cứ như m ột trò chơi nhào l ộn vớ i nh ững đ ợ t lao xuống c ứ kéo dài vô t ận bở i s ự cứng đ ầu
của cả hai. Sau một trận cãi vã, họ có th ể không nói chuyệ n vớ i nhau cả m ấ y th áng tr ờ i. C ả hai đ ều
không giỏi trong vi ệc tiếp cận, xin l ỗi và cố gắng hàn gắn, ngay c ả trong thờ i kì ông đang đánh vật
vớ i nh ững v ấn đề liên tiế p về s ức kh ỏ e. M ột ngày mùa thu năm 2010, ông mu ốn vào trong một bốt
ch ụp ảnh công c ộng v ớ i tôi, và d ừng l ại trư ớ c bứ c ảnh chụp lần ông đến thăm Lisa khi cô còn bé.
“Có lẽ tôi v ẫn chưa đến thăm con bé nhiều lắm”. Vì ông đã không nói chuyệ n vớ i cô cả năm tr ờ i,
nên tôi đã hỏi liệu ông có mu ốn gọi cho cô bé một cú đi ện thoại hay m ột bức email hay không, ông
ngẩn ngườ i quay ra nhìn tôi m ột lúc, r ồi quay l ại l ật qua các b ức ảnh cũ khác.
Chuyện tình
Nói đến ph ụ nữ, Jobs có th ể cực kì lãng m ạn. ông ấ y có xu hướ ng yêu ki ểu “sét đánh ”, và
chia sẻ vớ i bạn bè về m ọi thăng tr ầm về m ột m ối quan hệ nào đó, và s ự nhớ mong còn bày ra mặt
m ỗi khi ông ph ải xa bạn gái. Mùa hè năm 1983, ông đến một bữa tiệc t ối nh ỏ ở Thung lũng Silicon
vớ i Joan Baez và ngồi gầ n m ột cô sinh viên đại họ c Pennsylvania, Jennifer Egan, ngư ờ i mà lúc đó
còn ch ẳng dám chắc ông là ai. Lúc đó ông và Baez đã nh ận ra họ sinh ra không ph ải dành cho nhau,
và Jobs c ảm th ấ y bị cu ốn hút b ở i Egan, m ột cô phóng viên c ủa tu ần báo San Francisco trong kỳ
nghỉ hè. Ông đã tìm hi ểu, gọi đi ện cho cô, và đưa cô đến quán Café Jacqueline, một quán nhỏ gần
Telegraph Hill chuyên phục vụ các món bánh tr ứ ng phòng chay.
Họ đã h ẹn hò cả năm tr ờ i, và Jobs thư ờ ng bay về miền Đông đ ể thăm cô. ở hội nghị tri ển
lãm Macworld t ổ ch ức Boston, ông đã tu yên bố vớ i đám đông về vi ệc ông đã yêu sâu sắc như thế
nào thế nên ông c ần ph ải đi ngay để kị p chuy ến bay đ ến Philadelphia gặp bạn gái c ủa mình. Khán
gi ả lúc đó đã rất thích thú. Khi ông đ ến New York, thì cô lại bắt tàu đ ể đ ến vớ i ông ở Carlyle hoặc
ở căn hộ ở vùng thư ợ ng Đông Jay Chiat, và họ s ẽ cùng nhau ăn ở quán Café Luxembourg, t ớ i thăm
(thư ờ ng xuyên) căn hộ ở San Remo nơi ông đang có kế hoạch thiết kế l ại, và đi xem phim hoặc (ít
nhất là một l ần) xem opera.
Ông và Egan cũng nói chuyện hàng gi ờ li ền trên đi ện thoại r ất nhi ều đêm. Chủ đề mà h ọ
luôn tranh cãi vớ i nhau là về đức tin của, nh ững đi ề u ông chiêm nghi ệm sau khi nghiên cứu về Đạ o
Phật, rằng vi ệc tránh khỏi nh ững ràng buộ c củ a vật ch ất là điều rất quan trọng. Mong muốn hư ở ng
th ụ của chúng ta là k hông lành m ạnh, ông nói vớ i cô, và đ ể đạt đến cảnh giớ i thì chúng ta c ần ph ải
xây dựng một cu ộc sống không ràng buộc và không theo đu ổi vật ch ất, ông th ậm chí còn gửi cho
cô m ột đo ạn băng về Kobun Chino, giáo viên Thiền của ông, giảng gi ải v ề những v ấn đề gây ra bở i
những khát khao và ham mu ốn chi ếm đo ạt mọi thứ. Egan ph ản bác l ại. Cô h ỏi r ằng chẳng phải ông
đang tự đi ngư ợ c l ại tri ết lý đó bằng việc t ạo ra máy tính và các s ản ph ẩm mà con ngườ i khao khát
đấ y sao? “Anh ấ y đã cáu điên lên về đi ều này, và chún g tôi đã có những tr ận tranh lu ận nả y l ửa về
nó”, Egan nhớ l ại.
Cuối cùng, ni ềm tự hào của Jobs về những s ản ph ẩ m ông t ạo ra đã chiến th ắ ng cái lý l ẽ củ a
ông rằng con ngườ i nên tránh xa những ràng buộc vào những thứ tài s ản như vậ y. Khi Macintosh
xuất xư ở ng vào tháng Giêng năm 1984, Egan đang ở căn hộ của m ẹ cô ở San Francisco trong kì
nghỉ đông ở trườ ng. Một hôm, các v ị khách đến ăn bữa t ối c ủa m ẹ cô đã r ất ng ạ c nhiên khi Steve
Jobs - m ột ngườ i “b ỗng nhiên nổi tiếng” - đã xuất hi ện ở cửa mang theo m ộ t chi ếc Macintosh còn
nguyên trong hộp và vào phòng ngủ củ a Egan đ ể l ắp đặt.
Jobs nói với Egan, cũng như ông đã nói vớ i m ột vài ngư ờ i bạn khác, v ề dự cảm của ông
rằng ông sẽ không sống lâu. ông đã nói r ằng lý do vì sao ông luôn vội vàng và thi ếu kiên nh ẫn.
“Anh ấ y lúc nào cũng như đang b ị hối thúc vớ i nh ững gì anh ấ y muốn hoàn thành,” Egan k ể l ại.
M ối quan hệ của họ đã k ết thúc vào mùa thu năm 1984, khi Egan nói rõ r ằng cô v ẫn còn quá tr ẻ để
nghĩ đ ến chuy ện kết hôn.
Không lâu sau đó, ngay khi ông và Sculley b ắt đầu có mâu thuẫn ở Apple vào đ ầu năm
1985, trên đườ ng đi d ự m ột cu ộc họp thì Jobs d ừng lại t ại văn phòng c ủa m ộ t ngườ i đang làm việc
vớ i Apple Foundation, m ột t ổ ch ức giúp nh ững chiếc máy tính đ ến đư ợ c tay những tổ ch ứ c phi l ợ i
nhuận. Ngồi trong văn phòng l à một ph ụ nữ tóc vàng duyên d áng , một s ự k ế t h ợ p tuyệt diệu của sự
thuần khiết t ự nhiên phảng phất nét hoang dã v ớ i s ự nhạ y cảm sắ c bén c ủa m ột tư vấn máy tính.
Tên cô là Tina Redse. “Cô ấ y là ngườ i ph ụ nữ đẹp nh ất mà tôi t ừng g ặp,” Jobs nhớ l ại.
Ông gọi c ho cô ngay ngày hôm sau và mờ i cô đi ăn tối. Cô đã t ừ ch ối và nói r ằng cô đang
s ống cùng v ớ i bạn trai. Vài ngày sau, ông đưa cô đi d ạo gần công viên và m ột l ần nữa m ờ i cô ra
ngoài, và lần này cô đã nói v ớ i bạn trai mình r ằng cô mu ốn đi cùng Jobs. Cô rất trung th ực và cở i
m ở . Sau b ữa t ối, cô b ắt đ ầu khóc vì bi ết r ằng cuộc sống c ủ a cô sắp bị xáo trộn. Và đúng là như v ậ y.
Vài tháng sau, cô đã phải chuy ể n tớ i m ột bi ệt th ự không có đò đ ạc ở W oodside. “Cô ấ y là ngườ i
đầu tiên tôi th ực sự yêu”, sau này Jobs nói. “Chúng tôi đã có m ột m ối quan hệ rất gần gũi. Tôi
không bi ết liệu có ai có th ể hi ểu tôi nhiều như cô ấ y không.”
Redse xu ất thân t ừ m ột gia đình không m ấ y yên ả, và Jobs chia sẻ vớ i cô về nỗi đau c ủa
chính mình khi b ị bỏ rơi và nh ận nuôi.
“Chúng tôi đều bị t ổn thưở ng b ở i tu ổi thơ c ủa mình,” Redse nhớ l ại. “Anh ấ y nói v ớ i tôi
rằng chúng tôi là những con ngườ i l ạc lõng, đó là lý do t ại sao chúng tôi thu ộc về nhau.” H ọ r ất
quấn quýt nhau và công khai thể hi ện tình cảm; những giai đo ạn tiến tri ển trong m ối quan hệ của
họ ở NeXT vẫn đư ợ c nhân viên ở đây nh ớ rất rõ. C ả những cuộc cãi c ọ di ễn ra ở rạp chi ếu phim và
trướ c m ặt khách vi ếng thăm W oodside cũng vậ y. Nhưng ông vẫn luôn ca ng ợ i s ự trong s áng và tự
nhiên c ủa cô. Như những gì mà Joanna Hoffman “chân th ật” đã nói về s ự mê muội c ủa Jobs vớ i cô
gái Redse th ánh thiện: “Steve có xu hướ ng nhìn vào sự yế u đu ối và r ối loạn tinh thần và bi ến chúng
thành nh ững thứ th ần th ánh.”
Khi ông b ị sa th ải kh ỏi Apple vào năm 1985, Redse đã đi du l ị ch cùng ông tớ i Châu Âu để
gi ải khuây. Đứng trên m ột chi ếc cầu bắc qua sông Seine vào m ột bu ổi t ối, trong khung c ảnh lãng
m ạn đó, h ọ bàn vớ i nhau về ý đị nh s ẽ ở l ại Pháp, ổn đị nh và s ống suốt đờ i bên nhau. Redse r ất háo
hức, nhưng Jobs l ại không mu ốn vậ y. ông đã th ất bại nhưng vẫn rất tham v ọng. “Anh là hình ảnh
phản chi ếu của chính nhữ ng thứ anh làm”, ông nói v ớ i cô. Cô đã nh ắc l ại giây phút c ủa họ ở Paris
trong một b ức thư xót xa gửi cho ông hai mươi năm sau khi họ đều ch ọn cho mình con đườ ng riêng
nhưng vẫn gi ữ m ối liê n hệ thân tình:
Anh và em đà đứng trên chiếc cầu ở Paris vào mùa hè năm 1985. Bầu trờ i âm u. Hai đứa đâ
dựa vào thành cầu bằng đá trơn mư ợ t và nhìn xu ống dòng nư ớ c xanh cu ộn bên dướ i. Th ế gi ớ i c ủa
anh đà bị vỡ đôi và ng ừng quay, ch ờ đợ i đư ợ c sắp xếp lại. C òn em thì muốn ch ạ y trốn kh ỏi quá
khứ. Em đà c ố gắng thuyết ph ục anh cùng em b ắt đầu m ột cu ộc sống mớ i ở Paris, rũ bỏ con ngườ i
cũ và chờ đón một tương lai mớ i. Em mu ốn chúng ta cùng nhau băng qua những v ự c đen sâu th ẳm
trong thế gi ớ i đổ vỡ của anh và vươn lên, vô danh và mớ i m ẻ, m ột cu ộc sống dung d ị đờ i thư ờ ng,
nơi em n ấu cho anh những b ữa t ối gi ản dị và chúng ta có th ể bên nhau hàng ngày, như những đ ứ a
tr ẻ đang chơi m ột trò chơi ng ọt ngào mà không h ề có ý đị nh s ẽ lưu trò chơi đó l ại. Em thích nghĩ
rằng a nh đà cân nhắ c điề u đó trướ c khi anh cư ờ i và nói r ằng “Vậ y anh có thể làm gì? Anh v ừa mớ i
th ất nghi ệp rồi”. Trong kho ảnh khắc do dự trướ c khi tương lai rõ nét thay đổi chúng ta, em thích
nghĩ rằng chúng ta cùng nhau s ống cuộc đờ i đơn giản ấ y cho đ ến cu ối đờ i, vớ i lũ cháu vây xung
quanh trên một c ánh đồng ở miền Nam nư ớ c Pháp, l ặng l ẽ tr ải nghi ệm hết nh ững tháng ngày c ủ a
chúng ta, ấm áp và trọn vẹn như nh ững ổ bánh mì mớ i, th ế gi ớ i bé nh ỏ của chúng ta s ẽ đầ y ắp
hương vị củ a sự nhẫn nại và tình thân gia đình.
M ối quan hệ này đã trải qua sóng gió trong su ốt năm năm. Redse ghét phải s ống trong ngôi
nhà hầu như chẳng đượ c trang hoàng nội th ất ở Woodside. Jobs đã thuê hai thanh niên t ừng làm ở
Chez Panisse để làm ngư ờ i giữ nhà và nấu các món chay, và họ đã khiến cô cảm th ấ y mình như là
m ột kẻ th ừa thãi. Cô hi ếm khi ra khỏi căn h ộ củ a mình ở Palo Alto, đ ặc bi ệt là sau m ột trận tranh
cãi n ả y lửa vớ i Jobs. “Sự th ờ ờ là m ột hình th ức ngượ c đãi”, cô từng viết nguệ ch ngo ạ c lên b ức
tư ờ ng hành lang d ẫn đến phòng ngủ củ a họ câu này. ông làm cho cô thích thú, nhưng cô cũng b ị
đánh gụ c bở i s ự vô tâm của ông. Sau này nhớ l ại cô đã rất đau khổ như th ế nào khi yêu m ột ngườ i
quá ích k ỉ . Quan tâm sâu s ắc đến m ột ai đó không có kh ả năng quan tâm là m ột dạng đ ặc bi ệt c ủ a
đị a ng ụ c mà cô không h ề mong mu ốn ai ph ải ch ị u đựng.
Họ khác nhau r ất nhi ều th ứ. “Đi t ừ độc ác đến th ánh thiện, họ gần như là hai thái cực trái
ngư ợ c nhau.” Hertzfeld nói. Sự ân c ần củ a Redse đượ c bi ểu lộ qua nh ững việc nh ỏ đến lớ n; cô
luôn cho nh ững ngư ờ i lang thang ti ền, cô tình nguy ện giúp nh ững ai (như cha cô) đang đau khổ vớ i
căn bệnh thần kinh, và cô chăm lo để Lisa và ngay c ả Chrisann cảm thấ y t hoải mái v ớ i cô. Hơn b ất
cứ ai, cô đã giúp thuyết ph ục Jobs dành nhiều th ờ i gian hơn cho Lisa. Nhưng cô thi ếu đi nghị l ực
và tham v ọng c ủ a Jobs. Ph ẩm ch ất đ ẹp đẽ trong con ngư ờ i cô khi ến cô có vẻ hòa hợ p vớ i Jobs, đi ều
đó cũng chính là thứ khiế n họ khó có th ể đ ứng trên cùng m ột chi ến tuyế n. “Mối quan hệ của họ c ực
k ỳ dữ dội”, Hertzfeld nói. “Do tính cách của cả hai ngườ i, vì th ế họ có r ất nhi ều, rất nhi ều nh ững
tr ận cãi vã”.
Họ cũng có s ự khác bi ệt về tri ết lý căn b ản, v ề vi ệ c th ị hi ếu th ẩm m ỹ, về cơ b ản là do b ản
ch ất như Redse nghĩ, hay là mang tính phổ bi ến và có th ể đượ c rèn rũa, như Jobs nghĩ. Cô kết t ội
ông quá b ị ảnh hưở ng b ở i xu hư ớ ng Bauhaus. “Steve tin r ằng nhiệm vụ của chúng tôi là hư ớ ng d ẫn
cho m ọi ngườ i về khiếu th ẩm m ỹ, b ảo m ọi ngườ i đi ều mà h ọ “nên” thích,” cô nh ớ l ại. “Tôi không
dòng tình v ớ i quan đi ểm đó. Tôi tin r ằng khi chúng ta chú ý lắng nghe, cả b ản thân chúng ta và
những ngư ờ i xung quanh, bản ch ất c ủ a chúng ta s ẽ phát tri ển m ột cách đúng đ ắn.”
Càng ở vớ i nhau lâu thì mối quan hệ củ a họ càng tr ở nên xấu đi. Nhưng khi h ọ rờ i xa nhau,
Jobs lại r ất nh ớ cô. Cu ối cùng, mùa hè năm 1989, ông đã c ầu hôn cô. Cô đã không thể ch ấp nh ận.
Cô nói vớ i bạn bè rằng điều đó sẽ khiến cô phát điên. Cô đã trư ở ng thành trong m ột gia đình nhiều
bi ến động, và mối quan hệ của cô vớ i Jobs đã gợ i l ại quá nhi ều đi ểm tư ở ng đồng vớ i môi trư ờ ng
s ống đó. “Tôi không thể là m ột ngườ i vợ t ốt đối vớ i Steve Jobs, một th ần tư ợ ng,” cô gi ải thích.
“Tôi h ẳn sẽ tr ở nên bế t ắc vớ i nó ở m ọi phương di ện. Trong mối quan hệ cá nhân c ủa chúng tôi, tôi
không thể ch ị u đư ợ c sự x ấu xa của anh ấ y. Tôi không mu ốn làm t ổn thương anh ấ y, nhưng tôi cũng
không mu ốn đứng c ạnh và nhìn anh làm t ổn thương nh ững ngư ờ i khác. Đi ề u đó th ật s ự rất đau đ ớ n
và m ệt m ỏi.”
Sau khi h ọ chia tay, Redse đã giúp thà nh l ập OpenMind, một m ạng lướ i chăm sóc về tinh
th ần ở California. Cô đã vô tình đọc một cu ốn sổ tay v ề b ệnh tâm th ần về ch ứng r ối loạn cá nhân tự
yêu bản thân mình thái quá và thấ y rằng Jobs là ngư ờ i có đủ t ất c ả những tiêu chí trong đó. “Cu ốn
sách nh ỏ đã trình bày rất chính xác và gi ải thích rất nhi ều về đi ều mà chúng tôi đã tranh cãi để cu ối
cùng tôi đã nh ận ra rằng việc đợ i ch ờ anh ấ y trở nên thân thi ện và bớ t yêu b ản thân mình hơn cũng
gi ống như đợ i ch ờ m ột ngườ i mù có th ể nhìn th ấ y,” cô nói “Nó cũng g iúp gi ải thích m ột vài quy ế t
đị nh c ủa anh ấ y về con gái Lisa lúc đó. Tôi nghĩ vấn đề ở đây là sự th ấu hi ể u. Anh ấ y thi ếu kh ả
năng th ấu hi ểu.”
Sau đó. Redse đã k ết hôn và có hai con trư ớ c khi ly d ị . Đến tận bây giờ Jobs v ẫn nh ớ cô
ngay c ả sau khi ông đã có m ột gia đình h ạnh phúc. Và khi ông b ắt đầu ph ải chi ến đấu vớ i căn b ệnh
ung thư quái ác, cô đã liên l ạc để giúp đ ỡ ông. Cô r ất dễ xúc động m ỗi l ần nh ớ l ại m ối quan hệ của
họ. “M ặc dù đức tin củ a chúng tôi mâu thu ẫn nhau và khiến cho chúng tôi không th ể có đ ượ c m ối
quan h ệ như chúng tôi t ừng hy v ọng thì s ự quan tâm và tình yêu tôi dành cho anh ấ y mấ y ch ục năm
trướ c vẫn còn.” Còn Jobs b ỗng nhiên bật khóc vào một bu ổi chi ều khi ông đang ngồi trong phòng
khách và nh ớ về cô. “Cô ấ y là m ột trong số những ngư ờ i th ánh thiện nh ất mà tôi t ừng biết”, ông
nói, nư ớ c mắt lăn dài trên gò má. “Có cái gì đó thiêng liêng ở cô ấ y và ở m ối quan hệ mà chúng tôi
đã từng có”, ông nói r ằng mình luôn thấ y hối hận khi h ọ không th ể cùng nhau ti ếp tục, và ông bi ết
rằng cô ấ y cũng vậ y. N hưng điều đó sẽ ch ẳng đi đ ến đâu c ả. Họ đều nh ất trí vớ i nhau như vậ y.
Chương 21: NGƯỜ I ĐÀN ÔNG CỦA GIA Đ Ì NH
T ổ ấm của Jobs
Với Laurene Powell, năm 1991 Laurene Powell
Đến th ờ i đi ểm này, dựa trên hồ sơ tình ái, m ột bà m ối thông minh đã đầ y đủ thông s ố để
phác th ảo ra hình dung v ề ngư ờ i ph ụ nữ phù hợ p vớ i Jobs. Thông minh, nhưng không kiêu ng ạo.
Đủ rắn rỏi để đồng hành cùng ông, nhưng cũng yêu Thi ền đủ để bình tĩnh vư ợ t lên m ọi th ị phi. Có
học th ức và độ c l ập, nhưng đồng thờ i cũng s ẵn sàng lui lại làm h ậu phương cho ch ồng và đ ể xây
đắp m ột gia đình. Hai chân thì ch ạm đất nhưng đ ầ u óc có th ể phiêu t ận chín tầng mây. Đủ khôn
ngoan để bi ết cách qu ản lý ông, nhưng cũng đủ t ự tin đ ể không nh ất thi ết lúc nào cũng dùng chiêu
ấ y. Và đ áng k ể nhất là không thấ y phiền khi một ngườ i ph ụ nữ xinh đ ẹp, tóc vàng duyên d áng l ại
có khiếu hài hướ c mà chỉ thích ăn chay. Th áng 10 năm 1989, sau đ ổ vỡ vớ i Tina Redse, một ngườ i
như th ế đã bướ c vào cuộ c đờ i ông.
Nói cho chính xác, thì m ột cô gái như th ế đã bướ c vào l ớ p học của ông. Jobs tham gia nói
chuy ệ n trong chương trình “Nhìn từ Đỉ nh cao” cho trườ ng Kinh doanh Stanford vào một t ối th ứ
Năm. Laurene Powell lúc đó vừa t ốt nghi ệp trư ờ ng kinh doanh, và cô đư ợ c m ột ngườ i bạn cùng
l ớ p rủ đến dự buổi thuy ết trình này. H ọ đến muộn, cả khán phòng không còn m ột ch ỗ tr ống, v ậ y
nên cả hai đành ph ải ng ồ i ở l ối đi gi ữa các dãy gh ế. Khi nhân viên nhà trư ờ ng đ ến và yêu cầu họ
không đư ợ c ngồi ở đó, Powell kéo b ạn ch ạ y th ẳng lên hàng đầu tiên và chi ế m luôn hai ghế dành
cho khách mờ i. M ột lúc sau, khi Jobs đ ến, ông đư ợ c dẫn đến ngồi c ạnh cô. “Tôi nhìn sang bên
phải, và th ấ y có m ột cô gái vô cùng xinh đẹp, chúng tôi bắt chuy ệ n vớ i nhau trong khi ch ờ đợ i vị
ch ủ to ạ nói l ờ i m ở đầu,” Jobs nhớ l ại. H ọ trò chuy ện vài câu, và Laurene nói đùa rằng s ở dĩ cô ấ y
ngồi ở hàng ghế này là vì cô vừa trúng số, và ph ần thưở ng là ông sẽ phải m ờ i cô ấ y đi ăn tối. “Anh
ấ y rất dễ thương,” sau này cô k ể l ại.
Sau bu ổi n ói chuy ệ n, Jobs rờ i b ục diễn thuyết và xu ống trò chuyện vớ i sinh viên. Ông trông
th ấ y Powell rờ i đi, rồi trở l ại, đứng l ẫn trong đám đông, r ồi l ại r ờ i đi. ông đu ổi theo cô, nhưng bị
th ầ y hiệu trư ở ng gi ữ l ại chào hỏi. Sau khi b ắt k ị p cô ở bãi đ ỗ xe, ông nói, “Xin l ỗi, ch ẳng phải là cô
đã trúng s ố hay gì đấ y sao, tôi ph ải m ờ i cô đi ăn tối mà?” Cô cư ờ i l ớ n. “Th ứ Bả y đư ợ c không?”,
ông đề nghị . Cô đồng ý và trao số đi ện thoại. Jobs quay ra l ấ y xe để chu ẩn bị đến nhà hàng rượ u
vang Thomas Fogarty trên núi Santa Cruz, khu Woodside, nơi nhóm đào t ạo bán hàng c ủ a NeXT
đang tổ ch ức một b ữ a tiệc. Đ ột nhiên ông dừng và quay phắt l ại. “Lúc ấ y, tôi nghĩ, ôi, mình sẽ thích
ngồi ăn t ối v ớ i nàng hơn là v ớ i nhóm đào t ạo kia”, th ế nên tôi quay tr ở l ại ch ỗ đậu xe củ a gặp cô ấ y
và h ỏi, “Chúng ta có thể gặp ngay tối nay không?” Cô đồng ý. Đó là một bu ổi t ối mùa thu tuy ệt
đẹp, và h ọ cùng nhau đi b ộ ở Palo Alto, đ ến m ột nhà hàng ăn chay bé nh ỏ, St. Michael’s Alley và
ở bên nhau liền 4 giờ đồng h ồ. “K ể t ừ đó, chúng tôi luôn ở bên nhau,” ông nói.
Avie Tevanian đã ngồi đợ i trong nhà hàng rư ợ u vang cùng v ớ i nhóm đào tạo của NeXT
su ốt bu ổi t ối hôm đó. “Đôi khi không thể hi ểu nổi Steve, nhưng khi nói chuy ệ n vớ i anh ấ y, tôi nhận
ra có chuyện gì đó đặc biệ t đã xả y ra,” ông k ể. Khi Powell tr ở về nhà, sau n ử a đêm, cô g ọi ngay cho
bạn thân Kathryn (Kat) Smith, lúc ấ y đang ở Berkeley và để l ại l ờ i nh ắn trên điện thoại. “C ậu
không tin nổi chuy ện gì vừa xả y ra vớ i mình đâu”! chi ếc máy ghi lại. “C ậu không tin nổi mình vừa
gặp ai t ối nay đâu!” Smith gọi l ại ngay vào s áng hôm sau và lắng nghe b ạn kể chuy ệ n. “Chúng tôi
đều biết v ề Steve, anh ấ y thu hút sự chú ý b ở i vì chúng tôi đ ều theo học ngành kinh doanh”, cô nh ớ
l ại.
Andy Hertzfeld và vài ngườ i khác sau này đã ph ỏng đoán chính Powell đã lên k ế hoạch h ẹn
hò v ớ i Jobs. “Laurene rất ổn, nhưng cô ấ y bi ết tính toán , và tôi nghĩ cô ấ y đã nh ắm anh ta ngay từ
đầu,” Hertzfeld nói. “Bạ n cùng phòng của cô ấ y nói v ớ i tôi rằng Laurene có vài t ạp chí đăng ảnh
Steve trên trang bìa, và cô ấ y đã th ề s ẽ quyết hẹn hò b ằng đượ c vớ i anh ta. Nếu qu ả th ực Steve đã
bị “gài”, thì đi ều đó quả là m ỉ a mai,” Nhưng sau này Powell khăng khăng cho r ằng không phải
vậ y. Cô đ ến bu ổi nói chuyệ n đó ch ỉ vì b ạn củ a cô muốn th ế, th ậm chí cô còn không chắc l ắm về
ngư ờ i s ẽ di ễn thuyết hôm đó. “Tôi có bi ết Steve Jobs có tham gia nói chuyện, nhưng thực t ế tôi còn
nghĩ có ngư ờ i trình bày hôm đó là Bill Gates cơ,” cô nh ớ l ại. “Tôi b ị l ẫn lộn m ấ y ngườ i này. Đó là
năm 1989. Anh ấ y làm việc ở NeXT, và đi ều đó ch ẳng có gì to tát vớ i tôi. Tôi không hào hức gì cho
cam, chỉ là b ạn tôi muốn đến đó, thế nên chúng tôi đến mà thôi.”
”Ch ỉ có hai ngườ i ph ụ nữ trong cu ộc đờ i mà tôi thực sự yêu, đó là Tina và Laurene,” sau
này Jobs kể l ại. “Tôi đã t ừng nghĩ mình yêu Joan Baez, nhưng thực ra tôi ch ỉ rất thích thôi. Đầu
tiên là Tina, và sau đó là Laurene.”
Laurene Powell sinh năm 1963 ở New Jersey và họ c cách t ự thân v ận động từ rất s ớ m. Cha
cô là m ột phi công thu ộ c Quân chủng H ải quân, hi sinh trong một tai nạn máy bay ở Santa Ana,
California; trong lúc c ố gắng điều khiển m ột chi ếc máy bay h ỏng h ạ cánh, ông chỉ có đ ủ th ờ i gian
để đưa máy bay đáp xuống khu vực không có dân thư ờ ng sinh s ống, mà không có đủ th ờ i gian đ ể
nhả y dù. Cuộc hôn nhân thứ hai c ủa mẹ cô hoá ra lạ i khi ến cả gia đình rơi vào c ảnh tòi t ệ, nhưng cô
bi ết mình không thể bỏ đi, b ở i cô không có cách gì có th ể hỗ tr ợ gia đình mình. Trong 10 năm ròng,
Laurene và 3 c ậu em trai căng th ẳng s ống trong chính ngôi nhà của mình, c ố gắng giữ thái độ ứng
x ử đúng đ ắn, chia nh ỏ vấ n đề ra đ ể gi ải quyết. Cô đã làm r ất gi ỏi. “Nh ững gì tôi học t ừ th ờ i thơ ấu
là rất rõ ràng, tôi luôn mu ốn đư ợ c sống m ột cách độc l ập,” cô nói. “Tôi t ự hào về đi ều đó. Tiền bạc
đối vớ i tôi ch ỉ là công c ụ để s ống đ ộ c l ập, nhưng nó không ph ải là một ph ần làm nên con ngườ i
tôi.”
Sau khi tốt nghiệp trườ ng Đ ại học Pennsylvania, cô làm việc cho Goldman Sachs trong vai
trò là nhà chiến lư ợ c kinh doanh thu nh ập cố đị nh, kiếm cho tài khoản của công ty môi giớ i ch ứng
khoán ấ y một s ố ti ền kh ổ ng lò. Jon Corzine, sếp củ a cô ở Goldman cố gi ữ cô ở l ại làm vi ệc, nhưng
cô cho rằng công việc đó ch ẳng mang l ại đi ều gì tốt đẹp. “Ông có thể s ẽ rất thành công,” cô nói,
“nhưng ông ch ẳng có gì ngoài tiền cả.” Sau ba năm làm vi ệc ở đó, cô bỏ vi ệc và đến Florence,
Italy, s ống ở đó 8 th áng trướ c khi vào học t ại Trườ ng Kinh doanh Stanford.
Sau bữa t ối hôm th ứ Năm, đ ến th ứ Bả y, cô m ờ i Jobs qua nhà mình ở Palo Alto. Kat Smith
t ừ Berkeley xu ống và đóng giả là b ạn cùng phòng vớ i Laurene đ ể đượ c gặp ông. M ối quan hệ củ a
họ nhanh chóng tr ở nên say đ ắm. “Họ hôn và vu ốt ve nhau su ốt,” Smith nói. “Anh ta b ị cô ấ y làm
cho mê m ẩn. Anh ấ y còn g ọi đi ện thoại cho tôi và hỏi, ‘C ậu nghĩ sao, cô ấ y có thích tôi không?’
Tôi rơi vào tình thế khá hài hướ c, khi đượ c ngườ i n ổi tiếng g ọi điện để hỏi nh ững câu tương t ự như
vậ y.”
Giao th ừa năm 1989, c ả ba chúng tôi cùng nhau t ớ i Chez Panisse, nhà hàng n ổi tiếng c ủ a
Alice Waters ở Berkeley, cùng v ớ i Lisa, lúc đó đã 11 tu ổi. Trong b ữ a t ối đã xả y ra chuy ệ n gì đó
khiến Jobs và Powell bắt đầu tranh cãi. Sau đó, ai đi đườ ng n ấ y. Powell tr ở về ngủ t ại phòng c ủa
Kat Smith. Chín giờ s áng hôm sau có tiếng gõ c ử a, Smith ra và th ấ y Jobs trong mưa phùn l ất ph ất
vớ i m ột bó hoa d ại ông hái ở đâu đó. “Tôi có thể vào và gặp Laurene không?” ông h ỏi. Lúc đó cô
vẫn đang ng ủ, và ông đi th ẳng vào phòng. Kho ảng một, hai giờ trôi qua, Smith v ẫn ph ải ngồi đợ i
ngoài phòng khách vì cô không th ể vào phòng ngủ để l ấ y qu ần áo. Cuối cùng, cô đành khoác tạm
lên ngư ờ i chi ế c áo ng ủ để đến quán Peet’s Coffee mua một ít thức ăn. Jobs không hề ló m ặt ra cho
đến bu ổi chi ều. “Kat, c ậu có th ể vào đây một phút không?” ông h ỏi. T ất c ả bọn họ t ụ t ập trong
phòng ng ủ. “C ậu bi ết đấ y, cha củ a Laurene đã qua đ ờ i, còn mẹ của cô ấ y thì không có m ặt ở đây,
và vì c ậu là bạn thân nh ất c ủa cô ấ y, nên tôi muốn hỏi c ậu m ột chuy ện,” ông nói. “Tôi muốn cư ớ i
Laurene. Cậu sẽ chúc phúc cho tôi chứ?”
Smith ng ồi lên giư ờ ng và suy nghĩ. “Cậu th ấ y th ế có đượ c không?” cô hỏi Powell. Khi
nàng g ật đầu nói có, Smith tuyên bố, “Thế nhé, cậ u đã có câu tr ả l ờ i c ủa tôi.”
Tuy nhiên, đó vẫn không ph ải là một câu tr ả l ờ i mang tính quyế t đị nh. Jobs luôn t ập trung
điên cu ồng vào m ột mục tiêu trong m ột kho ảng th ờ i gian, và sau đó, đ ột nhiên, hướ ng s ự chú ý c ủ a
mình sang chỗ khác. Trong công việc, ông luôn chú m ục vào cái mà ông muốn, và m ột khi đã
muốn m ột đi ều gì, thì t ất c ả những thứ còn l ại đều không có ý nghĩa gì vớ i ông h ết, b ất ch ấp vi ệ c
m ọi ngườ i c ố gắng thu hút s ự chú ý c ủa ông đ ến mứ c nào. Trong cuộc sống cá nhân, ông cũng hành
x ử y như vậ y. C ó nh ững lúc ông và Powell không ngần ng ại th ể hi ện sự cu ồ ng nhi ệt như thể th ế
gi ớ i này chỉ có hai ta, khiến nh ững ngư ờ i có m ặt trong đó có c ả Kat Smith và mẹ của Powell phát
ngư ợ ng lên. Những buổi s áng ở nhà của ông ở W oodside, ông đánh th ức Powell dậ y bằn g cách bật
loa h ết công su ất bản nh ạ c “She Drives Me Crazy” (T ạm dị ch: Nàng làm tôi phát điên) c ủa nhóm
Fine Young Cannibal từ chiếc máy nghe nh ạ c củ a mình. Nhưng cũng có lúc ông hầu như quên mất
s ự t ồn tại của cô ấ y. “Steve thay đổi t ừ thái cự c t ậ p trung vào cô ấ y - khi đó cô tr ở thành trung tâm
vũ tr ụ, sang thái c ự c l ạnh lùng, xa cách và ch ỉ t ập trung vào công vi ệ c,” Smith nói. “ông ấ y có sức
m ạnh t ập trung như m ột tia laser, và khi nó chi ếu đến bạn, bạn sáng bừng trong s ự chú ý c ủ a ông
ấ y. Nhưng khi ánh sáng ấ y chi ếu qua một đi ểm khác, xung quanh b ạn lúc ấ y sẽ ch ỉ còn toàn bóng
t ối. Đi ều đó khiến Laurene vô cùng hoang mang.”
Cô đã nhận lờ i c ầu hôn c ủa ông vào ngày đ ầu tiên năm 1990, nhưng vài tháng sau, ông
không hề đ ề cập đến chuy ệ n đó. Cuối cùng, Smith hỏi th ẳng ông dự đị nh v ề đi ều này như th ế nào
khi họ ngồi cùng nhau trên m ột m ỏm cát ở Palo Alto. Chuyện gì xả y ra vậ y? Jobs tr ả l ờ i r ằng ông
cần cảm giác ch ắc ch ắn rằng Powell có thể thu xếp ổn thoả khi s ống trong thế gi ớ i c ủa ông, cũng
như vớ i ki ểu ngườ i như ông. Đ ến th áng Chín, quá ngán ngẩm vì phải ch ờ đ ợ i, cô chuy ển ra ngoài.
Tháng ti ếp theo, ông t ặng cô một chi ếc nh ẫn đính hôn kim cương và cô l ại chuy ể n về s ống chung
vớ i ông.
Tháng Mườ i Hai, Jo bs đưa Powell đến nơi ngh ỉ dưỡ ng yêu thích c ủa mình, làng Kona ở
Hawaii, ông bắt đầu đến đây chín năm v ề trướ c, khi mu ốn gi ảm tải căng th ẳng vì Apple, ông đã
nhờ tr ợ lý tìm cho mình m ột nơi đ ể nghỉ ngơi. Tho ạt tiên, ông có v ẻ không thích cụm những ngôi
nhà gỗ n ằm ôm lấ y bãi bi ển rộng lớ n ở Hawaii. Đó là một khu ngh ỉ dưỡ ng gia đình, vớ i nh ững nhà
ăn công c ộng. Nhưng chỉ sau đó vài giờ đồng h ồ, ông b ắt đầu cảm th ấ y đây đích thị là m ột thiên
đườ ng. Chính s ự đơn gi ả n và vẻ đẹp dung dị ở nơi đây đã lay động tâm hòn ông, khiến ông luôn
muốn trở l ại bất c ứ khi nào có thể. Ông đã cùng Powell tận hư ở ng thiên đườ ng đó vào th áng Mườ i
Hai năm đó. Tình yêu củ a họ đã trưở ng thành. Đêm trướ c l ễ Gi áng sinh, m ột l ần nữa ông l ại tuyên
bố, và l ần này còn chính thức hơn, r ằng ô ng muốn cư ớ i nàng. Không lâu sau đó, một yếu t ố nữa đã
khiến quyế t đị nh ấ y nhanh chóng đượ c th ực hi ện. Chính t ại Hawaii, Powell đã có thai. “Chúng tôi
bi ết ch ắc ch ắn nơi x ả y ra chuy ệ n ấ y,” sau này Jobs kể l ại kèm một nụ cư ờ i l ớ n.
Đám cưới , ngày 18 tháng Ba, 1991
Vi ệc Powell có bầu không thự c sự là đi ểm m ấu ch ốt c ủa vấn đề. Jobs, m ột l ần nữa chùn lại
trướ c đám cư ớ i, m ặ c dù chính ông là ngư ờ i c ầu hôn đ ến hai lần, m ột l ần vào đ ầu năm, m ột l ần vào
cu ối năm 1990. Gi ận dữ, cô đã rờ i kh ỏi nhà c ủa ông và trở v ề s ốn g ở nhà củ a mình. Đ ầu tiên, ông
đã im l ặng hoặ c là ph ớ t l ờ tình hu ống đó. Sau đó, ông l ại nghĩ có l ẽ mình v ẫn còn yêu Tina Redse;
ông gửi t ặng hoa hồng và c ố gắng thuyết ph ục cô quay tr ở l ại, th ậm chí là k ế t hôn. Ông không chắc
là mình mu ốn gì, và ông khiến cả b ạn bè, th ậm thậ m chí là c ả những ngư ờ i ch ỉ quen bi ết sơ sơ kinh
ngạ c khi h ỏi họ xem ông nên làm gì. Ai đáng yêu hơn, ông h ỏi, Tina hay Laurene? Họ thích ai
hơn? Ông nên kết hôn v ớ i ai? Chuyện này có đư ợ c nh ắc đến trong ti ểu thuyế t A Regular Guy (T ạm
dị ch: Anh chàng Hoàn h ả o), nhân vật mang hình tư ợ ng Jobs “đã hỏi hơn một trăm ngườ i xem họ
th ấ y ai xinh đẹp hơn.” Không h ề hư c ấu; trên th ực t ế, s ố ngư ờ i đư ợ c hỏi cũng gần đạt con s ố m ột
trăm.
Cuối cùng ông cũng đưa ra đư ợ c l ự a ch ọn đúng đắ n. Như Redse đã k ể l ại vớ i bạn bè, cô
không th ể s ống n ổi nếu trở l ại vớ i Jobs, cũng như không hề muốn đám cư ớ i. M ặc dù ông đã từng
héo hon ti ều tu ỵ v ề m ối liên h ệ thiên nhi ều về tinh th ần vớ i Redse, nhưng m ố i quan hệ củ a ông v ớ i
Powell lại có sự vững b ề n hơn. ông thích cô , ông yêu cô, ông tôn tr ọng cô và ông c ảm th ấ y thoải
mái khi ở bên cô. Có thể cô ấ y không có s ự hấp dẫ n huyền bí, nhưng cô ấ y chính xác là nơi neo đậu
của cu ộc đờ i ông. “ông ấ y quá may mắn khi quy ết đ ị nh d ừng lại ở Laurene, cô ấ y thông minh và có
th ể hỗ tr ợ cho ông ấ y, đồng thờ i l ại có th ể ch ị u đựng đượ c tính cách thất thư ờ ng và d ữ dội c ủa ông
ấ y,” Joanna Hoffman nói. “Vì cô ấ y không cuồng loạn, nên có th ể Steve c ả m th ấ y cô ấ y không kì
di ệu như Tina hay ai đó. Nhưng đi ều ấ y th ật ng ốc nghế ch.” Andy Hertzfeld đồng ý. “Laurene có
bề ngoài giống Tina, nhưng cô ấ y hoàn toàn khác bi ệt, bở i vì cô ấ y cứng r ắn hơn và có cái đ ầu l ạnh
hơn. Đó là lý do vì sao cuộc hôn nhân ấ y thành công.”
Jobs cũng r ất hi ểu đi ều này. M ặc dù cảm xúc của ông lên xu ống thất thư ờ ng, đôi khi ông
còn th ể hi ện là co n ngườ i ti ti ện, nhưng cu ộc hôn nhân của ông l ại r ất bền vữ ng, nó đư ợ c đánh dấ u
bở i s ự trung thành, lòng thành thực, vư ợ t qua bi ết bao thăng trầm và trải qua r ất nhi ều cung bậc xúc
cảm phức t ạp.
Avie Tevanian quyết đ ị nh là Jobs cũng c ần ph ải t ổ ch ức tiệc chia tay đờ i đ ộc thân. Vi ệc này
xem ra không hề dễ dàng như m ọi ngườ i v ẫn nghĩ. Jobs không thích tiệc tùng và cũng ch ẳng có h ộ i
bạn bè nối kh ố nào. Thậ m chí ông còn không có bạn thân nh ất. Thành ra bữa tiệc ch ỉ có Tavanian,
và Richard Crandall, một giáo sư khoa h ọc máy tính ở trườ ng Reed, ngườ i m ớ i bỏ dạ y đến làm
vi ệc cho NeXT tham d ự. Tevanian thuê một chi ế c limo, và khi họ đến nhà c ủa Jobs, Powell ra m ở
cửa trong trang phục củ a một quí ông, đeo râu gi ả và nói cô cũng muốn đư ợ c tham dự bữ a tiệc. T ấ t
nhiên, đó chỉ là m ột câu nói đùa, và rất nhanh chóng, ba chàng thanh niên đ ộc thân, không ai say
x ỉ n ch ạ y xe th ẳng đ ến San Francisco để xem có th ể làm cho b ữa tiệc độc thân nghèo nàn này thêm
chút sắc màu nào không.
Tevanian không đặt đư ợ c ch ỗ trong nhà hàng Greens, một nhà hàng chay ở Fort Mason mà
Jobs yêu thích, nên đành đ ặt ch ỗ ở m ột nhà hàng huyên náo trong khách sạn. “Tôi không muốn ăn
ở đây,” Jobs tuyên bố khi thấ y bánh m ỳ đượ c đặt lên bàn. ông bắt m ọi ngườ i đứng d ậ y, đi ra khỏi
nhà hàng trư ớ c ánh m ắt kinh hãi c ủa Tevanian, ngườ i chưa hề quen v ớ i kiể u ứng x ử của Jobs. Ông
dẫn họ t ớ i quán Café Jaqueline ở North Beach, một nơi đ ầ y gió mà ông yêu thích, ở đây t ất nhiên
là m ột l ựa ch ọn tốt hơn. Sau đó, h ọ lái chi ếc limo đi qua c ầu Golden Gate đ ến m ột quán bar ở
Sausalito, c ả ba đ ều gọi rư ợ u tequila nhưng chỉ nhấp môi. “Thực sự thì đó không ph ải là một bữ a
ti ệc chia tay đ ộc thân tuy ệt vờ i, nhưng đối vớ i m ột ngườ i như Steve, thì đó là t ất c ả những gì t ốt
nhất chúng tôi có th ể làm đư ợ c, hơn nữa, cũng chẳ ng có ai khá c t ự nguyệ n làm điều đó,” Tevanian
nhớ l ại. Jobs cũng r ất trân tr ọng điều này. ông mu ốn Tevanian cư ớ i em gái Mona Simpson của
mình làm vợ . Dù chuy ện ấ y không thành nhưng ch ỉ riêng suy nghĩ ấ y thôi cũng đã th ể hi ện tình
cảm của Jobs dành cho Tevanian.
Powell cũng nh ận th ấ y nhi ều đi ềm báo cho cuộc sống m ớ i mà cô s ắp bư ớ c vào. Khi chu ẩn
bị cho đám cư ớ i, nhân viên d ị ch v ụ gi ấ y m ờ i vi ết tay đ ến trình di ễn cho h ọ xem m ấ y phương án
ch ữ vi ết. Vì không có gh ế ngồi, nên cô nhân viên ph ải ngồi trên sàn đ ể vi ết thử m ấ y m ẫu. Jobs nhìn
những mẫu vi ết tay vài phút ròi đ ứng d ậ y, b ỏ vào phòng. Họ đợ i ông quay trở l ại nhưng không
th ấ y. M ột lúc sau, Powell vào phòng tìm ông. “T ố ng cô ta ra khỏi đây,” ông nói. “Anh không th ể
nhìn n ổi m ấ y sản ph ẩm của cô ta. T ở m quá.”
Vào ngày 18 th áng Ba năm 1991, Steven Paul Jobs, 36 tuổi đã kết hôn cùng Laurene
Powell, 27 tuổi ở Khu nghỉ Ahwahnee Lodge trong Công viên Quốc gia Yosemite. Đư ợ c xây d ựng
t ừ những năm 1920, Ahwahnee là m ột khu ngh ỉ đượ c ghép bở i nh ững tr ụ đá, khối bê tông và nhà
gỗ đượ c thi ết kế theo phong cách tổng h ợ p từ phong cách nghệ thuật Art Deco, trư ờ ng phái Ngh ệ
thuật và Th ủ công. Đám cư ớ i đư ợ c chào m ừng b ằ ng màn b ắn pháo hoa l ộng l ẫ y của Công viên.
Đi ểm kì diệu nh ất ở đây chính là những góc nhìn. Những ô cửa sổ ch ạ y dài từ sàn nhà t ớ i trần nhà,
nhìn ra Vòm đá Half Dome - khối granit hình n ử a mái vòm vươn lên gi ữa trờ i xanh và Thung lũng
Yosemite.
Có kho ảng 50 ngườ i tham d ự l ễ cư ớ i, trong đó cha c ủa Steve, ông Paul Jobs và em gái
Mona Simpson cũng có mặt. Cô đ ến dự l ễ cư ớ i c ùng chòng chưa cướ i, Richard Appel, m ột luật sư,
mà sau này trở thành một nhà vi ết kị ch b ản hài k ị ch truy ền hình. (Anh chính là ngườ i viết kị ch b ản
cho The
Simpsons, nên đã lấ y tên v ợ để đặt tên cho m ẹ của Hommer.) Jobs đã năn n ỉ m ọi ngườ i
phải đến bằng xe bus chuyên dụng; ông mu ốn m ọi th ứ của l ễ cư ớ i đều nằm trong tầm ki ểm soát.
Buổi l ễ di ễn ra trong h ội trư ờ ng bao quanh bằng kính, tuy ết ngoài tr ờ i rơi n ặng h ạt và ch ỉ
th ấ y Đỉ nh Glacier thấp thoáng ở đ ằng xa. Ngườ i ch ủ trì buổi l ễ là Thi ền sư phái Tào Động củ a
Jobs, Kobun Chino, ông lắc một cái g ậ y, đánh cồng, thắp nhang và l ẩm nhẩ m bài kinh v ớ i dáng v ẻ
mà h ầu hết nh ững v ị khách mờ i đều không hiểu gì. “Tôi nghĩ ông ấ y bị say rư ợ u,” Tevanian nói.
Không hề. Bánh cư ớ i đư ợ c đặt theo hình d áng củ a Half Dome, kh ối đá granit cuối cùng củ a thung
lũng Yosemite, nhưng vì yêu c ầu ng ặt nghèo c ủ a ch ủ nhân v ề chiế c bánh chay - không có tr ứng,
s ữa ho ặc bất c ứ s ản ph ẩ m ch ế bi ến nào - nên có m ột vài ngư ờ i khách không th ể nuốt nổi. Sau đó,
hầu hết m ọi ngườ i đều tỏ a đi ng ắm cảnh, còn 3 cậ u em trai của Powell thì chơi trò ném tuy ết đánh
tr ận gi ả, vớ i r ất nhi ều dụ ng c ụ và làm huyên náo c ả lên. “Em th ấ y không, Mona,” Jobs nói vớ i cô
em gái, “ông t ổ của Laurene là Joe Namath, còn ông tổ củ a chúng ta là John Muir. ”
Một gia đình
Powell chia sẻ vớ i chòng niềm hứng thú đối vớ i các ngu ồn lương thực t ự nhiên. Khi còn
học ở trườ ng kinh doanh, cô t ừng làm vi ệc bán th ờ i gian cho Odwalla, m ột công ty rau quả, v ớ i tư
cách là ngư ờ i phát tri ển kế hoạch ti ếp th ị đầu tiên ở đây. Sau khi k ết hôn v ớ i Jobs, cô c ảm nhận
đượ c ý nghĩa quan tr ọng c ủa việc ph ải có m ột s ự nghi ệp riêng, đó là bài học về s ự độc l ập cần thi ết
mà cô học đư ợ c t ừ nhỏ. Do đó, cô bắt đầu xây d ự ng công ty riêng của mình, Terravera, chuyên
cung c ấp sẵn nh ững b ữa ăn hữu cơ và giao hàng đ ến tận các c ử a hàng trên kh ắp vùng B ắc
California.
Thay vì s ống tách bi ệt và ẩn dật trong bi ệt th ự không có đồ đạc ở W oodside, hai v ợ chòng
chuy ể n đến sống ở m ột ngôi nhà duyên d áng và khiêm tốn ở m ột góc phố vớ i hàng xóm là nh ững
ngư ờ i thân quen ở khu cũ Palo Alto. Đó là đị a hạt c ủa nh ững ngư ờ i hàng xóm đặc biệt, trong đó có
nhà đầu tư tài chính có tầ m nhìn John Doerr, nhà sáng l ập Google Larry Page, và ngư ờ i s áng l ập
Facebook Mark Zuckerberg, cùng vớ i Andy Hertzfeld và Joanna Hoffman - nhưng không ph ải là
những ngôi nhà phô trương, và cũng không có những hàng rào cao hay dài hút mắt để che dấu
những ánh nhìn. Thay vào đó, chúng n ằm bình yên bên nhau, nhà này cạnh nhà kia bám theo một
con đư ờ ng phẳng lặng và yên tĩnh, ngăn cách nhau b ằng những lối đi b ộ rộng rãi. “Chúng tôi mu ốn
s ống trong một khu có nh ững ngư ờ i hàng xóm, đ ể sau này lũ tr ẻ có th ể ch ạ y qua, ch ạ y l ại chơi v ớ i
bạn bè củ a mình,” sau này Jobs k ể l ại.
Ngôi nhà cũng không theo trư ờ ng phái tối gi ản hay phong cách hi ện đại mà Jo bs sẽ thiết k ế
như hình dung trướ c đây c ủa ông, lúc nghĩ mình s ẽ có m ột căn nhà riêng. Nó cũng không rộng rãi
hay có đi ểm gì đặc bi ệt đến độ những ngư ờ i đi đư ờ ng phải dừng l ại trầm trồ và chú ý khi h ọ ch ạ y
dọc theo con đườ ng ở Palo Alto. Một nhà thiết kế đ ị a phương tên là Carr Jones đã xây căn nhà này
vào nh ững năm 1930, ông là ngư ờ i chuyên thi ết kế những ngôi nhà m ột cách kì công và c ẩn th ận
theo đúng “cẩm nang phong cách” đ ối vớ i nh ững ngôi nhà gỗ ở nông thôn c ủa nư ớ c Anh hay nướ c
Pháp.
Căn nhà hai tầng đ ượ c xây b ằng g ạch đ ỏ, để l ộ những chiếc rầm gỗ và đượ c l ợ p mái vớ i
những đườ ng cong: nó gợ i lên hình ảnh c ủa một căn nhà nh ấp nhô kiểu vùng Cotswold ở phía Tây
miền Trung nướ c Anh ho ặc nhà c ủa m ột chàng Hobbit khéo tay nào đó từng s ống. Th ứ duy nh ất
mà ngườ i California đ ụng chạm tớ i là một cái sân nh ỏ theo phong cách Mission đư ợ c t ạo ra nh ờ
hai c ánh củ a ngôi nhà. Phòng khách tầng hai có tr ần hình vòm không kiểu cách, v ớ i sàn lát g ạch
vuông và gạch nung đ ỏ. ở góc nhà là một chi ếc cửa sổ ch ữ nhật l ớ n, nhìn th ấ y đỉ nh chóp c ủa trần
nhà; lúc trư ớ c khi Jobs mua căn nhà này, ở đó là m ột t ấm kính màu, sau đó ông cho thay thế bằng
m ột t ấm kính trong suốt. S ự thay đ ổi nữa mà ông và Powell th ực hi ện đó là sửa rộng phòng bếp ra
để kê v ừa một chi ếc lò nư ớ ng pizza và có đủ ch ỗ cho một chi ếc bàn g ỗ dài, nơi tụ họp chính c ủa cả
gia đình. Theo tính toán lúc đ ầu thì sẽ m ất 4 tháng để tu s ửa, nhưng cu ối cùng ph ải m ất đến 16
th áng bở i vì Jobs liên t ục sửa l ại thi ết kế. Họ cũng mua thêm một căn nhà nh ỏ phía sau và phá ngôi
nhà đó đi để Powell bi ến nó thành một khu vư ờ n tự nhiên ngập tràn các lo ạ i hoa theo mùa, cùng
vớ i các lo ại rau và cây trái.
Jobs b ị mê hoặc bở i cách Carr Jones v ận dụng những v ật liệu cũ, trong đó có cả gạ ch đã s ử
dụng và g ỗ t ừ cột đi ện thoại để t ạo ra m ột c ấu trúc đơn giản và vững chắ c. Những chiế c rầm trong
phòng bếp trư ớ c đó đư ợ c dùng để đúc móng cho cầu Golden Gate. Vào thờ i đi ểm ngôi nhà đượ c
cất, thì cây cầu ấ y vẫn chưa đư ợ c xây xong, “ông ấ y là một th ự th ủ công c ẩn trọng và hoàn toàn t ự
học hỏi,” Jobs v ừa nói v ừa ch ỉ vào t ừng chi tiết. “Ông ấ y quan tâm đến cái g ọi là s áng t ạo hơn là
ki ếm tiền, và th ực t ế ông không h ề giàu có. Ông ấ y chưa từng r ờ i kh ỏi Califor nia. Các ý tưở ng c ủ a
ông ấ y xu ất hi ện nh ờ đọc nh ững cuốn sách trong thư viện và Các qui t ắ c Ki ến trúc.”
Jobs không cho bày bi ện đò đ ạc trong ngôi nhà ở W oodside ngo ại trừ m ột vài v ật dụng
thiết yế u: m ột chi ế c t ủ và m ột chi ếc giườ ng trong phòng ngủ, m ột cái bàn hình vuông và vài chiế c
gh ế gập để trong phòng ăn. Ông mu ốn xung quanh mình ch ỉ có những thứ khiến ông có thể ngắm
nghía, và ông khi ến cho hành động đơn gi ản là đi ra ngoài và mua s ắm đồ đạc nên khó khăn.
Thế mà giờ đây ông l ại đang sống trong một căn nhà bình thườ ng v ớ i hàng xóm xung
quanh cùng vợ , và m ột đứa con s ắp chào đờ i, ông c ần ph ải nhượ ng b ộ những điểm cần thi ết.
Nhưng đi ều đó th ực khó khăn. H ọ có giư ờ ng, t ủ và m ột bộ dàn âm thanh trong phòng khách,
nhưng để có những những th ứ như gh ế sofa thì đòi h ỏi thờ i gian tho ả thuận lâu hơn. “Chúng tôi nói
về đồ đạc trên lý thuyết trong 8 năm ròng,” Powell nhớ l ại. “Chúng tôi mất r ất nhi ều thờ i gian đ ể t ự
hỏi, ‘Gh ế sofa đ ể làm gì nh ỉ?’” Mua s ắm vật dụng cũng trở thành một công vi ệc đòi h ỏi s ự thông
thái, ch ứ không ch ỉ đơn gi ản là một thú vui mua s ắm. Vài năm sau, Jobs tả l ại tiến trình mua m ột
chiếc máy giặt m ớ i cho T ạp chí Công nghệ Wired như sau:
Hoá ra ngườ i M ỹ ch ế t ạo máy giặt và máy sấ y sai cách h ết. Ngư ờ i châu Âu làm tốt hơn
nhiều - nhưng họ m ất gấ p đôi thờ i gian đ ể x ử lý quần áo! Ngườ i châu Âu gi ặt qu ần áo vớ i lư ợ ng
nướ c nhi ều hơn 1/4 so v ớ i ngườ i M ỹ và cuối cùng, qu ần áo còn bám l ại ít chất t ẩ y hơn. Đi ều quan
tr ọng nhất, họ không đối xử t ệ vớ i qu ần áo của bạ n. H ọ dùng nhi ều xà phòng hơn một chút, nh i ều
nướ c hơn một chút, nhưng cu ối cùng qu ần áo sạch s ẽ hơn, m ềm m ại hơn và bền hơn r ất nhi ều.
Những lúc t ụ họp gia đình, chúng tôi trò chuy ệ n về những cái đư ợ c m ất c ủa t ừng lự a ch ọn. Chúng
tôi dành r ất nhi ều thờ i gian bàn v ề các thi ết k ế, và cũng bàn b ạ c về những giá trị quan tr ọng đ ối v ớ i
gia đình. Chúng tôi quan tâm tớ i đi ều gì hơn? Chúng tôi thích đ ống quần áo đư ợ c xử lý trong bao
lâu hay c ảm giác qu ần áo m ềm mại hơn và b ền hơn? Chúng tôi dành kho ảng hai tuần để nói v ề vấn
đề này, trên bàn ăn mỗi t ối.
Cuối cùng họ cũng s ắm m ột chi ếc máy giặt và sấ y hi ệu Miele c ủa Đức. “Tôi đã run lên vì
sung sướ ng khi có chúng, hơn bất c ứ đò công ngh ệ nào mà tôi t ừng có trong su ốt nhi ều năm,” Jobs
nói.
M ột tác ph ẩm nghệ thuật mà Jobs mua đ ể treo trong căn phòng khách có t r ần vòm là m ột
bức ảnh bình minh mùa đông trên đỉ nh Siera Nevanda nhìn t ừ Lone Pine, California của Ansel
Adams. Adams cũng vẽ m ột bức tranh tư ờ ng khổ ng lò cho con gái c ủ a ông, mà sau này cô bé đã
bán đi. Một l ần, khi ngườ i giúp vi ệc lau chùi b ức tranh b ằn g khăn ướ t, Jobs đã tìm bằng đượ c
ngư ờ i làm việc vớ i Adams và m ờ i ngườ i này đ ến nhà, bỏ đi m ột l ớ p màu và khôi ph ục l ại bức
tranh.
Ngôi nhà của Jobs khiêm t ốn tớ i m ức Bill Gate đã tỏ chút ái ng ại khi ông cùng v ợ đến
thăm. “Tất c ả mọi người s ống ở đây ư?” Gates hỏ i, khi ấ y ông đang tiến hành xây dựng một khu
bi ệt th ự rộng 6 ha g ần Seattle. Ngay c ả sau khi tr ở l ại Apple l ần hai, khi ấ y Jobs đã là m ột t ỷ phú
nổi tiếng th ế gi ớ i, ông v ẫ n không có đội ngũ an ninh riêng hay ngư ờ i giúp việc toàn thờ i gian, th ậm
chí cửa sau nhà củ a ông v ẫn thườ ng xuyên không khoá vào ban ngày.
Vấn đề liên quan đ ến an ninh cu ối cùng l ại đến, trong tình huống khá bu ồn và khá l ạ lùng,
do Burrell Smith, m ột kĩ sư ph ần m ềm Macintosh đầu bù tóc r ối, hi ền hậu, ngư ờ i bạn nối kh ố của
Andy Her tzfeld, gây ra. Sau khi rờ i Apple, Smith b ị m ắc ch ứng tâm th ần phân liệt. Anh sống trong
ngôi nhà cùng ph ố vớ i Hertzfeld và do b ệnh tình ngày một phát tri ển, anh bắt đầu khoả thân đi lại
trên ph ố, có l ần đập vỡ cửa kính ô tô và nhà thờ . Anh đã ph ải ch ị u đi ều trị bằng các lo ại thu ốc đặc
hi ệu, nhưng vẫn rất khó đ ể ki ểm soát tình hình. Có lúc khi b ệnh lên cơn, anh b ắt đầu đi qua đi l ại
nhà Jobs vào buổi t ối, ném đá vào c ử a sổ, đ ể l ại nh ững b ứ c thư ngu ệ ch ngo ạc, th ậm chí có l ần còn
ném pháo vào nữ a. Anh bị bắt gi ữ, r ồi l ại đư ợ c th ả vì đang phải tiếp tục đi ều trị . “Burrell r ất hài
hướ c và ngây thơ, th ế rồi một ngày th áng Tư, anh ấ y bất ng ờ bị đánh gục,” Jobs nhớ l ại. “Đó là m ột
chuy ệ n kì cục và bu ồn th ảm nhất.”
Jobs rất thông c ảm và thườ ng xuyên hỏi Hertzfeld xem ông có th ể giúp gì thêm không. Có
l ần Smith b ị t ống vào tù và từ ch ối xác đ ị nh danh tính. Ba ngày sau, khi Hertzfeld bi ết chuy ệ n, ông
đã g ọi cho Jobs và đ ề nghị hỗ tr ợ để Burrell đượ c th ả ra. Jobs đã giúp, nhưng ông làm Hertzfeld
ngạ c nhiên v ớ i câu h ỏi: “Nếu chuy ệ n tương t ự x ả y ra vớ i tôi, li ệu cậu có đối t ốt vớ i tôi như đối vớ i
Burrell không?”
Jobs gi ữ ngôi nhà của mình ở W oodside, cách các ngọn núi ở Palo Alto khoảng 10 d ặm. Đã
có lúc ông mu ốn phá 14 phòng ngủ phong cách th ực dân Tây Ban Nha từ năm 1925, và thay vào
đó, lên kế hoạch xây dựng một căn nhà c ự c kì đơn giản, mang phong cách Nh ật Bản hi ện đại vớ i
di ện tích chỉ bằng 1/3. Nhưng trong hơn 20 năm, ông phải đối đầu vớ i m ột lo ạt nh ững cuộ c ch ống
đối dai d ẳng c ủa m ột nhóm những ngư ờ i th ủ cựu cho r ằng cần ph ải gìn gi ữ di ện m ạo nguyên bản
của ngôi nhà. (Năm 2011, cu ối cùng ông cũng có đư ợ c gi ấ y phép san ph ẳng căn nhà, nhưng đến
lúc đó thì ông ch ẳng còn hứng thú xây d ựng ngôi nhà th ứ hai n ữa.)
Cũng có lúc Jobs tận dụng cơ h ội s ử dụng ngôi nhà nửa bị bỏ-rơ i ở W oodside, đặc bi ệt là
chiếc bể bơi để t ổ ch ức các b ữa tiệ c gia đình. Khi Bill Clinton còn là T ổng thống, ông và v ợ là
Hillary Clinton đã trú lại ngôi nhà trang trại trên khu đ ất c ủ a Jobs khi h ọ đế n thăm cô con gái, khi
ấ y đang theo học trư ờ ng Stanford. Bở i vì c ả ngôi nhà chính lẫn ngôi nhà trang trại đ ều không có đò
đạc gì, Powell đã g ọi cho các nhà buôn nội th ất và nghệ thuật trư ớ c ngày Clinton đ ến và thuê tạm
đồ đạc cho ngôi nhà đ ể đón khách. M ột l ần, trong khi ki ểm tra lại đò đạc l ầ n cu ối trư ớ c khi v ợ
chòng ngài t ổng thống đ ế n, lúc ấ y, vụ Monica Lewinsky khi ấ y vừa mớ i bị v ỡ l ở , Powell phát hiện
ra thiếu m ất m ột bức tranh. R ất lo l ắng, cô hỏi nhóm ti ền trạm và D ị ch v ụ Bí m ật c ủa Nhà Tr ắng
xem chuy ện gì đã xả y ra. M ột trong số họ kéo cô ra hành lang và gi ải thích rằng đó chính là bứ c
tranh v ẽ m ột chi ếc váy treo trên giá, và gợ i lên chiếc váy màu xanh lam trong vụ Lewinsky, cho
nên họ đã quy ết đị nh gi ấu nó đi. (Trong m ột cu ộc trò chuy ện qua điện tho ại vào m ột bu ổi t ối mu ộn
vớ i Jobs, Clinton đã h ỏi ông nên xử lý th ế nào vớ i vụ Lewinsky. “Tôi không biết ngài có làm
chuy ệ n đó hay không, nhưng n ếu có, ngài nên nói điều ấ y vớ i đất nư ớ c này,” Jobs nói vớ i t ổng
th ổng. Đáp l ại là s ự im l ặng t ừ đầu dây bên kia.)
Lisa chuyển đến
Gi ữa năm học l ớ p 8, giáo viên của Lisa gọi cho Jobs. Có m ột s ố chuy ện nghiêm tr ọng đã
x ả y ra, và có l ẽ s ẽ là tốt nh ất n ếu cô bé chuy ển ra ngoài, không sống cùng mẹ nữa. Vì v ậ y, Jobs đến
gặp và đi dạo vớ i Lisa, ông hỏi han tình hình và đ ề nghị cô bé v ề s ống chung vớ i mình. Lisa lúc ấ y
đã là m ột cô gái trư ở ng thành, dù m ớ i ch ỉ bướ c sang tu ổi 14, và cô bé suy nghĩ trong vòng 2 ngày.
Sau đó cô đồng ý. Cô cũng biết chính xác mình muốn ở phòng nào: ngay cạnh phòng của cha cô.
Đã có l ần cô ở trong đó, lúc ấ y không có ai ở nhà, cô đã th ử ki ểm tra bằng cách n ằm dài lên sàn nhà
tr ống không.
Đó là quãng th ờ i gian khó khăn. Chrisann Brennan thi tho ảng l ại đi t ừ nhà mình cách đ ấ y
vài dãy nhà và hò hét ngoài sân. Gần đây, khi tôi h ỏi t ại sao cô ấ y l ại hành xử như vậ y và nguyên cớ
vì sao l ại đồng ý để Lisa chuy ể n ra ngoài, cô trả l ờ i r ằng đ ến gi ờ cô cũng không hi ểu nổi vì sao l ại
để chuy ện ấ y xả y ra. Nhưng sau đó, cô viết cho tôi m ột bức thư điện tử dài, trong đó lý giải:
Ông có bi ết Steve làm cách nào đ ể thành ph ố ở W oodside cho phép ông ta phá ngôi nhà c ủa
mình ở W oodside không? Có m ột nhóm ngư ờ i trong khu vự c mu ốn bảo tồ n ngôi nhà đó vì giá trị
l ị ch s ử củ a nó, nhưng Steve v ẫn muốn phá huỷ và xây ở đó một ngôi nhà có vư ờ n cây ăn qu ả. Th ế
là Steve đ ể ngôi nhà t ự huỷ hoại và rơi vào suy tàn b ằng cách b ỏ m ặc nó nhiều năm trờ i, không tu
bổ, s ửa sang gì hết. Chiến lư ợ c mà ông ta thườ ng dùng đ ể đ ạt đư ợ c nh ững gì ông ta muốn đơn giản
là buông xuôi và bỏ m ặc, để đỡ phải mắc míu và vư ớ ng b ận đến nó. Chính vi ệc ông ta chẳng làm gì
căn nhà c ả, thậm chí là đ ể cửa sổ m ở toang c ả năm tr ờ i, khiến ngôi nhà ấ y sẽ t ự s ụp đổ. Tuyệt đỉ nh,
phải không?... Đó cũng chính xác là “chiêu” mà Steve s ử dụng đ ể phá hu ỷ s ự nỗ l ực của tôi VÀ s ự
t ồn t ại của tôi vào thờ i điể m ấ y, khi Lisa 13 hay 14 tuổi đ ể đưa con bé v ề s ống v ớ i ông ta. ông ta b ắt
đầu vớ i m ột chi ến lư ợ c, sau đó chuy ển qua một chi ến lư ợ c khác dễ dàng hơn, nhưng sứ c tàn phá
của nó th ậm chí còn kinh khủng hơn v ớ i tôi và làm cho Lisa hoang mang hơn. Đó có thể không
phải là cách vẹn toàn, nhưng vấn đề là ông ta đã c ó đư ợ c nh ững gì mình mu ốn.
Lisa sống v ớ i Jobs và Powell trong suốt bốn năm học ở trườ ng Trung học Palo Alto và cô
bắt đầu dùng tên Lisa Brennan -Jobs. Ông c ố gắng là một ngườ i cha t ốt, nhưng có nh ững lúc ông
tr ở nên rất l ạnh lùng và xa cách. Khi Lisa cảm th ấ y đến lúc phải trốn thoát, cô đ ến ở nhờ nhà mấ y
ngư ờ i bạn sống g ần đấ y. Powell rất nỗ l ực hỗ tr ợ và cô là ngư ờ i tham dự nhiều nh ất nh ững s ự ki ện
di ễn ra trong trườ ng c ủa Lisa.
Khi Lisa trư ở ng thành hơn lên, dườ ng như cô s ớ m bộc l ộ khả năng. Cô tham gia nhóm làm
báo ở trườ ng h ọc, The Campanile, và tr ở thành ngư ờ i đ ồng xuất b ản. Cùng v ớ i ngườ i b ạn học cùng
l ớ p, Ben Hewlett, con trai lớ n của ngườ i đã trao cho b ố củ a cô công vi ệc đầ u tiên trong đờ i, cô đã
phơi bày nh ững bí mật khi ến ban giám hiệu nhà trư ờ ng phải đối m ặt vớ i nhà c ầm quyền. Sau khi
t ốt nghi ệp trung h ọc, cô bi ết mình muốn đi về phía đông. Cô đăng ký vào đ ại học Harvard - m ạo
ch ữ kí của bố trong t ờ đăng ký b ở i vì lúc ấ y ông v ắng nhà - và đượ c nh ận vào h ọc khoá 1996.
Ở trườ ng Harvard, Lisa làm việc cho t ờ báo củ a trư ờ ng, The Crimson và sau đó là m ột t ạp
chí văn h ọc, The Advocate. Sau khi chia tay vớ i bạ n trai, cô ra nư ớ c ngoài m ột năm, theo học ở
trườ ng Đ ại học King, London. M ối quan hệ của cô vớ i bố vẫn lùm xùm trong su ốt nh ững năm đ ại
học của cô. M ỗi l ần trở v ề nhà, nh ững cuộc tranh cãi v ề những v ấn đề nhỏ nhặt như chuyệ n nên ăn
món gì trong b ữa t ối, cô đã bi ết quan tâm đ ến mấ y đứa em cùng cha khác m ẹ hay không - cũng làm
m ọi chuy ện hỏng bét, và h ọ có th ể không nói chuyện vớ i nhau trong vài tu ầ n, th ậm chí vài tháng.
Những cuộc tranh cãi đôi khi căng thẳng t ớ i m ức Jobs đã có lúc mu ốn ng ừng h ỗ tr ợ tài chính cho
cô, và cô ph ải vay ti ền của Andy Hertzfeld và những ngư ờ i khác. Có lúc Hertzfeld đã cho Lisa vay
20.000 đô-la khi cô nghĩ rằng b ố mình sẽ không chi trả ti ền học cho cô nữa.
“Ông ấ y nổi điên lên v ớ i tôi vì cho con bé vay ti ền,” Hertzfeld nhớ l ại, “nhưng s áng s ớ m
hôm sau ông ấ y đã gọi l ạ i và yêu c ầu kế toán củ a ông chuyể n tiền lại cho tôi ngay.” Jobs cũng
không t ớ i dự l ễ t ốt nghiệp của Lisa vào năm 2000. ông nói, “Con bé thậm chí còn chẳng thèm mờ i
tôi.”
Tuy vậ y, cũng có những kho ảng thờ i gian êm đ ẹp vớ i c ả hai cha con trong su ốt nh ững năm
đó, có thể kể đến mùa hè khi Lisa tr ở về nhà và chuẩn bị bi ểu diễn ở m ột bu ổi hoà nhạc gây quĩ cho
Hi ệp hội Đi ện t ử Không biên giớ i, m ột nhóm nh ững ngư ờ i ủng h ộ cho sự phát tri ển của công nghệ.
Buổi hoà nhạc di ễn ra ở Hội trư ờ ng Fillmore ở San Francisco, v ớ i s ự góp m ặt c ủa nh ững ban nh ạc
rock lừng danh như Grateful Dead, Jefferson Airplane và ngh ệ sĩ ghita Jimi Hendrix. Cô hát khúc
tr áng ca c ủa Tracy Chapman Talkin’ bout a Revolution (Hãy nói về cách m ạng) {“Nhữ ng k ẻ nghèo
hèn rồi s ẽ vùng lên / Và giành lấy nh ữ ng gì h ọ xứ ng đ áng được hư ởng”) trong khi b ố cô đ ứng h ẳn
dậ y, trên lưng vẫn đị u bé Erin, khi ấ y m ớ i 1 tuổi.
M ối quan hệ thăng trầm gi ữa hai b ố con vẫn tiếp tục như v ậ y ngay cả sau khi Lisa chuyển
đến Manhattan và trở thành cây bút t ự do. Vấn đề càng tr ở nên trầm trọng hơn khi Jobs làm
Chrisann vỡ m ộng v ề chuy ệ n tiền bạc. Trướ c đó ông đã mua m ột căn nhà tr ị giá 700.000 đô -la cho
Chrisann và để Lisa đứng tên, nhưng Chrisann đã thuy ết ph ục con gái ký gi ấ y bán nhà, dùng ti ền
đó đi du l ị ch v ớ i m ột vị đạo sư và s ống ở Paris. Đế n khi c ạn túi, cô trở l ại San Francisco và trở
thành ngh ệ sĩ sáng t ạo “tranh ánh sáng ” và bi ểu tư ợ ng Phật giáo. “Tôi là “Ngườ i Kết Nối” và là
ngư ờ i có t ầm nhìn góp ph ần tạo ra tương lai của loài ngư ờ i và các thế hệ sau của Trái Đất,” cô đã
vi ết như v ậ y trên trang web của mình (mà Hertzfeld duy trì giúp cô). “Tôi cảm nhận nh ững hình
dạng, màu s ắc và nh ững t ần số âm thanh của sự rung đ ộng huy ền bí, nhờ đó tôi s áng t ạo và sống
vớ i nh ững b ức ho ạ.” Khi Chrisann c ần tiền để phẫ u thuật xoang và điều trị nha khoa, Jobs từ ch ối
chi tiền, vì th ế mà Lisa không nói chuyện vớ i ông trong vài năm tr ờ i. Và các s ự vụ ki ểu vậ y cứ l ặ p
đi lặp lại.
Mona Simpson đã biến tất c ả những chất liệu th ực t ế ấ y, cộng thêm s ự tư ở ng tượ ng c ủ a
mình tr ở thành ngu ồn cả m hứng cho cu ốn tiểu thuy ết Anh chàng Hoàn hả o của mình, xuất bản
năm 1996. Nhân vật chính trong cuốn sách dựa trên nguyên mẫu của Jobs, và tất nhiên có m ột vài
chi ti ết phóng đ ại t ừ th ực t ế: Cu ốn sách mô tả chuy ện Jobs hào phóng mua tặng cho m ột ngườ i bạn
quí bị bệnh suy thoái xương m ột chi ế c xe hơi đ ặc bi ệt, và mô t ả chính xác r ất nhi ều phương di ện
thô ráp trong mối quan hệ của ông v ớ i Lisa, kể cả chuy ện ông b ị bố m ẹ ru ột bỏ rơi t ừ khi mớ i chào
đờ i. Nhưng có nh ững phần thì hoàn toàn hư c ấu; như chuy ện Chrisann đã dạ y Lisa lái xe từ rất
s ớ m, ví dụ trong sách có c ảnh cô bé “Jane” 5 tu ổi t ự mình lái một chi ếc xe tải qu a núi đ ể đi tìm cha,
t ất nhiên chuy ện đó không bao giờ x ả y ra. Thêm nữa, có những chi tiết nh ỏ trong cuốn tiểu thuyết,
theo như cách nói c ủa dân báo chí, là quá d ễ đoán ra nguyên m ẫu ngoài đ ờ i chính là Jobs, ở ngay
những câu đầu tiên: “Anh ấ y quá b ận rộn, đến nỗi ch ẳng có thờ i gian để t ắ m.”
Bề ngoài, chân dung c ủ a Jobs trong cuốn tiểu thuy ết hư cấu này có vẻ xù xì, thô ráp.
Simpson miêu tả nhân v ậ t chính c ủa mình là ngườ i không h ề “thấ y có bất c ứ lí do nào để ch ạ y theo
mong mu ốn hay s ự gi ật dây c ủa ngườ i kh ác.” Câu chuy ệ n vệ sinh cũng là m ột minh ch ứng mơ hồ
cho hình tư ợ ng c ủ a Jobs. “Anh ấ y không tin vào các chất kh ử mùi và thườ ng xuyên công khai
không che d ấu quan đi ể m nếu có m ột ch ế độ ăn kiêng ng ặt nghèo và một bánh xà phòng bạ c hà,
bạn sẽ không bao giờ đổ m ồ hôi hay b ốc mùi gì hế t.” Nhưng cuốn tiểu thuy ết cũng có rất nhi ều
t ầng nghĩa lãng mạn và ph ức t ạp, và đ ến cu ối con đườ ng là hình ảnh không th ể rõ ràng hơn về m ộ t
ngư ờ i đàn ông b ị m ất quyề n ki ểm soát một công ty vĩ đại mà ông ta chính là ngư ờ i s áng l ập và
ngư ờ i đàn ông đó đã h ọc cách trân trọng đ ứa con gái mà anh ta b ỏ rơi. Cảnh cuối cùng của tiểu
thuy ết là hình ảnh ngư ờ i đàn ông nh ả y vớ i cô con gái c ủa mình.
Sau này Jobs có nói rằng ông không hề đọ c cu ốn tiểu thuy ết đó. “Tôi nghe mọi ngườ i nói
cu ốn tiểu thuyết ấ y viết v ề tôi,” ông kể vớ i tôi, “và nếu như nó nói v ề tôi, thì tôi s ẽ rất r ất b ực mình,
mà tôi thì lại không mu ốn nổi cáu v ớ i em gái c ủ a mình, thế nên tôi không đọc cu ốn sách đó làm gì
cả.” Tuy nhiên, vài th áng sau khi cu ốn sách ra mắt, ông l ại k ể vớ i t ạp chí New York Times rằng ông
có đ ọc nó và th ấ y hình ảnh c ủa mình trong nhân v ậ t chính. “Có kho ảng 25% trong nhân vật ấ y thực
s ự là tôi, nh ất là phong cách,” ông nói v ớ i ký gi ả, Steve Lohr. “Và tôi ch ắc ch ắn sẽ không nói cho
anh bi ết đó là 25% nào. ” Vợ của ông, trên thự c t ế, đã nói r ằng Jobs có liếc m ắt nhìn cu ốn sách và
nhờ bà đ ọc nó giúp ông để xem ông nên làm gì v ớ i nó.
Simpson có gửi bản th ảo đến cho Lisa xem trướ c khi xuất bản, nhưng lúc đ ầu cô bé không
hề đọc trừ đoạn m ở đ ầu. “Trong vài trang đầu, tôi b ắt gặp gia đình c ủa tôi, những chuyện phiếm,
những chuyện, những suy nghĩ củ a tôi và b ản thân tôi trong nhân vật Jane, ” cô nh ớ l ại. “Và kẹp
gi ữa nh ững s ự th ực là nh ững hư c ấu - gi ả dối đ ối v ớ i tôi, khiến chúng tr ở nên nguy hi ểm hơn bở i s ự
ti ệm cận vớ i s ự th ật c ủa chúng.” Lisa đã b ị t ổn thương và cô vi ết một bài báo ng ắn cho t ờ Advocate
của trư ờ ng Harvard để gi ải thích tại sao. B ản nháp đầu tiên r ất cay đ ắng, sau đó cô hạ tông xuống
m ột chút trư ớ c khi xuất bản bài vi ết. Cô c ảm th ấ y tình bạn giữa cô vớ i Simpson b ị xúc ph ạm. “Tôi
không bi ết r ằng, trong sáu năm ròng ấ y,
Mona đang thu th ập thông tin,” cô viết. “Tôi không biết r ằng trong khi tôi tìm ki ếm sự an ủi
nơi cô ấ y, nh ận l ờ i khuyên của cô ấ y, thì cô ấ y, ngư ợ c l ại, cũng đang nhận của tôi.” Cu ối cùng Lisa
cũng làm lành vớ i Simpson. Họ cùng nhau đ ến m ột tiệm cà phê để bàn luậ n về cu ốn sách và Lisa
nói r ằng Simpson sẽ không thể nào kết thúc đư ợ c cu ốn tiểu thuy ết. Simpson nói v ớ i Lisa r ằng ròi
cô s ẽ thích cái kết c ủ a nó. Trong nhiều năm, Lisa đã có m ối quan hệ phập phù v ớ i Simpson, nhưng
dù sao m ối quan hệ đó cũng g ần gũi hơn, theo nhiều cách khác nhau, so v ớ i mối quan hệ gi ữa cô và
bố mình.
Con cái
Khi Powell sinh con đ ầu lòng, năm 1991, chỉ vài tháng sau đám cư ớ i vớ i Jobs, trong hai
tu ần đầu, đứa bé ch ỉ đượ c biết đ ến vớ i cái tên “chàng Jobs con”, bở i vì l ựa ch ọn một cái tên cho em
bé hoá ra ch ỉ ít khó hơn so v ớ i l ựa ch ọn m ột c ái máy gi ặt chút xíu mà thôi. Cu ối cùng họ đặt cho
con trai cái tên là
Reed Paul Jobs. Tên đ ệm rõ ràng là đặt theo tên c ủ a ông n ội, còn tên chính thức (mà c ả
Jobs và Powell đ ều qu ả quyết) rằng nó đư ợ c ch ọn là vì đó là m ột cái tên đ ọc lên nghe r ất hay, ch ứ
không ph ải vì nó là tên trư ờ ng đ ại họ c của Jobs.
Reed rất gi ống cha ở nhiều đi ểm: sắc sảo và thông minh, v ớ i c ặp m ắt sâu th ẳm và m ột vẻ
duyên dáng mê hoặc. Nhưng không giống như bố mình, c ậu có cách ứng x ử rất ng ọt ngào và có v ẻ
thanh tao dung d ị . Cậu cũng r ất s áng t ạo - cũng gi ố ng những đ ứ a trẻ con khác, c ậu thích vận nh ững
trang phụ c hoá trang và chơi trò đóng vai - và sau này trở thành một sinh viên tuy ệt vờ i, ham thích
khoa h ọc. C ậu th ừa hư ở ng ở cha mình cái nhìn chằm ch ằm, nhưng cậu rõ ràng rất tình c ảm và
dườ ng như không có m ột chút ác nghi ệt nào ẩn trú trong con ngư ờ i c ậu.
Erin Siena Jobs sinh năm 1995. Cô bé ít nói và đôi khi phải ch ị u đựng c ảm giác không
đượ c cha chú ý đến nhiề u lắm. Cô có chung niềm đam mê đ ối vớ i thi ết kế và ki ến trúc vớ i cha
mình, nhưng cô cũng học đư ợ c cách gi ữ khoảng cách tình c ảm nhất đị nh, đ ể đảm bảo sẽ không bị
t ổn thương bở i s ự xa cách c ủa ông.
Cô bé nhỏ tu ổi nh ất, Eve sinh năm 1998, và cô bé trở thành đ ứa trẻ có cá tính m ạnh mẽ
nhất, bùng n ổ và hài hư ớ c nh ất, đứa bé hơi b ất cần cũng như không d ựa dẫ m, biết cách đi ều khiển
bố, biết đàm phán vớ i bố (đôi khi thắng), và th ậm chí còn trêu ch ọc bố. Jobs t ừng nói đùa r ằng m ột
ngày nào đó, n ếu cô không trở thành t ổng thống c ủ a nư ớ c M ỹ, thì cô s ẽ là ngư ờ i đi ều hành Apple.
Jobs có một m ối quan hệ bền vững v ớ i Reed, nhưng đ ối vớ i hai cô con gái, ông có vẻ xa
cách hơn. Cũng như đ ối vớ i nh ững ngư ờ i khác, đôi khi ông t ập trung vào chúng, nhưng thư ờ ng thì
ông hoàn toàn ph ớ t l ờ chúng nh ững lúc đầu óc ông bị những thứ khác chi ph ối, “ông ấ y tập trung
vào công vi ệc, và nhiều lúc, ông ấ y như không dành thờ i gian cho lũ con gái,” Powell nói. Có lúc
Jobs bày t ỏ s ự kinh ngạ c vớ i vợ khi thấ y lũ trẻ đã đượ c nuôi dạ y tốt đến m ức nào, “nhất là khi
chúng ta không thư ờ ng xuyên dành th ờ i gian cho chúng.” Câu nói này vừ a làm Powell buồn cư ờ i,
vừa làm cô c ảm thấ y t ủi thân, bở i vì cô đã ph ải t ừ bỏ s ự nghi ệp khi Reed lên hai tuổi và quyế t đị nh
có thêm những đ ứa bé khác.
Năm 1995, CEO của Oracle, Larry Ellison t ổ ch ức sinh nh ật th ứ 40 cho Jobs và m ờ i r ất
nhiều ngôi sao công ngh ệ cùng những nhân v ật đình đám t ớ i d ự. Ellison sau này tr ở thành b ạn thân
của gia đình, ông thư ờ ng đưa cả nhà Jobs đến nh ững dinh thự xa hoa của mình. Reed bắt đầu gọi
ông là “ngư ờ i bạn giàu có của chúng ta”, đ ể trêu ch ọc sự th ật là cha c ủa cậ u đã ph ải ki ềm ch ế rất
nhiều để không phô phang tài s ản. Bài họ c mà Jobs thu nạp đư ợ c t ừ những ngày nghiên c ứu Ph ật
học là sở hữu của cải vật ch ất thư ờ ng chỉ làm cho cu ộc sống thêm h ỗn mang chứ không thêm giàu
có. “T ất c ả những v ị CEO khác mà tôi bi ết đều có két s ắt cá nhân,” ông nói. “Th ậm chí họ còn để
chúng trong nhà. Cách s ố ng như v ậ y th ật điên rồ. Chúng tôi ch ỉ quyế t đị nh r ằng đó không phải là
cách s ống mà chúng tôi muốn nuôi dạ y bọn trẻ.”
Chương 22: CÂU CHUYÊN ĐỒ CHƠI
Buzz và Woody giải c ứ u
Jeffrey Katzenberg
“Làm nh ững điều bất kh ả thi cũng vui theo cách riêng c ủa nó,” Walt Disney đã có l ần nói
như vậ y. Và đó cũng là thái độ ti ếp cận hấp dẫn Jobs, ông ngưỡ ng mộ s ự ám ảnh v ớ i chi ti ết và
thiết kế của Disney và cả m thấ y giữa Pixar và hãng phim ảnh mà Disney sáng l ập vừa vặn phù h ợ p
vớ i nhau m ột cách r ất t ự nhiên.
Công ty Walt Disney đã cấp phép cho Hệ th ống S ả n ph ẩm Hoạt hình Máy tính Pixar và tr ở
thành khách hàng l ớ n nh ấ t c ủa công ty máy tính Pixar. Một ngày, Jeffrey Katzenberg, ngư ờ i đứng
đầu phân nh ánh phim c ủ a Disney m ờ i Jobs t ới m ấy studio ở Burbak đ ể xem sức m ạnh c ủa công
nghệ trong quá trình v ận hành. Trong khi nhân viên c ủa Disney đưa ông đi tham quan vòng vòng,
Jobs quay ra Katzenberg và h ỏi: “Disney có hài lòng v ớ i Pixar không?” Vớ i vẻ hò h ở i hết m ức,
Katzenberg trả l ờ i có. Sau đó Jobs lại h ỏi: “Anh có nghĩ chúng tôi ở Pixar cũng hài lòng vớ i Disney
không?” Katzenberg nói anh đoán vậ y. “Không, chúng tôi không h ề,” Jobs tr ả l ờ i. “Chúng tôi
muốn làm phim vớ i các anh. Điều đó m ớ i khi ến chúng tôi hài lòng.”
Katzenberg rất s ẵn lòng, ông ngưỡ ng mộ những b ộ phim ngắn củ a John Lasseter và đã
t ừng c ố gắng lôi kéo nhưng không thành công John về vớ i Disney. Th ế là Katzenberg m ờ i nhóm
Pixar đ ến để th ảo lu ận về vi ệc trở thành đ ối tác làm chung m ột bộ phim. Khi Catmull, Jobs và
Lasseter đã yên v ị trong phòng h ọp, Katzenberg th ẳng thắn. “John, vì ông không mu ốn sang làm
vi ệc cho tôi,” ông nói và nhìn Lasseter, “Tôi sẽ th ực hi ện đi ều đó theo cách này.”
Trong khi công ty Disney giớ i thi ệu những đ ặc đi ểm chính c ủa mình v ớ i Pixar, thì
Katzenberg cũng chia sẻ vài điều vớ i Jobs. C ả hai đ ều có th ể tr ở nên dễ ch ị u khi h ọ muốn như vậ y
và cũng nhanh chóng trở nên dữ dằn (hoặc t ệ hơn) tùy thu ộc thái đ ộ ấ y ph ản ánh đúng tâm tr ạng
hoặc sự quan tâm của họ. Alvy Ray Smith, lúc ấ y đang sử a so ạn rờ i kh ỏi Pixar cũng có mặt trong
buổi gặp gỡ hôm ấ y. “Katzenberg và Jobs gây cho tôi m ột ấn tư ợ ng mạnh mẽ,” anh nh ớ l ại.
“Nh ững nhà độ c tài thườ ng đượ c trao t ặng m ột món quà kì di ệu là sự hoạt ngôn.” Katzenberg t ỏ r a
thú vị khi nh ận ra đi ều này. “T ất c ả m ọi ngườ i đều nghĩ tôi là m ột kẻ độc tài,” ông nói vớ i nhóm
Pixar. “Tôi đúng là m ột ngườ i độc tài. Nhưng v ấn đề là tôi luôn đúng.” Ai cũng dễ dàng tưở ng
tư ợ ng ra Jobs cũng có thể nói y h ệt như v ậ y.
C ả hai ngườ i đều tìm th ấy ni ềm đam mê chung và cân bằng, các thoả thuận gi ữa
Katzenberg và Jobs ch ỉ m ất có m ấ y th áng. Katzenberg khăng khăng rằng Disney s ẽ cấp cho Pixar
quyền sử dụng công ngh ệ để làm phim ho ạt hình 3 - D. Jobs từ ch ối, và cu ối cùng ông cũng có đư ợ c
thoả thuận. Jobs cũng đưa ra đ ề nghị phía mình: Pixar cũng có phần sở hữu đối vớ i bộ phim và các
nhân v ật c ủa nó, c ả hai bên cùng có quyề n ki ểm soát bản quyền củ a bộ phim và các tập tiếp theo.
“Nếu đó là nh ững gì anh muốn,” Katzenberg nói, “thì chúng ta có thể dừng cu ộc nói chuyệ n ở đây
và các anh có thể ra v ề.” Jobs đã ở l ại, và ch ấp nh ận đi ểm đó.
Lasseter chăm chú theo dõi cuộc đối tho ại như thể đang quan sát nh ững lưỡ i gươm s áng
loang loáng của hai đ ấu sĩ vung lên, hạ xuống. “Chỉ nhìn cách Steve và Jeffrey trong cuộ c tho ả
thuận ấ y, tôi đã thấ y kinh hãi,” ông nh ớ l ại. “Y h ệt m ột trận đấu ki ếm. C ả hai đ ều là anh tài.”
Nhưng Katzenberg vào trận vớ i m ột lư ỡi đao, còn Jobs chỉ có m ột chi ếc lá mỏng. Pixar đang trên
bờ vực phá s ản và cần m ột hợ p đồng v ớ i Disney hơn là Disney c ần m ột tho ả thuận vớ i Pixar. Hơn
nữa, Disney có khả năng tài chính cho c ả hãng, còn Pixar thì không. Kết qu ả vẫn là một tho ả thuận,
kí k ết vào tháng Năm năm 1991, trong đó Disney s ở hữu hình ảnh và toàn quy ền khai thác nhân
vật, đư ợ c ki ểm soát nội dung sáng t ạo và chi cho Pixar 12,5% doanh thu bán vé. Có kh ả năng
(nhưng không ph ải là bắt bu ộc) làm tiếp vớ i Pixar hai phim tiếp theo và có quy ền làm tiếp (cùng
hoặc không v ớ i Pixar) các ph ần tiếp theo, sử dụng các nhân v ật c ủ a phim. Disney cũng có quyề n
huỷ bỏ bộ phim vào bất c ứ lúc nào n ếu đối tác vi ph ạm những điều khoản quyết đị nh.
Ý tư ở ng mà John Laseter n ả y ra có tên g ọi “Câu chuy ện Đồ chơi ” (Toy story). Nó xuất
phát t ừ m ột niềm tin, mà cả ông và Jobs cùng chia sẻ, đó là t ất c ả các s ản ph ẩm đều có giá tr ị t ồn t ại
cốt lõi, là m ục đích mà vì đó chúng m ớ i đư ợ c làm ra. Nếu một vật có cảm xúc, thì cảm xúc đó ph ải
dựa trên khát khao đư ợ c tho ả mãn giá trị t ồn tại c ủa nó. Ví d ụ, m ục đích của cái c ố c đựng nướ c,
là đư ợ c ch ứa nư ớ c bên trong: n ếu nó có c ảm xúc, nó sẽ h ạnh phúc khi đư ợ c ch ứa đầ y nư ớ c
và s ẽ buồn t ủi khi không có nư ớ c bên trong. Giá trị cốt lõi củ a chi ếc màn hình máy tính là giao ti ếp
vớ i con ngư ờ i. Giá trị cốt lõi c ủa chi ếc xe đạp một bánh là đư ợ c biểu diễn ở trong r ạp xi ếc. Đ ối vớ i
đồ chơi, mục đích t ồn tại c ủa chúng là đ ể cho trẻ em chơi, và vì th ế, t ồn tại nỗi s ợ hãi nguyên thu ỷ
khi b ị vứt b ỏ hoặc bị “thất thế” trư ớ c nh ững món đồ chơi m ớ i. V ậ y là một b ộ phim v ề tình bạn giữa
m ột món đồ chơi yêu thích cũ vớ i một món đ ồ chơi m ớ i s áng loá s ẽ ẩn ch ứ a trong nó cái bi kị ch c ốt
lõi, đặc bi ệt là khi cu ộc đấu tranh xoay quanh nh ữ ng đ ồ chơi b ị chia cắt vớ i ch ủ nhân bé nhỏ của
chúng. V ấn đề cần gi ải quyết xu ất phát t ừ quan đi ểm “Mọi ngườ i ai cũng t ừng tr ải qua c ảm giác
đau thương thuở nhỏ khi đánh m ất đồ chơi. Câu chuyện của chúng tôi đư ợ c kể dướ i góc nhìn c ủ a
m ột anh b ạn đồ chơi, khi anh ta b ị đánh m ất và cố gắng tìm ki ếm lại c ảm giác quan trọng nhất vớ i
mình: đượ c chơi đù a vớ i lũ trẻ. Đó là lý do cho s ự t ồn tại của t ất c ả đồ chơi trên th ế gi ớ i. Đó là cơ
s ở cảm xúc cho s ự t ồn tại c ủa chúng.”
Phải trải qua r ất nhi ều lư ợ t tuy ển ch ọn, cu ối cùng m ớ i ch ọn đư ợ c ra hai nhân v ật chính là
Buzz Lightyear và Woody. C ứ hai tuần m ột l ần, Lasseter và nhóm của mình lại ng ồi l ại để ghép
phân c ảnh mớ i nh ất ho ặ c chi ếu th ử cho ngườ i c ủ a Disney xem. Trong nh ững c ảnh chiếu th ử đ ầu
tiên, Pixar đã trình chi ếu kĩ xảo tuyệt vờ i c ủa mình b ằng cách, ví dụ là gi ớ i thi ệu m ột c ảnh Woody
rón rén đi trên n óc tủ, trong khi ánh sáng l ọt qua khe c ủa t ấm mành trên cử a sổ, ph ủ bóng xuống
chiếc áo sơ mi s ọc vuông c ủa cậu - hi ệu ứng này hầu như không thể th ực hi ện đư ợ c bằng kĩ thu ật
thô sơ. Tuy v ậ y, đưa ra đư ợ c kị ch b ản làm Disney ấn tư ợ ng khó khăn hơn nhiều. M ỗi l ần Pixar
trình bày, Katzenberg “chặt chém” không thương ti ếc, xối x ả đưa ra nh ững nhận xét và ghi chú đ ến
t ừng chi tiết. Và lăm lăm trên tay nh ững nhân viên c ốt c Ấn là c ả t ập hồ sơ theo dõi kị ch b ản để đảm
bảo nh ững ý ki ến cũng như nh ững ý tư ở ng b ất ch ợ t c ủa Katzenberg không b ị bỏ qua và đư ợ c theo
sát thực hi ện.
Đi ều mà Katzenberg thúc ép nhi ều nh ất chính là ph ải t ạo nên những chi tiết kị ch tính hơn
cho hai nhân v ật chính. Có th ể đó là m ột bộ phim hoạt hình tên là Câu chuy ện Đồ chơi, ông nói,
nhưng nó không th ể ch ỉ nhắm tớ i trẻ em. “Lúc đ ầ u, câu chuy ệ n ch ả có k ị ch tính, không có câu
chuy ệ n cụ th ể và chả có mâu thuẫn gì hết,” Katzenberg nhớ l ại. ông g ợ i ý Lasseter nên xem vài b ộ
phim b ằng h ữu kinh đi ển như Nhữ ng ngư ời nổi lo ạn (The Defiant Ones) và 48 Gi ờ (48 Hours),
trong đó hai nhân v ật chính v ớ i hai cách s ống khác nhau l ại bu ộc ph ải chung đườ ng và ràng buộ c
vớ i nhau. Hơn n ữa, ông tiếp tục thúc ép ph ải làm cho ra cái gọi là “cao trào”, t ức là ph ải có gì làm
nhân v ật Woody tr ở nên đố k ỵ, xấu xa và s ẵn sàng đối đầu vớ i Buzz, k ẻ “ti ếm ngôi” trong hộp
đựng đ ồ chơi. “Đây là thế gi ớ i đồ chơi nuốt đồ chơi ,” Woody đã nói như vậ y trong m ột c ảnh, sau
đó c ậu đẩ y Buzz ra ngoài c ửa s ổ.
Sau rất nhi ều vòng th ảo lu ận vớ i Katzenberg và nh ững chuyên gia khác củ a Disney,
Woody bị l ột d ần hết v ẻ d ễ thương. Trong m ột c ảnh, c ậu ném hết nh ững đ ồ chơi khác xuống đ ất và
yêu cầu Slinky đến giúp m ột tay. Khi th ấ y Slinky ch ần ch ừ, Woody đã gào lên : “Vi ệc của mày là
nghĩ ngợ i đấ y ch ắ c, con chó kia?” Slinky sau đó đã h ỏi m ột câu mà sau này chính nhóm làm phim
của Pixar cũng phải t ự hỏ i mình: “Tại sao tên cao b ồi này đ áng s ợ vậ y trờ i?” Và Tom Hanks, ngư ờ i
đượ c m ờ i l ồng ti ếng cho Woody cũng công nh ận đi ểm này, “ôi h ắn đúng là m ột tên khốn!”
Cắt!
Tháng Mườ i m ột năm 1993, Lasseter và nhóm Pixar đã hoàn thành xong nử a đầu bộ phim
và s ẵn sàng mang đi chi ế u th ử, h ọ mang phim củ a mình đ ến Burbank đ ể chiếu cho Katzenberg và
những chuyên gia khác của Disney xem . Peter Schneider, giám đốc nh ánh phim hoạt hình chưa
bao giờ thích ý tư ở ng đ ể ngư ờ i bên ngoài làm phim cho Disney c ủa Katzenberg, và ông tuyên b ố
bộ phim là một đống l ộn xộn và yêu cầu ng ừng s ả n xu ất. Katzenberg đồng ý. “Tại sao nó l ại kinh
khủng như vậ y? ông hỏi một đ ồng nghi ệp, Tom Schumacher. “B ở i vì đó không còn là b ộ phim c ủa
họ nữa,” Schumacher nói th ẳng to ẹt ra. Sau này ông gi ải thích, “Họ làm theo nh ững gì Katzenberg
gợ i ý, và dự án này đã hoàn toàn m ất phương hư ớ ng.”
Lasseter nhận th ấ y Schumacher đã đúng. “Tôi đứ ng ở đó và c ảm th ấ y vô cùng x ấu hổ vớ i
những gì đượ c trình chi ếu trên màn hình,” ông nh ớ l ại. “Đó là m ột câu chuyệ n ch ỉ toàn nh ững nhân
vật b ất h ạnh, x ấu xa mà tôi chưa t ừng th ấ y bao giờ .” ông đề nghị Disney cho Pixar thêm m ột cơ hội
để s ửa và xem lại kị ch b ả n. Katzenbers đã ủng h ộ.
Jobs không can thiệp quá nhi ều vào quá trình s áng t ạo. V ớ i cá tính thích ki ểm soát mọi thứ,
đặc bi ệt là trong lĩnh vực phong cách và thi ết kế c ủa mình, thì s ự t ự ki ềm ch ế này chính là minh
ch ứng hùng hòn cho vi ệc ông tôn tr ọng Lasseter và nh ững ngh ệ sĩ làm vi ệc t ại Pixar như th ế nào -
cũng như tin tưở ng vào kh ả năng Lasseter và Catmull s ẽ không làm ông th ất vọng. Tuy nhiên, ông
đã giúp đ ỡ họ x ử lý m ối quan hệ vớ i Disney và đi ều này khi ến nhóm Pixar vô cùng cảm kích. Khi
Katzenberg và Schneider thắt ch ặt s ản xu ất vớ i Câu chuy ện Đồ chơi, Jobs đã b ỏ ti ền riêng ra đ ể
duy trì ho ạt đ ộng c ủ a studio. Ông đ ứng v ề phía họ để ch ống lại Katzenberg. “Chính ông ta làm Toy
story lo ạn hết c ả lên,” Jobs nói. “ông ta mu ốn Woody tr ở thành nhân vật xấu, và khi ông ta mu ốn
dẹp bỏ t ụi tôi, chúng tôi th ể hi ện rằng chúng tôi s ẵ n sàng đá ông ta ra và nói ‘Đây không phải là
những gì chúng tôi mu ốn’ và ti ếp tục làm b ộ phim theo cách mà chúng tôi vẫn theo đu ổi.”
Ba tháng sau, nhóm Pixar trở l ại vớ i kị ch b ản m ớ i. Nhân v ật Woody đã bi ến đổi, từ m ột gã
đồ chơi b ạo ngượ c trở thành ngườ i lãnh đạo khôn ngoan, dẫn dắt đám đồ chơi của Andy. Thái đ ộ
hi ềm khích c ủ a cậu vớ i Buzz Lightyear đư ợ c thể hi ện một cách dễ thông c ả m hơn, và nó đượ c xây
dựng trên n ền nh ững b ản nh ạc m ớ i c ủa Randy Newman strange Things (T ạm dị ch: Nh ững thứ l ạ
lùng). Cảnh Woody đ ẩ y Buzz ra khỏi c ửa sổ đượ c vi ết l ại, Buzz ngã do b ị Woody vô tình xô vào
khi c ậu gi ằng co v ớ i đèn Luxo trư ớ c đó. Katzenberg và Công ty ch ấp nh ận cách tiếp cận m ớ i này,
và đ ến th áng Hai năm 1994, bộ phim đượ c sản xuất trở l ại.
Katzenberg rất ấn tư ợ ng v ớ i s ự t ập trung c ủ a Jobs để gi ữ chi phí cho bộ phim n ằm trong
t ầm kiểm soát. “Ngay từ những giai đo ạn dự th ảo ngân sách đầu tiên, Steve đã r ất háo h ức làm sao
để ti ền chi ra đ ạt hi ệu qu ả nhất có th ể,” ông nói. Nhưng 17 triệu đô -la ngân sách dành cho s ản xu ất
rõ ràng là không tương x ứng, nhất là khi h ọ phải s ửa l ại ph ần l ớ n nội dung sau khi Katzenberg can
thiệp và bắt Woody ph ải hung ác hơn. Vì v ậ y Jobs đã yêu cầu cần thêm ti ền đầu tư để hoàn thành
bộ phim cho đúng k ế hoạ ch. “Nghe này, chúng ta đã thoả thuận,” Katzenberg nói vớ i Jobs. “Chúng
tôi đ ể các anh quy ền kiểm soát kinh doanh, các anh đã đồng ý th ực hiện vớ i kho ản tiền chúng tôi đề
xuất.” Jobs cáu điên lên. ông liên t ục gọi đi ện ho ặ c bay thẳng đ ến gặp Katzenberg và gi ữ thái độ,
như ngôn ng ữ củ a Katzenberg là “đeo bám d ữ dội như chỉ có ở Steve.” Jobs khăng khăng cho rằng
Disney cũng phải có trách nhiệm vớ i vi ệc chi phí đội lên do Katzenberg đã làm h ỏng ý tư ở ng ban
đầu và khiến họ phải m ất thêm công s ứ c sửa ch ữa sai l ầm. “Khoan đã!” Katzenberg đáp trả.
“Chúng tôi ch ỉ cố gắng giúp các anh. Các anh cũng hưở ng lợ i khi đượ c các chuyên gia sáng t ạo của
chúng tôi giúp đỡ , và gi ờ các anh l ại mu ốn chúng tôi ph ải trả ti ền cho điều đó.” Đó là cu ộc đối đầu
gi ữa hai v ị lãnh đ ạo cứng r ắn như nhau, để tranh luận xem cu ối cùng thì bên nào đã gia ơn cho bên
nào.
Ed Catmull, khôn khéo hơn Jobs, là ngư ờ i đạt đư ợ c tho ả hi ệp về nguồn kinh phí mớ i. “Tôi
có cái nhìn l ạc quan đối vớ i Jeffrey hơn b ất c ứ ai trong s ố những ngư ờ i làm dự án này, ” ông nói.
Nhưng sự cố này khi ến Jobs bắt đầu suy tính đ ến cách thoả thu ận có lợ i hơn khi đàm phán vớ i
Disney trong tương lai. ông không muốn bị coi là một nhà đàm phán non kém; ông luôn mu ốn mọi
th ứ trong t ầm ki ểm soát. Điều đó có nghĩa là Pixar sẽ phải t ự mình đ ầu tư cho nh ững dự án củ a
mình trong tương lai, và như vậ y thì cần m ột tho ả thuận m ớ i vớ i Disney.
Khi bộ phim ti ến tri ển, Jobs tr ở nên hào h ứng v ớ i nó hơn bao giờ hết. ông đã từng nói
chuy ệ n vớ i nhi ều công ty, t ừ Hallmark tớ i Microsoft về chuy ện bán Pixar, nhưng khi Woody và
Buzz xuất hiện, ông nh ận ra rằng mình đang ở rất gần cơ hội thay đ ổi ngành công nghiệp điện ảnh.
Khi nh ững c ảnh cuối cùng củ a bộ phim hoàn thành, ông xem đi xem lại và m ờ i bạn bè đến nhà đ ể
chia sẻ ni ềm đam mê mớ i. “Tôi không th ể nhớ mình đã xem bao nhiêu phiên bản củ a Toy story
trướ c khi b ộ phim đượ c chính th ức công chiếu,” Larry Ellison nói. “Thực ra nó gi ống như m ột
dạng tra t ấn vậ y. Tôi đến đó và xem những b ản ch ỉ cải tiến có 10% so vớ i phiên b ản trư ớ c. Steve b ị
ám ảnh v ề chuyện làm thế nào cho đúng - cả nội dung l ẫn công nghệ - và không ch ị u ch ấp nh ận bất
cứ đi ều gì ngoài s ự hoàn h ảo.”
Linh cảm củ a Jobs về vi ệc đầu tư vào Pixar th ực t ế đã đơm hoa kết trái càng đượ c củng c ố
khi Disney mờ i ông t ớ i tham dự buổi chi ếu phim ra m ắt báo gi ớ i bộ phim hoạt hình Pocahontas
vào tháng M ột năm 1995, trong một r ạp chi ếu dựng lên trong công viên Center Park ở Manhattan.
Tại đây, CEO của Disney Michael Eisner công b ố phim Pocahontas sẽ đượ c trình chiếu su ất đầu
tiên trư ớ c 100.000 khán gi ả t rên màn hình cao 2,4m t ại Great Lawn ở Central Park. Jobs là bậc
th ầ y qu ảng cáo, ông th ừ a bi ết nên làm gì đ ể có m ộ t bu ổi trình chi ếu thành công, nhưng k ế hoạch
này cũng khiến ông s ửng s ốt. Câu kh ẩu hiệu quen thuộc của Buzz Lightyear - “Bay vào không gian
và hơn thế nữa!” - bỗng nhiên đáng đượ c lưu tâm.
Jobs quy ết đị nh thờ i đi ểm ra m ắt Toy Story sẽ là cơ h ội để phát hành c ổ phiếu của Pixar ra
công chúng. Ngay c ả nhữ ng ngân hàng đầu tư hám l ợ i nh ất cũng nghi ng ại trư ớ c quyết đ ị nh này và
cho rằng chuyệ n đó không thể x ả y ra. Trong su ốt 5 năm ròng, Pixar ch ỉ “chả y máu” đ ồng v ốn.
Nhưng Jobs đã quyết. “Tôi rất căng th ẳng và l ập lu ận rằng có l ẽ chúng tôi nên ch ờ đến khi ra đượ c
bộ phim thứ hai,” Lasseter nh ớ l ại. “Steve gạt ph ắ t ý kiến của tôi và nói chúng tôi cần ti ền m ặt để
có th ể góp nửa số ti ền để làm phim và đ ể đàm phán l ại tho ả thuận vớ i Disney.”
Bay vào không gian!
Có suất chi ếu ra m ắt Toy story di ễn ra vào tháng Mườ i M ột năm 1995. Disney tổ ch ức m ột
buổi ở El Capitan, một r ạ p lớ n cổ kính ở Los Angeles và d ựng một ngôi nhà đồ chơi vớ i các nhân
vật trong phim ở ngay bên cạnh. Pixar đư ợ c trao cho ít vé vào cử a, nhưng bu ổi t ối hôm đó và danh
sách khách m ờ i là ngườ i nổi tiếng đ ều mang tính đ ại di ện cho s ản ph ẩm củ a Disney rất cao; Jobs
th ậm chí còn không tham dự. Thay vào đó, ngay t ối hôm sau ông thuê Regency, m ột nhà hát tương
t ự ở San Francisco và tự t ổ ch ức bu ổi công chi ếu của mình. Thay vì mờ i Tom Hanks và Steve
Martin () , khách m ờ i là nh ững ngôi sao công ngh ệ ở Thung lũng Silicon như Larry Ellison và
Andy Grove. Rõ ràng đó là sân khấu của Jobs; chính ông, chứ không ph ải Lasseter lên sân khấu để
m ở màn cho bộ phim.
Hai buổi công chi ếu đình đám làm dấ y lên m ột câu h ỏi: V ậ y thì Toy story là phim c ủa
Disney hay Pixar? Có phải Pixar ch ỉ đơn thuần là xư ở ng phim ho ạt hình ph ụ giúp Disney làm
phim? Hay Disney đơn thu ần là nhà phân ph ối và ti ếp th ị giúp Pixar quảng bá cho b ộ phim c ủa
mình? Câu trả l ờ i nằm ở lưng ch ừng. Dù th ế nào, thì câu hỏi c ần đặt ra ở đây là làm thế nào hai cái
tôi ng ạo nghễ, c ụ th ể ở đây là của Michael Eisner và Steve Jobs lại có th ể tr ở thành đ ối tác c ủa
nhau như vậ y.
Vấn đề đượ c đặt ra khi Toy story tr ở thành b ộ phim bom t ấn về thương m ại và thành công
rực rỡ . Bộ phim thu hồi vốn ngay sau tuần đầu tiên trình chi ếu, vớ i tiền vé thu đư ợ c riêng trong
nướ c M ỹ là 30 triệu đô -la, và tr ở thành b ộ phim có doanh thu cao nhất trong năm, đánh bại Batman
Forever và Apollo 13 vớ i 192 triệu đô -la doanh thu bán vé trong nư ớ c và 326 tri ệu đô -la trên toàn
th ế gi ớ i. Theo trang web chuyên t ổng h ợ p các bình luận phim Rotten Tomatoes, 100% trong số 73
nhà phê bình đượ c hỏi ý kiến đều đưa ra bình luận tích c ực cho b ộ phim. Nhà báo Richard Corliss
của t ạp chí Time cho rằng đó là “câu chuyện sáng t ạo nh ất năm”, David Ansen của t ờ Newsweek
tuyên b ố đó là m ột “đi ều kì diệu” và Janet Masline của t ờ New York Times thì giớ i thi ệu bộ phim là
“s ản ph ẩm củ a sự thông minh lạ thư ờ ng trong s ố những phim t ừng s ản xu ấ t trong lị ch s ử Disney.”
Đi ều duy nhất khi ến Jobs nổi điên là nh ững nhà bình lu ận như Maslin đã dám viết “lị ch s ử
Disney”, chứ không ph ải là s ự xuất hiện của Pixar. Sau khi đ ọc bài bình lu ận của cô này, ông quy ết
đị nh mình s ẽ th ực hi ện m ột chi ến dị ch đ ể nâng cao danh ti ếng cho Pixar. Khi ông và Lasseter đến
chương trình truy ền hình Charlie Rose, ông nhấn m ạnh r ằng Toy story là phim c ủa Pixar, thậm chí
ông còn c ố gắng làm nổi bật tính t ự nhiên l ị ch s ử c ủa một xư ở ng phim mớ i ra đ ờ i. “K ể t ừ khi Nàng
Bạch Tuy ết và B ả y chú lùn ra đờ i đến nay, t ất c ả các studio l ớ n đều cố gắng xâm nhập th ị trườ ng
phim hoạt hình, nhưng cũng kể t ừ đó đ ến nay, Disney là hãng phim duy nh ất cho ra đ ờ i nh ững b ộ
phim hoạt hình trở thành bom t ấn,” ông nói vớ i Rose. “Pixar gi ờ đây đã trở thành studio th ứ hai
làm đư ợ c vi ệc đó.”
Jobs xoáy vào đi ểm Disney chỉ đơn thuần là nhà phân phối cho b ộ phim c ủa Pixar. “Ông ta
cứ l ải nh ải ‘Chúng tôi ở Pixar mớ i là thực ch ất, còn Disney các anh ch ỉ là đ ống rác rư ở i,” Michael
Eisner nh ớ l ại. “Nhưng chúng tôi m ớ i là ngư ờ i k hi ến Toy story thành công. Chúng tôi đị nh hình b ộ
phim, và chúng tôi dồn tổng l ực vào, t ừ các nhà ti ếp th ị tiêu dùng vào kênh Disney, đ ể bi ến nó tr ở
thành hit.” Jobs đi đ ến kết luận cho v ấn đề cơ b ản - Bộ phim thu ộc về ai? - s ẽ cần ph ải ng ồi xem xét
l ại b ản hợ p đồng hơn là nổ ra m ột cu ộc chi ến ngôn từ trên báo chí. “Sau thành công của Toy story,”
ông nói, “Tôi nh ận ra là mình cần ph ải tiến hành thoả thuận m ớ i vớ i Disney nếu chúng tôi đã m ất
công xây dựng một studio và không mu ốn trở thành lính-đánh -thuê.” N hưng đ ể có th ể ngồi l ại vớ i
Disney ở th ế cân bằng, Pixar cần ph ải mang ti ền đến chòng trư ớ c m ặt đối tác. Đó là lý do vì sao
cần m ột cu ộc IPO thành công.
Kế hoạch đưa Pixar ra công chúng phải tiến hành chính xác m ột tu ần sau buổi ra m ắt Toy
Story. Jobs đã đánh cư ợ c r ằng b ộ phim s ẽ thành công, và ch ấp nh ận mạo hiể m “li ều ăn nhiều”, thờ i
khắc vàng. Cũng giống IPO c ủa Apple, sự ki ện đư ợ c t ổ ch ức t ại trụ s ở của bên b ảo hi ểm chính ở
San Francisco lúc 7 gi ờ s áng, khi các cổ phiếu bắt đầu đư ợ c chào bán. Theo k ế hoạch ban đầu,
những c ổ phiếu đầu tiên s ẽ đượ c chào bán vớ i mức giá 14 đô-la, đó là mức giá đ ảm bảo sẽ có ngư ờ i
mua. Jobs nài nỉ tăng giá lên 22 đô -la, vì như th ế công ty s ẽ ki ếm đượ c nhi ều tiền hơn n ếu chào bán
thành công. Nhưng m ọi s ự đã di ễn ra trên cả mon g đợ i điên rồ nhất c ủa ông. Nó vượ t qua c ả
Netscape để tr ở thành v ụ chào bán IPO lớ n nh ất trong năm. Trong nửa giờ đầ u, giá c ổ phiếu vọt lên
45 đô-la và hoạt động giao d ị ch b ị đình lại bở i vì có quá nhi ều ngườ i đặt mua. Th ậm chí sau đó giá
còn cao hơn, lên 49 đô-la, trư ớ c khi tr ở l ại m ức giá cuối cùng khi k ết thúc phiên giao d ị ch là 39
đô-la.
Đầu năm đó, Jobs đã hi v ọng s ẽ tìm đư ợ c m ột nhà đ ầu tư mua lại Pixar v ớ i giá 50 triệu
đô-la, v ừa đủ để hoàn s ố vốn ông đã bỏ ra. Đ ến cu ối năm, vớ i s ố cổ phiếu ông s ở hữu - 80% toàn
công ty - đã tr ị giá nhi ều gấp hơn 20 lần con s ố đó, một con s ố khổng lò 1,2 tỷ đô-la. Con s ố đó
nhiều gấp năm l ần so vớ i nh ững gì ông thu đượ c khi Apple lên sàn ch ứng khoán năm 1980. Nhưng
Jobs nói với John Markoff c ủa t ờ New York Times rằng ti ền không nhi ều ý nghĩa vớ i ông. “S ẽ
ch ẳng có chi ế c du thuy ề n nào c ủa tôi trong tương lai h ết,” ông nói. “Tôi không bao gi ờ làm nh ững
đi ều này chỉ vì ti ền cả.”
S ự thành công nh ất c ủa Pixar khi lên sàn ch ứng khoán đó là h ọ s ẽ không còn phải ph ụ
thuộc tài chính vào Disney đ ể làm phim c ủa mình n ữa. Đó chính là cẤn cân thăng b ằng mà Jobs
muốn có. “Gi ờ đây chúng tôi đã có th ể góp m ột nửa chi phí làm phim của chúng tôi, cho nên tôi
cũng có thể đòi hỏi m ột nửa l ợ i nhuận,” ông nhớ l ạ i. “Nhưng điều quan tr ọng hơn, tôi mu ốn hợ p
tác thương hi ệu. Đó s ẽ là nh ững b ộ phim c ủ a cả Pixar và Disney.”
Jobs đáp máy bay đ ến để ăn trưa v ớ i Eisner đang cho áng váng vớ i s ự táo b ạo của ông. Họ
đã từng thoả thuận sẽ làm vớ i nhau 3 b ộ phim, và Pixar m ớ i hoàn thành xong một. Bên nào cũng có
vũ khí hạng n ặng. Sau cuộc chia tay không m ấ y ng ọt ngào vớ i Eisner, Katzenberg đã r ờ i kh ỏi
Disney và tr ở thành ngườ i đồng s áng l ập vớ i Steven Spielberg và David Geffen thành lập
DreamWorks SKG. N ếu Eisner không chấp nh ận thoả thuận m ớ i vớ i Pixar, Jobs nói, thì
Pixar buộc lòng ph ải hợ p tác studio khác, như của Katzenberg ch ẳng h ạn, sau khi k ết thúc
hợ p đồng hợ p tác 3 phim. “Vũ khí” trong tay Eisner đó là n ếu chuy ệ n đó xảy ra, thì Disney có thể
t ự mình làm các tập tiếp theo của Toy story, sử dụng nhân v ật Woody, Buzz và toàn b ộ những nhân
vật mà Lasseter đã sáng t ạo ra. “Điều đó như th ể bán đi chính con cái c ủa mình v ậ y,” Jobs sau này
nhớ l ại. “John b ắt đầu rơi nướ c m ắt khi ông ph ải tính đ ến kh ả năng đó.”
Vậ y nên h ọ cố công tìm ra cho đư ợ c m ột tho ả thuậ n m ớ i. Eisner đồng ý để Pixar góp m ột
nửa vốn trong những b ộ phim sau, và đ ổi l ại, đư ợ c nh ận m ột nửa l ợ i nhuận, “ông ta không nghĩ
chúng tôi có th ể có bao nhiêu s ản ph ẩm đình đám, chính vì thế ông ta nghĩ mình đã ti ết ki ệm đượ c
m ột s ố ti ền,” Jobs nói. “Rốt c ục thì đi ều đó có lợ i cho chúng tôi, b ở i vì Pixar có nhữn g 10 ý tư ở ng
bom tấn cả th ả y.” Họ cũng th ống nhất vớ i nhau về vi ệc hợ p tác thương hi ệu, tuy nhiên cũng có r ất
nhiều cu ộc tranh cãi n ổ ra đ ể xác đị nh cho rõ. “Quan đi ểm của tôi xu ất phát t ừ chuy ện đó là m ột b ộ
phim c ủa Disney cơ mà, nhưng sau đó tôi cũng dị u lại,” Eisner nhớ l ại. “Chúng tôi b ắt đầu thoả
thuận về chuy ện ch ữ Disney sẽ l ớ n đến mức nào, ch ữ ‘Pixar” l ớ n t ớ i mức nào, hệt như mấ y đứa bé
4 tu ổi vậ y.” Nhưng đ ến đầu năm 1997, h ọ đã đ ạt đư ợ c tho ả thuận, vớ i 5 b ộ phim trong vòng 10
năm, hai thương hi ệu s ẽ có kích thư ớ c to bằng nhau, như những ngư ờ i bạn, ít nh ất là trong th ờ i
gian ở bên nhau. “Khi ấ y Eisner khá biết đi ều và công b ằng v ớ i tôi,” Jobs sau này th ừa nh ận.
“Nhưng thực ra, trong vòng 10 năm tiếp theo, tôi đã đi đến kết lu ận rằng ông ta là m ột ng ườ i đen
t ối.”
Trong thư g ửi cho những c ổ đông c ủa Pixar, Jobs giải thích vi ệc th ắng đượ c quyền hợ p tác
thương hi ệu ngang nhau vớ i Disney đối vớ i t ất c ả các bộ phim, cũng như trong qu ảng cáo và sản
xuất đồ chơi chính là y ếu tố quan tr ọng nhất c ủa bản thoả t huận.
“Chúng ta mu ốn Pixar phát tri ển thành m ột thương hi ệu ngang b ằng, có cùng đẳng c ấp
chiếm đượ c lòng tin như thương hi ệu Disney đã làm đư ợ c,” ông vi ết như v ậ y. “Nhưng đ ể Pixar có
th ể đạt đư ợ c lòng tin ấ y, khán gi ả phải bi ết r ằng chính Pixar là ngư ờ i s áng t ạo ra các b ộ phim.”
Jobs luôn đượ c bi ết đến trong su ốt s ự nghi ệp của mình là ngư ờ i t ạo ra nh ữ ng s ản ph ẩm vĩ đại.
Nhưng đi ều đó cũng đ ồng nghĩa vớ i vi ệc ông có kh ả năng tạo ra nh ững công ty vĩ đại vớ i nh ững
thương hi ệu giá tr ị . Và ông đã tạo ra hai công ty t ốt nh ất trong th ờ i đại c ủa mình: Apple và Pixar.
Chú thích
Hai diễn viên nổi tiếng lòng ti ếng cho Woody và Buzz Lightyear.
Chương 23: L ẦN THỨ HAI TRỞ L ẠI
Quái thú, rồi cũng đến ngày hi ện hình trở l ại...
Steve Jobs, năm 1996
Nhiều th ứ xuống d ốc
Khi Jobs thành l ập công ty máy tính NeXT vào năm 1998 cũng gây r ất nhi ề u tiếng vang.
Nhưng năm tiếp theo, khi máy tính c ủa NeXT chính thức xu ất hi ện trên thị trườ ng, những âm ba
trướ c đó cũng lắng d ần xu ống. Kh ả năng mê ho ặc, hăm do ạ và d ẫn dắt báo chí của Jobs đến th ờ i
đi ểm này l ại trở nên “lợ i b ất c ập hại”, xuất hiện hàng lo ạt nh ững câu chuy ện kh ủng hoảng c ủa công
ty. “NeXT không có kh ả năng tương tác v ớ i nh ững máy tính khác trong thờ i kỳ mà ngành công
nghi ệp này đang tiến tớ i nh ững h ệ th ống có khả năng thay th ế” phóng viên Bart Ziegler c ủ a AP
đưa tin. “Ch ỉ m ột s ố ít ph ần m ềm có thể ch ạ y trên NeXT, nên r ất khó thu hút đư ợ c khách hàng.”
NeXT cố gắng tự đị nh v ị bản thân như ngư ờ i dẫn đầu trong lĩnh vực mớ i, máy tính cá nhân
dành cho nh ững ngư ờ i mu ốn phát huy s ức m ạnh một công cụ làm vi ệ c l ẫn sự tương tác thân thi ện
vớ i ngườ i dùng của một chi ếc máy tính cá nhân. Những khách hàng này thì lại đang ch ọn cho mình
những s ản ph ẩm củ a công ty phát tri ển nhanh Sun Microsystems. Doanh thu của NeXT vào năm
1990 là 28 triệu đô-la; doanh thu c ủa Sun năm đó là 2,5 t ỷ đô-la. IBM t ừ bỏ thoả thuận sử dụng
phần m ềm có bản quyề n của NeXT, vì th ế Jobs buộc lòng ph ải làm việc ngượ c vớ i bản ch ất c ủa
mình: Bất ch ấp ni ềm tin sâu sắc vào s ự cần thi ết ph ải t ạo m ối liên h ệ m ật thi ết gi ữa ph ần m ềm và
phần cứng, đ ến tháng M ộ t năm 1992, ông đồng ý cung cấp bản quyền hệ đi ề u hành NeXTSTEP để
s ử dụng trên những máy tính khác.
Đã có một ngườ i lên ti ếng b ảo vệ Jobs, l ạ lùng thay, ngư ờ i đó chính là Jean - Louis Gassée,
hai ngườ i đã t ừng có va ch ạm khủng khi ếp khi Jobs b ị thay th ế bở i Gassée, sau đó, chính ông này
cũng b ị “đá” ra khỏi công ty. Gassée đã vi ết m ột bài báo ca ng ợ i tính s áng t ạo trong các sản ph ẩm
của NeXT. “NeXT có th ể không ph ải là Apple,” Gassée lập lu ận, “nhưng Steve vẫn là Steve.” Vài
ngày sau, v ợ của ông nghe tiếng gõ c ửa và ch ạ y lên báo tin r ằng Jobs đang đ ợ i dư ớ i l ầu. ông cảm
ơn Gassée vì bài báo và mờ i ông t ớ i tham dự s ự ki ện mà Andy Grove c ủa Intel cũng tham d ự, ở đó
Jobs s ẽ công b ố NeXTSTEP sẽ đượ c tích h ợ p vào n ền tảng c ủa IBM/ln tel. “Tôi ng ồi c ạnh cha củ a
Steve, Paul Jobs, m ột ngườ i toát lên ph ẩm ch ất đáng kính,” Gassée nh ớ l ại. “ông ấ y đã nuôi dạ y
m ột ngườ i con l ạ lùng, nhưng ông rất t ự hào và hạnh phúc khi th ấ y cậu ấ y đứ ng chung sân khấu vớ i
Andy Grove.”
M ột năm sau, Jobs không th ể không tri ển khai một bư ớ c nữ a tiếp theo: T ừ bỏ s ản xu ất ph ần
cứng cùng lúc vớ i ph ần m ềm. Đây là m ột quyết đị nh đau đớ n, cũng trùng kh ớ p vớ i th ờ i đi ểm ông
vừa t ừ bỏ s ản xu ất ph ần cứng ở Pixar. Đối vớ i Jobs, m ọi phương di ện củ a sả n ph ẩm đều đư ợ c ông
quan tâm, nhưng ph ần cứ ng l ại là một ni ềm đam mê đ ặc bi ệt. Ông nhiệt huyết vớ i nh ững thiết kế
tuyệt hảo, bị ám ảnh v ề vi ệc sản xu ất c ủa t ừng chi tiết, và dành nhi ều gi ờ đồng h ồ ch ỉ đ ể ngắm
những chú rô -bốt t ạo ra nh ững chiế c máy hoàn hảo. Nhưng gi ờ đây ông phải cho đ ến hơn một nửa
s ố ngư ờ i làm ngh ỉ vi ệc, bán nhà máy yêu quí của mình cho Canon (mà sau này đư ợ c bán đ ấu giá
cho một công ty nội thất v ớ vẩn), và t ự hài lòng b ản thân vớ i một công ty ch ỉ chuyên đi cung c ấp hệ
đi ều hành có b ản quyề n cho những nhà sản xu ất ra nh ững chiếc máy chán ngắt.
Đến gi ữa nh ững năm 1990, Jobs đã tìm thấ y ni ềm vui trong cu ộ c sống gia đình m ớ i và và
t ận hư ở ng chiến thắng vang d ội trong lĩnh vực kinh doanh điện ảnh, nhưng ông th ất vọng bi ết mấ y
về ngành công nghi ệp máy tính cá nhân. “Hầu như chẳng còn chút sáng t ạo nào n ữa,” ông nói vớ i
Gary Wolf c ủa t ờ Wired vào cuối năm 1995. “Microsoft thống tr ị t ừng đ ổi mớ i dù nh ỏ nhất. Apple
đã b ại trận. Thị trườ ng máy tính đ ể bàn đã bư ớ c vào thờ i kì đen t ối.”
Trong một cu ộ c ph ỏng v ấn vớ i Tony Perkin và các biên t ập viên củ a t ờ Red Herring, ông
cũng b ộ c l ộ s ự rầu rĩ. Đ ầ u tiên ông phô bày ph ần “Steve x ấu Xa” trong cá tính của mình. Sau khi
Perkin và các đồng nghi ệ p vừa đến không bao lâu, Jobs lẻn ra kh ỏi nhà t ừ c ửa hậu để “đi d ạo m ột
chút”, và 45 phút sau m ớ i ch ị u quay tr ở l ại. Khi nhi ếp ảnh gia củ a t ạp chí b ắt đầu ch ụp hình, b ất
ch ợ t ông quay ra mỉ a chế nhạo cô và b ắt cô dừng lạ i. Sau này Perkins nh ận xét “Gi ảo quyệt, ích k ỷ
bản vị , thô l ỗ cục cằn, chúng tôi không th ể hình dung n ổi cái đ ộng cơ nào phía sau sự điên khùng
của ông ta.” Cuối cùng, khi ông đã yên v ị để tr ả l ờ i ph ỏng v ấn, ông đã nói t ừng mon g đợ i các trang
web có th ể làm đi ều gì đó dù nhỏ nhất để ch ống l ại s ự th ống tr ị củ a Microsoft. “Windows đã
th ắng,” ông nói. “Nó đánh bại Mac, t ệ hại hơn, nó đánh th ắng c ả UNIX, đánh bại c ả OS/2. Một s ản
phẩm hạ đẳng đã thắng.”
Apple xu ống d ốc
Vài năm sau k hi Jobs b ị hất c ẳng, Apple ti ếp tụ c vận hành băng băng do kiếm đượ c l ợ i
nhuận cao d ự a vào v ị th ế th ống tr ị th ị trườ ng s ản xu ất máy tính hiện th ờ i. Cho áng ngợ p vớ i c ảm
giác như một thiên tài, vào năm 1987, John Sculley đã đưa ra m ột lo ạt nh ững tuyên bố mà n gày
nay nh ắc l ại nghe hơi ngư ợ ng ngùng. Jobs đã t ừng mu ốn Apple “trở thành một công ty sản xu ất
hàng tiêu dùng tuyệt vờ i,” Sculley viết. “Đây là m ột kế hoạch trên cung trăng... Apple không bao
gi ờ có th ể tr ở thành một công ty sản xu ất hàng tiêu dùng hàng lo ạt... Chúng ta không th ể b ẻ cong
th ực t ế để theo đu ổi giấc mơ thay đ ổi thế gi ớ i... Công nghệ cao không thể đượ c thi ết kế và bán như
m ột món hàng tiêu dùng bình dân đư ợ c.”
Jobs th ất kinh, ông trở nên giận dữ và khinh bỉ khi Sculley chính là ngư ờ i khi ến Apple d ần
đánh m ất vị th ế và th ị phần trên thị trườ ng vào nh ững năm đ ầu 1990. “Sculley đã huỷ hoại Apple
bằng vi ệc mang v ề những con ngườ i thối nát và những giá trị th ối nát,” Jobs sau này đã đau xót nói
như vậ y. “Họ ch ỉ quan tâm tớ i vi ệc ki ếm tiền - ch ủ yếu là cho bản thân họ, và sau đó là cho Apple
- hơn là tạo ra nh ững s ản ph ẩm tuyệt vờ i.” Ông c ả m th ấ y rõ vi ệ c Sculley m ải ch ạ y theo l ợ i nhuận
mà không chú tâm đến chuy ện chi ếm thêm thị phầ n. “Macintosh thua Microsoft bở i vì Sculley ch ỉ
chăm chú đ ến vi ệc vắt ki ệt l ợ i nhuận hơn là phát triển sản ph ẩm và làm cho nó trở nên t ốt hơn.”
Hậu qu ả là, l ợ i nhuận cũng vì th ế mà d ần bi ến m ấ t.
Microsoft phải m ất vài năm đ ể đ ạt đư ợ c bi ểu đò lư ợ ng ngư ờ i dùng như Macintosh, nhưng
đến năm 1990, h ọ đã cho ra Windows 3.0, mở đầu cho công cu ộ c chi ếm lĩnh vị trí th ống tr ị trên th ị
trườ ng máy tính. Windows 95, ra m ắt năm 1995 tr ở thành h ệ đi ều hành thành công nh ất t ừ trướ c
t ớ i này, và doanh s ố bán hàng c ủ a Macintosh b ắt đầu sụp đổ. “Microsoft chỉ đơn gi ản là bắt chư ớ c
những gì mà ngườ i khác đã làm,” sau này Jobs đã nói như vậ y. “Apple x ứng đ áng có đượ c vị trí ấ y.
Sau khi tôi ra đi, nó không hề phát minh ra cái gì mớ i. Mac thì r ất khó nâng c ấp. Nên nó tr ở thành
m ục tiêu d ễ ngoạm củ a Microsoft.”
S ự th ất vọng đ ối vớ i Apple càng thể hi ện rõ khi ông đ ến nói chuyệ n cho câu lạc bộ Trườ ng
Kinh doanh Stanford ở nhà một sinh viên, anh này đ ề nghị ông ký tặng vào chiếc bàn phím
Macintosh. Jobs đồng ý vớ i đi ều ki ện ông có thể cậ y bỏ những phím mớ i đư ợ c l ắp thêm vào bàn
phím c ủa Mac sau khi ông ra đi. ông lấ y chìa khoá ô tô và nậ y phím mũi tên lên, đó là những phím
trướ c đây ông từng c ấm ch ỉ , cũng như các phim ở hàng trên như F1, F2, F3... nh ững phím chứ c
năng. “Đã có lúc tôi đang thay đ ổi thế gi ớ i một bàn phím,” ông ngây m ặt và nói. Sau đó ông ký t ên
vào cái bàn phím nham nh ở .
Trong kì nghỉ Gi áng sinh năm 1995 ở làng Kona, Hawaii, Jobs đi d ạo trên bờ bi ển vớ i
ngư ờ i bạn thân Larry Ellison, vị ch ủ t ị ch lâu năm của Oracle. H ọ bàn luận về vi ệc thu mua c ổ
phiếu của Apple và hồi ph ục vị trí đ ứng đ ầu cho Jobs. Ellison nói ông có th ể đóng góp tài chính 3
t ỷ đô-la: “Tôi s ẽ mua lại Apple, anh s ẽ có 25% c ổ phiếu và ngay lập tức trở thành CEO, và chúng
ta có th ể khôi phục l ại thờ i hoàng kim c ủa nó.” Nhưng Jobs kị ch li ệt ph ản đối. “Tôi cho r ằng mình
không ph ải loại ngườ i đâm thọc như thế,” ông gi ải thích. “Nếu họ đề nghị tôi tr ở l ại, m ọi chuy ện sẽ
rất khác.”
Đến năm 1996, thị phần của Apple trên th ị trườ ng đã giảm xuống còn 4% so vớ i m ức cao
16% vào cu ối nh ững năm 1980. Michael Spindler, v ị giám đ ốc chi nhánh Apple ở châu Âu, ngườ i
gốc Đức lên thay th ế vị trí CE O của Sculley vào năm 1993, đã c ố gắng bán công ty cho Sun, IBM
và Hewlett-Packard. Không thành công, ông ta b ị sa th ải vào th áng Hai năm 1996 và thay thế bằng
Gil Amelio, m ột kĩ sư nghiên cứu từng là CEO c ủ a Vi ện BẤn dẫn Qu ố c gia Mỹ.
Trong năm đầu tiên, công ty mất 1 t ỷ đô-la và giá c ổ phiếu, đã từng ở m ức giá 70 đô-la vào
năm 1991 đã t ụt xu ống còn 14 đô-la, trong khi th ờ i đi ểm này bong bóng công ngh ệ v ẫn còn đang
đẩ y giá c ủa nh ững c ổ phiếu khác lên cao.
Amelio không ph ải là ngườ i hâm mộ Jobs. Họ gặp nhau l ần đầu vào năm 1994, ngay sau
khi Amelio đư ợ c bầu vào h ội đồng quản trị Apple. Jobs gọi đi ện cho ông ta và thông báo, “Tôi
muốn ghé thăm và gặp anh.” Amelio mờ i ông qua văn phòng c ủ a mình ở Vi ện BẤn dẫn Qu ốc gia,
và sau này, ông k ể l ại r ằng đã nhìn thấ y Jobs qua c ửa kính phòng làm vi ệc khi Jobs đ ến. ông ấ y
trông “gi ống một võ sĩ quyền anh, hung hăng nhữ ng cũng r ất m ực thanh tao, ho ặc như một con
mèo rừng duyên dáng đang s ẵn sàng nh ả y lên v ồ mòi.” Sau vài phút chuyệ n trò - lâu hơn những
cu ộc nh ập đề thông t hườ ng c ủ a Jobs - ông đột ng ột nói ra lý do c ủ a cu ộ c vi ếng thăm, ông mu ốn
Amelio giúp đ ỡ mình tr ở l ại làm CEO Apple. “Chỉ có m ột ngườ i có th ể t ập hợ p đám tàn quân c ủ a
Apple,” Jobs nói, “ngườ i duy nhất có th ể thu xếp lại công ty.” Th ờ i kỳ đỉ nh cao của Macint osh đã
qua ròi, Jobs l ập luận, và gi ờ là lúc Apple phải t ạo ra một cái gì đó m ớ i, hay đơn gi ản là một s ự đổi
m ớ i.
“Nếu như Mac ch ết thì cái gì s ẽ thay th ế cho nó đây?” Amelio hỏi. Câu trả l ờ i c ủa Jobs
không gây đượ c ấn tư ợ ng v ớ i Amelio. “Dư ờ ng như Steve kh ông có câu trả l ờ i rõ ràng,” sau này
Amelio kể l ại. “Có vẻ như ông ấ y vừ a nói đùa.” Amelio cảm thấ y mình đang đượ c ch ứng ki ến hiện
th ực cay đ ắng c ủa Jobs và cảm th ấ y may m ắn vì không thu ộc về hi ện th ực ấ y. Không khách sáo,
ông m ờ i Jobs ra kh ỏi văn phòng c ủ a mình.
Nhưng đến mùa hè năm 1996, Amelio nhận thấ y ông ta mắc ph ải một v ấn đề nghiêm tr ọng.
Apple đang bị m ắc kẹt gi ữa hi vọng t ạo ra m ột hệ đi ều hành m ớ i, gọi là Copland, nhưng Amelio
cũng s ớ m nhận ra sau khi trở thành CEO đó là Apple đang ng ập trong m ột đống những v ấn đề lùm
xùm, trong đó không thể đáp ứng đượ c yêu c ầu ph ải có m ột m ạng lướ i và bảo m ật t ốt hơn, cũng
như không thể s ẵn sàng ra m ắt vào năm 1997 như k ế hoạch, ông công khai h ứa hẹn sẽ s ớ m tìm ra
m ột phương án thay th ế. Nhưng vấn đề là ông ta chẳng có giải pháp nào.
Vậ y là Apple c ần có m ột đ ối tác có th ể cung c ấp một h ệ đi ều hành ổn đị nh, một ứng c ử viên
là UNIX -like và ph ải có m ột một ứng d ụng theo đ ị nh hướ ng nhiều l ớ p. (Có một công ty rõ ràng có
th ể cung c ấp m ột ph ần m ềm như thế - NeXT - nhưng cũng phải m ất m ột khoảng thờ i gian thì
Apple mớ i để ý đến phương án đ ấ y).
Đầu tiên Apple đ ị nh k ết hợ p vớ i m ột công ty do Jean - Louis Gassée thành lập, tên là Be.
Gassée đã b ắt đầu đàm phán thoả thuận bán Be cho Apple, nhưng đến th áng Tám năm 1996, ông
đòi hỏi quá m ức vớ i Amelio ở Hawaii, ông muốn mang nhóm 50 ngư ờ i c ủ a mình đ ến Apple, và
đòi hỏi 15% cổ phần của công ty, tr ị giá kho ảng 500 tri ệu đô -la. Amelio cho áng v áng. Apple đ ị nh
giá Be khoảng 50 triệu đô -la. Sau vài l ần m ặc cả qua l ại, Gassée ch ỉ ch ấp nh ận quay tr ở l ại đàm
phán nếu giá đ ề nghị t ừ 275 tri ệu đô -la tr ở lên. Ông nghĩ rằng Apple ch ẳng có l ựa ch ọn nào khác.
Tr ở l ại vớ i Amelio, Gassée nói: “Tôi đã đánh đổi t ất c ả để có nó, và tôi s ẽ v ắt ki ệt nó cho đ ến tận
cùng thì thôi.” Đi ều này không làm Amelio hài lòng.
Giám đ ốc công nghệ của Apple, Ellen Hancock đưa ra phương án mua ph ần m ềm UNIX
trên nền t ảng Solaris c ủa Sun, cho dù ph ần mềm này không có giao diện tương tác ngườ i dùng thân
thiện l ắm. Amelio b ắt đ ầ u nả y sinh ý nghĩ s ử dụng phần mềm Microsoft Windows NT, nhưng phải
s ắp đặt l ại m ột chút giao diện cho phù h ợ p vớ i vẻ ngoài và cảm giác của m ột máy Mac, mà v ẫn
tương thích ngư ờ i dùng của Windows.
Bill Gates rất hào h ứng v ớ i ý tưở ng này và b ắt đầu gọi đi ện thoại riêng cho Amelio.
Tất nhiên, v ẫn còn một phương án n ữa. Hai năm trư ớ c đó, cây vi ết chuyên m ục của t ạp chí
Macworld (đồng thờ i là c ựu kĩ sư ph ần mềm) Guy Kawasaki cho đăng một bài báo châm bi ếm lấ y
ý tư ở ng Apple mua lại NeXT và đưa Jobs tr ở l ại làm CEO. Trong đó có đo ạn Mike Markkula
“nhại” lại l ờ i c ủa Jobs khi h ỏi, “Anh mu ốn dành cả phần đờ i còn l ại để bán th ứ UNIX bọc đư ờ ng
này, hay mu ốn thay đổi thế gi ớ i?” Jobs trả l ờ i, “B ở i vì giờ đây tôi đã là m ột ngườ i cha, tôi cần một
nguồn thu nhập ổn đị nh.” Bài báo còn nh ận xét r ằng “vớ i kinh nghi ệm củ a ông ấ y ở NeXT, ông ta
đượ c kì vọng s ẽ bi ết khiêm như ờ ng hơn khi trở l ại Apple.” Bài báo cũng trích l ờ i c ủa Bill Gates
nói giờ s ẽ ch ẳng có s áng t ạo nào c ủa Jobs để Microsoft có thể sao chép nữa. T ất c ả m ọi th ứ ch ỉ là
đùa cợ t, tất nhiên. Nhưng thực t ế theo cách nào đó cũng phản ánh đúng như câu chuy ệ n trào
phúng.
Ti ến về Cupertino
“Có ai đủ thân v ớ i Steve đ ể gọi đi ện thoại nói v ớ i ông ta chuyện nà y không?” Amelio hỏi
nhân viên c ủa mình. B ở i vì cu ộc ch ạm trẤn gi ữ a hai ngư ờ i cách đây hai năm đã k ết thúc một cách
t ệ hại, nên Amelio không mu ốn là ngườ i gọi đi ện cho Jobs trư ớ c. Nhưng hoá ra là ông không c ần
phải làm như v ậ y. Vù mộ t cái, Apple cũng đã nhận đư ợ c tin đáp l ại t ừ NeXT. M ột nhân viên tiếp
th ị bậc trung ở NeXT, Garrett Rice đã nhấc đi ện thoại lên, và ch ẳng c ần tham khảo Jobs, cô g ọi
th ẳng đ ến cho Ellen Hancock để xem hai bên có h ứng thú xem xét phần m ềm này hay không. Cô
cử m ột ngườ i đến gặp ôn g.
Đến l ễ Tạ ơn năm 1996, hai công ty đã b ắt đầu nh ững cuộc trao đ ổi ở t ầm trung, và Jobs đã
nhấc điện tho ại lên g ọi trực tiếp cho Amelio. “Tôi đang trên đư ờ ng sang Nhật Bản, nhưng một tuần
nữa tôi sẽ tr ở về và tôi mu ốn gặp anh ngay khi tôi trở l ại,” ông n ói. “Đừng đưa ra quyết đị nh nào
cho đến khi chúng ta gặp nhau.” Amelio, b ất ch ấp lần gặp gỡ trướ c đó vớ i Jobs, cảm th ấ y vui
m ừng khi nghe tin t ừ Jobs và mở ra khả năng làm vi ệc vớ i nhau. “Đối vớ i tôi, cú g ọi c ủ a Steve
gi ống như th ứ rư ợ u vang ngon nhất mà tôi từng đượ c nếm,” ông nhớ l ại. Ông quyết đ ị nh chắ c ch ắ n
mình sẽ không thoả thuậ n gì vớ i Be ho ặc bất c ứ ai khác trướ c khi h ọ gặp nhau.
Đối vớ i Jobs, cu ộc chi ến ch ống l ại Be v ừa mang tính công vi ệc, vừ a mang tính cá nhân.
NeXT đang xu ống d ố c và kì vọng đượ c Apple mua l ại trở thành con đườ ng h ồi sinh. Thêm n ữa,
Jobs v ẫn gi ữ trong lòng mối hận đôi khi bùng cháy, và Gassée là một trong số những ngư ờ i gần
đứng đ ầu danh sách, b ất ch ấp sự th ực là họ đã g ần như làm lành khi Jobs ở NeXT. “Gasseé là một
trong s ố ít n hững ngư ờ i mà trong đ ờ i mình tôi có thể nói là thực sự x ấu xa,” Jobs sau này nh ấn
m ạnh, một cách thi ếu công bằng. “H ắn đã ’đâm lén’ tôi hòi năm 1985.” Sculley, theo đánh giá c ủa
Jobs, là ít ra cũng quân t ử hơn khi t ấn công tr ực di ện.
Ngày 2 th áng 12 năm 1996, Steve Jobs đ ặt chân đến trụ s ở Cupertino c ủa Apple l ần đầu
tiên sau 11 năm b ị h ất c ẳ ng khỏi đây. Trong phòng h ọp điều hành, ông gặp Amelio và Hancock để
thoả thuận về NeXT. M ộ t l ần nữa, ở chính chi ếc bảng tr ắng ấ y trong phòng họp, ông l ại vẽ lên đó
những ý tư ở ng, l ần này bài thuy ết trình củ a ông nói đ ến bốn đợ t sóng của hệ th ống máy tính sẽ ập
đến, ít nh ất là trong ni ềm tin v ững chắc của ông, vớ i NeXT. Chưa bao gi ờ những gì ông nói l ại trở
nên cu ốn hút đ ến th ế, nh ất là khi ông đang nói chuy ện vớ i hai ngư ờ i mà ông ch ẳng h ề tôn trọng,
ông vung tay múa chân vờ như đang thành thực nh ất. “Đây có thể là m ột ý tưở ng hoàn toàn điên
rồ,” ông nói, nhưng n ếu họ th ấ y nó hấp dẫn, “Tôi sẽ th ảo ra bất c ứ thoả thu ận nào các ông muốn -
bản quyề n ph ần m ềm, bán l ại công ty, b ất c ứ đi ều gì.” Trên thực t ế, ông nh ắm tớ i vi ệc bán t ất, và
ông thúc đẩ y cách tiếp cậ n ấ y. “Nếu các ông cân nh ắc kĩ, các ông s ẽ th ấ y mình muốn nhiều hơn
ch ứ không ch ỉ phần m ềm của tôi,” ông b ảo họ. “Các ông s ẽ muốn mua cả công ty và l ấ y toàn bộ
nhân viên.”
Vài tuần sau Jobs và gia đình đến Hawaii để nghỉ Gi áng sinh. Larry Ellison cũng ở đó, như
hằng năm v ẫn thế. “ông bi ết không, Larry, tôi nghĩ mình đã tìm ra con đườ ng tr ở l ại Apple và n ắm
quyền ki ểm soát mà không cần ông phải mua nó,” Jobs nói trong khi h ọ đi d ạo cùng nhau bên bờ
bi ển. Ellison nhớ l ại, “Anh ta gi ải thích chi ến lư ợ c của mình, trong đó Apple s ẽ mua NeXT, sau đó
anh ta sẽ có m ặt trong h ộ i đồng quản trị và chỉ cách chiếc gh ế CEO có một bư ớ c chân.” Ellison
nghĩ rằng Jobs đã quên mất con át ch ủ bài. “Nhưng Steve, có m ột thứ mà tôi không hiểu,” ông nói.
“Nếu không mua công ty ấ y, thì chúng ta ki ếm tiền bằng cách nào?” Đó chính là điểm thể hi ện ham
muốn của hai ngư ờ i khác nhau đến mức nào. Jobs đặt tay lên vai trái c ủa Ellison và kéo ôn g l ại g ần
mình, đến m ức mũi c ủa hai ngư ờ i suýt ch ạm nhau và nói, “Larry, đây là lí do rất quan tr ọng giải
thích vì sao tôi là b ạn của ông. Ông không c ần thêm ti ền nữa.”
Ellison nhớ l ại câu tr ả l ờ i c ủa ông g ần như một l ờ i rên r ỉ : “Phải, tôi có thể không cần ti ền
nữa, nhưng t ại sao m ột s ố quĩ quản lý ở Fedelity v ẫ n kiếm đượ c tiền? T ại sao những ngư ờ i khác l ại
ki ếm đượ c tiền? T ại sao l ại không phải là chúng ta?”
“Tôi nghĩ n ếu tôi tr ở l ại Apple, và tôi không s ở hữu cái gì c ủa Apple, và ông cũng không s ở
hữu cái gì của Apple, thì tôi s ẽ làm vi ệc vì t ự ái ngh ề nghi ệp” Jobs nhớ l ại.
“Steve, cái t ự ái nghề nghi ệp ấ y quá đ ắt đỏ,” Ellison nói. “Nghe này, Steve, c ậu là bạn thân
nhất c ủa tôi, và Apple là công ty c ủa cậu. Tôi sẽ làm bất c ứ đi ều gì cậu muố n.” Mặc dù sau này
Jobs nói thờ i điểm ấ y ông không h ề có ý thâu tóm Apple, nhưng Ellison nghĩ r ằng đi ều đó là không
tránh khỏi. “B ất c ứ ai ngồ i quá 30 phút vớ i Amelio cũng đ ều nh ận ra rằng anh ta ch ẳng làm nên trò
tr ống gì, ngoại trừ vi ệc t ự huỷ hoại,” sau này ông nói.
Cuộc cạnh tranh công nghệ gi ữ a NeXT và Be di ễn ra ở khách sạn Garden Court ở Palo
Alto vào ngày 10 th áng Mườ i hai, trư ớ c sự ch ứng kiến của Amelio, Hancock và 6 vị lãnh đ ạo cấp
cao củ a Apple. NeXT trình bày trướ c, có Avie Tevanian trình diễn ch ức năng của ph ần m ềm, còn
Jobs th ể hi ện tài năng thiên b ẩm của m ột ngườ i bán hàng. Phần m ềm của họ có th ể trình chi ếu 4
video clip cùng một lúc trên màn hình, có kh ả năng tích hợ p truyề n thông đa phương tiện và kết n ối
vớ i Internet. “Kh ả năng gi ớ i thi ệu hệ đi ều hành NeXT của Jobs th ực sự đáng kinh ngạ c,” Amelio
th ừa nh ận, “ông ấ y th ể hi ện sự nhẫn nại và sức m ạ nh đ áng kinh ngạc, như th ể vừa trình di ễn vai
của Olivier, v ừ a đóng vai Macbeth.”
Gassée đến sau và hành động như th ể hợ p đồng đã n ằm trong lòng bàn tay. ông không đưa
ra bài trình di ễn m ớ i nào. ông chỉ nói đơn giản là Apple đã biết kh ả năng c ủa Be Os r ồi, và h ỏi họ
có mu ốn hỏi thêm đi ều gì không. Rất ng ắn gọn. Trong khi Gasseé trình bày, Jobs và Tevanian đi
dạo quanh mấ y ph ố ở Palo Alto. Một lúc sau, h ọ bắt gặp m ột trong s ố những lãnh đ ạo của Apple
cũng tham d ự cu ộc họp hôm đó. “Các anh s ẽ th ắng v ụ này”, ông ta b ảo họ.
Tevanian sau này k ể l ại r ằng chẳng có gì đ áng ngạ c nhiên: “Chúng tôi có công ngh ệ t ốt
hơn, có gi ải pháp tr ọn vẹ n và chúng tôi có Steve.” Amelio biết rằng mang Jobs trở l ại nguy hi ểm
như chơi con dao hai lưỡ i, nhưng đưa Gassée v ề thì cũng vậ y cả thôi. Larry Teslter, m ột trong
những công thần của Macintosh từ những ngày đ ầ u thành lập cũng nói v ớ i Amelio rằng ông ch ọn
NeXT, nhưng nói thêm, “Dù anh chọn cô ng ty nào, thì anh cũng đang đưa ngư ờ i v ề để chiếm chiếc
gh ế của anh, Steve hoặ c Jean - Louis.”
Amelio chọn Jobs, ông gọi cho Jobs đ ể thông báo ông đã lên kế hoạ ch đ ề nghị hội đồng
quản trị của Apple cho ông ta quyề n đàm phán giá mua NeXT. Anh có mu ốn tham dự cu ộc họp
không? Jobs tr ả l ờ i có. Khi Jobs bư ớ c vào, và nhìn th ấ y Mike Markkula, kho ảnh khắc đó mang r ất
nhiều cảm xúc. Họ đã không nói chuyệ n vớ i nhau kể t ừ khi Markkula, ngườ i t ừng là sư phụ, là thủ
lĩnh của Jobs đứng v ề phía Sculley hòi năm 1985. Jobs l ại gần và bắt tay ông.
Jobs m ời Amelio đến nhà ở Palo Alto để họ có th ể đàm phán trong không khí tho ải mái
hơn. Khi Amelio đến bằng chiế c Mercedes cổ đi ển đờ i 1973, Jobs đã r ất ấn tư ợ ng: ông thích chi ếc
xe. Trong phòng bếp, lúc ấ y cu ối cùng cũng đã đượ c sửa ch ữ a xong, Jobs đ ặt ấm đun nướ c lên b ếp
để pha trà và h ọ ngồi vớ i nhau bên chi ế c bàn g ỗ đố i di ện lò nư ớ ng pizza. Ph ần đàm phán tài chính
di ễn ra rất êm; Jobs không m ắ c sai lầm nói vống giá như Gassée. ông đề nghị Apple trả 12 đô-la
cho m ột c ổ phiếu của NeXT. Như vậ y tổng giá trị s ẽ khoảng 500 tri ệu đô -la. Amelio nói giá như
vậ y quá cao, và ông h ạ xuống 10 đô-la trên m ột c ổ phần, hoặc 400 triệu đô -la. Không gi ống Be,
NeXT đã có sản ph ẩm th ực, có doanh thu thự c và m ột đội ngũ t ốt, nhưng Jobs đã vô cùng kin h
ngạ c và hài lòng v ớ i con s ố đó. ông chấp thuận ngay lập tức.
Có một đi ểm kẹt l ại khi Jobs mu ốn đư ợ c trả ngay b ằng ti ền m ặt. Amelio thuy ết ph ục rằng
ông cần thờ i gian đ ể “hiể u cu ộc chơi” và thu đư ợ c tiền cổ phiếu đã, nên ông mu ốn sẽ tr ả sau ít nhất
m ột nă m. Jobs không ch ị u. Cuối cùng, h ọ thoả hi ệp: Jobs sẽ nhận 120 triệu tiền mặt và 37 tri ệu tiền
cổ phiếu, và cam k ết s ẽ phải gi ữ cổ phiếu trong vòng ít nhất 6 tháng.
Như thườ ng l ệ, Jobs mu ốn hai ngư ờ i có th ể vừa đi bộ, vừa trò chuyện. Trong khi h ọ đi
vòng vòng quanh Palo Alto, ông nói thẳng ý đị nh mu ốn đư ợ c ch ỉ đị nh vào ban giám đốc củ a Aple.
Amelio cố gắng tránh đi ề u này, và nói đã có quá nhi ều bài h ọc l ị ch s ử khi làm m ột cái gì đó nhanh
quá. “Gil, đi ều này r ất đau đ ớ n,” Jobs nói. “Đây t ừ ng là công ty c ủa tô i. Tôi đã bị đẩ y ra ngoài k ể
t ừ cái ngày kh ủng khiếp ấ y, bở i Sculley.” Amelio nói ông hi ểu điều đó, nhưng ông không chắc ban
giám đ ốc có đồng ý không. Trướ c khi b ắt đầu cu ộc đàm phán vớ i Jobs, ông đã vi ết mấ y ch ữ vào t ờ
gi ấ y nh ớ “ti ến lên phía trướ c bằng c ái đầu l ạnh c ủ a một ngườ i lính” và “cư ỡ ng lại s ức hút.” Nhưng
khi đi dạo, ông ấ y, cũng như rất nhi ều ngườ i khác, đã rơi vào mê hồn trận của Jobs. “Tôi đã b ị mê
hoặc bở i năng lư ợ ng và nhi ệt huyết c ủa Steve,” ông nh ớ l ại.
Sau khi đi d ạo vòng vòng qua m ấ y con đườ ng, h ọ tr ở về nhà vừ a đúng lúc Laurene và lũ tr ẻ
về đến nhà. Tất c ả bọn họ đều chúc m ừng cuộc đàm phán dễ dàng, sau đó Amelio ra về trên chiế c
xe c ủa mình, “ông ta đ ối đãi v ớ i tôi như th ể chúng tôi là nh ững ngư ờ i bạn lâu năm,” Amelio nhớ
l ại. Th ực sự t hì Jobs có cách đ ể làm đi ều đó. Sau này, khi Jobs bày mưu h ất c ẳng mình, Amelio đã
nhìn lại cách đối xử thân tình của Jobs ngày đó v ớ i mình và băn khoăn suy nghĩ, “Khi tôi đau đ ớ n
nhận ra, thì tôi biết đó chính là một bộ m ặt trong con ngườ i ph ức t ạp đến cực đoan ấ y.”
Sau khi thông báo v ớ i Gassée về vi ệ c Apple s ẽ mua NeXT, Amelio phải đối di ện vớ i m ột
nhiệm vụ còn khó khăn hơn thế: thông báo vớ i Bill Gates, “ông ấ y trợ n tròn mắt lên,” Amelio nh ớ
l ại. Gates cũng thấ y điều đó th ật n ực cư ờ i, nhưng có l ẽ là khôn g quá ngạc nhiên khi biết Jobs thắng
vụ này. “Anh thực sự nghĩ Jobs có gì ở đó sao?” Gates h ỏi Amelio. “Tôi bi ết công nghệ của ông ta,
ch ẳng có gì ngoài ph ần m ềm UNIX đư ợ c “làm nóng” l ại, và anh sẽ ch ẳng bao gi ờ có th ể khiến nó
hoạt đ ộng trên máy tính của mình.” Gates, cũng như Jobs, luôn có cách làm việc củ a riêng mình và
ông ấ y làm như sau trong tình huống này: “Anh không biết Steve ch ẳng biết gì về công ngh ệ à?
Hắn ta ch ỉ là m ột tay bán hàng gi ỏi. Tôi không th ể tin đư ợ c anh l ại có th ể ra m ột quyết đị nh n gu
ngốc đến vậ y... Hắn ta có bi ết quái gì v ề kĩ sư đâu, và 99% những gì h ắn nói và nghĩ đ ều sai lè. Thế
quái nào mà anh lại đi mua đống rác ấ y về nhỉ ?”
Vài năm sau, khi tôi h ỏi l ại chuy ệ n này, Gates không nh ớ rằng mình đã từng b ực đến vậ y.
Trong thương vụ của NeXT, ông l ập lu ận, không mang lại cho Apple m ột hệ đi ều hành m ớ i.
“Amelio đã tr ả rất nhi ều tiền để mua NeXT, và th ẳng thắn mà nói, NeXT OS chưa bao gi ờ đượ c
đưa ra dùng th ự c sự.” Nhưng thay vào đó, thương v ụ đã k ết thúc bằng việ c đưa đư ợ c Avie
Tevanian về, anh là ngư ờ i có th ể giúp h ệ đi ều hành hi ện tại c ủa Apple phát triển đến m ức cu ối
cùng nó cũng tương thích v ớ i ph ần ch ủ ch ốt trong công ngh ệ củ a NeXT. Gates th ừa bi ết hợ p đồng
đó nhằm đưa Jobs trở về vớ i quyền lực. “Nhưng đó chính là trò đùa c ủ a số phận,” ông nói. “Cu ối
cùng h ọ đã mua v ề m ột gã mà h ầu hết mọi ngườ i đều không thể ngờ rằng đó là một CEO tuyệt vờ i,
bở i vì hắn ta không có nhi ều kinh nghi ệm trong việc này, nhưng đó l ại là một anh chàng c ực kì
s áng chói v ớ i gu th ẩm m ỹ tuyệt vờ i trong thi ết kế và công ngh ệ. Anh ta đ ủ bi ết tiết ch ế s ự điên rồ
của mình đ ể đượ c ch ỉ đị nh vào gh ế quyền Tổng Giám Đốc Đi ều Hành.”
Bất ch ấp nh ững gì Ellison v à Gates suy nghĩ, Jobs có những c ảm xúc mâu thu ẫn sâu s ắ c về
đi ều khi ến ông mu ốn trở l ại v ị trí th ủ lĩnh của Apple, ít nhất là khi Amelio còn ở đó. Vài ngày trướ c
khi thương vụ NeXT chuẩn bị đượ c công bố, Amelio đ ề nghị Jobs làm vi ệc toàn thờ i gian t ại
Apple và đ ảm nhiệm vị trí phát tri ển hệ đi ều hành. Jobs, tuy vậ y, vẫn giữ thái độ l ảng tránh đề nghị
của Amelio.
Cuối cùng, đã đ ến ngày như l ị ch trình là phải đưa ra tuyên bố chính thức, Amelio g ọi Jobs
vào. Ông cần m ột câu tr ả l ờ i. “Steve, có phải anh chỉ muốn lấ y tiền và rờ i kh ỏi đây?” Amelio h ỏi.
“Nếu đó là đi ều anh mu ố n thì cũng không sao.” Jobs không trả l ờ i; mà chỉ nhìn trân trân. “Anh chỉ
muốn là một nhân viên? Hay m ột nhà c ố vấn?” M ột l ần nữa Jobs vẫn im lặng. Amelio đi ra ngoài
và túm lấ y lu ật sư của Jobs, Larry Sonsini và h ỏi ông nghĩ Jobs mu ốn gì. “Ch ị u thôi,” Sonsini nói.
Thế là Amelio quay l ại, đóng c ửa vào và cố th ử hỏ i thêm m ột l ần nữa. “Steve, anh đang nghĩ gì
vậ y? Anh c ảm th ấ y th ế nào? Xin anh, tôi c ần m ột quyết đị nh ngay.”
“Cả đêm qua tôi khôn g hề ch ợ p m ắt,” Jobs tr ả l ờ i.
“Tại sao? vấn đề là gì?”
“Tôi nghĩ đ ến tất c ả những gì đã diễn ra, về thoả thuận mà chúng ta vừa kí, và đ ột nhiên tất
cả m ọi th ứ ùa v ề vớ i tôi. Bây gi ờ , tôi cảm th ấ y th ự c sự m ệt m ỏi và suy nghĩ không m ạ ch l ạc. Tôi
ch ỉ không muốn bị hỏi thêm bất c ứ câu nào n ữ a.”
Amelio nói điều đó là không thể. ông c ần ph ải nói m ột đi ều gì đó.
Cuối cùng Jobs tr ả l ờ i, “Nghe này, nếu anh c ần ph ải nói cho họ đi ều gì, thì hãy nói c ố vấn
cho ch ủ t ị ch.” Và đó là nh ững gì Amelio đã làm.
Tuyên bố đượ c đưa ra vào tối ngày hôm đó - 20 tháng Mườ i Hai năm 1996 - trướ c 250
nhân viên hò h ở i t ại t ổng hành dinh c ủa Apple. Amelio đã làm như Jobs yêu c ầu và mô t ả vị trí m ới
của ông chỉ đơn thuần là m ột c ố vấn bán th ờ i gian. Thay vì xuất hi ện từ hai bên c ánh gà, Jobs đi
vào t ừ phía sau h ội trư ờ ng và đi nhanh xuống hai bên. Amelio nói v ớ i đám đông r ằng Jobs hơi m ệt
nên sẽ không phát biểu gì, nhưng sau đó, ông đư ợ c tiếp thêm năng lư ợ ng b ở i s ự chào đón củ a m ọi
ngư ờ i. “Tôi rất ph ấn khích,” Jobs nói. “Tôi đang rất mong c hờ đượ c gặp gỡ những đồng nghi ệp
cũ.” Louise Kehoe củ a t ờ Financial Times lên sân kh ấu sau đó và hỏi Jobs, nhưng nghe như m ột
l ờ i bu ộc t ội, có ph ải việc ông quay trở l ại là đ ể thôn tính Apple không, “ ồ không, Louise,” Jobs nói.
“Bây giờ đã có r ất nhi ều th ứ khác bướ c vào cuộc đờ i c ủa tôi. Tôi có m ột gia đình. Tôi d ồn tâm s ức
cho Pixar. Thờ i gian c ủa tôi có h ạn, nhưng tôi hi v ọng mình có th ể chia sẻ m ột vài ý tư ở ng.”
Ngày hôm sau Jobs lái xe đ ến Pixar. ông ngày càng tr ở nên yêu mến nơi này, và ông muốn
báo cho mọi ngườ i bi ết r ằng ông sẽ vẫn tiếp tục là ch ủ t ị ch và ti ếp tục dồn tâm s ức hết m ức cho
Pixar. Nhưng nh ững ngư ờ i ở Pixar r ất hạnh phúc khi th ấ y ông trở l ại Apple, dù ch ỉ làm bán th ờ i
gian; Jobs b ớ t t ập trung cho Pixar có khi lại là một đi ều hay. Ông r ất có ích khi có m ột vụ thương
th ảo lớ n, nhưng cũng tr ở nên rất nguy hi ểm nếu
dư quá nhiều thờ i gian. Ngày hôm đó, khi ông đến Pixar, ông bướ c vào phòng làm vi ệc củ a
Lasseter và giải thích rằng dù chỉ là m ột c ố vấn cho Apple thì cũng t ốn rất nh i ều thờ i gian c ủa ông.
ông nói mu ốn nh ận lờ i chúc phúc củ a Lasseter. “Tôi đã miên man nghĩ về vi ệc đi ều này có thể l ấ y
m ất th ờ i gian bên gia đình của tôi, và c ả th ờ i gian tôi dành cho nh ững ngư ờ i thân c ủa mình ở
Pixar,” Jobs nói. “Nhưng lý do duy nhất tôi muốn làm việc này đó là, th ế gi ớ i s ẽ t ốt đẹp hơn vớ i
Apple trong đó.”
Lasseter mỉ m cườ i hi ền hậu. “Anh đã có đư ợ c l ờ i chúc phúc c ủa tôi,” ông nói.
Chương 24: S Ự TRỞ LẠI
K ẻ thua cu ộc trở thành người chi ến th ắng
Amelio gọi Wozniak khi Jobs quay tr ở l ại, 1997
Phía sau hậu trường
“Hiếm khi b ạn thấ y một ngh ệ sĩ ở tu ổi 30 hay 40 có th ể th ực sự đóng góp m ột điều gì đó phi
thư ờ ng,” Jobs đã bày tỏ đi ều đó khi chu ẩn bị bướ c qua tuổi 30.
Đi ều đó đúng v ớ i Jobs ở độ tu ổi 30, trong thập niên tính t ừ khi ông rờ i kh ỏi Apple năm
1985. Nhưng khi bư ớ c sang tu ổi 40, năm 1995, ông đã có bư ớ c nh ả y vọt. Toy story đư ợ c phát hành
trong năm đó, và năm sau nữa Apple mua l ại NeXT đ ồng thờ i đề nghị ông quay tr ở l ại công ty do
chính mình sáng l ập. Khi quay tr ở l ại Apple , Jobs đã ch ứng minh r ằng ngay c ả những ngư ờ i qua
tu ổi 40 vẫn có th ể là nh ữ ng nhà sáng ch ế tuyệt vờ i. T ừng thay đ ổi nh ững chiếc máy tính cá nhân ở
độ tu ổi 20, gi ờ đây ông ti ếp tục làm điều tương t ự cho máy nghe nh ạ c, mô hình kinh doanh c ủa
ngành công nghi ệp thu âm, đi ện thoại di động, ứng d ụng, máy tính b ảng, sách, và ngành báo chí.
Jobs từng nói vớ i Larry Ellison r ằng chiến lư ợ c để quay lại c ủ a mình là bán NeXT cho
Apple, đư ợ c bổ nhiệm vào hội đồng quản trị , và ở đó s ẵn sàng khi CEO Gil Amelio g ặp th ất bại .
Ellison có thể cảm th ấ y bối r ối khi Jobs khăng khăng việ c ông không có đ ộ ng l ực về ti ền bạ c,
nhưng đi ều đó có phần đúng. Ông không có nhu cầu thôn tính rõ ràng như c ủa Ellison hay mong
muốn từ thiện của Gates và cũng không có ham mu ốn xem mình có thể leo cao cỡ nào trên danh
sách c ủa Forbes. Thay vào đó, cái tôi và những nhu cầu cá nhân củ a ông hướ ng tớ i s ự th ỏa mãn khi
t ạo ra nh ững thành t ựu khiến ngườ i ta ph ải tôn th ờ . Th ực t ế đó là m ột di s ản kép: xây d ựng những
s ản ph ẩm sáng t ạo và phát tri ển m ột công ty trườ ng tòn. Ông muốn đư ợ c đặt trong ngôi đ ền vớ i
những tượ ng đài như Edwin Land, Bill Hewlett và David Packard. Và cách tốt nh ất để đạt đư ợ c
những điều đó là tr ở l ại Apple và giành lại vương qu ốc của mình.
Và khi chiếc ly quyền l ự c đã ở rất gần đôi môi của mình, ông lại trở nên do dự, mi ễn cư ỡ ng
m ột cách kỳ l ạ, có th ể hơi bẽn lẽn.
Ông chính thức quay tr ở l ại Apple vào th áng 1 năm 1997 vớ i vị trí c ố vấn bán th ờ i gian,
như lờ i ông đã nói v ớ i Amelio. ông bắt đ ầu kh ẳng đ ị nh b ản thân ở m ột s ố lĩnh vực nhân sự, đ ặ c biệt
trong việ c bảo vệ các nhân viên của ông đã chuy ển từ NeXT qua. Tuy nhiên trong phần lớ n các
công vi ệ c khác ông l ại trầm lặng m ột cách khác thư ờ ng. Quyết đị nh không m ờ i Jobs vào ban qu ản
tr ị đã làm ông thất vọng, ông c ảm th ấ y không đượ c tôn tr ọng khi bị đ ề nghị vận hành bộ phận phát
tri ển hệ đi ều hành của công ty. Amelio đã t ạo nên một tình thế mà Jobs vừa ở trong l ều, vừ a ở
ngoài l ều, và đó không p hải m ột quyết đị nh t ạo nên s ự yên bình. Jobs sau này nhớ l ại:
Gil không muốn sự có m ặ t c ủa tôi. Và tôi đã nghĩ hắn là một gã ch ẳng ra gì. Tôi đã bi ết điều
đó trướ c cả khi bán công ty cho hắn ta. Tôi nghĩ mình sẽ ch ỉ đượ c trưng ra ở những s ự ki ện như
MacW or ld, chủ yế u là để phô di ễn. Đi ều đó vẫn ổ n, bở i tôi v ẫn đang làm việc ở Pixar. Tôi đã thuê
m ột văn phòng ở khu thương m ại Palo Alto để làm vi ệc m ột vài ngày trong tu ần, và tôi t ớ i Pixar
m ột ho ặc hai ngày. Đó là m ột cu ộc sống d ễ ch ị u. Tôi có th ể s ống chậm lại, dành th ờ i gian nhi ều
hơn cho gia đình.
Thực t ế là Jobs đã đượ c xu ất hiện ở Macworld ngay đ ầu tháng M ột, và nó chứng minh một
l ần nữa nh ận xét c ủa ông v ề Amelio. Gần 4.000 ghế đượ c giành gi ật trong khán phòng ở San
Francisco Marriott để nghe bài phát biểu củ a Amelio. ông ta đư ợ c gi ớ i thi ệ u bở i nghệ sĩ Jeff
Goldblum. “Tôi đóng vai một chuyên gia v ề học thuy ết hỗn lo ạn trong Công viên kỷ Jura,” Jeff
nói. “Tôi th ấ y đi ều đó giúp mình đ ủ tư cách phát bi ểu ở m ột s ự ki ện của Apple.” Sau đó ông
như ờ ng l ờ i cho Am elio, ti ến lên sân kh ấu vớ i m ột chi ếc áo khoác thể thao bóng b ẩ y và m ột chi ếc
áo sơ mi kẻ s ọc, cài khuya sát c ổ, “nhìn gi ống như m ột anh h ề ở Vegas,” Jim Carlton, phóng viên
t ờ Wall Street Journal ghi chú, hay theo mô t ả củ a tay vi ết về công ngh ệ Michael Malone, “nhìn
gi ống y như ông chú mớ i ly dị của bạn trong ngày h ẹn hò đầu tiên củ a mình.”
M ột vấn đề l ớ n hơn n ữa là Amelio sau một kỳ nghỉ đã vướ ng vào m ột cu ộc ẩu đả tòi t ệ vớ i
ngư ờ i vi ết bài di ễn thuy ế t c ủa mình, và t ừ ch ối nh ắc l ại đi ều đó. Khi Jobs tớ i hậu trư ờ ng, ông c ự c
k ỳ th ất vọng v ớ i s ự hỗn lo ạn đang di ễn ra, và ông th ực sự t ức gi ận khi thấ y Amelio đứng trên b ục
vụng v ề trình bày m ột bài di ễn thuyế t r ờ i r ạc và lê thê. Ông ta không quen thuộc vớ i nh ững ý chính
hi ện trên máy bắn ch ữ và nhanh chóng cố gắng đ ẩ y nhanh bài di ễn thuy ết. Ông ta cũng thườ ng
xuyên mất m ạch tư duy. Sau kho ảng hơn m ột gi ờ , ngườ i nghe tr ở nên chán nản. Có một vài th ờ i
đi ểm ngắt quãng như khi ông ta giớ i thi ệu ca sỹ Peter Gabriel lên trình di ễ n về chương trình âm
nhạc m ớ i. ông ta cũng quên giớ i thi ệu Muhammad Ali ở hàng ghế đầu tiên; nhà vô đị ch v ốn tớ i để
lên sân khấu qu ảng bá cho trang web v ề căn bệnh Parkinson, tuy nhiên Amelio đã không bao giờ
m ờ i ông lên hay gi ải thích vì sao ông l ại có m ặt ở đây.
Amelio giằng dai hơn 2 giờ đồng h ồ trướ c khi m ờ i lên sân kh ấu ngườ i đư ợ c t ất c ả ch ờ đợ i
để chúc m ừng. “Jobs, thừa t ự tin, phong cách, vớ i s ức hút tuy ệt đối, hoàn toàn đ ối l ập vớ i m ột
Amelio vụng v ề khi ông bướ c trên sân kh ấu,” Carton viết. “S ự tr ở l ại c ủa Elvis cũng không th ể t ạo
nên m ột c ảm xúc lớ n hơn thế.” Đám đông nh ả y lên trên đôi chân củ a họ và tung hô ông hơn m ột
phút li ền. M ột th ập kỉ tiêu đi ều đã qua. Cuối cùng Jobs vẫ y tay ra hi ệu cho đám đông yên l ặng và
đối đầu trực di ện vớ i thách th ức. “Chúng ta phải l ấ y l ại hào quang đã m ất,” ông nói. “Máy Mac đã
không cải tiến nhi ều trong 10 năm qua và b ị Windows đuổi k ị p. Vì v ậ y chúng ta c ần phát tri ển một
hệ đi ều hành tốt hơn n ữa.”
Những lờ i đầ y sứ c sống c ủa Jobs đã có th ể là s ự đền bù cu ối cùng cho màn trình diễn t ệ hại
của Amelio. Thật không may, Amelio đã quay tr ở l ại sân khấu và tiếp tục chuy ến du ngo ạn củ a
mình thêm một gi ờ nữa. Cuối cùng sau hơn 3 gi ờ kể t ừ lúc b ắt đầu, Amelio k ết thúc s ự ki ện bằng
vi ệc gọi Jobs lên sân kh ấu cùng sự xuất hi ện bất ng ờ của Steve Wozniak. Một l ần nữa m ọi vi ệc l ại
tr ở nên hỗn lo ạn. Tuy nhiên Jobs t ỏ ra khó ch ị u m ột cách rõ ràng, ông t ừ ch ối tham gia diễn hình
ảnh b ộ ba h ạnh phúc, tay giơ cao lên trờ i. Thay vào đó ông ch ậm rãi rờ i kh ỏi sân khấu, “ông ta
nhẫn tâm phá h ỏng giây phút mà tôi đã lên k ế hoạch t ừ trướ c,” Amelio phàn nàn sau đó. “C ảm xúc
cá nhân c ủ a ông ta còn quan tr ọng hơn hình ảnh c ủa Apple trư ớ c báo giớ i.” Mớ i ch ỉ có 7 ngày đ ầu
năm m ớ i cho Apple, nhưng đã khã rõ rằng nó s ẽ không bình yên đượ c t ớ i gi ữa năm.
Jobs ngay l ập tứ c đẩ y nh ững ngư ờ i ôn g tin tư ở ng vào nh ững v ị trí c ấp cao ở Apple. “Tôi
cần đảm bảo ch ắ c ch ắn rằng những ngư ờ i th ực sự gi ỏi đến từ NeXT không bị đâm sau lưng bở i
những k ẻ kém hơn đang gi ữ những v ị trí c ốt c Ấn ở Apple,” Jobs hòi tưở ng. Ellen Hancock, ngườ i
muốn ch ọn hệ đi ều hành Solaris của Sun thay vì NeXT, đ ứng đ ầu danh sách này, đặc bi ệt khi bà
ti ếp tục mu ốn sử dụng phần lõi của Solaris trong h ệ đi ều hành m ớ i c ủa Apple. Trong phần trả l ờ i
câu hỏi c ủa m ột phóng viên v ề vai trò củ a Jobs trong vi ệ c ra quyết đị nh này, bà trả l ờ i c ộc l ốc,
“Không gì c ả.” Tuy nhiên bà ta đã sai. Việ c đầu tiên Jobs làm là đ ảm bảo 2 ngườ i bạn của ông ở
NeXT nắm lấ y vị trí c ủ a bà này. Đ ể đi ều hành m ả ng phần m ềm, ông sử dụ ng ngư ờ i bạn Avie
Tevanian của mình. Đ ể n ắm m ảng phần cứng, ông đã g ọi cho Jon Rubinstein, ngườ i đã nắm vị trí
tương t ự ở bộ phận ph ần cứng c ủa NeXT. Rubinstein đang đi ngh ỉ ở m ột hòn đ ảo nh ỏ t ại Skye khi
Jobs g ọi. “Apple c ần giúp đỡ ,” ông nói. “Anh có muốn lên tàu khôn g?” Rubinstein đã đ ồng ý. ông
tr ở về đúng th ờ i điểm để tham d ự MacW orld và nhìn th ấ y qu ả bom Amelio trên sân khấu. M ọi việ c
t ệ hơn ông tưở ng, ông và Tevanian thư ờ ng trao đổi ánh m ắt trong các cu ộ c họp giống như họ đang
phải ở trong một nhà thương điên kinh khủng, v ớ i nh ững ngư ờ i đưa ra các phát bi ểu một cách ngây
thơ trong khi Amelio ng ồ i ở cu ối bàn v ớ i khuôn mặt ngơ ngác.
Jobs không thườ ng t ớ i văn phòng, tuy nhiên ông thư ờ ng xuyên nói chuyện qua điện thoại
vớ i Amelio. Khi đã thành công trong vi ệc đưa Tevan ian, Rubinstein và nh ững ngư ờ i ông tin tư ở ng
khác vào các v ị trí cao cấ p nh ất, ông chuy ển sang tập trung vào danh m ục các s ản ph ẩm đang rất
l ộn xộn. M ột trong nh ững s ản ph ẩm bị ông hạ th ấp là Newton, thiết b ị cầm tay cá nhân đượ c qu ảng
bá v ớ i kh ả năng nhận di ệ n ch ữ vi ết tay. Nó không thực sự t ệ như nh ững l ờ i nói đùa hay như trong
tranh biếm họa củ a Doonesbury, nhưng Jobs ghét nó. ông khinh thư ờ ng ý tư ở ng c ần một chi ếc bút
để vi ết lên màn hình. “Chúa cho chúng ta 10 cây bút,” ông nói trong khi vẫ y nh ững ngón tay c ủ a
mình. “Đừng phát minh ra một cái m ớ i.” Thêm n ữ a, Jobs xem Newton là một s áng t ạo lớ n củ a
John Sculley, dự án con cưng của ông ta. Ch ỉ riêng điều đó đã h ủ y di ệt nó trong m ắt c ủa Jobs.
“Ông b ắt bu ộc ph ải ng ừng Newton,” một ngày Jobs nói v ớ i Amelio qua đi ện thoại.
Đó là một đề nghị t ừ trên tr ờ i rơi xu ống, và Amelio đã đáp trả. “Ý ông là gì, h ủ y nó đi ư?”
ông ta nói. “Steve, ông có biết nó sẽ t ốn kém thế nào không h ả?”
“Dừng nó l ại, vi ết một thông báo, và gi ải thoát mình kh ỏi nó,” Jobs nói. “Không quan tr ọng
là nó t ốn bao nhiêu. Mọi ngườ i s ẽ chúc m ừng ông nếu ông thoát kh ỏi nó.”
“Tôi đã xem xét Newton và nó s ẽ là m ột cái máy hái ra ti ền,” Amelio phân trần. “Tôi không
ủng h ộ vi ệ c ng ừng nó l ại.” Mặc dù vậ y, vào tháng 5 ông ta thông báo đóng cửa bộ phận Ne wton.
Bắt đầu giai đo ạn kết thúc kéo dài hàng năm tr ờ i c ủa nó.
Tevanian và Rubinstein thư ờ ng tớ i nhà c ủ a Jobs để cập nh ật thông tin cho ông. Và ngay l ập
t ức Sillicon Valley bi ết t ớ i vi ệc Jobs đang lặng l ẽ giành l ấ y quyề n lực t ừ Amelio. Nó không giống
như cuộc chơi quyề n l ực của Machiavellian mà đơn gi ản Jobs ch ỉ là Jobs. Ham mu ốn kiểm soát đã
th ấm sâu vào bản ch ất c ủ a ông. Louise Kehoe, phóng viên t ờ Financial Times là ngườ i đầu tiên d ự
đoán đi ều này khi cô đ ặt câu h ỏi cho Jobs và Amelio ở thông báo th áng 12, vớ i câu chuyện. “Ngài
Jobs đã tr ở thành thế l ực ở phía sau ngai vàng,” cô viết trong m ột bản tin cuối th áng 2. “ông ấ y
đượ c cho r ằng đang ra những quy ết đị nh khi ến m ộ t s ố bộ phận của Apple b ị lo ại bỏ. Ngài Jobs đã
thuy ết ph ục m ột s ố cựu đồng nghiệp ở Apple quay trở l ại công ty, là d ấu hi ệu m ạnh mẽ cho th ấ y
ông đang lên k ế hoạch đ ể nắm quyền. Theo một trong nh ững ngư ờ i thân c ậ n vớ i Jobs, ông ấ y cho
rằng Amelio và nh ững ngư ờ i đư ợ c ông ta b ổ nhiệ m đã không thành công trong việ c khôi ph ục
Apple, và ông dự đị nh s ẽ thay th ế họ để đảm bảo cho s ự s ống còn cho công ty ‘c ủ a ông ấ y.
Trong tháng đó, Amelio ph ải đối di ện vớ i cu ộc họ p cổ đông thư ờ ng niên và giải thích vì
sao kết qu ả quý IV năm 1996 thấp hơn 30% doanh s ố so v ớ i cùng kỳ năm trướ c. Các cổ đông c ự c
k ỳ gi ận dữ. Amelio thi ếu kh ả năng và đã điều hành cu ộc họp một cách yếu đu ối. “Bài phát bi ểu đó
là m ột trong nh ững bài t ố t nh ất tôi từng làm,” ông ta viết sau đó. Tuy nhiên Ed W oolard, cựu CEO
của DuPont và gi ờ là ch ủ t ị ch c ủa Apple (Markkula bị đẩ y xu ống làm phó ch ủ t ị ch), đã vô cùng hãi
hùng. “Đây là m ột th ảm họa,” v ợ ông ấ y thì th ầm vào giữ a bu ổi họp. W oolard đồng tình v ớ i đi ều
này. “Gil ăn m ặc rất tuy ệt, nhưng vẻ ngoài và giọng c ủa ông ta quá y ế u đu ối,” ông nh ớ l ại. “ông ta
không trả l ờ i đư ợ c các câu hỏi, khôn g biết là mình đang nói v ề cái gì, và cũng không cho thấ y chút
t ự tin nào.”
Woolard nhấc đi ện thoại và gọi cho Jobs, ngườ i ông chưa t ừng g ặp. Cái cớ ban đầu là mờ i
Jobs tới Delaware để gặp các nhà đi ều hành của DuPont. Jobs đã t ừ ch ối, nhưng như W oolard hồi
tư ở ng “yêu c ầu đó ch ỉ là m ẹo để nói chuyện vớ i c ậ u ấ y về Gil.” ông lái cuộc nói chuyệ n qua hướ ng
này và hỏi th ẳng Jobs việc ông nghĩ thế nào về Amelio. W oolard nh ớ rằng Jobs đã khá th ận trọng,
nói r ằng Amelio không ở vị trí phù h ợ p. Jobs thì h ồi tư ở ng rõ hơn:
Tôi đã nghĩ rằng, hoặ c tôi nói thẳng v ớ i ông ta s ự th ật r ằng Gil ch ỉ là m ột gã không ra gì,
hoặc nói tránh đi ều đó. ông ta ở trong ban quản trị của Apple, tôi có trách nhi ệm phải nói th ật đi ều
mình nghĩ; nhưng mặt khác, n ếu tôi nói, ông ta s ẽ nói vớ i Gil, và trong trườ ng h ợ p này Gil sẽ
không bao giờ nghe lờ i tôi n ữa, và ông ta sẽ x ử t ấ t c ả những ngư ờ i tôi mang t ớ i Apple. Tất c ả
những s ự cân nh ắc di ễn ra trong đ ầu tôi chừng ba mươi giây. Cuối cùng tôi đã quy ế t đị nh r ằng
mình n ợ ngư ờ i này s ự th ật. Tôi t hật s ự quan tâm tớ i Apple. Vì th ế tôi cho ông ta bi ết đi ều đó. Tôi
đã nói ngườ i đàn ông này là CEO tệ nhất mà tôi t ừng bi ết, và tôi nghĩ n ếu cần có m ột ch ứng chỉ để
làm CEO thì ông ta s ẽ không bao giờ có nó. Khi tôi ng ắt máy, tôi đã nghĩ, mình vừa làm một đi ều
th ật ngu ngốc.
Mùa xuân năm đó Larry Ellison thấ y Amelio ở m ột bu ổi tiệc và gi ớ i thi ệu ông ta v ớ i phóng
viên công ngh ệ Gina Smith, ngườ i mu ốn bi ết về tình hình hi ện tại c ủa Apple. “Cô biết không,
Gina, Apple gi ống như m ột con tàu,” Amelio trả l ờ i. “Con tàu này chở đầ y châu báu, nhưng có một
l ỗ hổng trên thân tàu. Và nhiệm vụ củ a tôi là giúp tất c ả m ọi ngườ i cùng hư ớ ng tớ i m ột m ụ c tiêu.”
Smith trông khá bối r ối và hỏi, “Phải, nhưng còn l ỗ hổng trên tàu thì sao?” T ừ sau đó, Ellison và
Jobs đùa về câu chuy ện của chi ếc tàu. “Khi Larry k ể l ại câu chuyện này cho tôi, chúng tôi đang ở
trong c ửa hàng sushi, tôi th ực sự đã ngã kh ỏi gh ế vì cườ i,” Jobs nhớ l ại. “Anh ta gi ống như m ột
th ằng h ề, và l ại r ất nghiêm túc v ớ i b ản thân. Anh ta mu ốn mọi ngườ i g ọi mình là ti ến sĩ Amelio. Đó
luôn luôn là m ột tín hi ệu cảnh báo.”
Brent Schlender, phóng viên công nghệ đáng tin c ậ y của Fortune, biết Jobs và hi ểu cách
suy nghĩ của ông, vào tháng 3 anh ta đã viết m ột bài báo chi ti ết về s ự hỗn lo ạn này. “Apple, hình
m ẫu của Silicon Valley về cách quản lý khác thườ ng và những giấc mơ k ỹ thuật s ố còn đang ch ập
ch ững, đã quay trở l ại th ờ i kỳ khủng hoảng, xáo tr ộn m ột cách đáng buồn và ch ậm rãi v ớ i s ự t ụt
gi ảm doanh số, m ột chi ế n lư ợ c công nghệ sai l ầm và một thương hi ệu đang phai nh ạt,” anh vi ết.
“Vớ i con m ắt Machiavellian, có v ẻ như Jobs, b ất ch ấp sự m ờ i gọi c ủa Hollywood - trướ c đây t ừng
quản lý Pixar, nhà sản xu ất c ủa Toy story và m ột s ố phim hoạt hình khác - có th ể s ẽ ti ếp qu ản
Apple.”
M ột l ần nữa Ellison đưa ra công chúng ý tư ở ng thôn tính đ ối th ủ và đưa “b ạn thân” Jobs
của mình lên làm CEO. “Steve là ngườ i duy nhất có th ể gi ải c ứu Apple,” ông nói v ớ i các phóng
viên. “Tôi luôn s ẵn sàng giúp đỡ ngay khi anh ấ y nói.” Nhưng gi ống như lần thứ 3 cậu bé chăn cừu
nói có sói, l ần mong mu ố n thôn tính cu ối cùng củ a Ellison không đư ợ c chú ý nhiều, vì th ế cu ối
th áng đó, ông nói vớ i Dan Gillmore c ủa t ờ San Jose Mercury News rằng mình đang l ập m ột nhóm
các nhà đ ầu tư huy đ ộng 1 tỉ USD để mua ph ần l ớ n cổ phiếu củ a Apple. (Giá trị th ị trườ ng c ủ a công
ty ở th ờ i đi ểm đó khoảng 2,3 t ỉ USD). Ngày câu chuy ện này đượ c đưa ra, cổ phiếu của Apple tăng
11% v ớ i s ố lư ợ ng giao d ị ch l ớ n. Đ ể tăng thêm tính phù phiếm, Ellison lập đị a ch ỉ email
[email protected] , kêu g ọi công chúng bình ch ọn xem ông ta có nên đi ti ếp vớ i chi ến dị ch
này không.
Jobs khá thích thú v ớ i vai trò t ự ch ỉ đị nh c ủa Ellison. “Th ỉ nh thoảng Larry khơi chuy ện này
ra,” ông nói v ớ i các phóng viên. “Tôi đã c ố gi ải thích vai trò của mình ở Apple là một chuyên gia
tư v ấn.” Tuy nhiên Amelio thì giận đi ếng ngư ờ i, ông ta gọi cho Ellison đ ể yêu cầu dừng chuyện
này l ại, nhưng Ellison ch ẳng buồn nh ấc máy. Vì th ế Amelio g ọi ch o Jobs, ngư ờ i có nh ững phát
bi ểu lập lờ nhưng cũng khá xác thực. “Tôi th ực sự không hi ểu đi ều gì đang di ễn ra,” Jobs nói v ớ i
Amelio. “Tôi nghĩ t ất c ả những đi ều này thật điên rồ.” Sau đó Jobs kh ẳng đ ị nh m ột l ần nữa, nhưng
không ph ải t ất c ả s ự th ật: “Anh và tôi có một mối quan hệ t ốt.” Jobs đã có th ể kết thúc cu ộc xét h ỏi
này bằng cách nói ra việc t ừ ch ối ý tưở ng c ủ a Ellison, nhưng vớ i s ự phiền ph ức củ a Amelio, ông đã
không làm thế. ông ti ếp tục xa lánh , ph ục vụ cho ý thích và bản ch ất t ự nhiên c ủa mình.
Sau đó, báo gi ớ i quay sang ch ống lại Amelio. Business Week ch ạ y một trang bìa v ớ i tiêu đ ề
“Apple có phải m ột mi ếng bánh ?”;
Red Herring chạ y m ột tiêu đ ề “Gil Amelio, hãy từ ch ức”: và Wired chạ y trang bìa v ớ i biểu
tư ợ ng c ủa Apple b ị hành h ạ bở i một chi ếc vương miện gai và tiêu đề “Cầu nguy ện.” Mike Barnicle
của t ờ Boston Globe, nhắ c l ại nh ững năm b ị quản lý sai lầm củ a Apple, đã vi ết “Làm th ế nào mà
những k ẻ ngu ng ốc này v ẫn có th ể nhận tiền hàng th áng trong khi chúng bi ến chi ếc máy tính duy
nhất không làm ngư ờ i ta ho ảng s ợ thành một th ứ tương t ự như khu t ập ném của đội Red Sox?”
Khi Jobs và Amelio ký h ợ p đồng vào tháng 2, Jobs b ắt đầu hy vọng một cách lãng phí và
tuyên b ố, “Anh và tôi c ầ n gặp nhau và u ống vài ly để kỉ ni ệm!” Amelio hẹ n sẽ mang rượ u từ t ầng
hầm của mình và đ ề nghị m ờ i thêm các bà v ợ . Ph ải t ớ i tháng 6 họ m ớ i có th ể ch ọn đư ợ c một ngày,
m ặc dù sự căng th ẳng ngày càng tăng nhưng h ọ vẫn có th ể có m ột kho ảng th ờ i gian vui v ẻ. Tuy v ậ y
th ức ăn và rư ợ u hoàn toàn không phù h ợ p vớ i nhau; Amelio mang t ớ i một chai Cheval Blanc 1964
và m ột chai Montrachet giá 300 đô la m ỗi chai; còn Jobs chọn một nhà hàng chay ở Redwood City
vớ i hóa đơn ti ền ăn tổng c ộng là 72 đô la. V ợ của Amelio sau đó nh ớ l ại, “Ông ấ y rất cu ốn hút, và
cả vợ của ông ấ y cũng vậ y.”
Jobs có thể hấp dẫn và thu hút m ọi ngườ i nếu muốn, và ông ấ y thích làm đi ều đó. Những
ngư ờ i như Amelio và Sculley cho phép h ọ tin r ằng b ở i vì Jobs cố thu hút h ọ có nghĩa r ằng ông ấ y
thích và tôn tr ọng h ọ. Đó là ấn tư ợ ng đôi khi Jobs c ố thúc đ ẩ y bằng việc đưa ra những lờ i tâng b ốc
gi ả dối cho những ai c ần nó. Jobs có thể thu hút những ngư ờ i mà ông ghét dễ dàng như vi ệ c lăng
m ạ những ngư ờ i mà ông thích. Amelio không nhìn thấ y đi ều đó, b ở i cũng như Sculley, quá háo
hức vớ i c ảm giác yêu mế n Jobs. Thực vậ y, nh ững t ừ ông ta dùng để mô t ả s ự mong mỏi m ột quan
hệ t ốt vớ i Jobs gần gi ống như những l ờ i c ủ a Sculley. “Khi tôi vật l ộn vớ i m ột vấn đề, tôi có th ể
vượ t qua nó cùng vớ i anh ta,” Amelio nhớ l ại. “Chúng tôi đồng thuận 9 trên 10 trư ờ ng h ợ p.” Một
cách nào đó, ông ta cố tin r ằn g Jobs th ực sự tôn trọ ng mình: “Tôi thích cách Steve suy nghĩ và ti ếp
cận vấn đề, và có cảm giác rằng chúng tôi đang xây dựng m ột mối quan hệ đ áng tin c ậ y vớ i nhau.”
Amelio v ỡ m ộng chỉ vài ngày sau b ữa t ối c ủ a họ. Qua bu ổi đàm phán củ a họ, ông ta c ố
thuy ết phục Jobs gi ữ cổ phiếu Apple trong ít nh ất 6 tháng hoặ c hơn. Khoảng thờ i gian 6 th áng này
kết thúc vào th áng 6. Khi một gói 1,5 tri ệu cổ phiếu đư ợ c bán ra, Amelio g ọi cho Jobs. “Tôi đã nói
vớ i mọi ngườ i r ằng s ố cổ phần đó không ph ải c ủ a anh,” ông ta nói. “Hãy nhớ là tôi và anh đã th ống
nhất vi ệc anh s ẽ không bán mà không thông báo trướ c vớ i tôi.”
“Đúng th ế,” Jobs tr ả l ờ i. Amelio coi câu tr ả l ờ i này đ ồng nghĩa vớ i vi ệc Jobs chưa bán s ố
cổ phiểu của mình, và thông báo vi ệc đó. Tuy nhiên kỳ báo cáo SEC ti ếp theo đã cho thấ y Jobs
th ực sự đã bán cổ phiếu của mình. “Ch ết tiệt, Steve, tôi đã h ỏi thẳng v ề những c ổ phiếu này và anh
đã nói không phải mình bán.” Jobs nói v ớ i Amelio rằng mình đã bán trong một lúc “ chán n ản” v ề
tương lai của Apple và đã không mu ốn thừ a nhận bở i ông đã “hơi x ấu hổ.” Khi tôi h ỏi Jobs v ề đi ều
đó nhi ều năm sau, ông ấ y trả l ờ i đơn giản, “Tôi không cảm th ấ y cần ph ải nói v ớ i Gil.”
Tại sao Jobs l ại nói d ối Amelio về vi ệc bán cổ phầ n? Có một lý do đơn giản là: Jobs đôi khi
l ảng tránh s ự th ật. Helmut Sonnenfeldt t ừng nói vớ i Henry Kissinger, “Anh ta nói dối không phải
vì thích như vậ y, anh ta nói d ối bở i nó là bản ch ất t ự nhiên c ủa anh ta.” Đó là b ản tính t ự nhiên c ủa
Jobs trong việc làm ngư ờ i ta mê muội ho ặc trở nên bí m ật khi ông cảm th ấ y nó xác đáng. Tuy
nhiên ông cũng đôi khi cho phép mình thật thà m ột cách tàn nhẫn ở m ột vài th ờ i đi ểm, nói nh ững
s ự th ực mà phần l ớ n chúng ta né tránh hay giấu giế m. C ả s ự gi ả bộ cũng như sự th ẳng th ắn đều đơn
gi ản là nh ững khía c ạnh khác nhau ở quan đi ểm theo ch ủ nghĩa Nietzsche củ a Jobs mà những phép
t ắc thông thư ờ ng không áp d ụng đượ c vớ i ông.
Tẩu thoát, b ị truy đu ổi bở i một con g ấu Jobs đã t ừ ch ối việc ch ấm dứt nh ững ý đị nh v ề vi ệc
thôn tính của Larry Ellison, và cũng đã bí m ật bán cổ phiếu của mình trong khi nói d ối về vi ệc đó.
Vì thế cu ối cùng Amelio cũng nhận thấ y việ c Jobs đang nh ắm tớ i ông ta. “Cuối cùng tôi bu ộ c ph ải
ch ấp nh ận sự th ật là mình đã quá mong mu ốn tin rằ ng c ậu ta ở trong nhóm của mình,” Amelio nh ớ
l ại. “Steve đã lên k ế hoạch đ ể ki ểm soát việc t ừ ch ức của tôi.”
Jobs th ực t ế đã gi ả nhân gi ả nghĩa một cách vụng v ề vớ i Amelio vớ i m ọi cơ hội có đư ợ c.
Ông không thể t ự giúp mình. Tuy nhiên có m ột yế u t ố quan tr ọng hơn trong việc khi ến ban quản trị
ch ống lại Amelio. Fred Anderson, giám đốc tài chính, coi đó là trách nhiệm mà mình đượ c ủ y thác
trong việ c cập nh ật cho Ed W oolard và ban qu ản trị về tình hình nguy c ấp của Apple. “Fred là
ngư ờ i đã nói v ớ i tôi v ề vi ệc tiền m ặt đang cạn dần, nhân viên d ần nghỉ vi ệ c và rất nhi ều vị trí chủ
ch ốt cũng đang nghĩ tớ i việc đó,” W oolard nói. “Anh ta ch ỉ rõ vi ệc con tàu sắp sửa mắc cạn, và b ản
thân Fred cũng đang nghĩ t ớ i vi ệc rờ i bỏ Apple.” Điều đó làm tăng thêm sự lo l ắng v ốn có của
W oolard kể t ừ sau khi chứng kiến Amelio ở cu ộc họp cổ đông.
Trong một bu ổi họp đi ều hành của ban quan trị vào tháng 6, vớ i s ự vắng mặt c ủa Amelio,
W oolard đã mô t ả cho ban giám đốc cách ông tính toán cơ h ội c ủa họ. “N ếu chúng ta giữ Gil làm
CEO, tôi nghĩ ch ỉ có 10% khả năng ta tránh đượ c vi ệc phá s ản,” ông nói. “Nếu ta sa th ải ông ta và
m ờ i Steve lên n ắm quyền, chúng ta có 60% kh ả năng s ống sót. N ếu ta sa th ải Gil, không có Steve
quay lại và ph ải tìm m ột CEO m ớ i, thì khả năng đó là 40%.” Và ban quản trị đã cho ông quyền
đượ c m ờ i Jobs quay tr ở l ại.
W oolard và vợ bay t ớ i London, n ơi h ọ xem các trận đấu tennis t ại Wimbledon, ông xem
các trận đấu vào ban ngày và dành thờ i gian bu ổi t ối ở trong phòng t ại khách s ạn Inn on the Park để
gọi điện về M ỹ, nơi đang là ban ngày. Cu ối thờ i gian ngh ỉ ở đây, hóa đơn điệ n tho ại c ủa ông lên tớ i
2.000 đô-la.
Đầu tiên, ông g ọi cho Jobs. Ban giám đ ố c sẽ sa th ải Amelio, ông nói, và h ọ muốn Jobs quay
l ại vớ i vị trí CEO. Jobs đã từng h ết l ờ i ch ế nhạo Amelio và đưa ra ý tư ở ng c ủa mình v ề vi ệc quay
l ại đi ều hành Apple. Nhưng đột nhiên, khi nh ận đư ợ c l ờ i m ờ i , ông l ại trở nên r ụt rè. “Tôi sẽ giúp,”
ông trả l ờ i.
“Làm CEO?” W oolard hỏi.
Jobs đã t ừ ch ối. W oolard đã rất c ố gắng thúc đ ẩ y để ít nh ất Jobs cũng tr ở thành CEO t ạm
quyền. Nhưng Jobs v ẫn từ ch ối. “Tôi sẽ làm m ột nhà tư v ấn,” ông nói. “Không l ấ y thù lao.” Ông
cũng đồng ý trở thành một thành viên trong ban qu ản trị . “Đó là t ất c ả những gì tôi có th ể làm bây
gi ờ ,” ông nói. Sau m ột s ố l ờ i đòn đ ại, ông đã gửi m ột thông báo cho toàn b ộ nhân viên c ủa Pixar
đảm bảo về vi ệ c mình sẽ không rờ i bỏ họ. “Tôi có m ột cu ộc gọi t ừ ban qu ản trị của Apple 3 tu ần
trướ c yêu c ầu tôi quay l ại Apple v ớ i vị trí CEO,” ông vi ết. “Tôi đã t ừ ch ối. Sau đó h ọ yêu cầu tôi
tr ở thành ch ủ t ị ch c ủa Apple, và tôi ti ếp tục t ừ ch ối. Vì th ế đừng lo l ắng v ề những l ờ i đòn đ ại ngu
ngốc. Tôi không có ý đị nh r ờ i bỏ Pixar. Các b ạn bị m ắc kẹt vớ i tôi.”
Tại sao Jobs không n ắm lấ y cơ hội này? Tại sao ông không mi ễn cư ỡ ng n ắm lấ y công vi ệ c
mà suốt 2 thập kỷ ông có vẻ luôn khao khát? Khi tôi hỏi, Jobs đã nói:
Pixar v ừa đư ợ c niêm yết trên sàn ch ứng khoán , và t ôi hạnh phúc khi trở thành CEO t ại đây.
Tôi chưa bao giờ bi ết bất kỳ ai đ ồng thờ i làm CEO ở 2 công ty cổ phần khác nhau, k ể cả là tạm
th ờ i, và th ậm chí tôi cũng không chắc đi ều đó có h ợ p pháp hay không. Tôi không bi ết mình muốn
làm cái gì. Khi đó tôi đang thích thú khi dành đư ợ c nhi ều th ờ i gian hơn v ớ i gia đình. Tôi b ị gi ằng
xé. Tôi bi ết Apple đang h ỗn lo ạn, tôi đã t ự hỏi: mình có mu ốn bỏ l ại cu ộc sống t ốt đẹp đang có?
Tất c ả các cổ đông c ủa Pixar sẽ nghĩ gì? Tôi đã nói chuy ệ n vớ i nh ững ngư ờ i mình tôn tr ọng. Cu ối
cùng tôi g ọi cho Andy Grove vào kho ảng 8h vào m ột bu ổi s áng th ứ 7 - quá sớ m. Tôi đưa ra những
cân nh ắ c đi ểm lợ i và hại, anh ấ y ng ắt l ờ i tôi gi ữa ch ừng và nói, “Steve, tôi không có hứng thú gì
vớ i Apple.” Tôi đã r ất cho áng váng. Sau đó tôi nh ận ra rằng mình quan tâm t ớ i Apple - tôi đã s áng
l ập nó và đó là m ột thứ t ố t đ ẹp hiện hữu trên thế gi ớ i này. Và đó là khi tôi quyế t đ ị nh tạm thờ i quay
l ại để giúp h ọ thuê đượ c m ột CEO m ớ i.
Gi ải thích về vi ệc đang vui thú v ớ i khoảng thờ i gian nhi ều hơn dành cho g ia đình không
thuy ết ph ục m ấ y. Jobs chưa bao gi ờ giành đư ợ c danh hi ệu “ông bố của năm”, ngay cả khi ông có
nhiều thờ i gian trong tay. ông có làm t ốt hơn việc để m ắt t ớ i con cái, đ ặc biệt là Reed, tuy nhiêu ưu
tiên hàng đ ầu vẫn là công vi ệc, ông thư ờ ng xuyên cách bi ệt vớ i hai con gái nhỏ của mình, ti ếp tục
xa r ờ i Lisa và thườ ng xuyên là m ột ngườ i chòng cáu b ẳn.
Vậ y, lý do th ực sự khi Jobs do dự trong việc nắm quyền ở Apple là gì? V ớ i t ất c ả s ự lì lợ m
và lòng tham vô độ trong việc ki ểm soát mọi th ứ, Jobs lư ỡ ng lự và tr ầm lặng khi không chắc ch ắn
về th ứ gì đó. ông khao khát s ự hoàn h ảo, và không gi ỏi trong vi ệc tìm cách giải quyết nh ững thứ
thiếu hoàn hảo. Jobs không muốn vật l ộn vớ i s ự ph ức t ạp hay thỏa hi ệp. Đi ều đó đúng v ớ i các s ản
phẩm, thiết kế và n ội th ất trong nhà. Điều đó cũng đúng v ớ i nh ững cam k ết cá nhân. N ếu ông biết
ch ắc ch ắn m ột hành động là đúng, thì không ai có th ể ngăn ông lại đư ợ c. Nhưng n ếu không thấ y
ch ắc ch ắn, ông đôi khi rút lui và không mu ốn nghĩ tớ i nh ững thứ không hoàn hảo vớ i mình. Giống
như khi Amelio hỏi vai trò mà Jobs muốn tham gia, Jobs ch ỉ im l ặng và b ỏ qua nh ững tình huống
làm ông không tho ải mái.
Cách hành x ử này xu ất hi ện m ột ph ần có nguồn gố c t ừ khuynh hướ ng nhìn thế gi ớ i theo 2
cực khác nhau c ủa Jobs. M ột con ngư ờ i ho ặ c là m ột anh hùng nếu không chỉ là m ột gã kh ờ , m ột
s ản ph ẩm ph ải là tuy ệt v ờ i còn không ch ỉ là th ứ rác rưở i. Tuy nhiên ông cũng thườ ng lúng túng v ớ i
những thứ phứ c t ạp hơn, m ờ nhạt hơn, hay nhi ều sắc thái: l ập gia đình, mua một chi ếc sofa phù
hợ p, cam kết đi ều hành một công ty. Thêm vào đó, ông không mu ốn sắp xếp để th ất bại. “Tôi nghĩ
Steve mu ốn bi ết Apple có thể cứu đư ợ c hay không,” Fred Anderson nói.
Woolard và ban quản trị quyết đị nh ti ếp tục vớ i kế hoạch và sa thải Amelio ngay c ả khi
Jobs chưa cam k ết s ẽ hỗ tr ợ t ớ i m ức nào trong vai trò cố vấn. Amelio đang đi ngh ỉ vớ i vợ và các
con, cháu c ủa mình khi W oolard gọi đi ện từ London. “Chúng tôi c ần anh thoái lui,” W oolard nói
đơn gi ản. Amelio tr ả l ờ i r ằng giờ không ph ải th ờ i đi ểm thích hợ p để bàn chuy ện này, nhưng
W oolard c ảm th ấ y mình cần tiếp tục. “Chúng tôi chuẩn bị thông báo vi ệc thay th ế anh.”
Amelio phản đối. “Nh ớ này, Ed, tôi đã nói vớ i ban quan trị rằng c ần tớ i 3 năm đ ể công ty
này có th ể đứng trên đôi chân củ a mình,” ông nói. “Tôi thậm chí còn chưa đi h ết nửa ch ặng
đườ ng.”
“Ban quản trị đang ở tình th ế không muốn th ảo lu ậ n thêm nữa,” W oolard trả l ờ i. Amelio
hỏi nh ững ngư ờ i bi ết về quyết đị nh này, và W oolard nói v ớ i ông ta s ự th ật: tất c ả ban qu ản trị và
Jobs. “Steve là m ột trong nh ững ngư ờ i chúng tôi nói v ề ch uyện này,” W oolard nói. “C ậu ấ y nghĩ
anh là ngườ i t ốt, nhưng không hiểu bi ết nhi ều về ngành công nghi ệp máy tính.”
“Vì cái gì mà các ông lại lôi Steve vào m ột quyết đị nh như th ế này?” Amelio đáp trả m ột
cách gi ận dữ. “Steve thậ m chí còn không ph ải thành vi ên c ủ a ban quản trị , v ậ y anh ta làm cái quái
gì trong t ất c ả những cuộ c tranh lu ận này?” Dù vậ y nhưng W oolard không lùi bư ớ c, Amelio cúp
máy và tiếp tục kỳ nghỉ v ớ i gia đình trướ c khi thông báo cho v ợ mình.
Ở m ột s ố th ờ i đi ểm, Jobs thể hi ện sự tr ộn lẫn lạ thư ờ ng giữa tính cáu b ẳn và sự thiếu th ốn.
Ông thườ ng không m ả y may quan tâm t ớ i ngườ i khác nghĩ gì về mình; ông có thể đoạn tuyệt vớ i
ngư ờ i khác và không bao giờ nhìn tớ i họ l ần nữa. M ột s ố th ờ i đi ểm khác, ông lại c ảm th ấ y sự ép
buộc ph ải gi ải thích về mình. Vì th ế buổi t ối ngày hôm đó Amelio, h ết s ức ng ạ c nhiên, nhận đư ợ c
cu ộc đi ện thoại t ừ Jobs. “Gil, tôi ch ỉ muốn anh biết, tôi đã nói chuy ện vớ i Ed hôm nay về chuy ện
này và tôi c ảm thấ y thực sự tòi t ệ về nó,” ông nói. “Tôi mu ốn anh biết tôi không có liên quan gì tớ i
chuỗi s ự ki ện này, đó là quyết đị nh ban qu ản trị đã đưa ra, tuy nhiên h ọ có m ờ i tôi v ớ i vai trò tư
vấn.” Jobs nói v ớ i Amelio rằng mình tôn tr ọng ông vì là “ngư ờ i chính tr ực nh ất mà tôi t ừng đượ c
gặp,” và theo đó là m ột s ố l ờ i khuyên m ột cách t ự nguyện. “Hãy ngh ỉ ngơi 6 th áng,” Jobs nói vớ i
ông ta. “Khi tôi b ị ném kh ỏi Apple, tôi lập tức quay lại vớ i công vi ệ c, và tôi l ấ y làm tiếc vì đi ều
đó.” Jobs ng ỏ l ờ i s ẽ là ngư ờ i l ắng nghe b ất c ứ khi nào Amelio c ần thêm lờ i khuyên.
Amelio hết s ức bất ng ờ nhưng vẫn kị p thì th ầm vài lờ i c ảm ơn. ông ta quay sang vợ và nhắ c
l ại nh ững l ờ i c ủa Jobs. “Theo nhiều cách, anh vẫ n thích ngư ờ i này, nhưng anh không tin c ậu ta,”
Amelio nói vớ i vợ .
“Em hoàn toàn b ị dẫn dắt bở i Steve,” bà nói, “và em th ực sự cảm th ấ y mình ngu ng ốc.”
“Gia nhập đám đông thôi,” Amelio trả l ờ i
Steve Wozniak, giờ là m ột c ố vấn không chính th ức cho công ty, rất xúc đ ộng v ề vi ệc Jobs
s ắp quay tr ở l ại. (ông ta đã b ỏ qua một cách dễ dàng.) “Đó là t ất c ả những gì chúng ta cần,” ông
nói, “b ở i vì dù an h nghĩ th ế nào về Steve, cậu ta ch ắc ch ắn là ngườ i bi ết cách làm nh ững điều phi
thư ờ ng.” Và chi ến th ắng c ủa Jobs trư ớ c Amelio cũng không làm ông ngạ c nhiên, ông đã nói vớ i
t ạp chí Wired ngay sau khi mọi vi ệc di ễn ra, “Gil Amelio g ặp Steve Jobs, trò chơi kết thúc.”
Thứ 2 sau đó nh ững nhân viên chủ ch ốt c ủa Apple đượ c gọi t ớ i khán phòng. Amelio bướ c
vào vớ i vẻ đi ềm tĩnh và khá thư giãn. “Tôi r ất bu ồn khi phải thông báo đã đ ến lúc tôi c ần ph ải ra
đi,” ông nói. Fred Anderson, ngườ i đư ợ c ủng h ộ để tr ở thành CEO lâm th ờ i, nói k ế ti ếp, và ông đã
khẳng đ ị nh rõ vai trò này sẽ đượ c chuy ể n giao cho Jobs. Đúng 12 năm k ể t ừ khi đánh m ất quyề n
l ực, sau nh ững ngày tranh đấu, cu ối tu ần th ứ tư c ủa th áng 7 Jobs đã quay tr ở l ại khán đài ở Apple.
M ọi th ứ l ập tức trở nên rõ ràng , bất kể vi ệ c Jobs có th ừa nh ận trư ớ c công chúng (hay vớ i
chính b ản thân) hay không, ông b ắt đầu vi ệc ki ểm soát Apple chứ không ch ỉ là m ột c ố vấn bình
thư ờ ng. Ngay khi bướ c lên sân kh ấu ngày hôm đó - m ặc qu ần soóc, giày đế m ềm và áo cao cổ màu
đen - ông bắt đ ầu công vi ệc ph ục hồi đ ứa con tinh th ần của mình. “Đư ợ c ròi, hãy nói cho tôi biết có
gì không ổn ở đây,” ông nói. Có vài tiếng xì x ầm, tuy nhiên Jobs cắt ngang. “Đó là các sản ph ẩm!”
ông trả l ờ i. “Th ế thì có gì không ổn vớ i các s ản ph ẩ m?” Lại một vài ng ườ i mu ốn thử tr ả l ờ i, cho t ớ i
khi Jobs l ại ng ắt ngang và đưa ra câu trả l ờ i chính xác. “Nh ững s ản ph ẩm hi ện nay d ở t ệ!” ông nói.
“Chúng giờ ch ẳng còn có gi ớ i tính n ữa!”
W oolard đã có th ể thuy ết ph ục Jobs ch ấp nh ận vai trò cố vấn m ột cách tích c ực. Jobs đã
đồng ý thỏa thu ận trong đó ông “đ ồng ý tham gia vào Apple tối đa 90 ngày, giúp h ọ cho t ớ i khi tìm
ra m ột CEO m ớ i.” Công th ức thông minh mà W oolard sử dụng trong thỏa thu ận này là Jobs s ẽ
quay tr ở l ại vớ i tư cách là “m ột c ố vấn dẫn dắt c ả công ty.”
Jobs sử dụng m ột văn phòng nh ỏ ở cạnh phòng của ban quản trị trên tầng đi ề u hành, rõ ràng
là tránh văn phòng r ộng rãi c ủa Amelio. Ông tham gia vào t ất c ả các lĩnh v ự c củ a công ty: thiết kế
s ản ph ẩm, cắt gi ảm chi tiêu, đàm phán vớ i nhà cung c ấp và xem xét các đạ i l ý qu ảng cáo. ông tin
rằng mình cần ph ải ngăn làn sóng thôi vi ệc của các thành viên ch ủ ch ốt, và đ ể làm đư ợ c đi ều đó
ông muốn đị nh giá l ại quyề n mua cổ phiếu của họ. Cổ phiếu của Apple đã xu ống thấp tớ i m ức
quyền mua cổ phiếu trở nên vô giá trị . Jobs mu ốn hạ giá mua c ổ phiếu ưu đãi để chúng l ại có giá
tr ị . ở th ờ i điểm đó, việc này là h ợ p pháp, tuy nhiên nó không đượ c đánh giá là t ốt cho công ty. Vào
ngày th ứ 5 đầu tiên t ừ khi quay l ại Apple, Jobs đã tri ệu tập m ột cu ộc họp qua điện thoại vớ i ban
quản trị và làm rõ v ấn đề đó. Tuy nhiên các giám đ ốc l ại ng ần ng ại. H ọ yêu cầu thờ i gian đ ể nghiên
cứu luật và tài chính đ ể xem thay đổi này có nh ững ảnh hưở ng gì. “Nó c ần đư ợ c làm g ấp,” Jobs nói
vớ i họ. “Chúng ta đang m ất nh ững ngư ờ i gi ỏi.”
Ngay c ả ngư ờ i luôn hỗ tr ợ ông là Ed W oolard, trưở ng ban khen thưở ng, cũng ph ản đối: “ở
DuPont chúng tôi chưa bao gi ờ làm như vậ y,” ông nói.
“Các ông đưa tôi đ ến để ổn đị nh chỗ này, và con ngườ i là chìa khóa củ a nó,” Jobs tranh
lu ận. Khi ban quản trị đề nghị m ột nghiên c ứu có th ể m ất t ớ i 2 tháng, Jobs đã nổi giận: “Các ngư ờ i
có điên không?!?” ông im l ặng một lúc lâu, sau đó tiếp tục. “Này, nếu các anh không muốn th ự c
hi ện vi ệc đó, tôi s ẽ không quay lại vào thứ 2 tớ i. B ở i tôi có hàng ngàn quy ết đị nh then chốt c ần
th ực hiện còn khó hơn th ế này r ất nhi ều, và n ếu các anh không thể hỗ tr ợ cho tôi trong những quy ết
đị nh như th ế này, tôi s ẽ th ất b ại. Th ế nên, nếu các anh không thể làm đư ợ c, thì tôi s ẽ ra kh ỏi đây, và
các anh có thể trách c ứ tôi, các anh có th ể nói ‘Steve không phù hợ p cho việc này.’”
Ngày hôm sau, sau khi h ỏi ý kiến ban quản trị , W oolard gọi Jobs quay lại. “Chúng tôi s ẽ
ch ấp nh ận vi ệc này,” ông nói. “Nhưng m ột vài ngư ờ i trong ban qu ản trị không thích nó. Chúng tôi
cảm thấ y như anh đang chĩa súng vào đầu mình vậy.” cổ phiếu cho nhóm nhân viên ch ủ ch ốt (Jobs
không đư ợ c gì cả) đư ợ c đưa v ề m ức 13,25 đô la, bằng mứ c giá c ổ phiếu vào ngày Amelio bị sa
th ải.
Thay vì tuyên bố chiến th ắng và c ảm ơn ban quản trị , Jobs tiếp tục sôi lên khi phải trả l ờ i
trướ c ban quản trị mà ông không tôn tr ọng. “Hãy dừng đoàn tàu lại, nó s ẽ không có kết qu ả,” ông
nói vớ i W oolard. “Công ty này đang ph ải vật l ộn để t ồn tại, và tôi không có thờ i gian đ ể làm vú
nuôi cho ban quản trị . Vì vậ y tôi cần tất c ả các ông rút lui. Hoặc tôi sẽ rút lui và không quay trở l ại
vào thứ 2.”
Ngư ờ i duy nh ất có th ể ở l ại, ông nói, là W oolard.
Phần lớ n các thành viên của ban quản trị hết s ức kinh ng ạ c. Jobs dù v ẫn từ ch ối cam k ết
làm vi ệc toàn thờ i gian hay đ ảm nhiệm vị trí nào khác ngoài vai trò c ố vấn, nhưng ông đã cảm thấ y
mình có quy ền lự c để buộc họ phải rút lui. Tuy nhiên sự th ật phũ phàng là ông th ực sự có quy ền
năng đó đ ối vớ i họ. Họ không đủ khả năng đ ể ngừ ng cơn th ị nh n ộ của Jobs, ho ặc là tri ển vọng c ủ a
vi ệc ch ỉ còn một thành viên trong ban qu ản trị rất thú v ị khi đó. “Sau t ất c ả những gì h ọ đã tr ải qua,
phần lớ n đều vui mừng khi đư ợ c buông tha,” W oolard nh ớ l ại.
M ột l ần nữa ban quản trị l ại đồng ý. H ọ ch ỉ có m ột yêu c ầu: li ệu Jobs có ch ấ p nh ận thêm
m ột ngườ i nữa ở l ại ngoài W oolard không? Đi ều đó giúp cải thi ện về m ặt hìn h ảnh. Jobs chấp
nhận. “Họ là m ột ban quả n trị yếu kém, m ột hội đồng t ồi t ệ,” ông nh ớ l ại. “Tôi đã đồng ý vi ệc gi ữ
l ại Ed W oolard và m ột ngườ i tên Gareth Chang, ngư ờ i trở thành s ố không, ông ta không t ệ, ch ỉ đơn
gi ản là một s ố không tròn trĩnh. W oolard, m ặt khác, lại là một trong nh ững thành viên hội đồng tốt
nhất mà tôi t ừng biết, ông ấ y như một chàng hoàng tử, m ột trong nh ững ngư ờ i thông minh và hỗ
tr ợ nhất tôi từng gặp”
Trong nh ững ngư ờ i bị yêu cầu từ ch ứ c có Mike Markkula, nhà đ ầu tư trẻ đã tớ i thăm gara
của Jobs vào năm 1976, vô cùng ấn tư ợ ng v ớ i chi ếc máy tính mớ i ra đờ i trên bàn làm vi ệc, và đã
đảm bảo 250.000 đô-la đ ầu tư, tr ở thành thành viên th ứ 3, sở hữu Vs công t y m ớ i thành lập. Qua 2
th ập kỷ sau đó, ông là thành viên thư ờ ng tr ực của ban quản trị , đã ch ứng kiến vi ệc đến và đi của
nhiều ki ểu CEO. Ông đã ủng h ộ Jobs ở nhiều th ờ i đi ểm nhưng cũng có nhữ ng va chạm, đánh k ể
nhất là khi ông đứng v ề phía Sculley trong cu ộc đố i đầu năm 1985. Khi Jobs quay tr ở l ại, ông đã
bi ết đó là th ờ i đi ểm để mình ra đi.
Jobs có th ể rất cay đ ộc và lạnh lùng, đặc bi ệt vớ i nh ững ngư ờ i có xung đ ột vớ i ông, nhưng
cũng có thể rất tình c ảm vớ i nhưng ngư ờ i đã đồng hành cùng ông từ những ngày đ ầu. Wozniak t ất
nhiên thu ộc vào nhóm đư ợ c yêu thích này, nhưng dù vậ y họ v ẫn xa cách; tương tự vớ i Andy
Hertzfeld và vài ngườ i khác ở nhóm Macintosh. Cuối cùng, Mike Markkula cũng vậ y. “Tôi c ảm
th ấ y mình b ị phản bội m ột cách sâu s ắc, nhưng ông ấ y gi ống như m ột ngườ i cha và tôi luôn luôn
quan tâm tớ i ông,” sau này Jobs h ồi tư ở ng l ại. Th ế nên khi đ ến lúc phải yêu c ầu ông r ờ i kh ỏi ban
quản trị Apple, Jobs đã lái xe tớ i ngôi biệt thự gi ống như m ột lâu đài c ủa Markkula ở đồi W oodside
và làm vi ệc đó m ột cách riêng tư. Như mọi khi, ông yêu cầu m ột cu ộ c đi dạ o, họ t ản bộ về phía
rừng tùng bách v ớ i m ột chi ếc bàn pích ních. “C ậu ta nói r ằng mình mu ốn có m ột ban quản trị mớ i
bở i Jobs mu ốn một bắt đầu hoàn toàn m ớ i,” Markkula nói. “Cậu ta lo l ắng vi ệc tôi sẽ khó khăn khi
đón nh ận nó, và đã an tâm khi th ấ y tôi hoàn toàn tho ải mái.”
Họ dành phần lớ n th ờ i gian còn l ại để nói về lĩnh v ực Apple nên tập trung trong tương lai.
Tham vọng c ủa Jobs là xây d ựng một công ty có th ể trườ ng t ồn, và ông đã h ỏi Markkula về công
th ức dành cho nó. Markkula tr ả l ờ i r ằng các công ty tồn tại lâu dài biết cách t ự s áng t ạo lại chính
nó. Hewlett -Packard đã làm điều đó nhiều l ần; nó b ắt đ ầu là một công ty chuyên về nhạc cụ, sau đó
là m ột công ty sản xu ất máy tính c ầm tay, và cu ố i cùng là máy tính cá nhân. “Apple đã bị
Microsoft lo ại kh ỏi cu ộc chơi trong m ảng máy tính cá nhân,” Markkula nói. “Cậu cần ph ải s áng
t ạo lại công ty để phát tri ển m ột th ứ gì đó khác, như các sản ph ẩm tiêu dùng hay các thiết bị cá
nhân. Cậu cần ph ải gi ống một chú bướ m vớ i kh ả năng thay đ ổi hình dáng c ủa mình.” Jobs đã
không nói nhi ều, nhưng ông đồng ý vớ i đi ều đó.
Ban qu ản trị cũ h ọp m ặt vào cuối th áng 7 để phê duyệt vi ệ c chuy ể n đổi. W oolard, ngư ờ i
vốn cầu kỳ không kém sự nóng tính củ a Jobs, đã b ị choẤn ch ỗ gi ữa ch ừng khi Jobs xuất hi ện vớ i
quần bò và giày đ ế m ềm, ông đã lo lắng v ề vi ệc Jobs bắt đầu quát nạt nh ững thành viên kỳ cựu
trong ban quản trị vì sự lu ộm thuộm. Nhưng Jobs chỉ đơn thuần đưa ra l ờ i chào “Xin chào tất c ả
m ọi ngườ i.” H ọ đi th ẳng vào vấn đề b ầu ch ọn vi ệ c ch ấp nhận các đơn từ ch ức, bầu Jobs vào h ội
đồng và cho phép Jobs cùng W oolard tìm những thành viên mớ i cho ban qu ản trị .
Ngư ờ i đ ầu tiên Jobs tìm về, không có gì ng ạc nhiên, Larry Ellison, ông ta nói r ằng mình r ất
vui khi đượ c tham gia, nhưng ông r ất ghét tham gia các buổi họp. Jobs nói chỉ cần ông t ớ i dự m ột
nửa số đó là đượ c. (Sau m ột th ờ i gian Ellison ch ỉ t ớ i dự Vs s ố buổi họp. Jobs đã lấ y m ột bứ c ảnh
của ông ở trên góc t ạp chi Business Week và phóng to bằng ngư ờ i thật lên m ộ t t ấm bìa c ứng, c ắt ra
để đặt vào gh ế của Ellison.)
Jobs cũng m ờ i Bill Campbell, ngườ i đã t ừng làm marketing cho Apple đầu nh ững năm
1980 và b ị kẹt gi ữa cu ộc chi ến Sculley - Jobs. Campbell sau đó đ ứng v ề phía Sculley, nhưng càng
ngày càng ghét ông ta, nhiều tớ i m ức khi ến Jobs tha th ứ cho ôn g. Khi đó ông là CEO củ a Intuit và
là b ạn đi bộ của Jobs. “Chúng tôi ngồi phía sau ngôi nhà c ủa ông ấ y,” Campbell nh ớ l ại, ông s ống
cách Jobs chỉ 5 khu nhà ở Palo Alto, “ông ấ y nói s ẽ quay tr ở l ại Apple và mu ốn tôi có mặt trong
ban qu ản trị . Tôi nói, ‘Gì cơ, tất nhiên tôi s ẽ làm đi ều đó.’” Campbell từng là m ột hu ấn luyệ n viên
bóng đá ở Columbia, và tài năng tuyệ t vờ i c ủa ông, Jobs nói, là “giúp nh ững c ầu th ủ hạng B đ ạt
hi ệu su ất c ủa các c ầu th ủ hạng A.” ở Apple, Jobs nói vớ i Campbell, ông sẽ làm vi ệc vớ i nh ững
nhân tài h ạng A.
W oolard mang tớ i Jerry York, ngư ờ i t ừng làm giám đ ốc tài chính củ a Chrysler và sau đó là
IBM. Nh ững ngư ờ i khác đư ợ c cân nhắ c và sau đó bị t ừ ch ối bở i Jobs, bao g ồm Meg Whitman, khi
đó là quản lý của bộ phậ n Playskool của Hasbro và từng là ngư ờ i lên k ế hoạch chiến lư ợ c ở
Disney. (Năm 1998 bà tr ở thành CEO của eBay, và sau đó tranh cử để tr ở thành thống đ ố c bang
California, nhưng thất bạ i.) Qua nhi ều năm Jobs đã mang t ớ i ban quản trị Apple nhi ều nhân vật
t ầm cỡ khác, bao g ồm AI Gore, Eric Schmidt từ Google, Art Levinson của Genentech, Mickey
Drexler cCia Gap và J. Crew, Andrea Jung t ừ Avon. Tuy vậ y ông luôn đ ảm bảo sự trung thành của
họ, đôi khi là trung thành c ả vớ i nh ững sai l ầm. B ất ch ấp tầm vóc củ a mình, đôi lúc h ọ cho thấ y vẻ
tôn kính hay b ị hăm dọa bở i Jobs, và h ọ luôn c ố gắng đ ể làm ông vui v ẻ.
Có thờ i đi ểm Jobs đã mời Arthur Levitt, c ựu ch ủ t ị ch c ủa SEC, tr ở thành thành viên ban
quản trị . Levitt, ngư ờ i đã mua chi ếc Macintosh đ ầ u tiên vào năm 1984 và t ự hào vì “nghi ện”
những chiếc máy tính c ủ a Apple, đã sư ớ ng run lên. ông r ất hào h ứng khi tớ i thăm Cuperti no, nơi
ông thảo luận vai trò c ủa mình vớ i Jobs. Nhưng khi đó Jobs đ ọc đư ợ c l ờ i c ủa Levitt v ề vi ệc qu ản lý
t ập đoàn, tranh luận về vi ệc các ban qu ản trị cần đóng m ột vai trò l ớ n và độc l ập, và đã điện thoại
cho Levitt đ ể rút l ại l ờ i mờ i. “Arthur, tôi không nghĩ ông sẽ hạnh phúc khi ở trong ban qu ản trị củ a
chúng tôi, và tôi nghĩ tốt hơn h ết là chúng tôi s ẽ không m ờ i ông n ữa,” Levitt k ể l ại nh ững l ờ i c ủa
Jobs nói với ông. “Thực lòng mà nói, tôi nghĩ v ề những v ấn đề mà anh đưa ra, m ặc dù phù hợ p ở
m ột vài côn g ty, nhưng không thực sự thích h ợ p vớ i văn hóa c ủa Apple.” Levitt sau đó viết l ại,
“Tôi b ị đo v Ấn... m ọi vi ệc rất rõ ràng r ằng ban qu ản trị của Apple không đượ c thi ết kế để hoạt
động đ ộc l ập vớ i CEO.”
Macworld Boston, th áng 8 năm 1997
Thông báo cho nhân viên vi ệc đị nh giá l ại quyền mua cổ phiếu củ a Apple đã đư ợ c ký
“Steve và ban đi ều hành,” và rất nhanh chóng m ọi ngườ i bi ết đến vi ệ c ông t ổ ch ức các buổi họp
đánh giá t ất c ả m ọi s ản ph ẩm của công ty. Việc này cùng một s ố tín hiệu khác về vi ệ c Jobs đang
toàn tâm toàn ý cho Apple đã đ ẩ y giá c ổ phiếu từ 13 đô-la lên 20 đô -la trong tháng 7. Nó cũng t ạo
ra những luồng c ảm xúc hân hoan mà Apple thu lượ m đượ c cho s ự ki ện Macworld vào th áng 8
năm 1997 ở Boston. Hơn 5.000 ngườ i đã có m ặt nhi ều gi ờ và b ị nhồi nhét tro ng phòng hội nghị
Castle của khách s ạn Park Plaza đ ể nghe bài phát biểu của Jobs. H ọ t ớ i để đượ c th ấ y ngườ i anh
hùng đã trở l ại - và đ ể th ấ y ông có thực sự s ẵn sàng dẫn dắt họ l ần nữa hay không.
Những tràng pháo tay lớ n nổ ra khi bức ảnh Jobs t ừ năm 1984 h i ện ra trên màn hình trên
cao. “Steve! Steve! Steve!” đám đông b ắt đ ầu gào thét tên ông, mặc dù vi ệc giớ i thi ệu vẫn chưa kết
thúc. Khi ông bắt đầu bư ớ c đi trên sân khấu - m ặc m ột chi ếc áo khoác đen, áo phông trắng không
cổ, qu ần bò và n ở nụ cư ờ i tinh quái - những ti ếng hét và ánh đèn ch ớ p nháy không khác gì bầu
không khí chào đón m ột ngôi sao nhạ c rock. Đ ầu tiên ông ngưng sự phấn khích lại bằng việc nh ắ c
t ớ i nơi ông đang làm vi ệc chính th ức. “Tôi là Steve Jobs, ch ủ t ị ch và CEO của Pixar,” ông t ự gi ớ i
thiệu bản thân, m ở trang giớ i thi ệu vớ i tiêu đ ề như vậ y trên màn hình. Sau đó ông giải thích vai trò
của mình ở Apple. “Tôi, cũng giống như rất nhi ều ngườ i khác, đang cùng nhau giúp cho Apple
vững mạnh tr ở l ại.”
Nhưng vớ i vi ệ c bư ớ c trên sân khấu, thay đổi các trang trình chi ếu trên màn hình vớ i m ột
chiếc đi ều khiển trong tay, rất rõ ràng r ằng ông đang là ngư ờ i ch ị u trách nhiệm ở Apple - và có v ẻ
s ẽ ti ếp tục làm v ậ y. ông th ực hi ện m ột bài phát bi ể u đư ợ c làm h ết s ứ c cẩn th ận, không có ghi chú,
về nguyên nhân khi ến doanh thu của Apple giảm 30% so vớ i 2 năm trư ớ c. “Có rất nhi ều ngườ i
tuyệt vờ i ở Apple, nhưng họ đang làm nh ững thứ hoàn toàn sai l ầm bở i các k ế hoạch đ ều sai lầm,”
ông nói. “Tôi đã tìm thấ y nh ững ngư ờ i không thể ch ờ để đượ c xếp hàng sau một chi ến lư ợ c t ốt,
nhưng ở đây l ại ch ẳng có cái nào cả.” Đám đông l ại bùng nổ những ti ếng gào thét, tiếng huýt gió
và những tràng pháo tay.
Khi ông nói, niềm đam mê c ủa ông tuôn trào v ớ i cư ờ ng đ ộ tăng d ần, và ông bắt đầu sử
dụng “chúng tôi” và “tôi” - thay vì “h ọ” - khi nói t ớ i nh ững việc Apple đang làm. “Tôi nghĩ bạn
vẫn cần suy nghĩ khác biệ t khi mua m ột chi ếc máy tính Apple,” ông nói. “Nh ững ngư ờ i mua chúng
có suy nghĩ khác bi ệt. H ọ là nh ững tâm hòn sáng t ạo trong th ế gi ớ i này, và họ đang thay đ ổi th ế
gi ớ i. Chúng tôi làm các công c ụ cho nh ững ngư ờ i như v ậ y.“ Khi nhấn m ạnh t ừ “chúng tôi” trong
câu này, ông n ắm hai tay vớ i nhau và đ ặt các ngón tay lên ngực. Cuối cùng, trong đoạn kết c ủa bài
di ễn văn, ông ti ếp tục dùng từ “chúng tôi” khi nói về tương lai c ủa Apple.
“Chúng tôi cũng đang tiế p tục suy nghĩ khác biệt và ph ục vụ những ngư ờ i đã mua sản
phẩm của chúng tôi ngay từ những ngày đ ầu. B ở i có rất nhi ều ngườ i nghĩ chúng thật điên khùng,
nhưng trong s ự điên khùng đó chúng tôi th ấ y nh ữ ng thiên tài.”
Trong thờ i gian nẤn l ại đ ể tung hô, m ọi ngườ i nhìn nhau trong s ự tôn kính, vài ngư ờ i gạt
những giọt nư ớ c m ắt xúc đ ộng. Jobs đã thể hi ện rấ t rõ r ằng ông và “chúng tôi” c ủa Apple chỉ là
m ột.
Hiệp ước Microsoft
S ự ki ện ở Macworld tháng 8 năm 1997 của Jobs là m ột qu ả bom truy ền thông, xu ất hi ện
trên trang bìa của cả Time và Newsweek, ở gần cu ối bài di ễn thuy ết, ông dừng l ại để nhấp m ột
ngụm nướ c và bắt đầu nói v ớ i giọng nhẹ nhàng hơn. “Apple sống trong một hệ sinh thái,” ông nói.
“Nó cần sự tr ự giúp từ các đối tác. Nh ững mối quan hệ m ang tính tiêu c ực không giúp gì ai trong
ngành công nghi ệp này.” Đ ể tăng thêm s ự kị ch tích, ông lại ng ừng l ần nữa, và sau đó gi ải thích:
“Tôi muốn giớ i thi ệu một trong nh ững đ ối tác m ớ i đ ầu tiên c ủ a chúng tôi hôm nay, một đ ối tác đ ầ y
ý nghĩa, và đó là Micr osoft.” Bi ểu tư ợ ng c ủa Microsoft và Apple xu ất hi ện cùng nhau trên màn
hình trong s ự kinh ngạ c của m ọi ngườ i.
Apple và Microsoft ở trong tình tr ạng chiến tranh hàng thập kỷ qua nhi ều vấn đề về b ản
quyền và các bằng s áng ch ế, đáng kể nhất là việc Microsoft đánh c ắp giao di ện ngườ i dùng củ a
Apple. Ngay khi Jobs bị hất c ẳng khỏi Apple năm 1985, John Sculley đã ký m ột th ỏa thu ận đầu
hàng: Microsoft đư ợ c quyề n sử dụng giao di ện ngườ i dùng củ a Apple cho Windows 1.0, và đổi l ại
vi ệc bi ến Excel thành ph ần m ềm độc quyền cho Mac trong th ờ i hạn 2 năm. Năm 1988, sau khi
Microsoft phát hành Windows 2.0, Apple khở i kiệ n. Sculley cho rằng thỏa thu ận năm 1985 không
áp d ụng cho Windows 2.0 và những c ải tiến sau này của Windows (như th ủ thuật “c ắt xén” các c ửa
s ổ ch ồng lên nh au c ủa Bill Atkinson) đã th ể hi ện sự vi ph ạm rõ ràng. Năm 1997 Apple thua vụ ki ệ n
này và m ột s ố vụ kháng cáo khác, nhưng tàn dư c ủ a vụ tranh chấp và nguy cơ xuất hi ện nh ững v ụ
ki ện m ớ i t ồn tại trong một th ờ i gian dài. Thêm vào đó, b ộ tư pháp c ủa t ổng thống Clinton đang
chuẩn bị m ột vụ ki ện ch ố ng đ ộc quyề n rất l ớ n ch ống l ại Microsoft. Jobs đã m ờ i ủ y viên công tố
đứng đ ầu vụ này, Joel Klein, t ớ i Palo Alto. Đ ừng lo l ắng v ề vi ệc đưa ra biệ n pháp m ạnh v ớ i
Microsoft, Jobs nói vớ i ông khi uống cà phê. Thay vào đó, đơn gi ản là giữ h ọ bận rộn vớ i vụ ki ện.
Nó s ẽ cho Apple cơ hội, Jobs gi ải thích, đ ể “chạ y nư ớ c rút” v ớ i Microsoft và đưa ra nh ững s ản
phẩm cạnh tranh.
Dướ i th ờ i Amelio, cu ộc đấu đã ngã ngũ. Microsoft từ ch ối vi ệc phát tri ển Word và Excel
cho nh ững phiên bản tương lai củ a hệ đi ều hành Macintosh, và đi ều đó có th ể tiêu di ệt Apple, về
phía Bill Gates, đó không đơn gi ản là vì sự h ận thù. Có th ể hi ểu đư ợ c vì sao ông lại không s ẵn lòng
cam kết phát tri ển cho h ệ đi ều hành Macintosh tương la i khi mà không mộ t ai, bao g ồm cả s ự bất
ổn trong ban lãnh đạo củ a Apple, biết đư ợ c hệ đi ề u hành m ớ i đó sẽ như th ế nào. Ngay sau khi
Apple mua NeXT, Amelio và Jobs đã bay cùng nhau tớ i Microsoft, nhưng Gates g ặp khó khăn khi
xác đị nh ai là ngư ờ i đang ch ị u trách nhi ệm. Vài ngày sau ông g ọi cho Jobs. “Này, cái quái gì v ậ y,
có phải tôi cần đưa các ứ ng d ụng c ủ a mình lên h ệ đi ều hành NeXT?” Gates h ỏi. Jobs tr ả l ờ i vớ i
bằng “mô tả Gil như một kẻ khôn v ặt,” Gates nh ớ l ại, và g ợ i ý v ề vi ệc tình hình này s ẽ s ớ m đượ c
x ử lý.
Khi vấn đề về lãnh đ ạo đư ợ c giải quyết một ph ần vớ i s ự ra đi c ủa Amelio, m ột trong nh ững
cu ộc gọi đầu tiên c ủ a Jobs là cho Gates. Jobs nh ớ l ại:
Tôi gọi cho Bill và nói, “Tôi chu ẩn bị thay đ ổi công ty này.” Bill luôn có m ột vết nhơ nh ỏ
ở Apple. Chúng tôi đã đưa cậu ta đến vớ i lĩnh v ực ph ần m ềm ứng d ụng. Nh ững ứng d ụng đ ầu tiên
của Microsoft là Excel và Word cho Mac. Vì thế tôi đã gọi và nói v ớ i c ậu ta, “Tôi cần trợ giúp.”
Microsoft đang đi trên những b ằng s áng ch ế của Apple. Tôi nói, “Nếu chúng tôi theo đu ổi vụ ki ện,
ch ỉ vài năm n ữa chúng tôi có th ể th ắng v ụ ki ện vi ph ạm bằng s áng ch ế tr ị giá hàng t ỉ đô la. Cậu biết
đi ều đó, và tôi cũng bi ết đi ều đó. Nhưng Apple sẽ không sống lâu t ớ i vậ y nếu chúng ta có chi ến
tranh. Tôi bi ết vậ y. Vì thế hãy tìm ra cách đ ể gi ải quyết vấn đề này ngay bây giờ . Tất c ả những gì
tôi c ần là Microsoft tiếp tục phát tri ển ph ần m ềm cho Mac và một khoản đầ u tư từ Microsoft cho
Apple để nó có phần trong thành công của chúng tôi.”
Khi tôi nhắc l ại nh ững gì Jobs nói, Gates đồng ý rằng nó r ất xác đ áng. “Chúng tôi có một
nhóm ngườ i mong mu ốn làm việc vớ i nh ững s ản ph ẩm của Mac, và chúng tôi thích máy Mac,”
Gates nhớ l ại. ông ấ y đã đàm phán vớ i Amelio trong 6 th áng, nhưng l ờ i đề nghị càng ngày càng
kéo dài và phứ c t ạp hơ n. “Vì thế Steve đã t ớ i và nói, ‘Này, th ỏa thu ận này quá phức t ạp. Cái tôi
muốn là một th ỏa thu ận đơn giản. Tôi mu ốn m ột cam k ết và m ột khoản đầ u tư.’ Và chúng tôi đã
th ống nhất vi ệ c đó ch ỉ trong 4 tu ần.”
Gates và giám đốc tài chính c ủa ông, Greg Maffei, đ ã t ớ i Palo Alto để làm vi ệc về cơ c ấu
cho thỏa thu ận này, sau đó Maffei quay v ề m ột mình vào Ch ủ nhật tiếp theo để làm chi ti ết nó. Khi
ông t ớ i nhà Jobs, Jobs l ấ y 2 chai nướ c trong tủ l ạnh và cùng Maffei đi d ạo quanh những ngôi nhà ở
Palo Alto. C ả 2 đều m ặc qu ần soóc, Jobs thì đi chân trần. Khi họ ngồi trư ớ c nhà thờ Baptist, Jobs
nói vào v ấn đề chính. “Một cam k ết phát tri ển ph ầ n m ềm cho Mac và một khoản đầu tư.”
M ặc vi ệc đàm phán di ễn ra khá nhanh, những chi tiết cu ối cùng không đư ợ c hoàn thành
cho t ớ i vài gi ờ ngay trướ c bài phát bi ểu củ a Jobs ở Macworld Boston. Chuông điện thoại reo khi
ông đang tập dư ợ t ở Park Plaza Castle. “Chào Bill,” ông nói và ti ếng c ủa ông vang kh ắp gian sảnh
cũ. Sau đó ông bướ c t ớ i một góc và nói rất nh ỏ để không ai có th ể nghe th ấ y. Cu ộc gọi kéo dài m ột
gi ờ . Cu ối cùng, nh ững đi ểm còn l ại trong th ỏa thu ận đã đư ợ c giải quyết. “Bill, c ảm ơn vì đã h ỗ tr ợ
công ty này,” Jobs nói. “Tôi nghĩ thế gi ớ i này là nơi tốt đẹp hơn cho nó.”
Trong bài phát bi ểu tại Macworld, Jobs đã nh ắc t ớ i nh ững chi tiết trong th ỏa thu ận vớ i
Microsoft. Đầu tiên có nh ững l ờ i rì r ầm phản đối và nh ững ti ếng huýt sáo từ những tín đồ. Đi ều
bực bội nh ất là thông báo của Jobs, v ề m ột ph ần của hi ệp ướ c hòa bình, “Apple quyết đị nh đ ể
Internet Explorer là trình duy ệt m ặ c đị nh trên Macintosh.” Đám đông l ập tứ c la ó, và Jobs nhanh
chóng thêm vào, “Chúng tôi tin vào s ự l ựa ch ọn, và s ẽ phát hành m ột trình duyệt khác, ngư ờ i dùng
t ất nhiên có th ể thay đ ổi trình duyệt m ặ c đị nh c ủa mình n ếu họ muốn.” Có m ột vài ti ếng cườ i và
m ột s ố vỗ tay tán thư ở ng. Đám đông bắt đầu đi vòng quanh, đặc bi ệt là khi ông thông báo
M icrosoft s ẽ đầu tư 150 triệu đô la vào Apple và s ẽ nhận nh ững c ổ phiếu không có quyề n bầu bán.
Nhưng cảm giác dễ ch ị u bi ến m ất ở th ờ i đi ểm Jobs phạm m ột trong số rất ít các sai l ầm về
hình ảnh và quan hệ công chúng trong s ự nghi ệp đứng trên sân kh ấu của ông “Tôi có một vị khách
đặc bi ệt trong ngày hôm nay qua k ết nối vệ tinh,” ông nói, và đ ột nhiên khuôn m ặt Bill Gates xu ất
hi ện trên màn hình l ớ n làm lu mờ Jobs và đám đông. N ụ cườ i m ỏng xuất hi ện trên gương mặt
Gates và sau đó chuyển thành một cái nh ếch mép duyên dáng. Đám đông há h ốc mi ệng trong s ự
kinh hoàng, theo sau là những lờ i la ó và các ti ếng huýt sáo. Khung cảnh g ợ i nh ớ t ớ i âm thanh đ ầ y
hung b ạo trong quảng cáo Big Broth er năm 1984 như b ạn đã hình dung đượ c m ột chút (hay đã hy
vọng?) m ột ngườ i ph ụ nữ khỏe m ạnh b ất ng ờ ch ạ y tớ i gi ữa 2 hàng gh ế và xóa tan hình ảnh trên
màn hình vớ i m ột chi ếc búa t ạ.
Nhưng đó là tất c ả s ự th ậ t, và Gates, không mả y may biết t ớ i s ự ch ế gi ễu, bắt đầu nói qua
kết nối vệ tinh từ tr ụ s ở của Microsoft. “M ột trong nh ững công việc tuy ệt vờ i nh ất tôi từng làm
trong s ự nghi ệp của mình là nh ững s ản ph ẩm tôi thực hi ện vớ i Steve trên Macintosh,” ông nói v ớ i
ch ất gi ọng cao. Sau đó ông tiếp tục gi ớ i thi ệu phiên bản m ớ i c ủa Microsoft Office đư ợ c phát tri ể n
cho Macintosh, đám đông im l ặng và có v ẻ đã d ần ch ấp nh ận trật t ự th ế gi ớ i mớ i. Gates th ậm chí đã
có đượ c m ột vài ti ếng v ỗ tay khi nói phiên b ản m ớ i c ủa Word và Excel cho Mac sẽ “ưu vi ệt hơn
trên rất nhi ều khía cạnh so v ớ i nh ững gì chúng tôi đã làm trên n ền tảng Windows.”
Jobs nhận ra rằng hình ảnh c ủa Gates che lấp bản thân mình cùng khán gi ả là m ột sai lầm.
“Tôi đã mu ốn cậu ta t ớ i Boston,” Jobs nói sau này. “Đó là s ự ki ện tòi tệ và ngu ng ố c nh ất mà tôi
t ừng th ực hi ện. Nó t ệ vì nó khi ến tôi trông nhỏ bé, khi ến Apple trông nh ỏ bé, và giống như tất c ả
đều nằm trong đôi tay c ủ a Bill.” Gates cũng cảm th ấ y xấu hổ khi xem l ại băng ghi hình s ự ki ện
này. “Tôi không hề bi ết khuôn mặt mình sẽ bị phóng to tớ i m ức như v ậ y,” ông nói.
Jobs đã c ố gắng đ ể tr ấn an ngườ i nghe bằng m ột bài ứng khẩu. “Nếu chúng ta mu ốn tiến lên
và th ấ y Apple v ững mạnh tr ở l ại, chúng ta c ần bỏ l ại 1 s ố th ứ t ại đây,” ông nói v ớ i đám đông.
“Chúng ta c ần bỏ qua ý niệm rằng Apple ph ải th ắng và Microsoft phải thua... Tôi nghĩ, n ếu chúng
ta muốn Microsoft Office trên Mac, t ốt hơn h ết ta nên dành cho công ty phát tri ển nó m ột chút lòng
bi ết ơn.”
Thông báo về Microsoft, cùng vớ i s ự b ắn bó đầ y đam mê c ủa Jobs vớ i công ty, đã t ạo ra
s ức bật c ự c kỳ cần thi ết cho Apple. Vào cu ối ngày hôm đó, c ổ phiếu của nó tăng vọt 6,56 đô la, hay
33%, t ớ i gần 26,31 đô la, gấp đôi giá vào ngày Amelio từ ch ức. Cú nhả y trong m ột ngày mang l ại
830 tri ệu đô la cho giá tr ị của Apple trên sàn ch ứng khoán . Apple đã quay tr ở l ại t ừ nấm mò c ủa nó.
Chương 25: Tư DUY KHÁC BIỆ T
Jobs khi là iCEO
í ị
Những k ẻ điên khùng
Lee Clow, giám đốc sáng t ạo ở Chiat/Day ngư ờ i đã th ực hi ện qu ảng cáo “1984” tuyệt vờ i
để gi ớ i thi ệu Macintosh, lái xe tới Los Angeles vào nh ững ngày đ ầu th áng 7 khi chuông điện thoại
trong xe c ủa ông reo. “Chào Lee, Steve đây,” ông nói.” Đo Ấn xem nào? Amelio v ừa t ừ ch ức. Anh
có th ể t ớ i đây không?”
Apple khi đó đang tiến hành xem xét đ ể l ựa ch ọn m ột đối tác m ớ i, và Jobs không cảm thấ y
ấn tư ợ ng v ớ i nh ững gì mình thấ y. Vì v ậ y ông mu ốn Clow và công ty của ông, và đã g ọi
TBWA \Chiat\Day tớ i để ch ạ y đua giành hợ p đồng này. “Chúng tôi cần ch ứ ng t ỏ Apple vẫn t ồn
t ại ,” Jobs nói, “và nó vẫn đang ch ứa đựng những điều đặc bi ệt.”
Clow nói rằng mình không tham gia tranh giành hợ p đồng quảng cáo. “Anh biết công vi ệc
của chúng tôi,” ông nói. Những Jobs đã c ố gắng nài nỉ . Rất khó đ ể t ừ ch ối t ất c ả những công ty đã
tham gia đấu th ầu, bao gồm BBDO và Arnold Worldwide, đ ể m ờ i l ại “ông bạn già,” Jobs nói.
Clow đã đồng ý bay t ớ i Cupertino vớ i vài th ứ có th ể trình di ễn. Nhắc l ại vi ệc này sau nhiều năm,
Jobs b ắt đầu khóc.
Tôi nghẹn l ại, nó th ực sự làm tôi nghẹn l ờ i. Th ật rõ ràng là Lee quá yêu Apple. Họ là nh ững
ngư ờ i giỏi nh ất trong lĩnh vực qu ảng cáo. Và ông ấ y đã không ph ải đấu th ầu trong 10 năm. Nhưng
cu ối cùng ông đã làm điề u đó, b ằng c ả trái tim c ủa mình, b ở i tình yêu c ủ a ông đ ối vớ i Apple cũng
l ớ n nh ư tình yêu c ủa chúng tôi vậ y. ông ấ y và nhóm c ủa mình đem tớ i m ột ý tưở ng s áng chói, “Tư
duy khác bi ệt.” Và nó tốt hơn mư ờ i l ần so vớ i nh ững gì các đại lý khác th ể hi ện. Nó làm tôi ngh ẹn
ngào, và nó vẫn làm tôi khóc m ỗi khi nh ớ l ại điều đó, c ả s ự quan tâm củ a Lee và s ự chói sáng trong
ý tư ở ng “Tư duy khác bi ệt” c ủa ông ấ y. Thỉ nh tho ảng tôi l ại tìm th ấ y mình trong hiện di ện của sự
thuần khiết - s ự thuần khiết c ủa tâm h ồn và tình yêu - và tôi luôn luôn khóc. Nó luôn chạm tớ i và
nắm lấ y tôi. Đó là một th ờ i kh ắc như v ậ y. Có một s ự thuần khi ến trong đó khi ến tôi không bao giờ
quên. Tôi đã khóc trong văn phòng c ủa mình khi ông ấ y trình bày ý tưở ng đó, và tôi v ẫn khóc khi
nghĩ v ề nó.
Jobs và Clow đều đồng ý về vi ệc Apple là một trong nh ững thương hiệu tuyệ t vờ i nh ất trên
th ế gi ớ i, và ch ắc ch ắn là 1 trong 5 thương hiệu hàng đầu dựa trên s ự kết hợ p của cảm xúc, nhưng
họ cần nói v ớ i công chúng v ề s ự đặc bi ệt c ủa nó. Vì v ậ y họ muốn có m ột chi ến dị ch v ề hình ảnh
thương hi ệu, ch ứ không ch ỉ là m ột b ộ các s ản ph ẩm qu ảng cáo . Nó đư ợ c thi ết kế không ph ải đ ể tôn
vinh những gì máy tính có th ể làm. “Đó không ph ải vấn đề t ố c độ x ử lý hay bộ nhớ ,” Jobs nh ớ l ại.
“Nó nói v ề s ự s áng t ạo.” Nó không ch ỉ hướ ng tr ực tiếp vào những khách hàng ti ềm năng, mà còn
hướ ng t ớ i chính những nhân viên c ủa Apple: “ở Apple chúng tôi đã quên m ất mình là ai. Có một
cách đ ể nhớ bạn là ai, đó là nhớ ai là ngư ờ i hùng của bạn. Đây là cốt lõi của chi ến dị ch này.”
Clow và nhóm của mình đã th ử nhiều cách tiếp cậ n để tán dương nh ững “ngườ i điên”
những ngư ờ i có “tư duy khác bi ệt.” H ọ đã làm m ột đo ạn phim trên nền bài hát CrazycCia Seal
(“Chúng ta sẽ không bao giờ s ống sót trừ khi ta có một chút điên loạn”), nhưng không thấ y hợ p lý.
Sau đó họ th ử nhiều phiên b ản khác sử dụng b ản ghi âm bài đ ọc The Road Not Taken c ủ a Robert
Frost hay bài phát biểu Dead Poets Society của Robin Williams. Cu ối cùng họ quyết đị nh phải viế t
l ờ i tho ại riêng củ a mình; b ản nháp bắt đầu vớ i, “G ửi nh ững ngư ờ i điên.”
Jobs v ẫn đòi h ỏi kh ắt khe như m ọi khi. Khi nhóm c ủa Clow bay tớ i vớ i m ột phiên bản trên
gi ấ y, ông đã nổi gi ận vớ i cây vi ết trẻ. “Đây là th ứ v ứt đi!” ông hét lên. “Công ty quảng cáo này dở
t ệ và tôi ghét nó.” Đó là l ần đầu tiên tay vi ết trẻ này gặp Jobs, anh ta đứng câm lặng và sau đó
không bao giờ quay lại. Tuy vậ y nh ững ngư ờ i có th ể tr ụ đượ c vớ i Jobs, g ồm Clow cùng những
ngư ờ i trong nhóm c ủa ông là Ken Segall và Craig Tanimoto, đã có th ể làm vi ệc cùng ông để vi ết ra
m ột bài thơ mà Jobs thích. Trong phiên bản gốc dài 60 giây nó viết:
Gử i nh ữ ng ngư ời điên.
Nhữ ng ngư ời không thể thích nghi.
Nhữ ng ngư ời nổi lo ạn.
Nhữ ng ngư ời gây r ối.
Nhữ ng chiếc cọc tròn trong các hố vuông.
Nhữ ng ngư ời nhìn s ự vi ệc một cách khác bi ệt.
Họ không ưa thích các lu ật l ệ.
Và h ọ không xem trọng hiện tại.
Bạn có th ể đánh giá,
Bạn có th ể không đồng ý với họ,
Ca ngợi hay phỉ báng họ.
Đi ều duy nhất bạn không thể làm là bỏ qua họ.
Bởi họ thay đ ổi mọi th ứ .
Họ đẩy loài người tiến lên.
Có thể một s ố ngư ời nhìn họ như nh ữ ng k ẻ điên,
Chúng tôi nhìn h ọ như nh ữ ng thiên tài.
Bởi nh ữ ng ngư ời đ ủ điên để nghĩ họ có th ể thay đ ổi th ế gi ới là nh ữ ng ngư ời có th ể làm đi ều
đó.
Jobs, ngư ờ i có th ể nhận bi ết t ừng quan điểm trong này, tự vi ết m ột s ố dòng, gồm câu “H ọ
đẩ y loài ngư ờ i tiến lên.” Vào th ờ i đi ển di ễn ra Macworld Boston đ ầu th áng 8, họ đã th ực hi ện m ột
phiên b ản thô. Họ đồng tình rằng nó chưa sẵn sàng, nhưng Jobs đã sử dụng những ý tư ở ng này và
câu “Tư duy khác biệt” trong bài nói c ủ a mình. “Đó là phôi thai của m ột ý tưở ng tuy ệt vờ i,” ông
nói khi đó. “Apple hư ớ ng t ớ i nh ững ngư ờ i có tư duy vư ợ t kh ỏi khuôn khổ, nh ững ngư ờ i mu ốn sử
dụng máy tính đ ể giúp h ọ thay đ ổi th ế gi ớ i.”
Họ đã tranh luận về v ấn đề ngữ pháp: Nếu “khác biệt” hướ ng t ớ i động t ừ “tư duy,” nó c ần
phải là một phó t ừ, “tư duy m ột cách khác bi ệt.” Nhưng Jobs nhấn m ạnh việc ông mu ốn “khác
bi ệt” đư ợ c sử dụng thành một danh t ừ, như là “tư duy chi ến th ắng” hay “tư duy đẹp.” Hơn n ữa, nó
nghe gi ống cách s ử dụng thông thườ ng hơn, như “Nghĩ l ớ n.”, Jobs sau đó giải thích, “Chúng tôi đã
tranh luận xem nó đã chính xác đ ể bắt đ ầu qu ảng cáo chưa. Đó không phải là tư duy đơn đi ệu, đó là
tư duy khác bi ệt. Tư duy khác m ột chút, tư duy khác rất nhi ều, tư duy khác bi ệt. Tư duy m ột cách
khác bi ệt’ không mang l ạ i ý nghĩa vớ i tôi.”
Để gợ i lên tinh th ần của Dead Poets Society, Clow và Jobs mu ốn Robin Williams đ ọc bài
vi ết này. Đại di ện củ a ông nói Williams không tham gia quảng cáo, vì th ế
Jobs th ử gọi trự c tiếp cho ông ấ y. ông không vượ t qua đượ c vợ của Williams, ngườ i không
để ông nói chuyện trự c tiếp vớ i nam ngh ệ sĩ b ở i bà bi ết Jobs có sức thuy ết ph ục t ớ i m ức nào. Họ
cũng cân nh ắc Maya Angelou và Tom Hanks, ở bữ a t ối gây quỹ của Bill Cliton mùa thu năm đó,
Jobs kéo t ổng th ống ra m ột bên và nhờ ông gọi điệ n cho Hanks đ ể nói v ề vi ệ c đó, nhưng tổng th ống
đã từ ch ối yêu c ầu đó. Cuối cùng họ ch ọn Richard Dreyfuss, một ngườ i hâm m ộ trung thành củ a
Apple.
Ngoài quảng cáo thương m ại trên truy ền hình, họ đã th ực hi ện m ột trong nh ững chiến dị ch
quảng cáo in đáng nhớ nhất trong lị ch s ử. M ỗi t ờ quảng cáo là m ột bứ c chân dung đen trắng c ủ a
m ột nhân vật l ị ch s ử vớ i biểu tư ợ ng c ủa Apple và dòng ch ữ “Tư duy khác biệt” ở góc. Đi ều làm nó
tr ở nên đặc bi ệt thu hút là nh ững khuôn m ặt không đư ợ c chú thích tên. Một s ố - Einstein, Gandhi,
Lennon, Dylan, Picasso, Edison, Chaplin, King - r ất dễ để nhận di ện. Nhưng những ngư ờ i khác
khiến m ọi ngườ i ph ải dừ ng l ại, suy đoán , và có th ể hỏi bạn bè để bi ết tên c ủa ngườ i trong ảnh:
Martha Graham, Ansel Adams, Richard Feynman, Maria Callas, Frank Lloyd Wright, James
Watson, Amelia Earhart.
Phần lớ n đều là nh ững t h ần tư ợ ng c ủ a cá nhân Jobs. Họ có khuynh hư ớ ng là những ngư ờ i
s áng t ạo và ch ấp nh ận rủi ro, thách thức th ất bại và đặt cư ợ c cả s ự nghi ệp củ a mình đ ể làm vi ệc
theo nh ững cách khác biệ t. M ột ngườ i ái mộ nhiếp ảnh đã tham gia đ ể đ ảm bảo họ có những b ứ c
chân d ung hoàn hảo của các vĩ nhân. “Đây không ph ải là bức ảnh h ợ p lý củ a Gandhi,” anh ta nói
vớ i Clow. Clow gi ải thích bức ảnh n ổi tiếng do Margaret Bourke-White chụp Gandhi ở bên gu ồng
quay tơ thuộc sở hữu của Time - Life Pictures và không đượ c sử dụng v ớ i mụ c đích thương m ại. Vì
th ế Jobs đã g ọi cho Norman Pearlstine, t ổng biên tập tủa t ạp chí Time, qu ấ y rầ y ông ta đ ể xin một
ngoại l ệ.
Ông cũng g ọi cho Eunice Shriver đ ể thuy ết ph ục gia đình bà cung cấp bức ả nh ông yêu
thích, ch ụp ngườ i em trai Bobby Kennedy c ủa bà trong chuy ến thăm Appalachia, Jobs cũng đã liên
hệ vớ i các con của Jim Henson để có b ứ c ảnh đ ẹ p nh ất c ủa ngườ i đi ều khiể n rối đã qua đ ờ i.
Tương tự như vậ y, ông đã gọi cho Yoko Ono để có b ức ảnh ngư ờ i ch ồng đã mất c ủa bà,
John Lennon. Bà ấ y gửi cho ông m ột t ấm, nhưng nó không ph ải b ứ c ảnh mà Jobs thích. “Trướ c khi
bắt đầu chi ến dị ch, tôi đang ở New York, tôi đã tớ i m ột nhà hàng Nh ật nh ỏ mà tôi thích và cho bà
ấ y biết tôi ở s ẽ đó,” ông nh ớ l ại. Khi ông đ ến nơi, bà ấ y t ớ i bàn c ủa ông. “Đây là m ột t ấm đẹp hơn,”
bà nói, đưa ông một phong bì. “Tôi nghĩ mình s ẽ gặp cậu, th ế nên tôi mang cái này theo.” Đó là
m ột t ấm hình cổ đi ển của bà ấ y và John ở trên giườ ng cùng nhau, nắm nhữ ng bông hoa, và đó là
t ấm ảnh Apple đã s ử dụng. “Tôi có th ể hi ểu vì sao John l ại yêu bà ấ y,” Jobs nhớ l ại.
Phần đọc của Richard Dreyfuss đã hoàn thành tốt, tuy nhiên Lee Clow lại có m ột ý tưở ng
khác. Liệu Jobs có th ể t ự mình đ ọc đư ợ c không? “C ậu th ực sự tin điều này,” Clow nói v ớ i Jobs.
“Cậu nên đ ọ c nó.” Và th ế là Jobs ngồi trong một phòng t hu, thử vài l ần và nhanh chóng thự c hi ện
đoạn ghi âm mà tất c ả m ọi ngườ i đều thích. Ý tưở ng đượ c đưa ra là n ếu họ s ử dụng nó, thì h ọ s ẽ
không nói cho công chúng bi ết ai là ngườ i đã đọc, cũng gi ống như vi ệc không ghi chú tên các vĩ
nhân trên ảnh. Cu ối cùng m ọi ngườ i s ẽ phát hi ện ra đó là Jobs. “Nếu cậu đọ c thì nó s ẽ có uy l ực
th ật s ự,” Clow l ập lu ận. “Đó sẽ là m ột cách để l ấ y lại thương hi ệu.”
Jobs không th ể quyết đị nh việc sử dụng phiên bản vớ i gi ọng c ủa mình hay của Dreyfuss.
Cuối cùng, màn đêm buông xu ống và tớ i lúc h ọ c ầ n ph ải ch ạ y qu ảng cáo; nó đượ c quyền phát
sóng, khá thích h ợ p, trong buổi công chi ếu Toy story trên truyền hình. Như m ọi khi, Jobs không
thích b ị ép phải ra quyết đị nh, ông nói vớ i Clow chiếu cả hai phiên bản; nó cho phép ông suy nghĩ
t ớ i s áng hôm sau để ra quy ế t đị nh. Khi buổi s áng t ớ i, Jobs g ọi cho h ọ và yêu cầu sử dụng b ản củ a
Dreyfuss. “Nếu chúng ta s ử dụng ti ếng nói củ a tôi, khi m ọi ngườ i phát hiện đi ều đó, h ọ s ẽ nó v ề
tôi,” ông nói v ớ i Clow. “Như vậ y không đúng. Chỉ là v ề Apple thôi.”
Kể t ừ khi r ờ i kh ỏi c ộng đ ồng Apple, Jobs đã khẳng đ ị nh b ản thân mình. Và vớ i vi ệc m ở
rộng Apple như m ột đứa con c ủa phong trào phản văn hóa, trong nh ững quảng cáo như “Tư duy
khác bi ệt” và “1984”, ông đã đ ị nh v ị thương hi ệu của Apple, thêm m ột l ần nữa kh ẳng đ ị nh tính
cách n ổi lo ạn của mình, k ể cả khi đã trở thành một t ỉ phú, nó cho phép những ngư ờ i thu ộc th ế h ệ
vàng và con cái h ọ làm đi ều tương t ự. “T ừ l ần đầu gặp gỡ khi c ậu ta còn là một thanh niên tr ẻ, Jobs
đã có tr ực giác tuy ệ t vờ i nh ất về những ảnh hưở ng mà cậu muốn từ thương hi ệu của mình tớ i m ọi
ngư ờ i,” Clow nói.
R ất ít các công ty khác hay các lãnh đạo tập đoàn - có l ẽ không ai cả - có th ể nghĩ tớ i ý
tư ở ng táo bạo nhưng suất xắc về vi ệc gắn thương hi ệu của họ vớ i Gandhi, Einstein, Picasso, và
Dalai Lama. Jobs có thể động viên m ọi ngườ i kh ẳ ng đ ị nh chính mình như nh ững cá thể độ c l ập,
s áng t ạo, đổi m ớ i m ột cách táo b ạo ch ỉ đơn gi ản bằng chiế c máy tính h ọ s ử dụng. “Steve đã t ạo ra
thương hi ệu mang phong cách sống duy nhất trong lĩnh vực công nghệ,” Larry Ellison nói. “Có
những chiếc ô tô làm ngư ờ i ta t ự hào khi s ở hữu - Porsche, Ferrari, Prius - b ở i chi ếc ô tô tôi lái nói
lên điều gì đó v ề tôi. M ọi ngườ i có cùng c ảm giác như vậ y đối vớ i các s ản ph ẩm Apple.”
Bắt đầu vớ i chi ến dị ch “Tư duy khác bi ệt”, và ti ế p tục trong su ốt năm đó ở Apple, Jobs tổ
ch ức cu ộ c họp su ốt 3 giờ đồng h ồ m ỗi chi ều th ứ 4 để họp vớ i các nhân viên các đ ại lý, marketing
và truy ền thông nhằm thúc đẩ y các chiến lư ợ c truyền t ải thông đi ệp. “Không có một CEO nào trên
hành tinh này làm việc v ớ i nhóm marketing theo cách Jobs làm,” Clow nói. “M ỗi th ứ 4 cậu ấ y
duyệt nh ững quảng cáo thương m ại, các ảnh quảng cáo, các áp phích.” Cuối m ỗi bu ổi họp, Jobs
thư ờ ng đưa Clow và 2 đ ồ ng nghi ệp củ a ông là Duncan Milner và James Vincent tớ i phòng thiết kế
đượ c bảo vệ ch ặt ch ẽ của Apple đ ể xem nh ững s ản ph ẩm đang đượ c phát tri ể n. “Anh ấ y rất say mê
và đ ầ y cảm xúc khi giớ i thi ệu vớ i chúng tôi nh ững thứ đang phát triển,” Vincent nói. Bằng việc
chia sẻ vớ i nh ững chuyên gia marketing ni ềm đam mê của mình vớ i s ản phẩ m khi chúng đượ c thi ết
kế, ông có thể đảm bảo gần như mỗi qu ảng cáo đư ợ c họ th ực hi ện đều mang trong nó cảm xúc của
mình.
iCEO
Khi kết thúc công vi ệ c vớ i chi ến dị ch “Tư duy khác bi ệt”, Jobs đã có nh ững suy nghĩ khác.
Ông quyết đị nh chính th ức nắm quyền đi ều hành công ty, ít nhất trong m ột th ờ i gian, về th ực t ế
ông đã là lãnh đạo công ty kể t ừ khi Amelio từ ch ức 10 tu ần trư ớ c đó, nhưng ch ỉ vớ i tư cách là cố
vấn. Fred Ander son về m ặt danh nghĩa đóng vai trò là CEO lâm thờ i. Vào ngày 16 th áng 9, 1997,
Jobs thông báo quy ết đị nh ti ếp nh ận vị trí này, và đư ợ c rút g ọn thành iCEO (CEO lâm th ờ i). Cam
kết c ủa ông không d ứt khoát: ông không nh ận lương và cũng không ký hợ p đồng. Tuy n hiên ông
không do dự trong hành động, ông là ngư ờ i ch ị u trách nhiệm và ông không điều hành bở i s ự đồng
thuận.
Trong tuần đó, ông tập hợ p các quản lý cấp cao và nhân viên trong khán phòng của Apple,
theo sau đó là m ột bu ổi dã ngoại vớ i bia và đò ăn chay để k ỷ ni ệm vai trò mớ i c ủa mình và chiến
dị ch quảng cáo củ a công ty. Ông m ặc qu ần soóc, đi lại trên đôi chân tr ần, và m ột bộ râu mọc l ở m
ch ở m. “Tôi đã quay lại đư ợ c 10 tu ần, và làm vi ệ c th ật s ự cật l ực,” ông nói, trông khá m ệt m ỏi
nhưng hết s ức quyết tâm. “Những gì chúng ta đang làm không phải là khoa trương. Chúng ta đang
cố l ấ y lại nh ững thứ cơ b ản đó là các s ản ph ẩm tuyệ t vờ i, marketing tuy ệt vờ i và hệ th ống phân
phối tuy ệt vờ i. Apple đã tiến xa nh ờ làm rất t ốt nh ững công việc thi ết yếu.”
Trong vài tu ần sau đó Jobs và ban quản trị ti ếp tục tìm kiếm m ột CEO thườ ng tr ực. Nhiều
cái tên đã xuất hi ện - George M. C . Fisher của Kodak, Sam Palmisano c ủa IBM, Ed Zander c ủa
Sun Microsystem - nhưng khá d ễ hi ểu khi phần lớn các ứng c ử viên đều không s ẵn sàng cân nhắc
để tr ở thành CEO nếu Jobs vẫn tiếp tục là một thành viên trong ban quản trị . Tờ San Francisco
Chronicle thông báo việ c Zander t ừ ch ối việc đư ợ c cân nhắ c vì “không muốn Steve đ ứng sau lưng,
bình lu ận trên mỗi quyết đ ị nh c ủa ông.” Có lúc Jobs và Ellison còn đù a cợ t v ớ i một ngườ i tư vấn về
máy tính không tên tuổi đang tìm việc; h ọ gửi cho anh ta m ột email nói r ằ ng anh ta đư ợ c ch ọn,
khiến họ vừa thích thú v ừa xấu hổ khi câu chuyện xu ất hi ện trên báo v ề vi ệ c họ ch ỉ đùa giỡ n vớ i
anh ta.
Vào tháng 12, rõ ràng r ằ ng chức danh iCEO c ủa Jobs đã chuy ển từ t ạm th ờ i sang vô th ờ i
hạn. Khi Jobs vẫn đang đi ều hành công ty, ban quản trị l ặng l ẽ dừng việc tìm kiếm. “Tôi quay trở
l ại Apple và thử tìm m ột CEO, v ớ i s ự giúp đ ỡ t ừ các bên môi gi ớ i tuy ể n dụ ng, trong gần 4 tháng,”
ông nh ớ l ại. “Nhưng h ọ không th ể tìm đư ợ c ngườ i phù h ợ p. Đó là lý do vì sao cuối cùng tôi đã ở
l ại. Apple không ở trong tr ạng thái có th ể thu hút b ất kỳ ngư ờ i gi ỏi nào.”
Vấn đề mà Jobs phải đối di ện là vận hành cùng lúc 2 công ty c ực kỳ m ệt m ỏ i. Nhìn l ại nó,
ông đã lần theo các v ấn đề về s ức kh ỏ e t ừ những ngày này:
Nó nhọc nh ằn, th ực sự rấ t nh ọc nh ằn, th ờ i gian t ệ nhất trong cu ộc đờ i tôi. Tôi có m ột gia
đình tr ẻ. Tôi có Pixar. Tôi đến công ty từ 7h s áng và quay v ề nhà vào 9h t ố i khi b ọn trẻ đã lên
giườ ng ngủ. Tôi không th ể nói gì, th ực sự không th ể, tôi đã quá ki ệt s ức. Tôi không thể nói gì vớ i
Laurene. Tất c ả những gì tôi có thể làm là xem tivi n ửa giờ trong vô vị . Nó g ần như đã giết ch ết tôi.
Tôi lái xe tớ i Pixar và qua Apple trong m ột chi ế c Porsche đen mui m ềm, và tôi bắt đầu bị s ỏi th ận.
Tôi ph ải gấp rút tớ i bệnh viện và họ cho tôi m ột mũi Demerol vào mông, và cu ối cùng tôi cũng
vượ t qua nó.
Bất ch ấp l ị ch làm vi ệc bù đầu, càng d ấn sâu vào công vi ệ c ở Apple, Jobs càng nhận ra rằng
mình không th ể ra đi đượ c. Khi Michael Dell đượ c hỏi ở hội ch ợ máy tính tháng 10 năm 1997 v ề
vi ệc ông s ẽ làm gì nếu ông là Steve Jobs và nắm quyề n ở Apple, ông đã trả l ờ i, “Tôi sẽ đóng c ửa nó
và tr ả ti ền lại cho các cổ đông.” Jobs lập tức gửi m ột email cho Dell. “CE O đượ c kỳ vọng là có
đẳng c ấp,” ông nói. “Tôi có thể th ấ y rằng đó không phải m ột quan đi ểm ông có thể hi ểu đư ợ c.”
Jobs thích kích đ ộng các đối th ủ như m ột cách để củng c ố nhóm c ủa mình - ông đã làm vậ y vớ i
IBM và Microsoft - và cũng làm th ế vớ i Dell. Khi t ập hợ p các quản lý để thiết l ập m ột hệ th ống
toàn di ện từ s ản xu ất t ớ i khâu phân ph ối, Jobs sử dụng một t ấm phông nền vớ i hình phóng to c ủa
Michael Dell v ớ i m ột đích ng ắm trên mặt ông ta. “Chúng tôi đang đuổi theo đó, anh bạn,” ông nói
để cổ vũ những ngư ờ i lính của mình.
M ột trong nh ững đam mê của ông là xây d ựng một công ty trư ờ ng tòn. ở tu ổi 12, khi tìm
đượ c công vi ệ c mùa hè ở Hewlett- Packard, ông đã học đư ợ c m ột công ty ho ạt động đúng đ ắn cần
s áng t ạo hơn r ất nhi ều nh ững gì một cá nhân có th ể s áng t ạo. “Tôi đã khám phá ra r ằng s áng t ạo
tuyệt vờ i nh ất đôi khi chính là b ản thân công ty, cách b ạn tổ ch ức nó,” ông nhớ l ại. “Toàn bộ ý
tư ở ng v ề cách b ạn sẽ xây dựng công ty thật hấp dẫ n. Khi tôi có cơ h ội quay l ại Apple, tôi nh ận ra
rằng tôi s ẽ tr ở nên vô dụ ng nếu không có công ty này, và đó là lý do tôi quyế t đị nh ở l ại và khôi
phục nó.”
Tiêu diệt nh ững b ản sao
M ột trong nh ững cuộ c chi ến lớ n của Apple là việc có nên c ấp quyền sử dụng h ệ đi ều hành
rộng rãi cho các nhà s ản xu ất máy tính, theo cách Microsoft cung c ấp Windows. Wozniak thích
cách ti ếp cận này ngay t ừ đầu. “Chúng ta có h ệ đi ề u hành đẹp nh ất,” ông nói, “nhưng đ ể có nó b ạn
phải mua ph ần cứng c ủ a chúng tôi vớ i giá g ấp đôi. Đó là m ột sai lầm. Chúng ta nên tính toán m ột
cái giá hợ p lý để cung c ấ p hệ đi ều hành này.” Alan Kay, ngôi sao của Xeros PARC, ngư ờ i chuy ể n
sang Apple năm 1984, đã chi ến đấu hết mình cho vi ệc cấp quyề n sử dụng h ệ đi ều hành Mac.
“Nh ững ngư ờ i làm phần m ềm luôn hỗ tr ợ đa n ền tảng, b ở i bạn muốn nó ch ạ y ở m ọi nơi,” ông nh ớ
l ại. “Và đó là m ột cu ộ c chi ến lớ n, gần như là cuộc chiến lớ n nh ất tôi đã thua ở Apple.”
Bill Gates, ngườ i đã xây d ựng cơ đò bằng việc cấ p quyền sử dụng h ệ đi ều hành của
Microsoft, đã thúc đẩ y Apple làm đi ều tương t ự vào năm 1985, ngay khi Jobs vừa ra đi. Gates tin
rằng k ể c ả khi Apple lấ y đi m ột s ố khách hàng của hệ đi ều hành Windows, Microsoft v ẫn có th ể
ki ếm tiền bằng các phiên b ản ph ần m ềm củ a hãng như Word hay Excel, cho ngư ờ i dùng
Macintosh và các bản sao c ủa nó. “Tôi đã làm tất c ả để họ tr ở thành một nhà cung c ấp hệ đi ều hành
l ớ n,” ông nhớ l ại. ông đã gửi m ột thông đi ệp chính thức t ớ i Sculley về vi ệ c này. “Ngành công
nghi ệp này đã đạt t ớ i điể m mà Apple không thể t ạ o ra một chu ẩn mớ i t ừ những s áng t ạo công nghệ
của họ mà không có s ự h ỗ tr ợ , và nh ững k ết qu ả tin c ậ y, từ c ác nhà sản xu ất máy tính cá nhân
khác,” ông phân tích. “Apple nên c ấp quyề n sử dụng công ngh ệ Macintosh cho 3 tớ i 5 nhà sản xu ất
l ớ n để phát tri ển các máy tính ‘h ỗ tr ợ Mac’.”
Gates không nhận đư ợ c câu tr ả l ờ i, vì th ế ông vi ết tiếp m ột thông đi ệp khuy ến khích các
công ty khác nhái l ại Mac, và ông thêm vào, “Tôi muốn giúp đỡ bất c ứ khi nào có thể vớ i vi ệc cấp
bản quyề n. Hãy gọi cho tôi.”
Apple t ừ ch ối c ấp bản quyề n hệ đi ều hành Macintosh cho tớ i năm 1994, khi CEO Michael
Spindler cho phép 2 công ty nhỏ, Po wer Computing và Radius t ạo các b ản sao c ủa Macintosh. Khi
Gil Amelio lên nắm quyề n năm 1996, ông bổ sung Motorola vào danh sách này. Nó tr ở thành một
chiến lư ợ c kinh doanh không rõ ràng: Apple nhận 80 đô la phí bản quyền cho mỗi máy tính bán ra,
nhưng thay vì m ở rộng thị trườ ng, những công ty làm nhái Mac lại ăn mòn doanh s ố các máy tính
cao cấp của chính Apple, v ốn tạo ra lợ i nhuận lên t ớ i 500 đô la.
Tuy vậ y, sự phản đối c ủ a Jobs đối v ớ i nh ững b ản sao c ủa Mac không chỉ đơn gi ản vì vấn đề
kinh tế. ông có một ác cả m bẩm sinh vớ i chúng. Một trong nh ững nguyên t ắ c chính c ủ a ông là phầ n
cứng và phần m ềm phải đư ợ c tích h ợ p ch ặt ch ẽ v ớ i nhau, ông yêu thích vi ệc ki ểm soát mọi khía
cạnh trong cu ộ c sống c ủa mình, và cách duy nhất th ực hi ện vi ệc đó vớ i máy tính là chị u trách
nhiệm vớ i trải nghi ệm ngườ i dùng từ đầu tớ i cu ối.
Vì v ậ y khi tr ở l ại Apple ông đ ặt vi ệc tiêu diệt các b ản sao c ủa Macintosh làm ưu tiên hàng
đầu. Khi phiên b ản m ớ i c ủa hệ đi ều hành Mac ra m ắt th áng 7 năm 1997, nhi ều tu ần sau khi Jobs
giúp đ ỡ t ừ lú c Amelio từ ch ức, Jobs đã không cho phép các công ty làm nhái đượ c nâng cấp lên.
Ngư ờ i đứng đ ầu Power Computing, “vua” Stephen Kahng, đã tổ ch ức m ộ t cu ộc bi ểu tình của các
chuyên gia làm nhái khi Jobs xu ất hiện ở Macworld Boston tháng 8 năm đó và cảnh báo trướ c công
chúng rằng h ệ đi ều hành Macintosh s ẽ ch ết nếu Jobs từ ch ối c ấp bản quyề n sử dụng nó. “N ếu nền
t ảng này đóng lại, thì nó s ẽ đi tong,” Kahng nói. “Hoàn toàn b ị hủ y di ệt. Đóng c ửa là nụ hôn của
th ần ch ết.”
Jobs không đồng ý. ông gọi cho Ed W oolard nói r ằ ng ông sẽ tách Apple kh ỏ i lĩnh v ực cung
cấp bản quyền ph ần m ềm. Ban quản trị bằng lòng, và trong th áng 9 ông đã hoàn thành thỏa thu ận
tr ả cho Power Computing 100 tri ệu đô la để t ừ bỏ vi ệc sử dụng b ản quyền trư ớ c đó đồng thờ i cho
phép Apple truy cập vào kho d ữ li ệu khách hàng, ông cũng nhanh chóng k ết thúc thỏa thu ận vớ i
các hãng làm nhái khác. “Đó là điều ng ớ ngẩn nh ấ t trên đ ờ i khi đ ể các công ty sản xu ất ph ần cứng
tòi t ệ s ử dụng h ệ đi ều hành của mình và l ấ y m ất doanh s ố của chính chúng ta,” ông nói.
Rà soát danh mụ c sản ph ẩm
M ột trong nh ững thế m ạ nh c ủa Jobs là bi ết cách t ập trung. “Quy ết đị nh những việ c không
làm cũng quan tr ọng như quy ết đị nh những việc sẽ làm,” ông nói. “Đi ều đó đúng v ớ i các công ty,
và cũng đúng vớ i các s ản ph ẩm.”
Ông áp d ụng nguyên t ắc này vào công vi ệ c ngay khi quay trở l ại Apple. M ột ngày khi ông
đang đi trong s ảnh và g ặp chàng trai trẻ m ớ i t ốt nghiệp Wharton School, ngườ i t ừng làm tr ợ lý cho
Amelio và nói rằng anh ta đang gói ghém công việc củ a mình. “Rất t ốt, bở i tôi cần m ột ngườ i để
làm vài vi ệc vặt,” Jobs nói vớ i c ậu ta. Nhiệm vụ m ớ i c ủa cậu là ghi chú khi Jobs h ọp vớ i hàng ch ụ c
nhóm s ản ph ẩm ở Apple, yêu cầu họ gi ải thích th ứ họ đang làm, và buộ c họ ch ứng minh cho việc
nên đi tiếp vớ i s ản ph ẩm hay d ự án củ a họ.
Ông cũng tuyể n một ngườ i b ạn, Phil Schiller, ngư ờ i t ừng làm vi ệc ở Apple nhưng sau đó là
công ty chuyên v ề phần m ềm đồ họa Macromedia. “Steve có thể gọi t ất c ả các nhóm vào phòng
giám đ ố c, vớ i 20 gh ế ngồi, họ có th ể t ập trung v ớ i 30 ngườ i và th ử trình chi ếu vớ i PowerPoints, th ứ
mà Steve không mu ốn xem,” Schiller nh ớ l ại. M ột trong nh ững thứ đ ầu tiên Jobs làm trong quá
trình đánh giá s ản ph ẩm là cấm PowerPoints. “Tôi ghét cách ngườ i ta s ử dụ ng các bài trình chi ếu
thay vì suy nghĩ,” Jobs sau này nh ớ l ại. “Ngư ờ i ta đ ối diện vớ i v ấn đề bằng cách t ạo một bài thuy ết
trình. Tôi mu ốn họ sát sao và đưa kết lu ận ở trên bàn họp, thay vì đưa ra m ột m ớ tài li ệu trình
chiếu. Những ngư ờ i bi ết mình đang nói về cái gì không c ần dùng PowerPoint.”
Quá trình rà soát sản ph ẩ m cho thấ y Apple m ất t ậ p trung tớ i m ức nào. Công ty này khai
thác nhiều phiên b ản củ a m ỗi s ản ph ẩm vì nạn quan liêu và để làm hài lòng những ý thích b ất ch ợ t
của các nhà bán l ẻ. “Tình tr ạng đó thật điên r ồ,” Schiller nh ớ l ại. “Hàng đố ng s ản ph ẩm, phần lớ n
rất t ệ, đư ợ c phát tri ển bở i nh ững nhóm vô trách nhi ệm.” Apple có hàng chụ c phiên b ản củ a
Macintosh, mỗi bản đi kèm vớ i nh ững con số khó hi ểu, từ 1400 t ớ i 9600. “Tôi có ngư ờ i gi ải thích
đi ều đó cho mình su ốt 3 tuần,” Jobs nói. “Nhưng tôi không th ể hi ểu nổi nó.”
Cuối cùng ôn g bắt đầu hỏi nh ững câu đơn giản, như “Tôi nên nói các bạn của mình mua
lo ại nào?”
Khi ông không thể có những câu trả l ờ i đơn giản, ông trở nên kh ắc nghi ệt vớ i các m ẫu mã
và các sản ph ẩm. R ất nhanh chóng ông đã d ừng 70% trong số chúng. “Các b ạn là nh ững ngườ i
thông minh,” ông nói v ớ i m ột nhóm. “Các bạn không nên phí thờ i gian c ủ a mình vào nh ững s ản
phẩm vớ vẩn như thế này.” Rất nhi ều kỹ sư đã n ổi giận vớ i chi ến thu ật c ắt b ỏ và thiêu h ủ y của ông,
kết qu ả là vi ệc sa th ải trên diện rộng. Nhưng Jobs đã giải thí ch sau đó rằng r ấ t nhi ều kỹ sư gi ỏi, bao
gồm cả những ngư ờ i thu ộc dự án bị hủ y, đều th ấ y vui lòng, ông nói trong m ột cu ộc họp công ty
vào tháng 9 năm 1997, “Tôi ra khỏi cu ộ c họp vớ i nh ững ngư ờ i có sản ph ẩ m bị hủ y bỏ và h ọ đang
nhả y lên trong s ự háo hứ c vì cu ối cùng họ đã hi ểu chúng ta đang đi về đâu.”
Sau vài tu ần Jobs cu ối cùng đã không ch ị u nổi. “D ừng lại!” ông hét lên trong m ột cu ộc họp
về chiến lư ợ c l ớ n của sản ph ẩm. “Điên thật r ồi.” ông c ầm lấ y cây viết ma thuật, đặt lên b ảng, và vẽ
những đườ ng ngang dọ c t ạo nên một sơ đ ồ gồm 4 ô. “Đây là những gì chúng ta cần,” ông ti ếp tục.
Phần trên c ủa 2 c ột ông viết “Phổ thông” và “Cao c ấp”: bên c ạnh 2 hàng ông ghi “Đ ể bàn” và
“Xách tay.” Công việc củ a họ, ông nói, là làm 4 s ả n ph ẩm tuyệt vờ i, m ỗi cái tương ứng v ớ i m ột ô.
“Căn phòng c hìm trong im l ặng,” Schiller nhớ l ại.
Cũng có một s ự im l ặng tương tự khi Jobs trình bày k ế hoạch này trong cuộ c họp vớ i ban
quản trị của Apple vào th áng 9. “Gil đã thúc đẩ y việc ch ấp nh ận ngày càng nhiều các s ản ph ẩm qua
m ỗi bu ổi h ọp,” W oolard nh ớ l ại. “Ô ng ta luôn nói r ằng chúng ta cần thêm các s ản ph ẩm. R ồi Steve
t ớ i và nói chúng ta c ần gi ảm bớ t s ố s ản ph ẩm. C ậu ta vẽ m ột bảng v ớ i bốn ô và nói r ằng đó là thứ
chúng tôi cần t ập trung.” Đầu tiên ban quản trị phản đối. R ủi ro l ắm, họ nói. “Tôi có th ể làm đư ợ c,”
Jobs tr ả l ờ i. Ban qu ản trị đã không bao giờ bầu ch ọ n cho một chi ến lư ợ c khác. Jobs đang chị u trách
nhiệm, và ông quyế t đị nh ti ến lên phía trướ c.
Kết qu ả là các kỹ sư và quản lý ở Apple l ập tức ch ỉ t ập trung cao độ vào bốn lĩnh vực. V ớ i
m ảng máy đ ể bàn cao cấ p, họ phát tri ển Power Macintosh G3. Vớ i m ảng máy xách tay cao c ấp họ
phát tri ển PowerBook G3. Vớ i máy đ ể bàn ph ổ thông, họ bắt đầu vớ i th ứ sau này tr ở thành iMac.
Và cuối cùng vớ i máy xách tay phổ thông, họ t ập trung vào th ứ s ẽ tr ở thành iBook. Ch ữ “i”, Jobs
gi ải thích, là đ ể nhấn m ạ nh các thi ết bị này sẽ đượ c tích h ợ p ch ặt ch ẽ vớ i Internet.
S ự t ập trung c ủ a Apple đ ồng nghĩa v ớ i vi ệc công ty rút chân khỏi nh ững lĩnh v ực khác,
ch ẳng h ạn như máy in hay máy ch ủ. Năm 1997 Apple t ừng bán các máy in màu StyleW riter mà v ề
cơ b ản là một phiên b ản của máy DeskJet từ Hewlett-Packard. Ph ần lớ n tiề n do HP kiếm đến từ
vi ệc bán các hộp m ự c. “Tôi không hi ểu,” Jobs nói ở buổi họp đánh giá s ản ph ẩm. “Các anh đị nh
bán hàng triệu máy và không kiếm đượ c tiền từ nó? Th ật ngu xu ẩn.” ông rờ i kh ỏi phòng và g ọi t ớ i
tr ụ s ở của HP. Hãy h ủ y th ỏa thu ận của chúng ta, Jobs đề nghị , chúng tôi s ẽ rút kh ỏi lĩnh v ực sản
xuất máy in và để các ông làm vi ệc đó. Sau đó ông quay lại phòng quản trị và thông báo quy ết đ ị nh
này. “Steve nhìn vào th ự c trạng đó và l ập tứ c bi ết chúng tôi c ần ph ải thoát ra ngoài chi ế c hộp,”
Schiller nhớ l ại.
Quyết đị nh d ễ th ấ y nh ất c ủa ông là h ủ y, m ột l ần và mãi mãi, sản ph ẩm Newton, trợ lý đi ện
t ử cá nhân v ớ i hệ th ống nhận dạng chữ vi ết tay khá ổn. Jobs ghét nó b ở i đó là dự án yêu thích củ a
Sculley, b ở i nó không hoàn hảo, và b ở i ông luôn ác c ảm vớ i nh ững thiết bị s ử dụng bút. ông đã cố
khiến Amelio ng ừng s ản xu ất nó vào đ ầu năm 1997 và đã thành công trong vi ệc thuyế t ph ục ông ta
đóng c ửa bộ phận này. Vào cu ối năm 1997 khi Jobs ti ến hành xem xét các sản ph ẩm, nó vẫn tồn
t ại. Sau này ông nói l ại nh ững suy nghĩ củ a mình:
Nếu Apple ở trong tình tr ạng ít b ất ổn hơn, tôi có thể tìm hi ểu kỹ hơn cách làm nó ho ạt
động. Tôi không tin tư ở ng những ngư ờ i đang phát tri ển Newton. Tôi nghĩ nó có nh ững công ngh ệ
th ực sự t ốt, nhưng bị hủ y ho ại bở i cách qu ản lý sai lầm. B ằng việc ng ừng phát triển sản ph ẩm này,
tôi đã giải phóng cho nhiều kỹ sư gi ỏi, nh ững ngư ờ i có th ể làm vi ệc trên nh ững thiết bị di đ ộng
m ớ i. Và cuối cùng chúng tôi đã đi đúng hướ ng v ớ i nh ững chiếc iPhones và iPad.
Khả năng tập trung đã c ứ u Apple. Trong năm đ ầu tiên quay l ại, Jobs đã cho 3.000 ngư ờ i
nghỉ vi ệc, cắt gi ảm chi phí cho công ty. Khi năm tài chính kết thúc lúc Jobs đang là CEO t ạm
quyền tháng 9 năm 1997, Apple lỗ 1,04 tỉ đô la. “Chúng tôi có ít hơn 90 ngày cho tớ i lúc phá s ản,”
ông nh ớ l ại. ở s ự ki ện
Macworl San Francisco tháng giêng năm 1998, Jobs đứng trên sân kh ấu nơi Amelio có
màn trình di ễn tệ hại m ột năm trư ớ c đó. Ông đ ể râu và m ặc áo khoác da khi giớ i thi ệu chi ến lư ợ c
s ản ph ẩm m ớ i. Và l ần đầ u tiên ông k ết thúc bu ổi gi ớ i thi ệu vớ i câu k ết đặc trưng c ủa mình: “Ah,
còn m ột đi ều nữa...” Và “m ột đi ều nữa” lần này là “Tư duy lợ i nhuận.” Khi ông nói những t ừ đó,
đám đông n ổ tung v ớ i nh ững tràng pháo tay. Sau 2 năm gây sửng s ốt vớ i vi ệc thua l ỗ, Apple l ại có
th ể vui vẻ vớ i m ột quý l ợ i nhuận, ki ếm đượ c 45 tri ệu đô la. Trong cả năm tài chính 1998, nó trở
thành 309 triệu đô la lợ i nhuận. Jobs đã quay trở l ại, và Apple cũng th ế.
Chương 26 : NGUYÊN T ẮC THI Ế T K Ế
Jony Ive
Khi Jobs t ập hợ p nh ững quản lý cấp cao cho bài diễ n văn c ủng c ố tinh th ần ngay sau khi trở
thành iCEO th áng 9 năm 1997, ngồi trong đám đông có m ột anh chàng ngư ờ i Anh 30 tu ổi, nh ạ y
cảm và giàu đam mê, ngườ i đứng đ ầu nhóm thiết kế của công ty. Jonathan Ive, đư ợ c bi ết đến vớ i
tên g ọi Jony, đang có ý đ ị nh ngh ỉ vi ệc. Anh m ệt m ỏi vì s ự t ập trung c ủa công ty vào l ợ i nhuận tối
đa thay vì thiết kế s ản ph ẩm. Bài diễn văn c ủ a Jobs đã khiến anh phải cân nhắc l ại. “Tôi nh ớ r ất rõ
vi ệc Steve thông báo mụ c tiêu c ủa chúng tôi không chỉ để ki ếm tiền mà còn tạo ra nh ững s ản ph ẩm
tuyệt vờ i,” Ive nh ớ l ại. “Nh ững quy ế t đị nh c ủa bạ n dựa trên triết l ý này v ề cơ b ản sẽ khác v ớ i
những quy ết đị nh trướ c đây ở Apple.” Ive và Jobs nhanh chóng thiết l ập m ố i quan hệ bi ến họ tr ở
thành b ộ đôi thi ết kế công nghi ệp tuyệt vờ i nh ất trong th ờ i kỳ của mình.
Ive l ớ n lên ở Chingford, một ngôi làng ở phía đông b ắ c London. Cha anh là một thợ bạc và
t ừng d ạ y họ c ở m ột trư ờ ng trong vùng. “Ông ấ y là một th ợ th ủ công tuyệt vờ i,” Ive nh ớ l ại. “Món
quà giáng sinh của ông dành cho tôi là một ngày ở trong xư ở ng c ủa ông ở trườ ng h ọc, trong k ỳ
nghỉ gi áng sinh khi không có ai ở đó, ông giúp tôi làm bất kỳ th ứ gì mà tôi muốn.” Điều ki ện duy
nhất là Jony ph ải vẽ tay thứ mà h ọ đị nh làm. “Tôi luôn thấu hi ểu vẻ đẹp củ a nh ững thứ đượ c làm
bằng tay. Tôi nh ận ra rằng điều quan tr ọng là s ự quan tâm bạn dành cho nó. Tôi th ực sự có c ảm
giác khinh thư ờ ng khi cả m th ấ y sự thiếu quan tâm trong m ột s ản ph ẩm.”
Ive đăng ký vào Newcastle Polytechnic và dành thờ i gian r ỗi và các mùa hè làm việc cho
m ột phòng tư v ấn thi ết kế. M ột trong nh ững s áng t ạo của anh là cây bút vớ i m ột qu ả bóng nhỏ ở
trên cùng khiến việc đùa ngh ị ch v ớ i nó rất thú v ị . Nó giúp ngư ờ i s ở hữu có m ối lên h ệ của cảm xúc
khá vui v ẻ vớ i cây bút. V ớ i quan đi ểm này anh đã thiết kế m ột chi ếc tai nghe và một chi ế c khuyên
- bằng nhựa trắng tinh khiết - để giao ti ếp vớ i nh ữ ng tr ẻ khiếm thính. Căn phòng củ a anh đ ầ y
những mô hình bằng x ốp do anh làm giúp t ạo ra nh ững thiết kế hoàn h ảo. Anh cũng từng thiết kế
m ột máy ATM và m ột chi ếc điện tho ại u ốn cong, c ả hai đ ều đư ợ c giải thư ở ng c ủa Royal Society of
Arts. Không gi ống như các nhà thiết kế khác, Ive không ch ỉ v ẽ những phác thảo đẹp: anh còn t ập
trung vào cách chế t ạo và cách các thành phần bên trong ho ạt động. Anh có một linh c ảm từ khi
còn học đại học, về ngày mà anh có thể thiết kế m ộ t chi ếc Macintosh. “Tôi đã phát hiện ra Mac và
cảm th ấ y như mình có m ột s ợ i dây k ết nối vớ i nh ững ngư ờ i đã t ạo ra sản ph ẩm này,” anh nhớ l ại.
“Tôi b ỗng nhiên hiểu đư ợ c công ty này là gì, hay nó nên trở thành cái gì.”
Sau khi tốt nghi ệp, Ive đã giúp xây d ựng một công ty thi ết kế ở London, Tangerine, từ đó
có m ột hợ p đồng tư v ấn vớ i Apple. Năm 1992 anh chuy ể n tớ i Cupertino để nhận công vi ệ c trong
bộ phận thi ết kế của Apple. Anh trở thành ngư ờ i đứng đ ầu bộ phận này năm 1996, m ột năm trư ớ c
khi Jobs quay trở l ại, nhưng anh không h ạnh phúc v ớ i nó. Amelio có r ất ít s ự trân tr ọn g vớ i các
thiết kế. “ ở đây không có cảm nhận về s ự quan tâm tớ i các s ản ph ẩm, bở i chúng tôi c ố gắng t ối đa
hóa số ti ền mình ki ếm đượ c,” Ive nói. “T ất c ả nhữ ng gì h ọ muốn từ bên thi ế t kế chúng tôi là tạo ra
các mẫu hình vớ i dáng v ẻ bên ngoài mong mu ốn, sau đó các kỹ sư s ẽ phát tri ển nó rẻ nhất có th ể.
Tôi đã chuẩn bị nghỉ vi ệc.”
Khi Jobs tiếp qu ản công ty và có buổi ra mắt, Ive quy ết đị nh ở l ại. Nhưng đầ u tiên Jobs tìm
ki ếm một nhà thiết k ế đẳng c ấp thế gi ớ i t ừ bên ngoài, ông nói chuyện vớ i Richard Sapper, n gườ i đã
thiết kế IBM ThinkPad, và Giorgetto Giugiaro, ngườ i thi ết kế Ferrari 250 và Maserati Ghibli.
Nhưng sau đó ông đã viế ng thăm phòng thiết kế c ủa Apple và gắn ch ặt vớ i m ột Ive h ết s ức nhã
nhặn, háo hức và vô cùng thiết tha. “Chúng tôi đã bàn lu ận về c ác phương pháp đị nh hình và các
lo ại v ật liệu,” Ive nh ớ l ại. “Chúng tôi ở trên cùng m ột bư ớ c sóng. Tôi đột nhiên hi ểu vì sao mình l ại
yêu công ty này.”
Ive báo cáo, ít nh ất là thờ i đi ểm ban đầu, cho Jon Rubinstein, ngư ờ i Jobs mang tớ i để lãnh
đạo bộ phận phần cứng, tuy nhiên anh đã t ạo dựng một m ối quan hệ tr ực tiế p và m ạnh mẽ khác
thư ờ ng v ớ i Jobs. H ọ bắt đầu ăn trưa cùng nhau thườ ng xuyên, và Jobs thư ờ ng k ết thúc một ngày
bằng việc t ớ i phòng thi ết kế của Ive đ ể trò chuy ện. “Jony có m ột vị trí đ ặc bi ệt,” Laurene Powell
nói. “C ậu ấ y tớ i nhà chúng tôi, và gia đình chúng tôi tr ở nên gần gũi hơn. Steve không bao gi ờ cố
ý làm t ổn thương cậu ấ y. Phần lớ n m ọi ngườ i trong cu ộ c đờ i Steve có th ể thay th ế.
Nhưng không ph ải Jony.”
Jobs miêu t ả cho tôi sự tôn trọng c ủa ông v ớ i Ive:
S ự khác bi ệt mà Jony tạo ra, không ch ỉ ở Apple mà trên cả th ế gi ớ i, là r ất l ớ n. C ậu ấ y là một
ngư ờ i vô cùng thông minh, trên m ọi phương di ện. C ậu ấ y hi ểu các khái niệ m kinh doanh và
marketing. Cậu ấ y ch ọn lựa m ọi th ứ ch ỉ như m ột cú nh ấp chuột. Jony hi ểu cốt lõi của nh ững gì
chúng tôi làm hơn bất kỳ ai. N ếu tôi có một ngườ i bạn tâm giao ở Apple, đó là Jony. Jony và tôi
nghĩ v ề phần lớ n các s ản ph ẩm cùng nhau và sau đó kéo m ọi ngườ i l ại và nói, “Này, các cậu nghĩ
gì về cái này?” C ậu ấ y nắ m đượ c bức tranh toàn cảnh, cũng như những chi tiết c ực kỳ nhỏ bé ở m ỗi
s ản ph ẩm. Và cậu ấ y hi ể u Apple là một công ty của các s ản ph ẩm. C ậu ấ y không chỉ là m ột nhà
thiết k ế bình thườ ng. Đó là lý do tại sao c ậu ấ y làm việc trực tiếp vớ i tôi. C ậu ấ y có quyề n năng hơn
bất k ỳ ai ở Apple ngoại trừ tôi. Không ai có thể nói c ậu ấ y cần ph ải làm gì, hay b ỏ cái gì. Đó là cách
mà tôi sắp xếp.
Gi ống như h ầu hết các nhà thi ết kế khác, Ive yêu thích vi ệc phân tích các triết lý và suy
nghĩ từng bướ c để t ớ i m ột thi ết kế cụ th ể nào đó. Vớ i Jobs, quá trình này mang tính trực giác hơn.
ông ấ y thưở ng chỉ các mô hình và phác thảo và mình thích và vứt nh ững cái mình không thích đi.
Ive sau đó l ấ y nh ững g ợ i ý đó và phát tri ển nh ững mẫu Jobs ủng h ộ.
Ive hâm mộ nhà thi ết kế công nghi ệp ngườ i Đức Dieter Rams, ngư ờ i t ừng làm vi ệc cho
hãng đi ện tử Braun. Rams luôn truyền bá nguyên tắc “ít nhưng tốt hơn,” W eniger aber besser, và
cũng như v ậ y, Jobs cùng Ive luôn thay đổi m ỗi thi ết kế m ớ i để th ấ y họ có th ể đơn gi ản nó tớ i m ứ c
nào. K ể t ừ khi t ập sách qu ảng cáo đầu tiên c ủa Apple tuyên bố “Đơn giản là sự tinh tế t ối cao,”
Jobs luôn hướ ng t ớ i s ự đơn gi ản bằng cách chinh ph ục đi ều ph ức t ạp, thay vì lờ chúng đi. “Ph ải
m ất r ất nhi ều công sứ c,” ông nói, “đ ể bi ến m ọi th ứ tr ở nên đơn giản, để th ực sự hi ểu nh ững thách
th ức bên trong và đưa ra các giải pháp thanh thoát.”
Ở Ive, Jobs đã g ặp ngườ i bạn tâm giao trong việc tìm ki ếm cái đơn gi ản thực sự, thay vì ch ỉ
đơn gi ản ở vẻ ngoài. Ngồ i trong phòng thiết kế củ a mình, Ive mô t ả tri ết lý của anh:
Tại sao chúng tôi l ại cho s ự đơn gi ản là t ốt? B ở i vì v ớ i nh ững s ản ph ẩm vật lý, chúng ta c ần
phải c ảm nhận kh ả năng mình có thể th ống tr ị chúng. B ằng việ c mang tr ật t ự t ớ i nh ững thứ phức
t ạp, bạn tìm ra cách đ ể khiến sản ph ẩm chiều theo ý b ạn. Đơn gi ản không chỉ là phon g cách bên
ngoài. Không ph ải là t ối giản hóa hay lo ại b ỏ s ự l ộn xộn. Nó bao gồm việ c đào sâu vào s ự phức t ạp.
Để tr ở nên thực sự đơn gi ản, bạn ph ải đi th ật sâu vào nó. Ví dụ như, đ ể có m ột s ản ph ẩm không
dùng ốc vít, b ạn sẽ t ạo ra một s ản ph ẩm quá nhi ều đo ạn xo ắn và rất ph ức t ạp. Cách tốt hơn là đi sâu
hơn vớ i s ự đơn gi ản, để hi ểu m ọi th ứ về nó và cách nó đư ợ c sản xu ất. B ạn cần hi ểu rõ cốt lõi của
m ột s ản ph ẩm để có th ể lo ại bỏ những phần không thực sự quan tr ọng.
Đó là nguyên t ắ c cơ bản mà Jobs và Ive cùng chia sẻ. Thi ết kế không ch ỉ là vi ệc sản ph ẩm
s ẽ nhìn như th ế nào phía bên ngoài. Nó ph ải ph ản chi ếu cốt lõi của sản ph ẩ m. “Trong v ốn từ của
hầu hết m ọi ngườ i, thi ết kế có nghĩa là trang trí,” Jobs nói v ớ i Fortune m ột th ờ i gian sau khi quay
l ại Apple. “Như ng v ớ i tôi, không gì có th ể đi xa hơn ý nghĩa c ủ a thi ết kế. Thi ết kế là tinh th ần cơ
bản ở những s áng t ạo bở i con ngư ờ i mà sau đó th ể hi ện sự thành công của nó qua nh ững lớ p vỏ bên
ngoài.”
Kết qu ả là, quá trình thi ết kế s ản ph ẩm ở Apple liên quan chặt ch ẽ vớ i cách mà nó đượ c sắp
x ếp và ch ế t ạo. Ive mô tả m ột trong nh ững chiế c Power Mac c ủa Apple: “Chúng tôi mu ốn bỏ hết
t ất c ả những gì không cầ n thi ết trừ những phần cơ bản nh ất,” anh nói. “Đ ể làm vậ y cần sự hợ p tác
nhất quán gi ữa nh ững ngư ờ i thi ết kế, ngườ i phát tri ển sản ph ẩm, các kỹ sư và nhóm sản xu ất.
Chúng tôi thườ ng xuyên ph ải bắt đầu lại t ừ đầu, hết l ần này t ớ i l ần khác. Chúng ta có c ần bộ phận
này không? Chúng ta có th ể l ấ y nó đ ể th ực hi ện ch ức năng củ a bốn bộ phậ n kia không?”
S ự kết nối gi ữa thi ết kế c ủa m ột s ản ph ẩm, những tinh hoa của nó, và việ c sản xu ất đư ợ c
th ể hi ện cho Jobs và Ive khi họ t ớ i Pháp và tớ i m ột c ửa càng cung c ấp đồ n ấu bếp. Ive chọn m ột
con dao mà anh thích, nhưng sau đó l ại bỏ nó xuống trong s ự th ất vọng. Jobs cũng vậ y. “Cả 2
chúng tôi đ ều nh ận th ấ y m ột chút keo r ất m ỏng gi ữa cẤn và lưỡ i dao,” Ive nh ớ l ại. H ọ nói về vi ệc
thiết kế t ốt c ủa con dao đã b ị phá hủ y bở i cách nó đư ợ c ch ế t ạo. “Chúng tôi không mu ốn nghĩ tớ i
những con dao củ a mình b ị gắn lại bằng keo dẤn,” Ive nói. “Steve và tôi quan tâm t ớ i nh ững thứ
như vậ y, nó phá hủ y sự thuần khiết và l ấ y đi nh ững phần cốt yế u của m ột dụng c ụ, và chúng tôi đã
có suy nghĩ gi ống nhau v ề cách phát tri ển ra các s ản ph ẩm nhìn thuần khiết và liền m ảnh.”
Ở phần lớ n các công ty khác, các k ỹ sư có xu hướng đ ị nh hướ ng thiết kế. Các k ỹ sư đ ặt ra
các thông s ố k ỹ thuật cùng yêu c ầu, và nhóm thi ết kế đưa ra các l ớ p vỏ phù hợ p vớ i chúng. Vớ i
Jobs, quá trình này có khuynh hướ ng đi theo cách khác, ở những ngày đ ầu tại Apple, Jobs đã phê
duyệt thi ết kế của chi ếc Macintosh nguyên thủ y, và các kỹ sư c ần làm bo mạch và các bộ phận phù
hợ p vớ i nó.
Sau khi b ị buộc ph ải ra đi, quy trình ở Apple đảo ngượ c l ại theo hư ớ ng các kỹ sư quy ết
đị nh. “Trướ c khi Steve quay lại, các k ỹ sư thư ờ ng nói ‘Đây là phần lõi’ - b ộ vi x ử lý, ổ cứng - và
nhóm thi ết kế s ẽ đ ặt chúng vào trong m ột chi ếc hộ p,” giám đốc marketing của Apple Phil Schiller
nói. “Khi bạn làm theo cách này, b ạn sẽ có những s ản ph ẩm dễ s ợ .” Nhưng khi Jobs quay l ại và kết
nối vớ i Ive, s ự cân bằng l ại m ột l ần nữa hư ớ n g về những ngư ờ i thi ết kế. “Steve luôn nh ấn m ạnh
vớ i chúng tôi v ề vi ệc thi ế t kế đượ c gắn vớ i nh ững thứ s ẽ làm chúng tôi tr ở nên tuy ệt vờ i,” Schiller
nói. “Thi ết kế m ột l ần nữ a l ại đi ều khiển kỹ thuật, ch ứ không ph ải ngượ c l ại.”
Đôi khi việc này có thể phản tác d ụng, như khi Jobs và Ive khăng khăng đòi s ử dụng một
miếng nhôm mỏng ở các c ạnh c ủa chi ếc iPhone 4 mặc dù các k ỹ sư đã lo l ắ ng v ề vi ệ c nó có th ể làm
nhiễu ăng ten. Tuy nhiên thông thườ ng thì s ự đặc bi ệt trong các thi ết kế củ a họ - cho iMac, iPod,
iPh one và iPad - đã đưa Apple tiến xa tới th ắng lợ i to l ớ n của nó trong nhữ ng năm sau khi Jobs tr ở
l ại.
Trong phòng thiết kế
Phòng thi ết kế nơi Ive cai trị , nằm ở t ầng tr ệt c ủa Two Infinite Loop ở tr ụ s ở của Apple,
đượ c bao b ọc vớ i kính ph ản quang và một c ánh cử a nặng n ề khóa kín. ở ngay phía trong là bàn lễ
tân b ọc kính nơi 2 tr ợ lý ki ểm soát quyền lối vào. Ngay c ả những nhân viên c ấp cao c ủa Apple
cũng không đư ợ c quyền vào n ếu không có sự cho phép đặc bi ệt. Ph ần lớ n các buổi ph ỏng v ấn của
tôi v ớ i Jony Ive cho cu ốn sách này đượ c sắp đặt ở nơi khác, nhưng một ngày năm 2010 c ậu ấ y sắ p
x ếp cho tôi một bu ổi chi ều thăm quan phòng thi ết kế này và nói v ề s ự hợ p tác c ủ a cậu ấ y vớ i Jobs
ở đây.
ở bên trái l ối vào là khu v ực bàn c ủ a nh ững nhà thi ết kế tr ẻ tu ổi; ở bên ph ải là phòng chính
gi ống như m ột hang động v ớ i 6 chi ếc bàn thép dài nơi trình bày và thử nghi ệm các s ản ph ẩm đang
phát tri ển, ở phía sau phòng chính là m ột phòng thi ết kế s ử dụng máy tính, v ớ i đầ y các máy tr ạm,
kế đó là m ột phòng v ớ i các máy đúc để bi ến nh ữn g th ứ trên màn hình thành các mô hình b ằng b ọt
bi ển. Sau đó là phòng phun sơn do rô bốt đi ều khiển để làm các mô hình trông như th ật. Khung
cảnh nhìn khá thưa th ớ t và công nghi ệp, vớ i trang trí màu xám kim lo ại. Nh ững chiế c lá cây ở phía
bên ngoài tạo ra nh ững khối di chuy ển của ánh sáng và bóng t ối trên các c ửa sổ. Nh ạ c techno và
jazz đư ợ c bật ở các phòng.
Gần như t ất c ả các ngày khi Jobs khỏe và ở văn phòng, ông đ ều ăn trưa cùng Ive và dạo
chơi trong phòng thiết kế vào bu ổi chi ều. Khi ông vào, ông có thể quan sát các bàn và xem các s ản
phẩm trên dây chuyền, cả m nhận sự phù hợ p củ a nó vớ i chi ến lư ợ c củ a Apple, và ki ểm tra sự ti ến
tri ển trong m ỗi thi ết kế. Thườ ng chỉ có 2 ngư ờ i họ vớ i nhau, trong khi nh ững ngư ờ i khác quan sát
công vi ệc của họ nhưng gi ữ m ột k hoảng cách tôn trọng. Nếu Jobs có m ột v ấn đề cụ th ể nào, ông có
th ể gọi ngườ i đứng đ ầu nhóm thiết kế k ỹ thu ật hay ngư ờ i khác trong nhóm trợ th ủ của Ive. Nếu có
th ứ gì làm ông thích thú hay lóe lên nh ững suy nghĩ về chiến lư ợ c của công ty, ông sẽ gọi giám đố c
vận hành Tim Cook hay giám đ ốc marketing Phil Schiller t ớ i và tham gia cùng họ. Ive mô t ả quá
trình thông thư ờ ng:
Căn phòng tuy ệ t v ờ i này là nơi duy nh ất trong công ty mà b ạn có th ể nhìn quanh và th ấ y t ất
cả những thứ chúng tôi đang phát tri ển. Khi Steve tớ i, ông s ẽ ngồi trên một trong nh ững chiếc bàn
này. Ví d ụ nếu chúng tôi làm việc trên một chi ếc iPhone m ớ i, ông ấ y sẽ l ấ y m ột chi ếc gh ế, b ắt đầu
tr ải nghi ệm các mô hình khác nhau và cảm nhận chúng trong trong lòng bàn tay, ghi nhớ những
chi ếc mà ông thích nhất. Sau đó ông lướ t qua bàn khác, chỉ có ông ấ y và tôi, đ ể xem tất c ả các s ả n
phẩm khác đang tớ i đâu. ông ấ y có th ể c ảm nhận sự dị ch chuyể n của cả công ty, c ủa chi ế c iPhone,
iPad, iMac, các máy xách tay và t ất c ả những gì chúng tôi đang cân nh ắ c. Nó giúp ông nhìn rõ
những điểm công ty đang d ồn sức vào và cách chúng k ết nối vớ i nhau, ông ấ y có th ể hỏi,
“Làm việc này có ý nghĩa gì không, có phải vì ở bên này chúng ta đang phát triển rất
nhanh?” hay những câu hỏi tương t ự. ông ấ y luôn nhìn s ự vi ệc theo nh ững mối quan hệ vớ i nhau,
vốn rất khó trong m ột công ty lớ n. Nhìn vào các mô hinh trên nh ững chiế c bàn này, ông ấ y có th ể
th ấ y tương lai củ a 3 năm sau n ữa.
Phần lớ n nh ất trong quá trình thi ết kế là tranh luận, m ột cu ộc ngượ c xuôi khi chúng tôi đi
quanh nh ững chiếc bàn và thử nghi ệm các mô hình, ông ấ y không mu ốn đọ c các b ản vẽ phứ c t ạp.
ông luôn mu ốn thấ y và cả m nhận về các mô hình, ông ấ y đúng. Tôi đã rất ng ạc nhiên khi chúng tôi
t ạo một mô hình và nhận thấ y nó th ật vô giá tr ị , mặ c dù nó d ựa trên thi ết k ế rấ t đ ẹp vẽ bở i máy tính.
Ông ấ y thích tớ i đây b ở i ở đây luôn êm đ ềm và thoải mái. Đó là m ột thiên đư ờ ng n ếu bạn là
ngư ờ i thiên về th ị giác. Không có những buổi đánh giá c ứng nhắ c về các thi ết kế, vì th ế cũng
không có nh ững điểm quyế t đị nh q uan trọng. Thay vào đó, chúng tôi làm các quy ết đị nh thay đ ổi
thư ờ ng xuyên. Khi chúng tôi lặp lại đi ều đó m ỗi ngày và không bao giờ có những buổi trình chi ế u
ngu ng ốc, chúng tôi không bị vướ ng vào nh ững b ấ t đồng l ớ n.
Vào một ngày khi Ive đang theo dõi việc t ạo ra m ột giắc cắm đi ện m ớ i cho th ị trườ ng châu
Âu và một gi ắc nối cho Macintosh. Hàng chụ c mô hình, mỗi chi ếc đều có nh ững thay đ ổi r ất nh ỏ,
đã đượ c đưa ra và sơn đ ể xem xét. Một s ố ngư ờ i có th ể th ấ y l ạ khi trư ở ng nhóm thi ết k ế l ại ph ải lăn
tăn v ớ i nh ững th ứ như th ế, tuy nhiên c ả Jobs cũng tham gia vào vi ệc đó. T ừ khi ông có một nhà
cung c ấp thi ết bị s ạc đặc bi ệt cho Apple II, Jobs quan tâm không ch ỉ về vi ệ c ch ế t ạo mà còn quan
tâm t ớ i việc thi ết k ế của nh ững phần như v ậ y. Tên của ông đượ c ghi trên bằng s áng ch ế củ a cục sạc
màu trắng đượ c dùng cho MacBook, cũng như đ ầ u nối nam châm v ớ i tiếng ‘tách’ đầ y th ỏa mãn
của nó.
Thực t ế là ông đư ợ c nêu tên trong 212 b ằng s áng ch ế khác nhau c ủ a Apple ở M ỹ vào thờ i
đi ểm đầu năm 2011.
Ive và Jobs cũng ám ảnh, và đã đă ng ký s áng ch ế, vớ i vi ệc đóng gói các sản ph ẩm khác
nhau c ủ a Apple. Bằng s áng ch ế U.S. D558572 là một ví dụ, đư ợ c cấp ngày 1/1 năm 2008 cho h ộp
của chi ế c iPod Nano, v ớ i 4 hình v ẽ th ể hi ện cách thi ết bị bám ch ặt vào khung khi h ộp đư ợ c m ở ra.
Bằng D596485, đ ượ c cấp ngày 21/7/2009, cho h ộp của chi ếc iPhone, vớ i một cái n ắp cứng và một
khay nhựa l áng bóng ở bên trong.
Trướ c kia Mike Markkula t ừng d ạ y cho Jobs cách “đổ th ừa” - để hi ểu rằng ngư ờ i ta thực sự
phẤn xét một quyển sách qua t ấm bìa c ủa nó - và vì th ế cần đảm bảo tất c ả vẻ ngoài và các bao bì
s ản ph ẩm của Apple đ ều cho thấ y nó ẩn ch ứa m ột viên ng ọ c quý ở bên trong. Cho dù đó là một
chiếc iPod Mini hay một chi ếc MacBook Pro, khách hàng củ a Apple biết c ảm giác khi mở m ột
chiếc hộp đư ợ c sản xu ất ch ất lư ợ ng và tìm th ấ y sả n ph ẩm nằm gọn bên trong m ột cách đầ y m ờ i
m ọc. “Steve và tôi b ỏ r ất nhi ều th ờ i gian cho vi ệc đóng gói. Bạn thi ết kế m ột nghi th ứ c trong vi ệ c
m ở hộp để làm sản ph ẩm trở nên đặc biệt hơn. Đóng gói có th ể là m ột nhà hát, nó có thể t ạo nên c ả
m ột câu chuy ện.”
Ive, ngườ i có sự nhạ y cả m của m ột nghệ sĩ, đôi khi c ảm th ấ y bất đồng v ớ i Jobs vì ông
chiếm quá nhi ều danh tiế ng, một thói quen khi ến các đ ồng s ự khó ch ị u qua nhi ều năm. C ảm xúc cá
nhân c ủa anh v ớ i Jobs m ạnh đ ến nỗi đôi khi anh r ất dễ bị bắt nạt. “ông ấ y xem xét các ý tưở ng c ủ a
tôi và nói, ‘Nó không hay. Nó không hay l ắm. Tôi thích cái này,’” Ive nói. “Và sau đó tôi s ẽ ngồi
trong đám đông và ông ấ y sẽ nói về nó như th ể đó là ý tư ở ng c ủ a ông ấ y vậ y. Tôi đặt s ự chú ý điên
cu ồng t ớ i nh ững nơi mà ý tư ở ng xuất hi ện, và tôi luôn giữ cu ốn sổ của mình đượ c l ấp đầ y các ý
tư ở ng. Vì th ế tôi đau lòng khi ông ấ y chi ếm lấ y danh ti ếng t ừ m ột trong các thi ết kế của tôi.” Ive
cũng thư ờ ng n ổi gi ận khi những ngư ờ i ngoài mô t ả Jobs như ngườ i duy nhất có các ý tư ở ng t ại
Apple. “Điều đó khiến chúng tôi dễ bị t ổn thương vớ i tư cách là m ột nhóm,” Ive nói m ột cách
nghiêm túc, gi ọng nhẹ nhàng. Nhưng sau đó cậu ấ y dừng lại đ ể nhìn nh ận vai trò c ủ a Jobs trên thự c
t ế. “ ở r ất nhi ều công ty khác, ý tư ở ng và các thiết kế tuyệ t vờ i bi ến m ất trong quy trình làm việ c,”
anh nói. “Những ý tư ở ng đ ến từ tôi và nhóm c ủa tôi sẽ không có ý nghĩa, ở bất kỳ đâu, nếu Steve
không có ở đó và thúc đ ẩ y chúng tôi, làm vi ệc vớ i chúng tôi, và vư ợ t qua t ất c ả s ự cản trở để bi ến
ý tư ở ng c ủ a chúng tôi thành các s ản ph ẩm.”
Chương 27: MÁY TÍNH iMAC
Xin chào (M ột l ần nữ a)
Trở l ại Tương lai
Chiến th ắng v ẻ vang đ ầu tiên về thiết kế xuất phát t ừ m ối hợ p tác Jobs -lve chính là iMac,
chiếc máy tính đ ể bàn nh ắm vào thị trườ ng khách hàng gia đình, đư ợ c gi ớ i thiệu vào tháng Năm
năm 1998. Jobs đưa ra những chỉ dẫn kĩ thuật rõ ràng. Đó ph ải là một s ản ph ẩm bao- gòm -t ất - cả,
vớ i bàn phím và màn hình và c ả máy tính sẵn sàng để s ử dụng ngay khi ra khỏi hộp. Nó phải có
thiết k ế khác bi ệt t ạo nên đượ c tuyên ngôn s ản ph ẩ m. Và nó ph ải đư ợ c bán v ớ i giá 1.200 đô -la ho ặ c
ngang ngang như v ậ y. (Vào th ờ i điểm đó Apple chưa có m ột mẫu máy tính nào bán dướ i giá 2.000
đô-la.) “ông ấ y bảo chúng tôi quay tr ở l ại vớ i nguyên m ẫu của chi ếc Macintosh nguyên b ản hồi
năm 1984, một thi ết b ị tiêu dùng bao - gồm -t ất -c ả,” Schiller nhớ l ại. “Điều đó có nghĩa là c ả thiết k ế
và kĩ thuật ph ải đồng bộ vớ i nhau.”
Kế hoạch ban đầu là xây d ựng m ột “máy tính m ạng lướ i,” m ột khái niệm có đượ c sự bả o vệ
của Larry Ellison c ủ a hãng Oracle, đó là m ột thi ết bị đầu cu ối đắt tiền vớ i ổ cứng chủ yếu đư ợ c sử
dụng đ ể k ết nối Internet và các m ạng lướ i khác. Nhưng giám đ ố c tài chính c ủa Apple, Fred
Andersen lại dẫn đầu cu ộ c t ấn công nh ằm tranh đ ấ u để s ản ph ẩm tiện ích hơn b ằng cách b ổ sung
m ột ổ đĩa c ứng, nhờ v ậ y iMac có th ể tr ở thành một máy tính đ ể bàn đầ y đủ ch ức năng cho gia đình.
Jobs cu ối cùng đã đ ồng ý.
Jon Rubinstein, ngư ờ i đả m trách phần ổ cứng, đã ứng d ụng b ộ vi x ử lí và nh ững phần tinh
túy c ủ a chi ế c PowerMac G3, chiếc máy tính chuyên nghiệp dòng cao cấp củ a Apple, ph ục vụ cho
m ẫu máy mớ i đề xuất lên. Nó sẽ có m ột ổ đĩa c ứng và khay dành cho đĩa compact. Nhưng trong
m ột động thái tương đối táo b ạo, Jobs và Rubinstein quyết đị nh s ẽ không gắ n kèm cả ổ đĩa mềm
vốn thông d ụng. Jobs trích dẫn câu cách ngôn của siêu sao khúc côn c ầu Wayne Gretzky, “Hãy
trượ t đến ch ỗ trái banh văng tớ i, ch ứ không ph ải ch ỗ nó đã t ừng xuất hi ện.” Jobs có ph ần đi quá
th ờ i cu ộc, nhưng cu ối cùng đa ph ần máy tính đều đã lo ại bỏ ổ đĩa mềm.
Ive và phó phòng th ứ nhấ t c ủa mình, Danny Coster, b ắt đầu phác th ảo nh ững thiết kế mang
tính v ị lai. Jobs c ục cằn gạt đi cả tá ki ểu m ẫu bọt bi ển mà h ọ ban đầu đưa ra, nhưng Ive bi ết cách
làm th ế nào để nhẹ nhàng dẫn dắt Jobs. Ive tán thành r ằng chưa mẫu nào trong số đó thực sự đúng
đắn, nhưng anh chỉ ra rằng m ột mẫu có hứ a hẹn. Nó lượ n cong, v ẻ nghị ch ngợ m và không có dáng
dấp gì kiểu như một phi ế n cứng không th ể dị ch chuyển, cắm rễ trên bàn. “Nó mang l ại c ảm giác là
nó v ừa m ớ i xu ất hi ện trên bàn c ủa anh, hay là nó đang sắp sửa nh ả y vọt lên và đi đâu đó,” Ive nói
vớ i Jobs.
Đến lần trình bày tiếp theo, Ive đã trau chu ốt ki ểu m ẫu vui nhộn đó. L ần này thì Jobs, vớ i
th ế gi ớ i quan nh ị nguyên c ủa mình, lại điên cu ồng bày tỏ r ằng ông ta thích nó. Ông c ầm lấ y nguyên
m ẫu thi ết kế bọt bi ển đó và b ắt đầu vác nó kè kè đi khắp trụ s ở công ty, t ự tin trưng nó ra cho các
lãnh đ ạo cao c ấp và thành viên ban giám đ ốc. Trong qu ảng cáo của m ẫu sả n ph ẩm này, Apple hân
hoan ca t ụng niềm vinh quang của kh ả nă ng tư duy khác bi ệt, th ế nhưng tính đến th ờ i đi ểm bấ y
gi ờ , chưa có th ứ gì đượ c đề xuất lên th ể hi ện nhiề u sự khác bi ệt so vớ i nh ữ ng mẫu máy tính trư ớ c
đó. Cu ối cùng thì Jobs cũng đã n ắm trong tay thứ gì đó mớ i m ẻ.
Chiếc vỏ máy bằng nhựa mà Ive và Coster đề xuất có màu xanh lục lam, về sau đư ợ c đặt
tên là xanh dương bondi, d ựa theo tên c ủ a màu nư ớ c t ại m ột bãi bi ển Australia, và nó trong mờ ,
nhờ vậ y bạn có th ể nhìn th ấu cả bên trong cỗ máy. “Chúng tôi gắng s ứ c chuy ể n t ải c ảm giác về m ột
chiếc máy tính có thể bi ế n đổi theo nhu c ầu của bạ n, như là m ột con t ắc kè hoa vậ y,” Ive nói. “Đó
là lí do t ại sao chúng tôi thích s ắc trong m ờ . Bạn có th ể ch ọn các màu nhưng nó có vẻ rất bất tĩnh
t ại. Và nó mang lại ấn tư ợ ng thật táo tợ n.”
Thông qua ẩn dụ và c ả trên th ực t ế, s ắ c trong m ờ kết nối nền tảng kĩ thu ật bên trong chi ế c
máy tính vớ i thi ết kế bên ngoài. Jobs luôn luôn nh ấn m ạnh r ằng các dãy chip trên các bảng mạ ch
trông ph ải ngay hàng th ẳ ng l ối, m ặ c dù ch ẳng bao gi ờ ngư ờ i ta nhìn th ấ y chúng. Gi ờ thì chúng đã
lò lộ trướ c mắt. L ớ p vỏ máy sẽ trưng ra đư ợ c nỗ l ự c chăm chút đư ợ c dồn vào việc t ạo nên t ất c ả các
phần cấu thành chiế c máy tính và ráp chúng lại vớ i nhau. M ầu thi ết kế nghị ch ngợ m sẽ chuy ển tả i
s ự gi ản đơn, và chính trong lúc đó, lại hé lộ chiều sâu mà sự gi ản đơn đích th ực mang tớ i.
Nhưng kể cả s ự gi ản đơn c ủa bản thân chi ế c vỏ nhựa cũng đòi h ỏi tính ph ức t ạp ghê g ớ m.
Ive và nhóm c ủ a mình đã làm vi ệc vớ i các đ ối tác s ản xu ất ở Hàn Quốc của Apple đ ể hoàn thiện
quy trình ch ế t ạo vỏ máy, và h ọ th ậm chí còn tớ i thăm m ột nhà máy s ản xu ất kẹo dẻo để tìm hi ểu
xem làm thế nào khi ến cho các màu trong m ờ tr ở nên thật là lôi cu ốn. Chi phí cho m ỗi chi ếc vỏ lên
t ớ i hơn 60 USD, g ấp ba lần giá m ột vỏ máy tính thông thườ ng. Các công ty khác ch ắc hẳn sẽ yêu
cầu ph ải có các bu ổi trìn h chi ếu và các nghiên c ứ u để ch ứng minh xem liệu rằng chiế c vỏ máy
trong mờ có gia tăng lượ ng tiêu th ụ đủ để cân bằng chi phí phụ tr ội hay không. Jobs không đòi h ỏi
th ứ phân tích như th ế.
Ở đỉ nh c ủa m ẫu thi ết kế này chính là chiế c quai nh ấc ẩn phía trong iMac. Nó nghị ch ngợ m
và mang tính kí hiệu nhiều hơn là thu ần ch ức năng. Đây là m ột chi ếc máy tính đ ể bàn; không có
m ấ y ngườ i th ực sự s ẽ vác nó đi ch ỗ nọ ch ỗ kia. Nhưng như l ờ i Ive lí gi ải sau này thì:
Hồi đó, ngư ờ i ta không mấ y thoải mái v ớ i công nghệ. Nếu bạn e s ợ th ứ gì đó, thì bạn sẽ
không đờ i nào chạm vào nó. Tôi có th ể th ấ y m ẹ tôi s ợ ch ạm vào máy tính. Nên tôi nghĩ là, nếu có
cái quai nhấc này trên máy, nó sẽ khiến cho mối quan hệ hai bên tr ở thành kh ả dĩ. Nó dễ ti ếp cận.
Nó h ối thúc trực giác hơn. Nó c ho phép b ạn đư ợ c ch ạm vào nó. Nó mang lại c ảm giác rằng nó
chiều theo ý b ạn.
Thật không may, s ản xu ất m ột chi ếc quai nh ấc đụ c lõm vào s ẽ t ốn kha khá ti ền, ở hãng
Apple cũ, thì tôi sẽ thua cu ộc tranh lu ận ngay. Điều th ực sự tuyệt vờ i c ủa Steve là ở ch ỗ anh ấ y
trông thấ y nó và b ảo, “Quá đ ỉ nh!” Tôi không h ề gi ải thích tất c ả suy nghĩ của mình, nhưng b ằng
tr ực giác c ủa mình, anh ấ y đã nắm bắt đư ợ c. Steve biết r ằng nó là một ph ần của sự thân thi ện và vẻ
nghị ch ngợ m củ a iMac.
Jobs buộc ph ải gạt đi nh ững chống đ ối xuất phát t ừ các kĩ sư sản xu ất, đư ợ c trợ s ức bở i
Rubinstein, ngườ i có xu hướ ng khơi lên nh ững suy xét v ề chi phí th ực t ế khi ph ải đối m ặt vớ i
những khát khao thẩm mỹ cùng ngẫu hứng thiết kế đủ lo ại c ủa Ive. “Khi tôi gi ớ i thi ệu nó trướ c các
kĩ sư,” Jobs nói, “họ đưa ra tớ i ba mươi tám lí do cho vi ệc không thể nào thực hi ện đư ợ c. Và tôi
bảo luôn, ‘Không, không, chúng ta sẽ làm cái này.’ Họ nói, ‘ô, sao l ại thế?’ Tôi bảo, ‘Vì tôi m ớ i là
CEO, và tôi nghĩ là có th ể làm đư ợ c.’ Và rồi họ có v ẻ miễn cư ỡ ng đi thực hi ện nó.”
Jobs yêu cầu Lee Clow và Ken Segall và các thành viên khác từ nhóm qu ả ng cáo tập đoàn
TBWA đáp chuy ến bay đ ến để xem xét những gì đang đượ c phát tri ển, ông dẫn họ vào xư ở ng thiết
kế đượ c canh gác và một cách khoa trương kị ch tính, hé l ộ m ẫu thi ết kế hình gi ọt l ệ trong mờ của
Ive, món đò có d áng dấp như thứ gì đó trong Gia đình Jetson, m ột lo ạt phim ho ạt hình trên TV v ớ i
bối c ảnh tương lai. Trong thoáng ch ố c, tất c ả đều sững s ờ . “Chúng tôi c ực kì choáng, nhưng chúng
tôi không th ể thành thật đư ợ c,” Segall nh ớ l ại. “Th ực tình tôi nghĩ là, ‘Chúa ơi, liệu họ có bi ết mình
đang làm gì không vậ y?’ Nó cự c đoan quá mức.” Jobs đ ề nghị họ đưa ra nh ữ ng cái tên. Segall quay
l ại vớ i năm phương án, một trong số đó là “iMac.” Thoạt tiên Jobs không h ề thích cái nào trong s ố
đó, nên Segall đưa ra một danh sách khác vào một tuần sau đó, nhưng ông nói r ằng hãng quảng cáo
vẫn thích cái tên “iMac” hơn. Jobs đáp rằng, “Tuầ n này thì tôi ch ẳng ghét gì nó, nhưng tôi vẫn
không thích nó.” Jobs cố gắng cho th ử in lư ớ i cái tên n ày trên m ấ y chi ế c iMac nguyên m ẫu, cái tên
dần cu ốn hút ông hơn. Và thế là m ẫu máy tính mớ i đã có tên là iMac.
Lúc hạn chót cho việc hoàn thành mẫu iMac tớ i gầ n, tính khí nóng n ả y vốn đã thành huy ền
thoại c ủa Jobs tái phát d ồn dập, đặc bi ệt là trong lúc ôn g ph ải đối m ặt vớ i nh ững v ấn đề s ản xu ất.
Trong một cu ộ c họp đánh giá s ản ph ẩm, ông biết đư ợ c r ằng quy trình sản xu ất đang ch ậm trễ. “ông
ấ y trưng ra ngay m ột trong nh ững bi ểu hiện giận dữ khủng khiếp, và n ỗi t ứ c giận ấ y tuy ệt đ ối thành
th ực,” Ive nh ớ l ại. ông đi quanh bàn, t ấn công túi b ụi t ất c ả m ọi ngườ i, bắt đầu là Rubinstein. “Các
ngư ờ i biết là chúng ta đang c ố cứu cả công ty cơ mà,” ông ta thét lên, “và các ngườ i đang làm h ỏng
bét mọi s ự!”
Gi ống như nhóm ch ế t ạo Macintosh nguyên b ản, đ ội iMac cũng đã l ảo đảo kh ốn kh ổ để
hoàn thiện cho k ị p vớ i bu ổi công bố chính thức. Nhưng th ế v ẫn còn chưa đủ, trư ớ c khi Jobs bùng
nổ m ột cơn cuối cùng. Đ ến lúc tập dư ợ t cho buổi trình chi ếu ra m ắt, Rubinstein bày t ạm hai chiếc
máy tính nguyên mẫu. Trướ c đó Jobs chưa từng trông thấ y sản ph ẩm chung cuộc, và khi ông nhìn
vào mẫu máy tính trên sân kh ấu, ông trông th ấ y một nút b ấm ở phía trướ c, bên dư ớ i mẫu trưng bày.
ông nh ấn vào nó và khay CD m ở ra. “Cái c ủa nợ gì đây?!?” Steve hỏi vớ i vẻ không m ấ y lị ch s ự.
“Không ai trong số chúng tôi nói năng gì,” Schiller nh ớ l ại, “vì rõ ràng ông ấ y bi ết cái khay CD
như th ế nào r ồi.” Th ế là Jobs ti ếp t ục mắng nhiếc. Đ áng l ẽ chiếc máy tính phải có m ột rãnh CD g ọn
gh ẽ, ông nhấn mạnh, nhắ c đến nh ững rãnh đĩa thanh lị ch đã có thể tìm th ấ y ở những dòng ô tô nâng
cấp. “Steve, đây chính xác là ổ đĩa mà tôi đã cho anh xem khi chúng ta bàn bạc về các thành phần
mà,” Rubinstein phân bua. “Không, không đ ờ i nào có cái khay, chỉ là khe thôi,” Jobs v ẫn khăng
khăng. Rubinstein không chị u lùi bướ c. Cơn cu ồng n ộ củ a Jobs không h ề l ắng d ị u. “Tôi suýt b ật
khóc, vì đã quá mu ộn để có th ể thay đ ổi chi ti ết đó,” v ề sau Jobs hòi tư ở ng.
Họ t ạm hoãn buổi t ập duyệ t, và trong một khoảng thờ i gian, m ọi chuy ệ n có vẻ như là Jobs
có th ể s ẽ hủ y bỏ toàn b ộ kế hoạch gi ớ i thi ệu sản ph ẩm. “Ruby nhìn tôi như th ể muốn nói r ằng, Tôi
có khùng không vậ y?” Schiller nh ắc l ại. “Đây là l ần gi ớ i thi ệu sản ph ẩm đầu tiên tôi làm cùng
Steve và cũng là lần đầu tiên tôi ch ứng kiến cái tư duy ‘Nếu chưa đúng thì đừng hòng ra mắt s ản
phẩm.’ của Steve.” Cu ối cùng, tất c ả đồng ý sẽ thay th ế khay đĩa bằng một khe đĩa cho phiên b ản
iMac k ế ti ếp. “Tôi sẽ ch ỉ ti ếp t ục kế hoạch gi ớ i thi ệu sản ph ẩm nếu anh h ứa là chúng ta s ẽ th ực hiện
ki ểu khe đĩa càng nhanh càng tốt,” Jobs nói như ch ực khóc đến nơi.
Vẫn còn m ột vấn đề n ữa vớ i đo ạn băng hình Steve Jobs d ự tính sẽ trình chi ếu.
Trong đó, Jony Ive đư ợ c ghi hình đang mô tả tư duy thi ết kế của mình và h ỏi r ằng, “Li ệu
nhà Jetson đã có trong tay kiểu máy tính thế nào nh ỉ? Nó gi ống như là, tương lai từ ngày hôm qua
vậ y.” Đúng và kho ảnh khắc ấ y, sẽ có m ột đo ạn trích dài hai giây từ bộ phim hoạt hình, th ể hi ện
cảnh Jane Jetson nhìn vào một màn hình video, ti ếp đến là một đo ạn kéo dài hai giây n ữa cảnh nhà
Jetson đang cư ờ i khúc khích bên cây thông Giáng sinh. Trong m ột bu ổi t ập dư ợ t, m ột trợ lí sản
xuất nói v ớ i Jobs r ằng h ọ s ẽ phải c ắt bỏ các đo ạn trích phim vì Hãng phim Hanna- Barbera v ẫn
chưa cho phép s ử dụng chúng. “Cứ đ ể nguyên đ ấ y,” Jobs quát ngay anh ta. Viên trợ lí gi ải thích
rằng có các đi ều khoản lu ật ch ống l ại vi ệc này. “Tôi cóc quan tâm,” Jobs nói. “Chúng ta v ẫn sẽ s ử
dụng.” Đoạn phim v ẫn đư ợ c gi ữ như cũ.
Lee Clow đã chu ẩn bị m ột lo ạt các m ẫu qu ảng cáo đầ y màu sắc trên t ạp chí và khi ông gửi
cho Jobs các trang in thử, ông phải nh ận hòi đáp là m ột cu ộc đi ện th oại điên cu ồng t ức gi ận. Màu
xanh dương trong mẫu qu ảng cáo, Jobs khẳng đ ị nh, khác vớ i màu xanh của chi ếc iMac. “Các
ngư ờ i ch ẳng h ề bi ết các ngư ờ i đang làm gì!” Jobs thét lên. “Tôi sẽ bảo ngườ i khác nh ận ph ần
quảng cáo, vì m ấ y th ứ này thật kh ốn ki ếp.” Clow cự l ại ngay. So s ánh hai mẫu mà xem, ông nói.
Jobs, lúc này đang không ở văn phòng, vẫn nằng n ặc rằng mình đúng và tiếp tục la hét. Cu ối cùng
Clow b ắt Jobs ph ải ng ồi xu ống đ ể xem các b ức hình nguyên bản. “Rút cuộc tôi ch ứng tỏ cho anh ta
th ấ y rằng màu xan h đúng là cái màu xanh như là màu xanh đó.” Nhi ều năm về sau, trong m ột
phiên thảo lu ận về Steve Jobs trên trang web Gawker, câu chuy ện sau đây cũng đượ c kể qua l ờ i
của m ột ngườ i làm việc t ại c ửa hàng Whole Foods ở Palo Alto, cách nhà củ a Jobs vài dãy: “M ột
chiều nọ tôi đang kéo m ấ y cái xe hàng thì tôi trông thấ y m ột chi ế c Mercedes màu bạc đậu trong
khu vực dành cho ngườ i tàn tật. Steve Jobs ở trong đang gào thét vào đi ện thoại trong xe. Đây là
ngay trướ c th ờ i đi ểm chiếc iMac đ ầu tiên đượ c công bố và tôi chắc ch ắn rằ ng mình nghe lõm bõm
đượ c câu này, ‘Không. B ố khỉ . Xanh lam. Đ ủ rồi!!!”
Như thườ ng lệ, Jobs luôn có xu hư ớ ng b ắt bu ộc ph ả i chu ẩn bị m ột màn hé l ộ s ản ph ẩm thật
là k ị ch tính. Đã hủ y bỏ m ột bu ổi t ập dư ợ t vì quá t ức gi ận chuy ện khay đĩa CD, Jobs r án g hết s ức
cho nh ững buổi t ập sau đó đ ể đảm bảo rằng hôm công b ố s ẽ phải t ỏa sáng xuất s ắc. ông diễn đi diễ n
l ại khoảnh khắc kị ch tính đ ỉ nh cao, khi ông s ẽ bướ c ngang sân kh ấu và tuyên b ố, “Hãy chào đón
chiếc iMac m ớ i.” ông muốn ánh sáng phải th ật hoàn hảo, nhờ vậ y sắ c trong m ờ của cỗ máy mớ i s ẽ
s ống đ ộng h ết s ức có th ể. Nhưng sau vài lượ t thử, ông v ẫn không hài lòng. Đây là sự l ặp l ại c ủa nỗi
ám ảnh v ề ánh sáng sân kh ấu của Steve mà Sculley đã từng chứng ki ến t ại nh ững buổi t ập dư ợ t cho
l ễ công b ố chiếc Macintosh nguyên b ản năm 1984. ông yêu c ầu đèn r ọi ph ải s áng hơn và xu ất hiện
s ớ m hơn, nhưng như vậ y Jobs cũng vẫn chưa hài lòng. Vậ y nên ông thong th ả bướ c xu ống l ối đi
của khán phòng và ng ồi thư ờ n thượ t vào m ột ch ỗ ở vị trí trung tâm, gác hai chân lên ghế phía
trướ c. “Cứ ti ếp tục làm cho đ ến khi nào đúng thì thôi, nhé?” H ọ l ại th ử thêm l ần nữa. “Không,
không,” Jobs phàn nàn. “Cái này v ẫn không ổn rồi.” L ần tiếp theo, đèn đóm đã lên đ ủ s áng, nhưng
l ại chi ếu ra quá mu ộn. “Tôi quá mệt vì c ứ phải yêu c ầu chuy ện này rồi,” Jobs g ầm lên. Cu ối cùng,
chiếc iMac đã s áng bừng đúng như mong đợ i. “Ô! Đúng r ồi! Tuy ệt quá!” Jobs reo lên.
M ột năm trư ớ c đó Jobs đã lo ại Mike Markkula, ngư ờ i dẫn dắt và đối tác thuở ban đầu của
mình ra khỏi ban giám đ ốc. Nhưng gi ờ đây, Jobs quá t ự hào về những gì mình đã ch ế t ạo nên v ớ i
chiếc iMac m ớ i, và s ụt sùi c ảm động v ề m ối liên h ệ gi ữ a m ẫu máy tính h ậu bối này v ớ i vị ti ền bối
Macintosh, thế là Jobs m ờ i Markkula t ớ i Cupertino để tham d ự m ột bu ổi duyệ t riêng tư. Markkula
quá sức ấn tư ợ ng. Chi ti ế t không thích duy nhất c ủ a Markkula là con chu ột m ớ i mà Ive vừa thi ết
kế. Trông nó như trái banh khúc côn cầu vậ y, Markkula nói, và m ọi ngườ i s ẽ ghét nó cho coi. Jobs
không đồng ý, nhưng Markkula đã đúng. Nếu không thì cả cỗ máy mớ i đã gi ống như b ậ c tiền bối
của nó, thành công vang d ội.
L ễ công b ố, ngày 6 th áng Năm, 1998
Vớ i l ễ công b ố chiếc Macintosh nguyên b ản vào năm 1984, Jobs đã s áng t ạ o nên một th ể
lo ại sân khấu m ớ i: lễ ra m ắt s ản ph ẩm như một s ự ki ện đánh dấu bư ớ c ngoặt l ị ch s ử, lên đ ến đỉ nh
cao bằng một khoảnh khắc trong đó vòm tr ờ i tách ra, m ột lu ồng s áng rọi xu ống, và dàn đồng ca
gồm những tín đồ sùng đ ạo đư ợ c l ựa ch ọn sẽ hát vang “Hallelujah.” Đ ối vớ i bu ổi công bố s ản
phẩm trọng đ ại mà Jobs hi v ọng r ằn g sẽ cứu vớ t Apple và một l ần nữa, bi ến đổi trải nghi ệm máy
tính cá nhân, như m ột hành động mang tính biểu tư ợ ng, ông l ựa ch ọn Khán phòng Flint của
Trườ ng C ộng đ ồng De Anza tại Cupertino, chính là đ ị a đi ểm ông đã sử dụng hòi năm 1984. ông
muốn vận dụng khả năng hùng biện để xua tan nhữ ng ngờ vực, tập hợ p l ực lư ợ ng, tranh th ủ s ự ủng
hộ của cộng đồng các kĩ sư phát tri ển và thúc đẩ y chi ến dị ch quảng bá s ản ph ẩm m ớ i. Nhưng ông
cũng làm như thế còn vì ông mu ốn tận hư ở ng c ảm giác đóng vai trò ông bầ u sự ki ện. Dàn xếp m ột
buổi diễn hoành tr áng khơi d ậ y nh ững n ỗi đam mê cũng t ạo ra cảm xúc như việc đã ch ế ra m ột s ả n
phẩm tuyệt hảo vậ y.
Thể hi ện khía cạnh giàu c ảm xúc trong con ngườ i mình, Jobs b ắt đầu bằng m ột màn xư ớ ng
tên duyên d áng và long tr ọng ba nhân vật mà ô ng đã mờ i ng ồi ở vị trí khán gi ả hàng đ ầu. ông đã xa
lánh t ất c ả bọn họ, nhưng giờ đây ông mu ốn họ s ẽ l ại tham gia cùng v ớ i mình. “Tôi đã kh ở i s ự
doanh nghiệp này cùng Steve Wozniak trong gara ô tô của cha mẹ tôi, và Steve hôm nay có m ặt t ại
đây,” ông nói, ch ỉ đến ch ỗ Steve và gợ i ra m ột tràng pháo tay. “Chúng tôi sau đó có thêm Mike
Markkula và chẳng bao lâu sau đến lư ợ t ch ủ t ị ch đ ầ u tiên, Mike Scott,” ông nói ti ếp. “Cả hai ngư ờ i
anh em này đều có m ặt trong số khán gi ả hôm nay. Và không ai trong s ố chúng t a may m ắn đư ợ c
hi ện di ện ở đây nếu thi ếu ba con ngườ i này.” Đôi m ắt ông ngân ng ấn trong giây lát lúc tràng pháo
tay l ại r ộ lên. Có m ặt trong số khán gi ả còn có Andy Hertzfeld và hầu hết các thành viên trong
nhóm Mac nguyên bản. Jobs nhoẻn m ột nụ cư ờ i vớ i họ. ông tin r ằng ông sắ p sửa làm cho h ọ đượ c
t ự hào.
Sau khi trưng ra đư ờ ng biểu di ễn chi ến lư ợ c sản ph ẩm m ớ i c ủa Apple và lướ t qua m ột vài
hình chiếu về hoạt động c ủa m ẫu máy tính mớ i, Jobs đã s ẵn sàng để công b ố đứa con cưng mớ i
nhất c ủa mình. “Máy tính n gày nay trông như thế này,” ông nói trong khi hình ảnh một loạt nh ững
cấu ki ện hình chi ế c hộp màu xám và màn hình đư ợ c trình chiếu trên màn hình l ớ n ngay phía sau
ông. “Và tôi rất l ấ y làm vinh hạnh đượ c gi ớ i thi ệu cho các bạn th ấ y vóc d áng của máy tính t ừ nay
tr ở về sau.” ông kéo t ấm rèm phủ chiếc bàn trên sân kh ấu trung tâm để hé lộ chiếc iMac m ớ i, nó lấ p
lánh và b ừng s áng khi ánh đèn chi ếu rọi đúng như dự tính, ông nh ấp chuột, và cũng gi ống như ở
buổi công bố máy Macintosh nguyên bản, màn hình nháy lên các hình ảnh d ồn dập về những điều
kì di ệu mà chiếc máy có th ể th ực hi ện, ở đoạn cu ố i, từ “Xin chào” xu ất hi ệ n theo một kị ch b ản
ngh ị ch ngợ m tương t ự đã tô điểm cho chi ếc Macintosh năm 1984, l ần này có thêm từ “một l ần
nữa” ở bên dư ớ i, trnog d ấu ngoặc đơn: Xin chào (m ột l ần nữa). Một tràng pháo tay như s ấm động
vang r ền. Jobs lùi l ại và đưa mắt đầ y tự hào nhìn chi ếc Macintosh m ớ i. “T rông nó c ứ như đến từ
m ột hành tinh khác vậ y,” ông nói, trong khi khán gi ả cư ờ i r ộ lên. “Một hành tinh t ốt đẹp.
M ột hành tinh vớ i nh ững chuyên gia thi ết kế tài giỏi hơn.”
M ột l ần nữa Jobs đã lại s ản xu ất ra s ản ph ẩm mớ i mang tính bi ểu tư ợ ng, chi ếc máy tính l ần
này chính là tiên báo c ủa m ột thiên niên kỉ m ớ i. Nó hoàn thành lờ i hứ a “Tư duy Khác biệt.” Thay
vì những chiếc hộp cùng màn hình màu xám vớ i m ột m ớ hỗn độn các loại dây nhợ cùng cuốn
hướ ng d ẫn sử dụng dày còm cộp, thì đây là m ột thi ết bị thân thi ện và hăng hái, êm ái trong t ừng cú
ch ạm và ưa mắt như là qu ả tr ứng c ủa loài h ồng h ạ c vậ y. B ạn có th ể n ắm lấ y chi ếc quai xách nh ỏ
nhắn đáng yêu của nó và nhấc ra kh ỏi chi ếc hộp màu trắng thanh l ị ch, c ắm nó thẳng vào chiế c ổ
đi ện trên tườ ng. Nh ững ngư ờ i t ừng e dè vớ i máy tính giờ đây đều muốn có m ột chi ếc, và h ọ muốn
đặt nó vào một căn phòng nơi nh ững ngư ờ i khác có th ể tr ầm trồ ngư ỡ ng mộ và có l ẽ là thèm
thuồng lắm lắm. “Một chi ếc máy tính pha tr ộn giữ a ánh sáng lung linh khoa h ọc viễn tư ở ng v ớ i vẻ
cầu kì hào nho áng của m ột chi ếc ô gài trên li cocktail,” Steven Levy vi ết trên t ờ Newsweek, “nó
không ch ỉ là chiếc máy tính có vẻ ngoài sành điệu nh ất đư ợ c gi ớ i thi ệu trong m ấ y năm nay, mà là
m ột l ờ i tuyên b ố ch ắc nị ch r ằng t ập đoàn trong mơ xu ất thân t ừ Thung lũng Silicon không còn là
m ột kẻ m ộng du vô đị nh n ữa.” Còn t ờ Forbes thì g ọi nó là “m ột thành công làm thay đ ổi c ả ngành
công nghi ệp”, và John Sculley v ề sau đã bư ớ c ra kh ỏi c ảnh lánh xa nhân thế để bày t ỏ dạt dào,
“Jobs đã thực hi ện một chi ến lư ợ c gi ản đơn tương tự đã khiến cho Apple thành công rự c r ỡ vào 15
năm về trướ c: tạo ra nh ững s ản ph ẩm đỉ nh cao và quảng bá chúng v ớ i kế hoạ ch ti ếp thị tuyệt hảo.”
Những lờ i ch ỉ trích ch ỉ đượ c nghe th ấ y t ừ m ột góc quen thu ộc. Trong khi iMac g ặt hái ti ếng
tăm vang d ội, Bill Gat es tr ấn an m ọi ngườ i trong m ột bu ổi họp m ặt các nhà phân tích tài chính
vi ếng thăm Microsoft rằng đây ch ỉ là m ột th ứ m ốt nh ất th ờ i. “Th ứ mà hãng
Apple cung cấp lúc này đây ch ỉ là s ự dẫn dắt về màu sắc mà thôi,” Gates nói trong khi ch ỉ
vào một chi ếc máy tín h để bàn ch ạ y trên hệ đi ều hành Windows mà ông ta đã sơn màu đ ỏ vớ i vẻ
châm biếm. “Chúng ta s ẽ ch ẳng mất bao lâu để bắt kị p nó thôi, tôi nghĩ v ậ y.” Jobs n ổi cơn tam
bành, ông b ảo vớ i m ột phóng viên r ằng Gates, ngư ờ i mà ông đã từng công khai chỉ trích vì hoàn
toàn không có chút gu th ẩm m ỹ nào, tuyệt đối không h ề hay biết đi ều gì đã khiến iMac lôi cuốn
hơn rất nhi ều so vớ i các máy tính khác. “Đi ều mà các đối th ủ của chúng tôi còn b ỏ sót, ấ y chính là
họ nghĩ rằng đây ch ỉ là chuy ện th ờ i trang phù phi ếm, và h ọ n ghĩ r ằng nó chỉ là th ứ m ẽ ngoài màu
mè,” ông nói. “Họ bảo là, ch ỉ cần ph ết tí màu mè lên cái máy tính x ấu xí vứt đi này, thế là chúng ta
s ẽ có m ột cái y hệt th ế thôi mà.”
iMac b ắt đầu đư ợ c bán ra vào th áng Tám năm 1998 v ớ i giá 1.299 USD. Nó tiêu thụ đượ c
278 nghìn máy trong vòng sáu tu ần đầu tiên, và tính đến cu ối năm là 800 nghìn máy, đưa iMac tr ở
thành mẫu máy tính tiêu th ụ nhanh nh ất trong lị ch s ử hãng Apple. Đ áng chú ý nhất, 32% lư ợ ng tiêu
th ụ đến từ những ngư ờ i l ần đầu tiên mua máy tính, còn 12% khách hàng khác thì đã sử dụng các
máy tính củ a Windows.
Ive nhanh chóng đưa ra bốn loại s ắc màu trái cây m ớ i, để bổ sung vào màu xanh lam bondi
cho các máy iMac. Đưa ra tớ i năm loại s ắc màu cho cùng một m ẫu máy tính hẳn nhiên s ẽ gây ra
những thách thức ghê g ớ m về s ản xu ất, ki ểm kê và phân phối, ở hầu hết các công ty, thậm chí k ể cả
hãng Apple xưa cũ, sẽ phải có các dự án nghiên cứ u và các cuộc họp để xem xét chi phí và l ợ i
nhuận. Nhưng khi Jobs nhìn vào các sắc màu mớ i m ẻ này, ông hoàn toàn bị mê hoặc và tri ệu tập
các giám đốc khác đến xư ở ng thiết kế. “Chúng ta sẽ s ản xu ất t ất c ả các loại màu!” Ông h ớ n hở nói
vớ i họ. Khi h ọ rờ i đi, Ive nhìn vào nhóm của mình đ ầ y kinh ng ạc.
“ở hầu hết các nơi, m ột quyết đị nh như v ậ y sẽ phả i m ất hàng th áng tr ờ i,” Ive nh ớ l ại.
“Steve ch ỉ đưa ra trong vòng n ử a tiếng đồng h ồ.”
Có một c ải tiến quan trọng khác mà Jobs muốn có ở iMac: lo ại bỏ chiếc khay CD khô khan
kia. “Tôi trông th ấ y m ột ổ đĩa có khe gài trên một dàn chơi nhạ c cao c ấp củ a Sony,” ông nói, “nên
tôi đ ến các nơi sản xu ất ổ đĩa và yêu c ầu họ ch ế ra m ột ổ đĩa có khe gài để chúng tôi đưa vào phiên
bản iMac mà Apple th ự c hi ện chín tháng sau đó.” Rubinstein c ố gắng tranh luận vớ i Jobs về thay
đổi này. ông d ự đoán rằng các ổ đĩa mớ i s ắp xu ất hiện sẽ có chức năng ghi các tệp âm nhạc vào đĩa
CD chứ không ch ỉ thuần ch ức năng chơi nh ạc, và chúng sẽ ra th ị trườ ng ở d ạ ng khay trướ c khi xuất
hi ện vớ i phiên b ản khe c ắm. “Nếu anh chọn khe c ắm, anh sẽ luôn luôn b ị t ụt hậu về công ngh ệ,”
Rubinstein phản bác.
“Tôi không quan tâm, đ ấy là th ứ tôi mu ốn,” Jobs đ ộp lại. Hai ngườ i dùng bữa trưa t ại m ột
nhà hàng sushi ở San Francisco và Jobs n ằng n ặc đòi b ọn họ phải tiếp tục trò chuyện lúc đi d ạo.
“Tôi muốn anh chế ra cái ổ đĩa d ạng k he c ắm cho tôi như một đề nghị cá nhân,” Jobs nói.
Rubinstein đồng ý, h ẳn nhiên là th ế, nhưng cuối cùng ông đã đúng. Panasonic đưa ra thị trườ ng ổ
đĩa CD có khả năng sao chép và ghi t ệp âm nhạc, và nó tương thích trướ c nh ất vớ i nh ững máy tính
có các khay đ ĩ a ki ểu truyền th ống. Tác đ ộng c ủ a vi ệc này v ẫn còn lan tỏa cả vài năm sau đó: Nó
khiến cho Apple chậm trễ trong việc ph ục vụ nhữ ng khách hàng muốn sao chép và ghi nhạ c cho
riêng mình, nhưng r ồi nó lại thúc ép Apple ph ải phát huy t ối đa óc tư ở ng tượ ng và t áo b ạo hơn để
ki ếm tìm con đườ ng nhả y cóc qua các đối th ủ củ a mình khi Jobs cu ối cùng đã nh ận ra rằng ông
phải bư ớ c vào thị trườ ng âm nh ạc.
Chương 28: CEO
Sau bao năm v ẫn điên rồ như th ế
Tim Cooks và Jobs, năm 2007 Tim Cook
Khi Steve Jobs quay trở l ại Apple và ch ế ra các qu ảng cáo “Tư duy Khác bi ệt” cùng m ẫu
máy tính iMac ngay trong năm đầu tiên, nó đã khẳng đ ị nh điều mà h ầu hết m ọi ngườ i đều đã bi ết
rõ: r ằng Steve Jobs có th ể s áng t ạo và là m ột ngườ i có t ầm nhìn, ông đã thể hi ện đi ều đó trong
nhiệm kì đầu tiên ở hãng Apple. Điều ít s áng rõ hơn ở đây là liệu rằng ông có khả năng đi ều hành
m ột công ty hay không. Rõ ràng là ông chưa h ề th ể hi ện đư ợ c đi ều đó trong nhi ệm kì trướ c đó.
Jobs d ấn thân vào s ứ m ệnh c ủa mình v ớ i th ứ ch ủ nghĩa thự c dụng chú tr ọng c hi ti ết, gây
choáng váng cho nh ững ngư ờ i v ốn đã quen v ớ i kiểu huyễn tư ở ng c ủ a ông, r ằng các quy luật c ủ a vũ
tr ụ này không thể áp d ụng v ớ i ông đư ợ c, “ông ấ y trở thành một nhà quản lí, khác hẳn vớ i m ột nhà
đi ều hành hay một ngườ i nhìn xa trông r ộng đơn thuần, và đi ều đó gây ng ạ c nhiên thích thú cho
chúng tôi,” Ed W oolard chia sẻ, ông là thành viên ban giám đốc đã lôi kéo Jobs tr ở l ại Apple.
Phương châm qu ản lí c ủa Jobs là “T ập trung.” ông loại bỏ hết t ất c ả những dòng s ản ph ẩm
dư thừa và cắt gi ảm những thành phần ngoại lai trong phần m ềm đi ều hành m ớ i mà Apple đang
phát tri ển, ông từ bỏ th ứ ham muốn cu ồng-ki ểm -soát ki ểu bắt bu ộc ph ải s ả n xu ất m ọi s ản ph ẩm
trong các nhà máy c ủ a mình, thay vào đó là thuê ngoài việc ch ế t ạo mọi thứ, t ừ các bảng m ạch cho
t ớ i c ả những chiếc máy tính hoàn thi ện. Và ông thi hành kỉ lu ật kh ắt khe đ ối vớ i các đ ối tác cung
ứng c ủ a Apple. Khi ông n ắm quyền trở l ại, Apple đang ph ải gánh ch ị u lư ợ ng s ản ph ẩm tồn tương
đương giá tr ị của hai th áng trong các nhà kho, nhi ề u hơn b ất c ứ công ty công ngh ệ nào. Gi ống như
tr ứng và s ữa, máy tính cũng có tu ổi th ọ trên k ệ hàng r ất ng ắn, vậ y nên lượ ng hàng t ồn này tương
đương vớ i một đòn tr ị giá 500 triệu USD đánh vào l ợ i nhu ận. Đ ến đầu năm 1998, Jobs đã gi ảm một
nửa con s ố đó, xu ống còn m ột th áng.
Những thành công củ a Jobs có giá h ẳn hoi, bở i chính sách đ ối ngoại ki ểu m ềm m ỏng v ẫn
chưa phải là một ph ần trong v ốn tiết m ục củ a ông. Khi ông quy ết đị nh r ằng một bộ phận của hãng
chuy ể n phát nhanh Airbone Express không giao nh ận các linh ki ện máy tính đ ủ nhanh, ông l ập t ức
ra lệnh cho qu ản lí c ủa Apple chấm dứt hợ p đồng. Khi v ị quản lí này phản bác r ằng làm như vậ y sẽ
dẫn tớ i ki ện tụng, Jobs đáp lại, “C ứ thông báo v ớ i họ là n ếu lằng nhằng, h ọ s ẽ không đờ i nào ki ếm
đượ c m ột c ắc nào t ừ cái công ty này đâu, không đ ờ i nào.” V ị quản lí kia cắ t hợ p đồng, ròi thì có
ki ện t ụng th ật, và ph ải mất một năm đ ể dàn xếp đâu đó. “Các quy ền ch ọn cổ phiếu của tôi sẽ tr ị giá
đến 10 tri ệu USD nếu tôi v ẫn gi ữ hợ p đồng,” vị quản lí kia k ể, “nhưng tôi bi ết là tôi không th ể
khăng khăng ý mình đượ c - và ông ta có th ể đuổi c ổ tôi đi ngay ấ y ch ứ.” Nhà phân phối m ớ i c ủa
Apple đư ợ c yêu c ầu cắt gi ảm lư ợ ng tr ữ kho xu ống 75% và họ đã làm đư ợ c. “Dư ớ i trư ớ ng Steve
Jobs, s ẽ không có m ột m ảy may dung th ứ nào cho việc th ực thi kém hi ệu qu ả,” CEO c ủa hãng này
nói. Đến m ột th ờ i đi ểm, khi tập đoàn công ngh ệ VLSI g ặp khó khăn trong vi ệc giao đủ lư ợ ng chip
đúng thờ i hạn, Jobs đùng đùng lao vào một cu ộc họp và bắt đầu gào thét r ằ ng h ọ “chỉ là nh ững
th ằng khốn bất l ực.” Công ty này cuối cùng cũng giao các lô chip cho hãng Apple đúng hạn, và các
giám đ ốc của họ còn ch ế ra riêng những chiếc áo khoác phô trương ở sau lưng dòng ch ữ “Đội
FDA”.
Sau ba th áng làm vi ệc dư ớ i trư ớ ng Jobs, giám đốc đi ều hành đương nhiệm của Apple
không thể ch ị u nổi áp l ực, và ông này t ừ ch ứ c. Trong su ốt gần một năm trờ i Jobs t ự mình gánh vác
vị trí đi ều hành, vì tất c ả các ứng c ử viên tri ển vọng mà ông phỏng v ấn đều “có v ẻ là m ẫu s ản xu ất
theo ki ểu cũ”, ông k ể l ại. ông mu ốn ai đó có th ể xây dựng những nhà máy và dây chuy ề n cung ứng
th ức th ờ i, như nh ững gì Michael Dell đã làm. R ồi, vào năm 1998, Steve Jobs g ặp Tim Cook, một
chuyên gia cung ứng và chu ỗi cung ở Hãng Máy tính Compaq, m ột ngườ i đàn ông ba -mươi-bả y
tu ổi vớ i phong thái nho nhã. Tim về sau không chỉ đảm nhận trọng trách giám đốc đi ều hành mà
còn trở thành một thành viên h ậu trư ờ ng không th ể thiếu trong vi ệc vận hành cả hãng Apple. Như
Jobs k ể l ại thì:
Tim Cook xuất thân t ừ ngành cung ứng, chính xác là chuyên ngành chúng tôi đang c ần. Tôi
nhận ra rằng anh ấ y và tôi nhìn nhận mọi thứ theo cách gi ống h ệt nhau. Tôi đã vi ếng thăm r ất nhi ều
nhà máy thức th ờ i ở Nhật Bản, và tôi đã xây d ựng một nhà máy như th ế cho Mac và ở NeXT. Tôi
bi ết rõ th ứ tôi mu ốn, và tôi g ặp Tim, và anh ấ y cũng muốn thứ gi ống h ệt như thế. Nên chúng tôi b ắt
đầu làm việc vớ i nhau, và chẳng mất bao lâu tôi tin tưở ng chắc ch ắn rằng anh ấ y bi ết chính xác
phải làm gì. Anh ấ y có vi ễn ki ến gi ống h ệt tôi và chúng tôi c ó th ể đối tho ại vớ i nhau ở t ầm chiến
lư ợ c cao, và lẽ ra tôi đã bỏ quên r ất nhi ều th ứ nếu Tim không đ ến và gõ nhẹ vào tôi nhắc nh ở .
Cook, con trai của một công nhân đóng tàu, sinh ra và l ớ n lên ở Robertsdale, Alabama, một
th ị t ứ nhỏ nằm giữa Mobile và Pensacola, cách Gulf Coast ch ừng n ửa giờ xe. Tim theo h ọc chuyên
ngành kĩ sư công nghi ệp tại Auburn, có đư ợ c t ấm bằng kinh doanh ở trườ ng Duke và trong suốt
mườ i hai năm sau đó, Tim làm vi ệc cho hãng IBM ở Trung tâm Nghiên cứu vùng Tam giác B ắ c
Carolin. Vào thờ i đi ểm Jobs phỏng v ấn, Tim vừa m ớ i nh ận vi ệc ở Compaq. Từ trướ c t ớ i nay, Tim
luôn là m ột kĩ sư rất logic, và Compaq khi đó dư ờ ng như là m ột l ựa ch ọn sự nghi ệp hợ p lí hơn,
nhưng Tim đã bị đánh b ẫ y bở i s ức cu ốn hút toát ra từ Steve. “Chỉ năm phút trong cuộ c phỏng v ấn
đầu tiên vớ i Steve, tôi đã muốn qu ẳng đi mọi s ự phòng bị cùng logic và gia nhập Apple ngay l ập
t ức,” v ề sau Tim kể l ại. “Trực giác nói v ớ i tôi rằng gia nh ập Apple s ẽ là cơ h ội có -m ột -không-
hai-trong-đờ i để đượ c làm việc vớ i m ột thiên tài s áng t ạo.” Và Tim đã làm th ế th ật. “Kĩ sư đư ợ c
dạ y ph ải đưa ra các quyết đị nh d ựa trên phân tích, nhưng có nh ững lúc dựa vào dũng khí cùng tr ự c
giác m ớ i là thi ết thân nh ấ t.”
Tại Apple, vai trò c ủa Tim trở thành “hi ện thực hóa tr ực giác c ủa Jobs”, chức ph ận mà Tim
th ực hi ện vớ i thái đ ộ cẩn trọng l ặng l ẽ. Không có ý đ ị nh k ết hôn, Tim dành toàn tâm toàn l ực vào
công vi ệc. H ầu như hằng ngày ông đ ều th ức dậ y lúc 4h30 s áng, gửi email, r ồi dành m ột gi ờ đồng
hồ t ập th ể dục, và có mặt ở bàn làm việ c ch ỉ sau 6h m ột chút, ôn g xếp lị ch t ối Ch ủ nhật hằng tuần
cho các cuộc hội th ảo đi ệ n thoại để chuẩn bị cho tu ần m ớ i s ắp tớ i. Trong một công ty đư ợ c lãnh
đạo bở i m ột CEO có xu hướ ng cáu gi ận th ất thư ờ ng và luôn s ẵn sàng rủ a xả, Cook ki ểm soát các
tình hu ống v ớ i l ối cư xử bình tĩnh , giọng nói vớ i trọng âm Alabama êm dị u và nh ững cái nhìn l ặng
l ẽ. “M ặc dù có th ể đùa giỡ n thật, nhưng nét m ặt thư ờ ng tr ự c của Cook là cau có, và khi ếu hài hướ c
của anh ta thật là khiêm t ốn,” Adam Lashinsky viế t trên t ờ Fortune. “Trong các buổi h ọp, Cook n ổi
ti ếng v ớ i nh ững quãng ng ừng lờ i r ất lâu và khó ch ị u, khi t ất c ả những gì anh nghe th ấ y là âm thanh
lo ạt xo ạt bóc l ớ p gi ấ y bọ c nh ững thanh kẹo tăng l ực mà anh ta hay ăn thôi.”
Trong một cu ộc họp khoả ng đ ầu nhi ệm kì của mình, Cook đư ợ c thông báo là Apple có v ấn
đề vớ i m ột trong nh ững nhà cung c ấp Trung Qu ố c. “Chuy ện này t ệ quá,” ông th ốt lên. “Ai đó ở
Trung Qu ốc ph ải lèo lái v ụ này.” Ba mươi phút sau ông nhìn vào m ột giám đốc thừa hành có m ặt ở
bàn và lạnh l ẽo hỏi, “Sao anh còn ở đây?” Vị giám đ ốc này đ ứng dậ y, lái xe thẳng t ớ i phi trườ ng
San Francisco, mua vé bay tớ i Trung Qu ốc. Anh này sau đó trở thành một trong nh ững phó tư ớ ng
thân c ận nh ất c ủa Cook.
Cook giảm bớ t s ố lư ợ ng nhà cung c ấp trọng y ếu của Apple t ừ m ột trăm xu ống còn hai
mươi tư, ép buộc họ phải đưa ra những th ỏa thu ận có lợ i hơn nhằm giữ đượ c hợ p đồng, thuyết ph ụ c
nhiều đối tác d ờ i đến bên c ạnh các nhà máy c ủa Apple và đóng cử a mườ i trong số mườ i chín nhà
kho của công ty. Nhờ gi ả m thiểu số đị a đi ểm mà hàng tòn kho có th ể ch ất đống l ại, Cook cũn g
gi ảm thiểu đư ợ c lư ợ ng tr ữ kho. Jobs đã c ắt gi ảm lư ợ ng tr ữ kho từ tương đương hai th áng xuống
còn m ột th áng hồi đầu năm 1998. Đ ến th áng 9 năm đó, Cook đã gi ảm con số đó xuống còn sáu
ngày. Đến th áng 9 năm tiếp đó, nó đã giảm xuống thành một con s ố ấn tư ợ ng: giá trị hàng tồn
tương đương hai ngày. Thêm vào đó, Cook còn c ắ t gi ảm quy trình sản xu ất m ột chi ếc máy tính
Apple t ừ bốn tháng xuống còn hai tháng. Tất c ả những hành đ ộng này không chỉ ti ết kiệm tiền bạc,
nó còn cho phép m ỗi chi ếc máy tính có đư ợ c nh ữ ng thành ph ần tân ti ến nh ất s ẵn có.
Áo thun cao c ổ và nhóm công tác
Trong một chuy ến đi sang Nhật Bản hòi đ ầu th ập niên 1980, Jobs đã h ỏi Akio Morita, ch ủ
t ị ch c ủa hãng Sony, r ằng tại sao t ất c ả các nhà máy c ủa t ập đoàn đều mặc đồ ng phục. “Ông ấ y t ỏ ra
rất ngượ ng và b ảo vớ i tôi rằng sau chiến tranh, không ai có quần áo m ặc, và những công ty như
Sony phải cung cấp cho công nhân cái gì đó đ ể m ặc hằng ngày,” Jobs hòi tưở ng. Năm tháng qua đi,
đồng phục đã dần phát tri ển lên thành phong c ách mang tính dấu ấn của riêng h ọ, nh ất là nh ững
hãng như Sony, và nó trở thành một phương th ứ c gắn kết công nhân viên vớ i hãng. “Tôi quy ết đ ị nh
rằng tôi cũng muốn ki ểu gắn kết như thế vớ i Apple,” Jobs nh ớ l ại.
Sony, vớ i thái đ ộ trân tr ọ ng phong cách, đã đặt hàng nhà thi ết kế tr ứ danh Issey Miyake
s áng t ạo nên những b ộ đ ồng phục cho riêng mình. Đó là m ột chi ếc áo bảo hộ bằng v ải s ợ i nilon
t ổng h ợ p vớ i tay áo có thể kéo khóa cho r ờ i ra để tr ở thành một chi ếc áo vest. “Th ế nên tôi gọi cho
Issey và đ ề nghị ông ấ y thi ết kế m ột m ẫu vest cho Apple,” Jobs kể. “Tôi trở về vớ i m ấ y ki ểu m ẫ u
và b ảo m ọi ngườ i là nếu tất c ả mà mặc nh ững chiế c vest này thì tuy ệt l ắm. ôi tr ờ i, tôi b ị la ó ph ản
đối r ầm rầm. Ai nấ y đều ghét cay ghét đ ắng cái ý tưở ng này.”
Tuy vậ y, trong quá trình đó, Jobs đã tr ở thành b ằng h ữu thân thi ết vớ i Miyake và thư ờ ng
xuyên ghé thăm ông b ạn. Jobs còn bắt đầu thích ý tư ở ng s ẽ có m ột bộ đồng phục cho riêng mình,
bở i c ả tính ti ện dụng thư ờ ng nhật c ủ a nó (cơ s ở hợ p lí Jobs luôn đòi h ỏi) và năng l ực chuy ển t ải
m ột phong cách mang d ấ u ấn cá nhân. “Th ế là tôi đ ề nghị Issey chế ra cho tôi m ấ y chi ếc áo thun
cao cổ màu đen mà tôi thích, và Isey may cho tôi khoảng chừng trăm cái.” Jobs nhận th ấ y vẻ ngạc
nhiên c ủa tôi khi ông k ể chuy ệ n này, thế là ông ra dấu ch ỉ và o ch ỗ áo chất đống trong t ủ. “ĐÒ tôi
m ặc đấ y,” ông nói. “Tôi có đ ủ áo đ ể m ặ c đến hết c ả đờ i.”
Bất ch ấp bản tính chuyên quyền độc đoán của mình - không bao giờ cung kính trướ c bệ th ờ
đồng thuận - Jobs lại nỗ l ực hết s ứ c để nuôi dưỡ ng văn hóa cộng tác ở Appl e. R ất nhi ều công ty tỏ
ra tự hào vì ít họp hành. Jobs l ại có rất nhi ều: m ột phiên h ọp nhân sự cao cấ p m ỗi th ứ Hai, một
phiên h ọp chi ến lư ợ c tiếp th ị t ất c ả các chi ều th ứ Tư, và các phiên họp đánh giá s ản ph ẩm liên tu
bất t ận. Luôn d ị ứng v ớ i PowerPoint và các hình thức trình chiếu khuôn mẫu cứng nhắ c, Jobs
khăng khăng r ằng m ọi ngườ i ng ồi quanh bàn cứ vi ệc qu ẳng ra các vấn đề t ừ m ọi khía c ạnh và quan
đi ểm khác nhau từ những phòng ban chuyên môn riêng bi ệt.
Bở i Jobs tin rằng l ợ i th ế to l ớ n của Apple chính là tính tích hợ p của toàn bộ công c ụ - t ừ
thiết kế đến ph ần cứng, phần m ềm và nội dung - nên ông mu ốn tất c ả các bộ phận trong công ty
cũng phải làm việc song song vớ i nhau. Những c ụ m từ ông luôn dùng là “c ộng tác sâu s ắ c” và “kĩ
thuật đồng quy.” Thay vì m ột quy trình phát tri ển trong đó s ản ph ẩm sẽ đượ c chuy ển tiếp liên t ục
t ừ khâu kĩ thuật sang thi ế t kế t ớ i s ản xu ất t ớ i tiếp thị và phân phối, nh ững phòng ban riêng bi ệt này
cộng tác đồng thờ i vớ i nhau. “Phương pháp c ủ a chúng tôi là phát tri ển nh ữ ng s ản ph ẩm tích hợ p,
và đi ều đó đồng nghĩa vớ i vi ệc quy trình c ủa chúng tôi cũng ph ải mang tính tích h ợ p và cộng tác,”
Jobs nói.
Cách ti ếp cận này cũng đư ợ c áp cả vào việc tuy ển dụng những v ị trí chủ ch ốt. Jobs sẽ cho
các ứng c ử viên gặp gỡ những lãnh đ ạo hàng đầu của công ty - Cook, Tevanian, Schiller,
Rubinstein, Ive chứ không ch ỉ là ngư ờ i ph ụ trách t ừng b ộ phận riêng lẻ mà các ứng viên này muốn
làm vi ệc. “Rồi t ất c ả chúng tôi sẽ họp l ại vớ i nhau mà không có ứng c ử viên đó và nói chuy ện xem
li ệu ngườ i đó có phù hợ p không,” Jobs nói. Mục tiêu c ủa Jobs là đề cao cảnh giác “cơn bùng nổ
những k ẻ đần” d ẫn tớ i hệ quả là m ột công ty bị đ ệ m bở i nh ững ngư ờ i có năng lực th ứ cấp:
Vớ i đa ph ần các thứ trên cu ộc đờ i này, mức chênh l ệch gi ữa t ốt nh ất và trung bình chỉ là
30% hay kh o ảng v ậ y. Chuyến bay t ốt nh ất, bữa ăn tốt nh ất, nó có th ể hơn 30% so vớ i chuy ế n bay,
bữa ăn bình thườ ng c ủa anh. Cái mà tôi nhìn th ấ y ở Woz chính là một ngườ i c ừ hơn 50 lần so vớ i
m ột kĩ sư bình thườ ng. Anh ta có thể t ổ ch ứ c nh ững cuộ c họp ngay trong đ ầ u m ình. Đ ội ch ế t ạo
Mac chính là một nỗ l ực nh ằm xây dựng một nhóm c ộng tác toàn diện như thế, toàn các tuy ển th ủ
hạng A. Mọi ngườ i đều bảo là họ s ẽ không th ể hòa hợ p vớ i nhau, rằng h ọ ghét ph ải làm việc cùng
nhau. Nhưng tôi nh ận ra rằng các tuyển thủ hạng A ch ỉ thích làm vi ệ c vớ i các tuy ển thủ hạng A, h ọ
ch ỉ không thích làm vi ệ c vớ i tuy ển th ủ hạng c thôi. T ại Pixar, đó là một công ty ch ỉ gồm toàn các
tuyển th ủ hạng A. Khi tôi quay trở l ại Apple, đó chính là đi ều tôi quy ết đị nh phải gắng làm cho
bằng đượ c. Anh cần ph ải có m ột quy trình tuy ể n dụng c ộng tác. Khi chúng tôi tuy ển ai đó vào, kể
cả là h ọ có làm vi ệ c trong m ảng ti ếp thị đi chăng nữa, tôi cũng s ẽ s ắp xếp để họ nói chuyệ n vớ i các
chuyên viên thiết kế và các kĩ sư. Hình mẫu của tôi là J. Robert Oppenheim er. Tôi có đ ọc về ki ểu
ngư ờ i mà ông ki ếm tìm cho dự án ch ế t ạo bom nguyên tử. Tôi thì chẳng th ể nào bén gót nổi ông ấ y,
nhưng đó là th ứ mà tôi khao khát làm đượ c.
Quy trình này có th ể r ất đáng s ợ , nhưng Jobs r ất có con mắt tinh đ ờ i nh ận ra nhân tài. Khi
cô ng ty tìm ki ếm chuyên viên thiết k ế giao di ện đồ họa cho h ệ đi ều hành m ớ i c ủa Apple, Jobs nh ận
đượ c email từ m ột anh chàng tr ẻ tu ổi và m ờ i c ậu đến. ứng viên này quá hồ i hộp, và buổi gặp gỡ
không suôn sẻ cho l ắm. Cuối ngày hôm đó, Jobs tình c ờ đụng phải c ậu, lúc ấ y đang chán chư ờ ng
ngồi bên ngoài hành lang. Anh chàng hỏi liệu rằng c ậu ta có th ể trưng ra cho Jobs th ấ y m ột trong
những ý tư ở ng c ủa mình không, th ế là Jobs nhìn qua vai c ậu và trông thấ y m ột bản ch ạ y th ử nho
nhỏ, s ử dụng Adobe Director, m ột phương th ức để s ắp xếp nhiều bi ểu tư ợ ng hơn vào thanh ngang
cu ối màn hình. Khi anh chàng di con trỏ qua các biểu tư ợ ng chen chúc nhau ch ỗ thanh ngang, con
tr ỏ mô phỏng m ột chi ếc kính phóng đ ại và làm cho bong bóng của m ỗi bi ểu tư ợ ng bung ra to hơn.
“Tôi th ốt lên , ‘ôi Chúa ơi,” và tuy ển cậu ấ y ngay lập tức,” Jobs nhớ l ại. Ch ức năng này trở thành
m ột ph ần dễ m ến của Mac osx, và chuyên viên thiết kế này sau đó tiếp tục sáng t ạo nên những
ch ức năng như là cu ốn trang quán tính cho màn hình đa cảm ứng (một ch ức năng thú v ị khiến cho
màn hình vẫn tiếp tục trư ợ t thêm chút xíu sau khi b ạn đã dừng cuốn trang.)
Những kinh nghiệm của Jobs tại NeXT giúp ông chín ch ắn hơn nhi ều, nhưng ch ẳng khi ến
cho ông vui tính thêm m ấ y. ông vẫn không có bằ ng lái chi ếc Mercedes và v ẫn cứ đậu xe vào lô
dành cho ngườ i tàn tật, đôi lúc còn bành trư ớ ng ra t ận hai lô. Việc này đã trở thành trò châm bi ếm
cho mọi ngườ i. Nhân viên Apple ch ế ra các bảng hiệu, trên đó có đ ề “Đậu Ch ỗ Khác” và ai đó còn
vẽ lê n lô của ngườ i tàn tậ t bi ểu tư ợ ng xe đ ẩ y vớ i logo Mercedes.
Ai ai cũng đượ c cho phép, th ậm chí là khuyế n khích đương đ ầu vớ i Jobs và đôi khi ông
cũng tỏ ý tôn tr ọng h ọ vì đi ều đó. Nhưng b ạn ph ải chu ẩn bị s ẵn sàng cho việ c ông ấ y t ấn công bạn,
th ậm chí là n hai đ ầu bạn luôn, trong lúc ông x ử lí các ý tư ở ng c ủ a bạn. “Ngay lúc ấ y thì đừng hòng
bạn th ắng cuộc tranh lu ậ n vớ i Jobs, nhưng đôi khi, đ ến chung c ụ c, thì b ạn lại giành ph ần th ắng,”
James Vincent, một chuyên viên qu ảng cáo sáng t ạo trẻ tu ổi làm việc vớ i Lee Clow kể l ại. “B ạn
trình lên ý tưở ng gì đó và ông ta tuyên bố, ‘Đ ấ y là một ý ngu xu ẩn,’ ròi sau đ ấ y ông ta quay trở l ại
và b ảo, ‘Chúng ta s ẽ phải làm thế này này.’ Và b ạ n muốn th ốt lên là, ‘Đấ y là cái tôi đã trình cho
ông hai tu ần trư ớ c và ông bảo là ý t ưở ng ngu xuẩ n còn gì.’ Nhưng b ạn không thể làm th ế đượ c.
Thay vào đó, b ạn sẽ nói, Th ật là một ý tưở ng tuy ệt vờ i, chúng ta làm v ậ y đi.”
M ọi ngườ i cũng ph ải dần quen vớ i nh ững lờ i qu ả quyết th ỉ nh tho ảng cũng sai lầm và phi lí
trí c ủa Jobs. Đ ối v ới c ả gia đìn h l ẫn đồng nghi ệp, ông ta có xu hướ ng tuyên bố, ch ắc như đinh đóng
cột - những thông tin khoa h ọc và lị ch s ử ch ẳng mấ y tính xác th ực. “Có nh ững thứ ông ấ y hoàn
toàn mù t ị t, mà chỉ vì phong cách điên rồ cùng thói quyết đoán tuyệt đối, ông ấ y có th ể thuy ết phục
ngư ờ i ta r ằng ông ấ y bi ết rõ mình đang nói về cái gì,” Ive kể. Anh miêu tả nét tính cách này của
Jobs là “g ần gũi đ ến lạ kì”. Th ế nhưng vớ i con m ắ t coi tr ọng chi tiết, Jobs đôi khi lại ch ộp trúng
vào nh ững thứ nhỏ li ti mà ngư ờ i khác bỏ qua. Lee Clow n hớ l ại l ần trưng ra cho Jobs m ột đo ạn
trích quảng cáo, có m ột chút ch ỉ nh s ửa nho nhỏ mà Jobs đã yêu cầu, th ế là, Clow bị công kích b ằng
m ột tràng rủa xả về chuy ệ n đo ạn qu ảng cáo đã bị phá ho ại hoàn toàn như thế nào. “ông ta phát hi ệ n
ra là tụi tôi đã b ỏ đi hai khung hình th ừa, m ột th ứ thoáng qua đến m ức gần như không thể nào để ý
th ấ y,” Clow kể. “Nhưng ông ta thì muốn đảm bảo ch ắc ch ắn rằng một hình ảnh phải xu ất hi ện vào
đúng kho ảnh khắc của m ột nh ị p nh ạc nào đó, và ông ta hoàn toàn đúng.”
T ừ iCEO đến CEO
Ed W oolard, ngư ờ i ch ỉ dẫn cho Jobs trong ban quản trị Apple, đã phải thúc bách Jobs su ốt
hơn hai năm tr ờ i để t ừ bỏ cụm từ “lâm th ờ i” đ ằng trướ c ch ứ c danh CEO c ủ a ông. Không ch ỉ t ừ
ch ối vi ệc cam kết bất c ứ th ứ gì, Jobs còn làm m ọi ngườ i băn khoăn vì ch ỉ nhận lương 1 USD mỗi
năm và không lấ y bất c ứ quyền ch ọn cổ phiếu nào. “Tôi ki ếm đượ c 50 xu vì có mặt ở đây,” ông
vẫn thích đùa như v ậ y, “còn 50 xu kia thì còn tùy vào hiệu qu ả làm vi ệc.” Kể t ừ khi Jobs quay lại
hãng hòi tháng Bả y năm 1997, c ổ phiếu Apple đã t ăng t ừ m ức dư ớ i 84 USD lên trên 102 USD vào
th ờ i đi ểm đỉ nh cao của bong bóng Internet hồi đầ u năm 2000. W oolard đã van nài Jobs chí ít hãy
nhận lấ y khoản nhượ ng c ổ phiếu khiêm t ốn nào đó t ừ năm 1997, nhưng Jobs đã t ừ ch ối và đáp
rằng, “Tôi không mu ốn nh ững ngư ờ i làm việc cùng tôi ở Apple nghĩ rằng tôi quay l ại ch ỉ để ki ế m
ti ền.” Nếu như ông nhận khoản nhượ ng khiêm tốn ấ y, nó s ẽ tr ị giá t ớ i 400 triệu USD. Thay vào đó,
ông ch ỉ ki ếm đượ c khoản 2,5 USD trong giai đo ạn đó.
Lí do chủ yế u khiến Jobs khăng khăng gi ữ l ấ y ch ứ c danh lâm th ời củ a mình chính là c ảm
giác th ấp thỏm về tương lai của Apple. Nhưng vào th ờ i điểm năm 2000 tớ i g ần, rõ ràng là Apple đã
hồi ph ục, và đó là nhờ Jobs. Ông có một chuy ến đi dạo rất lâu v ớ i Laurene và bàn b ạc một việc mà
vớ i đa ph ần m ọi ngư ờ i gi ờ đây, ch ỉ là chuy ện đương nhiên phải th ế, nhưng v ớ i ông, v ẫn cứ là m ột
phen đàm phán l ớ n. N ếu ông t ừ bỏ cụm từ “lâm th ờ i”, Apple có th ể là n ền móng cho nh ững thứ
ông mườ ng tượ ng ra, bao g ồm cả khả năng phát tri ể n Apple thành nh ững s ản ph ẩm vượ t n goài lĩnh
vực máy tính. Ông quyết đị nh s ẽ làm như vậ y.
W oolard run r ẩ y vì xúc đ ộng, ông đ ề xuất r ằng ban giám đ ốc đồng ý trao cho Jobs một
khoản quyề n ch ọn cổ phiếu kh ổng lò. “Đ ể tôi nói th ẳng v ớ i anh nhé,” Jobs đáp. “Tôi thích có m ột
chiếc chuyên cơ hơn. Chúng tôi vừa có đứa con thứ ba. Tôi không thích nh ững chuyến bay thương
m ại nữa. Tôi mu ốn đưa c ả nhà đến Hawaii. Lúc nào công cẤn sang phương Đông, tôi mu ốn có
đượ c nh ững phi công tôi đã quen biết.” Jobs trư ớ c nay chưa bao gi ờ là ki ểu ngườ i có th ể t ỏ ra n hũn
nhặn và kiên nh ẫn trên một chi ếc máy bay hay m ộ t phi trườ ng thương mại, kể cả trướ c khi ủ y ban
An toàn Vận tải ra đờ i. Larry Ellison, thành viên ban giám đ ốc có chiếc phi cơ mà thi tho ảng Jobs
vẫn trưng d ụng (Apple đã chi tr ả Ellison 102 nghìn đô-la tr ong năm 1999 cho việc Jobs sử dụng
chiếc máy bay này) thì không g ợ n chút e s ợ nào. “Vớ i nh ững gì Steve Jobs đã làm, chúng ta ph ải
cấp cho anh ta đến năm cái máy bay ấ y ch ứ !” Ellison lập luận, về sau ông nói, “Đó là món quà c ảm
ơn hoàn h ảo cho Steve, anh ấ y đã c ứu Apple mà chưa h ề nhận chút đền đáp nào.”
Thế là W oolard vui sướ ng hiện th ực hóa ư ớ c nguy ện của Jobs bằng một chi ếc Gulfstream
V và còn đề nghị Jobs nh ận 14 tri ệu quyền ch ọn cổ phiếu. Jobs đưa ra ph ản ứ ng vượ t ngoài d ự tính,
ông muốn nhiều hơn: 20 tri ệu quyề n ch ọn. W oolard th ất th ủ và muộn phiền. Ban giám đ ốc vớ i
quyền hạn do các cổ đông ủ y thác, ch ỉ đượ c đề nghị 14 triệu quyền ch ọn. “Anh đã bảo là ch ẳng
muốn cái gì, và t ụi tôi đã c ấp cho anh h ẳn m ột chi ế c máy bay, anh còn muốn gì nữa,” W oolard cự
nự.
“Trư ớ c nay tôi chưa từng đòi quyền ch ọn bao giờ ,” Jobs đáp, “nhưng anh đã đ ề xuất r ằng
nó có thể lên t ớ i 5% t ổng giá trị công ty tính theo quyền ch ọn, và đ ấ y là thứ tôi mu ốn bây giờ .” Đó
là m ột tranh cãi t ủn m ủn vào thờ i đi ểm đáng l ẽ ra phải là giai đoạn vui v ẻ tưng b ừng. Cu ối cùng,
m ột gi ải pháp ph ứ c t ạp đã đư ợ c đưa ra, nhượ ng cho Steve Jobs 10 tri ệu cổ phần vào tháng Giêng
năm 2000 đ ị nh thờ i giá lúc b ấ y gi ờ nhưng đư ợ c tính thờ i đi ểm nhượ ng quy ền từ năm 1997, thêm
m ột khoản nhượ ng sau đó v ào năm 2001. Nhưng mọi vi ệc càng khiến sự tình thêm tr ầm trọng khi
cổ phiếu rớ t giá cùng v ớ i cơn v ỡ bung c ủa bong bóng Internet. Jobs chưa bao gi ờ th ực thi quy ền
ch ọn, và đ ến cu ối năm 2001, ông yêu c ầu công ty thay th ế b ằng m ột hợ p đồng như ợ ng quy ền ch ọn
m ớ i vớ i giá th ực hi ện th ấp hơn. Cu ộc giành gi ật quyền ch ọn về sau vẫn còn quay trở l ại ám ảnh c ả
công ty.
Cho dù không hề ki ếm đượ c l ợ i l ộc nào t ừ các quyề n ch ọn, chí ít ông cũng đượ c t ận hư ở ng
chiếc phi cơ. Không có gì ng ạ c nhiên, Steve Jobs hao tâm t ổn sức biết bao nhiêu quanh chuyệ n nội
th ất phi cơ đư ợ c thi ết kế ra sao. Vi ệ c này tiêu tốn của ông hơn m ột năm trờ i, ông s ử dụng phi cơ
của Ellison làm xu ất phát điểm và tự thuê thiết kế cho riêng mình. Ch ẳng mấ y ch ốc Jobs đã làm
chuyên viên thiết kế này phát điên. L ấ y ví dụ, máy bay c ủa Ellison có m ột c ửa ra vào giữa các
khoang v ớ i nút m ở và m ột nút đóng. Jobs khăng khăng r ằng máy bay của ông chỉ có m ột nút duy
nhất có th ể bật t ắt thay đổi ch ức năng, ông không thích nh ững chiếc nút b ấ m bằng thép không rỉ
đánh bóng, th ế là ông đòi phải thay thế chúng bằng những nút kim loại chu ốt nh ẵn. Nhưng cu ối
cùng, Jobs cũng có đư ợ c chi ếc phi cơ mong muốn, và ông cực kì mê thích nó. “Tôi so s ánh phi cơ
của anh ta và c ủ a tôi, và rõ ràng, tất c ả những chi tiết thay đ ổi đều tốt hơn,” Ellison nh ận xét.
Đến hội th ảo Macworld th áng Giêng năm 2000 ở San Francisco, Jobs trưng ra OSX - hệ
đi ều hành m ớ i c ủa Macintosh, s ử dụng ít nhiều ph ần m ềm mà Apple đã mua lại c ủa NeXT h ồi ba
năm về trướ c. Nó thật thích hợ p, và cũng không hoàn toàn ch ỉ là ng ẫu nhiên, khi Jobs cũng đ ồng ý
t ự sát nhập bản thân mình vào hãng Apple vào cùng thờ i đi ểm NeXT OS tích hợ p vào s ản ph ẩm
của Apple. Avie Tevanian đã lấ y ph ần lõi Mach liên quan đến UNIX c ủa hệ đi ều hành NeXT và
bi ến nó thành lõi của Mac OS, đư ợ c bi ết t ớ i vớ i tên g ọi Darwin. Nó cung cấ p bộ nhớ đượ c bảo vệ ,
m ạng lướ i nâng cấp và ch ức năng đa nhiệm ưu tiên. Nó chính xác là nh ững gì Macintosh cần đến,
và nó s ẽ tr ở thành n ền t ảng c ủa hệ đi ều hành Mac từ đó tr ở về sau. M ột s ố l ờ i ch ỉ trích, trong đó có
cả củ a Bill Gates, cho rằ ng rút cu ộc Apple không s ử dụng toàn b ộ h ệ đi ều hành NeXT.
Đi ều đó ít nhiều là sự th ậ t, vì Apple đã quyế t đị nh không nh ả y vọt vào một hệ th ống mớ i
hoàn toàn mà thay vào đó là c ải tiến hệ đi ều hành sẵn có. Phần m ềm ứng d ụ ng, đư ợ c vi ết ra bở i hệ
đi ều hành Macintosh v ốn có, nhìn chung đều tương thích ho ặ c rất dễ đồng bộ vớ i hệ đi ều hành
m ớ i, và ngư ờ i s ử dụng Mac đã c ập nh ật hệ đi ều hành m ớ i s ẽ để ý thấ y rất nhi ều ch ức năng m ớ i mẻ
ch ứ không ph ải là một giao diện m ớ i toanh.
Đương nhiên, nh ững ngư ờ i ái mộ t ại Macworld đón nh ận tin tức này r ất nồng nhi ệt , và họ
đặc bi ệt reo m ừng khi Jobs trưng ra thanh đáy màn hình và cách các bi ểu tư ợ ng đượ c phóng to lên
ch ỉ nhờ lư ớ t con tr ỏ lên chúng. Nhưng tràng pháo tay vang d ội nh ất bùng lên cho phần tuyên b ố mà
Jobs đã đ ể dành cho đo ạn kết c ủa ông “ò, và còn thêm m ột điều này n ữa”. Jobs nói về nhiệm vụ củ a
mình ở cả hai hãng Pixar và Apple, ông nói r ằng ông cảm th ấ y dễ ch ị u vì tình thế “hai chân hai
thuy ền” này phát huy hiệ u qu ả. “V ậ y nên ngày hôm nay tôi r ất vui lòng đượ c tuyên b ố rằng tôi s ẽ
lo ại bỏ t ừ ‘lâm th ờ i’ trong chức danh của mình,” ông nói vớ i nụ cư ờ i r ộng mở . Cả đám đông nhả y
lên vui m ừng, hò hét c ứ như th ể ban nh ạ c Beatles đã tái h ợ p. Jobs cắn môi, sửa l ại gọng kính và
bày t ỏ t hái đ ộ khiêm nhườ ng b ặt thi ệp. “Các b ạn làm tôi lúc này đây thấ y thậ t đ ặc biệt. Tôi đ ến ch ỗ
làm hằng ngày và sát cánh vớ i nh ững con ngườ i ki ệt xu ất nh ất hành tinh, ở cả Apple và Pixar.
Nhưng nh ững công việc này giống những môn thể thao đồng đội vậ y. Tôi xin nh ận l ờ i c ảm ơn củ a
các bạn, thay m ặt t ất c ả m ọi thành viên tại Apple.”
Chương 29: CHUỔ I CỬ A HÀNG B ÁN L Ẻ C ỦA APPLE
Các qu ầy Thiên Tài và sa th ạch Siena
C ử a hàng Apple trên Đại l ộ s ố 5, New York
Trải nghi ệm khách hàng
Jobs ghét ph ải nhườ ng quy ền ki ểm soát bất c ứ th ứ gì, nhất là khi nó có thể gây ảnh hưở ng
t ớ i trải nghi ệm khách hàng. Nhưng ông vấp ph ải m ột vấn đề. Có m ột ph ần trong c ả quy trình ông
không cách nào kh ống chế nổi: tr ải nghi ệm của vi ệ c mua một s ản ph ẩm Apple trong cửa hàng.
Thờ i hoàng kim c ủ a Ti ệ m Byte đã lui vào dĩ vãng. Việc bán hàng c ủ a ngành này đã chuyể n dị ch từ
các cửa hàng chuyên về máy tính ở t ừng đ ị a phương sang các chuỗi c ử a hàng kh ổng lò và những
siêu trung tâm thương m ạ i, nơi đa ph ần nhân viên bán hàng đ ều ch ẳng có chút kiến th ức hay đ ộng
l ực nào đ ể gi ải thích về b ản ch ất khác bi ệt trong nh ững s ản ph ẩm của Apple. “T ất c ả những gì
ngư ờ i bán hàng quan tâm chỉ là s ự quyế n rũ của 50 đô -la mà thôi,” Jobs nói. Các lo ại máy tính
khác thì cũng na ná như nhau, nhưng máy tính củ a Apple thì sở hữu nh ững chức năng tân ti ến và
giá ti ền cao hơn. Jobs không muốn một chi ế c iMac lại ph ải t ọa trên giá gi ữ a một chi ếc hiệu Dell và
m ột chi ếc hiệu Compaq trong khi m ột nhân viên bán hàng v ận đồng phục đọc làu làu đủ lo ại thông
s ố kĩ thuật c ủa t ừng chiếc m ột. “Trừ phi chúng ta tìm ra cách chuy ển tải thông đi ệp của mình đ ến
vớ i khách vi ếng thăm cử a hàng, n ếu không chúng ta gay m ất.”
Gi ữ bí m ật t ối đa, b ắt đầu từ cu ối năm 1999, Jobs b ắt đầu ph ỏng v ấn các giám đốc, nh ững
ngư ờ i có tiềm năng phát tri ển một chu ỗi c ửa hàng bán l ẻ của Apple. Một trong nh ững ứng viên này
th ể hi ện nỗi đam mê dành cho thi ết kế và c ả lòng nhi ệt tình như con tr ẻ của m ột chuyên gia bán l ẻ
bẩm sinh: Ron Johnson, phó chủ t ị ch phụ trách s ả n ph ẩm tại hệ th ống bán l ẻ Target, ngư ờ i ch ị u
trách nhi ệm giớ i thi ệu nh ững s ản ph ẩm có hình th ức khác bi ệt, ví như s ản ph ẩm ấm trà do Michael
Graves thiết kế. “Steve d ễ nói chuyện lắm,” Johnson hòi tưở ng l ại bu ổi gặp gỡ đầu tiên c ủa hai
ngư ờ i. “Đ ột nhiên có m ột gã vận chi ếc qu ần jean cũ vớ i áo thun cao c ổ đ ến, và anh ta bắt đ ầ u tíu tít
kể chuy ện vì sao anh ta lại c ần nh ững c ửa hàng tuyệ t hảo. N ếu Apple thành công, anh ta b ảo, thì
chúng tôi sẽ ghi điểm về khoản đổi m ớ i. Mà anh s ẽ không đờ i nào th ắng đượ c, tr ừ khi anh có cách
nào đó để giao ti ếp vớ i khách hàng.”
Khi Johnson quay trở l ại vào th áng Giêng năm 2000 để phỏng v ấn m ột l ần nữa, Jobs g ợ i ý
họ nên đi dạo một lát vớ i nhau. H ọ đi tới Khu Tổ hợ p Mua sắm Stanford trải r ộng v ớ i 140 c ửa hàng
lúc 8 rưỡ i s áng. Các c ửa tiệm vẫn còn chưa mở cử a, vậ y nên h ọ cứ dạo tớ i dạo lui khắp cả t ổ hợ p
hết lư ợ t này t ớ i lư ợ t khác và bàn tán xem nó đượ c t ổ ch ức ra sa o, vai trò củ a nh ững ti ệm tạp hóa c ỡ
l ớ n như thế nào so vớ i nh ững c ửa tiệm khác, và vì đâu những c ử a tiệm chuyên bi ệt m ột m ặt hàng
nào đó lại đạt đư ợ c thành công.
Đến 10h, lúc các tiệm mở cửa, họ vẫn đang dạo qua d ạo l ại và trò chuy ệ n, họ bướ c vào ti ệm
Eddie Bauer. Nó có một l ối c ửa thông ra khu tổ hợp và m ột l ối khác thông ra bãi đ ậu xe. Jobs quy ết
đị nh r ằng các cửa hàng của Apple s ẽ ch ỉ nên có m ột l ối ra vào, như v ậ y sẽ giúp vi ệ c ki ểm soát trải
nghi ệm củ a khách hàng đư ợ c dễ dàng hơn. Và cử a tiệm Eddie Bauer, như c ả hai đ ều đồng tình
nhận xét - quá dài và h ẹp. Vi ệc khách hàng nắm bắt ngay về m ặt trự c giác cách bố trí c ử a hàng từ
lúc v ừa bư ớ c chân vào là r ất quan tr ọng.
Trong khu t ổ hợ p này không có l ấ y một c ử a hàng công ngh ệ, và Johnson lí gi ải nguyên do:
Theo cách suy nghĩ thư ờ ng tình của m ọi ngườ i thì m ột khách hàng nào đó, khi đưa ra m ột quyết
đị nh mua s ắm lớ n và không thư ờ ng xuyên như là mua một chi ếc máy tính, s ẽ cam tâm tình nguyện
lái đ ến nh ững nơi kém ph ần thuận tiện nhưng có thể có đượ c giá c ả m ềm hơn. Jobs không đồng ý.
Các cửa tiệm Apple phải nằm trong các khu thương mại và ở những tuyến ph ố chính - ở những nơi
có lưu lư ợ ng ngư ờ i đi bộ đông đúc, b ất kể đắt đỏ t ớ i đâu. “Có thể chúng ta không b ắt họ lái xe
mườ i mấ y cây s ố để đ ến coi s ản ph ẩm củ a chún g ta ra sao, nhưng chúng ta hoàn toàn có th ể lôi kéo
họ bướ c mườ i thư ớ c,” ông nói. Nhất là, nh ững ngư ờ i dùng Windows sẽ phải bị đánh úp: “N ếu họ
có đi ngang qua, họ s ẽ ghé vào chỉ vì hi ếu kì, n ếu chúng ta khi ến cho c ửa hàng đủ chào m ờ i hấp
dẫn, và chỉ c ần chúng ta có cơ h ội trưng ra cho họ th ấ y nh ững gì ta có, ta sẽ th ắng.”
Johnson nói rằng quy mô c ủa m ột c ửa hàng chính là chỉ báo mức độ quan tr ọng c ủ a nhãn
hàng đó.
“Thương hi ệu Apple có l ớ n đư ợ c bằng Gap không?” ông hỏi. Jobs đáp r ằng nó l ớ n hơn
nhiều. Johnson tr ả l ờ i r ằng các cửa hàng của Apple vì thế s ẽ phải l ớ n hơn. “N ếu không thì các anh
s ẽ không đư ợ c tương x ứng đâu.” Jobs miêu tả câu cách ngôn của Mike Markkula rằng m ột công ty
t ốt ph ải “quy t ội” - nó phải chuy ể n tải nh ững giá trị và tầm quan tr ọng c ủa mình trong mọi th ứ nó
làm ra, từ đóng gói đến tiếp thị s ản ph ẩm. Johnson thích mê. Điều đó th ực sự nên đư ợ c áp dụng vào
các cửa hàng đại di ện cho công ty. “Cửa hàng sẽ tr ở thành mặt th ể hi ện giá tr ị vật ch ất c ủa m ột
thương hi ệu,” ông d ự đoán , ông nói rằng khi còn tr ẻ, ông đã bư ớ c chân vào nh ững c ửa hàng đồ s ộ
như lâu đài, đượ c ốp gỗ và tràn ngập không khí ngh ệ thu ật mà Ralph Lauren đã s áng t ạo nên trên
phố 72 và Đại l ộ Madison ở Manhattan. “Bất c ứ khi nào tôi mua một chi ếc áo phông polo, tôi đ ều
nghĩ đ ến lâu đài ấ y, m ột bi ểu hi ện vật ch ất c ủa nh ững ý tư ở ng Ralph nả y ra,” John kể. “Mickey
Drexler đã thực hiện việ c đó vớ i Gap. Anh không thể nghĩ về m ột s ản ph ẩm của Gap mà lại không
nghĩ tớ i c ửa tiệm hoành tráng củ a Gap vớ i không gian tho áng s ạch cùng nhữ ng đ ợ t sàn g ỗ, các b ức
tư ờ ng màu tr ắng và hàng hóa x ếp sắp ngăn nắp.”
Trò chuy ện xong, h ọ lái xe t ớ i Apple, ngồi trong một gian phòng h ọp và xem xét mấ y sản
phẩm của công ty. Không nhiều l ắm, không đủ để l ấp đầ y các giá bày hàng c ủa một c ửa hiệu thông
thư ờ ng, n hưng đó l ại là m ột l ợ i th ế. Ki ểu cửa hàng mà h ọ s ẽ xây dựng, họ quyết đị nh, s ẽ phải
hưở ng l ợ i t ừ vi ệc ch ỉ có s ố ít sản ph ẩm. Nó sẽ phải t ối gi ản, thoáng khí và để ch ừa th ật nhi ều
khoảng không để m ọi ngườ i thử các s ản ph ẩm. “Đa phần mọi ngườ i đ ều không biết gì v ề s ản ph ẩm
của Apple,” Johnson nói. “H ọ coi Apple như m ột ni ềm sùng kính. Còn anh lại mu ốn chuy ể n nỗi
ngư ỡ ng v ọng c ủ a họ thành cái gì đó sành đi ệu, thì việc nắm trong tay một c ửa tiệm phi thư ờ ng, nơi
ai nấ y có th ể th ử các s ản ph ẩm, sẽ giúp th ực hiện điều đó.” Chuỗi các c ử a hàng sẽ quy t ụ những nét
riêng biệt c ủa sản ph ẩm Apple: nghị ch ngợ m, dễ dùng, s áng t ạo và nằm ở phía tươi sáng của l ằn
ranh gi ữa muộn phiền và kinh hãi.
B ản m ẫu
Đến lúc Jobs trình bày ý tư ở ng c ủ a mình, ban giám đ ốc không mả y may xúc đ ộng. Tập
đoàn máy tính Gateway đã th ất bại th ảm hại sau khi m ở ra các cử a hi ệu vùng ngoại ô, và l ập lu ận
của Jobs rằng ông sẽ làm tốt hơn vì các c ửa tiệm sẽ t ọa l ạc ở những đ ị a đi ểm đắt tiền hơn - không
hề đảm bảo đi ều gì, ít nh ất là theo đánh giá chung. “Tư duy Khác biệt” và “Dành riêng cho nh ững
kẻ điên rồ,” thì r ất hay n ế u ch ỉ là nh ững câu kh ẩu hiệu qu ảng cáo, nhưng ban giám đốc l ại ch ần ch ừ
trướ c vi ệc bi ến chúng thành kim ch ỉ nam cho chi ế n lư ợ c của cả t ập đoàn. “Tôi gãi đầu gãi tai và
nghĩ rằng chuyện này thậ t là điên rồ,” Art Levinson kể l ại. ông là CEO của Genetech và m ớ i gia
nhập Apple h ồi năm 2000. “Chúng ta chỉ là công ty nhỏ, m ột tay chơi rìa ng oài. Tôi nói rằng tôi
không ch ắc công ty có th ể ủng h ộ th ứ gì đó như vây.” Ed W oolard cũng tỏ ý hoài nghi. “Gateway
đã th ử và th ất bại, trong khi Dell đang bán s ản ph ẩm trực tiếp đến tay ngư ờ i tiêu dùng, không c ần
đến cửa hàng và h ọ đã thành công,” ông lập lu ận. Jobs không mấ y tán thư ở ng thái độ bàn lùi từ ban
giám đ ốc. L ầ n cu ối cùng xả y ra tình trạng ấ y, ông đã thay th ế phần lớ n các thành viên ban giám
đốc. L ần này, vì nh ững lí do cá nhân, thêm n ữ a, đã quá m ệt vớ i trò co kéo qua l ại vớ i Jobs,
Woolard quyết đị nh s ẽ lùi bư ớ c. Nhưng trướ c khi làm v ậ y, ban giám đốc nh ất trí thông qua ho ạt
động thử nghi ệm vớ i lo ạt bốn cửa hàng bán l ẻ Apple.
Jobs có đượ c m ột ngườ i ủng h ộ trong ban giám đ ốc. Vào năm 1999, ông đã tuy ể n vào
Millard “Mickey” Drexler, hoàng t ử bán l ẻ xuất thân t ừ khu Bronx. Hồi còn ở cương vị CEO c ủa
Gap, ông này đã biến đổi m ột chu ỗi c ửa hàng ủ rũ thành bi ểu tư ợ ng c ủa văn hóa y ph ụ c thườ ng
ngày Mỹ. ông là m ột trong số ít nh ững ngư ờ i trên đ ờ i này cũng thành công và hi ểu biết ngang ngử a
Jobs xét về khía cạnh những mong muốn về thiết kế, hình ảnh và ngư ờ i tiêu dùng. Thêm vào đó,
Drexler khẳng đ ị nh quy ề n kiểm soát từ- đầu -đến- cu ối: cửa tiệm Gap ch ỉ bán s ản ph ẩm Gap, và sản
phẩm của Gap ch ỉ đượ c bán gần như đ ộc quyền trong các cửa hàng củ a Gap. “Tôi rờ i kh ỏi lĩnh v ực
kinh doanh cửa hàng bách hóa vì tôi không th ể ch ị u nổi c ảnh không đượ c ki ểm soát sản ph ẩm của
mình, t ừ ch ỗ nó đượ c sản xu ất ra sao cho tớ i đư ợ c bán ra th ế nào,” Drexler nói. “Steve đích xác là
là m ột ngườ i mong mu ốn ki ểm soát như vậ y, đó là lí d o tại sao tôi nghĩ anh ta tuy ển tôi vào.”
Drexler đưa ra cho Jobs một l ờ i khuyên: Bí m ật xây d ựng một bản m ẫu cử a hàng gần
khuôn viên Apple, trang bị nội thất hoàn ch ỉ nh và r ồi c ứ ch ờ nguyên ở đó cho đến khi nào cảm thấ y
th ực sự hài lòng v ớ i nó. V ậ y là Johnson và Jobs thuê m ột nhà kho b ỏ không ở Cupertino. Cứ m ỗi
ngày th ứ Ba trong vòng sáu tháng, họ l ại tri ệu tập các phiên họp th ảo lu ận đưa ý tưở ng suốt bu ổi
s áng ở đó, trau chu ốt l ại tri ết lí bán l ẻ của họ trong khi d ạo bư ớ c trong không gian cửa hàng. Đó là
m ột c ửa hàng mô phỏng xưở ng thiết kế của Ive, một ch ốn trú ẩn nơi Jobs, vớ i l ối tiếp cận dựa trên
th ị giác của mình, có thể đưa ra nh ững ý tư ở ng cách tân nh ờ ch ạm vào và ng ắm nhìn các phương
án thiết kế trong quá trình chúng hoàn thiện dần dần. “Tôi yêu cảm giác đư ợ c m ột mình thư thái
dạo bư ớ c ở đó, để ki ểm tra xem nó ra sao,” Jobs hòi tưở ng.
Đôi khi ông cũng bắt Drexler, Larry Ellison và nh ữ ng ngư ờ i b ạn chí thiết khác t ớ i đó ng ắ m
nghía. “Suốt bao nhiêu dị p cu ối tu ần, lúc không b ắ t chúng tôi ph ải xem nh ữ ng c ảnh mớ i c ủ a phim
Toy story thì ông ấ y l ại ép ph ải đ ến ch ỗ nhà kho và ng ắm nhìn mô hình c ửa hiệu,” Ellison k ể. “ông
ấ y bị ám ảnh b ở i m ọi chi ti ết th ẩm m ỹ và tr ải nghi ệ m dị ch v ụ khách hàng. M ọi chuy ệ n cứ th ế, đ ến
m ức mà tôi phải kêu lên, ‘Steve, tôi s ẽ không đờ i nào đ ến thăm anh nếu anh b ắt chúng tôi đ ến ch ỗ
cửa hàng m ột l ần nữ a.”
Oracle, công ty c ủa Ellison khi đó đang phát tri ển ph ần m ềm cho hệ th ống thu ngân cầm
tay, để tránh phải s ử dụng quầ y tính tiền. M ột l ần viếng thăm, Jobs đã thúc Ellison phải tìm ra cách
nào đấ y để hợ p lí hóa quy trình nhờ lo ại bỏ bướ c nào đó không c ần thi ết, ví như đưa thẻ tín d ụng
hay in biên lai. “Nếu nhìn vào c ửa hàng và sản ph ẩ m, anh sẽ th ấ y ngay nỗi ám ảnh c ủa Steve v ớ i v ẻ
đẹp ở dạng hình giản dị - th ứ ch ủ nghĩa t ối gi ản duy m ỹ và tuyệt vờ i c ủ a Bauhaus, vươn cả m ột
quãng dài, ra t ớ i t ận quy trình thu ngân ở cửa hàng,” Ellison nói. “Nó đ ồng nghĩa vớ i s ố bướ c tuy ệt
đối t ối thi ểu. Steve đã đưa cho chúng tôi công thứ c chính xác, sát sao rằng anh ta muốn hệ th ống
thu ngân ph ải hoạt động thế nào.”
Khi Drexler đến thăm nguyên m ẫu cử a hàng, ông đưa ra vài lờ i phê bình: “Tôi nghĩ là
không gian đã bị băm vụ n và chưa đ ủ tho áng s ạch. Có quá nhi ều chi ti ết ki ến trúc và màu sắc rối
rắm.” ông nhấn m ạnh r ằng một khách hàng ph ải có th ể bướ c vào không gian bán hàng và, ch ỉ vớ i
m ột cái quét m ắt, đã hi ểu rõ đư ợ c cả lu ồng bài trí. Jobs tán đồng rằng s ự đơn gi ản và ít chi ti ết gây
xao lãng chính là những y ế u tố then ch ốt c ủa m ột c ửa hàng tuyệt vờ i, hệt như v ớ i s ản ph ẩm vậ y.
“Sau đó, Jobs đã xác đ ị nh chắc ch ắn,” Drexler nói. “T ầm nhìn của Jobs là kiểm soát tuyệt đối toàn
bộ tr ải nghi ệm sản ph ẩm của ông ta, t ừ ch ỗ nó đượ c thi ết kế ra sao cho t ớ i vi ệc nó đư ợ c bán ra th ế
nào.”
Vào tháng 10 năm 2000, gần đến th ờ i đi ểm mà Jobs ngỡ r ằng đoạn cu ối c ủ a quy trình,
Johnson choàng t ỉ nh lúc nửa đêm, ngay trướ c bu ổ i họp th ứ Ba h ằng tuần vớ i m ột suy nghĩ đau
đớ n: B ọn họ đã phạm phải m ột sai lầm căn cốt nào đó. H ọ đang tổ ch ứ c cử a hàng quanh mỗi dòng
s ản ph ẩm chính y ếu củ a Apple, vớ i các khu vự c dành cho PowerMac, iMac, iBook và PowerBook.
Nhưng Jobs đã bắt đầu phát tri ển m ột ý tưở ng mớ i: chiếc máy tính như mộ t trục trung tâm cho t ất
cả các ho ạt đ ộng s ố của bạn. Nói cách khác, máy tính của bạn có th ể x ử lí cả các đo ạn phim và hình
ảnh từ máy ch ụp hình của bạn, và c ó l ẽ m ột ngày nào đó là c ả máy nghe nhạ c và các bài hát, nh ững
cu ốn sách và tạp chí c ủ a bạn nữa. Suy nghĩ trư ớ c bình minh c ủa Johnson là các cử a tiệm phải s ắp
x ếp các phần trưng bày không chỉ xoay quanh bốn dòng máy tính của công ty, mà ph ải xoay quanh
những thứ mà con ngườ i ta có th ể s ẽ muốn th ực hi ện. “Lấ y ví dụ, tôi nghĩ nên có m ột khu phim
ảnh, nơi chúng tôi bày ra đủ các máy Mac và PowerBook ch ạ y iMovie và cho bạn thấ y rằng b ạn có
th ể truy xu ất th ẳng t ừ máy quay của mình rồi biên t ập lại.”
Thứ Ba đó, Johnson đ ến văn phòng Jobs từ s ớ m và nói cho Jobs nghe v ề nhậ n thức đột ng ột
của ông, r ằng h ọ cần ph ải tái tổ ch ức các c ửa hàng. Johnson đã từng nghe những câu chuy ện kể v ề
gi ọng lưỡ i ngoa ngoắt c ủ a sếp mình, nhưng ông vẫn chưa cảm th ấ y nó quăng ra - cho đến th ờ i
đi ểm này. Jobs phun trào. “Anh có biết cái thay đ ổi này l ớ n đến cỡ nào không?” Jobs gào lên. “Tôi
đã xoay s ở vớ i cái c ử a hàng này suốt sáu th áng, mà bây gi ờ anh l ại mu ốn thay đổi mọi thứ à!” Jobs
đột nhiên im b ặt. “Tôi m ệt l ắm rồi. Tôi không bi ết liệu có th ể thiết kế m ột c ửa hàng khác từ đống
xà b ần này không.”
Johnson cũng câm l ặng luôn, và Jobs yêu c ầu ông ta c ứ như vậ y. Trên chuyế n xe ch ạ y tớ i
ch ỗ mô hình c ửa hàng, nơi m ọi ngườ i đã t ề t ựu chuẩn bị cho cu ộ c họp th ứ Ba thư ờ ng l ệ, Jobs bảo
Johnson đừng nói gì, vớ i ông và c ả các thành viên khác củ a đội. V ậ y là chuy ến xe kéo dài bả y phút
di ễn ra trong im l ặng. Khi h ọ đến nơi, Jobs đã xử lí thông tin xong xuôi. “Tôi bi ết là Ron đã đúng,”
ông nh ớ l ại. V ậ y là trư ớ c vẻ kinh ngạc củ a Johnson, Jobs khai màn c uộc họp bằng l ờ i tuyên b ố,
“Ron nghĩ r ằng chúng ta đã nhìn nhận sai lầm. Anh ấ y nghĩ rằng c ử a hàng ph ải đư ợ c t ổ ch ức l ại,
không ph ải xoay quanh s ản ph ẩm mà thay vào đó, là xoay quanh những gì ngư ờ i s ử dụng mu ốn
làm.” M ột chút ng ừng l ờ i, rồi Jobs tiếp tục. “Các b ạn bi ết đấ y, Ron nói đúng.” ông nói r ằng h ọ s ẽ
làm lại thi ết kế, m ặc dù vi ệc này nhi ều kh ả năng s ẽ làm bu ổi tri ển lãm giớ i thi ệu dự tính vào tháng
Giêng phải ch ậm lại t ớ i ba hay b ốn th áng. “Chúng ta ch ỉ có duy nh ất m ột cơ hội để th ực hi ện nó
chính xác thôi.”
Jobs (và t ất c ả đội c ủa ông khi đó) r ất thích đư ợ c kể l ại chuy ện tất c ả m ọi th ứ ông đã th ực
hi ện đâu ra đó chỉ cần có m ột giây trư ớ c khi ông nh ấn nút quay l ại t ừ đầu. M ỗi trư ờ ng h ợ p như v ậ y,
ông ph ải làm l ại thứ gì đó mà ông phát hiện ra là vẫn ch ưa hoàn h ảo. Ông kể về chuy ệ n ông đã làm
vậ y vớ i bộ phim Toy story, khi nhân v ật chàng cao b ồi Woody bị phát tri ển lên thành một “tên
khốn”, và một vài lư ợ t là v ớ i chi ếc máy Macintosh nguyên b ản. “Nếu có đi ề u gì đó chưa th ật đúng
đắn, bạn không thể ch ỉ l ờ t ị t nó đi và b ảo là bạn sẽ ch ỉ nh s ửa sau,” ông nói. “Đó là cách các công ty
khác v ẫn làm.”
Khi bản m ẫu cử a hàng có chỉ nh s ửa đã đư ợ c hoàn thi ện vào tháng Giêng năm 2001, Jobs
cho phép ban giám đố c đến thăm quan lần đầu tiên, ông giải thích nh ững triế t lí p hía sau phương án
thiết kế bằng cách phác h ọa trên t ấm bảng tr ắng; ròi ông cùng các thành viên ban giám đốc lên
chiếc xe tải nh ẹ để đi h ết ch ặng đườ ng dài hai d ặm. Khi họ nhìn th ấ y nh ững gì Jobs và Johnson đã
xây dựng đượ c, họ đồng lo ạt nh ất trí vi ệc tiếp t ục tri ển khai. Ban giám đốc cũng đồng tình rằng c ửa
hi ệu này s ẽ đưa mối quan hệ gi ữ a bán l ẻ và hình ảnh thương hiệu lên m ột t ầng b ậ c mớ i. Nó cũng s ẽ
đảm bảo ch ắ c ch ắn rằng khách hàng không ch ỉ coi nh ững chiếc máy tính Apple đơn thuần ch ỉ là
s ản ph ẩm hàng hóa như là Dell hay Compaq.
Nhưng đa phần các chuyên gia bên ngoài thì l ại không tán đồng. “Có l ẽ đã đ ến lúc Steve
Jobs từ bỏ cái l ối tư duy quá ư khác bi ệt,” t ờ Business Week vi ết như v ậ y trong m ột bài lu ận vớ i
tiêu đề “Xin l ỗi Steve, đây là lí do tại sao các cửa hàng Apple s ẽ ch ẳng đi đ ế n đâu.” C ựu giám đố c
tài chính của Apple - Joseph Graziano đư ợ c dẫn lờ i như sau, “V ấn đề của Apple là nó vẫn cứ tin
rằng cách đ ể công ty tăng trưở ng là phục vụ món cá hồi cho m ột thế gi ớ i cơ hò đã mãn nguyện vớ i
món phó mát kèm khoai tây chiên giòn ròi.” Còn nhà c ố vấn bán l ẻ David Goldstein thì tuyên bố,
“Tôi cho m ấ y cửa hàng đó hai năm trư ớ c khi chúng ph ải t ắt đi ện vì m ột sai lầm cực kì đau đ ớ n và
đắt đỏ.”
Gỗ, Đá, Thép, Kính
Vào ngày 19 tháng Năm năm 1001, cửa hàng bán l ẻ Apple đầu tiên khai trương ở Tyson’s
Corner, bang Virginia vớ i nh ững quầ y hàng màu tr ắng bóng loáng, sàn g ỗ t ẩ y trắng và một t ấm
bích chương “Tư duy Khác bi ệt” kh ổng lò hình John và Yoko trên giư ờ ng. Nh ững ngư ờ i theo ch ủ
nghĩa hoài nghi đã nh ầm to. Các cửa hàng củ a Gateway chỉ có trung bình 250 khách ghé thăm m ỗi
tu ần. Đ ến năm 2004, các cửa tiệm Apple đón trung bình 5.400 khách mỗi tu ần.
Vào năm đó, các cửa hàng đạt doanh thu 1,2 t ỷ đô- la, l ập một k ỉ l ục mớ i trong ngành bán l ẻ
do đã c Ấn m ốc t ỷ đô-la. Ho ạt động bán hàng ở m ỗi c ửa hàng đều đư ợ c l ập bảng kê mỗi bốn phút
m ột l ần thông qua ph ần m ềm của Ellison, cung c ấp thông tin trự c tiếp đối vớ i vi ệc làm thế nào để
đồng nhất quy t rình sản xu ất, cung ứng và các kênh bán hàng.
Trong khi các cửa hàng m ỗi ngày m ột nở rộ, Jobs vẫn tham gia chặt ch ẽ trong t ừng khía
cạnh nhỏ. Lee Clow nh ớ l ại, “T ại m ột trong nh ững buổi họp tiếp th ị của chúng tôi ngay trướ c khi
khai trương các c ử a hàng, St eve yêu c ầu ph ải dành ra t ớ i nửa tiếng đồng hồ để quyết đị nh xem s ắc
độ xám nào thì phù hợ p vớ i các kí hi ệu củ a phòng v ệ sinh.” Hãng thiết kế nội th ất c ủa Bohlin
Cywinski Jackson thì thi ết kế các cử a hàng mang tính nhận di ện thương hi ệu, nhưng Jobs m ớ i là
ngư ờ i đưa ra nh ững quy ế t đị nh then chốt.
Jobs đ ặc biệt chú tr ọng vào các đ ợ t c ầu thang, chúng lặp l ại chi ếc cầu thang mà ông đã s áng
t ạo nên ở NeXT. Khi ông đến thăm các cử a hàng đang trong quá trình xây d ựng, mư ờ i l ần như
m ột, ông đều đề nghị thay đ ổi c ầu thang. Tên c ủa ông đư ợ c đưa vào v ị trí nhà phát minh chủ đạo
trong hai tấm gi ấ y đăng kí sáng ch ế c ầu thang, một là cho ki ểu dáng trong suốt bao g ồm các bậ c
cầu thang lát-kính -toàn -b ộ và các tấm kính trự l ực đư ợ c tán vớ i bằng đinh titan, cái còn l ại là cho
hệ th ống kĩ thu ật s ử dụng một đơn v ị kính nguyên khối bao g ồm nhiều lá th ủ y tinh c Ấn m ỏng
chòng lên nhau nhằm nâng đỡ các kh ối nặng.
Vào năm 1985, khi bị hất c ẳng khỏi Apple trong nhi ệm kì đầu tiên, Jobs đã đến nư ớ c Ý và
cực kì ấn tư ợ ng b ở i ch ất đá xám trên nh ững lối đi ở thành ph ố Florence. Vào năm 2002, khi ông rút
ra k ết luận rằng lớ p lát sàn gỗ s áng màu trong các cửa hàng bắt đầu trông như là lối đi ngoài v ỉ a hè
- m ột m ối bận tâm khó mà tư ở ng tượ ng là có thể hành h ạ ai đó ki ểu như Steve Ballmer, CEO của
Microsoft - thì Jobs mu ốn sử dụng loại đá xám kia đ ể thay th ế. M ột trong số các đồng s ự của Jobs
thúc gi ục rằng h ọ có th ể mô phỏng màu s ắ c và ch ất liệu đá, s ử dụng bê- tông, như v ậ y sẽ r ẻ đượ c
hơn mườ i l ần, nhưng Jobs qu ả quyế t r ằng nó phải là đá nguyên ch ất m ớ i đư ợ c. Sa th ạch Pietra
Serena màu xám -xanh v ớ i ch ất liệu vân tinh x ảo, có xuất xứ t ừ m ột m ỏ thuộc sở hữu gia đình - II
Casone ở Firenzuola, ngoại ô Florence. “Tụi tôi ch ỉ ch ọn đư ợ c 3% t ổng s ố đá khai thác từ lòng núi,
vì nó có s ắc độ và m ạng đườ ng vân đá cũng như độ tinh khiết chính xác,” Johnson nói. “Steve qu ả
quyết r ằng chúng tôi phải có đư ợ c màu sắ c đích xác và nó ph ải là một th ứ ch ất liệu vớ i m ức độ
hoàn m ỹ nhất.” V ậ y là các nhà thi ết kế ở Florence ch ọn ra đúng nh ững t ảng đá đượ c khai thác, rồ i
giám sát việ c xẻ chúng ra thành những phi ến vuông v ắn, và đ ảm bảo m ỗi viên g ạch l ại đư ợ c đánh
dấu bằng một t ấm dẤn đ ể ch ắ c ch ắn rằng chúng sẽ đượ c lát xu ống ngay sát cạnh những viên đá
vừa cặp vớ i nó.” “M ột đi ều anh nên bi ết: đó chính là loại đá thành F lorence s ử dụng cho các l ối đi,
đảm bảo vớ i anh r ằng nó có thể ch ống chị u đư ợ c th ử thách c ủ a th ờ i gian,” Johnson nói.
M ột chi ti ết đáng chú ý n ữa của các c ử a hàng chính là Qu ầ y Thiên Tài (Genius Bar).
Johnson đưa ra ý ki ến này trong m ột chuy ến công tác k ết hợ p nghỉ dưỡ ng (retreat) vớ i c ả nhóm.
Ông đã yêu cầu các thành viên miêu tả về dị ch v ụ t ốt nh ất mà h ọ t ừng t ận hư ở ng. Ph ần lớ n m ọi
ngư ờ i đều nh ắc đến nh ững tr ải nghi ệm hay ho ở m ấ y khách s ạn như Four Seasons hay
Ritz -Carlton. Vậ y là John cử năm viên qu ản lý c ửa hàng đầu tiên đ ến chương trình huấn luyệ n củ a
Ritz -Carlton và đưa ra ý tưở ng sao ph ỏng lại thứ gì đó gi ữa bàn chăm sóc khách hàng và quầ y bar.
“Nếu chúng ta s ắp đặt ở quầ y đó nh ững con ngườ i thông minh nhất ở Mac thì sao nhỉ ,” ông nói v ớ i
Jobs. “Chúng ta có thể gọi nó là Qu ầ y Thiên tài.”
Jobs b ảo ý tưở ng ấ y thật dở t ệ. ông th ậm chí còn phản đối tên g ọi. “Anh không th ể gọi h ọ là
thiên tài đư ợ c,” ông b ảo. “Họ là nh ững k ẻ gàn. H ọ không có nh ững kĩ năng con ngư ờ i để chuy ển
t ải thứ gì đó g ọi là qu ầ y thiên tài đâu.” Johnson c ứ tư ở ng là mình đã thua, nhưng ngày hôm sau ông
tình cờ đụng phải luật sư trư ở ng c ủ a Apple, ông này b ảo, “Tiện đây, Steve v ừa mớ i bảo tôi đi đăng
kí nhãn hi ệu cho cái tên ‘qu ầ y thiên tài’”.
R ất nhi ều đam mê c ủa Jobs đã tụ hội về cửa hàng trên Đại l ộ s ố Năm của Manhattan, đư ợ c
khai trương hồi năm 2006: m ột kh ối l ập phương, một c ầu thang đ ặc trưng, kính và đưa ra một l ờ i
tuyên b ố t ối đa thông qua ch ủ nghĩa t ối thi ểu. “Đó th ực sự là c ử a hiệu của Steve,” Johnson nói. M ở
cửa 24/7, nó xác th ực th ứ chiến lư ợ c ki ếm tìm những đ ị a đi ểm đặc trưng có lưu lư ợ ng giao thông
cao bằng cách thu hút t ớ i năm mươi nghìn lượ t khách m ỗi tu ần trong su ốt năm đ ầu tiên. (Thử nhớ
l ại s ức hút c ủa cửa hàng Gateway thì th ấ y: 250 lư ợ t khách m ỗi tu ần.) “Cửa hàng này thu l ợ i trên
m ỗi mét vuông nhi ều hơn bất c ứ cử a hàng nào trên thế gi ớ i,” Jobs t ự hào bày t ỏ vào năm 2010.
“Nó còn mang lại t ổng doanh thu l ớ n hơn - b ằng đô-la tuyệt đối - ch ứ không ph ải ch ỉ tính trên m ỗi
mét vuông đâu - so v ớ i bất c ứ cử a hàng nào ở New York. Trong đó tính luôn c ả các tiệm của Saks
và Bloomingdale.”
Jobs có th ể khuấ y động s ự phấn ch ấn trông đ ợ i cho các bu ổi khai trương c ử a hàng vớ i món
năng khiếu mà ông đã sử dụng cho các buổi ra mắt s ản ph ẩm. Mọi ngườ i b ắt đ ầu l ặn l ội đ ến t ận các
buổi khai trương c ử a hàng và ch ầu ch ự c cả đêm ở bên ngoài hòng tr ở thành một trong nh ững khách
đầu tiên đư ợ c bư ớ c chân vào trong. “Cậu con trai hòi đó m ớ i 14 tu ổi c ủa tôi g ợ i ý buổi th ứ c đêm
x ếp hàng đầu tiên c ủa tôi ở Palo Alto, và trải nghi ệ m này hóa ra lại trở thành m ột s ự ki ện xã hội lí
thú,” Gary Allen, ngư ờ i ch ủ trì m ột trang web ph ụ c vụ những ngư ờ i ái mộ c ửa hàng Apple, kể l ại.
“Hai b ố con th ực hi ện vài cuộc th ức đêm xếp hàng như thế, trong đó có c ả năm lần ở nướ c ngoài,
và đã g ặp gỡ r ất nhi ều ngườ i hay ho.”
Vào tháng Bả y năm 2011, m ột th ập kỉ kể t ừ th ờ i đi ểm những c ử a hàng đầu tiên đư ợ c khai
trương, t ổng c ộng đã có 326 c ửa hàng Apple. Cửa hàng lớ n nh ất là ở Covent Garden, London, cao
nhất là ở Ginza, Tokyo. Doanh thu trung bình hằ ng năm c ủa m ỗi c ử a hàng là 9,8 t ỷ USD. Nhưng
các cửa hàng còn làm đượ c nhi ều hơn thế. Chuỗi c ửa hàng này trực tiếp đóng góp vào 15% t ổng
doanh số của Apple nhờ t ạo nên ti ếng vang và lôi kéo sự chú ý đ ến nhãn hi ệu, các cửa hàng gi Ấn
ti ếp góp phần qu ảng cáo rùm beng cho mọi động thái, mọi s ản ph ẩm của công ty.
Kể c ả trong lúc ph ải vật l ộn ch ống lại nh ững tác động c ủa căn b ệnh ung thư vào năm 2011,
Jobs vẫn dành th ờ i gian hình dung nh ững dự án cử a hàng tương lai, ví như cửa hàng mà ông muốn
xây dựng trong Nhà ga Trung tâm Thành phố New York. Một bu ổi chi ều, ông cho tôi xem một b ức
hình cửa hàng ở Đại l ộ s ố Năm và chỉ vào mư ờ i tám t ấm ốp kính ở m ỗi mặt. “Đây là thành t ựu tiên
ti ến nh ất c ủa công nghệ ch ế t ạo kính th ờ i nay đ ấ y,” ông nói. “Chúng tôi còn t ự ch ế ra những mẫu
khuôn riêng để đúc kính đấ y.” Rồi ông lôi m ột bả n vẽ kĩ thuật ra, trong đó mư ờ i tám ô kính đượ c
thay b ằng b ốn t ấm kh ổng lồ. Đó là th ứ ti ếp theo mà ông muốn làm, ông nói. M ột l ần nữa, đó là m ột
thách thức ở đi ểm giao cắt gi ữ a th ẩm m ỹ và kĩ ngh ệ. “N ếu chúng tôi mu ốn thực hi ện vi ệ c này v ớ i
công ngh ệ hi ện th ờ i, chúng tôi sẽ phải làm cho kh ối l ập phương này ng ắn đi m ột phút m ỗi chi ều,”
ông bảo. “Mà tôi thì không mu ốn làm thế. Nên chúng tôi ph ải ch ế m ấ y cái n ồi hơi m ớ i ở Trung
Quốc vậ y.”
Ron Johnson không m ấ y rung động trướ c ý tưở ng này. ông nghĩ rằng mư ờ i tám t ấm ốp
th ực ra trông đ ẹp hơn bốn tấm. “Kích cỡ c ửa hàng mà chúng ta đang có hiệ n nay phối hợ p tuyệt
di ệu vớ i nh ững hàng c ột c ủa Tòa nhà GM,” ông nói. “Nó s áng l ấp lánh như là chi ếc hộp trang sức
vậ y. Tôi nghĩ là nếu để kính quá trong su ốt, thì g ần như chắc ch ắn sẽ trượ t đi thành sai l ầm ngay.”
ông tranh cãi điểm này vớ i Jobs, nhưng ch ẳng ích gì. “Khi công ngh ệ cho phép đi ều gì đó m ớ i, ông
ta muốn tận dụng ngay l ậ p tức,’’Johnson nói. “Thêm nữa, vớ i Steve, ít hơn luôn là nhiều hơn, đơn
gi ản hơn v ẫn tốt hơn. Th ế nên, nếu như anh có thể xây một cái h ộp kính vớ i ít thành ph ần hơn, tức
là nó t ốt hơn, nó đơn gi ả n hơn, và nó ở tuyến đầu của công nghệ tiên ti ến. Đó chính là nơi Steve
muốn ng ự tr ị , vớ i s ản ph ẩm và vớ i c ả c ửa hàng củ a ông ấ y.”
Chương 30: TRUNG TÂM S Ố
T ừ iTunes tới iPod
Ghi chú ảnh: Chiếc iPod đầu tiên, 2001
Kết nối nh ững d ấu ch ấm
C ứ m ỗi năm Jobs l ại ch ọn nh ững nhân viên giá trị nhất c ủa mình cho m ột chuy ến hành
quân bí m ật, đư ợ c ông g ọ i là “Nhóm 100.” H ọ đượ c ch ọn dự a trên một nguyên t ắc đơn giản: nh ững
ngư ờ i bạn sẽ đem theo nế u như chỉ có th ể ch ọn 100 ngư ờ i đi cùng bạn trên chi ếc xuồng c ứu hộ t ớ i
công ty ti ếp theo, ở cu ối m ỗi chuy ến đi, Jobs thườ ng đ ứng trướ c m ột t ấm bảng (ông thích nh ững
t ấm bảng b ở i nó cho ông s ự ki ểm soát tuyệt đối và chúng mang lại s ự t ập trung) và hỏi, “10 thứ
chúng ta nên làm ti ếp theo là gì?” Mọi ngườ i s ẽ ch i ến đấu để đưa ý tưở ng c ủ a mình vào danh sách.
Jobs s ẽ vi ết chúng ra, và gạ ch đi những cái ông thấ y t ệ. Sau một lo ạt nh ững mánh khóe, h ọ đưa ra
đượ c m ột danh sách gồm 10 ý tư ở ng. Sau đó Jobs s ẽ gạch b ỏ 7 ý tưở ng dướ i cùng và nói, “Chúng
ta ch ỉ có th ể làm 3”.
Năm 2001, Apple đã hồi sinh mảng máy tính cá nhân c ủa mình. Đó là lúc đ ể tư duy khác
bi ệt. M ột lo ạt các hướ ng đi mớ i ở đầu danh sách trên tấm bảng c ủ a ông năm đó.
Ở th ờ i đi ểm đó, không khí ảm đạm có nguồn góc t ừ lĩnh v ực kỹ thuật s ố. Bong bóng
dot-com đã v ỡ tung, sàn giao d ị ch NASDAQ giả m 50% so vớ i đỉ nh cao của nó. Chỉ có 3 công ty
công ngh ệ có hoạt động quảng cáo trong gi ải Super Bowl tháng 1 năm 2001, so v ớ i 17 cô ng ty c ủa
năm trướ c. Tuy nhiên, c ả m giác về s ự suy thoái còn đi xa hơn nữa. Suốt 25 năm kể t ừ khi Jobs và
Wozniak sáng l ập Apple, máy tính cá nhân là trung tâm củ a cu ộ c cách m ạng s ố. Và gi ờ thì các
chuyên gia cho r ằng vai trò trung tâm củ a nó đã ch ấ m dứt. Nó đã “trưở ng thành và trở nên t ẻ nhạt,”
phóng viên Walt Mossberg của Wall Street Journal viết. Jeff Weitzen, CEO c ủa Gateway tuyên bố
“Chúng tôi đang tách m ả ng máy tính cá nhân khỏi vai trò trung tâm.”
Đó là lúc Jobs xúc tiến một chi ến lư ợ c mớ i r ất l ớ n có th ể bi ến đổi Apple - và toàn b ộ ngành
công nghi ệp công nghệ. Máy tính cá nhân, thay vì b ị đưa ra ngoài cuộc, sẽ đượ c bi ến thành “một
trung tâm s ố” dùng đ ể phối hợ p vớ i nhi ều lo ại thi ết bị khác nhau, t ừ máy chơi nh ạc cho t ớ i máy
quay phim, ch ụp ảnh. Bạ n kết nối và đồng b ộ t ất c ả các thi ết bị vớ i máy tính c ủa mình, nó có th ể
quản lý âm nhạc, ảnh, video, văn bản và tất c ả các khía c ạnh mà Jobs gẤn cho “phong cách số” củ a
bạn. Apple sẽ không còn là một công ty máy tính n ữa - th ực t ế nó đã b ỏ t ừ đó ra khỏi tên của mình
- nhưng Macintosh s ẽ đượ c khôi ph ục để tr ở thành trung tâm c ủa loạt thi ết bị m ớ i đầ y bất ng ờ , bao
gồm iPod, iPhone và iPad.
Khi bư ớ c sang tu ổi 30, Jobs đã làm m ột phép ẩn dụ vớ i các album ca nh ạ c, ông trầm ngâm
về vi ệc vì sao những ngư ờ i trên 30 l ại phát tri ển nh ững l ối suy nghĩ c ứng nhắc và tr ở nên thi ếu
s áng t ạo. “Ngườ i ta bế t ắ c trong những l ối mòn, gi ống như những rãnh trong một đĩa than, và h ọ
không bao giờ thoát ra kh ỏi chúng,” ông nói. ở tu ổi 45, Jobs gi ờ đang s ửa so ạn thoát ra khỏi l ối
mòn của mình.
FireWire
Tầm nhìn của Jobs về vi ệc máy tính c ủa bạn sẽ tr ở thành trung tâm s ố bắt đầu từ m ột công
nghệ có tên FireWire, đư ợ c Apple phát triển đầu nh ững năm 1990. Đó là m ột c ổng k ết nối t ốc độ
cao cho phép di chuyể n các t ập tin k ỹ thuật s ố t ừ thiết bị này qua thiết bị khác. Nh ững nhà sản xu ất
máy ảnh c ủa Nh ật Bản đã sử dụng chúng, và Jobs quy ết đị nh tích hợ p nó trong phiên bản cập nh ật
của iMac phát hành th áng 10 năm 1999. Ông bắt đầu nhìn FireWire như một ph ần của hệ th ống
cho phép chuy ể n các video từ máy ảnh sang máy tính, nơi chúng có th ể đượ c sửa ch ữ a và phân
phối.
Để th ực hiện điều đó, chiếc iMac cần một ph ần mề m xử lý video t ốt. Vì th ế Jobs đã t ớ i gặp
những ngư ờ i b ạn cũ của mình ở Adobe, công ty đồ họa s ố, và nh ờ họ phát tri ển phiên b ản mớ i dà nh
cho Mac củ a Adobe
Premiere, v ốn đã ph ổ bi ế n trên các máy tính Windows. Các nhà đi ều hành của Adobe đã
khiến Jobs ng ỡ ngàng khi thẳng thừng t ừ ch ối đi ề u này. Họ nói r ằng Macintosh có quá ít ngư ờ i
dùng đ ể khiến nó đáng giá. Jobs cực kỳ gi ận dữ và c ảm th ấ y như mình b ị phản bội. “Tôi đã đ ặt
Adobe vào trong kế hoạ ch, v ậ y mà h ọ l ại bủn xỉ n vớ i tôi,” ông trách móc. Adobe còn làm m ọi th ứ
t ệ hơn nữa khi không phát tri ển nh ững chương trình nổi tiếng khác, như Photoshop cho Mac
OSX
(28)
, m ặc dù Macintosh r ất ph ổ bi ến trong gi ớ i thi ết kế và những nhóm sáng t ạo khác, v ốn đều
dùng những ứng d ụng này.
Jobs không bao giờ tha thứ cho Adobe, m ột thập kỷ sau ông bướ c vào cuộc chi ến công khai
vớ i công ty này khi không cho phép Adobe Flash ch ạ y trên iPad. ông mang theo m ột bài học giá tr ị
củng c ố cho khao khát ki ểm soát từ đầu đến cu ối t ất c ả những thành ph ần ch ủ ch ốt c ủa m ột hệ
th ống: “Góc nhìn ch ủ đạ o của tôi khi bị t ừ ch ối bở i Adobe năm 1999 là vi ệc chúng tôi sẽ không
tham gia bất kỳ v ấn đề nào nếu như không thể ki ể m soát cả phần cứng l ẫn ph ần m ềm, nếu không
chúng tôi sẽ không gi ữ n ổi đầu mình.”
Vì th ế t ừ năm 1999 Apple bắt đ ầu sản xu ất ph ần mềm ứng d ụng cho Mac, tậ p trung vào đố i
tư ợ ng giao thoa gi ữa nghệ thuật và công nghệ. Nh ững phần mềm đó gồm có Final Cut Pro, dùng để
ch ỉ nh s ửa video; iMovie là phiên b ản đơn giản hơn dành cho ngư ờ i dùng thông thư ờ ng: iDVD
dùng đ ể ghi video hay nh ạc ra đĩa; iPhoto đ ể cạnh tranh v ớ i Photoshop; GarageBand đ ể t ạo và ph ối
nhạc; iTunes để quản lý các bài hát; và iTunes store, dùng đ ể mua nh ạc.
Ý tư ở ng c ủ a trung tâm số nhanh chóng đượ c t ập trung phát tri ển. “Tôi v ỡ l ẽ ra đi ều đó vớ i
những chiếc máy ảnh,” Jobs nói. “S ử dụng iMovie có thể khiến chi ế c máy ảnh c ủa bạn giá tr ị hơn
hàng chục l ần.” Thay vì ph ải m ất hàng trăm gi ờ cho các c ảnh quay g ố c mà bạn sẽ không bao giờ
vượ t qua đượ c, bạn có th ể ch ỉ nh s ửa nó trên máy tính c ủa mình, t ạo nh ững c ảnh mờ trang nhã,
thêm âm nh ạc, thêm danh sách những ngư ờ i th ực hi ện, đi ền tên b ạn là nhà s ản xu ất. Nó cho phép
ngư ờ i dùng sáng t ạo, th ể hi ện bản thân họ, đ ể t ạo ra nh ững th ứ có c ảm xúc. “Đó là khi ý tưở ng máy
tính sẽ bi ến đổi thành m ột th ứ khác đ ến vớ i tôi.”
Jobs có một cái nhìn khác: n ếu máy tính ph ục vụ như m ột trung tâm, nó s ẽ cho phép các
thiết bị di đ ộng tr ở nên đơn giản hơn. Rất nhi ều tính năng mà các thi ết bị cố th ực hi ện, ch ẳng h ạ n
như ch ỉ nh s ửa video hoặ c ảnh, chúng th ự c hi ện nó m ột cách hạn ch ế vì các màn hình quá nhỏ và
khó thích nghi v ớ i các menu l ấp đầ y các tính năng. Máy tính có thể x ử lý chúng dễ hơn rất nhi ều.
Và một đi ều nữa... điều Jobs nhìn th ấ y là nó sẽ làm vi ệc t ốt nh ất khi m ọi thứ - thiết bị , máy
tính, phần m ềm, ứng d ụng, FireWire - đ ều đư ợ c kết hợ p ch ặt ch ẽ vớ i nhau. “Tôi càng tin hơn v ề
khả năng cung c ấp các giải pháp tr ọn gói,” ông nh ớ l ại.
S ự đẹp đẽ trong nhận th ứ c này là ở ch ỗ ch ỉ có m ột công ty đư ợ c đặt ở vị trí có thể đi theo
cách ti ếp cận này. Microsoft vi ết ph ần m ềm, Dell và Compaq làm ph ần cứ ng, Sony sản xu ất r ất
nhiều thi ết bị s ố, Adobe phát tri ển rất nhi ều ứng d ụng. Nhưng chỉ có Apple làm t ất c ả những thứ
đó. “Chúng tôi là công ty duy nhất s ở hữu toàn bộ các công cụ - phần cứng, phần m ềm và hệ đi ều
hành,” ông giải thích vớ i Time. “Chúng tôi có th ể ch ị u trách nhiệm toàn bộ đối vớ i trải nghi ệm
ngư ờ i dùng. Chúng tôi có thể làm nh ững việc mà các công ty khác không th ể.”
Công cuộ c tích h ợ p của Apple vào chiến lư ợ c trung tâm số đượ c bắt đầu từ video. Vớ i
FireWire, b ạn có th ể chuy ể n các video củ a bạn vào máy Mac, và vớ i iMovie bạn có th ể bi ến nó
thành một ki ệt tác. Sau đó thì sao? Bạn có th ể muốn ghi nó ra vài đĩa DVD để bạn cùng bạn bè có
th ể xem nó trên tivi.
“Vì th ế chúng tôi đã b ỏ r ất nhi ều th ờ i gian làm việ c vớ i các nhà sản xu ất ổ đĩa đ ể có đượ c
các ổ đĩa thông dụng có thể ghi DVD,” ông nói. “Chúng tôi là công ty đầu tiên có thể bán nó.” Như
m ọi khi Jobs t ập trung vào vi ệc làm s ản ph ẩm đơn giản nh ất có th ể cho ngườ i dùng, và đó là chìa
khóa cho thành công c ủa họ. Mike Evangelist, ngườ i t ừng làm vi ệc ở Apple vớ i các phần m ềm
thiết k ế, nh ớ l ại việc trình di ễn cho Jobs giao diện của một phiên b ản đời đ ầu. Sa u khi xem m ột loạt
các hình ch ụp, Jobs nhả y lên, c ầm lấ y chi ế c bút và v ẽ m ột hình ch ữ nhật đơn giản lên trên b ảng.
“Đây là ứng d ụng mớ i,” ông nói. “Nó có m ột c ửa sổ. Bạn kéo video vào trong cử a sổ này. Sau đó
bạn nh ấn vào nút này và nói ‘Ghi.’ V ậ y thôi. Đó là th ứ chúng ta sẽ làm.” Evangelist ch ết l ặng, tuy
nhiên nó chính là khở i đầ u đã dẫn tớ i s ự đơn gi ản của th ứ tr ở thành iDVD sau này. Jobs th ậm chí
còn giúp thi ết kế bi ểu tư ợ ng c ủ a nó “Ghi”.
Jobs cũng bi ết việ c nhi ếp ảnh s ố đang chu ẩn bị bùng n ổ, vì v ậ y Ap ple phát triển nhi ều cách
để bi ến máy tính thành trung tâm c ủ a các b ứ c ảnh c ủa bạn. Nhưng ít nh ất trong năm đ ầu tiên ông
đã không để m ắt t ớ i một cơ hội r ất l ớ n. HP và một vài công ty khác đã s ản xu ất một ổ đĩa có thể ghi
những đĩa CD ca nhạc, nhưng Jobs qu yết đị nh Apple nên t ập trung vào video thay vì âm nh ạc.
Thêm vào đó, sự cố ch ấp của ông trong vi ệc bỏ ổ đĩa d ạng khay hiện có củ a iMac và thay vào đó
m ột ổ dạng rãnh trang nhã hơn nhưng đồng nghĩa là không thể tích hợ p ổ ghi CD đ ầu tiên, vốn
đượ c thi ết kế ban đầu theo dạng khay. “Chúng tôi đã l ỡ chuy ến tàu đó,” ông nh ớ l ại. “Và chúng tôi
cần ph ải đu ổi theo thật nhanh.”
Dấu ấn của m ột công ty sáng t ạo không chỉ là vi ệc nó luôn có những ý tư ở ng mớ i, mà còn
bi ết cách đu ổi theo khi bi ết mình đang ở phía sau.
iTunes
Không mất nhi ều thờ i gian đ ể Jobs nhận ra thế gi ớ i âm nh ạc số đang tr ở nên l ớ n mạnh. Vào
năm 2000, mọi ngườ i sao chép âm nh ạc vào máy tính từ đĩa CD, hoặ c t ải chúng t ừ những d ị ch v ụ
chia sẻ như Napster, và ghi các danh sách nh ạc vào đĩa tr ắng c ủa họ. Trong năm này số lư ợ ng đĩa
tr ắng đượ c bán ở M ỹ là 320 tri ệu đĩa trong khi dân số ch ỉ có 281 tri ệu ngườ i. Có nghĩa là r ất nhi ều
ngư ờ i th ực sự chuy ể n sang ghi đĩa, còn Apple thì không phụ c vụ họ. “Tôi c ả m th ấ y mình như m ột
kẻ đần độn,” ông nói vớ i Fortune. “Tôi nghĩ mình đã bỏ l ỡ nó. Chúng tôi ph ải làm việc cật l ực để
bắt kị p.”
Jobs thêm ổ ghi CD vào iMac, nhưng nó không đ ủ . M ục tiêu c ủa ông là đơn gi ản hóa việ c
chuy ể n nh ạc t ừ đĩa CD, quản lý nó trên máy tính, và ghi danh sách nhạc ra đĩa. Các công ty khác đã
phát tri ển các ứng d ụng quản lý nh ạc, nhưng chúng r ất rư ờ m rà và phức t ạp. M ột trong nh ững tài
năng c ủa Jobs là phát hiện ra các thị trườ ng v ớ i đầ y nh ững s ản ph ẩm hạng hai. ông đã xem xét các
ứng d ụng âm nh ạ c đã có - bao gồm Real Jukebox, Windows Media Player, và m ột cái c ủa HP có đi
kèm vớ i ổ ghi CD - và đi t ớ i m ột kết lu ận: “Chúng quá phức t ạp và ch ỉ có các thiên tài mớ i dùng
hết m ột nửa số ch ức năng củ a chúng.”
Đó là cơ hội c ủa Bill Kincaid. M ột c ựu kỹ sư phần m ềm của Apple, ông đang ch ạ y xe tớ i
m ột đ ườ ng đua ở Willows, California để tham gia cu ộc đua v ớ i chi ế c xe th ể thao Formula Ford củ a
mình trong khi (không đượ c hợ p lý l ắm) nghe Đài phát thanh quốc gia. Ông nghe đư ợ c một b ản tin
về thiết bị nghe nhạc di động Rio có th ể chơi các bản nh ạc số theo đ ị nh dạng MP3, ông đã ng ửng
đầu lên khi nghe phóng viên nói “Đừng quá vui mừng, ngườ i dùng Mac, b ở i nó không ho ạt động
trên các máy Mac.” Kincaid t ự nói vớ i mình, “Ha! Mình có th ể x ử lý đi ều này!”
Để giúp vi ết ph ần m ềm quản lý Rio cho Mac, ông đã g ọi cho b ạn mình là Jeff Robbin và
Dave Heller, đ ều là cựu kỹ sư phần m ềm của Apple. Sản ph ẩm của họ, đư ợ c bi ết đến vớ i tên
SoundJam, đem t ới cho ngư ờ i dùng Mac m ột giao diện của Rio và ph ần m ề m để quản lý các bài
hát trong máy của họ. Vào tháng 7 năm 2000, khi Jobs đang thúc đẩ y nhóm c ủa ông đưa ra m ột
phần mềm qu ản lý âm nhạc, Apple đã mua l ại SoundJam, mang nh ững ngư ờ i s áng l ập quay lại con
thuy ền Apple. (C ả 3 đều ở l ại công ty và Robbin ti ếp tục qu ản lý nhóm phát triển ph ần m ềm âm
nhạc trong 1 th ập kỷ sau đó. Jobs xem Robbin quý giá đ ến m ức ông t ừng chấp nh ận cho phép
phóng viên Time g ặp ông này sau khi đã cam k ết s ẽ không in họ của Jeff trên báo.)
Jobs làm vi ệc cá nhân v ớ i họ để bi ến SoundJam thành một s ản ph ẩm của Apple. Nó chất
đầ y nh ững tính năng các loại, và do đó có r ất nhi ều màn hình ph ức t ạp. Jobs ép h ọ phải làm cho nó
đơn gi ản hơn và quyến rũ hơn. Thay vì m ột giao diện cho phép bạn ghi rõ b ạ n muốn tìm kiếm theo
tên ngh ệ sĩ, tên bài hát hay album, Jobs yêu cầu m ột ô đơn gi ản cho phép bạn gõ bất kỳ th ứ gì b ạn
muốn. T ừ iMovie h ọ l ấ y lại đư ợ c giao diện ph ủ kim lo ại bóng và c ả m ột cái tên. H ọ gọi nó là
iTunes.
Jobs gi ớ i thi ệu iTunes vào tháng 1 năm 2001t ại Macworld như m ột ph ần củ a chi ến lư ợ c
trung tâm s ố. Nó miễn phí cho tất c ả ngư ờ i dùng Mac, ông thông báo. “Tham gia cuộc cách m ạnh
âm nh ạc vớ i iTunes, và làm thi ết bị nghe nhạc củ a bạn có giá hơn hàng chục l ần,” ông k ết lu ận
trong nh ững tràng pháo tay không dứt. Như câu kh ẩu hi ệu qu ảng bá c ủa ông sau đó: Sao chép.
Nhào trộn. Ghi đĩa.
Buổi chi ều hôm đó Jobs g ặp John Markoff c ủa t ờ New York Times. Buổi ph ỏng v ấn trở
nên t ồi t ệ, nhưng cuối cùng Jobs ng ồi trư ớ c máy Mac củ a mình và trình diễn iTunes. “Nó gợ i nh ớ
t ớ i tu ổi trẻ củ a tôi,” ông nói khi những hiệu ứng nhả y múa trên màn hình. Nó khiến ông h ồi tư ở ng
l ại khi s ử dụng chất kích thích. Tr ải nghiệm sử dụng là m ột trong hai ho ặc ba đi ều quan tr ọng nhất
ông t ừng làm trong đ ờ i, Jobs nói v ới Markoff. Nh ững ngư ờ i chưa bao giờ dùng thuốc sẽ không bao
gi ờ th ực sự hi ểu đư ợ c ông.
iPod
Bướ c kế ti ếp trong chiến lư ợ c trung tâm số là làm m ột máy nghe nh ạc di động. Jobs nhận ra
vi ệc Apple có cơ hội thi ết k ế m ột thi ết b ị s ánh đôi cùng ph ần mềm iTunes, cho phép nó tr ở nên đơn
gi ản hơn. Các nhi ệm vụ phức t ạp có th ể đượ c xử lý trên máy tính, nh ững thứ dễ dành cho thi ết bị .
Vì thế iPod đã ra đ ờ i, thi ết bị cho phép Apple bắt đầu chuy ển mình từ m ột công ty máy tính trở
thành công ty có giá trị l ớ n nh ất th ế gi ớ i.
Jobs có ni ềm đam mê đ ặc bi ệt vớ i dự án này bở i ông yêu âm nh ạc. Những chiếc máy nghe
nhạc đã có trên th ị trườ ng, ông nói vớ i các đồng nghi ệp, “thực sự vớ vẩn.” Phil Schiller, Jon
Rubinstein, và toàn bộ nhóm c ủa ông đ ều đồng ý . Trong khi xây d ựng iTunes, h ọ dành th ờ i gian
vớ i Rio và các máy nghe nhạc khác, và vui vẻ hành h ạ chúng. “Chúng tôi ngồi quanh và nói,
‘Nh ững thứ này thự c sự bốc mùi,’” Schiller nh ớ l ại. “Chúng lưu khoảng 16 bài hát, và bạn ch ẳng
th ể nào tìm ra cách s ử dụ ng chúng.”
Jobs b ắt đầu thúc đẩ y mộ t máy nghe nh ạc di động từ mùa thu năm 2000, nhưng Rubinstein
đã phản hòi v ề vi ệ c các linh ki ện cần thi ết chưa sẵ n sàng, ông yêu c ầu Jobs ch ờ đợ i. Vài tháng sau
Rubinstein đã có thể tìm đư ợ c một màn hình LCD nh ỏ phù hợ p và m ột pin x ạc Li -poly(^^). Thách
th ức l ớ n nh ất là tìm m ột ổ đĩa đ ủ nhỏ nhưng có dung lượ ng đ ủ l ớ n để t ạo nên một máy nghe nh ạc
tuyệt vờ i. Vào th áng 2 năm 2001, ông có chuyến thăm đ ị nh k ỳ t ớ i các nhà cung c ấp linh kiện củ a
Apple ở Nhật.
Vào cu ối cu ộ c họp thườ ng l ệ vớ i Toshiba, các k ỹ sư nhắc t ớ i m ột s ản ph ẩm m ớ i họ có
trong phòng thí nghiệm và sẽ s ẵn sàng ra m ắt vào tháng 6. Đó là một ổ cứng nhỏ, 1,8 inch (b ằng
kích cỡ m ột t ờ đô la), có th ể ch ứa 5 Gigabytes dữ li ệu (kho ảng một nghìn bài hát), và họ chưa rõ
nên làm gì v ớ i nó. Khi các k ỹ sư c ủa Toshiba đưa nó cho Rubinstein, ông ngay l ập tức bi ết nó có
th ể dùng làm gì. Hàng nghìn bài hát trong túi củ a ông! Hoàn h ảo. Tuy vậ y ông v ẫn gi ữ v ẻ lãnh
đạm. Jobs cũng đang ở Nhật, có bài diễn thuyết ở h ội ngh ị Macworld Tokyo. H ọ gặp nhau tối hôm
đó ở khách sạn Okura, nơi Jobs ngh ỉ l ại. “Giờ tôi đã biết cách để làm nó,” Rubinstein nói vớ i ông.
“Tất c ả những gì tôi cần là tờ séc 10 tri ệu đô -la.” Jobs ngay lập tức phê duy ệt. Và Rubinstein bắt
đầu đàm phán vớ i Toshiba đ ể giành đ ộc quyền sử dụng từng chiế c đĩa mà họ có th ể làm, ông cũng
bắt đầu tìm kiếm ngườ i có th ể dẫn đầu nhóm phát triển.
Tony Fadell là m ột chuyên gia khở i nghi ệp có hạ ng v ớ i vẻ ngoài đ ặc ch ất công nghệ và
m ột nụ cư ờ i hấp dẫn. Anh từng l ập 3 công ty t ừ h ồi cò n học đại học Michigan.
Sau đó anh làm cho công ty phát triển thi ết bị c ầm tay General Magic (nơi anh g ặp Andy
Hertzfeld và Bill -Atkinson nh ững ngư ờ i lánh n ạn từ Apple), và sau đó có kho ảng thờ i gian không
thoải mái ở Philips Electronics, nơi anh, v ớ i mái tóc b ạch kim cắt cua và phong cách n ổi lo ạn, đối
đầu vớ i văn hóa tr ầm lặng. Anh có một vài ý tư ở ng v ề vi ệc phát tri ển nh ững máy nghe nhạc số t ốt
hơn, b ở i anh đã thất bại vớ i các hãng RealNetworks, Sony và Philips. Vào m ột ngày, khi đang ở
Colorado trượ t t uyết cùng ông chú ruột, đi ện thoạ i c ủa Fadell đ ổ chuông khi anh đang ngồi trên
cáp treo. Đó là Rubinstein, ngườ i nói v ớ i anh Apple cần một ngườ i làm vi ệc trên một “thi ết bị đi ện
t ử nhỏ”. Fadell, không thi ếu tự tin, khoe khoang v ề vi ệc anh là một phù thủy trong vi ệ c ch ế t ạo
những thiết bị như vậ y. Rubinstein đã m ờ i anh t ới Cuptertino.
Fadell nghĩ rằng mình đư ợ c thuê để làm vi ệc trên một thi ết bị tr ợ lý k ỹ thuậ t s ố, m ột phiên
bản thành công hơn Newton. Nhưng khi g ặp Rubinstein, chủ đề nhanh chóng chuyển sang iTunes,
m ớ i phát hành đư ợ c 3 tháng. “Chúng tôi đang c ố gắng kéo nh ững chiếc máy nghe nh ạ c hi ện th ờ i
về phía iTunes và chúng trông th ật kinh kh ủng, tuy ệ t đối kinh kh ủng,” Rubinstein nói v ớ i c ậu ta.
“Chúng tôi nghĩ rằng mình nên t ự phát tri ển m ột phiên b ản.”
Fadell đã run lên. “Tôi say mê âm nh ạc. Tôi đã th ử vài thứ gi ống như vậ y ở RealNetworks,
và tôi t ừng ném m ột cái máy chơi MP3 cho Palm.” Fadell đ ồng ý tham gia, ít nh ất là ở vị trí tư v ấn.
Sau vài tuần Rubinstein c ố nài xem liệu cậu có muốn dẫn dắt nhóm n ày không, anh cần ph ải trở
thành nhân viên toàn th ờ i gian ở Apple. Nhưng Fadell đã từ ch ối; anh thích sự t ự do c ủa mình.
Rubinstein đã rất t ức giận vớ i thứ ông cho là s ự l ằng nhằng c ủa Fadell. “Đây là m ột trong các quy ế t
đị nh c ủa cu ộc đờ i,” ông nói vớ i Fadell.” C ậu sẽ không bao giờ phải ân hận vì nó.”
Ông quyết đị nh ép Fadell. ông đã triệu tập cu ộc họ p vớ i khoảng 20 ngư ờ i thu ộc dự án này.
Khi Fadell bướ c vào, Rubinstein nói vớ i anh, “Tony, chúng ta s ẽ không làm dự án này cho t ớ i khi
cậu làm toàn thờ i gian. C ậu sẽ làm hay không? C ậu cần quyết đị nh ngay bây gi ờ .”
Fadell nhìn vào mắt Rubinstein, sau đó quay qua những ngư ờ i khác và nói, “Việc này lúc
nào cũng xả y ra ở Apple à, mọi ngườ i bị ép phải ký hợ p đồng?” Anh d ừng l ại m ột chút ròi đ ồng ý
và b ắt tay Rubinstein một cách mi ễn cư ỡ ng. “Chuyện đó đã đ ể l ại một s ố khúc m ắc giữa Jon và tôi
trong nhi ều năm,” Fadell nhớ l ại. Rubinstein cũng đồng ý: “Tôi không nghĩ c ậu ấ y đã tha thứ cho
tôi vì việc đó.”
Fadell và Rubinstein luôn xung đột, bở i c ả 2 ngườ i họ đều nghĩ mình đã khai sinh ra iPod.
Theo cách Rubinstein nhìn nh ận thì ông đã đượ c Jobs giao nhi ệm vụ nhiều th áng trướ c, tìm thấ y
những ổ đĩa c ủa Toshiba, tìm ra màn hình, pin và các linh kiện thi ết yếu khác. Sau đó ông mang
Fadell tớ i để ráp chúng l ạ i vớ i nha u, ông và nh ững ngư ờ i khác không v ừa lòng vớ i cách nhìn của
Fadell về vi ệc ví anh v ớ i “Tony Baloney.” Nhưng ở góc độ của Fadell, trư ớ c khi t ớ i Apple anh đã
có những k ế hoạch cho m ột chi ếc máy chơi MP3 hoàn hảo, và anh đã nghiên cứu vớ i nhi ều công ty
trướ c khi đồng ý đến vớ i Apple, v ấn đề về vi ệc ai sẽ là ngư ờ i nh ận nhiều công trạng cho iPod hơn,
hay danh hi ệu ngườ i khai sinh ra iPod, là một cu ộ c đấu qua nhi ều năm vớ i các cu ộc ph ỏng v ấn, báo
chí, các trang web, và th ậ m chí là các bản ghi trên W ikipedia.
Nhưng vài tháng sau đó họ quá bận để cãi nhau. Jobs muốn iPod đư ợ c bán ra vào Gi áng
sinh, và có nghĩa là nó phải s ẵn sàng để gi ớ i thi ệu vào tháng 10. Họ tìm các công ty đang thi ết kế
các máy chơi MP3 có th ể dùng làm nền móng cho công vi ệc ở Apple và ch ọ n m ột c ông ty nh ỏ có
tên là PortalPlayer. Fadell nói v ớ i nhóm này rằng “Đây là dự án s ẽ thay đ ổi Apple, và 10 năm n ữa
s ẽ là ngành kinh doanh âm nh ạc ch ứ không ph ải ngành kinh doanh máy tính.” Anh thuyết ph ục họ
ký một th ỏa thu ận độc quyề n, và nhóm của anh b ắt đầu s ửa đổi s ự thiếu hụt trong PortalPlayer,
ch ẳng h ạn như giao diện ph ức t ạp, pin yế u, và không có khả năng tạo m ột danh sách nhi ều hơn 10
bài.
Chính nó!
Có một s ố cu ộc họp đáng nhớ bở i vì chúng đánh dấu m ột th ờ i kh ắc l ị ch s ử và nó cho th ấ y
cách ngư ờ i lãnh đ ạo điều hành. Chẳng h ạn như cuộ c họp ở phòng hội ngh ị t ạ i t ầng 4 của Apple vào
th áng 4 năm 2001, nơi Jobs quyết đị nh những phầ n cơ bản của iPod. Có mặt để nghe Fadell trình
bày kế hoạ ch c ủa mình v ớ i Jobs là Rubinstein, Schiller, Ive, Jeff Robbin, và giám đ ốc marketing
Stan Ng. Fadell không biết Jobs, và anh cảm th ấ y bị đe d ọa m ột cách dễ hi ể u.
“Khi ông ấ y đi vào phòng h ọp, tôi đã đ ứng d ậ y và nghĩ, ‘Whoa, đây là Steve!’ Và tôi th ực
s ự ở tr ạng thái phòng bị vì tôi đã nghe về vi ệc ông ấ y có th ể cụ c cằn tớ i m ức nào.”
Buổi họp bắt đầu bằng phần gi ớ i thi ệu về th ị trườ ng ti ềm năng và các công ty khác đang
làm gì. Jobs, như thư ờ ng l ệ, không có s ự kiên nh ẫ n, “ông ấ y không chú ý tớ i bài gi ớ i thi ệu đư ợ c
quá một phút,” Fadell nói. Khi màn hình hi ển th ị những đ ối th ủ ti ềm tàng trên thị trườ ng, ông ấ y
phẩ y tay. “Đ ừng có lo v ề Sony,” ông nói. “Chúng ta bi ết mình đang làm gì, và h ọ thì không.” Sau
đó, họ dừng việc trình chiếu, thay vào đó Jobs tra t ấn cả nhóm vớ i hàng lo ạ t câu h ỏi. Fadell rút ra
đượ c m ột bài h ọc: “Steve muốn vào thờ i đi ểm đó (cuộc họp) thì phải nói tr ự c tiếp về các vấn đề.
Ông ấ y từng một l ần nói v ớ i tôi, ‘Nếu cậu cần trình chiếu, thì nó có nghĩ là cậu đang không biết
mình nói về cái gì.’”
Jobs thích đượ c nhìn các mẫu sản ph ẩm th ật để ông có th ể cảm nhận, xem xét và vu ốt ve.
Vì v ậ y Fadell mang tớ i phòng h ọp 3 mô hình; Rubinstein đã hướ ng d ẫn cậ u cách gi ớ i thi ệu đị nh
hướ ng lần lư ợ t các m ẫu sao cho lựa ch ọn mà ông ấ y thích đúng là m ột mẫu mà h ọ cho là vư ợ t trội.
Họ gi ấu m ẫu đó ở dướ i vòng gỗ tròn ở gi ữa bàn.
Fadell b ắt đầu ph ần gi ớ i thi ệu bằng cách l ấ y tất c ả các ph ần họ s ử dụng ra khỏi hộp và để
lên bàn. ở đó có ổ đĩa 1,8 inch, màn hình LCD, bo m ạch, pin, tất c ả đượ c dẤ n nhãn đ ề giá và trọng
lư ợ ng. Khi đưa chúng ra, họ bàn bạc về vi ệc giá c ả và kích thướ c có th ể xuống t ớ i m ức nào trong
năm tớ i. M ột s ố m ảnh có thể gắn lại vớ i nhau gi ống như trò chơi Lego để th ể hi ện các l ựa ch ọn.
Sau đó Fadell đưa ra các mô hình của anh, làm b ằ ng x ốp cách nhiệt vớ i các t ấm chì đượ c
chèn vào để có tr ọng lượ ng phù hợ p. Cái đầu tiên có m ột khe c ắm thẻ nhớ ngoài. Jobs bỏ qua nó vì
s ự phức t ạp. Cái thứ 2 có bộ nhớ RAM động, r ẻ hơn nhưng s ẽ m ất hết các bài hát n ếu hết pin. Jobs
không hài lòng. Tiếp theo Fadell ghép vài ph ần nh ỏ l ại v ớ i nhau để th ể hi ện một thi ết b ị vớ i ổ cứng
1,8 inch s ẽ trông thế nào. Jobs nhìn khá thích thú. Bu ổi trình di ễn tiến dần tớ i ch ỗ Fadell nâng tấm
gỗ lên và l ấ y ra mô hình đượ c l ắp ghép hoàn chỉ nh c ủa l ự a ch ọn này. “Tôi đã hy v ọng có thể thêm
chút th ờ i gian v ớ i nh ững miếng ghép Lego, nhưng Steve chọn ngay lựa ch ọ n dùng ổ c ứng theo
cách chúng tôi đã mô hình nó,” Fadell nhớ l ại. C ậu ấ y khá ngạc nhiên v ớ i quy trình làm vi ệc.” Tôi
t ừng ở Philips, nơi các quy ế t đị nh như th ế này cần ph ải họp đi họp l ại vớ i r ất nhi ều lư ợ t trình chi ếu
PowerPoint và phải nghiên c ứu thêm nhi ều lần nữ a.”
Ti ếp đến là lư ợ t c ủa Phil Schiller. “Tôi có thể mang các ý tưở ng c ủ a mình ra đượ c không?
ông hỏi. ông r ờ i kh ỏi phòng và quay l ại vớ i khá nhi ều các mô hình iPod, tất c ả đều gi ống nhau ở
m ặt trư ớ c: vòng xoay n ổi tiếng sau này. “Tôi đã nghĩ v ề cách b ạn duyệt qua danh sách,” ông nh ớ
l ại. “B ạn không thể nhấn m ột cái nút hàng trăm lầ n đư ợ c. Chẳng phải s ẽ r ấ t tuy ệt nếu bạn có m ột
vòng xoay?” B ằng cách c ải thi ện vòng xoay v ớ i ngón tay c ủa bạn, bạn có th ể lư ớ t qua các bài hát.
Bạn càng gi ữ lâu thì càng lư ớ t nhanh hơn, vì thế bạn có th ể duyệt qua hàng trăm bài m ột cách dễ
dàng. Jobs reo lên, “Chính nó!” ông đã để Fadell và các kỹ sư làm vi ệc trên ý tưở ng đó.
Khi dự án đượ c bắt đầu, Jobs m ải mê v ớ i nó hàng ngày. Yêu c ầu chính c ủ a ông là “Đơn
gi ản hóa!” ô ng có thể lư ớ t qua t ừng màn hình c ủ a giao diện ngườ i dùng và ki ểm tra một cách kh ắt
khe: nếu ông mu ốn m ột bài hát ho ặc m ột tính năng, ông c ần ph ải có nó trong 3 l ần nh ấn nút. Và
vi ệc nh ấn cần có cảm giác. N ếu ông không thể tìm ra cách đi tớ i cái gì đó, ho ặc nó m ất hơn 3 l ần
nhấn, ông sẽ tr ở nên thô l ỗ. “Có nh ững lúc ta ph ải phát điên lên vì nh ững v ấ n đề trong giao diện
ngư ờ i dùng, và nghĩ t ớ i vi ệc cân nhắc t ất c ả các kh ả năng, và ông thư ờ ng nói ‘C ậu có nghĩ về cái
này không?’” Fadell nói. “Và tất c ả chúng t ôi cùng nói, ‘Ch ết tiệt’, ông ấ y đị nh nghĩa l ại vấn đề
hoặc cách tiếp cận, và những v ấn đề nhỏ củ a chúng tôi sẽ bi ến m ất.”
M ỗi đêm Jobs có th ể gọi đi ện thoại để nói về những ý tư ở ng c ủ a mình. Fadell và những
ngư ờ i khác s ẽ phải gọi nhau dậ y và th ảo lu ận về đ ề nghị m ớ i nh ất c ủa Jobs, họ thư ờ ng tụ t ập l ại để
hướ ng ông tớ i ch ỗ mà h ọ muốn, nhưng thườ ng chỉ có hi ệu qu ả trong một nửa số trườ ng h ợ p.
“Chúng tôi có m ột cơn l ố c nh ững ý tư ở ng t ừ Steve và cần ph ải c ố đi trướ c nó,” Fadell nói. “M ỗi
ngày đ ều có nh ững thứ như vậ y, có th ể là cái c ần gạt nên ở đây, ho ặc màu của một cái nút, hay v ấn
đề về chiến lư ợ c giá c ả. Vớ i phong cách c ủa ông ấ y, bạn cần làm việc vớ i đ ồ ng đ ội c ủa mình, trông
ch ừng giúp nhau.”
M ột trong nh ững t ầm nhìn quan tr ọng c ủa Jobs là càng nhiều ch ức năng đượ c th ực hi ện
trên iTunes càng tốt, hơn là th ực hi ện nó trên iPod. Sau này ông nh ớ l ại:
Để giúp iPod th ực sự dễ dùng - và vi ệc này mất r ấ t nhi ều công sứ c tranh lu ận của tôi -
chúng tôi cần gi ớ i hạn các d ị ch v ụ mà thiết bị hỗ tr ợ . Thay vào đó chúng tôi đưa ch ức năng đó lên
iTunes trên máy tính. Chúng tôi không cho phép b ạn t ạo danh sách nh ạc ngay trên thiết bị . Bạn t ạo
chúng trên iTunes và sau đó đồng bộ vớ i thi ết bị . Đi ều đó đã gây tranh cãi. Nhưng th ứ làm Rio và
các thi ết bị khác quá khó dùng là vì chúng phứ c t ạ p. Ngư ờ i dùng cần làm các tác v ụ như tạo danh
sách nh ạc bằng thiết bị , vì nó không đượ c tích h ợ p vớ i ph ần mềm chơi nh ạc trên máy tính c ủ a bạn.
Vì thế bằng việc sở hữu ph ần m ềm iTunes và thiế t bị iPod, nó cho phép chúng ta đ ể máy tính và
thiết bị làm vi ệc cùng nhau, cho phép chúng ta đưa s ự phức t ạp tớ i đúng ch ỗ của nó.
Đỉ nh cao trong h ầu hết các s ự đơn gi ản hóa là mệ nh l ệnh c ủa Jobs, khiến các đồng s ự hết
s ức ng ạc nhiên, đó là iPod không có nút b ậưt ắt. Th ực t ế là h ầu hết các thiết bị của Apple: Không
cần ph ải có m ột cái như vậ y. Thiết bị của Apple s ẽ vào trạng thái ngủ đông n ếu không đư ợ c sử
dụng, và nó sẽ th ức dậ y khi b ạn ch ạm vào bất kỳ phím nào. Nhưng không cần ph ải có m ột c ần gạ t
để “Tách - bạn đã tắt. T ạ m bi ệt.”
Bỗng nhiên mọi thứ ở vào đúng vị trí c ủa nó: m ột ổ cứng lưu đư ợ c hàng nghìn bài hát; một
giao di ện và m ột vòng xoay cho phép bạn duyệt qua hàng nghìn bài hát; m ột kết nối FireWire cho
phép b ạn đồng bộ hàng nghìn bài hát mà không m ất t ớ i 10 phút. “Chúng tôi nhìn nhau và nói, ‘Nó
s ẽ tr ở nên thật tuy ệt vờ i,’” Jobs nh ớ l ại. “Chúng tôi biết nó tuyệt t ớ i m ức nào, bở i chúng tôi biết rõ
m ỗi ngườ i đều muốn có m ột cái cho riêng mình. Và ý tư ở ng này tr ở nên đơn giản m ột cách tuy ệt
vờ i: hàng nghìn bài hát trong túi của bạn.” Một trong nh ững ngư ờ i so ạn qu ả ng cáo củ a chúng tôi đề
xuất nên g ọi nó là “Pod.” Jobs là ngườ i đã mượ n từ tên iMac và iTunes đ ể đổi nó thành iPod.
S ắc tr ắng c ủ a chú cá voi
Khi Jony Ive và tôi đang nghiên cứu mô hình x ốp của chi ế c iPod và cố hình dung ra s ản
phẩm hoàn thiện sẽ nhìn như th ế nào thì m ột ý tưở ng đ ến vớ i c ậu ấ y trong buổi s áng khi đang lái xe
t ừ nhà ở San Fr ancisco t ớ i Cupertino. M ặt trư ớ c của nó nên có màu trắng tinh khiết, anh nói v ớ i
những đồng nghi ệp trong xe, và nó cần đư ợ c nối liền m ảnh v ớ i m ặt lưng bằ ng thép không tr ầ y,
s áng lo áng. “Ph ần l ớ n nh ững s ản ph ẩm tiêu dùng nh ỏ đều có cảm giác dễ dàng v ứt đi,” Ive nói. “Vì
không có sự hấp dẫn văn hóa nào vớ i chúng. Đi ều tôi tự hào nh ất về iPod là nó mang lại c ảm giác
rất đáng giá, không phải th ứ có th ể vứt bỏ.”
Màu trắng không ch ỉ là tr ắng đơn thuần, mà phải trắng tinh khiết. “Không chỉ là thiết bị ,
mà c ả tai n ghe của nó và những dây cáp nối và th ậ m chí là c ục sạ c,” anh nhớ l ại. “Trắng tinh
khiết.” Nh ững ngư ờ i khác tiếp tục tranh lu ận về vi ệc tai nghe tất nhiên nên là màu đen như t ất c ả
những chiếc tai nghe khác. “Nhưng Steve hiểu nó ngay lập tức, và ủng h ộ màu tr ắng,” Ive nói.
“Cần có sự thu ần khi ết trong nó.” Hình ảnh đôi tai nghe tr ắng ngo ằn ngoèo giúp iPod tr ở thành một
bi ểu tư ợ ng. Ive đã mô tả nó:
Có một thứ gì đó r ất ý nghĩa, rất quan trọng ở nó và không mang l ại c ảm giác rẻ rúng, đ ồng
th ờ i nó cũng mang v ẻ tĩnh lặng và t ự ch ủ. Nó không ve v ẩ y đuôi trư ớ c m ặt bạn. Nó t ự ch ủ, và m ột
chút điên rồ, vớ i đôi tai nghe u ốn lư ợ n. Đó là lý do vì sao tôi thích màu trắng. Trắng không ch ỉ là
m ột màu t ự nhiên. Nó vô cùng thu ần khiết và tĩnh l ặng. Rõ nét và nổi bật nhưng cũng không kém
phần kín đáo.
Nhóm marketing củ a Lee Clow ở TBWA \Chiat\Day muốn kỉ ni ệm hình tượ ng tự nhiên c ủ a
chiếc iPod cùng dáng vẻ tr ắng toát của nó thay vì m ột qu ảng cáo gi ớ i thi ệu sản ph ẩm truyề n th ống
vốn đơn thu ần ch ỉ gi ớ i thi ệu các tính năng c ủa thi ế t bị . James Vincent, m ột anh chàng ngư ờ i Anh
tr ẻ tu ổi cao lêu nghêu, ngườ i t ừng chơi cho m ột ban nhạc và từng làm công vi ệc DJ, mới tham gia
vào công ty qu ảng cáo, m ột cách t ự nhiên đã giúp Apple t ập trung quảng cáo vào những ngư ờ i yêu
nhạc thu ộc th ế h ệ ở bên thềm thiên niên kỷ m ớ i thay vì th ế h ệ nổi lo ạn sau thế chiến. V ớ i s ự tr ợ
giúp của giám đốc nghệ thuật Susan Alinsangan, h ọ đã tạo ra m ột chu ỗi các bi ển qu ảng cáo và các
áp phích cho chi ếc iPod, và h ọ đưa ra các l ựa ch ọ n trên bàn h ọp củ a Jobs để ông có th ể xem xét.
ở phía ngoài cùng bên phải họ để những l ựa ch ọn truyề n th ống nhất, vớ i nh ững hình tr ự c
di ện của iPod trên nền trắng, ở phía bên trái h ọ đ ể những l ự a ch ọn tạo hình và mang tính biểu
tư ợ ng, thể hi ện hình bóng củ a m ột ngườ i đang nh ả y trong khi nghe nh ạc vớ i m ột chi ếc iPod, dây
tai nghe màu tr ắng dao độ ng theo ti ếng nhạc. “Nó th ấu hiểu cảm xúc của bạn và m ối quan hệ mãnh
li ệt giữa bạn và âm nhạ c,” Vincent nói. Anh đ ề xuất v ớ i Duncan Milner, giám đ ốc sáng t ạo, họ nên
đứng một cách kiên quyế t về phía bên trái, đ ể xem họ có th ể thu hút Jobs v ề phía này không. Khi
ông đi vào, ông l ập tứ c đi về phía bên ph ải, nhìn vào nh ững b ức ảnh thực t ế của sản ph ẩm. “Nhìn
nó r ất tuy ệt,” ông nói. “Hãy bàn về những cái này.” Vincent, Milner và Clow không nhúc nhích di
chuy ể n chút nào ở phía còn l ại. Cu ối cùng, Jobs nhìn sang, li ếc qua các lựa ch ọn mang tính bi ểu
tư ợ ng hóa, và nói, “Oh, tôi đoán các anh thích những th ứ này.” ông lúc l ắc đầ u. “Nó không thể hi ệ n
đượ c sản ph ẩm. Nó không nói lên đó là thứ gì.” Vincent đ ề nghị rằng h ọ có th ể s ử dụng hình ảnh
mang tính bi ểu tư ợ ng và thêm vào dòng ghi chú, “1000 bài hát trong túi của bạn.” Nó sẽ nói lên tất
cả. Jobs nhìn l ại phía bên phải bàn và cu ối cùng đồng ý. Không có gì ngạc nhiên khi ông nhanh
chóng nh ận rằng đó là ý tư ở ng của mình trong việc thúc đẩ y nhi ều qu ảng cáo mang tính bi ểu tư ợ ng
hơn. “Có vài ngư ờ i theo ch ủ nghĩa hoài nghi luôn hỏi, Th ứ này thự c sự s ẽ giúp bán những chiếc
iPod ch ứ?” Jobs nhớ l ại. “Đó chính là khi việc trở thành một CEO tr ở nên thực sự hữu ích, vì t ôi có
th ể thúc đ ẩ y cho những ý tư ở ng này.”
Jobs nhận ra rằng có một l ợ i ích khác n ữa khi Apple có m ột hệ th ống tích hợ p máy tính,
phần m ềm và các thi ết bị . Đi ều đó có nghĩa là doanh s ố của iPod có th ể thúc đ ẩ y doanh s ố của
iMac. Nghĩa là, ông có thể l ấ y tiền mà Apple dùng đ ể quảng cáo cho iMac chuy ển qua những
quảng cáo cho iPod - bi ế n đồng ti ền trở nên giá tr ị gấp đôi. Th ự c t ế là g ấp ba, b ở i nh ững quảng cáo
đó thu hút những đ ối tư ợ ng tr ẻ trung và sành đi ệu đến vớ i thương hi ệu Apple, ông nhớ l ại:
Tôi đã có m ột ý tưở ng điên rồ về vi ệc chúng tôi có th ể bán nhiều iMac bằng vi ệc qu ảng cáo
cho iPod. Thêm vào đó, iPod sẽ bi ến Apple thành m ột bi ểu tư ợ ng c ủa sự s áng t ạo và tr ẻ trung. Vì
th ế tôi đã chuy ển 75 tri ệu đô -la ti ền qu ảng cáo sang cho iPod, m ặc dù lĩnh vực này chưa ch ứng
minh đượ c nổi doanh thu bằng 1% con s ố đó. Điều đó có nghĩa là chúng tôi hoàn toàn thống tr ị th ị
trườ ng máy nghe nhạ c. Chúng tôi đã chi nhiều hơn t ất c ả các công ty khác tớ i hàng trăm lần.
Các clip quảng cáo trên ti vi thể hi ện bóng ngư ờ i đang nhún nh ả y theo nh ững bài hát chọn
bở i Jobs, Clow và Vincent. “Tìm chọn các bài hát tr ở thành niềm vui chính của chúng tôi trong các
buổi họp marketing h àng tu ần,” Clow nói. “Khi chúng tôi bật nh ững b ản đo ạn khó nghe, Steve s ẽ
nói, Tôi ghét cái này,’ và James sẽ nói chuyện vớ i ông ấ y về nó.” Các qu ảng cáo đã làm nổi tiếng
rất nhi ều ban nhạc, đáng kể nhất là Black Eyed Peas; Qu ảng cáo vớ i bài “Hey Mama” là m ẫu kinh
đi ển của th ể lo ại nh ững bóng ngườ i nh ả y múa. Khi các quảng cáo m ớ i chu ẩ n bị đượ c phát, Jobs
thư ờ ng hay suy nghĩ l ại, gọi cho Vincent và yêu c ầu anh h ủ y nó đi. “Nó nghe hơi cổ” hay “Nó nghe
hơi t ầm thườ ng,” ông nói. “Hãy báo hủ y nó đi”. James c ảm thấ y bối r ối và cố nói l ại vớ i ông.
“Khoan đã, nó sẽ tr ở nên tuy ệt vờ i,” anh tranh luận. Và Jobs luôn luôn mủi lòng, qu ảng cáo vẫn
đượ c làm, và ông sẽ thích nó.
Jobs gi ớ i thi ệu iPod ngày 23 tháng 10 năm 2001, ở m ột trong các s ự ki ện gi ớ i thi ệu sản
phẩm theo phong cách đặ c trưng c ủa ông. “G ợ i ý: nó không ph ải m ột máy Mac,” và nh ận lấ y
những l ờ i khiêu khích. T ớ i lúc ti ết l ộ s ản ph ẩm, sau khi giớ i thi ệu các khả năng k ỹ thu ật, Jobs
không làm thủ thuật quen thu ộc của ông là đi t ớ i chi ếc bàn và gỡ bỏ l ớ p nhung phủ trên sản ph ẩm.
Thay vào đó ông nói, “Tôi tình cờ có m ột chi ếc ngay ở đây, trong túi của mình.” ông đưa tay vào
trong túi qu ần bò và lôi ra một thi ết bị tr ắng bóng. “Thi ết bị nhỏ bé đ áng kinh ngạ c này lưu m ột
nghìn bài hát, và nó ở ngay trong túi của tôi.” Ông nhét nó lại vào trong túi và ch ậm rãi bướ c kh ỏi
sân kh ấu trong sự tán thư ở ng.
Ban đầu có m ột s ố hoài nghi từ những ngư ờ i đam mê công ngh ệ, đ ặc biệt là v ề m ức giá 399
đô la. Trong gi ớ i blogger rộ lên nh ững l ờ i đùa c ợ t về “thi ết bị vớ i m ức giá ngu ng ốc. ” Tuy nhiên,
ngư ờ i tiêu dùng nhanh chóng bi ến nó thành một s ả n ph ẩm rất thành công. Hơn thế nữa, iPod đã tr ở
thành ph ần thi ết yếu củ a t ất c ả những gì Apple hư ớ ng tớ i: kết n ối đ ầ y thi vị gi ữa ch ế t ạo, nghệ thuật
và s áng t ạo công nghệ, thi ết kế đậm nét và đơn gi ả n. Nó r ất dễ s ử dụng và đi cùng một hệ th ống
tích hợ p từ đầu chí cuối, từ máy tính tớ i FireWire t ớ i thi ết bị và tớ i ph ần m ềm quản lý nội dung.
Khi bạn lấ y m ột chi ếc iPod ra kh ỏi hộp, nó đ ẹp tới m ức trông như đang tỏa sáng, và nó làm t ất c ả
các máy chơi nh ạc khác trông chúng như đư ợ c thi ết kế và s ản xu ất ở Uzbekistan.
Kể t ừ phiên b ản Mac đầu tiên đã cho thấ y Jobs có một t ầm nhìn sáng rõ v ề s ản ph ẩm giúp
đưa công ty tiến vào tương lai. “N ếu bất kỳ ai không rõ vì sao Apple lại có m ặt trên đ ờ i, tôi s ẽ l ấ y
đây làm một ví dụ t ốt,” Jobs nói vớ i Steve Levy c ủa Newsweek lúc đó. Wozniak, ngư ờ i t ừ đầu
luôn nghi ngờ về những h ệ th ống tích hợ p, bắt đầ u thay đổi tri ết lý củ a mình. “Wow, thật hợ p lý
khi Apple là công ty tiên phong vớ i ý tưở ng này,” Wozniak ca ngợ i sau khi iPod đư ợ c bán ra. “Sau
t ất c ả, trong toàn b ộ l ị ch s ử của mình Apple luôn phát tri ển cả phần cứng l ẫn ph ần m ềm, vớ i kết
quả là c ả hai làm việc t ốt hơn cùng nhau.”
Vào ngày Levy có buổi gi ớ i thi ệu trư ớ c vớ i báo gi ớ i về iPod, ông có cuộ c gặp m ặt vớ i Bill
Gates ở bữa t ối, và ông đã cho Gates xem m ột chi ếc iPod. “ông đã thấ y th ứ này chưa?” Levy h ỏi.
Sau này ông ghi chú l ại, “Gates làm tôi nh ớ t ớ i nh ững b ộ phim khoa họ c vi ễn tư ở ng nơi nh ững
ngư ờ i ngoài hành tinh đ ối diện vớ i một v ật thể m ớ i l ạ, t ạo ra nh ững đườ ng ống năng lượ ng n ối giữa
ông và vật th ể đó, cho phép ông đưa th ẳng vào não bộ t ất c ả những thông tin có thể về nó.” Gates
s ử dụng vòng xoay và nh ấn m ọi t ổ hợ p phím có th ể, trong khi mắt dính ch ặt vào màn hình. “Nó là
m ột s ản ph ẩm tuyệt vờ i,” cuối cùng ông ấ y nói. Sau đó ông ấ y dừng l ại m ột chút, nhìn khá b ối r ối
và h ỏi: “Nó ch ỉ dành cho Macintosh?”
Chú thích:
Hệ đi ều hành Mac phiên b ản 10.
Lysergic Acid Diethylamide (LSD) là 1 lo ại ma túy gây ảo giác cực m ạnh.
Lithium-polymer.
Chương 31: KHO NHẠ C iTUNES
Ta là Pied Piper
(31)
Warner Music
Đầu năm 2002, Apple ph ải đối m ặt vớ i m ột th ử thách. M ối liên h ệ hoàn h ả o gi ữa chi ếc
iPod, ph ần mềm iTunes, và máy vi tính tạo điều kiện cho b ạn qu ản lý dễ dàng kho nh ạ c mình đang
s ở hữu. Nhưng để có thêm nhạc m ớ i, bạn sẽ phải r ờ i bỏ không gian êm ái d ễ ch ị u kia mà lê xác đi
mua một chi ếc CD hoặc t ải bài hát trên m ạng. Phương Ấn th ứ hai thư ờ ng đ ồ ng nghĩa vớ i việc ph ải
“t ả xung h ữu đột” vào mê cung tăm tối r ối r ắm của ho ạt động chia sẻ dữ li ệu và các d ị ch v ụ ăn c ắp
nhạc không b ản quyề n. Do đó Jobs muốn cung cấp cho ngư ờ i dùng iPod m ột cách th ức t ải nh ạ c
đơn gi ản, an toàn và h ợ p pháp.
Nền công nghi ệp âm nhạ c cũng ph ải đối m ặt vớ i m ột thách th ức khác. Nó đang ph ải ch ị u
s ự t ấn công của cơn l ốc các d ị ch v ụ ăn c ắp nh ạc không b ản quyề n - Naptster, Grokster, Gnutella,
Kazaa - cho phép m ọi ngườ i l ấ y nh ạc mà không ph ải trả m ột đồng nào. Một ph ần cũng vì vấn nạn
này mà doanh thu bán CD hợ p pháp đã gi ảm 9% trong năm 2002.
Giám đ ốc các hãng thu âm đang ph ải vật l ộn trong tuyệt vọng, v ớ i “phong thái” của nh ững
đứa trẻ ranh l ớ p hai chơi bóng đá, hòng th ống nhất m ột tiêu chu ẩn chung cho nhạc số ch ống sao
chép trái phép. Paul Vidich đ ến từ Warner Music và đồng s ự của ông làm vi ệc trong cùng m ột t ập
đoàn Bill Raduchel của AOL Time Warner đang làm việc vớ i Sony v ề v ấn đề này, và cả hai hi
vọng s ẽ lôi kéo đư ợ c Apple vào liên minh của mình. V ậ y là vào tháng M ột năm 2002, c ả nhóm bay
đến Cupertino để gặp Jobs.
Đó không phải m ột cu ộc họp dễ ch ị u gì cho cam. Vidich bị cảm lạnh, mất gi ọng, nên phó
của ông là Kevin Gage phải thuyết trình thay. Jobs nhấp nh ổm liên t ục trên ghế ch ủ to ạ, mặt cau có
khó ch ị u. Sau có bốn trang thuy ết trình, ông ph ẩ y tay và c ắt ngang bài nói. Ông s ổ to ẹt: “Đ ầu củ a
các anh m ọc trên mông à?” Tất c ả m ọi ánh m ắt đều đổ dồn về Vidich, khi ấy đang gắng gượ ng h ết
s ức để l ấ y giọng. “Anh nói đúng,” ông lên ti ếng sau m ột kho ảng im l ặng dài. “Chúng tôi chẳng bi ết
phải làm thế nào cả. Anh ph ải giúp chúng tôi nghĩ cách m ớ i đư ợ c.” Sau này, khi nh ớ l ại, Jobs đã
thú th ực là lúc đ ấ y mình hơi ng ỡ ngàng, và ông đồ ng ý rằng Apple sẽ chung tay v ớ i nỗ l ực của
Warner và Sony.
Giá kể các công ty thu âm đủ khả năng th ống nhấ t m ột phương pháp mã hoá chu ẩn nh ằm
bảo vệ dữ li ệu nh ạc thì hẳ n vô số kho nh ạc trực tuy ến đã có cơ h ội mọc lên như nấm sau mưa. Nế u
vậ y ch ắc ch ắn Jobs sẽ khó lòng tạo ra m ột Kho Nh ạc iTunes cho phép Apple ki ểm soát đư ợ c cách
th ức điều ph ối ho ạt đ ộng bán nhạc trực tuy ế n. Tuy nhiên, Sony đã tặng cho Jobs cơ hội đó khi hãng
quyết đị nh, ngay sau cuộ c họp th áng
M ột năm 2002 tại Cupertino, là s ẽ rút kh ỏi m ọi cu ộc th ảo lu ận vì hãng chỉ ưu tiên format
thuộc quyề n sở hữu của mình, v ốn là nguồn mang lại phí b ản quyề n cho hãng.
Tổng giám đ ốc Sony Nobuyuki Idei đã phân trần vớ i t ổng biên tập Red Herring Tony
Perkins r ằng: “Anh th ừ a bi ết Steve ròi đ ấ y, ông ấ y luôn có lộ trình làm v i ệc của riêng mình. Mặ c
dù ông ấ y là một thiên tài th ật, song ông ấ y ch ẳng bao gi ờ chia sẻ t ất c ả m ọi chuy ện vớ i anh. Ki ểu
ngư ờ i như thế rất khó làm vi ệc cùng, nhất là khi anh là m ột công ty l ớ n... Đó là m ột cơn ác mộng.”
Howard stringer, khi đó là giám đốc Sony khu vực Bắc M ỹ, còn chua thêm m ột câu v ề Jobs:
“Thành thực mà nói, cố gắng hoà hợ p vớ i nhau ch ỉ là m ột trò phí thì gi ờ vô ích.”
Thay vào đó, Sony bắt tay v ớ i Universal nh ằm tạo ra m ột dị ch v ụ đăng kí tải nh ạc tên là
Pressplay. Trong khi đó, AOL Time Warner, Bertelsmann, và EMI lại liên k ết vớ i RealNetworks
để t ạo ra MusicNet. Không d ị ch v ụ nào ch ị u bán bản quyền nh ạ c của mình cho đối th ủ, vì th ế m ỗi
bên ch ỉ cung c ấp đư ợ c m ột nửa kho nhạc hi ện hành. C ả hai đ ều là nh ững d ị ch v ụ đăng ký nghe
nhạc cho phép khách hàng nghe nhạ c nhưng không đượ c lưu l ại, vì vậ y nếu tài khoản đăng ký c ủ a
bạn hết hiệu l ực, bạn cũng nghỉ nghe nhạc luôn. C ả hai d ị ch v ụ đều có nh ững quy đị nh phức t ạp và
giao di ện vô cùng kém thân thiện. Và quả th ật, chúng đã đư ợ c “vinh d ự ” xếp thứ chín trong danh
sách “25 sản ph ẩm công nghệ t ệ hại nh ất m ọi th ờ i đại” c ủa PC World. T ạp chí tuyên bố: “Các đặc
tính ng ớ ngẩn đến khó tin của nh ững d ị ch v ụ này cho thấ y các công ty thu âm v ẫn chưa hi ểu ra vấn
đề.”
Trong tình hình đó, lẽ ra Jobs đã có thể ch ọn cách dung túng hoạt động ăn c ắp nh ạ c. Nhạ c
miễn phí càng giúp nâng giá trị củ a iPod lên thêm. Tuy nhiên, vì ông là ngườ i thực sự yêu âm nhạc,
và những ngư ờ i nghệ sĩ đã t ạo ra nó, nên ông ph ản đối nh ững gì mà ông nhìn nh ận như một s ự
cư ớ p bóc các sản phẩm sáng t ạo. Sau này ông đã tâm s ự vớ i tôi rằng:
Từ những ngày đ ầu tiên ở Apple, tôi đã hiểu ra m ột đi ều rằng: chúng ta b ắt đầu phát tri ển
th ị nh vượ ng k ể t ừ khi ta t ạo ra quyền sở hữu. N ếu ngườ i khác sao chép ho ặ c ăn cắp ph ần mềm củ a
chúng tôi, chúng tôi s ẽ phá sản m ất. N ếu nó không đư ợ c bảo vệ, thì ch ẳng còn động l ự c nào thôi
thúc chúng tôi tạo ra nh ữ ng phần mềm mớ i ho ặ c các m ẫu mã s ản ph ẩm mớ i nữa. N ếu hàng rào b ảo
vệ quyền sở hữu dần biết mất, các công ty trong lĩnh vực sáng t ạ o sẽ bi ến mấ t theo ho ặ c không bao
gi ờ đượ c thành l ập. Song có một lý do gi ản dị hơn: ăn c ắp là sai trái. Nó gây tổn hại đến nh ững
ngư ờ i khác. Và nó còn làm t ổn thương lòng tự tr ọ ng c ủ a chính b ạn.
Tuy nhiên, ông biết r ằng cách t ốt nh ất để ch ống l ạ i nạn ăn cắp nh ạc - th ự c ra là cách duy
nhất - là cung c ấp một phương án thay th ế hấp dẫn hơn những d ị ch v ụ chán ngắt mà các công ty thu
âm đang dựng lên. ông nói v ớ i Andy Langer c ủ a t ạp chí Esquire: “Chúng tôi tin rằng 80% những
ngư ờ i đi ăn cắp đều ở th ế cực ch ẳng đã, ch ỉ vì ch ẳ ng có phươn g án thay th ế nào hợ p pháp cả. Vì
vậ y chúng tôi nói: Ta hãy t ạo ra m ột phương án thay th ế hợ p pháp cho nó.’ Tất c ả m ọi ngườ i đều
đượ c l ợ i. Các công ty nh ạ c đư ợ c l ợ i. Các nghệ sĩ đư ợ c l ợ i. Apple đư ợ c l ợ i. Và ngư ờ i s ử dụng đượ c
l ợ i, vì anh ta nh ận đư ợ c dị ch vụ t ốt hơn và không phải s ắm vai một th ằng ăn c ắp nữ a.”
Thế là Jobs b ắt tay vào xây d ựng một “Kho Nhạc iTunes” và thuyế t ph ục năm công ty thu
âm l ớ n nh ất cho phép bán các phiên b ản nh ạc số củ a họ trên đó. “Tôi chưa bao gi ờ bỏ ra nhiều thờ i
gian đến thế đ ể cố thuy ết ph ục nh ững ngư ờ i khác làm điều có lợ i cho b ản thân họ,” ông nh ớ l ại. v ề
căn bản, các công ty đều lo ng ại về mô hình đặt giá và v ấn đề xé lẻ album nh ạc, nên Jobs bèn giải
thích r ằng d ị ch v ụ ông m ớ i nghĩ ra s ẽ ch ỉ có trên máy Macintosh, chi ếm có 5% ít ỏi c ủa toàn thị
trườ ng. Họ có th ể th ử nghi ệm sáng ki ến này v ớ i r ủi ro r ất nh ỏ. “Chúng tôi vi ệ n dẫn thị phần nh ỏ bé
của mình ra theo hướ ng có l ợ i cho mình vớ i l ập lu ận rằng n ếu kho nh ạc th ấ t bại, thì th ế gi ớ i cũng
ch ẳng vì thế mà s ụp đổ,” ông nói.
Jobs đề xuất bán m ỗi bài hát s ố vớ i giá 99 xu - m ột cái giá giản dị và ngẫu hứng. Các công
ty thu âm s ẽ đượ c nh ận 70 xu trong s ố đó. Jobs khẳng đ ị nh r ằng nó s ẽ h ấp dẫn hơn nhi ều so vớ i mô
hình đăng ký hàng tháng mà các công ty nhạ c vẫn ưa dùng. Ông tin r ằng m ỗ i ngư ờ i đ ều có m ột mối
liên hệ c ảm xúc vớ i nh ững bài hát h ọ yêu thích. H ọ muốn sở hữu “Sympathy for the Devil” (Lòng
thương c ảm dành cho qu ỷ s ứ) và “Shelter from the storm” (Chốn nương náu trong cơn bão tố), ch ứ
không ch ỉ thuê chúng. Như hòi đó ông đã có lần nói v ớ i Jeff Goodell của t ờ Rolling Stones: “Tôi
nghĩ anh có th ể đưa bài Second Corning (Tái sinh) lên một dị ch v ụ đăng ký và có lẽ nó s ẽ không
thu đư ợ c thành công.”
Jobs cũng đòi Kho Nh ạc iTunes ch ỉ bán t ừng bài hát riêng l ẻ, ch ứ không bán cả album. Đó
rốt cu ộc chính là ngu ồn gốc gây nhi ều xung đột nh ất vớ i các công ty thu âm, vốn ki ếm tiền bằng
cách tung ra những album ch ỉ có 2, 3 bài hát hay thật s ự đi kèm m ột tá nh ữ ng bài “thườ ng thư ờ ng
bậc trung.” M ột s ố nhạ c sĩ còn d ựa trên quan đi ể m nghệ thuật để phản đối kế hoạch xé l ẻ album
của Jobs. Trent Reznor c ủa ban nhạ c Nine Inch Nails cho rằng: “M ột album hay là m ột album có
m ột âm hư ở ng chung. Trong đó, các bài hát bổ khuyết cho nhau. Tôi thích làm nhạc theo cách đó.”
Song các ý kiến ph ản đối đều ch ẳng có m ấ y giá tr ị . Jobs nh ớ l ại: “Các ho ạt động ăn c ắp nh ạc và tải
nhạc trự c tuy ế n thực ra đã xé nát các album t ừ lâu r ồi. B ạn không thể cạnh tranh n ổi v ớ i b ọn ăn cắp
nhạc, tr ừ phi bán t ừng bài hát riêng l ẻ.”
Trung tâm c ủa vấn đề là h ố sâu ngăn cách gi ữa nh ững ngư ờ i yêu công ngh ệ và những
ngư ờ i yêu ngh ệ thuật. Jobs yêu c ả hai, đúng như nh ững gì ông đã b ộ c l ộ ở Pixar và Apple, do đó
ông đã đư ợ c “tr ờ i đị nh” là ngườ i bắc cầu nối liền khoảng cách đó. về sau ông đã gi ải thích:
Khi tôi đến Pixar, tôi dần dần nh ận th ức đư ợ c m ột m ối chia r ẽ sâu s ắ c. Các công ty công
nghệ không hi ểu đư ợ c sự s áng t ạo. H ọ không bi ết trân tr ọng tư duy tr ực giác, như kh ả năng c ủa
m ột nhân viên tìm ki ếm tài năng trong một công ty thu âm: ng ồi nghe nhạc của một trăm nghệ sĩ và
có th ể l ọc ra năm ngườ i có kh ả năng thành công. Và h ọ nghĩ rằng những ngư ờ i làm trong lĩnh v ự c
s áng t ạo ch ỉ su ốt ngày ng ồi ì trên gh ế sa lông và là những k ẻ vô t ổ ch ức, bở i họ chưa đượ c nhìn
th ấ y nh ững ngư ờ i làm công việ c s áng t ạo ở những nơi như Pixar tâm huyết và kỉ lu ật t ớ i m ức nào.
M ặt khác, các công ty âm nh ạc l ại hoàn toàn mù t ị t v ề công ngh ệ. Họ c ứ nghĩ rằng chỉ cần ra đư ờ ng
là thuê ngay đượ c vài anh chàng làm công ngh ệ. Song nó cũng gi ống như Apple cố ki ếm ngườ i s ản
xuất nh ạc vậ y. Chúng tôi sẽ ch ỉ tuyể n đư ợ c các nhân viên tìm ki ếm tài năng h ạng hai, cũng như các
công ty nhạc sẽ ch ỉ thuê đượ c dân công nghệ hạng hai. Tôi là một trong số ít nh ững ngư ờ i hi ểu
đượ c quá trình t ạo ra công nghệ đòi hỏi nhi ều trực giác và sán g t ạo đến th ế nào và quá trình t ạo ra
m ột s ản ph ẩm nghệ thu ật c ần tính kỉ lu ật th ực th ụ t ớ i đâu.
Jobs v ốn có m ối quan hệ lâu năm v ớ i Barry Schuler, t ổng giám đ ốc bộ phận AOL củ a Time
Warner, nên đã tìm đến ông đ ể tham v ấn cách lôi kéo các hãng thu âm đồng ý cộng tác vớ i Kho
Nhạc iTunes. “Vấn nạn ăn cắp nh ạ c đang đẩ y tất c ả m ọi ngườ i vào thế ‘con giun xéo lắm cũng
quằn’,” Schuler nói. “Anh nên dùng lập lu ận rằng vì anh có s ẵn trong tay một dị ch v ụ đầu - cu ối
hoàn chỉ nh, t ừ iPods đ ến kho nhạc, do đó, anh có t hể bảo vệ cách th ứ c âm nhạc đư ợ c sử dụng một
cách hi ệu qu ả nhất.”
M ột ngày th áng Ba năm 2002, Schuler nhận đư ợ c một cú đi ện thoại c ủa Jobs và quyết đị nh
m ờ i c ả Vidich cùng nói chuyện tay ba. Jobs hỏi Vidich liệu ông có thể bay t ớ i Cupertino cùng ch ủ
t ị ch Warner Music, Roger Ames, đư ợ c chăng. Lần này Jobs ăn nói vô cùng nhã nh ặn l ị ch s ự. Ames
là m ột ngườ i Anh thông minh, thâm trầm, hài hước, ki ểu ngườ i mà Jobs rất thích (gi ống như James
Vincent và Jony Ive). Th ế là ch ế độ Steve Đáng Yêu đư ợ c dị p kích ho ạt. T hậm chí vào m ột th ờ i
đi ểm khi cuộc họp m ớ i bắt đầu, Jobs còn t ự mình sắm m ột vai h ết s ức bất thư ờ ng: nhà ngo ại giao.
Ames và Eddy Cue, phụ trách điều hành iTunes cho Apple, sa vào một cu ộc tranh cãi xoay quanh
vấn đề t ại sao đài phát thanh ở Anh lại không phát tri ển m ạnh mẽ như ở M ỹ, thì Jobs xen vào và
nói: “Chúng ta am hiểu về công ngh ệ, nhưng đ ối v ớ i âm nh ạc thì không đư ợ c thông th ạo bằng, nên
thôi, đ ừng đôi co nữ a.”
Ames vừa thua một trận trư ớ c ban quản trị : ông mu ốn bộ phận AOL trong t ậ p đoàn ph ải c ả i
ti ến dị ch v ụ t ải nh ạc mớ i ra đ ờ i c ủa chính mình. “Khi dùng AOL đ ể t ải về m ột bài hát, tôi đ ến ch ị u
không tài nào tìm thấ y nó trong cái máy vi tính ch ết tiệt c ủa mình,” ông nh ớ l ại. Vì v ậ y khi Jobs
trưng ra một b ản demo c ủ a Kho Nh ạc iTunes, Ames đã bị ấn tư ợ ng m ạnh m ẽ . “Ph ải, ph ải, đó chính
xác là thứ chúng tôi đã chờ đợ i bao lâu nay,” ông nói. Ông đồng ý rằng Warner Music s ẽ tham gia,
và còn đề nghị giúp lôi kéo các công ty âm nhạ c khác nữa.
Jobs bay sang mi ền đông đ ể gi ớ i thi ệu về dị ch v ụ này vớ i các lãnh đ ạo khác của Time
Warner. “Anh ấ y ng ồi trư ớ c chi ếc máy Mac cứ như m ột đứa trẻ nghị ch đồ chơi ,” Vidich k ể.
“Không giống như các giám đốc khác, anh ấ y tuyệ t đối say đ ắm sản ph ẩm của mình.” Ames và
Jobs b ắt đầu m ổ x ẻ các chi ti ết liên quan đ ến Kho Nh ạc iTunes, bao g ồm số l ần m ột bản nh ạc có
th ể đượ c lưu vào nh ững thiết bị khác nhau và làm cách nào để hệ th ống chống sao chép ho ạt động
hi ệu qu ả. Họ nhanh chóng tìm đư ợ c tiếng nói chung và b ắt đ ầu bắt tay vào lôi kéo các tên tuổi khác
trong ngành âm nh ạc.
Herding Cats
Cái tên quan tr ọng phải kể đến đầu tiên là Doug Morris, chủ t ị ch c ủa Universal Music
Group. Gia tài củ a ông bao g ồm những ngh ệ sĩ thuộc hàng “không th ể thiế u m ặt” như U2,
Eminem, và Maria Carey, cũng như những thương hiệu như Motown và Interscope -
Geffen-A&M. Morris rất s ẵn lòng đàm phán . Hơn b ất kỳ ngư ờ i kh ống lồ nào khác trong ngành âm
nhạc, ông r ất đau đ ầu nh ức óc về vấn nạn ăn cắp nh ạc và đã phát chán ch ất lư ợ ng c ủa đội ngũ làm
công ngh ệ ở các công ty nh ạc. “Ch ả khác gì Miền Tây Hoang Dã cả,” Morri s kể. “Không m ột ai
bán nhạc số c ả, còn n ạn ăn cắp nh ạ c thì hoành hành ngang ngượ c. T ất c ả những gì chúng tôi thử
nghi ệm tại các công ty thu âm đ ều th ất bại. S ự khác bi ệt về kĩ năng gi ữa nh ững ngư ờ i làm trong
lĩnh v ực âm nhạc và các chuyên gia công ngh ệ quá l ớ n.”
Trên đườ ng cùng Jobs t ớ i văn phòng c ủa Morris trên Broadway, Ames đã “phím” trướ c
cho Jobs bi ết c ần ph ải nói gì. Kết qu ả mĩ mãn. Điề u khiến Morris ấn tư ợ ng mạnh mẽ nhất là Jobs
đã g ắn kết mọi thứ vớ i nhau theo m ột phương th ức vừa t ạo điều kiện cho ngư ờ i s ử dụng ti ếp cận dễ
dàng, v ừa an toàn cho các công ty thu âm. Morris khen: “Steve đã làm đượ c một điều thiên tài. Anh
ấ y đưa ra một hệ th ống hoàn thiện: Kho Nhạc iTunes, ph ần m ềm quản lý âm nhạc, và chính chi ếc
Ipod. Mọi th ứ đều hoàn hảo, không tì vết. Anh ấ y có cả m ột bộ s ản ph ẩm hoàn chỉ nh.”
Morris bị thuy ết ph ục r ằng Jobs có t ầm nhìn kĩ thuật mà các công ty nh ạc hi ện nay đang r ất
thiếu. “Dĩ nhiên chúng ta ph ải trông c ậ y cả vào Steve Jobs,” ông nói v ớ i phó giám đốc công nghệ
của chính tập đoàn mình, “vì tại Universal, chúng ta ch ẳng có ai biết tí gì v ề công ngh ệ cả.” Đi ều
đó, dĩ nhiên, không hề khiến các chuyên viên công nghệ của Universal sốt s ắng làm vi ệ c vớ i Jobs
chút nào, và Morris phải liên t ục ra l ệnh h ọ ch ấm dứt m ọi s ự ch ống đ ối và bắt tay vào th ực hi ện
m ột giao kèo th ật nhanh. Họ cũng đ ưa thêm đượ c vài đi ều khoản gi ớ i hạn vào FairPlay, h ệ th ống
quản lý quyề n sở hữu số của Apple, để m ột bài hát đã đư ợ c bán đi không th ể bị phát tán ra quá
nhiều thi ết bị . Song v ề cơ b ản, họ đều đi theo ý tưở ng Kho Nhạc iTunes mà Jobs đã xây d ựng v ớ i
Ames và các đồng nghiệ p tại Warner củ a ông.
Morris bị mê mẩn vì Jobs đến nỗi ông g ọi c ả Jimmy lovine, v ị giám đ ốc xấc xư ợ c, nói
nhanh như súng bắn củ a công ty con lnterscope -Geffen -A&M. lovinve và Morris là hai ngườ i bạn
rất thân, su ốt ba mươi năm qua không có ng ày nào họ không nói chuyệ n vớ i nhau. “Khi tôi g ặp
Steve, tôi nghĩ anh ấ y chính là c ứu tinh của chúng tôi, vì v ậ y tôi phải đưa Jimmy đi g ặp ngay để
anh ấ y th ấ y.”
Nếu muốn, Jobs có th ể bi ến mình thành một ngườ i tao nhã quyến rũ tuyệt vờ i, và ông cũng
bật ch ế độ này lên khi lovine bay đ ến Cupertino để xem bản demo. “Anh th ấ y chưa, đơn gi ản quá
phải không?” ông h ỏi lovine. “Phải dân công ngh ệ ở ch ỗ anh sẽ không bao giờ làm th ế. Trong các
công ty nhạc ch ẳng có ai có thể làm ra m ột chương trình đơn gi ản đến th ế.”
lovine lập tức gọi cho Morris. “Anh chàng này th ật có m ột không hai!” ông nói. “Anh nói
đúng. Anh ta có một gi ải pháp số dzách luôn.” Họ than th ở rằng mình đã m ất toi hai năm v ật l ộn
vớ i Sony mà chẳng đi đ ế n đâu c ả. Cả hai thống nhất s ẽ không làm việc vớ i Sony n ữa, thay vào đó
s ẽ bắt tay v ớ i Apple. “Tôi không th ể hi ểu nổi t ại sao Sony l ại bỏ l ỡ cơ h ội này, đúng là m ột sai lầm
l ị ch s ử,” lovine nói. “N ếu các b ộ phận không làm vi ệc đư ợ c vớ i nhau, th ế nào cũng có k ẻ bị Steve
t ống c ổ ngay, còn các ban b ệ của So ny thì gấu ó vớ i nhau su ốt ngày.”
Thật v ậ y, Sony cung c ấp một ví d ụ đối ngh ị ch hoàn h ảo vớ i Apple. Nó có m ột b ộ phận điện
t ử tiêu dùng chuyên làm ra nh ững s ản ph ẩm đẹp đẽ và b ộ phận nh ạc thu hút đư ợ c nh ững ngh ệ sĩ
đượ c yêu mến (trong đó có cả Bob Dylan). N hưng mỗi bộ phận lại ch ỉ bo bo b ảo vệ quyền lợ i c ủa
mình, cả t ập đoàn chưa bao gi ờ cùng đoàn k ết t ừ trên xu ống dướ i nh ằm sản xu ất ra m ột dị ch v ụ
hoàn chỉ nh.
Andy Lack, ch ủ t ị ch m ớ i c ủa Sony Music, ph ải nh ận m ột trọng trách chẳng có gì đ áng
thèm mu ốn, đó là đàm phán vớ i Jobs xem liệu Sony có bán nhạ c của mình trên Kho Nhạc iTunes
không. Ngài Lack khôn ngoan và ít ki ềm ch ế đã có một s ự nghi ệp rạng r ỡ trong ngành truy ề n hình
- ông là một nhà s ản xu ất t ại CBS News và là chủ tịch NBC - và ông rất biết cách nhìn ngư ờ i và gi ữ
óc hài hư ớ c củ a mình, ông nh ận ra rằng, đối vớ i Sony, vi ệ c bán những bài hát thuộc sở hữu của
công ty trên Kho Nhạc iTunes là một hành động v ừa điên r ồ vừ a cần thi ết - dườ ng như nhận đị nh
này cũng đúng v ớ i r ất nhi ều quyết đị nh trong ngành công nghi ệp âm nhạ c. Xem ra Apple ch ẳng
khác m ột tay k ẻ cư ớ p là m ấ y, không ch ỉ bở i nó cắ t xẻo bớ t doanh thu bán bài hát của các công ty
nhạc, mà còn tăng đượ c doanh s ố iPod bán ra. Lack tin rằng các công ty nhạc cũng đóng góp vào
thành công của iPod, vì v ậ y họ đ áng đượ c hư ở ng hoa hồng trên m ỗi thi ết bị bán ra.
Trong rất nhi ều cu ộ c nói chuyệ n, Jobs đ ều đồng tình v ớ i Lack và kh ẳng đ ị nh r ằng ông
muốn trở thành một đối tác th ực th ụ củ a các công ty nh ạ c. “Steve, chỉ cần anh cho tôi chút gì đó
trên m ỗi thi ết b ị bán r a, anh s ẽ thu ph ụ c đư ợ c tôi,” Lack nói b ằng chất giọng sang s ảng. “Đó là một
chiếc máy r ất đẹp. Nhưng nhạ c củ a chúng tôi m ớ i giúp nó bán đượ c. Theo thiển ý c ủ a tôi, thì đó
m ớ i là một m ối quan hệ làm ăn đích th ực.”
Hơn m ột l ần Jobs đã tr ả l ờ i: “Tôi đồng ý vớ i anh.” Nhưng rồi ông l ại tìm đ ến Doug Morris
và Roger Ames đ ể kêu ca, v ớ i điệu bộ rất cáo già, rằng Lack chẳng hi ểu gì cả, r ằng ông ta mù t ị t v ề
ngành công nghi ệp âm nhạc, và rằng ông ta không đư ợ c thông minh s áng ý bằng Morris và Ames.
“Phong cách kinh đi ển của Steve là ông ta sẽ s ẵn sàng đồng ý chuy ện gì đó v ớ i bạn, nhưng nó sẽ
không bao giờ x ả y ra,” Lack nói. “ông ta s ẽ bẫ y bạ n ròi rút nó kh ỏi bàn thương thảo. Ông ta là m ột
kẻ bệnh hoạn, nên chính đi ểm đó đâm ra lại hữu dụng khi đàm phán . Và ông ta là m ột thiên tài.”
Lack bi ết r ằng ông sẽ không thể th ắng cuộ c đư ợ c trừ phi lôi kéo đượ c sự ủng h ộ của nh ững
công ty khác trong ngành. Song Jobs đã khéo dùng nh ững l ờ i đư ờ ng mật và mi ếng mồi là s ức
m ạnh marketing c ủa Apple đ ể vỗ yên các hãng thu âm khác. “Giá như toàn ngành cùng đoàn kết
m ột lòng, chúng tôi đã có th ể thu đư ợ c m ột khoản phí b ản quyề n, giúp mang l ại dòng doanh thu
kép mà chúng tôi đang r ấ t c ần,” Lack nói. “Chúng tôi chính là nh ững ngư ờ i giúp iPod bán đượ c,
th ế nên ph ải có đi có lại, m ớ i to ại lòng nhau chứ.” Dĩ nhiên, đó chính là m ột trong nh ững điểm
thiên tài trong chiến lư ợ c dị ch v ụ hoàn chỉ nh c ủ a Jobs: Vi ệc bán bài hát trên iTunes sẽ giúp thúc
đẩ y doanh s ố bán iPod, nh ờ đó kích thích doanh s ố bán máy Macintosh. Điều khiến Lack sôi ti ết
hơn nữa l à l ẽ ra Sony cũng có th ể làm đư ợ c như thế , nhưng nó không bao gi ờ có khả năng đoàn k ết
bộ phận sản xu ất ph ần cứ ng, phần m ềm và nội dung lại để cùng làm vi ệc vớ i nhau.
Jobs rất c ố gắng đ ể l ấ y lòng Lack. Trong m ột chuy ến công tác đ ến New York, ông đã mờ i
Lack đến căn phòng áp mái sang tr ọng mình nghỉ ở khách sạn Four Seasons. Jobs đã gọi s ẵn bữa
s áng - bao gồm cháo yến m ạch và dâu cho cả hai ngườ i - và đã cư xử “trên c ả kì v ọng,” Lack nhớ
l ại. “Song Jack Welch đã dạ y tôi đ ừng d ại mà yêu. Morris và Ames thì có th ể bị mê hoặ c đấ y. H ọ
s ẽ kêu rằng: ‘Anh ch ẳng hiểu gì cả, anh phải yêu chứ,’ và h ọ làm th ế th ật. Thành ra tôi b ỗng b ị cô
l ập gi ữ a ngành công nghiệp âm nhạc.”
Ngay c ả sau khi Sony đồ ng ý bán nhạ c trên Kho Nh ạc iTunes, thì m ối quan hệ gi ữa đôi bên
vẫn rất căng th ẳng. Mỗi l ần đổi m ớ i ho ặc thay đổi đều gi ống như m ột cu ộ c t ử chiến cu ối cùng.
“Vớ i Andy, thì ch ỉ có cái tôi to đùng c ủa ông ta là quan trọng,” Jobs kh ẳng đ ị nh, “ông ta chưa bao
gi ờ th ực sự hi ểu ngành công nghiệp âm nhạc, và ông ta ch ẳng bao gi ờ làm nổi cái gì cho ra hồn.
Tôi còn nghĩ nhiều khi ông ta đúng là m ột th ằng cha bần tiện.” Khi tôi k ể l ại nh ững gì Jobs đã nói,
Lack bèn đáp: “Tôi chiến đấu vì quyề n lợ i Sony và ngành công nghi ệp âm nh ạc, vì v ậ y tôi có thể
hi ểu tại sao ông ta nghĩ tôi là m ột th ằng b ần tiện.”
Tuy nhiên, chỉ lôi kéo các hãng thu âm tham gia vào k ế hoạch iTunes thôi thì chưa đ ủ. Rất
nhiều nghệ sĩ đã đ ặt đi ều khoản riêng trong hợ p đồ ng, cho phép h ọ đượ c t ự mình kiểm so át ho ạt
động phát hành phiên bả n số của các tác ph ẩm củ a mình hoặc ngăn ch ặn vi ệc xé lẻ các bài hát t ừ
album và bán riêng r ẽ. Vì vậ y Jobs bèn b ắt tay vào công cu ộc “tán t ỉ nh” các nhạc sĩ hàng đầu, m ột
công vi ệc ông c ảm th ấ y rất thú v ị song cũng gian nan hơn ông tưở ng r ất nhi ều lần.
Trướ c ngày ra m ắt iTunes, Jobs đã g ặp m ặt hơn hai ch ục nghệ sĩ tên tuổi, trong đó có Bôn,
Mick Jagger, và Sheryl Crow. “Anh ấ y gọi cho tôi b ất kể gi ờ gi ấc, có khi lúc mườ i giờ đêm, đ ể nói
rằng mình phải liên l ạc vớ i Led Zeppelin hoặ c Madonna,” Ames nh ớ l ại. “Anh ấ y rất quyế t tâm, và
không m ột ai khác có th ể thuy ết ph ục m ột s ố ngư ờ i trong nhóm ngh ệ sĩ này.”
Có l ẽ cu ộc gặp gỡ kì khôi nhất là khi Dr. Dre đ ến gặp Jobs tại đại bản doanh c ủa Apple.
Jobs yêu Beatles và Dylan, song ông th ú th ực rằng s ức quyế n rũ của nh ạc Rap đã trừ mình ra. Giờ
đây Jobs cần Eminem và các tay rapper khác đồng ý đưa nhạc của mình lên Kho Nh ạc iTunes, vì
vậ y ông đã hội ý trư ớ c vớ i Dr. Dre, v ốn là sư ph ụ c ủa Eminem. Sau khi đư ợc ch ứng ki ến Jobs bi ểu
di ễn phương th ứ c vận hành hoàn h ảo gi ữa Kho Nh ạc iTunes và iPod, Dr. Dre đã ph ải th ốt lên:
“Trờ i đất, cu ối cùng đã có ngư ờ i tìm ra cách làm đúng đ ắn rồi!”
Ở đầu mút bên kia của thang th ị hi ếu âm nhạc là nghệ sĩ kèn trumpet Wynton Marsalis. Khi
bi ểu diễn t ại Lincoln Center, ông đang tham gia buổi lưu di ễn gây quỹ Bờ Tây vì nh ạ c Jazz t ại đây,
ông đã gặp Laurence, vợ Jobs. Jobs tha thi ết m ờ i ông v ề ngôi nhà tại Palo Alto chơi, và b ắt đầu
mang iTunes ra khoe. “Anh muốn tìm cái gì?” Ông h ỏi Marsalis. Beethoven, tay kèn tr ả l ờ i. “Xem
nó làm đượ c nh ững gì này!” Jobs luôn m ồm trầm trò trong khi đầu óc Marsalis vẫn treo lơ l ửng
trên cành cây. “Xem giao diện ho ạt động th ế nào này!” v ề sau Marsalis đã k ể l ại: “Tôi không quan
tâm lắm đến máy vi tính, và tôi cũng b ảo vớ i anh ấ y mã i r ồi, nhưng anh ấ y cứ thao thao b ất tuy ệt
su ốt hai ti ếng đồng h ồ. Anh ấ y cứ như ngườ i bị ma làm vậ y. Sau m ột hồi, tôi b ắt đầu nhìn anh ấ y,
ch ứ không ph ải chi ế c máy vi tính, vì tôi quá ấn tư ợ ng trướ c nhi ệt huyế t c ủ a anh ấ y.”
Jobs gi ớ i thi ệu Kho Nh ạc iTunes vào ngày 28 th áng Tư năm 2003 t ại Moscone Center ở
Francisco. Vớ i mái tóc húi cua sát da đ ầu và cái tr Ấn bắt đầu hói, cùng bộ m ặt râu ria x ồm xoàm
m ột cách “có chủ đích,” Jobs sải bư ớ c trên sân khấu và mô t ả ví d ụ về Napster cho th ấ y “Internet
đã đượ c t ạo ra nh ằm truyền bá âm nhạc” như th ế nào. ông nói: Các “con cháu” của nó, những trang
như Kazaa, cung cấp nh ạ c mi ễn phí. Ta ph ải c ạnh tranh thế nào? Đ ể tr ả l ờ i câu h ỏi đó, ông bắt đầ u
bằng việc mô t ả những mặt hạn ch ế củ a vi ệc sử dụ ng các dị ch v ụ miễn phí. Quá trình tải về không
đáng tin c ậ y, ch ất lư ợ ng nhạc thư ờ ng r ất kém. “R ấ t nhi ều bài hát đư ợ c nh ững đ ứa trẻ ranh b ả y tuổi
mã hoá, và thành phẩm xem ra không đư ợ c t ốt l ắ m.” Thêm vào đó, không có đoạn nh ạ c nghe th ử
hay hình bìa album đi kèm. Cuối cùng ông nói thêm: “Đi ểm đáng phê ph Ấ n nhất ở ch ỗ: đó là m ột
hành đ ộng ăn c ắp. T ốt hơn h ết là không nên đùa vớ i lu ật nhân qu ả.”
Vậ y thì tại sao các trang nhạc ăn cắp này l ại bùng lên như n ấm sau mưa thế ? Bở i vì, Jobs
nói, không có một phương án thay th ế nào khác. Các dị ch v ụ đăng ký nghe nh ạc như PressPlay và
MusicNet, “đối xử vớ i bạ n như một tên tội ph ạm,” ông nói, đoạn trưng ra hình m ột ngườ i tù trong
bộ quần áo sọc đen trắng. Tiếp nối là một trang thuy ế t trình vớ i hình Bob Dylan hi ện lên màn
chiếu. “Mọi ngườ i mu ốn sở hữu nh ững bài hát h ọ yêu thích.”
Sau rất nhi ều cu ộc thương th ảo vớ i các công ty thu âm, ông nói: “Họ s ẵn lòng cùng chúng
tôi làm đi ều gì đó để cứu vớ t thế gi ớ i.” Kho Nh ạc iTunes kh ở i đầu vớ i 200.000 file nh ạc, và s ẽ còn
phát tri ển thêm t ừng ngày. Ông nói: Bằng cách s ử dụng kho nh ạ c này, bạn có th ể s ở hữu bài hát
mình thích, ghi vào đĩa CD, đượ c đảm bảo về ch ất lư ợ ng nhạc t ải về, đư ợ c nghe th ử bài hát trướ c
khi t ải về, và dùng nó v ớ i ph ần mềm iMovies và iDVDs để “t ạo nên đoạn nh ạc củ a đờ i mình.” Giá
cả? Ch ỉ 99 xu, ông nói, chưa b ằng 1/3 giá một c ốc cà phê starbuck. Tại sao nó l ại đáng đồng ti ền
bát g ạo? B ở i vì để l ấ y đư ợ c bài hát bạn cần từ Kazaa, bạn ph ải m ất khoảng 15 phút, ch ứ không
phải một phút. Ông tính toán rằng, khi bạn bỏ ra m ột tiếng đồng h ồ trong qu ỹ th ờ i gian c ủ a mình để
ti ết ki ệm có bốn đô -la, “bạn đang làm việc để đổi l ấ y số ti ền còn thấp hơn lương tối thi ểu!” Và
thêm một đi ểm nữa... “V ớ i iTunes, bạn không phả i ăn cắp nữ a. Đó là một quan hệ nhân quả tích
cực.”
Những ngư ờ i vỗ tay nhi ệ t liệt nh ất để tán thư ở ng câu đó chính là lãnh đạo của các công ty
thu âm ngồi ở hàng đ ầu, gồm có Doug Morris ngồ i c ạnh Jimmy lovine, đ ầu đội chi ếc mũ lưỡ i trai
quen thuộc, và toàn th ể b ộ s ậu của Warner Music. Eddy Cue, ngư ờ i ph ụ trách kho nhạc, dự báo
Apple sẽ bán đượ c m ột tri ệu bài hát trong sáu tháng. Nhưng th ự c t ế Kho Nhạc iTunes bán đượ c
m ột tri ệu bài hát trong sáu ngày. “Sự ki ện này s ẽ đi vào l ị ch s ử như m ột bư ớ c ngoặt cho ngành
công nghi ệp âm nhạ c,” Jobs tuyên bố.
Chương 32: CON NGƯỜ I ÂM NHẠC
Jimmy lovine, Bono, Jobs, and The Edge, 2004
Trong chiếc iPod củ a ông ấy
Khi iPod trở thành một hi ện tư ợ ng, nó đã khiến cho mọi ngườ i, từ các ứng c ử viên T ổng
th ống, đ ến nh ững nhân v ật nổi tiếng, những đôi lứ a đang hẹn hò, cho tớ i nữ hoàng Anh, và bất kì
ngư ờ i nào khác mang chiếc tai nghe màu tr ắng đ ề u có th ể nhận đư ợ c câu h ỏi: “Có gì trong chiế c
iPod c ủa bạn?”
Trò chơi trong phòng khách d ọn đi khi Elisabeth Bumiller vi ết m ột m ẩu tin trên tờ New
York Times vào đầu năm 2005, m ổ x ẻ câu trả l ờ i mà tổng th ống George w. Bush đưa ra khi bà hỏi
ông câu đó. Bà đã k ể l ại: “Chi ếc iPod của t ổng thống Bush thiên về dòng nhạc và các ca sĩ nh ạ c
đồng quê truy ền th ống, ông ấ y có nh ững b ộ tuyển ch ọn của Van Morrison, ngườ i có m ột bài hát
mà Bush đặc bi ệt yêu thích Br own Eyed Girl (Cô gái mắt nâu), và c ủa John Fogerty, h ẳn nhiên có
th ể dự đoán đượ c là bài Centerfield. Bà đã nhờ m ột biên t ập viên của t ạp chí âm nh ạc Rolling stone
tên là Joe Levy phân tích b ộ tuyển ch ọn và ông này đã bình luận: “Điều thú v ị là ở ch ỗ ngài Tổng
th ống thích những ngh ệ sĩ mà h ọ không m ấ y ưa ông ta."
Steven Levy đã viết trong cu ốn sách Đi ều hoàn hảo (The Perfect Thing): “Đơn giản ch ỉ cần
đưa chi ếc iPod của bạn cho một ngườ i bạn, ngư ờ i hẹn hò vớ i bạn, ho ặc m ột ngườ i hoàn toàn xa lạ
ngồi kế bên bạn trong m ột chuy ến bay, họ s ẽ hi ểu đư ợ c bạn gi ống như đang lật m ở m ột cu ốn sách
vậ y. Vi ệc mà ngư ờ i nào đó c ần làm đơn gi ản là lướ t qua thư vi ện nh ạc của bạn trên vòng xoay đi ều
khiển (click wheel) c ủ a chi ếc iPod, và nói m ột cách hình tư ợ ng, thì bạn dư ờ ng như đã bị bóc trần.
Nó không chỉ là cái b ạn thích - mà nó còn là cái chỉ ra đích xác: là b ạn là ngườ i như thế nào.” Và
m ột ngày khi chúng tôi đang ngồi trong phòng khách của Jobs và cùng nghe nhạc, tôi đã h ỏi ông đ ể
cho tôi xem chiếc iPod của ông. Khi chú ng tôi ngồi ở đó, ông ấ y đã vu ốt nh ẹ lư ớ t qua những bài
hát yêu thích c ủa mình.
Không có gì ngạc nhiên là ở trong đó có tất c ả sáu tuy ển tập của m ột lo ạt các bài hát b ị sao
chép lậu của Dylan, bao g ồm cả những bài Jobs đã bắt đầu tôn sùng khi ông ấ y và Woz niak có khả
năng ghi đư ợ c chúng trên những băng cuộn (reel -to -reel) trướ c khi những loạt bài này đư ợ c chính
th ức phát hành. Thêm vào đó, có 15 album khác c ủa Bob Dylan, t ừ album đầu tiên c ủa ông “Bob
Dylan” (1962), nhưng ch ỉ đến album “Oh Mercy” (1989). Jo bs đã b ỏ ra rất nhi ều thờ i gian đ ể tranh
lu ận vớ i Andy Hertzfeld và những ngư ờ i khác r ằng những album sau này c ủa Dylan, thực t ế b ất k ỳ
album nào c ủa ông ấ y sau “Blood on the Tracks” (1975), không còn m ạnh mẽ như nh ững album
ban đầu. Có một ngo ại l ệ đượ c ông nhắc t ớ i là bài hát Things Have Changed c ủa Dylan t ừ bộ phim
Wonder Boys phát hành năm 2000. Rất đáng chú ý, khi trong iPod của Jobs không có album
Empire Burlesque (1985) mà Hertzfeld đã đem đến cho ông vào bu ổi cu ối tuần khi ông bị tr ục xu ất
khỏi Appl e.
M ột v ật r ất giá tr ị khác trên iPod của ông ấ y là tài sản âm nhạc của The Beatles, gồm nhưng
bài hát từ 17 album của họ: A Hard Day's Night, Abbby Road, Help!, Let It Be, Magical Mystery
Tour, Meet the Beatles! và Sgt. Pepper’s Lonely Hearts Club Band. Những album đơn đã bị cắt b ỏ.
The Rolling Stones đượ c xếp tiếp theo vớ i 6 album: Emotional Rescue, Flashpoint, Jump Back,
Some Girls, sticky Fingers, và Tattoo You. Nh ững album cCia cả Dylan và The Beatles đều đư ợ c
đưa vào toàn b ộ. Nhưng đúng vớ i ni ềm tin của ông ấ y rằng các album có th ể và nên đư ợ c tách ra,
những album của Stones và hầu hết các ngh ệ sĩ khác trong iPod c ủa Jobs ch ỉ bao gồm ba hay bố n
phần. B ạn gái m ột th ờ i c ủa ông, Joan Baez, đã đượ c dành m ột ph ần đáng k ể bằng những tuyển tập
t ừ 4 album, bao gồm 2 phiên bản khác nhau c ủ a Love Is Just a Four Letter Word.
Những b ộ tuyể n tập trong iPod c ủa Jobs là gia tài âm nh ạc củ a m ột thanh niên c ủa nh ững
năm trong thập niên 1970 vớ i tâm hòn c ủa thập niên 1960. Đó là Aretha, B. B. King, Buddy Holly,
Buffalo S pringfield, Don McLean, Donovan, the Doors, Janis Joplin, Jefferson Airplane, Jimi
Hendrix, Johnny Cash, John Mellencamp, Simon và Garfunkel, và thậm chí c ả The Monkees (I’m
a Believer) và Sam the Sham (Wooly Bully). Chỉ khoảng một ph ần tư thư viện nh ạc là các bài hát
của nh ững ngh ệ sĩ đương th ờ i, như 10000 Maniacs, Alicia Keys, Black Eyed Peas, Coldplay,
Dido, Green Day, John Mayer (một ngườ i bạn của cả Jobs và Apple), Moby (cũng như thế), U2,
Seal, và Talking Heads, về phía nh ạc cổ đi ển, có kho ảng vài bản ghi âm của Bach, bao gồm Bản
Concerto Brandenburg, và 2 album c ủa Yo -Yo Ma.
Jobs đã nói vớ i Sheryl Crow vào th áng 5 năm 2003 rằng ông hi ện đang tải về m ột vài bài
của Eminem, và th ừa nh ậ n rằng “Anh ấ y bắt đầu lớ n lên trong tôi." James Vincent về sau có dẫn
ông ấ y đến m ột bu ổi bi ểu di ễn của Eminem. Th ậm chí, ca sĩ nh ạc rap này đã b ỏ l ỡ cơ h ội đưa nó
vào trong iPod c ủa Jobs. Như Jobs nói vớ i Vincent sau bu ổi hòa nhạc: “Tôi không bi ết...” ông ấ y
sau này đã nói vớ i tôi, “Tôi tôn trọng Eminem như là một nghệ sĩ , nhưng tôi ch ỉ không muốn nghe
nhạc củ a anh ấ y, và tôi không thể liên hệ đến giá tr ị của anh ấ y gi ống như cách tôi có thể làm vớ i
Dylan."
Những bài hát yêu thích c ủa ông ấ y không thay đ ổi qua nhi ều năm. Khi chi ếc iPad 2 xu ất
hi ện vào tháng 3 năm 2011, ông ấ y đã chuy ển nh ững bài nh ạc yêu thích vào trong đó. L ại một bu ổi
chiều, khi chúng tôi ngồi trong phòng khách củ a ông, khi ông duy ệt qua những bài hát trên chiếc
iPad m ớ i c ủa mình, và v ớ i m ột nỗi nh ớ êm d ị u, nh ấn nh ẹ lên nh ững bài ông mu ốn nghe.
Chúng tôi thư ở ng th ức l ầ n lư ợ t các bài hát yêu thích thườ ng lệ củ a Dylan và Beatles, sau đó
ông ấ y trở nên suy tư nhi ều hơn và nh ấn vào một bản th ánh ca Gregorian, Spiritus Domini, đư ợ c
th ực hi ện bở i các th ầ y tu theo dòng Benedictine. Trong vòng m ột phút ho ặc lâu hơn, ông ấ y m ất
t ập trung và h ầu như rơi vào trong m ột trạng thái xu ất thần. “Nó th ật s ự đ ẹ p", ông ấ y thì th ầm, ông
ấ y tiếp tụ c vớ i bản Concerto Brandenburg th ứ hai c ủa Bach, và một fu - ga trong The
Well-Tempered Clavier, ông ấ y nói Bach là nhà so ạn nh ạc cổ đi ển yêu thích của ông. Ông đặc biệ t
thích nghe nh ững s ự tương ph ản gi ữ a hai phiên bản của Goldberg Variations mà Glenn Gould đã
thu âm. B ản đầu tiên vào năm 1955 khi Gould là một nghệ sĩ piano hai mươi hai tu ổi ít n ổi tiếng,
và b ản th ứ hai vào năm 1981, một năm trư ớ c khi ngh ệ sĩ này m ất. “Chúng gi ống như ngày và
đêm," Jobs nói sau khi nghe chúng liên tiếp nhau trong một bu ổi chi ều. “Bản đầu tiên thì cở i m ở ,
tr ẻ trung, r ực rỡ , đư ợ c chơi quá nhanh và gi ống như m ột s ự soi s áng. Bản sau đó thì thanh đ ạm và
bình dị hơn nhiều. B ạn cả m nhận đư ợ c m ột tâm hòn r ất sâu s ắ c củ a ngườ i đã tr ải nghi ệm rất nhi ều
trong cuộc đờ i. Nó sâu sắ c hơn và uyên bác hơn." Jobs đang ở trong k ỳ nghỉ đi ều trị y t ế th ứ ba c ủ a
mình vào buổi chi ều khi ông nghe c ả hai phiên bả n, và tôi đã hỏi ông thích cái nào hơn. “Gould
thích b ản sau này hơn rất nhi ều", ông ấ y nói, “Tôi đã từng thích b ản cở i m ở đầu tiên. Nhưng bây
gi ờ tôi có thể th ấ y đư ợ c ông ấ y đã đến từ đâu."
Ông ấ y sau đó chuyển đế n bài hát của nh ững năm 1960, Catch the Wind của Donovan. Khi
ông ấ y th ấ y tôi nhìn ngờ vực, ông ấ y đã bi ện bạch, “Donovan đã tạo ra m ột th ứ th ật s ự t ốt, th ật s ự
như vậ y.” ông m ở ti ếp bài Mellow Yellow, và sau đó th ừa nh ận rằng có l ẽ nó không ph ải là một ví
dụ t ốt nh ất. “Nó nghe hay hơn khi chúng ta còn tr ẻ."
Tôi đã h ỏi lo ại nh ạc nào t ừ th ờ i thơ ấu của chúng tôi th ật s ự còn đư ợ c gi ữ l ạ i. ông ấ y đã
cu ộn xu ống dướ i danh sách trên chi ế c iPad và ch ọ n bài hát năm 1969 của Grateful Dead, Uncle
John's Band, ông ấ y gật gù cùng v ớ i l ờ i bài hát “Khi cu ộc sống giống như con đườ ng d ễ dàng, có
m ột s ự nguy hiểm đang ở cửa nhà b ạn.” Trong m ột lúc, chúng tôi đã trở l ại vớ i th ờ i đi ểm xôn xao
khi s ự dị u êm c ủa nh ững năm 1960 đang kết thúc trong nh ững n ốt nh ạc chói tai. “ ồ, gi ờ tôi đã có
đượ c đi ều mình muốn bi ết: rằng ông th ực sự là n gườ i như thế nào”.
Sau đó ông ấ y chuy ển đế n Joni Mitchell, “Cô ấ y có m ột đứa trẻ mà cô đã cho đi làm con
nuôi,” ông ấ y nói. “Bài hát này nói v ề đứa bé gái ấ y.” Ông ấ y đã nh ấn vào bài Little Green, và
chúng tôi đã lắng nghe giai đi ệu thê lương và nh ững lờ i hát mô tả cảm xúc của một ngườ i mẹ đã từ
bỏ đứa con c ủ a mình. “Vì v ậ y bạn ký tất c ả các giấ y tờ bằng tên gia đình / Bạn bu ồn và bạn cảm
th ấ y tiếc, nhưng bạn không thấ y hổ th ẹn.” Tôi đã h ỏi ông ấ y còn thư ờ ng nghĩ v ề vi ệc đã bị cho đi
làm con nuôi. “Không, k hông nhi ều lắm,” ông ấ y nói.
Vào nh ững ngày này, ông ấ y nghĩ nhi ều hơn v ề vi ệc đang già đi hơn là sự ra đ ờ i c ủa mình.
Đi ều đó làm ông nghe bài hát tuy ệt vờ i nh ất c ủ a Joni Mitchell, Both Sides Now, vớ i nh ững l ờ i
nhạc về vi ệ c già hơn và uyên bác hơn. “Tôi n hìn vào cuộc sống bây gi ờ t ừ hai phía, / T ừ chiến
th ắng và thất bại, và v ẫn còn b ằng cách nào đó, / Nó là những ảo ảnh c ủa cu ộc sống tôi nh ớ l ại, /
Tôi thật s ự không bi ết cu ộc sống dù gì đi nữ a.” Khi Glenn Gould hoàn thành b ản Goldberg
Variations c ủa Bach, Mitchell đã ghi âm bài Both Sides Now cách xa nhau nhiều năm. L ần đầu
tiên là vào năm 1969 và sau đó trong m ột phiên b ả n hết s ức đau khổ vào năm 2000. ông ấ y đã nghe
bản th ứ hai. “Thật thú v ị khi con ngư ờ i già đi,” ông nh ắ c thêm.
Ông cũng nói thêm rằng, một vài ngư ờ i không phát triển bình thườ ng theo đúng đ ộ tu ổi
ngay c ả khi họ còn trẻ. Tôi đã h ỏi Jobs xem lúc đó, ngườ i nào đang xu ất hi ện trong suy nghĩ củ a
ông. Jobs đáp l ại r ằng “John Mayer là một trong nh ững ngh ệ sĩ chơi ghi- ta tốt nh ất đã t ừng tồn tại
trong thế gi ớ i này và tôi s ợ rằng ông ấ y đang đánh m ất nó”. Jobs thích Mayer và th ỉ nh thoảng lại ra
ngoài ăn t ối vớ i ông ở Palo Alto. Năm ông 27 tuổi, Mayer đã tham gia s ự ki ện Macworld di ễn ra
vào tháng 1 năm 2004. T ại đây Jobs đã giớ i thi ệu về GarageBand và Mayer dườ ng như đã tr ở
thành v ị khách thư ờ ng niên tại các buổi s ự ki ện như thế này. Jobs không thích bản hit có tên là
Gravity c ủa Mayer. Lờ i c ủa bài hát kể v ề m ột chàng trai đư ợ c bao b ọ c bở i tình yêu nhưng không
hi ểu sao luôn mơ rằng mình có th ể vứt bỏ nó. “L ự c hấp dẫn hình như đang ch ống l ại tôi/ Và l ực
hấp dẫn lại mu ốn làm tôi phiền muộn”. Jobs l ắc đầu và bình lu ận rằng “Tôi nghĩ bên trong ông ấ y
là m ột đứa trẻ ngoan nhưng ông ấ y dư ờ ng như đã vượ t qua khỏi t ầm ki ểm soát”.
Sau khi nghe xong bản nh ạc, tôi h ỏi ông ấ y m ột câu h ỏi quen thuộc: ông ch ọn nhóm The
Beatles hay Stones? Jobs đã tr ả l ờ i r ằng “Nếu l ử a bao phủ toàn nơi đây và tôi đư ợ c cho phép mang
theo m ột th ứ duy nh ất, tôi s ẽ ch ộp lấ y nh ững đĩa nh ạc củ a ban nhạc The Beatles. Th ực ra, vi ệ c l ựa
ch ọn s ẽ khó khăn hơn nhưng không phải là giữ a The Beatles hay Stones mà là giữa The Beatles và
Dylan. Có thể có ai đó chơi l ại đư ợ c nh ững b ản nh ạc củ a Stones nhưng v ớ i tôi, không ai có th ể làm
đượ c như Dylan hay nhóm The Beatles”. Trong khi Jobs đang tr ầm ngâm nghĩ về quá kh ứ và xuýt
xoa rằng h ọ là nh ững ngư ờ i may mắn vì đư ợ c l ớ n lên cũng những điều kì di ệu đó thì con trai của
ông, lúc đó 18 tu ổi, đi vào phòng. Jobs nói g ần như than vãn “Reed không hiểu đi ều đó”. Cậu ấ y
đang m ặ c một chi ếc áo phông Joan Baez vớ i dòng chữ “Forever Young” (mãi mãi tươi trẻ) trên áo.
Bob Dylan
Khoảng thờ i gian duy nhất mà Jobs nhớ rằng b ản thân cảm th ấ y ngượ ng ngh ị u khó nói đó
là lúc có sự hi ện di ện của Bob Dylan. Tháng 10 năm 2004, Dylan chơi nhạc gần Palo Alto, còn
Jobs vừa hồi ph ục sau ca phẫu thuật ung thip đ ầu tiên c ủa mình. Dylan không ph ải là một ngườ i
thích giao du, không giố ng nhip Bono (thành viên nhóm nhạc U2) hay Bowie (Danh ca David
Bowie). Bob không ph ải là bạn của Jobs, và cũng không màng gì đến vi ệc này. Tuy vậ y ông đã
m ờ i Jobs đến gặp m ặt t ại khách s ạn nơi ông ở trướ c bu ổi bi ểu di ễn. Jobs nh ớ l ại:
Chúng tôi ngồi nói chuy ệ n ngoài hiên trong hai gi ờ . Tôi th ực sự hòi hộp, bở i vì ông là m ộ t
trong nh ững thần tư ợ ng c ủa tôi. Và tôi cũng lo r ằng ông ấ y sẽ không th ực s ự thông minh như tôi
nghĩ, thậm chí có thể tr ở thành một bức tranh bi ế m họa của chính mình, như nhi ều ngườ i khác.
Nhưng tôi đã r ất vui m ừng, ông thực sự s ắc bén, đúng như t ất c ả những gì tôi hy vọng, ông ấ y rất
cở i m ở và thành thực, ông ch ỉ nói vớ i tôi v ề cu ộc sống và v ề quá trình sáng tác c ủa mình, ông ấ y
nói: “Âm nhạc đến vớ i tôi m ột cách r ất t ự nhiên, tôi không ph ải c ố s ức sáng tác ra chúng. Nhưng
đi ều đó không còn x ả y ra nữa, tôi không th ể vi ết nh ạc theo cách đó đượ c nữa”. Sau đó, ông d ừng
l ại và nói vớ i tôi v ớ i gi ọng hơi gằn và cư ờ i m ỉ m, “Nhưng tôi vẫn có th ể hát”.
Lần kế ti ếp Dylan biểu diễn gần đó, ông đã m ờ i Jobs tham gia vào m ột chuy ến du lị ch b ằng
xe buýt ngay trướ c bu ổi di ễn. Khi đư ợ c Dylan h ỏi về bài hát yêu thích của mình, Jobs tr ả l ời là bài
One Too Many Mornings. Vì vậ y, Dylan đã hát bài hát này đêm đó. Sau buổi di ễn, khi Jobs đi bộ
ra v ề, chi ế c xe buýt du lị ch tr ờ t ớ i, rít phanh dừng l ại. C ánh cửa m ở ra: “Th ế nào, anh đã nghe bài
hát tôi hát tặng anh chưa?” Dylan hỏi. Sau đó, ông lái đi. Khi Jobs nói r ằng mình có một ấn tư ợ ng
khá t ốt về gi ọng hát của Dylan, “ông ấ y luôn là m ột trong nh ững ngư ờ i hùng củ a tôi”, Jobs hòi
tư ở ng. “Tình yêu của tôi dành cho ông ấ y ngày càng lớ n thêm qua năm tháng, nó th ực sự chín
muồi. Tôi không th ể hi ểu đư ợ c làm s ao ông ấ y có th ể thành công khi còn quá trẻ như vậ y.”
M ột vài th áng sau khi xem Bob bi ểu di ễn, Jobs đã đưa ra m ột kế hoạch hoành tr áng. Kho
Nhạc iTunes nên cung c ấ p m ột ph ần m ềm kỹ thuật s ố ghi âm tất c ả các bài hát c ủa Dylan, khoảng
hơn 700 bài, v ớ i giá là 199 đô -la. Jobs s ẽ là ngư ờ i qu ảng bá cho Dylan trong th ờ i đại kỹ thuật s ố.
Nhưng Andy Lack của Sony - t ừng là nhà sản xu ấ t c ủa Dylan, không đ ồng ý th ỏa thu ận mà không
có m ột s ự như ợ ng b ộ t ừ iTunes. Ngoài ra, Lack c ả m th ấ y m ức giá quá th ấp và sẽ làm gi ảm giá trị
của Dylan. “Bob là m ột kho báu qu ốc gia”, Lack nói, “và Steve muốn anh ta trên iTunes v ớ i m ức
giá như m ột món hàng hóa bèo b ọt.” cốt lõi c ủa vấ n đề nả y sinh giữ a Lack, các giám đốc ghi âm và
Jobs là: Jobs là ngư ờ i đưa ra các quan đi ểm về giá c ả, kh ông ph ải họ. Vì vậ y, Lack không đồng ý.
“Đư ợ c rồi, tôi s ẽ gọi nói chuy ệ n trự c tiếp vớ i Dylan”, Jobs nói. Nhưng Dylan chưa bao gi ờ
x ử lý những v ấn đề như th ế này, vì vậ y đại di ện của ông - Jeff Rosen đứng ra đ ể s ắp xếp nh ững
vi ệc trên.
“Đó là m ột ý tưở ng thực sự t ồi t ệ”, Lack nói và ch ỉ cho Rosen thấ y nh ững con số. “Bob là
ngư ờ i hùng trong m ắt Steve, ông ta s ẽ d ễ dàng chấp thuận.” Lack có cả lý do cá nhân và ngh ề
nghi ệp để ch ống lại Jobs, th ậm chí n ếu cần ph ải m ạnh tay hơn n ữa. Vì v ậ y, ông đã đề nghị Rosen:
“Tôi s ẽ vi ết cho c ậu m ột chi phiếu m ột tri ệu đô la vào ngày mai nếu cậu có th ể trì hoãn việc th ỏa
thuận trong th ờ i đi ểm này.” Như Lack giải thích, đó là một khoản ứng trướ c cho ti ền bản quyề n
trong tương lai, “m ột trong nh ững việ c mà công ty thu âm thư ờ ng làm.” Rosen g ọi l ại và đồng ý
sau bốn mươi lăm phút. “Andy đã đưa đề nghị chúng tôi không làm điều đó, nhưng chúng tôi từ
ch ối", ông nh ớ l ại. “Tôi nghĩ rằng Andy ch ắ c ch ắn sẽ cho chúng tôi một khoản t ạm ứng n ếu chúng
tôi làm theo.”
Tuy nhiên vào năm 2006, Lack đã rút lui khỏi tư cách là CEO của công ty, khi đó vẫn mang
tên Sony BMG, và Jobs m ở l ại các cuộc đàm phán , ông g ửi cho Dylan m ộ t chi ếc iPod ch ứa t ất c ả
những bài nh ạc của ông ấ y, đồng thờ i Jobs cũng trình bày v ớ i Rosen chi ến dị ch ti ếp th ị mà Apple
có th ể th ực hi ện. Vào th áng Tám, ông công b ố m ột th ỏa thu ận quan tr ọng. Nó cho phép Apple bán
bộ sưu t ập kỹ thu ật s ố t ất c ả những bài hát mà Dylan t ừng thu âm v ớ i giá 199 đô -la cùng v ớ i độc
quyền chào hàng album m ớ i c ủa Dylan, Modern Times, cho nh ững đơn đ ặ t hàng trư ớ c khi phát
hành. “Bob Dylan là một trong nh ững nhà thơ và nhà soạn nh ạc đáng ngư ỡ ng mộ nhất trong th ờ i
đại c ủa chúng ta, đối vớ i tôi ông là một ngườ i hùng,” Jobs nói tại l ễ công b ố. Bộ tuyển tập 773 bao
gồm bốn mươi hai bản thu hiếm, ví d ụ m ột băng ghi âm bài hát Wade in the Water t ại m ột khách
s ạn ở Minnesota vào năm 1961, một phiên b ản năm 1962 của bài Handsome Molly trong bu ổi hòa
nhạc trực tiếp tại Gaslight Café ở Greenwich Village, phần trình di ễn tuyệt c ủa vờ i bài Mr.
Tambourine Man trong Liên hoan nh ạc dân gian Newport năm 1964 (chương trình yêu thích c ủa
Jobs) và một phiên b ản nh ạc m ộc (acoustic) của bài Outlaw Blues từ năm 1965.
Theo một ph ần của th ỏa thu ận, Dylan sẽ xuất hi ện trong m ột qu ảng cáo truyền hình của
iPo d, nhằm gi ớ i thi ệu nh ững nét nổi bật trong album m ớ i c ủa ông, Modern Times. Đây là m ột
trong nh ững trườ ng h ợ p đảo khách thành ch ủ (phản khách vi chủ) kỳ l ạ nhất kể t ừ khi Tom Sawyer
thuy ết ph ục bạn bè sơn hàng rào cho cậu ta. Trong quá khứ, các công ty ph ả i chi r ất nhi ều tiền để
m ờ i ngườ i nổi tiếng quảng cáo cho s ản ph ẩm của họ. Nhưng t ừ năm 2006, mọi vi ệc đã thay đổi.
Những ngh ệ s ỹ nổi tiếng đ ều muốn xu ất hi ện trong quảng cáo iPod; việc qu ảng bá s ẽ là m ột bảo
đảm thành công. James Vincent đã dự đoán vi ệc này trướ c đó vài năm, khi Jobs k ể rằng ông có
thông tin liên l ạc củ a nhi ều nhà soạn nh ạc và có th ể tr ả ti ền m ờ i họ xuất hi ện trong quảng cáo.
“Không, mọi việc r ồi s ẽ nhanh chóng thay đ ổi,” Vincent đáp. “Apple là một thương hi ệu khác bi ệt,
nó h ấp dẫn hơn thư ơng hi ệu của nhi ều nghệ sĩ. Chúng ta nên th ể hi ện cơ hội mà chúng ta mang l ại
cho ban nhạ c, ch ứ không ph ải trả công cho họ.”
Lee Clow nhớ l ại nh ững nhân viên trẻ củ a Apple và công ty qu ảng cáo đã từng có vài lờ i
phản đối vi ệc sử dụng Dylan. “Họ hoài nghi li ệu ông ấ y còn đ ủ hấp dẫn hay không,” Clow nói.
Jobs b ỏ ngoài tai t ất c ả những l ờ i đó. Ông nhất đị nh phải m ờ i Dylan.
Jobs b ị ám ảnh b ở i m ọi chi ti ết trong m ẩu qu ảng cáo của Dylan. Rosen bay đ ến
Cupertino đ ể họ có th ể xem xét t ỉ m ỉ album và ch ọ n bài hát họ muốn sử dụng, cuối cùng họ
ch ọn bài Someday Baby. Jobs đồng ý sử dụng m ột video th ử nghi ệm, do Clow tạo dựng đ ể làm th ế
thân cho Dylan, đư ợ c quay tại Nashville cùng v ớ i chính Dylan. Nhưng khi đư ợ c gửi về, Jobs l ại
ghét nó. Nó không đủ nổi bật. Ông muốn m ột phong cách mớ i. Vì th ế Clow thuê một giám đốc
khác, và Rosen có thể thuy ết ph ụ c Dylan ghi hình lại toàn bộ đoạn qu ảng cáo. L ần này nó đư ợ c
hoàn thành vớ i hình ảnh bóng c ủ a Dylan đ ội mũ cao bồi thong th ả ngồi trên gh ế, vừa hát v ừ a bập
bùng ghi -ta, trong khi m ột ph ụ nữ tân thờ i đội mũ phớ t nh ả y múa cùng chiế c iPod của cô ấ y. Jobs
rất thích đo ạn qu ảng cáo này.
Đoạn qu ảng cáo cho thấ y tác đ ộng hào quang trong cách th ứ c tiếp th ị của iPod: Nó giúp
Dylan đượ c lòng khán gi ả tr ẻ, cũng gi ống như cách mà iPod đã làm v ớ i các máy vi tính của Apple.
Nhờ đoạn qu ảng cáo này, album của Dylan đã đo ạ t gi ải quán quân trên bảng x ếp hạng Billboard
trong tuần đầu tiên, vư ợ t qua album bán ch ạ y nh ất c ủa Christina Aguiler a và Outkast. Đó là lần
đầu tiên Dylan đ ứng đ ầu bảng k ể t ừ bài Desire vào năm 1976, cách đây đã ba mươi năm. T ạp chí
quảng cáo Ad Age đã đ ề cao vai trò c ủ a Apple trong vi ệ c xúc ti ến cho Dylan. “V ụ iTunes không
ch ỉ là m ột th ỏa thu ận do ngư ờ i nổi tiếng b ảo ch ứng kiểu thườ ng thư ờ ng b ậ c trung, theo đó một
thương hi ệu lớ n ký m ột t ờ séc l ớ n để t ận dụng giá trị của m ột ngôi sao l ớ n,” bài vi ết cho bi ết.
“Cách làm này đã thay đ ổi công th ứ c, thương hi ệ u Apple quy ề n lực đã tạo đi ều ki ện cho Ngài
Dylan tiếp cận vớ i thí nh giả tr ẻ và giúp đ ẩ y m ạnh doanh thu c ủa chính ông đến m ức độ chưa từng
ch ứng kiến kể t ừ phong cách qu ản lý theo ki ểu Ford (Ford administration).
The Beatles
Trong số những đĩa CD mà Jobs đánh giá cao, phải kể đến m ột bản sao l ậu ghi l ại khoảng
trên dư ớ i mườ i hai công đoạn mà nhóm The Beatles đã th ực hi ện khi t ập đi tập lại bản thu bài
strawberry Fields Forever. Sự khổ luyện của The Beatles trong lĩnh vự c âm nhạc cũng chính là
m ục tiêu đã trở thành tri ế t lý c ủa Jobs: m ột s ản ph ẩm phải đư ợ c trau chu ốt để tr ở nên hoàn hảo
trướ c khi đượ c công bố ra công chúng. Andy Hertzfeld đã tìm thấ y chi ế c đĩa và sao lại cho Jobs
vào năm 1986, nhưng đôi lúc Jobs lại nh ầm lẫn rằng Yoko Ono là ngườ i đưa nó cho mình. M ột
hôm, khi đang ngồi ở phòng khách c ủ a ngôi nhà ở Palo Alto của mình, Jobs đã l ục l ọi tìm quanh
những giá sách t ủ kính đ ể tìm nó và b ật l ại cho tôi xem trong khi không quên k ể cho tôi nh ững thứ
mà đoạn ghi hình này đã d ạ y ông:
Đó là một bản nh ạc khá phức t ạp nhưng thật thú v ị khi chứng ki ến quy trình kh ổ luyện đầ y
s áng t ạo của The Beatles. H ọ chơi đi chơi lại bản nh ạc đó hàng trăm hàng nghìn lần và cu ối cùng
đã ra đượ c phiên b ản ưng ý trong vòng m ột vài th áng. Lennon luôn luôn là thành viên nhóm The
Beatles mà tôi yêu thích nh ất. [Ông ấ y đã cư ờ i th ậ t tươi khi đ ến đoạn Lennon d ừng l ại trong c ảnh
t ập luyệ n đầu tiên và bắt c ả ban nh ạc làm l ại để ki ể m tra hợ p âm], ông có nghe th ấ y khúc co mà h ọ
vừa chơi không? Nó không ổn m ột chút nào, chính vì v ậ y mà h ọ đã làm lại t ừ đầu. ở l ần thu này,
m ọi th ứ th ật s ự còn rất “nguyên sơ”. B ản hợ p âm nghe thật khác thư ờ ng. Nế u xem l ần thu âm này,
nhiều kh ả năng là ông sẽ nghĩ không ph ải họ mà là những ngư ờ i khác đang bi ểu di ễn. Không vi ết
l ờ i hay s áng tác, nhưng thực sự họ đã tạo nên nó. Nhưng họ không dừng lại ở đó. Họ là nh ững con
ngườ i c ầu toàn và tất nhiên h ọ s ẽ làm đi làm l ại đến khi hài lòng. Chính điều này đã khi ến tôi cảm
th ấ y vô cùng ấn tư ợ ng khi xem nó vào năm tôi 30 tuổi, ông có th ể ch ỉ cho tôi h ọ đã làm th ế nào
không?
Họ đã n ỗ l ực rất nhi ều để có s ự khác bi ệt rõ ràng trong từng b ản thu. Họ thu đi thu l ại và
m ỗi l ần khoảng cách đ ến sự hoàn h ảo l ại đư ợ c thu h ẹp dần. [Khi Jobs nghe đ ến bản thu lần thứ ba,
ông đã ch ỉ cho tôi bản ph ối âm đã tr ở nên ph ức t ạp thế nào]. Cách chúng tôi làm vi ệc ở Apple cũng
tương t ự như họ. M ặ c dù đã cho ra m ắt r ất nhi ều bản của máy tính cá nhân (notebook) và iPod,
chúng tôi v ẫn duy trì một quy trình, bắt đầu bằng v ớ i m ột phiên b ản gốc, rồi sau đó tinh chỉ nh
nhiều l ần để ra đượ c mô hình chi tiết c ủ a thi ết k ế chung, nút b ấm hay cách thức một tính năng đ ượ c
vận hành. Phải m ất r ất nhi ều công đo ạn cần làm nhưng cuối cùng, m ọi th ứ s ẽ t ốt hơn và nhanh
chóng, nó s ẽ khiến mọi ngườ i ph ải thẤn phụ c thốt lên “Wow, h ọ đã làm th ế nào vậ y? Bí quy ết n ằm
ở đâu?”
Vì v ậ y, đi ều này giải thích vì sao Jobs b ị rối lên b ở i th ực t ế rằng những b ả n nh ạc củ a The
Beatles không đư ợ c bán trên iTunes.
Cuộc chi ến vớ i Apple Corps, công ty quản lý của The Beatles ph ải kéo dài đến ba th ập kỷ,
khiến rất nhi ều nhà báo phải ví von b ằng c ụm từ “Con đườ ng dài và quanh co” trong t ất c ả các câu
chuy ệ n xung quanh mối quan hệ này. Sự vi ệ c bắt đầu vào năm 1978, ngay sau khi Apple đư ợ c
thành l ập. Công ty máy tính Apple (Apple Computers) bị khở i kiện bở i Apple Corps vì tội vi ph ạm
bản quyề n nhãn hi ệu thương m ại, dựa trên luận ch ứng là là nhãn hiệu thu âm trư ớ c đây c ủa The
Beatles đượ c l ấ y tên là Apple. V ụ khiếu ki ện đư ợ c gi ải quyết sau sau ba năm xem xét và Apple
Computer phải trả cho Apple Corps số ti ền trị giá 80.000 đô-la. Tòa Ấn k ết lu ận vớ i m ột đi ều
khoản dư ờ ng như vô thư ở ng vô phạt là The Beatles không đư ợ c sản xu ất bất kỳ thiết bị máy tính
nào còn Apple thì không đượ c phân ph ối ra th ị trườ ng b ất kỳ m ột s ản ph ẩm âm nhạc nào.
The Beatles tuân th ủ theo đúng quy ết đị nh, không ai trong s ố họ s ản xu ất bất kỳ m ột chi ế c
máy tính nào. Nhưng Apple vẫn quyết đị nh tìm cách tiến vào thị trườ ng âm nh ạc. H ọ l ại bị gọi hầu
tòa l ần nữa vào năm 1991 khi Mac tích hợ p kh ả năng chơi nhạc, và lần tiếp theo đối di ện vớ i ki ện
t ụng c ủ a họ là vào năm 2003, khi Apple trình làng h ệ th ống Kho Nhạc iTunes (iTunes store). Ph Ấn
quyết cu ối cùng đư ợ c đưa ra năm 2007 rằng Apple sẽ tr ả cho Apple Corps kho ản tiền trị giá 500
tri ệu đô -la đ ể có quy ền sử dụng tên Apple trên toàn th ế gi ớ i và sau đó trả l ạ i cho The Beatles b ản
quyền sử dụng Apple Corps cho các bản thu âm của họ.
Tuy nhiên, đi ều này không gi ải quyết vấn đề đưa các tác ph ẩm củ a The Beatles lên trên
iTunes. Đ ể gi ải quyết đi ề u này, The Beatles và EMI Music, đơn vị gi ữ bả n quyền củ a hầu hết các
bản nh ạc của họ, ph ải thương lư ợ ng v ớ i nhau để có đượ c bản quyề n của tác phẩm số. Job s nh ớ
rằng “Tất c ả các thành viên c ủa The Beatles đều muốn đưa nhạc của họ phân phối trên iTunes
nhưng họ và EMI gi ống như đôi vợ ch ồng cướ i đã lâu năm. Họ ghét nhau nhưng không thể li d ị .
Ban nh ạ c yêu thích c ủa tôi tr ở thành đơn v ị cu ối cùng không thể ký k ết đ ể phân phối trên iTunes và
tôi thật s ự rất mong muốn rằng tôi có thể s ống đ ể ch ứng ki ến sự vi ệ c này đượ c giải quyết”. Và như
chúng ta đã th ấ y, ông ấ y đã làm đư ợ c.
Bono
Bono, ca sĩ chính của nhóm nhạc rock U2 đánh giá n ỗ l ực tiếp th ị của Apple r ất cao. Ông
có ni ềm tin rằng ban nh ạc đến t ừ Dublin (Ireland) của mình vẫn là ban nhạ c tuy ệt v ờ i nh ất thế gi ớ i,
nhưng đến năm 2004, tức là sau g ần 30 năm nỗ l ực bên nhau, gi ờ đây hình ả nh c ủa ban nhạc cần
phải đư ợ c tiếp thêm sinh lực. H ọ s ản xu ất m ột album mớ i c ực kì xu ất s ắc vớ i m ột bài hát mà tay
ghi-ta chính c ủa ban, The Edge, tuyên b ố rằng đó s ẽ là “chúa t ể củ a các bài bài nhạc rock.” Bono
bi ết r ằng h ọ phải tìm ra m ột cách nào đó đ ể thu hút thêm s ự chú ý, vì thế ông thu x ếp gọi m ột cu ộc
đi ện thoại cho Jobs.
“Tôi muốn một điều gì thật đặc biệt t ừ Apple,” Bono nh ớ l ại. “Chúng tôi có một bài hát tên
là Vertigo trong đó có m ột đo ạn riff ghi -ta r ất điên mà tôi biết ch ắc nó sẽ tr ở thành hiện tư ợ ng,
nhưng đi ều đó ch ỉ có th ể tr ở thành hiện thực nếu ngườ i nghe đư ợ c “ti ếp cận” nó r ất, rất nhi ều l ần.”
ông lo lắng r ằng thờ i đại qu ảng bá một bài hát qua sóng truy ền thanh đã qua. Vì vậ y Bono đ ến
thăm nhà Jobs ở Palo Alto, đi d ạo quanh vườ n và đưa ra một đ ề nghị . Trong những năm qua, U2 đã
hủ y bỏ những đ ề nghị tr ị giá đ ến 23 tri ệu đô -la đ ể xuất hi ện trong các qu ảng cáo. Giờ đây ông
muốn Jobs sử dụng miễn phí ban nh ạc củ a mình trong một qu ảng cáo iPod - hoặc ít nh ất là một
phần trong gói hợ p đồng mà c ả hai bên cùng có l ợ i. “Trư ớ c đây, họ chưa bao gi ờ th ực hi ện m ột
quảng cáo như v ậ y,” Jobs sau này nh ớ l ại. “Nhưng h ọ đang c ố gắng tránh đượ c “th ảm hoạ ” t ải
nhạc mi ễn phí, và họ thích những gì chúng tôi đang làm v ớ i iTunes, và nghĩ rằng chúng tôi có thể
quảng bá h ọ đến nh ững khán gi ả tr ẻ tu ổi hơn.”
Bất c ứ CEO nào khác cũng có thể nhả y ngay vào đám đông cuồng nhi ệt đang hò reo trư ớ c
sân kh ấu để có đượ c U2 trong một qu ảng cáo củ a mình, nhưng Jobs thì lùi l ại m ột chút. Apple
không đưa vào quảng cáo iPod của mình nh ững ngư ờ i có di ện m ạo cụ th ể, mà ch ỉ đơn gi ản là một
bóng hình. (Lúc đó qu ảng cáo Dyland còn chưa đượ c th ực hi ện.) “Anh có đư ợ c hình bóng của
ngư ờ i hâm mộ,” Bono đáp lại, “v ậ y t ại sao bướ c tiếp theo không phải là bóng hình của nh ững ngh ệ
sĩ?” Jobs nói có vẻ như ý tưở ng đó đ áng để khám phá. Bono sao chép một bản của album How to
Dismatle an Atomic Bomb (Tạm dị ch: Làm thế nào để Tháo ngồi m ột qu ả Bom Nguyên t ử), “ông
ấ y là ngườ i duy nhất bên ngoài ban nh ạc có đư ợ c album ấ y,” Bono nói.
M ột cu ộc họp lập tức đư ợ c tri ệu tập. Jobs bay đến để nói chuyện vớ i Jimmy lovine, s ở hữ u
hãng thu Interscope phân phối U2, t ại nhà c ủa ông này trên Đ ồi Holmby, thu ộc Los Angeles. The
Edge cũng ở đó, cùng vớ i qu ản lý củ a U2, Paul McGuinness. M ột cu ộc họp khác di ễn ra trong b ếp
nhà Jobs, McGuinness ngồi vi ết ra nh ững điểm chính trong bản thoả thu ậ n vào phía sau cu ốn sổ
nhật ký của mình. U2 sẽ xuất hi ện trên một qu ảng cáo và Apple sẽ quảng bá nhi ệt liệt cho album
bằng vô s ố những cách khác nhau, từ những biển hi ệu qu ảng cáo cho đến trang chủ củ a iTunes.
Ban nh ạ c sẽ không nh ận đư ợ c thù lao trực tiếp, nhưng sẽ nhận đư ợ c tiền bả n quyền tác gi ả đối vớ i
phiên b ản U2 đ ặc bi ệt phát hành trên iPod. Bono tin r ằng, cũng như Lack, các nh ạ c sĩ cũng có th ể
thu đư ợ c tiền bản quyền trên mỗi chi ếc iPod đư ợ c bán ra, và đó là nỗ l ực bé nh ỏ của ông khi đưa
những nguyên t ắ c cho ban nh ạc của mình vào hợ p đồng, b ằng cách h ạn ch ế nhất có th ể. “Bono và
tôi đ ề nghị Steve s ản xu ấ t cho chúng tôi m ột chi ếc iPod màu đen,” lovine nh ớ l ại. “Chúng tôi
không làm việc củ a một nhà tài trợ quảng cáo, chúng tôi đang th ự c hiện một bản hợ p đồng hợ p tác
thương hi ệu.”
“Chúng tôi mu ốn có m ột chi ếc iPod củ a riêng mình, cái gì đó đ ể phân bi ệt vớ i nh ững chiế c
iPod tr ắng,” Bono nhớ l ạ i. “Chúng tôi thích màu đen”, nhưng Steve nói, ’’Chúng tôi đã c ố gắng
th ử nghi ệm nh ững màu khác, nhưng chúng đều không hiệu quả.” Vài ngày sau Jobs d ị u l ại và ch ấp
nhận ý tưở ng c ủa chúng tôi, m ột cách ng ập ng ừng.
Đoạn qu ảng cáo là nh ững c ảnh quay một ban nhạ c đang trình di ễn máu l ửa vớ i m ột bóng
ngư ờ i đặ c bi ệt và bóng m ột cô gái nhún nh ả y theo tiếng nhạ c đặ c trưng c ủ a iPod. Dù đoạn qu ảng
cáo đang đư ợ c th ực hi ện ở London, nhưng hợ p đồ ng vớ i Apple v ẫn chưa dứt khoát. Jobs b ắt đầu
nghĩ đ ến phương án th ứ hai, về ý tư ở ng một chi ếc iPod màu đen đ ặc bi ệt, và ti ền bản quyền ch ắc
ch ắn không thể hạ xuống đượ c, ông gọi cho James Vincent, hãng quảng cáo của Apple và nói ông
gọi đi ện sang London tạ m dừng mọi chuy ện lại. “Tôi nghĩ ch ắ c không ổn đâu,” Jobs nói. “Họ
không bi ết chúng ta đang mang lại cho h ọ những giá trị l ớ n đến m ức nào, thật không đ áng chút
nào. Hãy nghĩ đến nh ững quảng cáo khác ph ải làm.” Vincent, m ột ngườ i hâm mộ U2 đ ến trọn đờ i
bi ết r ằng quảng cáo này s ẽ mang lại nh ững thứ vĩ đ ại th ế nào cho c ả ban nh ạ c và Apple, và ông đã
van xin hãy cho ông thêm một cơ hội để nói chuyệ n vớ i Bono và c ố gắng đưa m ọi chuy ện trở l ại
quĩ đạo. Jo bs đưa cho ông s ố đi ện thoại di động c ủa Bono và ông này bay thẳng đ ến phòng ăn củ a
ca sĩ ở Dublin.
Bono cũng phải suy nghĩ l ại. “Tôi không nghĩ m ọi chuy ệ n sẽ đi đ ến đâu,” ông nói v ớ i
Vincent. “Ban nh ạ c rất c ứng đ ầu.” Vincent hỏi th ực ra vấn đề là gì. “Khi chúng tôi còn là nh ững
thanh niên ở Dublin, chúng tôi đã tuyên bố mình sẽ không bao giờ ‘mặc đò lỗi m ốt,” Bono trả l ờ i.
Vincent, mặc dù là ngư ờ i Anh và rất quen thuộc vớ i ngôn ng ữ rock, nói ông không hiểu câu đó
nghĩa là gì. “Là làm nhữ ng việ c rác rưở i ch ỉ vì ti ề n,” Bono gi ải thích. “Chúng tôi làm t ất c ả vì
ngư ờ i hâm mộ củ a mình. Chúng tôi s ẽ cảm th ấ y mình đang làm họ th ất vọng n ếu chúng tôi xu ất
hi ện trong m ột qu ảng cáo. C ảm giác đó không ổn chút nào. Xin l ỗi vì đã làm các anh m ất th ờ i
gian.”
Vincent h ỏi th ế thì Apple có th ể làm thêm đi ều gì để m ọi chuy ệ n suôn sẻ không. “Chúng
tôi đã trao cho các anh thứ quan tr ọng nhất mà chúng tôi có th ể trao g ửi, đó chính là âm nh ạc của
chúng tôi.” Bono tr ả l ờ i. “Và các anh tr ả l ại cho chúng tôi cái gì? Quảng cáo, và ngườ i hâm mộ s ẽ
nghĩ là dành cho các anh. Chúng tôi c ần nhiều hơn thế.” Vincent tr ả l ờ i r ằng đ ề nghị về iPod phiên
bản U2 đ ặ c biệt và tho ả thuận tác quy ề n sẽ là m ột hợ p đồng khổng lò. “Đó cũng là cái giá cao nh ất
mà chúng tôi có thể đưa ra,” ông nói vớ i Bono .
Ca sĩ nói ông ta đã s ẵn sàng trở l ại bàn đàm phán , vì th ế ngay lập tứ c Vincent g ọi cho Jony
Ive, m ột fan cu ồng nhiệt nữa của U2 (ông xem buổi bi ểu di ễn lần đầu tiên c ủa họ ở Newcastle vào
năm 1983), và kể l ại tình hình. Sau đó ông g ọi cho Jobs và đ ề nghị ông hãy đ ể Ive t ớ i Dublin và
cho bên đ ối tác th ấ y một chi ếc iPod màu đen trông s ẽ như th ế nào. Jobs đồng ý. Vincent gọi l ại cho
Bono và hỏi xem ông đã biết Jony Ive chưa, mà không bi ết r ằng h ọ đã bi ết nhau trư ớ c đó và
ngư ỡ ng mộ l ẫn nhau. “Bi ết Jony Ive á?” Bono cườ i. “Tôi thích anh chàng đó l ắm. Anh ta thật
“nóng bỏng.”
“Nồng nhi ệt quá đ ấ y,” Vincent đáp l ờ i, “nhưng n ế u tôi nói r ằng anh ấ y đang trên đư ờ ng
đến ch ỗ anh và sẽ cho anh thấ y chi ếc iPod của anh tuy ệt t ớ i m ức nào thì sao?” “Tôi s ẽ đích thân
đến đón anh ta ở Maserati,” Bono trả l ờ i. “Anh ta s ẽ ở nhà tôi, tôi s ẽ đưa anh ấ y ra ngoài và tôi sẽ
khiến anh ta say tuý luý.”
Ngày hôm sau, khi Ive đ ến Dublin, Vincent v ẫn ph ải ch ống đ ỡ vớ i Jobs, khi ấ y vẫn đang
suy nghĩ về phương án hai. “Tôi không biết chúng ta làm th ế này có đúng không nữ a,” Jobs nói.
“Chúng ta không muốn làm điều này cho b ất c ứ ai khác.” ông lo l ắng v ề vi ệ c các ngh ệ sĩ trướ c đó
s ẽ đòi h ỏi tiền bản quyề n đối v ớ i mỗi chi ếc iPod bán đượ c. Vincent h ứ a vớ i ông r ằng hợ p đồng vớ i
U2 là trườ ng h ợ p đặc bi ệ t duy nhất.
“Jony t ớ i Dublin và tôi đã đ ể anh ấ y ở trong nhà khách củ a mình, một ch ỗ khá sáng s ủa
phía bên cạnh đườ ng tàu và nhìn ra bi ển,” Bono nh ớ l ại. “C ậu ấ y cho tôi xem một chi ếc iPod màu
đen rất đẹp vớ i vòng xoay màu đ ỏ đ ậm, và tôi nói đượ c, ch úng tôi sẽ th ực hi ện vi ệc này.” H ọ t ớ i
m ột quán rư ợ u trong vùng, đưa ra m ột s ố chi ti ết, và g ọi cho Jobs ở Cupertino đ ể xem ông có đồng
ý không. Jobs mặc cả m ột lúc v ớ i t ừng chi tiết v ề tài chính, và thiết k ế, trư ớ c khi th ực sự ch ấp nh ận
th ỏa thu ận. Đi ều này khi ến Bono th ấ y ấn tư ợ ng. “Thực sự đ áng ngạc nhiên khi m ột CEO lại quan
tâm nhiều như vậ y về các chi ti ết,” anh nói. Khi mọi vi ệc đư ợ c gi ải quyết, Ive và Bono b ắt đầu
uống nhi ều hơn. Sau vài vòng, họ quyết đị nh g ọi cho Vincent ở California. Cậu ta không có nhà
nên Bono đ ể l ại l ờ i nh ắn trong máy tr ả l ờ i t ự động, l ờ i nh ắn mà Vincent sẽ không bao giờ xóa đi.
“Tôi đang ngồi ở Dublin xa xôi vớ i anh b ạn Jony của cậu,” ông nói. “C ả hai chúng tôi đ ều hơi say,
và chúng tôi h ạnh phúc v ớ i chi ếc iPod tuyệt vờ i này, th ậm chí tôi còn không tin là nó tồn tại trên
đờ i và tôi đang c ầm nó trong tay. Cảm ơn nhiều!”
Jobs thuê m ột nhà hát ở San Jose để gi ớ i thi ệu qu ảng cáo truyền hình mớ i và chi ếc iPod đặc
bi ệt. Bono và The Edge tham gia cùng ông trên sân kh ấu. Album này đã bán đượ c 840.000 b ản
trong tuần đầu tiên và xu ất hi ện ở vị trí s ố m ột trên b ảng x ếp Billboard. Bono phát biểu vớ i báo
gi ớ i sau đó r ằng U2 đã qu ảng cáo mà không m ất tiền vì “U2 đư ợ c l ợ i không kém gì Apple trong
những quảng cáo đó.” Jimmy lovine thêm vào r ằ ng vi ệ c này đã cho phép ban nhạc “chạm tớ i l ớ p
thính giả tr ẻ hơn.”
Đi ều đáng chú ý là chính sự kết hợ p vớ i m ột công ty máy tính và thi ết bị đi ện tử đã tr ở
thành cách t ốt nh ất để m ột ban nhạc rock trở nên hợ p th ờ i và lôi cu ốn vớ i nh ững ngư ờ i trẻ. Bono
sau này gi ải thích rằng không ph ải t ất c ả các tài trợ của các t ập đoàn đều là thỏa thu ận vớ i ma qu ỷ.
“Hãy nhìn xem,” anh nói v ớ i Greg Kot, nhà phê bình âm nh ạc của Chicago Tribune. ‘“Ma quỷ’ ở
đây là một nhóm những cái đầu sáng t ạo, sáng t ạo hơn r ất nhi ều ngườ i t rong các ban nhạc rock. Ca
s ỹ chính là Steve Jobs. Những ngư ờ i này giúp thi ế t kế m ột th ứ đầ y nghệ thuật và đẹp nh ất trong
văn hóa âm nh ạ c kể t ừ sau cây đàn ghi ta điện xu ấ t hi ện. Đó là chi ếc iPod. Nhi ệm vụ của nghệ
thuật là đu ổi nh ững thứ x ấu xí đi.”
Bono đạt đư ợ c m ột th ỏa thu ận khác vớ i Jobs vào năm 2006, về chiến dị ch Product Red
quyên góp ti ền và dành s ự quan tâm tớ i vi ệc chi ến đấu vớ i đại dị ch AIDS ở châu Phi. Jobs chưa
bao giờ quan tâm nhiều tớ i vi ệc t ừ thiện, tuy nhiên ông đã đồng ý làm một m ẫu iPod đỏ đặc bi ệt
như m ột ph ần trong chiế n dị ch c ủa Bono. Đó không ph ải m ột cam k ết toàn tâm toàn ý. ông ấ y đã
cản trở , ví dụ như vi ệc ch ữ ký c ủa chi ến dị ch đưa tên công ty vào trong ngoặc đơn v ớ i t ừ “red”
nâng cao ở phía sau, thành (APPLE)RED. “Tôi không mu ốn Ap ple ở trong ngo ặ c đơn,” Jobs yêu
cầu. Bono trả l ờ i, “Nhưng Steve, đó là cách chúng ta th ể hi ện sự th ống nhất trong m ục tiêu c ủa
mình.” Cuộc tranh lu ận trở nên căng th ẳng - t ớ i mức ch ửi r ủa l ẫn nhau - trướ c khi h ọ đồng ý bỏ qua
tranh cãi.
Sau cùng Jobs đã th ỏa hiệp ph ần nào. Bono có th ể làm nh ững gì anh muốn trong các qu ảng
cáo, nhưng Jobs không bao gi ờ để Apple vào trong ngoặ c đơn trong bất kỳ s ản ph ẩm nào hay b ất
k ỳ c ửa hàng nào củ a ông. Chiếc iPod đã đượ c đánh nhãn (PRODUCT)RED, không ph ải
(APPLE)RED.
“Steve có th ể r ất nóng nả y,” Bono nh ớ l ại, “nhưng những thờ i đi ểm đó đã biến chúng tôi
thành nh ững ngư ờ i bạn thân, bở i không có nhi ều ngườ i trong cu ộ c đờ i mà b ạn có th ể tranh luận
th ẳng th ắn như v ậ y. ông ấ y rất ngoan c ố. Sau các bu ổi trình di ễn của chúng tôi, tôi trò chuyện cùng
ông và ông luôn có m ột ý kiến nào đó.” Jobs và gia đình mình thư ờ ng t ớ i thăm Bono cùng v ợ và
bốn đứa nh ỏ ở nhà củ a họ ở gần Nice trên Bờ Bi ển Ngà. Vào một k ỳ nghỉ năm 2008, Jobs thuê một
con tàu và thả neo ở gần nhà Bono. H ọ ti ệ c tùng cùng nhau, và Bono b ật nh ững băng ghi âm các
bài hát U2 đang chuẩn bị để sau này tr ở thành album No Line on the
Horizon. Tuy vậ y bất ch ấ p tình bạn của họ, Jobs vẫn là một ngườ i r ất khó thương lượ ng.
Họ đã th ử xúc tiến m ột th ỏa thu ận qu ảng cáo khác và sự ra m ắt đặc bi ệt c ủ a bài Get On Your
Boots, nhưng đã không thể đạt đư ợ c. Khi Bono b ị đau lưng vào năm 2010 và ph ải hủ y chuy ế n lưu
di ễn, Powell đã g ửi cho anh c ả m ột thùng quà vớ i m ột DVD c ủa bộ đôi hài Flight of the
Conchords, cu ốn sách Mozart’s Brain and the Fighter Pilot, m ật ong t ừ các t ổ ong trong vườ n của
bà, và kem giảm đau. Jobs viết một chú thích và dính nó vào h ộp kem, trên đó ghi, “Kem gi ảm đau
- Tôi thích đấ y.”
Yo-Yo Ma
Có một nghệ sĩ chơi nh ạc cổ đi ển mà Jobs thần tượ ng v ề c ả nhân cách và phong cách biểu
di ễn đó là Yo-Yo Ma, ngh ệ sĩ b ậ c th ầ y t ạo nên những giai đi ệu ng ọt ngào và sâu l ắng v ớ i cây đàn
violon. H ọ gặp nhau lần đầu vào năm 1981, khi Jobs tham gia H ội ngh ị Thiết k ế Aspen và Ma biể u
di ễn tại Liên hoan Âm nh ạc Aspen. Jobs luôn có xu hướ ng b ị cu ốn hút v ớ i nh ững ngh ệ sĩ đích
th ực, và ông tr ở thành một fan hâm m ộ của Yo -Yo Ma. Jobs đã mờ i Yo -Yo Ma bi ểu di ễn tại đám
cư ớ i c ủa mình, nhưng Yo-Yo Ma đang có chuyến lưu diễn và không đến dự đượ c. Ông đến nhà
Jobs vài nă m sau đó, ngồ i trong phòng khách, và chơi nh ững giai đi ệu củ a Bach trên cây đàn
Stradivarius sản xu ất năm 1733 của mình. "Đây là những gì tôi đ ị nh chơi trong đám cướ i c ủ a anh,"
ông nói v ớ i Jobs. Jobs xúc đ ộng ứa nư ớ c m ắt nói v ớ i ông, "Anh chơi tuyệt đến m ức làm tôi dư ờ ng
như cảm nhận đư ợ c sự t ồ n tại c ủa Thiên Chúa, bở i tôi không th ể tin đư ợ c m ột con ngư ờ i bình
thư ờ ng có thể làm nên điều kỳ di ệu này." Trong m ột chuy ến thăm khác, Ma cho phép con gái út
của Jobs, Erin th ử kéo cây đàn trong khi họ ngồi quanh bếp. Vào th ờ i đi ểm đó, Jobs đã đượ c cảnh
báo về bệnh ung thư, và ông đã bu ộ c Yo - Yo Ma hứa sẽ chơi trong đám tang c ủ a mình.
Chương 33 : PIXAR B ạ n... và Thù
Thế gi ới côn trùng (A Bug’s Life)
Khi Apple phát triển ra iMac, Jobs lái xe cùng Jony Ive t ớ i đ ể trình di ễn cho những ngư ờ i ở
Pixar xem. ông c ảm th ấ y cái máy tính này có đư ợ c th ần thái cá tính riêng có th ể hấp dẫn đối vớ i
những “cha đ ẻ ” củ a Buzz Lightyear và Woody, và ông yêu thích việ c Ive và John Lasseter chia sẻ
tài năng đ ể kết nối nghệ thuật và cô ng ngh ệ theo cách hài hư ớ c.
Pixar v ốn là nơi trú ẩn mỗi khi Jobs c ảm thấ y căng th ẳng ở Cupertino, ở Apple, các quản lý
thư ờ ng ở tr ạng thái kích động và kiệt s ứ c, Jobs thì có xu hư ớ ng th ất thư ờ ng và mọi ngườ i c ảm thấ y
căng th ẳng khi họ đứng c ạnh ông. ở Pixa r, nơi làm vi ệc của nh ững ngư ờ i vi ết truyện và minh hoạ
dườ ng như yên bình hơn và họ đối xử dị u dàng vớ i nhau hơn, th ậm chí là v ớ i c ả Jobs. Nói cách
khác, không khí ở m ỗi nơi đ ều bị ảnh hưở ng b ở i ngườ i đứng đ ầu, ở Apple thì là Jobs, còn ở Pixar
thì là Lasseter.
Jobs phát hi ện ra ni ềm vui thiết tha v ớ i vi ệc làm phim và say mê nh ững công ngh ệ m ở ra
những điều kì di ệu như cho phép máy tính tạo ra hình ảnh t ừng giọt nư ớ c mưa ph ản chi ếu lại tia
nắng mặt trờ i, ho ặc t ừng c ánh cỏ d ập dờ n trong gió. Nhưng ông đã ki ềm ch ế bản thân để cố gắng
không ki ểm soát quá trình sáng t ạ o ở đây. ở Pixar, ông đã họ c cách tôn tr ọng s ự s áng t ạo của m ọi
ngư ờ i và để họ t ự quyết. Ph ần lớ n là vì ông yêu quí Lasseter, một nghệ s ỹ dễ m ến, và cũng giống
Ive, đã nhìn ra những phần tốt đẹp nh ất trong con ngườ i Jobs.
Vai trò chính c ủa Jobs ở Pixar là đàm phán những thoả thuận, m ột s ức mạnh tự nhiên đã trở
thành tài sản của ông. Không lâu sau khi ra m ắt Toy story (Câu chuy ệ n đồ chơi), ông va chạm vớ i
Jeffrey Katzenberg, ngư ờ i sau này rờ i kh ỏi Di sney vào mùa hè năm 1995 và cùng vớ i Steven
Spielberg và David Geffen thành l ập hãng phim DreamWorks SKG. Jobs tin r ằng nhóm Pixar c ủa
mình đã nói vớ i Katzenberg khi ông này v ẫn còn ở Disney về đề xuất làm b ộ phim thứ hai, A
Bug’s Life (Th ế gi ớ i côn trùng) , và sau đó, ông này đã ăn cắp ý tưở ng làm phim hoạt hình về côn
trùng khi quy ết đị nh s ản xu ất phim Antz (Ki ến) ở DreamWorks. “Khi Jeffrey vẫn còn điều hành ở
Disney, chúng tôi đã tiết l ộ cho ông ta v ề A Bug’s Life,” Jobs nói. “Trong lị ch s ử 60 năm c ủa
ngành phim ho ạt hình, chưa từng có một ai nghĩ đến chuy ện làm một bộ phim hoạt hình về côn
trùng, cho đ ến khi Lasseter đưa ra ý tưở ng này. Đó là ý tưở ng s áng t ạo của m ột thiên tài. Khi
Jeffrey b ỏ đi và sang làm cho DreamW ork, bỗng đâu lại n ả y ra ý tưở ng làm m ột b ộ phim hoạt hình
về - ôi tr ờ i - về côn trùng! Và ông ta v ờ như mình chưa bao gi ờ nghe nói đến ý tưở ng này. Thật dối
trá. Ông ta đã nói d ối qua t ừng k ẽ răng.”
Thực t ế không ph ải vậ y. Câu chuy ệ n th ật phía sau còn thú v ị hơn th ế. Katzenberg đúng là
chưa h ề nghe nói đến A Bug’s Life khi ông còn ở Disney. Nhưng sau khi ông bỏ sang làm
DreamWorks, ông vẫn giữ liên l ạc vớ i Lasseter, thi tho ảng lại khu ấ y động b ằ ng m ột cu ộc gọi ng ắn
theo phong cách rất riêng của mình “Này anh b ạn, d ạo này c ậu th ế nào ròi”. Th ế nên khi Lasseter
đến thăm phòng Kỹ nghệ của xư ở ng phim Universal, nơi DreamWorks đóng đô, ông đã gọi cho
Katzenberg và ghé qua chào cùng một vài đồng nghi ệp. Khi Katzenberg hỏi họ đị nh làm gì ti ếp
theo, Lasseter đã nói ra. “Chúng tôi mô tả cho ông ta v ề phim A Bug’s Life, trong đó nhân vật
chính là một chú ki ến, và nói cho ông ta nghe cốt chuy ện về m ột chú ki ến đã ch ỉ huy cả bầ y kiến và
t ổ ch ức cả m ột vòng tuyể n quân để làm thành m ột đội ngũ chống lại m ột con châu chấu,” Lasseter
nhớ l ại. “Đ áng l ẽ tôi ph ải t hận trọng hơn m ớ i đúng. Jeffrey liên tục hỏi bao gi ờ nó s ẽ ra m ắt.”
Lasseter bắt đ ầu lo l ắng khi, vào đầu năm 1996, dư luận bàn tán về vi ệc DreamW ork s ẽ làm
bộ phim hoạt hình đồ họa máy tính về những chú ki ến, ông đã gọi cho Katzenberg và h ỏi trực diện.
Katzenberg t ằng h ắng, t ỏ ra ng ạc nhiên và h ỏi Lasseter nghe tin này t ừ đâu. Lasseter h ỏi l ại l ần nữa
và Katzenberg th ừ a nh ận đúng như vậ y. “Làm sao anh dám?” Lasseter, ngườ i vốn rất ít khi lên
gi ọng đã hét lên trong đi ện thoại.
“Chúng tôi có ý tưở ng đó t ừ lâ u ròi,” Katzenberg giải thích rằng một giám đốc phát tri ển ở
DreamWorks đã đưa ra ý tưở ng này.
“Tôi không tin anh,” Lassetertr ả l ờ i.
Katzenberg thừa nh ận mình đ ẩ y nhanh ti ến độ củ a Antz là để cạnh tranh vớ i nh ững ngư ờ i
đồng nghi ệp cũ ở Disney. B ộ phim chính của DreamWorks lúc đầu là Hoàng t ử Ai C ập (Prince of
Egypt), d ự đị nh ra m ắt vào L ễ Tạ ơn năm 1998, nhưng cũng đúng tuần đó, ông đã th ất kinh khi bi ết
Disney có kế hoạ ch cho ra m ắt phim A Bug’s Life c ủa Pixar. V ậ y nên ông đã c ấp t ập đưa Antz vào
s ản xu ất nhằm tạo áp lực để Disney thay đổi kế hoạch ra m ắt A Bug’s Life.
“Chó má,” Lasseter, ngư ờ i vốn không hay nói bậ y đã bu ột m ồm ch ửi th ề. ông không nói
chuy ệ n vớ i Katzenberg trong 13 năm sau đó.
Jobs cũng cáu điên, và ông th ực t ế hơn Lasseter khi trút nỗi gi ận dữ lên Katzenberg. Ông
gọi cho Katzenberg và b ắ t đầu gào thét. Katzenberg đ ề nghị : ông ta s ẽ trì hoãn s ản xu ất Antz nếu
Jobs và Disney có thể rờ i ngày phát hành A Bug’s Life đ ể không bị c ạnh tranh vớ i Hoàng t ử Ai
C ập. “Đó rõ ràng là m ột cu ộc t ống ti ền, không đ ờ i nào tôi ch ấp nh ận” Jobs nhớ l ại. ông bảo
Katzenberg rằng s ẽ không có gì khiến ông làm cho Disney thay đ ổi ngày phát hành.
“Tất nhiên là anh có th ể,” Katzenberg tr ả l ờ i. “Anh có thể dờ i non l ấp bể. Chính anh đã d ạ y
tôi điều ấ y!” ông nói khi Pixar đứng trên bờ vực phá s ản, chính Jobs là ngư ờ i t ớ i giải c ứu và đưa ra
thoả thuận làm phim Toy Story. “Tôi chính là m ột ngườ i ủng h ộ anh hòi ấ y, và gi ờ anh để họ l ợ i
dụng mình để gây sức ép vớ i tôi.” ông g ợ i ý r ằng n ếu Jobs muốn, đơn gi ản là ông chỉ c ần làm c ho
s ản xu ất A Bug’s Life ch ậm lại mà không cho Disney biết. N ếu làm như v ậ y, Katzenberg nói ông
ta cũng s ẽ trì hoãn Antz. “Đ ừng có mơ,” Jobs trả l ờ i.
Katzenberg có cơ sở vững chắc để làm như vậ y. Rõ ràng là Eisner và Disney đã sử dụng
phim c ủa Pixar đ ể “trả đũa” vi ệc ông r ờ i Disney và thành l ập một hãng phim c ạnh tranh. “Hoàng tử
Ai C ập là bộ phim đ ầu tiên chúng tôi làm, và h ọ l ại lên lị ch cho ra m ắt một thứ khác vào ngày công
chiếu bộ phim c ủa chúng tôi thì th ật là không bình thư ờ ng,” ông nói. “Quan đi ểm của tôi về vi ệ c đó
cũng gi ống Vua Sư Tử thôi, n ếu anh chạm tay vào cái lòng của tôi và tát vào m ặt tôi, thì coi
ch ừng.”
Không ai nhườ ng ai, và hai b ộ phim cùng v ề ki ến đã tạo nên cơn s ốt truyền thông. Disney
cố gắng gi ữ Jobs im miệng, v ớ i lý thuyết là và o cu ộ c tranh ch ấp ch ẳng khác nào giúp đỡ Antz đình
đám hơn, nhưng Jobs không phải ngườ i d ễ bị bị t mồm. “Nh ững k ẻ ác hi ếm khi giành chiến thắng,”
ông nói v ớ i t ờ Los Angeles Times. Đáp lại, chuyên gia ti ếp thị khôn khéo c ủa DreamWorks, Terry
Press g ợ i ý, “St eve Jobs nên u ống thu ố c đi.”
Antz ra m ắt vào đ ầu th áng Mườ i năm 1998. Đó không phải là một bộ phim t ệ. Woody
Allen lòng tiếng cho vai một chú ki ến nổi lo ạn sống trong một xã hội ki ến tuân thủ nghiêm ngặt
các qui đ ị nh, chú khát khao đượ c th ể hi ện tự do cá nhân. “Đây là ki ểu nhân vật trong hài k ị ch c ủa
Woody Allen mà ông ấ y không còn th ực hiện nữa,” t ờ Time viết. B ộ phim thu về con số doanh thu
khá ấn tư ợ ng 91 triệu đô - la trong nư ớ c và 172 tri ệ u đô -la trên toàn cầu.
A Bug’s Life ra mắt 6 tuần sau đó, theo đúng k ế hoạch ban đầu. B ộ phim có nội dung bi
tr áng hơn, chuy ể n th ể t ừ chuy ệ n ng ụ ngôn c ủa Aesop “B ầ y ki ến và con châu ch ấu,” c ộng thêm kĩ
thuật công nghệ hoàn h ảo hơn, nên b ộ phim mang đến nh ững trườ ng đoạn miêu tả chú chim sáo đá
sinh đ ộng đ ến từng chi tiết, cũng như hình ảnh những đồng cỏ bát ngát dướ i góc nhìn c ủa m ột chú
ki ến vừa chi ến th ắng huy hoàng. Time dành nhi ều lờ i bình lu ận nồng nhi ệt hơn cho b ộ phim này.
“Kỹ x ảo đò hoạ của nó th ực sự xuất s ắc - m ột màn hình r ộng mở ra c ảnh những chiếc lá Thiên
Đườ ng và những mê cung đông đúc vớ i nh ững chú bọ đang ấu yếm, trò chuyện, pha trò - t ất c ả
khiến cho b ộ phim c ủa DreamWorks n ếu mang so s ánh thì thô sơ như so đài phát thanh v ớ i phim
hoạt hình vậ y” Richard Corliss viết. Doanh thu c ủa bộ phim cao gấp đôi so v ớ i Antz, 163 tri ệu
đô-la doanh thu trong nư ớ c và 363 đô-la trên toàn cầu. (Doanh thu của nó cũng đánh b ại Hoàng t ử
Ai C ập.)
Vài năm sau, Katzenberg đ ến gặp Jobs và cố gắng giảng hoà. ông kh ẳng đ ị nh mình chưa
bao giờ nghe nói ý tưở ng v ề A Bug’s Life khi còn ở Disney: n ếu có thì h ẳn nào ông cũng đòi hỏi
Disney phải chia s ẻ l ợ i nhuận cho mình, vì v ậ y ch ắc ch ắn ông không việc gì ph ải nói d ối về đi ều
đó. Jobs cư ờ i vang và ch ấp nh ận lờ i bào chữ a. “Tôi đã đ ề nghị anh thay đổ i ngày công chiếu,
nhưng anh không chị u, th ế nên anh đ ừng n ổi cáu vì tôi ch ỉ muốn bảo vệ đứa con c ủ a mình,”
Katzenberg nói v ớ i Jobs, ông nh ớ l ại r ằng Jobs “thực sự bình tĩnh và gi ống một ngườ i hành thi ền
đích th ực” và nói ông hiể u rồi. Nhưng sau này Jobs nói ông không bao gi ờ th ực sự bỏ qua cho
Katzenberg:
Bộ phim c ủa chúng tôi th ắng v ề doanh thu. Đi ều đó có d ễ ch ị u không? Không, c ảm giác
vẫn rất kinh kh ủng, bở i vì ngườ i ta đã bắt đầu nói v ề cách làm phim côn trùng ở Hollywood. H ắn
đã cướ p ý tưở ng nguyên b ản tuyệt vờ i c ủ a John, và điều đó không bao giờ s ửa ch ữa đư ợ c. Thật
t áng t ận lương tâm, vì v ậ y tôi không bao gi ờ tin anh ta n ữa, ngay c ả khi anh ấ y cố gắng làm hoà.
Sau thành công c ủa Shrek, ông đ ến gặp tôi và nói, “Tôi đã thay đ ổi, cu ối cùng tôi cũng có thể hài
lòng v ớ i bản thân,” thật tào lao. Nó gi ống như th ể, hãy đ ể tôi yên đi, Jeffrey.
Về phần mình, Katzenberg lị ch s ự hơn th ế nhiều. Ông vẫn coi Jobs là một trong nh ững
“thiên tài th ực sự trên th ế gi ớ i này,” và ông v ẫn tôn tr ọng Jobs mặc dù m ối quan hệ không êm ả
gi ữa hai ngư ờ i.
Đánh bại Antz còn có m ột ý nghĩa quan tr ọng hơn, đó là chứng minh Pix ar không ch ỉ s ản
xuất đư ợ c phim bom tấn m ột l ần duy nhất. Doanh thu c ủa A Bug’s Life ngang ng ử a vớ i Toy story
ch ứng minh thành công đ ầu tiên không phải là ăn may. “Trong kinh doanh có nh ững th ứ kinh đi ển,
như hội ch ứng s ản ph ẩm thứ hai,” Jobs sau này đã phát bi ểu như v ậ y. Nó x ả y ra khi b ạn không hiể u
vì sao s ản ph ẩm đầu tiên c ủa bạn lại thành công đ ế n vậ y. “Tôi đã tr ải qua đi ều ấ y ở Apple. Cảm
giác của tôi là, n ế u chúng tôi có th ể thành công ở b ộ phim thứ hai, thì chúng tôi ch ắc ch ắn có th ể
làm đư ợ c.”
B ộ phim c ủ a riêng Steve
Toy Story 2 ra m ắt vào th áng Mườ i hai năm 1999, thậm chí còn thành công hơn trướ c, vớ i
t ổng doanh thu trên toàn c ầu là 485 triệu đô -la. Thành công c ủa Pixar gi ờ đây đã đư ợ c bảo ch ứng,
đã đ ến lúc xây dựng một trụ s ở trưng bày. Jobs và nhóm Pixar nhanh chóng tìm thấ y nhà máy s ả n
xuất n ướ c qu ả đóng h ộp Del Monte ở Emeryville, m ột khu công nghiệp lân c ận nằm giữa Berkeley
và Oakland, chỉ đi qua Cầu Cảng t ừ San Francisco là đến. H ọ phá bỏ nhà máy này đi và Jobs đặt
hàng Peter Bohlin, kiến trúc sư các c ửa hàng của Apple thi ết kế m ột toà nhà nằm trên khu đất 16
hécta.
Jobs theo sát ti ến độ củ a toà nhà, trên m ọi phương di ện, từ ý tư ở ng tổng thể cho đến nh ững
chi tiết t ỉ m ẩn nh ất, bao g ồm cả v ật liệu xây d ựng và quá trình xây dựng. “Steve có niềm tin sắt đá
rằng một toà nhà hợ p lý có th ể t ạo ra những thứ vĩ đ ại cho n ền văn hoá,” ch ủ t ị ch c ủa Pixar, Ed
Catmull nói. Jobs kiểm soát quá trình sáng t ạo ra toà nhà này giống cách một ông đ ạo di ễ n lăn lộn
vớ i t ừng c ảnh phim. “Toà nhà Pixar chính là bộ phim c ủa riêng Steve” Lasseter nói.
Lúc đầu, Lasseter nh ững mu ốn xây d ựng một studio kiểu Hollywood c ổ đi ể n, vớ i nh ững
toà nhà tách bi ệt vớ i t ừng dự án khác nhau và các khu nhà gỗ dành cho nh ữ ng đ ội phát tri ển sáng
t ạo. Nhưng m ọi ngườ i ở Disney nói họ không thích dinh cơ mớ i c ủa mình b ở i vì các nhóm cảm
th ấ y bị cô lập và Jobs đồng tình. Trên thực t ế, ông quy ết đị nh h ọ nên đi về thái cực còn l ại: m ột toà
nhà l ớ n bao quanh h ội trư ờ ng trung tâm nhằm khuyến khích mọi ngườ i gặ p gỡ l ẫn nhau.
M ặc dù là m ột cư dân trong th ế gi ớ i s ố, hay phải chăng chính ông cũng hi ể u quá rõ c ảm
giác bị cô l ập là như thế nào, Jobs là m ột tín đồ cu ồ ng nhiệt c ủa nh ững cuộ c họp trực diện. “Ngườ i
ta c ố thuy ế t ph ục rằng trong thờ i đại kết nối như hiện nay, các ý tư ở ng s ẽ đượ c phát tri ển bằng
email và iChat,” ông nói. “Đi ều đó th ật điên rồ. S áng t ạo nả y sinh t ừ những cuộc họp hành tr ự c
ti ếp, qua nh ững cuộ c th ả o lu ận ng ẫu nhiên. Bạn đi qua một đồng nghi ệp, hỏ i ngườ i ấ y dạo này thế
nào, bạn hào h ứng “ôi thế à” và r ất nhanh sau đó, các b ạn nung nấu đư ợ c cả đống ý tư ở ng.”
Vì thế ông muốn toà nhà Pixar đượ c thi ết kế để m ọi ngườ i gặp gỡ và h ọp m ặt ng ẫu nhiên.
“Nếu một toà nhà không làm đượ c điều đó, b ạn sẽ đánh m ất s ự s áng t ạo và đi ều kì diệu l ấp lánh to ả
ra từ những cơ h ội tình c ờ ,” ông nói. “Thế là chúng tôi đã thiết kế m ột toà nhà khi ến m ọi ngườ i
muốn đi ra kh ỏi văn phòng c ủ a mình và t ụ t ập ở khu trung tâm, v ớ i nh ững ngư ờ i mà bình thư ờ ng
có l ẽ họ ch ẳng bao gi ờ gặp gỡ .” C ửa trư ớ c, cầu thang chính và các hành lang đều dẫn đến hội
trườ ng trung tâm, quán café và các bảng thông báo đ ều ở đó, các phòng họ p vớ i c ửa sổ đều nhìn
xuống h ội trư ờ ng v ớ i sáu trăm ghế ngồi như trong rạp hát và hai phòng chi ế u nh ỏ hơn, tất c ả đều
quy tụ v ề hội trư ờ ng. “Lí thuy ết c ủa Steve hi ệu qu ả ngay từ ngày đ ầu tiên,” Lasseter nh ớ l ại. “Tôi
đi ngang qua những ngư ờ i mà c ả th áng tôi chẳng g ặ p l ần nào. Tôi chưa bao gi ờ th ấ y một toà nhà l ại
khuyến khích s ự hợ p tác và s áng t ạo đến m ứ c này.”
Thậm chí Jobs còn hơi quá đà khi cho thiết kế ch ỉ có 2 khu vệ sinh rộng trong toà nhà, m ột
dành cho nam, m ột dành cho n ữ và cũng n ối đ ến hội trư ờ ng trung tâm. “C ậu ấ y cảm thấ y bứ c thi ết,
cực kỳ bức thi ết,” Pam Kerwin, qu ản lý chung c ủa Pixar nhớ l ại. “Một s ố ngư ờ i c ảm th ấ y như v ậ y
là hơi quá đà. M ột ph ụ nữ mang b ầu nói cô không th ể đi bộ 10 phút chỉ để đi vệ sinh, và chuyệ n đó
gây ra một cu ộc cãi vã lớ n. Đó là một trong số ít lần mà Lasseter không đồ ng thu ận vớ i Jobs. H ọ
ti ến tớ i m ột tho ả hi ệp: m ỗi t ầng s ẽ có hai khu v ệ sinh, ở m ỗi c ánh của hội trư ờ ng, ở cả hai t ầng.
Vì những c ột trụ bằng thép trong toà nhà đư ợ c thi ết kế l ộ thiên, nên Jobs xem xét m ọi m ẫu
th ử ở các nhà máy trên khắp đất nư ớ c để xem màu nào và kết c ấu nào s ẽ phù hợ p nh ất. Ông ch ọn
m ột nhà máy c Ấn s ắt thép ở Arkansas và yêu cầu họ cẤn thép thành một màu thép nguyên ch ất và
đảm bảo nh ững ngư ờ i vậ n chuy ển tuyệt đối không đượ c t ạo ra một tì vết nào trên đó. ông cũng đòi
hỏi t ất c ả các trụ thép đ ều đặc và nguyên khối. “Chúng tôi phun cát làm sạch thép và v ỏ ngoài c ủa
nó trơn bóng, để ai cũng có thể th ấ y nó gi ống cái gì,” ông nhớ l ại. “Khi nh ững thợ phun cát làm
s ạch thép chuyể n nh ững tr ụ cột đ ến, họ mang theo c ả gia đình mình đến vào cuối tuần để cho họ có
th ể chiêm ngưỡ ng.”
M ột đi ểm điên rồ nhất trong toà nhà này chính là “Căn phòng Tình yêu.” M ột ho ạ sĩ phim
hoạt hình đã tình c ờ tìm ra m ột c ánh cửa nh ỏ phía sau một bức tư ờ ng khi anh đi vào văn phòng c ủa
mình. Nó nối vớ i m ột hành lang th ấp lè tè, ph ải cúi xuống mớ i chui qua đượ c và dẫn tớ i m ột căn
phòng ph ủ đầ y lá kim loại để cung c ấp khí điều hoà vào trong phòng. Anh và các đ ồng nghiệp đã
trưng dụng căn phòng bí mật này, trang hoàng nó bằng những bóng đèn Giáng sinh và những chiếc
đèn màu, trang b ị đồ đạ c cho nó, vớ i nh ững chiếc gh ế dài in hình loài v ật, nh ững chiếc gối tua và
dựng ra c ả m ột quán bar vớ i cocktail, các lo ại rư ợ u và khăn ăn có đề “Căn phòng tình yêu.” M ột
chiếc camera đư ợ c gắn ở hành lang cho phép những ngư ờ i bên trong phòng biết đư ợ c có ai đang
t ớ i gần.
Lasseter và Jobs đã m ờ i nh ững v ị khách quan trọ ng đ ến ch ỗ này và m ờ i họ ký tên lên b ức
tư ờ ng. Trong đó có ch ữ ký c ủ a Michael Eisner, Roy Disney, Tim Allen và Randy Newman. Jobs
thích căn phòng này, nhưng vì ông không ph ải là ngườ i hay u ống rượ u, nên ông thư ờ ng dùng nó
như Căn Phòng Suy Tưở ng, ông nói, nó g ợ i nh ớ đến ông, con ngư ờ i mà ông và Daniel Kottke bi ết
đến hòi ở Reed, nhưng không ch ất ch ứ a đắng cay.
Chia tách
Trong cu ộc họp công khai trướ c hội đồng giám đ ố c vào tháng Hai năm 2002, Michael
Eisner đã ch ỉ trích những quảng cáo mà Jobs đã làm ra cho iTunes củ a Apple. “Các công ty máy
tính đã cho đăng nh ững quảng cáo tràn trang, và những t ấm bi ển hi ệu qu ảng cáo thì chỉ toàn: B ắt
chư ớ c, nhào tr ộn và ghi ra đĩa,” ông tuyên bố. “Nói cách khác, h ọ đã tạo ra m ột tên ăn c ắp và phân
phát nó cho tất c ả b ạn bè của mình n ếu họ mua ph ải nh ững chiếc máy tính ấ y.”
Đó không phải là một l ờ i nh ận xé t khôn ngoan. Từ “b ắt chư ớ c” b ị hi ểu nh ầm ý nghĩa và b ị
hi ểu theo hàm ý là bóc m ẽ ngư ờ i khác ch ứ không đơn thu ần là sao chép và nh ập các file dữ li ệu từ
đĩa CD vào máy tính. Hàm ý của nó rõ ràng là khiến Jobs rất bự c bội, và Eisner th ừa bi ết đi ều đó.
Và như th ế thì thật không khôn ngoan. Pixar khi ấ y vừa m ớ i công chi ếu bộ phim thứ tư trong h ợ p
đồng v ớ i Disney, Monsters, Inc., (Tổng công ty quái v ật), v ớ i m ức doanh thu thành công nh ất t ừ
trướ c t ớ i nay, 525 triệu đô -la trên toàn th ế gi ớ i. H ợ p đồng c ủ a Pixar v ớ i Disney s ắp đến ngày đáo
hạn, và Eisner đã khiến nó dễ dàng hơn bao giờ hế t bằng cách công khai chọc đũa vào m ắt đối tác.
Jobs v ẫn rất hoài nghi và gọi đi ện thoại cho m ột lãnh đạo của Disney để trút bầu tâm s ự: “Anh có
bi ết Michael v ừa làm gì v ớ i tôi khô ng?”
Eisner và Jobs đến từ hai n ền tảng khác nhau và có cách ứng x ử hoàn toàn đ ối l ập, nhưng
họ gi ống nhau ở m ột điểm là đều có cá tính mạnh m ẽ và không m ấ y khi th ấ y cần ph ải tho ả hi ệp. C ả
hai đ ều có đam mê t ạo ra nh ững s ản ph ẩm tốt, thườ ng chú tâm qu ản lý đến từng chi tiết nh ỏ nhất,
và chẳng thấ y cần thi ết đưa ra những l ờ i ch ỉ trích b ọc đư ờ ng. Nhìn cách Eisner t ự mình đi thử tàu
cao t ốc Cu ộc sống Hoang dã trong Vương
Quốc Loài V ật c ủa Disney World r ất nhi ều lần và ròi đưa ra những yêu cầu thông minh
nhằm m ang đến cho khách hàng những tr ải nghi ệ m tốt đẹp hơn, cũng gi ống như xem Jobs dùng
th ử giao di ện của m ột chi ếc iPod cho đ ến khi tìm ra cách làm cho nó trở nên đẹp, đơn gi ản và tinh
t ế hơn. Quan sát cách họ quản lý nhân viên thì mang l ại kinh nghi ệm bớ t hay hơn m ột chút.
C ả hai đ ều thích thúc đẩ y ngườ i khác hơn là b ị ngư ờ i khác thúc ép mình, điều đó tạo ra bầu
không khí không lấ y gì làm d ễ ch ị u cho l ắm khi c ả hai đ ều cố gắng làm như vậ y đối vớ i ngườ i còn
l ại. Trong một cu ộ c tranh cãi, c ả hai đ ều có xu hướ ng khẳng đ ị nh ngư ờ i còn l ại d ối trá. Hơn n ữ a, cả
Eisner và Jobs dườ ng như đ ều cho r ằng mình chẳ ng c ần học gì t ừ ngư ờ i còn l ại; th ậm chí c ả hai
còn ch ẳng buồn gi ữ l ễ m ột chút vớ i nhau, ki ểu như giả vờ th ấ y rằng v ẫn còn những thứ đ áng học
hỏi t ừ ngư ờ i còn l ại. Jobs đ ẩ y trách nhiệm cho Eisner:
Đi ều t ệ hại nh ất, trong suy nghĩ của tôi, đó là Pixar đổi mớ i thành công lĩnh v ực kinh doanh
của Disney, mang đ ến hế t bộ phim tuy ệt vờ i này đ ến bộ phim tuy ệt vờ i khác, trong khi Disney thì
x ị t hết dự án này đến dự án khác. Thế nào bạn cũng nghĩ CEO c ủ a Disney ít ra cũng ph ải tò mò
xem Pixar đang làm gì. Nhưng trong su ốt 20 năm hai bên quan h ệ vớ i nhau, ông ta ch ỉ đến Pixar
t ổng c ộng có kho ảng 2,5 giờ , ch ỉ nói vài câu chúc mừng ngắn, ông ta chưa bao giờ tò mò. Tôi kinh
ngạ c. S ự tò mò r ất quan tr ọng.
Nhận xét ngày quá thô l ỗ. Eisner đ ến thăm Pixar nhi ều hơn thế m ột chút, bao g ồm cả
những chuyến thăm khi Jobs không đi cùng. Nhưng sự th ự c là ông t ỏ ra ít tò mò v ề các nghệ s ỹ
cũng như công ngh ệ m ớ i ở xưở ng phim Pixar. Tương tự, Jo bs cũng không b ỏ nhiều th ờ i gian đ ể
học hỏi kinh nghi ệm quả n lý củ a Disney.
Jobs và Eisner b ắt đầu “tấn công” nhau vào mùa hè năm 2002. Jobs vốn luôn ngưỡ ng mộ
tinh th ần sáng t ạo của Walt Disney vĩ đ ại, đ ặc bi ệt vi ệc ông đã xây d ựng một công ty t ồn tại qua
nhiều th ế hệ. ông coi cháu trai c ủa Walt, Roy, như hi ện thân của di sản và tinh th ần lị ch s ử này.
Roy vẫn có m ặt trong ban giám đ ốc đi ều hành củ a Disney, b ất ch ấp sự xa cách ngày một l ớ n của
Eisner dành cho ông, và Jobs cho Roy biết s ẽ không có chuy ện kí ti ếp hợ p đồng Pixar-Disney
ch ừng nào Eisner còn làm CEO.
Roy Disney và Stanley Gold, đồng minh thân c ận của ông ở ban giám đốc của Disney bắt
đầu cảnh báo nh ững giám đốc khác về v ấn đề vớ i Pixar. Điều đó khiến Eisner đột ng ột gửi cho
toàn th ể ban giám đốc m ột email thái quá vào cuố i th áng Tám năm 2002. ông ta tự tin r ằng cuối
cùng thì Pixar cũng ph ải kí tiếp hợ p đồng thôi, ông nói, một ph ần bở i vì Disney đang nắm giữ toàn
bộ bản quyề n các b ộ phim c ủa Pixar cũng như các nhân vật xu ất hi ện từ h ồi đó đến gi ờ . Hơn n ữ a,
ông nói, Disney thậm chí còn có đượ c vị th ế thương th ảo tốt hơn trong năm đó, sau khi Pixar hoàn
thành b ộ phim Đi tìm Nemo (Finding Nemo). “Hôm qua chúng ta đã xem lại l ần hai b ộ phim mớ i
của Pixar, Finding Nemo s ẽ ra m ắt vào tháng Năm tớ i,” ông vi ết. “Hiện th ự c sẽ bày ra trư ớ c m ắt
những ngư ờ i đó. T ốt thôi, nhưng không có chuyện phim này cũng tốt như các b ộ phim trướ c củ a
họ. Tất nhiên là h ọ thì luôn nghĩ nó tuy ệt vờ i.” Có hai v ấn đề l ớ n đối vớ i bứ c thư ở đây: Nó b ị rò r ỉ
cho t ờ Los Angeles Times, khiến Jobs quyết đị nh phản công và nhận xét c ủ a Eisner v ề bộ phim đã
sai, r ất sai.
Finding Nemo tr ở thành b ộ phim thành công nh ất c ủa Pixar (và c ủ a cả Disney). Nó còn dễ
dàng đánh bại Vua Sư T ử và tr ở thành, vào thờ i điểm đó, b ộ phim hoạt hình thành công nhất trong
l ị ch s ử. Doanh thu n ội đ ị a là 340 triệu đô -la và 868 tri ệu đô -la trên toàn th ế gi ớ i. Đ ến năm 2010, b ộ
phim còn có s ố lư ợ ng phát hành đĩa DVD nhiều nh ất mọi thờ i đ ại, vớ i 40 tri ệu bản đư ợ c bán và tr ở
thành một trong nh ững khu vực đư ợ c yêu thích nh ất trong các công viên củ a Disney. Hơn n ữa, bộ
phim giàu hình ảnh, huyề n ảo và ch ất ch ứa đầ y tính nghệ thu ật đẹp đẽ sâu s ắc đã giành giải đư ợ c
gi ải thư ở ng Oscar danh giá cho bộ phim hoạt hình hay nhất. “Tôi thích b ộ phim này vì nó nói về s ự
ch ấp nh ận m ạo hi ểm và học cách thúc đẩ y nh ững ngư ờ i bạn yêu thương mạo hi ểm,” Jobs nói.
Thành công củ a bộ phim mang về cho Pixar 183 tri ệu đô -la ti ền m ặt, nâng tổng s ố ti ền trong kho
của Pixar lên đến 521 triệu đô -la trướ c khi bướ c vào vòng thương th ảo cu ố i cùng vớ i Disney.
Không lâu sau khi phim Finding Nemo hoàn thành, Jobs đặt Eisner trư ớ c m ột đề nghị quá
ư m ột chi ều, mà g ần như ch ắc ch ắn là đối phương sẽ t ừ ch ối. Thay vì hai bên chia nhau 50/50
doanh thu, như hợ p đồng cũ, Jobs đ ề nghị m ột tho ả thuận mớ i trong đó Pixar s ẽ s ở hữu toàn bộ các
bộ phim h ọ làm ra và c ả các nhân vật, và ch ỉ chi trả cho Disney 7,5% phí phát hành các b ộ phim.
Hơn nữa, hai b ộ phim đang làm d ở vớ i Disney là Gia đình siêu nhân (The Incredible) và Th ế gi ớ i
ô tô (Cars) v ốn nằm trong thờ i gian hợ p đồng cũ v ẫn còn hiệu lực sẽ l ập tứ c chuy ể n sang tính như
trong tho ả thuận m ớ i.
Tuy nhiên, Eisner v ẫn gi ữ m ột con át chủ bài. Th ậ m chí nếu Pixar không tiếp tục kí hợ p
đồng vớ i Disney, Disney v ẫn có quyền làm các phần tiếp theo củ a Toy story và các bộ phim khác
mà Pixar đã làm, và sở hữu toàn bộ những nhân v ật t ừ Woody cho đến Nemo, giống như h ọ vẫn
đang s ở hữu Chuột Mickey và V ị t Donald vậ y. Eisner cũng đã lên kế hoạ ch - hoặc hăm do ạ - s ẽ
cho xư ở ng phim ho ạt hình của Disney th ực hi ện Toy Story 3 nếu Pixar từ ch ối. “Khi b ạn th ấ y
những gì công ty làm đ ể s ản xu ất Cinderella II, b ạ n sẽ rùng mình b ở i nh ững gì đ ã xả y ra,”
Jobs nói.
Eisner có khả năng đ ẩ y Roy Disney ra kh ỏi h ội đ ồng quản trị vào năm 2003, nhưng đi ều đó
không kết thúc mọi r ắ c rối. Roy Disney công b ố m ột bức thư ngỏ r ất gay g ắt. “Công ty đang đánh
m ất s ự t ập trung, năng lượ ng s áng t ạo và di sản để l ại,” ông vi ết. Bài diễn văn c ủa Eisner khẳng
đị nh s ự th ất bại, trong đó bao g ồm cả vi ệ c không ti ếp tục xây d ự ng một m ối quan hệ bền vững v ớ i
Pixar. Tớ i th ờ i điểm đó, Jobs cũng quy ết đị nh r ằng ông không mu ốn làm việc vớ i Eisner nữa. Đ ến
th áng M ột năm 2004, ông tuyên b ố rộng rãi quyết đị nh s ẽ cắt tho ả thuận vớ i Disney.
Jobs thư ờ ng giữ nguyên tắc không công bố rộng rãi ra bên ngoài nh ững quan điểm m ạnh
m ẽ của mình, mà ch ỉ thư ờ ng chia sẻ vớ i b ạn bè bên bàn ăn c ủa ông ở Palo Alto. N hưng lúc này ông
không làm như thế. Tại cu ộc họp báo v ớ i các phóng viên, ông nói trong khi Pixar đang s ản xu ất ra
những tác
phẩm đỉ nh cao, thì hãng phim ho ạt hình Disney ch ỉ làm nh ững th ứ “đ áng x ấu hổ.” Ông ch ế
gi ễu quan ni ệm của Eisner r ằng Disney đang đóng góp sáng t ạo cho những b ộ phim c ủa Pixar: “Sự
th ật là có rất ít quan hệ s áng t ạo vớ i Disney trong nh ững năm qua. Các bạn có th ể so s ánh ch ất
lư ợ ng phim c ủa chúng tôi vớ i nh ững b ộ phim mà Disney đã làm trong 3 năm qua và t ự đưa ra cho
mình phẤn xét xem k hả năng s áng t ạo củ a mỗi công ty như thế nào.” Khi nói về vi ệ c xây d ựng m ột
đội ngũ s áng t ạo tốt hơn n ữa, Jobs đã d ừng l ại ở m ột vi ệc đáng ghi nh ận, đó là xây dựng một
thương hi ệu hấp dẫn ch ẳng kém gì Disney, đ ối v ớ i nhũng ngư ờ i ham mê đi ệ n ảnh. “Chúng tôi nghĩ
thương hi ệu Pixar gi ờ đây đã là thương hi ệu m ạnh nhất và đáng tin c ậ y nh ấ t trong lĩnh vực ho ạt
hình.” Khi Jobs g ọi điện để động viên Roy Disney, ông ấ y đã trả l ờ i: “Khi nào tên phù thuỷ x ấu xa
ch ết, chúng ta s ẽ l ại ở bên nhau.”
John Lasseter r ất ho ản g sợ trướ c viễn cảnh chia tay vớ i Disney. “Tôi lo lắng cho nh ững đ ứa
con mình, b ọn họ s ẽ làm gì vớ i nh ững nhân v ật mà chúng tôi đã t ạo ra,” ông hòi tư ở ng. “Đi ều đó
làm tan nát trái tim tôi.” Khi ông nói vớ i nh ững nhân viên hàng đầu của mình trong phòng h ọp củ a
Pixar, ông b ắt đầu khóc và ông lại khóc l ần nữ a khi nói chuy ện trư ớ c khoảng 800 nhân viên trong
phòng họp trung tâm củ a xư ở ng phim. “Giống như b ạn có m ột đàn con mà b ạn yêu thương, và ròi
bạn ph ải cho chúng đi làm con nuôi nh ững ngư ờ i có ti ền sự bạo hành trẻ em.” Jobs đã bướ c vào
phòng họp và cố gắng xoa dị u m ọi th ứ. ông giải thích tại sao l ại c ần dứt tình v ớ i Disney, và ông
đảm bảo rằng Pixar vớ i vị th ế m ột trung tâm như hiện nay chắc ch ắn sẽ vẫn tiến lên phía trướ c và
gặt hái thành công, “ông ấ y có kh ả năng tuyệt đ ối khi ến bạn tin tư ở ng,” Oren Jacob, m ột kĩ sư công
nghệ lâu năm ở xưở ng phim phát biểu. “Bỗng nhiên, tất c ả chúng tôi có đượ c ni ềm tin rằng, dù có
chuy ệ n gì xả y ra, Pixar v ẫn sống t ốt.”
Bob Iger, giám đ ốc đi ều hành của Disney đã ph ải nh ả y vào và ráo ri ết chi ế m lấ y quyền
ki ểm soát. Ông nhạ y cảm, cứng r ắn so vớ i nh ững ngư ờ i th ất thư ờ ng ở xung quanh. Trư ớ c đây ông
làm trong ngành truy ền hình; từng là chủ tích của ABC Network, b ắt đầu đư ợ c bi ết đến năm 1996
nhờ Disney, ông đượ c biế t đ ến như một nhà t ổ ch ức tài ba, một nhà quản lý khéo léo và còn có một
đôi mắt tinh tườ ng trong việc tìm kiếm những tài năng, kh ả năng th ấu hi ểu ngườ i khác và là m ột
ngư ờ i khá tr ầm tĩnh, rất biết lúc nào im lặng đ ể gi ữ an toàn. Không giống Eisner và Jobs, ông luôn
gi ữ đượ c sự bình tĩnh nghiêm ngặt, nh ờ th ế giúp ông có th ể thoả thuận vớ i nh ững đ ối tư ợ ng có cái
tôi l ớ n. “Steve đã th ẳng thừng tuyên bố k ết thúc đàm phán vớ i chúng tôi,” Iger sau này nh ớ l ại.
“Hai bên đang ở trong tình tr ạng căng thẳng, và tôi phải s ắp xếp vài cu ộc chuy ện trò đ ể xoa dị u
tình hình.”
Eisner đã nắm quyền hơn 10 năm huy hoàng ở Disney, khi Frank Well giữ vị trí chủ t ị ch.
Wells để Eisner tự do, không phải tham gia quá nhiều vào việc qu ản trị tr ực tiếp, để ông có th ể
đóng góp ý ki ến, thườ ng là những ý kiến có giá trị và luôn s áng chói, nhằm thúc đẩ y từng dự án
phim, chủ đề chung củ a khu công viên, cố v ấn truyền hình và vô s ố những s ản ph ẩm khác. Nhưng
sau khi Wells bị t ử nạn trong v ụ rơi máy bay năm 1994, Eisner không bao giờ tìm đư ợ c ngườ i qu ản
lý đúng đ ắn nữ a. Katzenberg yêu c ầu đư ợ c ngồi vào vị trí c ủa Wells, đó là lí do vì sao Eisner h ất
cẳng ông. Michael Ovitz tr ở thành ch ủ t ị ch vào năm 1995; nhưng đó không phải là một l ựa ch ọn
đúng đ ắn, và ông này giữ vị trí này không quá hai năm. Sau này Jobs đã đánh giá l ại đóng góp c ủ a
Eisner như sau:
Trong 10 năm đầu tiên làm CEO, Eisner đã làm r ấ t t ốt. Trong 10 năm sau, ông làm r ất t ệ.
Và s ự thay đ ổi di ễn ra khi Frank Wells chết. Eisner là m ột ngườ i r ất s áng t ạ o. ông ấ y luôn đưa ra
những l ờ i nh ận xét chu ẩn xác. Vì vậ y, khi Frank gi ữ vai trò là nhà t ổ ch ức ho ạt động, Eisner, như
m ột chú ong ngh ệ, đư ợ c t ự do bay từ dự án này qua dự án khác và làm cho chúng t ốt hơn. Nhưng
khi chính Eisner ph ải tham gia t ổ ch ức mọi việc, ông ấ y trở thành một nhà quản lý t ệ hại. Không ai
thích làm vi ệc vớ i ông ấ y. H ọ cảm th ấ y mình không có quyề n hành gì cả. Ông ấ y gi ữ chiến lư ợ c
xây dựng nhóm độ c tài như Gestapo, trong đó bạn sẽ không đư ợ c tiêu dù ch ỉ m ột đ ồng, thậm chí là
m ột hào n ếu không đư ợ c sự cho phép củ a ông ấ y. Thậm chí khi giữ a tôi và ông ấ y có nh ững xung
đột, tôi v ẫn ph ải tôn tr ọng những gì ông ấ y đã đóng góp trong 10 năm đầu. Tôi có thích m ột s ố
đi ểm ở ông ấ y: vui vẻ, thông minh và dí dỏm. Nhưng cũng có những mảng t ối trong ông. Cái tôi
của ông ấ y quá l ớ n. Lúc đầu, Eisner rất hợ p lý và công b ằng, nhưng d ần dần, qua nh ững vòng đàm
phán trong vòng m ột th ập kỉ qua, tôi đã bắt đầu nhìn ra nh ững kho ảng t ối trong ông ấ y.
Vấn đề l ớ n nh ất c ủ a Eisner vào năm 2004 đó là ông đã không thự c sự hi ểu phân xưở ng
phim hoạt hình c ủa ông đang l ộn xộn đến m ức nào. Hai b ộ phim mớ i nh ất c ủa họ, Treasure P lanet
(Hành tinh Báu v ật) và Brother Bear (Anh em G ấu) v ừa không mang lại danh tiếng cho Disney, và
cũng chẳng đáp ứng đượ c yêu c ầu tài chính. Trướ c đây, các b ộ phim hoạt hình ăn khách là dòng
máu nuôi sống công ty: chúng “đẻ” ra nh ững công viên vui chơi theo ch ủ đ ề, s ản xu ất đồ chơi và
những chương trình truyề n hình. Toy story đi đ ầu trong vi ệc làm các phần tiếp theo, chương trình
Disney on Ice, nhạc kị ch Toy story đượ c trình di ễ n trên du thuy ề n của Disney, m ột bộ phim ăn
theo nhân v ật chính Buzz Lightyear, hàng lo ạt truyện tranh máy tính, hai trò chơi đi ện tử, và hàng
ch ục đồ chơi hành đ ồng đã đượ c bán ra tớ i 25 tri ệ u bộ, m ột dòng th ờ i trang và 9 khu công viên
Disney ra m ắt. Nhưng Treasure Planet thì không làm đượ c đi ều đó.
“Michael không hi ểu rằng v ấn đề củ a phân nh ánh hoạt hình Disney đã cấp bách lắm ròi,”
Iger sau này gi ải thích. “Tự đi ều đó đã gi ải thích tại sao ông ấ y lại đối xử như vậ y vớ i Pixar. ông
không cảm th ấ y mình cầ n Pixar nhiều như thực t ế.” Hơn n ữa, Eisner thích đàm phán và ghét thoả
hi ệp, cá ch đ ấ y không phả i là lúc nào cũng hi ệu qu ả khi đàm phán vớ i Jobs, vì ông ta cũng y như
vậ y. “Mọi cu ộc đàm phán đều đư ợ c kết thúc b ằng các thoả hi ệp,” Iger nói. “Cả hai ngư ờ i đó đều là
những nhà đàm phán b ậc th ầ y.”
S ự bế t ắc cu ối cùng cũng k ết thúc vào m ột buổi t ối th ứ Bả y, vào tháng Ba năm khi Iger
nhận đư ợ c cu ộ c gọi t ừ cự u thành viên h ội đồng cấ p cao George Michell và những thành viên hội
đồng quản trị khác. Họ nói r ằng trong vài th áng n ữa, họ s ẽ bổ nhiệm Iger vào vị trí CEO, thay th ế
cho Eisner. Ngay s áng hôm sau khi th ức dậ y,
Iger g ọi đi ện thoại cho các con gái c ủ a mình, r ồi gọi cho Steve và John Lasseter. ông nói,
rất đơn giản và rõ ràng, r ằng ông đánh giá cao Pixar và mu ốn đàm phán . Jobs vô cùng kinh ngạc,
ông thích Iger và lấ y làm ngạ c nhiên khi bi ết m ối liên h ệ nhỏ gi ữa họ: Jennifer Egan, bạn gái cũ
của ông và vợ củ a Iger, Willow Bay, trướ c đây là b ạn cùng phòng củ a nhau ở trườ ng Penn.
Mùa hè năm đó, trướ c khi Iger chính thức nh ậm ch ức, ông và Jobs đã b ắt đầu có nh ững
cu ộc dạo đầu cho h ợ p đồ ng gi ữa hai bên. Apple vừa cho ra iPod cho phép xem video và nghe nh ạc
cùng m ột lúc. Nó cần bán cả các chương trình truy ề n hình nữ a, và Jobs không muốn hé lộ quá
nhiều vấn đề này ra bên ngoài, b ở i vì, như thư ờ ng l ệ, ông mu ốn sản ph ẩm phải đư ợ c gi ữ kín cho
đến khi ông ti ết l ộ chính thức trên sân khấu. Iger, ngư ờ i s ở hữu rất nhi ều iPod và dùng chúng su ốt
ngày từ 5 gi ờ s áng khi ông thức dậ y cho đ ến tối khuya khi ông đi ng ủ, cũng đã nhìn ra ti ềm năng
bán các chương trình truy ền hình trên s ản ph ẩm này l ớ n đến m ức nào. Vì vậ y, ngay lập tứ c ông đ ề
nghị hai chương trình ăn khách nh ất c ủa đài ABC, Desperate Housewives (Nh ững bà n ội trợ ki ểu
M ỹ) và Lost (Mất tích). “Chúng tôi tho ả thuận về hợ p đồng ấ y trong vòng một tu ần, và nó tương
đối ph ức t ạp,” Iger nói. “Điều quan trọng là vì Steve mu ốn xem tôi làm việc thế nào, và b ở i vì nó sẽ
ch ứng minh cho mọi ngườ i khác ở Disney th ấ y th ực t ế là Disney có thể làm vi ệc vớ i Steve.”
Đối vớ i bu ổi ra m ắt tính năng video c ủa iPod, Jobs đã thuê m ột nhà hát ở San Jose, và m ờ i
Iger tr ở thành v ị khách đặc biệt lên sân kh ấu. “Tôi chưa bao gi ờ tham d ự m ột cu ộc ra mắt s ản ph ẩm
m ớ i c ủa Jobs, vì v ậ y tôi không hề bi ết đi ều đó có ý nghĩa l ớ n đến m ứ c nào,” Iger nh ớ l ại. “Nó là
dấu m ốc làm thay đ ổi th ực sự m ối quan hệ củ a chúng tôi. Ông ấ y nhìn nh ậ n tôi là m ột nhà công
nghệ chuyên nghi ệp và sẵn lòng ch ấp nh ận m ạo hi ểm.”
Jobs, như thườ ng l ệ, mang đ ến m ột bu ổi gi ớ i thi ệu sản ph ẩm làm thoả mãn nh ững ngư ờ i
sành công ngh ệ, đã trình chiếu m ột lư ợ t t ất c ả nhữ ng tính năng mớ i c ủa iPod m ớ i, và vì sao nó là
“một trong những thứ tuyệ t vờ i nh ất mà chúng tôi từng t ạo ra,” và Kho Nh ạc iTunes sẽ bán video
âm nh ạc và phim ngắn như thế nào. Thế ròi, cũng như thói quen thư ờ ng thấ y ở ông, ông nói thêm
“Và vâng, còn m ột th ứ nữa: iPod sẽ bán các chương trình truy ền hình. Ti ếng v ỗ tay vang dội. Ông
đề cập tớ i hai chương trình truyền hình ăn khách nh ất đang đư ợ c trình chiếu trên ABC. “Và ai sở
hữu ABC? Disney! Tôi biết họ mà,” ông hoan hỉ .
Khi Iger lên sân khấu, trông ông cũng thoải mái và t ự nhiên như Jobs. “M ột trong số những
đi ều khiến Steve và tôi thực sự hào hứng đó là một s ự kết hợ p gi ữ a nội dung tuyệt hảo và công
nghệ tuyệt v ờ i,” ông nói. “Thật tuy ệt khi đượ c đứng đây và tuyên b ố rằng m ối liên h ệ củ a chúng tôi
vớ i Apple đã đư ợ c m ở rộ ng,” ông nói thêm. Ng ừng l ại m ột chút, ông nó i tiếp, “Không phải vớ i
Pixar, mà v ớ i Apple.”
Rõ ràng là khi m ối quan hệ gi ữ a họ ấm lên thì Pixar -Disney m ột l ần nữ a l ại có cơ h ội tái
hợ p. “S ự ki ện đó th ể hi ện cách tổ ch ức củ a tôi, đó là “Yêu thương không hậ n,” Iger hòi tư ở ng l ại.
“Chúng tôi đã gây chi ến vớ i Roy Disney, Comcast, Apple và Pixar. Tôi mu ốn sửa ch ữ a t ất c ả, trên
hết là vớ i Pixar.”
Iger khi ấ y vừ a trở v ề t ừ l ễ khai trương Disneyland mớ i ở Hong Kong, vớ i Eisner, và đó là
s ự ki ện l ớ n cu ối cùng mà ông tham d ự trên cương v ị là CEO. Bu ổi l ễ di ễn ra vớ i cu ộc diễu hành đã
tr ở thành thông lệ của Disney trên Ph ố Chính. Iger nh ận ra nh ững nhân v ật tham gia diễu hành
đượ c sáng t ạo ra trong vòng một th ập kỉ tr ở l ại ch ỉ toàn là các nhân vật c ủ a Pixar. “Khi đoàn di ễu
hành đi qua,” ông nhớ l ại. “Tôi đ ứng c ạnh Michael nhưng tôi giữ l ại đi ều nh ận th ức đó cho riêng
mình, bở i vì nó chính là l ờ i bu ộc t ội trách nhiệm vớ i phim ho ạt hình rõ ràng nh ất đối vớ i ông ấ y
trong suốt thập kỉ qua. Sau 10 năm vớ i Vua Sư T ử, Ngườ i đẹp và Quái thú, và Aladdin, thì 10 năm
ti ếp the o là con s ố 0 tròn trĩnh.”
Iger tr ở l ại Burbank và ti ến hành m ột vài phân tích tài chính, ông phát hiện ra th ực t ế trong
10 năm tr ở l ại đây, công ty vẫn chi ti ền để làm phim hoạt hình nhưng l ại s ản xu ất ra r ất ít s ản ph ẩm
bổ sung. Trong cu ộ c họp đầu tiên v ớ i cương v ị là CEO, ông đã trình bày phân tích đó v ớ i ban giám
đốc, và h ọ th ực sự gi ận dữ vì không hề đượ c báo cáo v ề vấn đề ấ y. “Nếu không làm ra phim ho ạt
hình, thì công ty củ a chúng ta cũng đi tong,” ông nói v ớ i ban giám đ ốc. “Một b ộ phim hoạt hình ăn
khách s ẽ t ạo ra m ột đợ t sóng l ớ n, và kéo theo nó là hàng lo ạt nh ững hoạt động kinh doanh ăn theo
- t ừ nhân v ật để di ễu hành, đ ến âm nhạc, đ ến công viên, đ ến trò chơi đi ện tử, TV, Internet, và các
s ản ph ẩm tiêu dùng. Nếu tôi không là ngườ i t ạo sóng, thì công ty s ẽ không th ể thành công.” ông
cũng đưa ra m ột vài phương án đ ể l ựa ch ọn. H ọ có th ể ti ếp tục dính ch ặt vớ i vi ệc qu ản lý phân
nhánh hoạt hình như hiện tại, mà ông nghĩ r ằng nó s ẽ không hi ệu qu ả. Họ cũng có thể thay đ ổi
quản lý và tìm ngườ i khác. Hoặc họ có th ể mua Pixar. “Vấn đề là, tôi không biết nó có bán hay
không, và n ếu có, chắc hẳn đó sẽ là m ột khoản tiền lớ n,” ông nói. H ội đồng cho phép ông thử tìm
hi ểu đàm phán .
Iger th ự c thi nhiệm vụ này theo một cách l ạ thư ờ ng. Lầ n đầu nói chuyện vớ i Jobs, ông t hừ a
nhận sự khám phá thú vị của mình khi ở Hong Kong, và nó khi ến ông hiểu ra rằng Disney c ầ n
Pixar đ ến mức nào. “Đó là lý do đơn giản giải thích vì sao tôi yêu quí Bob Iger,” Jobs nhớ l ại. “ông
ta đã buột mi ệng nói ra đi ều đó. Và đó là cách ngu ng ốc nh ất khi bạn bắt đầ u bư ớ c vào một cu ộc
thương lư ợ ng, ít nhất là theo nh ững cuốn sách hư ớ ng d ẫn kỹ năng đàm phán thông thư ờ ng, ông ấ y
l ật bài ngử a và nói “Chúng tôi ki ệt s ức ròi”. Ngay l ập tức tôi th ấ y m ế n con ngư ờ i này, b ở i vì đó
cũng là cách làm vi ệc củ a tôi. Chỉ là lập tứ c l ật bài ng ử a và xem m ọi vi ệc có th ể t ệ đ ến m ức nào.”
(Trên thự c t ế, đó không ph ải là cách mà Jobs thườ ng dùng trong điều hành, ông hay b ắt đ ầu thương
thuy ết bằng việc tuyên b ố s ản ph ẩm của công ty còn l ại ho ặc dị ch v ụ củ a họ là rác rư ở i.)
Jobs và Iger đi d ạo rất nhi ều vòng vớ i nhau - xung quanh tr ụ s ở của Apple, ở Palo Alto, và
Alien và Co. nằm ở Thung lũng M ặt trờ i. Đ ầu tiên h ọ đưa ra tho ả thuận phân ph ối mớ i: Pixar s ẽ l ấ y
l ại quyền sở hữu tất c ả các bộ phim và nhân vật mà h ọ đã s ản xu ất, đổi l ại Disney s ẽ có m ột nửa
vốn ở Pixar, và Pixar chỉ tr ả cho Disney m ột khoản phí phân phối đối vớ i các b ộ phim trong tương
lai. Nhưng Iger e ng ại r ằng hợ p đồng như th ế s ẽ khiến Pixar bi ến thành đ ối thủ của Disney, và đi ều
đó là rất t ệ, ngay cả khi Disne y sở hữu một n ử a công ty Pixar. Vì thế, ông b ắt đ ầu gợ i ý có l ẽ họ nên
làm m ột cái gì đó l ớ n lao hơn: “Tôi mu ốn anh hiểu rằng tôi đang thực sự suy nghĩ theo hư ớ ng vượ t
ra m ọi giớ i h ạn trong v ấn đề này,” ông nói. Jobs dư ờ ng như cổ vũ hướ ng đi này. “Rất nhan h chóng
m ọi vi ệc trở nên rõ ràng vớ i c ả hai chúng tôi r ằng cuộc th ảo lu ận này đang đư ợ c dẫn dắt theo
hướ ng sáp nh ập,” Jobs nhớ l ại.
Nhưng trướ c tiên, Jobs cần nh ận đư ợ c sự ủng h ộ của John Lasseter và Ed Catmull, vì vậ y
ông m ờ i họ đến nhà. ông đi ngay vào v ấn đề. “Chúng ta c ần ph ải hi ểu hơn về Bob Iger,” ông nói
vớ i h ọ. “Có l ẽ chúng ta cũng mu ốn nh ập cu ộc để giúp cậu ấ y hồi sinh Disney. M ột anh chàng vĩ đại
đấ y.” Lúc đ ầu họ hoài nghi. “Nh ững gì anh ấ y nói khá là sốc,” Lasseter nh ớ l ại.
Nếu các anh không muốn như vậ y, thì cũng không sao, nhưng tôi muốn các anh tìm hiểu
Iger trướ c khi quy ế t đị nh,” Jobs ti ếp tục. “Tôi cũng có c ảm giác giống các anh, nhưng tôi th ực sự
cũng trưở ng thành giống anh ta.” ông giải thích vì sao tho ả thuận đưa các chương trình c ủ a ABC
l ên iPod l ại dễ dàng như th ế, và nói thêm “Disney hi ện nay đúng là khác m ột trờ i, m ột vực so vớ i
Disney th ờ i Eisner. Anh ta th ẳng thắn, và không có ý đồ gì h ết.” Lasseter k ể l ại r ằng c ả ông và
Catmul chỉ bi ết ng ồi im há h ốc m ồm.
Iger đi làm. ông bay t ừ Los Angeles đến nhà Lasseter ăn tối và ở đó đ ến quá n ửa đêm để
chuy ệ n trò. ông cũng mờ i Catmull ra ngoài ăn t ối, và r ồi ông đ ến thăm xưở ng phim Pixar, m ột
mình, không có ngườ i hư ớ ng d ẫn, cũng không đi cùng Jobs. “Tôi ra ngoài và g ặp tất c ả các giám
đốc, từng n gườ i một, và m ỗi ngườ i l ại hào h ứng k ể cho tôi nghe b ộ phim c ủ a họ,” ông nói. Lasseter
rất đỗi t ự hào vì đội c ủa ông đã gây ấn tư ợ ng v ớ i Iger, đi ều đó, tất nhiên cũng khi ến ông thi ện cảm
vớ i Iger hơn. “Tôi thấ y tự hào hơn bao gi ờ hết khi tôi ở Pixar,” ông nói. “T ất c ả các đội đều tuyệt
vờ i, và Bob hoàn toàn b ị thuy ết ph ục.”
Thực sự thì sau khi xem nh ững gì s ẽ th ự c hi ện trong những năm ti ếp theo - Cars,
Ratatouille, WALL -E - Iger nói v ớ i giám đốc tài chính ở Disney, “ôi Chúa ơi, h ọ có trong tay toàn
những thứ vĩ đ ại. Chúng ta ph ải đạt đư ợ c hợ p đồng này. Đây chính là tương lai c ủ a công ty.” ông
cũng th ừ a nh ận ông không có chút tin tưở ng nào đối vớ i các dự án mà hoạt hình Disney đang th ự c
hi ện.
Thoả thuận mà h ọ đưa ra là Disney sẽ mua Pixar v ớ i giá 7,4 t ỷ đô-la b ằng c ổ phiếu. Do đó,
Jobs sẽ tr ở thành c ổ đông lớ n nh ất c ủa Disney, chiế m 7% t ổng s ố cổ phiếu củ a công ty, so v ớ i 1,7%
của Eisner và 1% c ủa Roy Disney. Hoạt hình Disney nằm trong Pixar, vớ i Lasseter và Catmull tiếp
t ục điều hành cả đơn vị . Pixar v ẫn giữ tên thương hi ệu độc l ập, xưở ng làm phim và t ổng hành dinh
vẫn đặt t ại Emeryville, thậm chí Pixar vẫn gi ữ nguyên đ ị a ch ỉ email c ủ a mình.
Iger yêu c ầu Jobs đưa Lasseter và Catmull tớ i dự m ột cu ộc họp kín v ớ i ban giám đ ốc của
Disney ở Century City, Los Angeles vào một s áng Chủ nhật. M ục tiêu là làm cho họ cảm th ấ y
thoải mái v ớ i bản hợ p đồng có nhi ều sự thay đ ổi căn b ản cũng như đắt giá này. Khi họ chuẩn bị
bướ c vào thang máy từ nhà để xe, Lasseter nói vớ i Jobs, “N ếu tôi tr ở nên quá phấn khích hoặ c đi
quá xa, n hớ gi ữ chân tôi l ại nhé.” Jobs cu ối cùng cũng ph ải th ực hi ện đi ều đó m ột l ần, nhưng m ặt
khác Lasseter cũng hoàn thành xu ất s ắc ph ần của mình. “Tôi nói về cách chúng tôi làm phim, v ề
tri ết lý c ủa chúng tôi, về s ự thành thực mà chúng tôi đ ối x ử vớ i nhau, và cách chúng tôi nuôi dư ỡ ng
tài năng,” ông nh ớ l ại. Ban giám đ ốc hỏi r ất nhi ều câu h ỏi, và Jobs đ ể Lasseter trả l ờ i hầu hết.
Nhưng Jobs bắt đầu lên ti ếng khi nói đ ến sự kết nối giữa nghệ thuật và công ngh ệ. “Đó là nh ững gì
mà văn hoá củ a chúng tôi hư ớ ng t ớ i, hệt như Apple” ông nói.
Tuy vậ y, trướ c khi ban giám đ ốc Disney quyết đị nh cho phép sáp nh ập, Michael Eisner b ất
ngờ xuất hi ện và cố gắng làm tr ệch bánh con tàu. ông ta g ọi cho Iger và nói cái giá ấ y quá đ ắt.
“Anh có thể t ự x ử lý ph ầ n làm phim ho ạt hình,” Eisner nói v ớ i Iger. “B ằng cách nào?” Iger hỏi l ại.
“Tôi bi ết anh có thể,” Eisner nói. Iger thấ y bực mình. “Michael, làm sao anh có thể nói tôi sẽ x ử lý
đượ c, khi mà chính b ản thân anh cũng cóc làm đượ c gì?” ông nói.
Eisner nói ông muốn t ổ ch ức một cu ộc họp vớ i ban giám đ ốc điều hành, m ặc dù ông không
còn là một thành viên ho ặc một nhân viên, và lên ti ếng phản đối cu ộc sáp nhập. Iger từ ch ối, nhưng
Eisner đã gọi điện cho Warren Buffett, m ột c ổ đông lớ n và George Michell, ngườ i vẫn là giám đốc
hướ ng d ẫn. M ột cổ đông uy tín thuy ế t ph ục Iger để Eisner đư ợ c nói. “Tôi nói v ớ i ban giám đ ốc
rằng h ọ không cần ph ải mua Pixar vì h ọ đã s ở hữu đến 85% bộ phim c ủa Pixar đã làm,” Eisner
thuật l ại. ông dẫn ch ứng thực t ế là đ ối vớ i nh ững b ộ phim đã làm, Disney đã nh ận đư ợ c t ỷ l ệ phần
trăm doanh thu, hơn n ữa l ại còn có quy ền sở h ữu vớ i t ất c ả các ph ần tiếp theo cũng như quyề n khai
thác nhân v ật. “Tôi đã làm m ột bài trình bày trong đó nói rõ ch ỉ có 15% c ủa Pixar mà Disney chưa
s ở hữu. Đó mớ i là cái c ần ph ải chi ếm nốt. Còn l ại thì c ứ đánh cư ợ c vào tương lai các bộ phim c ủa
Pixar.” Eisner th ừa nh ận Pixar đang trên đà đi lên, nhưng ông nói đi ều đó sẽ không kéo dài mãi.
“Tôi ch ứng minh b ằng lị ch s ử các nhà s ản xu ất và đạo diễn có đến X bộ phim bom t ấn xếp hàng dài
và r ồi th ất bại như thế nào. Chuyện đó đã x ả y ra vớ i Spielberg, Walt Disney, t ất c ả bọn họ.” V ớ i
hợ p đồng t ốn kém như thế, thì theo tính toán của ông ta, mỗi b ộ phim mớ i c ủa Pixar ph ải đ ạt doanh
thu 1,3 t ỷ đô- la. “Nó s ẽ khiến Steve phát điên, vì tôi bi ết đi ều đó,” Eisner sau này k ể l ại.
Sau khi Eisner rờ i kh ỏi phòng, Iger bác b ỏ t ừng l ậ p lu ận của Eisner. “Hãy đ ể tôi nói cho
các ông biết cái b ản trình bày này sai ở đi ểm nào,” ông bắt đầu. Sau khi h ội đồng quản trị nghe c ả
hai bên lập lu ận, họ quyế t đị nh ủng h ộ hợ p đồng mà Iger đ ề xuất.
Iger bay đến Emeryville đ ể gặp Jobs và tham d ự buổi họp thông báo hợ p đồng cho các
nhân viên c ủa Pixar. Trư ớ c khi ra thông báo, Jobs ng ồi riêng vớ i Lasseter và Catmull. “Nếu bất c ứ
ai trong s ố các anh v ẫn còn nghi ngại,” ông nói, “Tôi có th ể nói l ại với họ ‘không, c ảm ơn’ và quên
bản hợ p đồng này đi.” Jobs không hoàn toàn thành th ực khi nói điều này vì g ần như không th ể thay
đổi gì vào lúc này n ữa. Nhưng đó là m ột c ử ch ỉ ân c ần. “Tôi ổn,” Lasseter nói. “C ứ làm th ế đi.”
Catmull đồng tình. H ọ ôm nhau và Jobs nghẹn ngào khóc.
Khi tất c ả m ọi ngườ i đã t ụ hợ p đầ y đủ trong phòng h ọp trung tâm. Jobs tuyên bố: “Disney
đã mua Pixar,”. Vài ngư ờ i b ật khóc, nhưng khi ông gi ải thích bản hợ p đồng, nhân viên bắt đ ầu hiểu
rằng b ằng cách nào đó, đây là m ột c uộc sáp nhập ngượ c. Catmull s ẽ tr ở thành ngư ờ i đ ứng đ ầu phân
nhánh phim hoạt hình c ủ a Disney, Lasseter là giám đốc sáng t ạo. Đ ến cu ối cùng, tất c ả họ đ ều vui
vẻ. Iger đ ứng ở bên cánh gà, và Jobs mờ i ông lên trung tâm sân kh ấu. Khi ông nói v ề văn hoá đ ặc
bi ệt c ủa Pixar và việc Disney cần ph ải có Pixar đ ể nuôi dưỡ ng và h ọ c hỏi văn hoá đó bi ết bao
nhiêu, đám đông dậ y lên những tràng pháo tay.
“Mục tiêu c ủa tôi luôn là: không ch ỉ là tạo ra nh ữ ng s ản ph ẩm tuyệt hảo, mà là xây d ựng
nên nh ững công ty tuy ệt vờ i,” J obs sau này kể l ại. “Walt Disney đã làm đư ợ c đi ều đó. Và đó cũng
là cách mà chúng tôi làm đ ối v ớ i việc sáp nhập, chúng tôi vẫn giữ Pixar là một công ty tuy ệt v ờ i, và
giúp Disney cũng tr ở thành một công ty tuyệt vờ i như thế.”
CHƯƠNG 34 THẾ H Ệ MAC ĐẦ U THẾ KỶ XXI
T ạo sự khác bi ệt cho Apple
Với máy iBook năm 1999
Vỏ sò, Kh ối nư ớc đá lập phương và Hoa hư ớng dương
Từ khi giớ i thi ệu chi ếc máy iMac vào năm 1998, Jobs và Jony Ive đã t ạo ra phong cách
thiết kế lôi cuốn đặc trưng cho dòng máy tính của Apple. Đó là m ột chi ếc máy tính xách tay cá
nhân v ớ i ki ểu dáng vỏ sò màu cam và m ột máy tính chuyên d ụng đ ể bàn trông như m ột kh ối nư ớ c
đá lập phương trong suốt như tinh th ần củ a Thiền (máy Mac Cube) . Giống như những chiếc qu ần
ống loe giấu ở đáy t ủ quầ n áo, khi đó m ột vài m ẫu thi ết kế trông đ ẹp hơn lúc hòi tưở ng v ề chúng
sau này, ở chúng thể hi ện một tình yêu thi ết k ế thái quá. Nhưng họ đã tạo ra sự khác bi ệt cho Apple
và mang đến cho công chúng những cuộc bứt phá c ần thi ết để t ồn tại trong một th ế gi ớ i tràn ng ập
Windows.
Vẻ quyến rũ của The Power Mac G4 Cube, phát hành vào năm 2000, ấn tư ợ ng đ ến m ứ c
ngư ờ i ta đã trưng bày m ộ t chi ếc t ại Vi ện Bảo tàng Nghệ thuật Hi ện đại New York. Một kh ối l ập
phương v ớ i c ạnh dài 20cm hoàn h ảo, kích cỡ bằng một chi ế c hộp khăn gi ấ y Kleene x, là dấu ấn rõ
nét v ề khiếu th ẩm m ỹ củ a Jobs. S ự tinh tế của nghệ thuật t ối gi ản. Không có b ất c ứ nút bấm nào
làm m ặt ph ẳng t ỳ vết. Không có khay đĩa, ch ỉ m ột rãnh nh ỏ tinh tế. Và cũng như chiếc Macintosh
nguyên th ủ y, chiếc mày này không có quạt làm mát. M ột tinh thần Thiền thuần khiết. “Khi b ạn
trông thấ y một thứ có v ẻ ngoài tinh tế, b ạn thốt lên, ‘ ồ, tuy ệt, có lẽ phần bên trong cũng rất sâu s ắc,’
ông nói v ớ i t ờ Newsweek. ’’Chúng tôi phát triển bằng cách loại bỏ những thứ vô d ụng.”
Vẻ ngoài không phô trươ ng c ủ a G4 Cube l ại khi ến nó th ật nổi trội và ấn tư ợ ng. Nhưng trái
l ại nó đã không thành công. Nó đượ c thi ết kế như m ột máy vi tính đ ể bàn cao c ấp, nhưng Jobs
muốn chuy ển đổi nó, vi ệc ông thư ờ ng xuyên th ực hi ện vớ i m ọi s ản ph ẩm, thành một chi ếc máy có
th ể t i ếp cận đến đại trà ngư ờ i tiêu dùng. Cu ối cùng Cube không th ể th ỏ a mãn t ốt c ả hai thị trườ ng.
Những nhà chuyên môn th ờ i bấ y gi ờ không cần m ột tác ph ẩm điêu khắ c đẹ p như trang sức, còn
ngư ờ i tiêu dùng c ủa th ị trườ ng đ ại chúng l ại không s ẵn sàng chi tr ả gấp đôi s ố ti ền của m ột máy vi
tính để bàn giản dị thông thư ờ ng. Jobs d ự đoán Apple sẽ bán 200 ngàn chiêc Cube mỗi quý. Trong
quý đầu tiên, họ đã bán đượ c phân nử a số đó. Quý thứ hai, họ bán chưa đ ến 30 ngàn chiế c. Sau đó,
Jobs th ừa nh ận rằng ông đã thiết kế C ube quá c ầu kỳ và đ ặt giá quá cao, cũng như vớ i máy tính
NeXT. Nhưng ông dần rút ra bài học. Khi xây d ự ng những s ản ph ẩm như iPod, ông kiểm soát chi
phí và tiến hành nh ững thay thế cần thi ết để nó có thể phát hành đúng thờ i hạn và hợ p túi ti ền.
M ột ph ần vì vi ệc kinh doanh ế ẩm củ a Cube, doanh thu c ủa Apple vào th áng 9 năm 2000
khá thảm hại. Đó là ngay sau khi bong bóng công ngh ệ xì hơi và th ị trườ ng c ủa Apple trong lĩnh
vực giáo dục bị thu hẹp. Giá cổ phiếu công ty, từng lên trên mứ c 60 đô -la, trong m ột ngà y đã m ấ t
t ớ i 50% giá tr ị , vào đ ầu th áng mườ i năm đó, giá c ổ phiếu đã rớ t xu ống còn dư ớ i 15 đô -la.
Nhưng nh ững điều đó không ngăn cản Jobs ti ếp tục cố gắng s áng t ạo thi ết kế m ớ i, đặc bi ệt
dù chúng có th ể kém sinh động. Khi màn hình phẳ ng tr ở nên kh ả thi v ề m ặt thương m ại, ông quy ết
đị nh đã đ ến lúc thay th ế iMac, m ột máy vi tính đ ể bàn cá nhân có hình d áng như trong phim hoạt
hình Jetsons. Ive đưa ra m ột m ẫu thi ết kế theo lối c ổ đi ển, vớ i nh ững thiết bị bên trong máy vi tính
gắn vào mặt sau màn hình phẳng. Jobs không thích m ẫu này. Như ông v ẫn thườ ng làm, ở cả Pixar
và Apple, ông tạm ngừng m ọi việc để suy nghĩ sâu thêm v ấn đề. ông c ảm thấ y một ph ần trong m ẫu
thiết kế thiếu đi tính thu ần khiết. “T ại sao phải dùng màn hình phẳng r ồi l ại gắn tất c ả m ọi th ứ vào
phía sau?” ông h ỏi Ive. “Chúng ta nên đ ể m ỗi thành phần là chính b ản thân chúng.”
Hôm đó, Jobs về nhà sớm hơn để nghi ền ng ẫm vấn đề, r ồi ông g ọi Ive đ ế n. H ọ đi v òng
quanh khu vườ n nơi v ợ Jobs tr ồng r ất nhi ều hoa hướ ng dương. “M ỗi năm tôi đ ều th ực hi ện m ột
vi ệc ngông cuồng trong khu vườ n, lần này là một r ừng hoa hư ớ ng dương, một ngôi nhà hoa hư ớ ng
dương cho b ọn trẻ,” bà nhớ l ại. “Jony và Steve đang t ập trung suy ng hĩ về vấn đề thiết kế, r ồi Jony
hỏi, ‘N ếu màn hình tách rờ i kh ỏi bệ gi ống một bông hoa hư ớ ng dương thì sao?’ ông ấ y hào h ứng
và b ắt đầu phác th ảo.” Ive luôn muốn thi ết kế của mình ẩn ch ứa m ột thông đi ệp, ông nh ận th ấ y
hình d ạng c ủa bông hoa hư ớ ng dương sẽ truy ền đạt ý tưở ng v ề m ột màn hình ph ẳng linh hoạt và
nhanh nh ạ y đến m ứ c nó có th ể hướ ng đ ến m ặt trờ i.
Trong thi ết kế m ớ i c ủa Ive, màn hình máy Mac đư ợ c gắn vào một c ổ di đ ộng làm bằng
crom, vì thế nó không ch ỉ trông giống m ột hoa hướ ng dương mà còn gi ống m ột chi ếc đèn bàn luxo
x ấc xư ợ c. Thực t ế, nó gợ i lên v ẻ tinh ngh ị ch c ủa Luxo Jr. trong bộ phim ngắn đầu tiên do John
Lasseter thực hi ện tại Pixar. Apple đã nh ận đư ợ c nhi ều bằng thiết kế, h ầu hết đều do công c ủa Ive,
nhưng trên một trong số đó, trên b ằng s áng ch ế dành cho “h ệ th ống máy vi tính có m ột bộ phận di
động g ắn vớ i màn hình ph ẳng,” Jobs đã tự ghi tên mình vào v ị trí nhà sáng t ạo đầu tiên.
Ngẫm lại, m ột vài thiết kế Macintosh c ủa Apple có vẻ quá xinh xắn, trong khi nh ững hãng
s ản xu ất máy vi tính khá c l ại theo thái c ực đối l ập. L ẽ ra đó là ngành công nghi ệp đòi h ỏi s ự s áng
t ạo, th ế nhưng nó lại b ị thao túng b ở i nh ững thiết k ế hình hộp rập khuôn r ẻ ti ền. Sau một s ố th ất b ại
vớ i màu sơn xanh và vài ki ểu dáng m ớ i, nh ững công ty như Dell, Compaq và HP đã s ản xu ất máy
vi tính đại trà thông qua thuê ngoài và cạnh tranh bằng giá. V ớ i nh ững thiế t kế can đảm và trình
ứng d ụng đ ột phá như iTunes và iMovie, Apple dư ờ ng như là nơi duy nhất còn s áng t ạo.
Bên trong là Intel
S ự s áng t ạo củ a Apple còn sâu s ắc ngoài s ức tư ở ng tượ ng. Từ năm 1994, h ọ đã s ử dụng b ộ
vi x ử lý, g ọi là PowerPC, do IBM và Motorola h ợ p tác s ản xu ất. Trong vài năm, nó nhanh hơn c ả
chip của Intel, m ột l ợ i thế luôn đượ c Apple khai thác tri ệt đ ể trong nh ững m ẩ u qu ảng cáo hài hướ c.
Tuy nhiên, khi Job tr ở về, Motorola đã t ụt hậu trong vi ệ c sản xu ất ra nh ững phiên bản chip mớ i.
Đi ều này làm n ả y sinh cu ộc chi ến gi ữa Jobs và CEO c ủa Motorola, Chris Galvin. Khi Jobs quy ết
đị nh d ừng c ấp phép hệ th ống điều hành Macintosh cho những nhà sản xu ất bản sao, ngay khi ông
tr ở về Apple vào năm 1997, ông đ ề nghị vớ i Galvin r ằng ông có th ể xem xét dành một ngo ại l ệ cho
bản sao c ủa Motorola, StarMax Mac, nhưng ch ỉ khi Motorola tăng t ốc phát tri ển chip PowerPC
m ớ i cho máy vi tính xách tay. Cu ộc điện đàm trở nên căng th ẳn g. Jobs cho r ằng chip c ủa Motorola
th ật t ệ hại. Galvin, v ốn nóng tính, ph ản pháo. Jobs d ập máy. D ự Ấn Motorola StarMax bị hủ y, Jobs
âm thầm lên kế hoạ ch tách chip PowerPC c ủa Motorola và IBM ra khỏi Apple và thay b ằng chip
Intel. Đó là m ột nhi ệm vụ không đơn giản. Vi ệ c l ập trình lại một h ệ th ống đi ề u hành cũng phức t ạ p
không kém.
Jobs không nhượ ng l ại bất k ỳ quyề n lực th ật s ự nào cho ban giám đ ố c, nhưng ông v ẫn sử
dụng các bu ổi họp để phát tri ển ý tưở ng và suy nghĩ thông qua những chiến lư ợ c bí m ật, trong khi
ông đứng trướ c bảng và t ổ ch ức th ảo lu ận tự do. Ban giám đốc th ảo lu ận trong mườ i tám tháng
ròng r ã, cân nh ắcli ệu họ có nên chuy ể n sang sử dụng c ấu trúc c ủ a Intel. “Chúng tôi bàn lu ận, đặt ra
m ột lo ạt câu h ỏi và cu ối cùng t ất c ả chúng tôi quy ế t đị nh điều này là c ần thi ế t,” Art Levinson, m ột
thành viên trong ban giám đốc nh ớ l ại.
Paul otellini, khi đó đang nh ậm ch ức ch ủ t ị ch, sau này trở thành CEO củ a Intel, b ắt đầu hội
ý riêng vớ i Jobs. H ọ đã bi ết nhau khi Jobs còn đ ấu tranh để duy trì NeXT, sau này otellini k ể thêm,
“tính kiêu ngạo của ông ấ y t ạm th ờ i bộc phát.” otellini có cách nhìn nh ận đi ềm tĩnh và m ỉ a mai v ề
m ọi ngườ i, trong m ột l ần trao đổi vớ i Jobs t ại Apple vào đ ầu nh ững năm 2000, ông có vẻ thích thú
hơn là khó chị u khi phát hi ện ra, “phần tinh túy củ a Jobs l ại s ắp ra đi, ông ấ y dư ờ ng như không thể
khiêm t ốn đư ợ c nữa.” Intel đã giao d ị ch v ớ i nh ữn g nhà s ản xu ất máy vi tính khác, và Jobs mu ốn có
đượ c giá tốt hơn giá của họ. “Chúng tôi phải vận dụng khả năng s áng t ạo để kết nối các con số,”
otellini nói. Ph ần l ớ n nội dung đàm phán đượ c thông qua, đúng như Jobs mong mu ốn, trong những
chuy ế n bách bộ dà i, đôi khi trên con đư ờ ng mòn d ẫn lên Kính viễn vọng vô tuy ến Dish bên trên
trườ ng đ ại học Stanford. Jobs thườ ng s ẽ bắt đầu chuy ến đi bộ b ằng một câu chuyệ n rồi gi ải thích
làm th ế nào ông nhìn thấy sự ti ến hóa c ủa l ị ch s ử máy vi tính. Vào cu ối bu ổi ông s ẽ m ặ c cả v ề giá.
“Intel đã nổi tiếng là m ột đối tác khó ch ị u từ những ngày mà Andy Grove và Craig Barrett
còn đi ều hành công ty,” otellini nói. “Tôi muốn cho mọi ngườ i th ấ y rằng Intel là một công ty bạn
có th ể cộng tác.” Vì thế m ột đội xu ất s ắc của Intel đã qua làm việc cùng Apple, họ đã có thể đánh
bại kỳ h ạn chuy ển đổi trong sáu tháng. Jobs m ờ i otellini đến cơ sở của hội đồng quân sư cấp cao
“top 100” c ủa Apple, ở đó otellini, khoác lên ngườ i b ộ áo choàng phòng thí nghiệm Intel nổi tiếng,
trông giống m ột bộ trang phục thỏ, và trao cho Jobs m ột cái ôm thật ch ặt. T ại l ễ ra m ắt công chúng
vào năm 2005, otellini, v ốn là ngườ i dè dặt, lặp lại hành động ấ y. Dòng chữ “Apple và Intel, cu ối
cùng cũng bên nhau,” ch ạ y thoáng qua trên màn hình l ớ n.
Bill Gates rất kinh n gạc. Vi ệc thi ết k ế những chiế c vỏ máy tính màu s ắc sặc sỡ không khi ến
ông ng ạ c nhiên, nhưng m ột chương trình chuy ể n đổi CPU máy vi tính bí m ật, hoàn thành suôn s ẻ
và đúng h ạn qu ả là m ột chi ến công đáng ngư ỡ ng mộ th ật s ự. Nhi ều năm sau, khi tôi h ỏi ông v ề
những thành công của Jobs, ông nói v ớ i tôi “N ếu bạn nói, Thôi đư ợ c, chúng tôi sẽ thay đ ổi chip vi
x ử lý và quy ế t không đ ể l ỡ m ột nh ị p nào,’ đi ều đó nghe th ật bất kh ả thi. Nhưng họ đã làm đư ợ c.”
Những quy ền ch ọn
M ột trong nh ững t ật xấu của Jobs là thái đ ộ đối với tiền. Khi ông trở l ại Apple vào năm
1997, ông t ự hình dung mình như ngư ờ i c ả năm ch ỉ ki ếm đượ c m ột đô -la, ông làm vi ệ c vì l ợ i ích
của công ty hơn là vì cá nhân. Tuy nhiên, ông kiên trì v ớ i ý tưở ng gói quyề n ch ọn kh ổng lò - quyền
ch ọn mua cổ phiếu Apple tại mức giá ấn đị nh - không tùy thuộc vào thủ t ục đền bù hàng hóa thông
thư ờ ng c ủ a nh ững b ản đánh giá và ch ỉ tiêu th ực hi ện của ban giám đốc.
Khi ông loại bỏ t ừ “t ạm th ờ i” trong chức vụ củ a mình và chính thức trở thành CEO, (ngoài
m ột chi ếc chuyên cơ) ô ng còn đư ợ c Ed W oolard và ban giám đốc đề nghị cấp cho một gói quy ền
ch ọn kh ổng lò vào đầu năm 2000; b ất ch ấp hình tư ợ ng không màng tiền bạc đư ợ c xây d ựng lâu
nay, ông đã khiến W oolard kinh ng ạ c khi yêu cầu nhi ều quyền ch ọn hơn s ố lư ợ ng ban giám đ ốc đề
nghị . Nhưng ngay khi ông nh ận đư ợ c chúng, hóa ra chúng lại ch ẳng có giá trị . cổ phiếu Apple r ớ t
th ảm hại vào tháng chín năm 2000 - vì doanh thu đ áng th ất vọng c ủa Cube và vì bong bóng
Internet v ỡ tan - đã khiến quyền ch ọn trở nên vô dụng.
M ọi vi ệc trở nên t ồi t ệ hơn vào tháng sáu năm 2001, khi t ạp chí Fortune đăng lo ạt bài The
Great CEO Pay Heist (những CEO đư ợ c bồi thư ờ ng quá m ức), làm đ ề tài trang bìa. Một bức chân
dung Jobs đang t ự mãn cư ờ i kh ẩ y, chiếm trọn trang bìa. M ặ c dù lúc b ấ y gi ờ ưu đãi quyề n ch ọn
mua của ông v ẫn chưa đư ợ c công khai, theo tính toán của mô hình Black -Scholes đ ị nh giá Quyề n
ch ọn mua/ bán cổ phiếu cho thấ y, giá tr ị củ a gói quy ề n ch ọn mà Steve nh ận đư ợ c là 872 triệu đô -la.
Fortune tuyên bố “cho đ ế n lúc này” đó là gói đ ền bù lớ n nh ất t ừng đ ượ c cấ p cho một CEO. Đó là
đi ều tệ hại nh ất trên đ ờ i: Jobs g ần như không một xu dính túi sau bốn năm làm việc t ận tụ y và
thành công thay đổi c ục di ện tại Apple, thế mà ông lại trở thành áp phích đ ại diện cho những CEO
tham lam, điều này khi ến ông trông gi ả nhân gi ả nghĩa và hủ y ho ại hình tư ợ ng c ủ a ông. Ông viết
m ột bức thư phản đối gay g ắt gửi cho biên t ập viên của tòa báo, tuyên bố r ằng s ố quyề n ch ọn của
ông th ực ra “không đáng m ột xu” và đ ề nghị bán chúng cho Fortune vớ i giá b ằng một nửa số ti ền
873 tri ệu đô-la mà t ạp chí này đăng tải.
Trong khi đó, Jobs mu ốn ban giám đốc cấp một gói quy ề n ch ọn l ớ n khác, vì quy ền ch ọn cũ
có v ẻ vô d ụng, ông nhấn m ạnh, v ớ i ban giám đ ốc và dĩ nhiên là c ả b ản thân mình, yêu cầu này chủ
yế u để ch ứng minh năng lực của ông đư ợ c t hừa nh ận m ột cách đúng đ ắng hơn là vì ti ền bạc. Sau
này, khi trả l ờ i trong v ụ ki ện của ủ y ban ch ứng khoán (SEC) về những quy ền ch ọn đó, ông nói
“việc này không liên quan nhiều đến tiền. M ọi ngườ i đều muốn đư ợ c các c ộng s ự th ừa nh ận năng
l ực... Tôi cảm thấ y ban giám đốc không thật s ự tôn trọng tôi.” ông cảm thấ y l ẽ ra ban giám đ ố c nên
đề nghị cấp một gói quy ề n ch ọn mớ i mà không cần ông lên tiếng. “Tôi nghĩ mình làm việc khá t ốt.
Và việc cấp m ột gói quy ền ch ọn m ớ i s ẽ khiến tôi th ấ y khá hơn vào lúc đó.”
Thực t ế ban giám đố c do chính ông tuyển ch ọn đã rất nương theo ý ông. Vì thế họ quyết
đị nh c ấp cho ông m ột gói quy ền ch ọn kh ổng lò khác vào th áng tám năm 2001, khi giá c ổ phiếu
dướ i 18 đô -la. v ấn đề là ông đang lo lắng v ề hình ảnh c ủa mình, đ ặ c bi ệt sau bài vi ết trên tạp chí
Fortune, ông không muố n nh ận ưu đãi mớ i trừ khi ban giám đ ốc cùng lúc h ủ y bỏ những quy ề n
ch ọn cũ. Nhưng làm như vậ y sẽ gây khó khăn về nghi ệp vụ kế toán , vì nó sẽ tác đ ộng đ ến giá c ủ a
những quy ền ch ọn cũ. Điều này đòi hỏi một khoản bù đắp đối vớ i thu nh ập hiện t ại. Cách duy nh ấ t
ngăn c ản vấn đề “biến kế toán ” là hủ y bỏ những quy ền ch ọn cũ của ông ít nhất sáu th áng sau khi
quyền ch ọn m ớ i đư ợ c cấ p. Ngoài ra, Jobs bắt đầu th ảo lu ận vớ i ban giám đ ốc về th ờ i hạn th ụ
hưở ng việ c trao quyề n ch ọn m ớ i nên nhanh như th ế nào.
Đến gi ữa th áng mườ i hai năm 2001, Jobs m ớ i đồng ý nh ận nh ững quy ền ch ọn m ớ i, bất
ch ấp dư lu ận dị nghị và chấp nh ận ch ờ đợ i sáu th áng trướ c khi quy ề n ch ọn cũ bị hủ y. Nhưng đ ến
khi đó giá c ổ phiếu (v ừa đi ều ch ỉ nh đượ c m ột ph ần) tăng thêm 3 đô- la, đ ạt m ức giá 21 đô-la. N ếu
giá thực hi ện quyền ch ọn m ớ i đư ợ c xác l ập ở m ức m ớ i thì m ỗi quyền ch ọn sẽ gi ảm giá trị 3 đô -la.
Vì thế lu ật sư pháp lý c ủ a Apple, Nancy Heinen, xem xét giá ch ứng khoán gần đây và giúp ch ọn
m ột ngày trong th áng mườ i, kh i giá ch ứng khoán đ ạt 18,30 đô -la. Bà cũng phê chu ẩn một loạt biên
bản vớ i hàm ý r ằng ban giám đ ốc đã ch ấp thuận chuy ển nhượ ng vào ngày đó. Vi ệc ghi lùi ngày
quyền ch ọn mua cổ phiế u có kh ả năng mang về 20 triệu đô -la cho Jobs.
M ột l ần nữa, Jobs lại ph ải gánh ch ị u tiếng x ấu mà không ki ếm đượ c m ột xu. cổ phiếu
Apple tiếp t ục r ớ t giá, vào th áng ba năm 2003, thậm chí giá củ a quyề n ch ọn mớ i thấp đến mức Jobs
phải đổi t ất c ả để l ấ y m ột chuy ể n nhượ ng c ổ phiếu toàn ph ần trị giá 75 tri ệu đô -la, s ố cổ phiếu này
tương đương kho ảng 8,3 tri ệu đô -la cho m ỗi năm làm việc củ a ông k ể t ừ khi quay l ại vào năm
1997 cho đ ến cu ối th ờ i gian thụ quyề n (vesting) năm 2006.
Những việc này l ẽ ra s ẽ không gặp trở ngại gì nếu vào năm 2006 t ờ Wall Street Journal
không đăng lo ạt bài v ề những quy ề n ch ọn cổ phiế u ghi lùi ngày. Apple không b ị nhắ c tên, nhưng
ban giám đốc công ty cử m ột hội đồng gồm ba thành viên - AI Gore, Eric Schmidt từ Google và
Jerry York, trư ớ c đây c ộ ng tác vớ i IBM và Chrysler - đ ể đi ều tra quy trình của chính h ọ. “Ngay t ừ
đầu, chúng tôi đã quy ế t đị nh n ếu Steve có sai sót, chúng tôi s ẽ để giá c ổ phiếu rớ t xuống theo khả
năng th ự c t ế,” Gore nhớ l ại. H ội đồng phát hi ện m ột s ố đi ều trái quy tắ c trong v ụ chuy ể n nhượ ng
cho Jobs và cho nh ững viên chức cao c ấp khác, và h ọ l ập tức chuy ển nh ững phát hiện này đ ến ủ y
ban Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC). B ản báo cáo cho th ấ y Jobs biết về vi ệc ghi lùi ngày, nhưng ông
l ại không đượ c hư ở ng lợ i v ề m ặt tài chính. (H ội đồ ng t ại Disney cũng phát hi ện ra việc ghi lùi ngày
tương t ự t ừng x ả y ra ở Pixar khi Jobs còn nắm quyề n.)
Những luật l ệ ki ểm soát nghiệp vụ ghi lùi ngày r ấ t mù m ờ , đ ặc bi ệt khi không ai tại Apple
hưở ng lợ i t ừ những v ụ chuy ển nhượ ng đượ c ghi ngày thiếu minh bạch. SEC mất tám th áng để th ự c
hi ện vi ệc đi ều tra của riêng h ọ, vào th áng tư năm 2007, họ tuyên b ố s ẽ không truy t ố Apple “m ột
phần vì sự hợ p tác nhanh chóng và nhi ệt tình c ủa họ trong cuộc điều tra củ a ủ y ban và việc t ự ki ểm
đi ểm nhanh chóng [của họ].” Mặc dù SEC phát hi ện ra Jobs bi ết vi ệc ghi lùi ngày quyề n ch ọn cổ
phiếu, nhưng họ không bu ộc t ội ông vì ông “không biết về s ự liên can k ế toán .”
SEC đệ trình đơn ki ện ch ống lại c ựu giám đốc tài chính c ủa Apple, Fred Anderson, lúc b ấ y
gi ờ là thành viên c ủa ban giám đốc và Nancy Heinen, ngư ờ i đứng đ ầu ban luật sư. Anderson, một
đại úy Không quân v ề hưu vớ i chi ếc cằm vuông, là ngườ i chính tr ực sâu s ắ c, m ột nhân vật thông
t hái và điềm tĩnh tại Apple, ông n ổi tiếng v ề khả năng ki ểm soát các cơn th ị nh n ộ của Jobs, ông bị
SEC g ọi ra hầu tòa chỉ vì “s ự cẩu th ả ” liên quan đến gi ấ y tờ trong một vụ chuy ển nhượ ng
(không phải v ụ chuy ể n nhượ ng cho Jobs) và SEC đã cho phép ông ti ếp t ục ở l ại ban đi ều hành. Tuy
nhiên, cu ối cùng ông quy ết đị nh t ừ ch ức kh ỏi ban giám đ ốc Apple.
Anderson nghĩ ông đã tạo nên một nhóm giơ đ ầu ch ị u báng. Khi ông hòa gi ả i v ớ i SEC, lu ật
sư c ủa ông đưa ra m ột bản tuyên b ố cho rằng Jobs cũng có l ỗi. H ọ nói Anderson đã báo trướ c vớ i
Jobs vi ệc chuy ển nhượ ng c ủa ban lãnh đ ạo sẽ đượ c đị nh giá vào ngày mà ban giám đốc thực sự ký
nếu không s ẽ xuất hi ện trách nhiệm tài chính,” và Jobs trả l ờ i “ban giám đ ố c đã đưa ra ch ấp thuận
ưu tiên.”
Heinen, ngư ờ i đ ầu tiên biết đư ợ c mình ph ải ch ị u trách nhiệm, quyế t đ ị nh hòa gi ải và trả 2,2
tri ệu đô -la ti ền ph ạt nhưng không th ừa nh ận hay phủ nhận bất k ỳ l ỗi l ầm nào. Trong khi đó công ty
l ại hòa gi ải vớ i m ột vụ ki ện vớ i c ổ đông b ằng cách đ ồng ý tr ả 14 tri ệu đô -la thiệt hại.
“Hiếm khi nhiều vấn đề có th ể tránh khỏi l ại đư ợ c t ạo ra vì một ngườ i quá ám ảnh b ở i hình
tư ợ ng c ủ a mình như th ế,” Joe Nocera vi ết trên t ờ New York Times. “ M ột l ầ n nữa, chúng tôi đang
nói đến Steve Jobs.” V ớ i nh ững nguyên t ắ c và lu ật l ệ ngạo m ạn củ a mình, Jobs đã t ạo ra m ột môi
trườ ng khó khăn cho nh ữ ng ngư ờ i như Heinen thự c hi ện yêu c ầu củ a ông. Đôi khi, s ự s áng t ạo vĩ
đại xu ất hiện. Nhưng nh ữ ng ngư ờ i xung quanh ông phải trả giá. Ch ỉ nói riêng về những v ấn đề đ ền
bù, s ự khó khăn trong vi ệ c bất ch ấp ý tưở ng c ủa ông đã khi ến nh ững ngư ờ i t ốt ph ải ra nh ững quy ết
đị nh tòi.
Vấn đề bồi thư ờ ng có đôi nét giống v ớ i thói đ ậu xe của Jobs, ông t ừ ch ối nh ững ưu đãi như
ch ỗ “Đậu xe riêng cho CEO”, nhưng ông lại l ờ đi và cho rằng b ản thân mình có quy ề n đậu vào chỗ
ngư ờ i khuy ết t ật. ôn g muốn đư ợ c nhìn nh ận (b ở i chính ông và nh ững ngư ờ i khác) như m ột ngườ i
s ẵn lòng làm việ c vì m ột đô -la m ột năm, nhưng ông v ẫn muốn nh ững gói cổ phiếu kh ổng l ồ dành
riêng cho mình. Sự xung đ ột bên trong ông là nhữ ng mâu thuẫn của m ột ngườ i xu ất thân t ừ phong
trào ph ản văn hóa n ổi lo ạn trở thành một nhà doanh nghi ệp, m ột ngườ i luôn mu ốn tin rằng ông ta
có th ể t ự do, tùy h ứng mà không b ị bán đứng và l ợ i dụng.
Chương 35 VÒNG MỘ T
Memento Mori
4r¥-
Jobs ở tu ổi 50 (trung tâm b ứ c ảnh), với Eve và Laurene (đ ằng sau chiếc bánh), Eddy Cue
(c ạnh c ử a sổ ), John Lasseter (đang c ầm máy quay) và Lee Clow (ngư ời có râu)
Ung th ư
Sau này, Jobs t ự bi ện bạ ch r ằng b ệnh ung thư phát sinh vào khoảng thờ i gian làm vi ệ c ki ệt
s ức của ông, bắt đầu từ năm 1997, khi đi ều hành cả Apple và Pixar. Trong gian đoạn đi đi về về
gi ữa hai bên, ông đã phát b ệnh s ỏi th ận và vài b ệnh v ặt khác, ông về nhà trong tr ạng thái ki ệt s ức
đến độ không th ể cất tiếng. “Có l ẽ đó là lúc căn b ệ nh ung thư b ắt đầu âm th ầm tiến tri ển, vì khi đó
hệ th ống miễn dị ch c ủa tôi quá yế u,” ông nói.
Không bằng chứng khoa h ọc nào cho th ấ y sự ki ệt s ức hay h ệ th ống miễn dị ch y ế u ớ t s ẽ gây
ra ung thư. Tuy nhiên, những v ấn đề v ề th ận củ a Jobs đã gi Ấn ti ếp dẫn đến vi ệc phát hiện ung thư.
Vào tháng mườ i năm 2003, ông tình c ờ gặp m ột bác s ỹ ti ết ni ệu từng chữ a trị cho ông trư ớ c đó, bà
yêu cầu Jobs đi ch ụp cắt l ớ p th ận và ni ệu qu ản. L ầ n cu ối ông chụp đã cách đ ấ y đã năm năm. L ầ n
ch ụp mớ i cho th ấ y thận của Jobs không có vấn đề gì, nhưng lá lách xu ất hiệ n một d ấu vết, vì vậ y bà
yêu cầu ông s ắp xếp th ờ i gian kiểm tra lá lách, ông đã không đi. Như thư ờ ng l ệ, ông r ất gi ỏi trong
vi ệc cố ý ph ớ t l ờ những thông tin mà ông không muốn xử lý. Nhưng bà v ẫn kiên trì. Vài ngày sau,
bà nói “Steve, đi ều này thật s ự rất quan tr ọng. Ông phải ki ểm tra.”
Gi ọng điệu kh ẩn cấp của bà khiến ông chấp nh ận, ông đến khám vào sáng s ớ m, sau khi
nghiên cứu bản ch ụp, các bác s ỹ gặp ông đ ể thông báo tin x ấu rằng đó là mộ t kh ối u. M ột trong s ố
họ còn đề nghị ông nên thu xếp công vi ệc cẩn thận, như m ột cách t ử t ế để thông báo r ằng ông có lẽ
ch ỉ còn sống đượ c vài th áng. Tối đó, h ọ ti ến hành sinh thi ết bằng cách đưa d ụng c ụ nội soi xu ống
cổ họng, qua đườ ng ruột, ròi đâm m ột chi ếc kim vào lá lách của ông và l ấ y m ột vài tế bào kh ối u.
Powell còn nh ớ các bác s ỹ của chòng cô đã r ất vui m ừng. Hóa ra đó chỉ là tế bào đảo ho ặc các u tụ y
nội tiết th ần kinh hi ếm khi xuất hi ện nhưng phát triển ch ậm vì th ế có th ể ch ữa trị thành công, ông
may mắn vì phát hi ện bệ nh s ớ m - nhờ vào l ợ i ích phụ của quy trình kiểm tra thận - vì th ế có th ể
phẫu thuật c ắt bỏ trướ c khi nó lan rộng.
M ột trong nh ững cuộ c gọ i đầu tiên c ủa ông là cho Larry Brilliant, l ần đầu tiên h ọ gặp nhau
là tại m ột ngôi đền ashram ở Ấn Độ. “Ông còn tin vào Thượ ng Đ ế không?” Jobs hỏi ông. Brillant
tr ả l ờ i có, ròi h ọ th ảo lu ậ n về những con đư ờ ng đ ế n vớ i Thượ ng Đ ế do trưở ng lão ngườ i Hindu,
Neem Karoli Baba, truyề n dạ y. Brillant h ỏi Jobs có vấn đề gì. “Tôi mắc bệ nh ung thư,” Jobs đáp.
Khi Art Levinson, một thành viên ban giám đ ốc Apple, đang ch ủ trì cuộ c gặp gi ữ a ban
giám đ ốc và công ty riêng c ủ a mình, Genentech, thì điện thoại di động c ủ a ông reo lên và tên c ủa
Jobs xu ất hiện trên màn hình. Ngay khi có thờ i gian giải lao, Levinson g ọi l ại cho Jobs và đư ợ c bi ế t
tin v ề khối u. Levinson có kinh nghi ệm trong lĩnh vực sinh học ung thư, đồ ng th ờ i công ty ông còn
s ản xu ất thu ốc ch ữa ung thư, vì thế ông trở thành một nhà c ố vấn. Andy Grove ở Intel cũng v ậ y,
ông đã đư ợ c phát hiện và ch ữa kh ỏi ung thư ti ền liệt tuy ến. Thứ bả y đó Jobs g ọi đi ện cho ông,
Grove lái xe ngay đ ến nhà Jobs và ở l ại hai gi ờ đồng h ồ.
Jobs quy ết đị nh không ph ẫu thuật c ắt bỏ khối u, cách ch ữ a trị duy nh ất đư ợ c ch ấp nh ận về
m ặt y h ọ c, đi ều này khi ến bạn bè và v ợ ông hết s ứ c lo l ắng. “Tôi thật s ự không muốn họ m ổ phanh
cơ th ể mình, vì thế tôi c ố gắng tìm nh ững gi ải pháp khác,” vài năm sau ông nói vớ i tôi, trong giọng
nói có tho áng chút ti ếc nu ối. Đ ặc bi ệt, ông vẫn gi ữ ch ế độ ăn chay nghiêm ng ặt, nhiều cà rốt s ống
và nướ c trái cây. Ngoài ch ế độ dinh dưỡ ng đó, ông còn ti ến hành châm c ứu, m ột vài li ệu pháp th ảo
dượ c, đôi khi là m ột s ố phương pháp khác mà ông tìm đượ c trên internet ho ặc do m ột vài ngư ờ i
trong nư ớ c tư vấn, bao gồm cả th ầ y lên đồng. Có m ột th ờ i gian ông b ị ảnh hưở ng t ừ m ột bác s ỹ
đi ều hành phòng chữ a bệ nh theo li ệu pháp tự nhiên ở miền nam California, v ị bác sỹ này đề cao
công d ụng c ủa dư ợ c th ảo hữu cơ, chế độ dinh dưỡ ng chỉ gồm trái cây và nướ c trái cây, vi ệc t ẩ y
ru ột thư ờ ng xuyên, th ủ y liệu pháp và phương pháp diễn đạt t ất c ả c ảm giác tiêu c ực.
“Vấn đề l ớ n là ông ấ y th ậ t s ự không sẵn sàng cho ca ph ẫu thuật,” Powell nhớ l ại. “R ất khó
bắt bu ộc m ột ngườ i ph ải ph ẫu thuật.” Tuy nhiên, bà v ẫn th ử. “Cơ thể t ồn tại để phục vụ linh h ồn,”
bà bi ện lu ận. B ạn bè không ng ừng thúc gi ục ông ti ến hành ph ẫu thuật và hóa tr ị . “Steve nói v ớ i tôi
rằng ông đang cố t ự ch ữ a bằng cách ăn những th ứ lá lẩu vớ v ẩn nào đó, tôi nói ông điên rồi,” Grove
hòi tưở ng. Levinson k ể rằ ng ông “mỗi ngày đều năn n ỉ ” Jobs và vô cùng chán nản vì không thể liên
l ạc đư ợ c vớ i Jobs. Những cuộ c tranh cãi g ần như đã hủ y ho ại tình b ạn gi ữa họ. “Đó không phải
cách th ứ c để đi ều trị ung thư,” Levinson nh ấn m ạnh khi Jobs bàn luận về các phương pháp ăn
kiêng c ủa mình. “Ông không thể gi ải quyết vấn đề này nếu không phẫu thuật và tiêu diệt nó bằng
hóa ch ất.” Th ậm chí bác sỹ dinh dưỡ ng Dean Ornish, ngườ i tiên phong trong nh ững phương pháp
ch ữa bệnh dinh dưỡ ng thay thế, cùng Jobs đi b ộ một ch ặn đư ờ ng dài và nh ấ n m ạnh rằng đôi khi
những bi ện pháp truyền thống v ẫn là l ự a ch ọn đúng đắn. “ông v ẫn ph ải ph ẫ u thu ật,” Ornish nói vớ i
Jobs.
Sau chuẩn đoán th áng mườ i năm 2003, tính ương ng ạnh bướ ng b ỉ nh c ủ a Jobs kéo dài đư ợ c
chín th áng. M ột ph ần là vì m ặt trái c ủa kh ả năng bóp méo sự th ật c ủa ông. “Tôi nghĩ Steve luôn
cho r ằng thế gi ớ i s ẽ vận hành theo cách mà ông ấ y mong muốn,” Levinson nhận xét. “Đôi khi đi ều
này không hiệu qu ả. Th ự c t ế không bi ết khoan dung.” Mỉ a mai thay, kh ả năng tập trung tuyệ t vờ i
cũng giúp ông th ẳng thừ ng lo ại bỏ những thứ mình không muốn gi ải quyết. Đi ều này đã t ạo ra
nhiều cú đột phá vĩ đ ại c ủa ông, nhưng nó cũng mang l ại kết qu ả trái ngượ c. “Ông có kh ả năng
phớ t l ờ những v ấn đề không muốn đối m ặt,” Powell giải thích. “Đó ch ỉ là cách ông ấ y gi ải quyết
vấn đề.” Dù là việc tư liên quan đến gia đình, hôn nhân hay vi ệc công liên quan đến kỹ thuật ho ặ c
thách thức kinh doanh, hay s ức kh ỏe và bệnh ung thư, th ỉ nh tho ảng Jobs chỉ đơn gi ản không đoái
hoài gì đến chúng.
Trong quá khứ, ông đã đư ợ c tư ở ng thư ở ng vì thứ mà v ợ ông gọi là “suy nghĩ thần kỳ”- ông
gi ả đị nh r ằng mình có thể bắt bu ộc m ọi th ứ di ễn ra theo ý mu ốn. Nhưng ung thư không gi ống như
th ế. Powell l ập danh sách tất c ả những ngư ờ i thân c ận vớ i ông, bao g ồm cả cô em gái, Mona
Simpson, nh ằm cố gắng thuyết ph ục ông. Vào tháng b ả y năm 2004, m ột l ầ n ch ụp cắt l ớ p cho thấ y
khối u đã phát tri ển và có th ể lan r ộng. Và kết qu ả x ấu này đã bu ộ c ông phả i đối m ặt vớ i th ực t ế.
Ca phẫu thuật c ủa Jobs đư ợ c tiến hành vào ngày th ứ bả y, ngày 31 tháng b ả y năm 2004 t ại
Trung tâm Y tế Đại họ c standford.
ông đã không trải qua “quy trình ph ẫu thuật W hipple
(34 )
“ hoàn ch ỉ nh, v ốn ph ải c ắt bỏ phần
l ớ n dạ dày, ru ột và lá lách. Các bác s ỹ nghiên cứu vấn đề, nhưng h ọ quyết đị nh thay th ế b ằng một
bi ện pháp ít tổn thương hơn, m ột quy trình Whipple có sửa đổi, ch ỉ cắt bỏ m ột ph ần lá lách.
Ngay hôm sau, Jobs đã gửi email cho nhân viên b ằng chiếc PowerBook nố i vớ i m ột bộ
Airport Express trong phòng bệnh c ủa mình, ông cam đoan v ớ i họ rằng loạ i ung thư tuyến tụ y mà
ông mắ c ph ải “chiếm khoảng 1% tổng s ố ch ẩn đoán ung thư tuy ến tụ y m ỗi năm, và có th ể ch ữa trị
bằng phẫu thuật c ắt bỏ nế u ch ẩn đoán kị p th ờ i (đó là trườ ng h ợ p của tôi).” ông nói mình s ẽ không
yêu cầu hóa tr ị hoặc xạ tr ị và lên kế hoạch tr ở l ại làm vi ệc vào tháng chín. “Khi tôi vắng m ặt, tôi đã
nhờ Tim Cook chị u trách nhiệm về vi ệc đi ều hành m ỗi ngày ở Apple, vì th ế chúng ta sẽ không lỡ
m ột nh ị p nào. Tôi chắc ch ắn sẽ gọi th ật nhi ều cho vài ngườ i trong số các bạ n vào tháng tám và tôi
trông mong g ặp lại m ọi ngườ i vào tháng chín.”
M ột tác đ ộng phụ của cu ộc ph ẫu thuật trở thành v ấn đề cho Jo bs vì n ỗi ám ảnh ăn kiêng,
thói quen tẩ y ru ột và ăn chay k ỳ l ạ t ừ khi còn là thiếu niên của ông. Vì lá lách cung cấp enzim giúp
dạ dày tiêu hóa th ứ c ăn và h ấp th ụ ch ất dinh dư ỡ ng, nên khi cắt bỏ m ột ph ầ n bộ phận này s ẽ khiến
vi ệc hấp thu đ ạm gặp khó khăn. Bệnh nhân nên ăn u ống điều độ và duy trì chế độ ăn dinh dưỡ ng,
vớ i nhi ều lo ại đạm th ị t và đạm cá cũng như các sả n ph ẩm sữa nguyên kem. Jobs chưa t ừng thực
hi ện vi ệc này và s ẽ không bao giờ muốn làm thế.
Ông lưu l ại bệnh viện hai tuần đồng thờ i c ố gắng l ấ y l ại s ức kh ỏe. “Tôi nhớ cảm giác về
nhà và ng ồi lên chiế c gh ế bập bênh,” ông k ể vớ i tôi và ch ỉ vào chi ế c gh ế trong phòng khách củ a
ông. “Tôi không đủ s ức bư ớ c đi. Ph ải mất một tuần tôi m ớ i có th ể đi vòng quanh tòa nhà. Tôi bu ộc
mình phải đi đ ến khu vườ n cách xa vài tòa nhà, ròi đi xa hơn, trong vòng sáu th áng năng lư ợ ng c ủa
tôi g ần như ph ụ c hồi.”
Ti ếc thay ung thư đã di căn. Trong cu ộ c ph ẫu thuậ t, các bác s ỹ phát hi ện ra ba ch ỗ di căn
trên gan. N ếu họ phẫu thuật s ớ m hơn chín tháng, có l ẽ họ đã ngăn chặn trướ c khi nó lan rộng, mặc
dù h ọ cũng không ch ắ c. Jobs b ắt đầu tiếp nh ận hóa trị , vi ệc này khi ến th ử thách ăn uống c ủa ông
càng phức t ạp hơn.
L ễ phát b ằng t ốt nghi ệp trường standford
Jobs ti ếp t ục đấu tranh vớ i bí mật ung thư - ông nói v ớ i mọi ngườ i r ằng mình đã đư ợ c ch ữa
khỏi - cũng như khi giữ im l ặng v ề ch ẩn đoán của ông vào th áng mườ i năm 2003. Bí m ật như thế
này không có gì đ áng ngạ c nhiên, đó là một ph ần bản ch ất c ủ a ông. Đi ều đáng kinh ngạc hơn chính
là quy ết đị nh tâm sự riêng và công khai về vi ệc ch ẩn đoán ung thư c ủa ông. M ặc dù ông hi ếm khi
di ễn thuy ết, ngoại trừ những bài giớ i thi ệu sản ph ẩm trên sân khấu, ông đã nh ận lờ i m ờ i phát biểu
t ại l ễ phát bằng t ốt nghi ệ p của trư ờ ng standford vào th áng sáu năm 2005. Ông đang trong tâm
tr ạng suy tư sau vấn đ ề s ức kh ỏe và vi ệc bư ớ c sang tu ổi năm mươi.
Ông gọi điện cho nhà biên k ị ch xuất s ắc Aaron Sorkin (tác gi ả củ a nh ững v ở kị ch n ổi tiếng
như: Vài ngườ i t ốt - A Few Good Men, Cánh tây - The West Wing) nh ờ giúp đ ỡ về bài diễn văn.
Jobs g ửi cho ông ấ y một vài ý tư ở ng. “Đó là vào th áng hai và tôi không nh ận đư ợ c ph ản hòi nào cả,
vì th ế tôi g ọi l ại cho ông ấ y vào tháng tư, ông ấ y nói “ ồ, đư ợ c,” và tôi gửi cho ông m ột vài g ợ i ý,”
Jobs thuật l ại. “Cu ối cùng tôi cũng ti ếp chuy ệ n đư ợ c vớ i ông ấ y trên điện thoại, và ôn g ấ y luôn
miệng nói, “Đư ợ c’ nhưng cu ối cùng đã là đ ầu th áng sáu mà ông ấ y ch ẳng h ề gửi cho tôi chút gì.”
Jobs hoang mang, ông v ẫ n luôn tự vi ết nh ững bài thuyết trình sản ph ẩm nhưng ông chưa
bao giờ so ạn di ễn văn t ốt nghi ệp. M ột hôm, ông ng ồi xu ống và t ự vi ết di ễn văn, không có s ự giúp
đỡ nào khác ngoại trừ m ột vài ý tư ở ng c ủ a vợ ông. K ết qu ả, nó tr ở thành bài nói chuy ệ n đơn giản
và r ất thân tình, mang d ấ u ấn m ộc m ạc và cá nhân như m ột s ản ph ẩm hoàn hảo của Steve Jobs.
Alex Haley đã từng nói cách tốt nh ất để m ở đầu di ễn thuy ết là “Hãy đ ể tôi k ể cho các b ạn
nghe m ột câu chuyện.” Không ai hào h ứng v ớ i bài gi ảng, nhưng mọi ngườ i đều thích câu chuy ện.
Và đó là cách Jobs đã ch ọn. “Hôm nay, tôi muốn kể cho các b ạn ba câu chuyện trong đ ờ i tôi,” ông
bắt đầu. “Ch ỉ th ế thôi. Không có gì to tát. Ch ỉ ba câu chuy ệ n.”
Câu chuy ệ n đầu tiên là việc bỏ học trư ờ ng Reed College. “Tôi có thể không cần học nh ững
l ớ p mà tôi không h ứng thú và bắt đ ầu t ập trung vào nh ững th ứ h ấp dẫn hơn nhi ều.” Chuy ện thứ hai
kể rằng vi ệc bị sa th ải k hỏi Apple l ại là cơ may c ủ a ông. “G ánh nặng thành công đư ợ c thay bằng s ự
nhẹ nhõm khi lại trở thành ngườ i m ớ i bắt đầu, không bi ết gì về m ọi th ứ.” Các sinh viên t ập trung
cao độ, mặ c cho chi ếc máy bay lượ n l ờ trên đầu vớ i băng rôn hô hào “tái ch ế t ất c ả rác đi ện tử,” và
chính câu chuyệ n th ứ ba đã khi ến họ mê mẩn. Đó là việc đư ợ c ch ẩn đoán m ắc ung thư và những
nhận th ức do tr ải nghi ệm đó mang lại:
Vi ệc nh ớ rằng mình s ắp ch ết là công cụ quan tr ọng nhất mà tôi t ừng s ở hữ u để giúp b ản
thân ra nh ững quy ết đị nh l ớ n trong đ ờ i. Vì h ầu hết m ọi th ứ - m ọi kỳ vọng bên ngoài, mọi s ự kiêu
hãnh, mọi nỗi s ợ x ấu hổ hoặc th ất bại - đ ều gục ngã khi đối m ặt vớ i cái ch ết, ch ỉ còn l ại nh ững thứ
th ật s ự quan tr ọng. Việc nh ớ rằng mình s ắp ch ết là cách t ốt nh ất tôi từng bi ết đ ể tránh rơi vào chiếc
bẫ y suy nghĩ r ằng b ạn sẽ đánh m ất th ứ gì đó. Bạn đã tr ần trụi. Không còn lý do nào ngăn cản bạn
l ắng nghe con tim mình.
S ự tinh tế của bài di ễn văn khi ến nó tr ở nên đơn giản, thuần khiết và duyên d áng. Hãy tra
cứu ở m ọi nơi, t ừ các tuy ển tập đến Youtube, bạn sẽ không tìm thấ y m ột bài di ễn văn t ốt nghi ệp
nào hay hơn th ế. Nh ững bài khác có th ể quan tr ọng hơn, như bài c ủa George Marshall t ại Đại học
Harvard vào năm 1947 tuyên bố k ế hoạ ch tái xây d ựng châu Âu, nhưng không bài di ễn văn nào có
th ể hấp dẫn hơn.
Mãnh sư tu ổi năm mươi
Jobs k ỷ ni ệm sinh nh ật l ầ n th ứ ba mươi và bốn mươi c ủa mình cùng v ớ i các ngôi sao của
Thung lũng Silicon và những nhân v ật nổi tiếng khác. Nhưng khi bướ c sang tu ổi năm mươi vào
năm 2005, sau khi trở về t ừ ca phẫu thuật un g thư, trong bu ổi tiệc bất ng ờ mà v ợ ông tổ ch ức, ch ỉ
có m ặt nh ững ngư ờ i bạn và cộng s ự thân nh ất. Bu ổi tiệc di ễn ra tại ngôi nhà ấm cúng tại San
Francisco cùng vài ngườ i bạn và vị đầu bếp tài ba Alice Waters chuẩn bị món cá hồi t ừ Scotland
cùng v ớ i món co uscous (một món ăn châu Phi có bột mì h ầm vớ i th ị t) và những rau củ t ự tr ồng.
“Nó th ật ấm áp và thân tình, m ọi ngườ i và bọn trẻ có th ể ngồi chung trong một phòng,” Waters nh ớ
l ại. Gi ải trí là bộ phim hài ng ẫu hứng Whose Line Is It Anyway? Mike Slade, bạn thân củ a Jobs,
cũng góp m ặt cùng vớ i các đ ồng nghiệp ở Apple và Pixar, gồm Lasseter, Cook, Schiller, Clow,
Rubinstein và Tevanian.
Cook đã hoàn thành tốt nhi ệm vụ đi ều hành công ty khi Jobs vắng mặt. ông đảm bảo các
di ễn viên đỏng đ ảnh c ủa Apple luôn mang đến màn trình di ễn tốt đẹp, đồng thờ i ông cũng tránh l ộ
di ện trư ớ c ánh đèn sân khấu, ở m ột ch ừng m ực nào đó, Jobs thích những cá tính m ạnh, nhưng ông
không bao giờ th ật s ự trao quyền cho ngư ờ i phó hoặc chia s ẻ công vi ệ c. R ất khó đ ể tr ở thành ngư ờ i
dự bị cho ông. B ạn sẽ bị gièm pha nếu t ỏa sáng và b ị chê trách nếu thất b ại. Cook đã c ố gắng lèo lái
đám đông này. ông bình tĩnh và quyềt đoán khi chỉ huy nhưng l ại không đòi h ỏi đư ợ c nhìn nh ận
hoặc ca ng ợ i. “Vài ngư ờ i bực t ức vì Steve luôn nhận đư ợ c l ờ i khen cho mọ i th ứ, nhưng tôi chưa
bao giờ đếm xỉ a đến vi ệc đó,” Cook nói. “Nói tr ắng ra, tôi thà không lên báo.”
Khi Jobs trở về sau kỳ nghỉ bệnh, Cook vẫn gi ữ vai trò là ngườ i gi ữ vững s ự phối hợ p ch ặt
ch ẽ gi ữa các b ộ phận ở Apple và duy trì thái đ ộ bình tĩnh trư ớ c những cơn th ị nh n ộ của Jobs. “Điều
tôi biết về Steve là mọi ngườ i hi ểu l ầm rằng một vài lờ i nh ận xét c ủ a ông ấ y là ng ạo mạn ho ặc tiêu
cực, nhưng th ật ra đó ch ỉ là cách ông th ể hi ện đam mê c ủa mình. Đó là cách tôi nghĩ v ề những l ờ i
nhận xét, tôi không bao g i ờ cảm th ấ y bị xúc ph ạm.” về nhiều phương di ện, ông là hình ảnh phản
chiếu của Jobs: đi ềm tĩnh, kiên đị nh và (theo như t ừ đi ển chuyên đề trong NeXT ghi nh ận) tầm
ngầm hơn lanh l ợ i. Sau này, Jobs nói “Tôi là m ột nhà đàm phán t ốt, nhưng có l ẽ Cook giỏi hơn tôi
vì ông ấ y là một khách hàng tr ầm tĩnh.” Sau khi nói thêm một vài lờ i tán dương, ông dè d ặt nh ận
xét, “Nhưng v ề bản ch ất Tim không phải là một nhà kinh doanh,” một l ờ i đánh giá hiếm hoi nhưng
nghiêm túc.
Vào mùa thu năm 2 005, tr ở về sau kỳ nghỉ bệnh, Jobs chọn Cook tr ở thành giám đốc đi ều
hành Apple. H ọ cùng bay đến Nh ật. Th ực t ế Jobs đã không đ ề nghị vớ i Cook; ông ch ỉ quay sang
Cook và nói: “Tôi quyết đị nh b ổ nhiệm ông làm Giám đốc đi ều hành (COO).” Vào thờ i đi ểm đó,
những ngườ i bạ n cũ củ a Jobs là Jon Rubinstein và Avie Tevanian, hai nhân v ật kỳ cựu về phần
cứng và phần m ềm, đượ c tuy ển dụng t ừ giai đo ạn hòi phục 1997, quy ết đị nh ra đi. Trong trườ ng
hợ p của Tevanian, ông đã ki ếm bộn tiền và sẵn sàng nghỉ vi ệc. “Avie là một ngư ờ i thông minh và
t ử t ế, nh ạ y bén hơn Ruby và không có cái tôi quá lớ n,” Jobs nói. “Alive ra đi là m ột t ổn thất kh ổng
lò đ ối vớ i chúng tôi. ông ấ y m ột ngườ i r ất đặc bi ệt - m ột thiên tài.”
Trườ ng h ợ p của Rubinstein l ại r ắ c rối hơn một chút. Ông cảm th ấ y t h ất vọng vì uy l ự c của
Cook và kiệt qu ệ sau chín năm làm việc dư ớ i quyền Jobs. Những cuộc tranh cãi c ủa họ x ả y ra
thư ờ ng xuyên hơn. Ngoài ra cũng có m ột vấn đề tr ọng y ếu khác: Rubinstein liên l ục xung đột vớ i
Jony Ive, ngư ờ i t ừng làm vi ệc dư ớ i quyề n Rubins tein nhưng hi ện nay l ại báo cáo tr ực tiếp vớ i
Jobs. Ive luôn vẽ ra nh ững m ẫu thi ết k ế bóng b ẩ y nhưng l ại khó khăn trong vi ệc ch ế t ạo. Công việ c
của Rubinstein là xây dự ng phần cứng theo m ột cách thi ết th ực, vì th ế ông thườ ng chần ch ừ. Bản
ch ất c ủa ông là t hận trọng. “Xét cho cùng, Ruby cũng đ ến t ừ HP,” Jobs nói. “Và ông ấ y không bao
gi ờ đào sâu v ấn đề, không xông xáo.”
Chẳng h ạn trong trườ ng h ợ p nh ững chiếc đinh ốc giữ tay c ầm trên máy Power Mac G4. Ive
quyết đị nh chúng sẽ có đượ c gọt giũa và đánh bóng. Nhưng Rubinstein cho r ằng việc đó sẽ
“ngốn”nhiều tiền và trì hoãn dự án vài tuần, vì th ế ông bác b ỏ ý tư ở ng này. Công việc của ông là
giao sản ph ẩm, nghĩa là tiến hành giao dị ch. Ive xem lối suy nghĩ đó là k ẻ thù c ủa sự s áng t ạo, vì
th ế Ive quyết đị nh vượ t qu a Rubinstein đ ến gặp Jobs và các kỹ sư c ấp trung sau lưng Rubinstein.
“Ruby sẽ nói, ‘Anh không th ể làm vậ y, nó s ẽ khiế n dự án bị trì hoãn,’ còn tôi nói, Tôi nghĩ chúng
ta làm đư ợ c,’” Ive nhớ l ại. “Và tôi bi ết điều đó, vì tôi đã làm việc cùng vớ i nhóm s ản xuất sau lưng
ông ấ y.” Trong trườ ng h ợ p này và cả những trườ ng h ợ p khác, Jobs đã đ ứng v ề phía Ive.
Đôi khi Ive và Rubinstein tham gia vào nh ững cuộc tranh lu ận quá mứ c kị ch li ệt. Cu ối
cùng Ive nói v ớ i Jobs, “Ho ặc ông ấ y ho ặ c tôi.” Jobs ch ọn Ive. Khi đó Rubinstein đã sẵn sàng ra đi.
ông và vợ đã mua khu đấ t t ại Mexico và ông muốn có th ờ i gian ngh ỉ ngơi đ ể xây dựng một ngôi
nhà ở đó. Cu ối cùng ông chuy ể n sang làm việ c cho Palm, m ột s ản ph ấm cố gắng c ạnh tranh vớ i
iPhone c ủa Apple. Jobs rất t ức gi ận vì Palm đã thuê vài c ựu nhân viên củ a ông, ông than phi ền
cùng Bono, m ột nhà đồng s áng l ậ p của m ột qu ỹ đ ầu tư vốn cổ phần tư nhân, do c ựu giám đốc tài
chính Apple, Fred Anderson, đi ều hành. Bono s ở hữu m ột khoản tiền vốn kiểm soát ở Palm. Bono
gửi một lá thư lại cho Jobs nói, “ông nên ph ớ t l ờ chuy ện này đi. Ch ẳng khác nào nhóm Beatles làm
ầm lên vì Herman và nhóm Hermits đã lấ y đi m ột trong nh ững ngư ờ i ph ụ trách thi ết bị nhạc của
họ. về sau, Jobs th ừa nh ận mình đã phản ứng thái quá. “S ự th ất bại hoàn toàn của họ đã xoa dị u vết
thương đó.” ông nói.
Jobs có thể xây dựng mộ t đội ngũ quản lý m ớ i ít b ất đồng hơn và nhã nh ặn hơn. Những
nhân v ật chính c ủa nhóm, ngo ại trừ Cook và Ive; còn có Scott Forstall vận hành ph ần mềm iPhone;
Phil Schiller đ ảm trách marketing; Bob Mansfield thực hi ện ph ần cứng máy Mac; Eddy Cue qu ản
lý các dị ch v ụ Interet và Peter Oppenheimer v ớ i vai trò giám đố c tài chính. M ặc dù có m ột đi ểm
chung nổi bật trong nhóm c ấp cao c ủa ông - t ất c ả đều là nh ững ngư ờ i da tr ắng trung niên - nhưng
m ỗi ngườ i l ại có m ột phong cách khác nhau. Ive thiên về cảm xúc và biểu cảm; Cook điềm tĩnh,
l ạnh lùng. Họ đều bi ết r ằ ng mình ph ải tôn tr ọng Jobs nhưng v ẫn ph ải tranh lu ận về những ý tư ở ng
của ông, th ậm chí s ẵn sàng cãi vã - m ột trạng thái cân bằng khó duy trì, nhưng m ỗi ngườ i đều làm
t ốt. “Tôi đã nhận ra từ rất s ớ m rằng n ếu bạn không bày tỏ ý ki ến, Jobs sẽ hạ gục bạn,” Cook nói.
“ông dùng những ý ki ến trái ngư ợ c nh ằm tạo ra nhiều cu ộc th ảo lu ận, vì nó s ẽ dẫn đến kết qu ả t ốt
hơn. Vì thế, nếu bạn cảm th ấ y không tho ải mái khi có suy nghĩ bất đồng, bạn sẽ không th ể s ống
sót.”
Dị p ch ủ yế u để trao đổi t ự do là vào m ỗi bu ổi nhóm h ọp sáng th ứ hai c ủ a ban lãnh đ ạo, bắt
đầu vào lúc chín gi ờ và kéo dài kho ảng ba hay b ố n tiếng đồng h ồ. Ch ủ đề t ập trung luôn là tương
lai: M ỗi s ản ph ẩm nên làm gì tiếp theo? Nên phát tri ển sản ph ẩm m ớ i nào? Jobs sử dụng buổi họp
để củng c ố ý th ức chia s ẻ trách nhi ệm tại Apple. Đi ều này phục vụ vi ệc t ập trung ki ểm soát, nhằm
giúp công ty k ết hợ p ch ặt ch ẽ gi ống như m ột s ản ph ẩm tốt c ủa Apple, đồng thờ i ngăn chặn nh ững
cu ộc đấu tranh gi ữa các b ộ phận đòi h ỏi phân quyề n thành công ty con.
Jobs cũng s ử dụng những buổi họp để củng c ố tinh th ần tập th ể. ở nông tr ại c ủa Robert
Friedland, công việc của Jobs là cắt gọt nh ững cây táo đ ể chúng luôn kh ỏe m ạnh, t ại Apple, ông
cũng t ỉ a tót công ty như th ế. Thay vì đ ộng viên từ ng nhóm để tăng thêm dòng s ản ph ẩm dựa trên
những cân nh ắ c về ti ếp th ị , ho ặc cho phép phát triển m ột ngàn ý tưở ng, Jobs l ại nh ấn m ạnh r ằng
Apple chỉ t ập trung vào hai hoặc ba sản ph ẩm ưu tiên trong một lúc. “Không ai gi ỏi hơn ông ấ y
trong việ c dẹp bỏ m ọi nhi ễu loạn xung quanh,” Cook nói. “Đi ều này giúp ông ấ y t ập trung vào một
s ố th ứ quan tr ọng và đoạ n tuyệt vớ i quá nhi ều th ứ dư thừa. R ất ít ngư ờ i th ậ t s ự gi ỏi về m ặt này.”
Để th ể ch ế hóa nh ững bài học mà ông và nhóm củ a ông đang lĩnh h ội, Jobs m ở m ột trung
tâm nội bộ gọi là Trư ờ ng đ ại học Apple. Ông thuê Joel Podolny, chủ nghi ệ m khoa của trư ờ ng
Quản lý thuộc Đại họ c Yale, biên so ạn một loạt tình hu ống phân tích nh ững quy ết đị nh quan tr ọng
của công ty, bao gồm vi ệ c chuy ển sang dùng b ộ vi x ử lý c ủ a Intel và quy ế t đị nh mở chuỗi nh ững
cửa hàng Apple. Những nhà đi ều hành cấp cao s ẽ dành th ờ i gian đ ể d ạ y các tình huống này cho
nhân viên m ớ i, vì th ế phong cách ra quy ết đị nh c ủa Apple s ẽ thâm nhập vào văn hóa.
Ở Rome cổ đại, khi một vị tư ớ ng khải hoàn tr ở v ề và di ễu hành trên đư ờ ng phố, vị anh
hùng k ể rằng đôi khi phả i có m ột ngườ i hầu chuyên theo sát ông ch ỉ để nhắ c nh ở , “Memento
morỉ ’: Hãy nh ớ ngài sẽ ch ết. M ột l ờ i nh ắc về cái chết s ẽ giúp ngư ờ i anh hùng luôn nhìn xa trông
rộng và b ồi đắp tính khiêm t ốn. L ờ i nh ắc memento mori của Jobs do các bác s ỹ của ông đ ảm nhận,
nhưng nó không bồi đắp tính khiêm t ốn trong ông. Thay vào đó, sau khi ph ục hòi ông tr ở v ề vớ i
ni ềm đam mê mạnh m ẽ hơn. B ệnh tật nh ắ c nh ở rằng ông ch ẳng có gì đ ể m ất, vì th ế ông nên ti ến lên
hết t ốc l ực. “ông ấ y trở v ề vớ i m ột quyết tâm cháy b ỏng,” Cook nói. “Mặ c dù hi ện đang đi ều hành
m ột công ty l ớ n, ông ấ y vẫn tiếp t ục thực hiện nh ữ ng bướ c đi táo b ạo mà tôi nghĩ chưa ai t ừng th ự c
hi ện.”
Có một dạo, có vài bằng chứng, hay ít nhất là hy vọng, cho th ấ y tính cách của ông đã dị u
bớ t, đối m ặt vớ i ung thư và bướ c sang tu ổi năm mươi khiến ông b ớ t tàn b ạ o m ỗi khi th ất vọng.
“Sau khi trở về t ừ ca phẫ u thuật, ông ấ y không còn s ỉ nhục ngườ i khác nhi ề u như trư ớ c,” Tevanian
nhớ l ại. “N ếu ông ấ y khó chị u, ông có th ể hét lên, n ổi cơn tam bành và l ớ n tiếng khích bác, nhưng
cách th ức củ a ông ấ y không còn khiến ngườ i nghe suy s ụp hoàn toàn. Đó chỉ là cách riêng c ủa Jobs
để giúp ngư ờ i đó làm vi ệ c t ốt hơn.” Khi Tevanian kể đi ều này, ông ngẫm nghĩ m ột lúc, r ồi nói
thêm: “Tr ừ khi ông ấ y nghĩ rằng có ngư ờ i th ật s ự t ệ hại và cần ph ải ra đi, đi ều này thỉ nh tho ảng
cũng di ễn ra.”
Tuy nhiên, cuối cùng, nh ững cơn th ị nh n ộ cũng tr ở l ại. Vì h ầu hết các c ộng s ự của ông đã
quen v ớ i điều này và đã học đư ợ c cách ứng phó, nhưng đi ều khi ến họ th ất vọ ng nhất là khi s ự gi ận
dữ của ông l ại đổ lên đ ầu ngườ i xa lạ. “Có l ần chúng tôi vào siêu thị Whole Food để mua một ly
sinh tố,” Ive nh ớ l ại. “M ột ph ụ nữ đứng tuổi đang pha ch ế món đò uống đó, Jobs th ật s ự khó ch ị u
vớ i cách bà cụ làm vi ệc. Sau đó, ông lại t ỏ vẻ thông c ảm. ‘Bà ấ y đã già và không mu ốn làm công
vi ệc này.’ ông nhìn nh ận vấn đề theo hai cách hoàn toàn tách biệt. C ả hai trư ờ ng h ợ p ông đều theo
ch ủ nghĩa thu ần túy.”
Trong một chuy ế n đi Luân Đôn cùng Jobs, Ive nh ậ n lãnh một nhi ệm vụ nhạt nh ẽo đó là tìm
khách s ạn. ông ch ọn Hempel, một khách s ạn năm sao ki ểu boutique yên tĩnh vớ i nh ững chi tiết tinh
t ế mà ông nghĩ Jobs sẽ thích. Nhưng ngay khi họ đăng ký phòng, Ive li ền chuẩn bị tinh th ần và
ch ắc ch ắn đi ện thoại c ủa mình sẽ reo sau m ột phút. “Tôi ghét căn phòng này,” Jobs tuyên b ố. “Nó
th ật ghê t ở m, đi thôi.” Th ế là Ive ph ải thu d ọn hành lý và đ ến qu ầ y tiếp tân, nhân viên ở đây đang
choáng váng vì những nhận xét thẳng thừng c ủ a Jobs. Ive nh ận th ấ y hầu hết m ọi ngườ i, bao g ồm
bản thân ông, không có xu hư ớ ng tr ự c tiếp phê bình một th ứ kém ch ất lư ợ ng vì h ọ luôn mu ốn
ngư ờ i khác yêu quý mình, “đó thật s ự là m ột đặc đi ểm phù phiếm.” Đó là m ột l ờ i gi ải thích thái
quá. Nhưng Jobs chưa bao gi ờ có đ ặ c đi ểm này.
Vì b ản ch ất Ive r ất t ử t ế, ông c ảm th ấ y khó hiểu tạ i sao Jobs, ngư ờ i mà ông rất yêu quý, l ại
cư x ử như th ế. M ột đêm n ọ, trong m ột quán rư ợ u ở San Francisco, ông ng ả ngư ờ i v ề phía trướ c vớ i
m ột thá i độ nghiêm chỉ nh và c ố gắng phân tích đi ều này:
Ông ấ y là một ngườ i r ất, rất nh ạ y cảm. Đó là một trong nh ững nguyên nhân khi ến cách cư
x ử phản xã hội, tính thô l ỗ của Jobs lại thái quá như th ế. Tôi có thể hi ểu tại sao những ngư ờ i m ặt
dày và vô cảm cư xử t hô lỗ, nhưng v ớ i ngườ i nh ạ y cảm thì không. Một l ần tôi hỏi ông ấ y t ại sao l ại
hay giận dữ. Ông đáp, “Nhưng tôi gi ận xong ròi thôi.” Như một đ ứa trẻ, ông có thể nổi giận thật s ự
nhưng không đ ể tâm. Nhưng có đôi l ần, tôi thật s ự nghĩ rằng khi quá n ản lòng, ông ấ y sẽ t ự xoa dị u
mình b ằng cách làm tổn thương ngườ i khác. Tôi nghĩ Jobs cảm th ấ y ông có quyền tự do và đượ c
phép làm vậ y. Ông cảm th ấ y nh ững luật l ệ thông thư ờ ng c ủ a giao tiếp xã hội không áp d ụng cho
mình. Bằng s ự nhạ y cảm của mình, ông bi ết rõ làm thế nào để làm tổn thương ai đó m ột cách hữu
hi ệu và th ực t ế. Th ế là ông tiến hành.
Thỉ nh thoảng m ột c ộng s ự thông thái s ẽ kéo Jobs đến nơi khác và c ố gắng giúp ông hạ hỏa.
Lee Clow là bậc th ầ y trong vi ệ c này. “Steve, tôi nói chuy ệ n vớ i ông đư ợ c không?” ông s ẽ nói kh ẽ
khi Jobs đang công khai m ạt sát ai đó. Ông ấ y sẽ vào văn phòng Jobs và k ể rằng mọi ngườ i làm
vi ệc vất vả như th ế nào. Trong cu ộc gặp như thế Clow thư ờ ng nói, “Làm họ bẽ m ặt, ch ỉ khiến họ
đuối s ức hơn mà không giúp ích đượ c gì.” Jobs xin lỗi và nói mình đã hiểu rõ. Nhưng rồi ông s ẽ l ại
quên khu ấ y. Chắc ch ắn ông s ẽ nói “Tôi là vậ y đấ y.”
Tuy nhiên thái độ của ông đ ối vớ i Bill Gates th ật s ự tr ở nên ôn hòa. Microsoft v ẫn gi ữ
nguyên ý ki ến về vụ giao dị ch do h ọ khở i xư ớ ng vào năm 1997, khi họ đồng ý ti ếp tục phát tri ển
phần m ền vĩ đại cho Macintosh. H ọ tr ở thành đ ối th ủ ít x ứng t ầm hơn vì đã thất bại trong vi ệc mô
phỏng chiến lư ợ c trung tâm kỹ thu ật s ố của Apple. Gates và Jobs có cái nhìn rất khác nhau v ề s ản
phẩm và tính sáng t ạo, nhưng sự kình đ ị ch c ủa họ l ại t ạo nên những s ự t ự nhận th ức đáng ngạc
nhiên.
Trong hội thảo All Things Digital vào th áng năm năm 2007, hai nhà phụ trách chuyên mục
của t ờ Wall Street Journal là Walt Mossberg và Kara Swisher đã cố gắng mờ i họ tham gia m ột
cu ộc ph ỏng v ấn chung. Đ ầu tiên Mossberg mờ i Jobs, ngư ờ i vốn không hay tham gia vào các cuộc
gặp gỡ như th ế, và r ất ng ạ c nhiên khi ông nói mình sẽ tham gia nếu Gates tham gia. Khi nghe thông
tin đó, Gates cũng đồng ý.
Mossberg muốn sự xuất hi ện của họ ch ỉ là m ột cu ộc th ảo lu ận chân thành, không ph ải m ột
cu ộc tranh lu ận, nhưng đi ều này có vẻ khó di ễn ra khi Jobs v ừa gi áng m ột cú vào Microsoft trong
buổi ph ỏng v ấn riêng trướ c đó trong cùng ngày. Khi đư ợ c hỏi về vấn đề phần m ềm iTunes của
Apple dành cho các máy vi tính Windows là vô cùng ph ổ bi ến, Jobs đã ví von, “Cũng như t ặng m ột
ly nướ c đá cho ngườ i ở đ ị a ng ụ c thôi.”
Vì thế, đến khi Gates và Jobs g ặp nhau trong căn phòng xanh trướ c khi buổi ph ỏng v ấn
chung t ối hôm đó, Mossberg r ất lo l ắng. Gates đến trư ớ c, cùng v ớ i ph ụ tá Larry Cohen, ngư ờ i vừa
tóm tắt cho ông v ề nhận xét trướ c đó của Jobs. Vài phút sau, khi Jobs ung dung đ ến, ông lấ y m ột
chai nư ớ c trong thùng đá và ng ồi xu ống. Sau vài giây im lặng, Gates nói, “Tôi đoán ch ắc mình là
đại di ện đến từ đị a ng ục.” Gates không hề cư ờ i. Jobs hơi s ững l ại, nở m ột nụ cư ờ i bí hi ểm và trao
cho Gates chai nướ c. Gates d ị u lại và tình trạng căng thẳng tiêu tan.
Cuối cùng cu ộc gặp gỡ đã di ễn ra lôi cu ốn. Ban đầ u, hai thiên tài của kỷ nguyên k ỹ thuật s ố
th ận trọng nói chuy ệ n về ngư ờ i còn l ại, d ần dần họ chuy ể n sang trao đổi m ột cách thân tình. Câu
tr ả l ờ i th ẳng thắn đáng nhớ nhất là khi chiến lư ợ c gia k ỹ thuật Lise Buyer, ngồi trong hàng gh ế
khán gi ả, hỏi r ằng h ọ đã h ọc đư ợ c gì khi quan sát đối phương, “ ồ, tôi đã phải c ố gắng nhi ều đế có
đượ c khi ếu th ẩm m ỹ như Steve,” Gates trả l ờ i. Vài tiếng cườ i vang lên; mư ờ i năm trư ớ c Jobs đã
t ừng nói m ột câu n ổi tiếng, r ằng theo ông, v ấn đề của Microsoft là họ không có chút khiếu th ẩm
m ỹ nào cả. Nhưng Gates khẳng đ ị nh mình r ất nghiêm túc. Jobs s ở hữu “tr ực giác th ẩm m ỹ b ẩm
sinh.” ông nhớ l ại vi ệ c mình và Jobs t ừng ngồi l ại xem xét v ề phần m ềm mà Microsoft đang ch ế
t ạo cho Macintosh. “Tôi bi ết Steve ra quy ế t đị nh d ựa trên trực giác về con ngườ i và sản ph ẩm, bạn
bi ết đ ấ y, tôi khó lòng gi ải thích đư ợ c chúng. Cách m à ông ấ y ch ế t ạo sản ph ẩm thật khác bi ệt và tôi
nghĩ nó thật kỳ di ệu. Và b ạn th ấ y đó, thật đáng ngạc nhiên.”
Jobs nhìn ch ằm ch ằm xuống n ền nhà. Sau này, ông kể vớ i tôi rằng minh đã bị hạ gục bở i s ự
chân thành và lị ch thiệp của Gates. Đến lư ợ t mình, Jobs cũng đáp lại m ột cách chân thành, dù
không nhã nhặn bằng. Ông mô tả s ự phân hóa vĩ đại gi ữ a lý thuy ết xây d ự ng những s ản ph ẩm
tương thích end- to -end (theo chiều dọc) củ a Apple và đ ặc tính công khai c ủ a Microsoft trong vi ệ c
như ợ ng quy ề n ph ần m ềm của họ cho những nhà sả n xu ất ph ần cứng c ạnh tranh, ông giải thích,
trong thị trườ ng âm nh ạ c, phương pháp k ết hợ p, gi ống như gói iTunes iPod của ông, đã đư ợ c
ch ứng minh là vư ợ t trội, nhưng phương pháp tách riêng c ủa Microsoft lại ưu vi ệt hơn trong th ị
trườ ng máy vi tí nh cá nhân. M ột câu h ỏi c ủa ông chợ t nả y ra là: Cách ti ếp cận nào s ẽ t ốt hơn cho
đi ện thoại di động?
Sau đó ông tiếp tục bày t ỏ m ột đánh giá sâu sắc: ông nói s ự khác bi ệt trong tri ết lý thi ết kế,
đã h ạn ch ế khả năng c ộng tác của ông và Apple v ớ i nh ững công ty khác. “Vì Woz và tôi đều tự
thân v ận động khi thành l ập công ty, nên chúng tôi không giỏi trong vi ệc ph ối hợ p vớ i ngườ i
khác,” ông nói. “Và tôi nghĩ n ếu Apple có thể s ở h ữu thêm m ột ph ần đặc đi ểm đó trong DNA củ a
công ty, nó sẽ giúp ích cho công ty r ất nhiều.”
Chú thích:
(34) Phẫu thuật Whipple: Ph ẫu thu ật c ắt kh ối tá-tu ỵ, đư ợ c xem là ph ẫu thuật tiêu chu ẩn đối
vớ i ung thư đ ầu tu ỵ. Nội dung củ a ph ẫu thuật Whipple bao g ồm cắt bỏ đầu tu ỵ, tá tràng D1-D4,
hang v ị , đo ạn cu ối ống mật ch ủ, các hạ ch lân cận.
Chương 36: iPHONE
Sự kết hợp của ba dòng s ản ph ẩm mang tính đ ột phá trong m ột thi ết bị
Một chi ếc iPod có th ể đàm thoại
Trướ c năm 2005 m ức tiêu thụ iPod tăng v ọt. Hai tri ệu chi ếc iPod, m ột con s ố đáng kinh
ngạ c, đư ợ c bán ra th ị trườ ng trong năm đó, g ấp 4 l ần so vớ i năm trư ớ c. S ự ra đ ờ i c ủa iPod đóng
m ột vai trò quan trọng đ ối vớ i mục tiêu c ủa công ty, doanh số bán ra chiếm khoảng 45% l ợ i nhuận
của năm, và m ột l ần nữ a, sự ra đ ờ i c ủa nó cũng giúp đánh bóng thêm hình ảnh côn g ty và kh ẳng
đị nh v ị th ế của Apple trên th ị trườ ng giống như dòng máy Mac.
Nhưng đi ều đó lại khi ến Jobs lo lắng. “Ông luôn bị ám ảnh v ề những điều khiến chúng tôi
phân tâm” Art Levison, một thành viên trong ban quản trị nhớ l ại. Steve k ết lu ận rằng: “Thiết bị
mà chúng ta phải t ập trung cao độ chính là điện thoại di động”. Khi ông giải trình vớ i ban quan tr ị ,
th ị trườ ng máy quay k ỹ thuật s ố lúc b ấ y giờ đang b ị cạnh tranh b ở i nh ững chiếc điện thoại có trang
bị máy quay. iPod cũng vậ y, nếu các nhà sản xu ất đi ện thoại bắt đầu cài đ ặt ph ần m ềm nghe nhạ c,
m ọi ngườ i “có th ể mang điện thoại theo, và đ ổi l ại iPod sẽ không cần thi ết nữa.”
Chiến dị ch đ ầu tiên c ủa ông là thự c hi ện đi ều ông đã công nh ận trư ớ c m ặt Bill Gates rằng
có m ột th ứ không nằm trong DNA củ a mình: đó chính là liên minh với m ột công ty khác. Ông b ắt
đầu nói v ớ i Ed Zander, CEO mớ i c ủa Motorola, về vi ệc cộng tác vớ i dòng Razr n ổi tiếng c ủa
Motorola, chiếc điện tho ạ i di d ộng v ớ i máy quay kỹ thuật s ố, mà iPod nên học t ập. Vì th ế ROKR ra
đờ i. Nó gây ra sự “diệt vong” đ ối v ớ i tính g ọn nh ẹ của iPod cũng như s ự thanh mảnh thuận tiện của
Razr. Xấu xí, khó tải nh ạc và hạn ch ế s ố lư ợ ng bài hát lưu trữ ch ỉ khoảng 100 bài,
ROKR có tất c ả những đ ặc tính c ủa m ột s ản ph ẩm “ngo ại giao”, nó trái ngư ợ c hoàn toàn
vớ i pho ng cách làm vi ệ c của Jobs. Thay vì c ả phần cứng, phần mềm và nội dung đã đư ợ c kiểm soát
bở i m ột công ty, thì ROKR là “món l ẩu th ập cẩm” c ủa cả Motorola lẫn Apple và nhà mạng không
dây Cingular. “Đây là chiếc điện tho ại c ủa tương lai ư?” Wired đã chế gi ễu về ROKR trên trang bìa
của t ạp chí này số ra th áng 11 năm 2005.
Jobs vô cùng t ức gi ận. “Tôi phát ốm khi phải c ộng tác vớ i nh ững công ty ‘ng ớ ngẩn’ như
Motorola”, ông nói vớ i Tony Fadell và nh ững thành viên khác t ại một bu ổi họp đánh giá s ản ph ẩm
iPod. “Hãy t ự làm lấ y.” Ông đã chú ý đến vài chi tiết th ừa của nh ững chiế c đi ện thoại di động tràn
lan trên thị trườ ng: Chúng đ ều nhàm chán , gi ống như những chiếc máy nghe nh ạc cầm tay trướ c
đây. “Chúng ta s ẽ phải ng ồi l ại và nói xem chúng ta ghét nh ững chiếc đi ện thoại c ủa chúng ta đ ến
m ức nào,” ông nh ớ l ại.
“Chúng quá phứ c t ạp. Chúng có những đ ặc đi ểm mà không ai hi ểu nổi, kể cả danh b ạ. Đó
chính là Byzantine.” George Riley, một lu ật sư đư ợ c Apple thuê ngoài, nhớ l ại nh ững l ần họp
thông qua các vấn đề liên quan đ ến luật pháp của công ty, lúc đó Jobs th ấ y chán nản, ch ộp l ấ y điện
thoại c ủa Riley, và bắt đầ u ra sứ c ch ứng minh nó ch ỉ là “ đồ bỏ đi”. Jobs và các c ộng s ự của mình
bắt đầu thích thú vớ i vi ễn cảnh t ạo ra m ột chi ếc đi ện thoại mà h ọ muốn sử dụng. “Đó là động l ực
thúc đ ẩ y tuyệ t vờ i”, sau này Jobs đã chia sẻ.
M ột động l ực nữ a đó chính là thị trườ ng ti ềm năng. Hơn 825 triệu đi ện thoại di động đã
đượ c bán ra th ị trườ ng trong năm 2005, cho tất c ả m ọi ngườ i, từ những h ọc sinh còn c ắp sách tớ i
trườ ng đ ến các c ụ già. Bở i vì hầu hết các dòng điện thoại này là s ản ph ẩm “bình dân”, nên vẫn có
ch ỗ cho nh ững dòng s ản ph ẩm cao cấp và sang trọ ng, giống h ệt như thị tr ườ ng giành cho dòng máy
nghe nhạc cầm tay. Đầu tiên ông đ ề xuất dự án này cho nhóm nghiên cứu của Apple nhằm tạo ra
thiết bị ngoại vi ngu ồn không dây (AirPort) dựa trên lý thuyết r ằng nó là một s ản ph ẩm không dây.
Nhưng ông sớ m nhận ra rằng nó cơ bản là m ột thi ết bị giành cho ngư ờ i dùng, gi ống như iPod, vì
th ế ông truyề n lại ý tưở ng đó cho Fadell và các cộ ng s ự của mình.
M ục tiêu đ ầu tiên c ủa họ đó là nâng c ấp chi ếc iPod. H ọ đã c ố gắng s ử dụng bánh xe cuốn
như m ột cách giúp ngườ i s ử dụng cuộn lên xuống đ ể chọn nh ững chức năng trong điện thoại mà
không cần bàn phím. Nó không phải là s ự đi ều ch ỉ nh t ự nhiên. “Chúng tôi đang gặp rất nhi ều rắ c
rối v ớ i việc sử dụng bánh xe cuốn, đặc biệt trong vi ệc thực hiện cu ộc gọi,” Fadell nh ớ l ại. “Th ực sự
bế t ắc”. Việc cu ộn qua danh b ạ thì không v ấn đề gì, nhưng nhập thông tin thì qu ả th ực kh ủng
khiếp. C ả nhóm vẫn cố t ự thuy ết ph ụ c rằng ngư ờ i dùng ch ủ yế u ch ỉ gọi nh ững ngư ờ i đã lưu s ẵn
trong danh bạ, nhưng h ọ bi ết r ằng điều đó th ực sự không đúng .
Cũng vào lúc đó có m ột dự án th ứ hai đang đư ợ c tiến hành ở Apple: m ột nỗ l ực bí m ật
nhằm tạo ra dòng máy tính bảng. Vào năm 2005 nh ững dự án này bắt đầu đư ợ c tách riêng, và
những ý tư ở ng cho chiếc máy tính b ảng cũng thúc đ ẩ y kế hoạch t ạo ra dòng đi ện thoại như ý. Hay
nói cách khác, ý tư ở ng cho iPad th ực sự đã xuất hiện t ừ trướ c đó, giúp đ ị nh hình và thai nghén cho
s ự ra đ ờ i c ủa chi ếc iPhone.
Công nghệ cảm ứng đa điểm
M ột trong nh ững k ỹ sư phát triển máy tính bảng c ầm tay tại Microsoft đã cư ớ i m ột ngườ i
bạn của Laurene và Steve Jobs. L ần sinh nh ật th ứ năm mươi, ông mu ốn tổ ch ức m ột bữa tiệ c nh ỏ
có m ờ i vợ chòng Jobs cùng vợ ch ồng Bill và Melinda Gates. Jobs có chút khiên cưỡ ng nhưng v ẫn
tham d ự. “Steve khá thân thiện vớ i tôi trong b ữa tiệc đó.” Gates nhớ l ại, nhưng ông “không đặc
bi ệt thâ n thi ện” v ớ i ngườ i t ố ch ức sinh nh ật.
Gates khó chị u khi gã k ỹ sư không ng ừng ti ết l ộ thông tin v ề chiếc máy tính b ảng c ầm tay
mà ông đang phát triển cho Microsoft. “H ắn là nhân viên của chúng tôi, và h ắn lại đang rêu rao về
tài s ản trí tu ệ của chúng tôi,” Gates thu ật l ại. Jobs cũng đã r ất bực mình và h ậu qu ả sau này giống
y như nh ững gì mà Gates lo s ợ trướ c đây. Jobs nh ớ l ại:
Gã k ỹ sư này cứ bám lấ y tôi và không ng ớ t l ờ i v ề vi ệc làm thế nào Microsoft thay đổi c ả th ế
gi ớ i b ằng phần mềm máy tính bảng c ầm tay và đánh bật t ất c ả những máy tính sổ tay: và Apple nên
cấp phép cho ph ần mềm Microsoft của hắn. Nhưng hắn đang sa vào vũng l ầ y. Chiếc máy tính b ảng
này có m ột cái bút, mà khi đi kèm cây bút đó, nó chỉ là đò b ỏ đi. Tính đ ến bu ổi tiệc hôm nay thì hắn
đã nói chuy ệ n đó vớ i tôi đ ến lần th ứ mườ i r ồi, và tôi thực sự chán ngấ y đến nỗi về đến nhà tôi vẫn
bực mình: “Ch ết tiệt, rồi hắn sẽ bi ết m ột chi ếc máy tính b ảng thực sự là như th ế nào.
Jobs đ ến văn phòng ngày hôm sau, tập hợ p nhóm nghiên c ứu và nói: “Tôi muốn t ạo ra mộ t
chiếc máy tính b ảng mà không c ần bàn phím hay là một cây bút nào.” Ngư ờ i dùng có th ể gõ b ằng
cách s ử dụng các đầu ngón tay chạm vào màn hình. Đi ều đó có nghĩa r ằng màn hình c ần có đặc
tính đư ợ c bi ết đến như công nghệ cảm ứng đa điể m, khả năng x ử lý nhi ều đầu vào cùng một lúc.
“Các anh có th ể t ạo ra m ột màn hình c ảm ứng đa điểm cho tôi hay không?” ông hỏi. H ọ đã m ất
khoảng sáu th áng để đưa ra m ột s ản ph ẩm thô nhưng hoàn toàn khả thi.
Jony Ive có m ột cách nghĩ khác về vi ệ c phát tri ển công nghệ c ảm ứng đa điểm, ông ta nói
rằng nhóm thi ết kế đã từ ng làm vi ệ c dựa trên đầu vào c ảm ứng đa điểm, công ngh ệ phát tri ển con
chuột xúc giác cho dòng máy MacBook Pro của Apple. Và h ọ đang th ử nghi ệm theo hướ ng
chuy ể n giao công nghệ này sang màn hình máy tính. H ọ đã s ử dụng một máy chi ếu để xem nó s ẽ
như th ế nào. “Điều này s ẽ thay đ ổi m ọi th ứ,” Ive nói v ớ i nhóm nghiên c ứu. Nhưng ông vẫn c ẩn
tr ọng chưa v ội nói Jobs ngay, đặc bi ệt khi những nhân viên c ủa ông đang làm việc cật l ực kể cả
th ờ i gian ngh ỉ ngơi và ông không muốn dập tắt nhi ệt huyết c ủa họ. “B ở i Steve quá nóng v ội khi
đưa ra ý kiến, tôi không muốn cho ông xem chúng trư ớ c m ặt nh ững ngư ờ i khác. Ive nh ớ l ại. “ông
có th ể s ẽ nói, ‘Chết tiệt’ và đ ập tan m ọi nhi ệt huyết. Tôi thấ y nh ững ý tư ở ng này rất mong manh,
bạn ph ải nâng niu phát triển chúng. Tôi nhận ra rằ ng n ếu ông bác b ỏ ý tư ở ng này, th ự c sự s ẽ rất
buồn vì tôi bi ết nó rất quan tr ọng.”
Ive đã trình chiếu kín đáo nh ững ý tư ở ng này trong phòng h ọp vớ i riêng Jobs, vì bi ết r ằng
ông sẽ bớ t phàn nàn đôi chút n ếu không có ai xung quanh. Th ật may là ông thích nó. “Tương lai là
đây,” ông háo hứ c.
Đó thực sự là m ột ý tưở ng tuy ệt vờ i mà Jobs đ ã nh ận ra rằng nó có thể gi ải quyết đư ợ c
những v ấn đề mà h ọ đang g ặp ph ải trong vi ệc sáng t ạo giao diện cho chi ế c điện tho ại tương lai. Dự
Ấn này vô cùng quan tr ọ ng, do đó ông t ạm dừng việc phát tri ển máy tính b ả ng trong khi giao di ện
cảm ứng đa điểm đượ c dùng cho màn hình đi ện thoại. “N ếu nó ch ạ y t ốt trên một chi ếc điện thoại,”
ông nh ớ l ại, “tôi bi ết chúng tôi có th ể quay tr ở l ại và sử dụng giao di ện này cho chiếc máy tính
bảng.”
Jobs đã g ọi Fadell, Rubinstein và Schiller t ớ i m ột cu ộc họp bí m ật trong phòn g họp thi ết
kế, nơi Ive đã trình chiếu ý tưở ng v ề công ngh ệ c ả m ứng đa điểm, “ôi!” Fadell th ốt lên. Mọi ngườ i
đều thích nó, nhưng h ọ không ch ắc rằng có thể khiến nó hoạt động trên đi ệ n thoại. H ọ quyết đị nh
ti ến hành trên hai phần: Phần m ột là tên mã cho đi ện thoại đư ợ c phát tri ển dựa trên bánh xe cuốn
của iPod, và phần hai là m ột l ựa ch ọn m ớ i s ử dụng màn hình c ảm ứng đa điểm.
M ột công ty nh ỏ ở Delaware có tên là FingerWorks đang t ạo ra hàng lo ạt nh ững bàn xúc
giác cảm ứng đa điểm. Đượ c thành lập bở i hai giáo sư ở trườ ng đ ại học Delaware, John Elias và
Wayne Westerman, FingerWorks đã phát triển m ộ t s ố máy tính bảng v ớ i kh ả năng c ảm ứng đa
đi ểm và đưa ra nh ững s áng ch ế để đọc đư ợ c các c ử động khác nhau c ủ a ngón tay, ví dụ như gạt và
nhấn vào các ch ức năng hữu ích. Đ ầu năm 2005, Apple lặng l ẽ mua lại công ty này, t ất c ả những
s áng ch ế, và nh ững d ị ch v ụ của hai thành viên s áng l ập. FingerWorks l ập tức ng ừng việc bán s ản
phẩm của nó cho nh ững hãng khác, và b ắt đầu đóng mác nh ững s ản ph ẩm m ớ i mang tên Apple.
Sau sá u th áng làm vi ệc vớ i bánh xe cuốn trong phần m ột và công ngh ệ cả m ứng đa điểm
trong ph ầ n hai, Jobs gọi nhóm c ộng s ự thân c ận tớ i phòng h ọp để đưa ra quyết đị nh. Fadell v ẫn
đang c ố gắng h ết s ức để phát tri ển mô hình bánh xe cuốn, nhưng ông thừ a nh ận rằng h ọ không th ể
gi ải quyết vấn đề: tìm ra cách đơn gi ản để th ực hi ệ n cu ộc gọi. Trong khi đó vi ệc tiếp cận cảm ứng
đa đi ểm mang nhiều rủi ro hơn, họ không dám ch ắ c rằng có thể th ực hi ện đư ợ c thi ết kế này hay
không, nhưng nó rất thú v ị và h ứa hẹn. “Chúng ta đ ều bi ết đó là đi ều duy nhấ t chúng ta mu ốn làm,”
Jobs nói, ch ỉ vào màn hình cảm ứng. “Hãy khiến nó có hi ệu qu ả.” Đó là giây phút mà ông đã đ ặt
cư ợ c, càng m ạo hi ểm thì giải thư ở ng càng cao n ếu thành công.
M ột c ặp thành viên trong nhóm nghiên cứu tranh lu ận về vi ệc liệu thi ết bị m ớ i có nên có
bàn phím, m ột bộ phận đã tạo ra sự nổi tiếng cho dòng BlackBerry, hay không, nhưng Jobs đã bác
bỏ ý tư ở ng đó. M ột bàn phím cơ học sẽ chiếm m ất không gian màn hình, nó sẽ không linh ho ạt và
phù hợ p như bàn phím c ảm ứng. “M ột t hi ết bị bàn phím có v ẻ là m ột giải pháp đơn giản, nhưng nó
khiên cưỡ ng quá.” ông nói. “Hãy c ố nghĩ tất c ả nhữ ng s áng ki ến phù h ợ p, nếu chúng ta nghĩ về bàn
phím hiện trên màn hình kèm ph ần m ềm. Chúng ta hãy đặt cư ợ c vào nó, sau đó tìm cách biến nó
thành s ự th ật.” K ết qu ả là m ột thi ết bị hi ện th ị bảng s ố m ỗi khi b ạn muốn th ực hi ện cu ộc gọi, bảng
ch ữ khi b ạn mu ốn viết, và b ất c ứ phím nào bạn cần cho mỗi một ho ạt đ ộng c ụ th ể. Rồi sau đó t ất c ả
có th ể bi ến mất khi b ạn xem video. B ằng vi ệ c sử d ụng phần mềm thay cho ph ần cứng, giao diện trở
nên linh hoạt và nhanh nh ạ y hơn.
Jobs đã dành một chút thờ i gian mỗi ngày trong sáu th áng để tinh ch ỉ nh màn hình hi ển th ị .
“Đó là ni ềm vui thích phức t ạp nh ất mà tôi đã t ừng có,” ông nh ớ l ại, “Nó khác lạ gi ống như album
‘Sgt. P epperí^^).’” R ất nhi ều đặc đi ểm tư ở ng chừ ng như đơn gi ản nhưng l ại là k ết qu ả củ a nh ững
ý tư ở ng s áng t ạo. Ví d ụ, nhóm nghiên c ứu đã lo lắng làm sao có thể khiến chi ếc điện tho ại không t ự
động chơi nhạ c, th ực hi ệ n cu ộc gọi ho ặc t ự động g ọi l ại khi n ằm trong túi b ạn. Jobs bẩm sinh đã
ghét nh ững công t ắc bật - t ắt, ông thấ y nó không trang nhã. Và gi ải pháp là “G ạt tay đ ể m ở ”, thanh
trượ t trên màn hình đơn gi ản và thú v ị kích ho ạt thi ết b ị khi nó không còn hoạt đ ộng. Một bư ớ c đột
phá khác đó là cảm bi ến sẽ x ử l ý khi b ạn đưa điện thoại gần tai, dái tai của bạn không vô tình kích
hoạt m ột s ố ch ức năng nào đó. Và dĩ nhiên nh ững biểu tư ợ ng cũng d ựa trên hình kh ối mà ông ưa
thích: hình ch ữ nhật đư ợ c bao quanh, đây là nh ững bi ểu tư ợ ng g ố c ông đã để Bill Atkinson thiết kế
cho ph ần mềm của máy Macintosh đ ầu tiên. Ph ần nào cũng v ậ y, ông đều t ậ p trung vào mỗi chi ti ết,
và nhóm nghiên cứu đã tìm ra r ất nhi ều cách đơn giản hóa những gì các đi ệ n thoại khác đã làm
phức t ạp. H ọ bổ sung thêm một thanh lớ n để hướ ng d ẫn bạn th ực hi ện cu ộc gọi ch ờ hay cu ộc gọi
hội nghị , tìm những cách đ ị nh v ị dễ dàng thông qua email, và t ạo nh ững biể u tư ợ ng mà khi g ạt
ngang bạn có th ể l ự a ch ọ n nh ững ứng d ụng khác nhau - t ất c ả những điều này đượ c th ực hi ện dễ
dàng hơn vì chúng đư ợ c sử dụng tr ực quan thông qua màn hình hơn là đư ợ c sử dụng bàn phím d ựa
trên ph ần cứng.
Mặt kính b ảo vệ Gorilla Glass
Jobs đam mê thử nghi ệm những chất liệu khác nhau gi ống như cách mà ông chọn các loại
th ức ăn. Khi ông quay lại Apple vào năm 1997 và b ắt đầu nghiên cứu dòng iMac, ông đã thử xem
nhựa trong và có màu s ắc có th ể làm ra cái gì. Giai đo ạn tiếp theo là kim loại. Ông và Ive thay thế
ch ất liệu nh ựa cong củ a PowerBook G3 v ớ i kim loại titan bóng đẹp của PowerBook G4, chi ế c máy
tính này đư ợ c thi ết kế l ại vớ i ch ất liệu nhôm hai năm sau, chỉ để ch ứng minh họ thích những kim
lo ại khác nhau nhiều như thế nào. Sau đó họ t ạo ra m ột chi ếc iMac và m ột chi ếc iPod Nano v ớ i
ch ất liệu nhôm axit hóa, nghĩa là kim lo ại đã đư ợ c t ắm qua axit và điện dung để bề m ặt c ủ a nó đư ợ c
oxi hóa. J obs đã đư ợ c thông báo rằng h ọ không th ể t ự đáp ứng đượ c số lư ợ ng kim lo ại họ cần, th ế
nên ông đã thành lập một công ty ở Trung Qu ốc để gi ải quyế t vấn đề này. Ive đã đến đó, trong suốt
đại dị ch Sars, đ ể giám sát quá trình. Ông nh ớ l ại “Tôi ở đó trong ba tháng t ại m ột ký túc xá đ ể theo
dõi quy trình s ản xu ất, Ruby và nh ững ngư ờ i khác nói r ằng ý tư ở ng đó là không th ể nhưng tôi v ẫn
muốn tiếp tục, cả Steve và tôi nh ận ra rằng nhôm đư ợ c ôxi hóa th ực sự hoàn h ảo.”
Ti ếp sau đó là thủ y tinh. “Sau khi chúng tôi thực hi ện vớ i kim loại, tôi đã nhìn John và nói
rằng chúng ta cần tinh thông v ề ch ất liệu th ủ y tinh.” Jobs chia s ẻ. Vớ i nh ững c ửa hàng của Apple,
họ đã thiết kế m ột chi ếc ô kính c ửa sổ l ớ n và nh ữ ng chiếc cầu thang b ằng kính. Vớ i iPhone, k ế
hoạch ban đầu là sử dụng một màn hình bằng nhự a gi ống như iPod. Tuy nhiên Jobs lại khăng
khăng rằng màn hình s ẽ trang nhã và trông th ật hơn n ếu nó đượ c làm b ằng thủ y tinh. Th ế nên ông
bắt tay ngay vào vi ệc tìm ki ếm một loại thủ y tinh v ừa ch ắ c ch ắn vừa có kh ả năng chống tr ầ y xư ớ c.
M ảnh đ ất tìm ki ếm đó là châu Á, thiên đườ ng s ản xu ất kính dành cho các c ửa hàng. Nhưng
m ột ngườ i bạn củ a Jobs là John Seely Brown, một thành viên h ội đồng quả n trị của công ty
Corning Glass ở phía B ắ c New York, đã khuyên ông nên nói chuy ện vớ i Wendell Weeks - m ột
CEO tr ẻ và năng đ ộng c ủ a công ty. Jobs đã g ọi đi ệ n đến tổng đài chính c ủa Corning và yêu c ầu
đượ c gặp Weeks, ông gặ p nhân viên trợ lý và ngư ờ i đó yêu c ầu ông đ ể l ại l ờ i nh ắn. “Không, tôi là
Steve Jobs.” ông đáp. “Hãy cho tôi g ặp ông ấ y.” Ngườ i tr ợ lý t ừ ch ối. Jobs g ọi l ại cho Brown và
phàn nàn rằng ông đã b ị đối xử như “m ột kẻ ngớ ngẩn đặc sệt vùng bờ Đông.” Sau khi Weeks biết
chuy ệ n, ông này cũng đã gọi t ớ i t ổng đài chính c ủa Apple và yêu c ầu gặp Jobs. Weeks cũng đượ c
yêu cầu ghi l ại l ờ i nh ắn và gửi qua fax. Khi Jobs đư ợ c nghe kể v ề chuy ện đó, ông đã r ất thích
Weeks và mờ i ông ấ y tớ i Cupertino.
Jobs miêu t ả lo ại kính mà hãng Apple muốn sử d ụng cho iPhone, Weeks nói vớ i ông r ằng
công ty Corning đã phát tri ển m ột quá trình trao đ ổi hóa h ọc t ừ những năm 1960 và cho cho ra đ ờ i
s ản ph ẩm mang tên “Kính bảo vệ Gorilla.” Ch ất liệu đó ch ắ c ch ắn m ột cách đáng ngạc nhiên,
nhưng lại không tìm đư ợ c thị trườ ng tiêu th ụ, do đó Corning đã t ừ bỏ vi ệc sản xu ất nó. Jobs đã b ảo
rằng ông không ch ắ c nó có đ ủ t ốt hay không, và ông b ắt đầu giải thích vớ i Weeks v ề vi ệc làm kính
ra sao. Đi ều này gây h ứng thú cho Weeks, ngườ i dĩ nhiên hiểu bi ết về vấn đề này nhi ều hơn c ả
Jobs. “Anh có th ể ngừng nói đư ợ c không.” Weeks c ắt ngang, “và đ ể tôi chỉ cho anh một s ố công
nghệ s ản xu ất kính?” Jobs r ất b ất ng ờ và im l ặng ngay. Weeks đi t ớ i chi ếc bảng tr ắng và hướ ng d ẫ n
về hóa học, v ấn đề liên quan đ ến quá trình trao đ ổ i lon đ ể t ạo nên một l ớ p nén lên bề m ặt kính.
Đi ều này khi ến Jobs bối r ối, rồi ông nói ông mu ốn số lư ợ ng kính b ảo vệ nhiề u nh ất mà Corning có
th ể s ản xu ất trong vòng 6 th áng. “Chúng tôi không có khả năng.” Weeks trả l ờ i. “Chú ng tôi không
có b ất kỳ m ột kế hoạch s ản xu ất kính nào n ữa”.
“Đừng lo lắng” Jobs đáp. Đi ều này khi ến Weeks choáng váng, là một ngườ i tho ải mái và t ự
tin nhưng ông không quen đư ợ c vớ i tính cách khác thư ờ ng c ủ a Jobs. Weeks đã c ố gắng giải thích
rằng vi ệ c giả vờ t ự tin không th ể chiến thắng những th ử thách k ỹ thu ật, và gi ả thuy ết đó Jobs l ặp l ại
không đư ợ c ch ấp nh ận. Jobs ch ằm ch ằm nhìn Weeks không chớ p m ắt. “Đư ợ c mà, các anh có th ể
làm đư ợ c”, ông nói, “Hãy suy nghĩ về nó. Anh có thể th ực hi ện đư ợ c.”
Khi Weeks kể l ại câu chuyện, ông lắc đầu kinh ng ạ c và nói: “Chúng tôi đã thực hi ện ch ỉ
trong có sáu th áng. Chúng tôi đã s ản xu ất m ột lo ại kính chưa t ừng có bao gi ờ ”. Cơ s ở của công ty
Corning ở HarrisBurg, Kentucky, nơi sản xu ất ra màn hình LCD, đã chuyể n qua s ản xu ất vào buổi
t ối đ ể dành toàn th ờ i gian s ản xu ất ch ất liệu kính bả o vệ Chúng tôi đã tập trung h ết các k ỹ sư và nhà
khoa h ọc gi ỏi nh ất cho s ả n ph ẩm này, và chúng tôi đã biến nó thành hiện th ực.” Giờ t ại văn phòng
thoáng mát của Weeks, ông ch ỉ trưng bày m ột m ón đ ồ lưu ni ệm đượ c đóng khung. Đó là một tin
nhắn Jobs gửi đến vào ngày iPhone ra đờ i: “Chúng tôi không thể làm ra nó mà không có b ạn.”
Thiết kế
Trong rất nhi ều dự án l ớ n của ông, ví dụ như Câu chuy ện đồ chơi đ ầu tiên hay c ửa hàng
Apple, Jobs đã tạm dừng khi họ gần hoàn thiện sả n ph ẩm và quyết đị nh điề u ch ỉ nh nó. Đi ều đó
cũng x ả y ra vớ i thi ết kế c ủa iPhone. Các thi ết kế ban đầu có màn hình kính đượ c đặt trong v ỏ
nhôm. M ột bu ổi s áng th ứ hai, Jobs tới gặp Ive. “T ối qua tôi không ngủ đượ c,” ông tâm sự, “tôi
nhận ra rằng tôi không thích nó”. Đó là sản ph ẩm quan tr ọng nhất mà ông th ực hi ện từ sau chi ếc
Macintosh đ ờ i đầu, và ông th ấ y nó không ổn. Trướ c sự th ất vọng c ủa ông, Ive lập t ứ c nh ận ra Jobs
đã đúng “Tôi nh ớ cảm giác hoàn toàn xấu hổ khi ông đưa ra lờ i nh ận xét đó.”
Vấn đề nằm ở ch ỗ iPhone c ần hi ển th ị t ất c ả lên màn hình, nhưng thi ết kế vỏ hi ện tại đã
trùm lên màn hình thay vì viền xung quanh. Toàn thiết bị gây cảm giác quá thô, quá nhiều thao tác
đi ều khiển và hi ệu ứng. “Các anh em đã sống chết vì thi ết kế này trong chín th áng qua, nhưng
chúng ta ph ải thay đ ổi nó.” Jobs nói v ới nhóm nghiên c ứu của Ive. “Chúng ta gi ờ s ẽ phải làm việc
cả t ối và cu ối tu ần, n ếu các anh phản đối thì các anh phải bư ớ c qua xác chúng tôi.” Thay vì ngăn
cản, cả nhóm nghiên c ứu đã đồng ý. “Đó là giây phút đ áng t ự hào nh ất t ại Apple.” Jobs bùi ngùi
nhớ l ại.
Thiết kế m ớ i đã hoàn thành v ớ i m ột vỏ thép không gỉ m ỏng cho phép màn hình kính hi ển
th ị đến tận các c ạnh. Mỗi m ột ph ần của thi ết bị dườ ng như đượ c thi ết kế phù hợ p vớ i màn hình.
Di ện mạo mớ i mộc mạc, nhưng khá thân thiện. B ạ n có th ể vuốt nó. Nghĩa là họ đã phải làm l ại các
bảng m ạch, ăng ten, và vị trí b ộ x ử lý bên trong, nhưng Jobs đã yêu cầu thay đổi. "Các công ty khác
có th ể đã cho qua," Fadell nói, "nhưng chúng tôi thì điều ch ỉ nh và b ắt tay vào ngay."
M ột ph ần của thi ết kế phản ánh không ch ỉ tính cầu toàn củ a Jobs mà th ậm chí là khao khát
ki ểm soát, đó là thiết bị đượ c hàn kín.vỏ ngoài không thể m ở đượ c, th ậm chí để đổi pin. Cũng
gi ống v ớ i dòng Macintosh đ ờ i đầu năm 1984, Jobs đã không muốn ai m ở xem bên trong. Trong
th ực t ế, năm 20 11 khi Apple phát hiện ra các c ửa hàng sửa ch ữa không chính hãng đã mở đượ c
iPhone 4, thì hãng đã thay th ế các ốc nh ỏ bằng mộ t lo ại ốc Pentalobe không thể làm gi ả và không
m ột tu ốc nơ vít nào ngoài thị trườ ng có thể m ở . Vì không có pin thay th ế nên iPhone trông mỏng
hơn rất nhi ều. Đ ối vớ i
Jobs, mỏng hơn luôn luôn tốt hơn. "ông ấ y luôn cho r ằng m ỏng là đ ẹp", Tim Cook cho biết.
"Các b ạn có th ể th ấ y trong tất c ả các s ản ph ẩm. Chúng tôi có dòng máy tính xách tay mỏng nhất,
dòng đi ện tho ại thông minh mỏng nhất, rồi chúng tôi đã cho ra đ ờ i dòng iPad m ỏng và sau đó th ậm
chí còn m ỏng hơn n ữ a."
Tung ra thị trư ờng
Khi đến lúc khở i động iPhone, Jobs đã quyết đị nh, như thư ờ ng l ệ, cho phép một t ờ báo t ớ i
buổi thử nghi ệm đặc biệt, ông g ọi cho John Huey, tổng biên tập của t ạp chí Time, và bắt đ ầu phóng
đại quá m ức, đúng ki ểu của Jobs: “Đây là s ản ph ẩ m tốt nh ất mà chúng tôi từng thự c hi ện". Jobs
muốn cung cấp độc quyề n cho Time về những thông tin củ a iPhone, nhưng “Time không có ai đủ
hi ểu biết đ ể vi ết v ề nó, vì v ậ y tôi sẽ dành cho ngư ờ i khác.” Huey gi ớ i thi ệu Lev Grossman, m ột nhà
văn (và ti ểu thuy ết gia) hiểu bi ết nhi ều về công ngh ệ ở Time. Trong tác phẩ m của mình Grossman
ghi chú chính xác r ằng iPhone không th ự c sự phát minh ra nhi ều tính năng m ớ i, nó ch ỉ khiến
những tính năng này dễ s ử dụng hơn. "Nhưng điều đó rất quan tr ọng. Khi chúng ta không s ử dụng
đượ c các công c ụ, chúng ta có xu hư ớ ng đ ổ l ỗi cho mình, vì quá ngu ngốc, không đọc kỹ hướ ng
dẫn sử dụng hay có ngón tay quá béo.... Khi các công cụ của chúng ta b ị hỏng, chú ng ta cũng thấ y
chán . Rồi có ai đó kh ắ c ph ục đư ợ c, chúng ta s ẽ th ấ y th ực sự yên tâm."
Trong bu ổi ra m ắt t ại hội ch ợ công ngh ệ Macworld tháng giêng năm 2007 t ại San
Francisco, Jobs mờ i Andy Hertzfeld, Bill Atkinson, Steve Wozniak, và nhóm nghiên c ứu dòng
Macintosh năm 1984, như ông đã m ờ i khi ra m ắt dòng iMac. Trong tất c ả các bài thuy ết trình tuy ệt
vờ i v ề s ản ph ẩm, đây ch ắ c ch ắn sẽ là bài hay nh ất. “Mỗi khi có m ột s ản ph ẩ m mang tính cách m ạng
ra đ ờ i nó sẽ khiến m ọi th ứ thay đ ổi", ông b ắt đầu.
Jobs đưa ra ha i ví dụ trướ c đó: dòng Macintosh đờ i đầu đã “thay đ ổi toàn bộ ngành công
nghi ệp máy tính", và chi ế c iPod đầu đờ i đã “thay đ ổi kỷ nguyên nhạ c số”, Sau đó, ông đã c ẩn th ận
gi ớ i thi ệu sản ph ẩm ông chuẩn bị cho ra mắt: "Hôm nay, chúng tôi xin gi ớ i thi ệu ba dòng sản ph ẩm
mang tính cách m ạng. Đầ u tiên đó là chi ếc iPod màn hình r ộng đi ều khi ển cảm ứng. Th ứ hai là một
đi ện thoại di động mang tính cách mạng. Và th ứ ba là thiết bị liên lạc kết nối Internet có tính đ ột
phá.” ông lặp đi lặp lại danh sách để nhấn m ạnh, sau đó nói, “Các bạn có bi ết không, đây không
phải là ba thi ết bị riêng biệt, tất c ả ch ỉ trong một thi ết bị , và chúng tôi gọi nó iPhone."
Khi iPhone đư ợ c tung ra th ị trườ ng năm th áng sau đó, vào cu ối th áng 6 năm 2007, Jobs và
vợ đi b ộ đến cửa hàng củ a Apple ở Palo Alto để c ảm nhận ni ềm vui sướ ng. Vì ông thư ờ ng xuyên
làm như vậ y vào ngày s ả n ph ẩm m ớ i đư ợ c bán ra, nên m ột s ố ngư ờ i hâm mộ đã tớ i trư ớ c, họ chào
đón ông như h ọ th ấ y nhà tiên tri Moses đi d ạo mua Kinh Thánh. Trong đó có tín đ ồ là Hertzfeld và
Atkinson. "Bill đã x ếp hàng cả đêm đấ y," Hertzfeld nói. Jobs phẩ y tay, b ắt đ ầu cư ờ i và nói. "Tôi đã
gửi t ặng ông ấ y m ột chi ế c rồi.” Hertzfeld tr ả l ờ i, "ông ta c ần sáu chi ếc cơ."
IPhone đã ngay l ập tứ c đư ợ c các blogger đ ặt tên là "Đi ện thoại c ủa Chúa Jesus.” Tuy
nhiên, đối thủ c ạnh tranh c ủa Apple nhấn mạnh r ằng, việc bỏ ra năm trăm đô-la đ ể mua đư ợ c nó là
quá nhi ều. "Đó là điện tho ại đ ắt tiền nh ất trên thế gi ớ i," Steve Ballmer c ủa Microsoft cho biết trong
m ột c uộc ph ỏng v ấn củ a CNBC. "Và nó không hấ p dẫn vớ i nh ững khách hàng là doanh nhân bở i
nó không có bàn phím." M ột l ần nữa, Microsoft lại đánh giá thấp sản ph ẩ m của Jobs. Đ ến cu ối
năm 2010, Apple đã bán đượ c chín mươi tri ệu chi ếc iPhone, và nó chi ếm hơn một nửa t ổng l ợ i
nhuận của th ị trườ ng điệ n thoại di động toàn c ầu.
Alan Kay, một trong nh ữ ng nhà sáng l ập phòng thí nghi ệm Xerox PARC và cũng là ngườ i
góp m ột tay tạo Dynabook, phiên bản đầu củ a máy tính xách tay b ốn mươi năm trướ c đó đã nhận
xét “Steve hiểu đư ợ c giá tr ị của khát vọng”. Kay rất gi ỏi trong vi ệc dự báo trư ớ c tình hình, vì vậ y
Jobs đã h ỏi ý kiến của ông v ề chiếc iPhone. Kay tr ả l ờ i "Hãy m ở rộng màn hình 5 inch thành 8
inch, và anh s ẽ th ống tr ị cả th ế gi ớ i", ông không bi ết r ằng thiết kế của iPhone đã nhen nhóm, và có
th ể m ột ngày nào đó s ẽ d ẫn tớ i ý tưở ng cho ra đờ i m ột máy tính b ảng, trên thực t ế có th ể vượ t quá
t ầm nhìn của ông cho dòng Dynabook.
Chú thích
(35) M ột album nh ạc ấn tư ợ ng c ủ a The Beatles.
Chương 37: VÒNG HAI
Bệnh ung thư tái phát
Chiến đấu với bệnh t ật, năm 2008
Đến đầu năm 2008, c ả Jobs và các bác sĩ c ủa ông đ ều bi ết rõ r ằng khối ung thư của ông đã
di căn. Khi họ cắt b ỏ khối u ở tuyến t ụ y vào năm 2004, nh ững tế bào ung thư đã b ắt đ ầu hình thành.
Đi ều này giúp các bác sĩ c ủa ông xác đị nh đượ c bộ phận nào đã b ị phá hủ y, và h ọ đã áp d ụng những
phương pháp đặc trị đượ c cho là hiệu qu ả nhất.
Jobs phải dùng tớ i các li ệ u pháp gi ảm đau, thườ ng là các lo ại thu ốc gi ảm đau có ch ứa
mocphin. M ột ngày vào tháng 2 năm 2008, b ạn thân của Powell - Kathryn Smith, đang ở cùng h ọ
t ại Palo Alto, cùng đi d ạo vớ i Jobs. “Ông ấ y nói v ớ i tôi rằng m ỗi khi quá đau ông ấ y thườ ng chỉ t ập
trung vào cơn đau, đi xuyên qua nó và đi ều đó dườ ng như làm chúng tiêu tan đi”, cô kể l ại. Tuy
nhiên, điều đó không thự c sự chính xác. Khi Jobs b ị đau, ông sẽ để cho t ất c ả m ọi ngườ i xung
quanh biết đi ều đó.
Có một vấn đề ngày càng tr ở nên nghiêm tr ọng mà các nhà nghiên cứu y h ọ c đã không lưu
ý kỹ càng tớ i nó gi ống như khi điều trị ung thư hay gi ảm đau. Jobs gặp vấn đề về ăn u ống và sút
cân. Đi ều này một ph ần là do tuyến tụ y của ông đã bị cắt đi khá nhi ều trong khi tuy ến tụ y chính là
bộ phận sản xu ất nh ững enzym c ần thi ết để tiêu hóa đ ạm và các dưỡ ng chất. Ngoài ra kh ối ung thư
và moóc-phin trong thu ố c gi ảm đau cũng khiến ông ăn không ngon mi ệng. Có m ột yếu tố tâm lý
mà các bác sĩ biết rõ: Ngay t ừ th ờ i thanh niên, ông đã có m ột nỗi ám ảnh k ỳ l ạ vớ i chuy ện ăn kiêng
và thanh t ẩ y ru ột.
Thậm chí c ả khi kết hôn và có con, ông v ẫn gi ữ những thói quen ăn u ống đó. ông có thể
dành hàng tu ần ch ỉ ăn cùng một th ứ - salát cà r ốt vớ i chanh, ho ặc táo - rồi sau đó b ỗng dưng c ự
tuyệt th ứ đồ ăn đó và tuyên b ố s ẽ ngừng ăn chúng, ông ti ếp tục nh ị n ăn như hòi tr ẻ và đi ều này đã
khiến Jobs trở thành k ẻ cao đạo khi ông luôn gi ảng giải cho ngư ờ i khác về những chế độ ăn u ống
hi ệu qu ả mà ông đang theo. Powell cũng t ừng là ngư ờ i ăn chay khi h ọ m ớ i cư ớ i, nhưng sau ca phẫu
thuật c ủa ch ồng, bà bắt đ ầ u đa dạng hóa các b ữa ăn gia đình v ớ i cá và các loại thực ph ẩm giàu đạm.
C ậu con trai Reed c ủa họ, ngườ i c ũng từng ăn chay, trở thành một “đ ộng v ật ăn t ạp ngon lành”. Họ
bi ết vi ệc tiếp nh ận nh ững ngu ồn đạm khác nhau rấ t quan tr ọng đ ối vớ i chòng/cha mình.
Họ đã thuê m ột đầu bếp rất giỏi, Bryar Brown, ngư ờ i t ừng làm cho Alice Waters của chuỗi
nhà hàng Chez Panisse. Brown thư ờ ng đ ến vào mỗi bu ổi chi ều và nấu một b ữ a t ối thị nh soạn, ngon
lành s ử dụng các lo ại rau xanh và các lo ại gia v ị khác mà Powell trồng trong vư ờ n. M ỗi khi Jobs
bất ch ợ t thèm salát cà r ốt, m ỳ ống v ớ i húng qu ế, hay món súp v ớ i xả - Brown luôn kiên nh ẫn và
l ặng l ẽ tìm cách ch ế bi ến chúng. Jobs là một th ực khách vô cùng ngoan c ố theo xu hướ ng có thể
đánh giá ngay l ập tứ c bất kỳ món ăn nào dù cho chúng c ực ngon hay vô cùng d ở . ông có thể cùng
lúc n ếm hai quả bơ mà đa số m ọi ngườ i s ẽ không phân bi ệt đư ợ c và tuyên b ố rằng quả này là qu ả
bơ ngon nh ất t ừng đượ c ăn và quả kia thì không thể ăn đượ c.
Đầu năm 2008 , cách ăn u ống l ộn xộn của Jobs càng tệ hơn. Có những đêm ông ch ỉ ngồi
nhìn ch ằm ch ằm xuống sàn nhà và t ừ ch ối t ất c ả các món ăn đư ợ c bày trên bàn dài trong bếp. Khi
những ngư ờ i khác đã ăn đư ợ c nửa bữ a, ông đột ng ộ t đ ứng d ậ y và bỏ đi, chẳng nói năng gì. Điều đó
khiến không khí gia đình trở nên căng th ẳng. Họ nhận th ấ y ông đã sút tớ i 15 cân trong su ốt mùa
xuân năm 2008.
Vấn đề s ứ c kh ỏe của Jobs đư ợ c công khai vào tháng 3 năm 2008 khi Fortune cho đăng m ột
m ẩu tin có tiêu đề “Vấn đề củ a Steve Jobs”. Mẩu tin ti ết l ộ rằng ông đang c ố đi ều trị ung thư b ằng
cách ăn kiêng trong 9 th áng và cho rằng Jobs có liên quan t ớ i tuyên b ố v ề quyền ch ọn cổ phần
ch ứng khoán Apple. Vì câu chuy ện đã bị dàn dựng, Jobs đã mờ i - hay nói chính xác là triệu tập -
ch ủ biên của Fortune là Andy Serwer t ớ i Cupertino đ ể đề nghị ông ta ngăn thông tin này l ại. Jobs
nhìn th ẳng vào m ặt Serwer và hỏi, “V ậ y là ông đã tiết l ộ rằng tôi là một thằng khốn. T ại sao cái thứ
đó l ại đư ợ c gọi là tin tức hả?” Jobs cũng làm tương t ự như vậ y khi g ọi cho s ếp của Serwer ở Time,
John Huey, từ làng Kona c ủa Hawaii, b ằng một đi ện thoại vệ tinh ông mang theo, ông đ ồng ý tổ
ch ức m ột hội nghị các CEO và m ột ph ần hội nghị th ảo lu ận về vi ệc các thông tin s ức kh ỏe nên
đượ c tiết l ộ ở m ức độ nào, nhưng ch ỉ khi Fortune ch ị u đính chính l ại m ẩu tin kia. Họ đã không
đồng ý.
Khi Jobs giớ i thi ệu iPhone 3G vào th áng 6 năm 2008, vóc dáng gầ y gò quá mức của ông đã
làm lu m ờ hi ệu ứng ra mắt s ản ph ẩm. Trên tờ Esquire,, Tom Junod mô tả hình d áng “úa tàn” trên
sân kh ấu là “h ốc hác như m ột tên cư ớ p biển, trong trang ph ục mà trướ c giờ luôn là lễ phụ c thể hi ện
s ự m ạnh mẽ củ a ông”. Apple đã phát đi m ột thông tin không xác th ự c rằng việc sút cân là hậu qu ả
của m ột bệnh “virus thông thư ờ ng”. Tháng ti ếp sau, vì các nghi v ấn vẫn t ồn tại , công ty ti ếp tục
phát đi thông tin khác rằ ng tình tr ạng s ứ c kh ỏe củ a Jobs là “m ột vấn đề riêng tư”.
Joe Nocera của New York Times đã vi ết một bài báo tiết l ộ vi ệc bưng bít thông tin sức kh ỏe
của Jobs. “Đơn giản là ngườ i ta không tin r ằng Apple sẽ nói thật về tình hình sức kh ỏe củ a giám
đốc của họ ”, anh viết vào cuối th áng 7. “Dư ớ i th ờ i Jobs, Apple hình thành m ột văn hóa b ảo m ật
đượ c hỗ tr ợ họ đắc l ực theo nhi ều cách - nhữ ng phỏng đoán về các s ản ph ẩ m Apple sẽ ti ết l ộ t ại h ội
nghị Macworld thườ ng niên đã trở thành một trong nh ững công c ụ marketing tốt nh ất c ủa công ty
này. Nhưng cũng chính văn hóa này hủ y ho ại vi ệc qu ản trị doanh nghiệp.” Vì Nocera đã vi ết bài
báo và th ấu hi ểu chuẩn m ực của “m ột vấn đề riêng tư” từ t ất c ả các nhân viên Apple, anh l ập tứ c
nhận đư ợ c một cu ộc gọi bất ng ờ t ừ chính Jobs. “Steve Jobs đây”, ông gay g ắt. “Anh cho rằng tôi là
m ột tên kh ốn kiêu căng, k ẻ đang nghĩ rằ ng anh coi thư ờ ng lu ật pháp. Tôi thì cho r ằng anh là kẻ rác
rư ở i ch ỉ có toàn những thông tin sai lệch.” Sau màn mở đầu khá ấn tư ợ ng đó, Jobs cung cấp một s ố
thông tin v ề tình tr ạng s ứ c kh ỏe củ a mình v ớ i đi ều ki ện Nocera ph ải gi ữ kín chúng. Nocera r ất tôn
tr ọng l ờ i đề nghị nhưng anh hoàn toàn có th ể công b ố thông tin đó, trong khi v ấn đề s ức kh ỏe của
Jobs đã tr ở nên nghiêm tr ọng hơn là m ột “b ệnh virus thông thườ ng”, “đó không phải là vấn đề đe
dọa tính mạng, và ông ấ y không b ị tái phát ung thư”. Jobs đã cung c ấp cho Nocera nhi ều thông tin
hơn cả những gì ông muố n nói v ớ i hội đồng quản trị và các cổ đông, nhưng đó không phải là t ất c ả
s ự th ật.
M ột ph ần vì nh ững quan ngại đ ối v ớ i việc sút cân của Jobs, giá c ổ phiếu của Apple đã giả m
t ừ 188 đô -la vào đầu th áng 6 năm 2008 xu ống còn 156 đô -la vào cu ối th áng 7 cùng năm. Mọi th ứ
càng tr ở nên t ồi t ệ hơn và o cu ối th áng 8 khi Bloomberg do nhầm lẫn đã phát đi lờ i cáo phó đư ợ c
chuẩn bị s ẵn của Jobs, và sau đó thông tin này xuất hiện cả trên trang Gawker. Jobs đã sử dụng câu
nói châm bi ếm nổi tiếng c ủa Mark Twain trong một chương trình âm nh ạc thườ ng niên vài ng ày
sau đó. “Nh ững thông tin v ề cái chết c ủa tôi đã đượ c th ổi phòng quá m ứ c”, ông nói khi gi ớ i thi ệu
dòng s ản ph ẩm iPod m ớ i. Nhưng bộ d ạng h ốc hác c ủa ông không làm ngư ờ i ta yên tâm. Đ ến đầu
th áng 10, giá cổ phiếu đã sụt xu ống 97 đô-la.
Cũng trong tháng đó, Doug Morris c ủa Universal Music đư ợ c sắp xếp gặp Jobs tại Apple.
Nhưng thay vào đó, Jobs đã mờ i ông t ớ i nhà riêng. Morris vô cùng ngạ c nhiên khi trông th ấ y ông
rất gầ y gò và đau ốm. Lúc đó,
Morris sắp đư ợ c vinh danh trong m ột chương trình ở Los Angeles do City of Hope tổ ch ức,
vớ i m ục đích gây quỹ ch ống ung thư, và mong mu ốn Jobs tham gia. Các chương trình từ thiện là
m ột trong nh ững th ứ Jobs luôn tránh, nhưng ông đã nhận l ờ i, ph ần vì Morris và ph ần vì ý nghĩa củ a
chương trình. Trong chương trình, đư ợ c t ổ ch ức trong m ột hội trại l ớ n trên bờ bi ển Santa Monica,
Morris nói v ớ i hai nghìn khách m ờ i r ằng Jobs đã mang đến cho n ền công nghi ệp âm nhạ c một cu ộc
đờ i m ớ i. Những ti ết m ục bi ểu di ễn - của steive Nicks, Lionel Richie, Erykah Badu và Akon - ti ếp
di ễn cho t ớ i quá n ửa đêm khi ến Jobs bị cảm lạnh. Jimmy lovine đưa cho ông m ột chi ếc áo nỉ có mũ
và ông đã trùm mũ lên đ ầ u trong su ốt bu ổi t ối. “Ông ấ y quá ốm, lạnh run và quá gầ y”, Morris nhớ
l ại.
M ột nhà báo k ỳ cựu của Fortune chuyên vi ết về công ngh ệ, Brent Schlender đã r ờ i t ạp chí
vào tháng 12, và tác phẩ m cu ối cùng của ông là một bài phỏng v ấn chung Jobs, Bill Gates, Andy
Grove và Michael Dell. ĐÓ là một bài phỏng v ấn rất khó đ ể s ắp xếp đư ợ c, và chỉ vài ngày trư ớ c
khi nó di ễn ra, Jobs đã g ọi đi ện thông báo rút lui. “N ếu họ hỏi t ại sao thì c ứ nói r ằng tôi là một tên
khốn”, ông nói. Gates c ả m th ấ y khó chị u, nhưng rồi sau đó phát hiện ra tình trạng s ức kh ỏe của
Jobs th ực sự như th ế nào. “Dĩ nhiên là ông ấ y đã có m ột lý do rất, rất hay”, Gates nói. “ông ấ y ch ỉ
không muốn nói gì h ết”. Mọi vi ệc càng trở nên rõ ràng khi ngày 16/12, Apple thông báo Jobs h ủ y
bỏ kế hoạch xuất hiện t ại s ự ki ện Macworld vào tháng 1 - di ễn đàn mà ông thư ờ ng tham d ự để gi ớ i
thiệu nh ững s ả n ph ẩm quan tr ọng trong suốt 11 năm qua.
Gi ớ i blogger bùng lên nh ững phỏng đoán về s ức kh ỏe củ a ông, và rất nhi ều trong số đó l ại
là s ự th ật. Jobs vô cùng giận dữ và c ảm th ấ y bị xúc ph ạm, ông cũng cảm th ấ y khó chị u vớ i vi ệc
Apple đã không chủ động hơn trong việc ph ản ứng l ại. Do đó, ngày 5/1/2009, ông so ạn và phát đi
m ột bức thư ngỏ nhằm đánh l ạc hư ớ ng, ông xác nh ận rằng ông không tham dự s ự ki ện Macworld
vì muốn dành nhiều thờ i gian hơn cho gia đình. “Như các b ạn đã bi ết, tôi liên t ục sút cân trong su ốt
năm 2008”, ông nói thêm. Các bác sĩ cho rằng h ọ đã tìm ra nguyên nhân - s ự m ất cân b ằng
hoóc -môn đã không giúp tôi h ấp th ụ những chất đạm giúp cơ thể khỏ e m ạnh. Nh ững xét nghiệm
máu cụ th ể đã khẳng đ ị nh điều này. Cách ch ữa trị vấn đề này tương đ ối đơn giản.”
Cũng có một chút s ự th ật ở đây, m ặ c dù ch ỉ là m ột ph ần nh ỏ. M ột trong nh ững loại
hoóc -môn mà tuyế n tụ y tiết ra là glucagon, có tác đ ộng ngư ợ c l ại vớ i insulin. Glucagon gây tăng
đườ ng huy ết. Khối u c ủa Jobs đã di căn vào gan và b ắt đầu tàn phá. Thự c t ế, cơ th ể của ông đã t ự
phá hủ y chính nó, do đó các bác sĩ đã kê cho ông dùng nh ững loại thu ốc giúp gi ảm lư ợ ng
glucagon, ông th ự c sự m ấ t cân b ằng hoóc-môn, nhưng đó là bở i kh ối ung thư của ông đã di căn vào
gan. Cá nhân ông không ch ấp nh ận đi ều này và ông cũng mu ốn ph ủ nhận nó m ột cách công khai.
Không may, đây lại là m ột vấn đề mang tính pháp lý bở i ông đang điều hành m ột công ty đã lên
sàn. Nhưng Jobs vẫn rất t ức t ối vớ i cách mà gi ớ i blogger đối xử vớ i ông, và ông mu ốn đánh tr ả l ại.
Tại th ờ i đi ểm đó, mặc dù nh ững tuyên bố có v ẻ rất l ạc quan, nhưng ông th ự c sự rất ốm và
vô cùng đau đ ớ n. Jobs đã phải trải qua m ột đợ t đi ều trị ung thư khác, có nh ững tác dụng phụ ch ết
ngư ờ i. Da ông tr ở nên khô và nứt nẻ. Trong các nỗ l ực tìm kiếm những cách chữa trị khác, ông đã
bay t ớ i Basel, Th ụ y Sỹ đ ể th ử m ột phương pháp tr ị li ệu bằng b ứ c xạ đã đượ c ki ểm nghi ệm có tác
dụng s ản sinh enzym. ông cũng trải qua m ột phương pháp đi ều trị th ự c nghiệ m khác tại Rotterdam,
đượ c gọi là phương pháp dùng nuclit phóng xạ cho phép ti ếp nh ận sự kết hợ p hai hay nhiều axit
amin t ạo thành chu ỗi.
Sau một tu ần liên tiếp nh ận đư ợ c nh ững l ờ i khuyên pháp lý ngày càng kiên quy ết, cu ối
cùng Jobs cũng đồng ý nghỉ vi ệc vì lý do sức kh ỏ e. Ngày 14/1/2009, ông chính th ức thông báo
đi ều này trong một b ức thư ngỏ gửi cho các nhân viên Apple. Lúc đ ầu, ông đổ l ỗi quyết đ ị nh này là
do tính tò mò t ọc m ạch c ủa gi ớ i blogger và gi ớ i báo chí. “Th ật không may, s ự tò mò về tình hình
s ức kh ỏe củ a cá nhân tôi l ại tiếp tục gây ảnh hưở ng t ớ i không chỉ riêng tôi và gia đình tôi mà còn
t ớ i t ất c ả những ngư ờ i khác ở Apple”, ông nói. Nhưng sau đó, ông th ừa nh ậ n rằng phương pháp
đi ều trị s ự “mất cân b ằng hoóc-môn” c ủ a ông không đơn gi ản như ông từng nghĩ. “Trong suốt tuần
qua, tôi nhận th ấ y nh ững v ấn đề s ức kh ỏ e ph ức t ạp hơn tôi tư ở ng tượ ng”. Tim Cook một l ần nữa
nhận trách nhiệm điều hành cô ng vi ệc thư ờ ng ngày, nhưng Jobs nói rằng ông vẫn tiếp t ục giữ vị trí
CEO, vẫn tham gia vào những quy ết đị nh quan trọ ng và s ẽ tr ở l ại vào tháng 6.
Jobs v ẫn tiếp tục tư vấn, trao đổi vớ i Bill Campbell và Art Levinson, nh ững ngư ờ i đang
phải kiêm nhiệm hai vai trò, vừa là chuyên gia c ố vấn sức kh ỏe cho riêng ông, vừa là nh ững đ ồng
giám đ ố c củ a công ty. Nhưng những ngư ờ i còn l ại c ủa hội đồng quản trị không đư ợ c cung cấp đầ y
đủ thông tin, và các cổ đông là đ ối tư ợ ng đ ầu tiên b ị đánh l ạ c hư ớ ng. Việ c này làm n ả y sinh m ột s ố
vấn đề pháp lý, SEC đã mở m ột cu ộc điều tra về vi ệ c công ty có đang c ố tình bưng bít thông tin v ớ i
các cổ đông. Điều này s ẽ hình thành một âm mưu l ừa dối về tính b ảo m ật, m ột trọng t ội, nếu công
ty ti ếp tục cho phép ban b ố rộng rãi nh ững thông tin sai lệch hoặc che giấu sự th ật có liên quan t ớ i
vi ễn cảnh tài chính của công ty. Do Jobs và sứ c hấ p dẫn của ông có quan hệ m ật thi ết vớ i s ự tr ở l ại
của Apple, cho nên v ấn đề s ức kh ỏe của ông dư ờ ng như đã chạm đến ngưỡ ng này. Tuy nhiên vẫn
có m ột s ố đi ểm không rõ ràng trong lu ật, đó là quy ền riêng tư của CEO ph ải đư ợ c cân nhắ c. S ự cân
bằng này đặ c bi ệt khó trong trư ờ ng h ợ p củ a Jobs, ngư ờ i r ất coi tr ọng s ự riêng tư c ủ a mình và là
hi ện thân của công ty hơn t ất c ả các CEO khác, ông đã không làm cho mọi chuy ệ n đơn gi ản hơn.
ông trở nên rất dễ kích động, thư ờ ng xuyên vừa khóc vừa l ớ n tiếng chửi bớ i bất kỳ ai khuyên ông
nên bớ t kín ti ếng.
Campbell trân trọng tình b ạn vớ i Jobs, và ông không mu ốn nh ận nhiệm vụ xâm ph ạm tớ i
đờ i tư của Jobs, do đó ông đ ề nghị h ạ cấp xuống chỉ là m ột giám đốc. “Vấn đề về đờ i tư vô cùng
quan tr ọng đ ối vớ i tôi”, về sau ông nói. “ông ấ y là bạn của tôi từ hàng chục năm nay.” Cuối cùng
các luật sư quyết đị nh r ằ ng Campbell không c ần ph ải rút kh ỏi hội đồng quản trị nhưng ông không
nên giữ ch ức đồng giám đốc. V ị trí đó c ủa ông đư ợ c thay thế bở i Andrea Jung c ủ a Avon. Cu ộc
đi ều tra của SEC kết thúc mà không có kết qu ả gì, h ội đồng quản trị không tiếp xúc v ớ i giớ i truyền
thông để b ảo vệ Jobs khỏi nh ững cuộ c gọi có th ể khiến ông tiết l ộ thêm thông tin. “Báo chí đang
mong chúng tôi buột mi ệng lộ ra nh ững thông tin cá nhân”, AI Gore nhớ l ại. “Việc có đi quá những
gì lu ật pháp yêu c ầu hay không th ực sự phụ thuộc vào Jobs, nhưng ông ấ y rất c ứng r ắn về vi ệc
không mu ốn đờ i tư bị xâm ph ạm. Mong muốn của ôn g ấ y nên đượ c tôn tr ọng”. Khi tôi hỏi Gore về
vi ệc hội đồng quản trị có chu ẩn bị gì cho đầu năm 2009, khi vấn đề s ức kh ỏ e của Jobs trở nên t ệ
hơn rất nhi ều nh ững gì các cổ đông đang đượ c biết, ông trả l ờ i r ằng, “chúng tôi đã thuê lu ật sư bên
ngoài đ ể nghiên cứu xem lu ật pháp yêu c ầu nh ững gì, nh ững trườ ng h ợ p th ực t ế thành công và
chúng tôi sẽ x ử lý chúng bằng t ất c ả s ổ sách. Nghe có vẻ phòng th ủ nhưng nh ững l ờ i bình ph ẩm
th ực sự làm tôi t ức gi ận.”
M ột thành viên trong h ội đồng quản trị bất bình. Jerry York, c ựu Giám đ ốc Tài chính của
Chrysler và IBM, không tuyên b ố bất kỳ đi ều gì công khai, nhưng đã nói riêng vớ i một phóng viên
của Wall Street Journal m ột cách bí m ật, rằng ông vô cùng phẫn nộ khi biết công ty đã gi ấu di ếm
tình hình sức kh ỏe của Jobs vào cuối năm 2008. “Th ẳng thắn mà nói thì tôi ư ớ c là tôi đã từ ch ứ c
sau đó.” Khi York mất vào năm 2010, t ờ t ạp chí đã đưa những thông tin mà ông cung c ấp lên báo.
York cũng đã cung cấp cho Fortune nh ững thông tin m ật và t ạp chí này đã tận dụng cho đăng khi
Jobs n gh ỉ l ần th ứ ba vì lý do s ức kh ỏe, vào năm 2011.
M ột s ố ngư ờ i ở Apple không tin những câu trích dẫn đư ợ c cho là c ủ a York là chính xác bở i
ông không chính th ức thể hi ện sự phản đối t ại thờ i điểm đó. Nhưng Bill Campbell biết r ằng các bài
báo đã nói đúng s ự th ật. York đã phàn nàn v ớ i ông v ề đi ều này vào đ ầu năm 2009. “Jerry đã u ống
nhiều vang trắng hơn bình thườ ng vào đêm khuya, ông g ọi cho tôi vào hai hay ba giờ s áng gì đó và
nói, ‘chết tiệt, tôi không mua đống rác rư ở i đó vào ngư ờ i về chuy ện sức kh ỏ e củ a ông ấ y, chúng ta
cần ch ắc ch ắn về vi ệ c này.’ Sau đó tôi g ọi l ại cho ông ấ y vào s áng hôm sau và ông ấ y nói, ‘ ồ,
không vấn đề gì đâu.’ Một trong nh ững đêm khuya như thế, tôi ch ắ c là ông ấ y đã nói chuyện vớ i
các phóng viên.”
Memphis
Ngư ờ i đứng đ ầu nhóm nghiên c ứu bệnh ung thư của Jobs là George Fisher của Đại họ c
Stanford, m ột chuyên gia nghiên c ứu hàng đầu về các loại ung thư d ạ dày và ung thư ruột. Ông
t ừng c ảnh báo Jobs trong nhiều tháng li ền rằng ông đang cân nh ắc đến việc ghép gan, nhưng đó l ại
là m ột trong n hững yêu cầu mà Jobs nhất quyết t ừ ch ối th ực hi ện. Powell th ấ y vui vì Fisher v ẫn
kiên nh ẫn ch ỉ ra những khả năng thành công, vì bà biết r ằng những l ờ i động viên lặp đi lặp lại s ẽ
khiến cho chòng bà cân nh ắc đến ý kiến đó.
Cuối cùng thì Jobs cũng b ị thuy ết phục vào tháng 1 năm 2009, ngay sau khi ông tuyên bố
rằng b ệnh “mất cân b ằng hoóc- môn” c ủ a mình có th ể đượ c ch ữ a trị dễ dàng. Nhưng có một vấn
đề. ông đư ợ c đưa vào danh sách chờ ghép gan ở California, nhưng một đi ều ch ắ c ch ắn là ông khó
mà có cơ hội đư ợ c ghép, s ố lư ợ ng ngư ờ i hiến t ặng s ẵn có trùng v ớ i nhóm máu c ủa ông r ất ít. Ngoài
ra, những tiêu chuẩn về vi ệc chia s ẻ nội t ạng đượ c đưa ra b ở i United Network - t ổ ch ức xây d ựng
các chính sách v ề chia sẻ nội t ạng c ủ a M ỹ - dành ưu tiên cho nh ững ngư ờ i bị sơ gan và viêm gan
hơn là nh ững b ệnh nhân ung thư.
Không có trườ ng h ợ p ngoại l ệ nào cho b ệnh nhân, kể cả vớ i một ngườ i giàu có như Jobs, có
th ể chen ngang vào danh sách, và ông cũng không làm thế. Ngườ i nh ận sẽ đượ c ch ọn lựa dựa trên
thang điểm MELD (Mô hình bệnh gan giai đo ạn cu ối) - s ử dụng những k ế t qu ả ki ểm tra trong
phòng thí nghi ệm về lư ợ ng hoóc-môn để cân nh ắ c m ức độ khẩn cấp củ a m ột ca ghép gan, và ph ụ
thuộc vào thờ i gian ngườ i đó đã ch ờ . M ỗi ca hi ến tặng đ ều đư ợ c ki ểm tra chặt ch ẽ, dữ li ệu đư ợ c
công b ố trên các trang web công cộng (optn.transplant.hrsa.gov), và b ạn có th ể theo dõi tình tr ạng
của mình trong danh sách vào b ất kỳ lúc nào.
Powell tr ở thành ngườ i canh ch ừng t ất c ả các trang web hi ến tặng n ội t ạng, đêm nào cũng
ki ểm tra xem còn bao nhiêu ngườ i trong danh sách ch ờ , xem các b ảng đi ểm MELD và th ờ i gian h ọ
đã chờ đợ i. “B ạn có th ể th ực hi ện phép tính, vi ệc mà tôi đã làm, và kết qu ả là ph ải lâu sau th áng 6
anh ấ y m ớ i có cơ h ội đư ợ c ghép gan ở California, trong các bác sĩ dự đoán gan của anh ấ y ch ỉ tr ụ
đượ c đến th áng 4”, bà nh ớ l ại. Vì v ậ y, bà b ắt đầu đặt ra hàng lo ạt câu h ỏi và phát hi ện ra rằng h ọ
đượ c phép đăng ký vào danh sách ch ờ ở hai bang khác nhau tại cùng m ột thờ i điểm. Có khoảng 3%
bệnh nhân ti ềm năng làm điều này. Các quy đ ị nh không hạn ch ế vi ệc đăng ký nhiều danh sách ch ờ ,
m ặc dù nh ững ngư ờ i ch ỉ trích cho rằng đó là chính sách ưu ái ngư ờ i giàu, nhưng việc này cũng r ất
khó khăn. Có hai yêu cầu chính: Bệnh nhân ti ếp nh ận ph ải có kh ả năng tớ i bệnh viện lựa ch ọn
trong vòng 8 ti ếng, điều này thì Jobs có thể làm đư ợ c vì có máy bay riêng: và các bác sĩ t ại bệnh
vi ện đó phải ki ểm tra b ệnh nhân trư ớ c khi đưa ngư ờ i đó vào danh sách ch ờ .
George Riley, một luật sư t ừ San Francisco, ngư ờ i thư ờ ng làm vi ệc cho Apple như m ột luật
sư ngoài, là m ột quý ông Ten nessee rất chu đáo và ngày càng trở nên thân thi ết vớ i Jobs. B ố m ẹ
anh đều là bác sĩ c ủa Vi ệ n Đại học Methodist tại Memphis, anh đư ợ c sinh ra ở đây, và là b ạn củ a
James Eason - ngư ờ i đang đi ều hành m ột vi ện cấ y ghép tại đây. Cơ s ở của Eason là một trong
những đ ị a ch ỉ t ốt nh ất và đông nh ất trên c ả nướ c M ỹ. Năm 2008, anh và nhóm làm việc của mình
đã ti ến hành 121 ca ghép gan. Anh không gặp khó khăn gì khi cho phép ngư ờ i ở những nơi khác
đăng ký vào danh sách chờ t ại Memphis. “Đó không ph ải là lách luật”, anh nói. “Đó là cách m ọi
ngư ờ i l ựa ch ọn nơi chăm sóc s ức kh ỏe của mình. Một vài ngư ờ i đã rờ i Tennessee tớ i California
hoặc m ột nơi nào khác đ ể tìm ki ếm các phương pháp chữa trị . Bây giờ thì chúng tôi l ại có nh ững
bệnh nhân t ừ California tìm đến Tennessee.” Riley đã s ắp xếp cho Eason bay t ớ i Palo Alto và th ực
hi ện công vi ệc ki ểm tra theo yêu cầu kia.
Cuối tháng 2 năm 2009, Jobs đã có đượ c một v ị trí an toàn trong danh sách ở Tennessee (và
m ột v ị trí n ữa ở California), và giai đo ạn ch ờ đợ i trong lo lắng b ắt đ ầu. Vị trí c ủa ông đã tiến nhanh
trong tuần đầu tiên c ủa th áng 3, và th ờ i gian ch ờ đượ c tính là chỉ còn 21 ngày. “Th ật m ệt m ỏi và
đáng s ợ ”,
Powell nhớ l ại. “Có vẻ như chúng tôi sẽ không th ể ghép gan kị p th ờ i.” Mỗ i ngày trôi qua
hết s ức đau đ ớ n. T ớ i giữa tháng 3, ông đứng th ứ ba trong danh sách, rồi thứ hai, và cu ối cùng là th ứ
nhất. Những ngày đó cũng trôi qua. Có m ột th ực t ế l ạ lùng là những s ự ki ệ n lớ n sắp di ễn ra - như
dị p nghỉ l ễ Thánh Patrick hay gi ải đấu March Madness (Memphis đang có gi ải thi đ ấu của năm
2009 và là một vùng đất c ủa tôn giáo) thư ờ ng chắ c ch ắn mang l ại kh ả năng nhận đư ợ c bộ phận
hi ến tặng cao hơn, do s ự say s ỉ n thườ ng gây ra nh ững v ụ tai n ạn ô tô.
Thực t ế, vào ngày 21/3/2009, m ột chàng trai trẻ ch ừng 25 tuổi bị ch ết trong m ột vụ đâm xe
và c ác n ội t ạng c ủa anh đượ c hi ến tặng. Jobs và vợ bay t ớ i Memphis, h ạ c ánh trướ c 4 giờ s áng và
gặp Eason. M ột chi ếc ô tô đã đợ i s ẵn ở ngay phần đư ờ ng còn rải đá dăm. M ọi th ứ đều đã đư ợ c
chuẩn bị s ẵn nên các gi ấ y tờ th ủ t ục cũng đư ợ c hoàn tất ngay khi h ọ t ớ i bệnh viện.
Ca phẫu thuật c ấ y ghép đã di ễn ra thành công nhưng v ẫn chưa làm mọi ngườ i yên tâm. Khi
các bác sĩ lấ y gan c ủa ông ra, họ nhìn th ấ y nhi ều đố m trên phúc mạc - m ột màng m ỏng bao ph ủ các
cơ quan n ội t ạng. Hơn n ữa, có rất nhi ều kh ối u ở khắp gan, điều này có nghĩa là chắc ch ắn kh ối ung
thư đã di căn sang nh ững b ộ phận khác nữ a. Rõ ràng nó đang bi ến đổi và phát tri ển nhanh chóng.
Họ l ấ y m ẫu ròi lập bản đồ gen.
Vài ngày sau, họ cần th ự c hi ện m ột th ủ t ục khác. Jobs từ ch ối m ọi l ờ i khuyên dù r ằng h ọ
nói s ẽ không cắt bỏ dạ dày của ông. Khi h ọ cho ông dùng thu ốc an th ần, họ nhận th ấ y m ột s ố th ức
ăn b ị đẩ y vào phổi c ủa ông và gây viêm phổi. T ại thờ i điểm đó, h ọ đã tư ở ng ông sắp ch ết. Như ông
kể l ại sau này:
Tôi gần như đã ch ết bở i nh ững thủ t ục thườ ng l ệ đó. Laurene luôn có m ặt ở đó và các con
tôi cũng bay t ớ i, bở i họ nghĩ tôi không th ể qua đư ợ c đêm đó. Reed lúc đó đang ở trườ ng cùng một
trong các anh trai c ủ a Laurene. Chúng tôi đã đón nó ở gần Dartmouth b ằng máy bay riêng và cho
chúng bi ết chuy ện gì đang xả y ra. Các con gái tôi cũng đư ợ c đón b ằng máy bay. H ọ đã nghĩ r ằng
đây có lẽ là cơ h ội cu ối cùng có th ể th ấ y tôi còn tỉ nh táo. Nhưng tôi đã vư ợ t qua đượ c.
Powell ch ị u trách nhiệm theo dõi việc đi ều trị , ở trong phòng b ệnh c ả ngày và quan sát các
màn hình máy tính m ột cách th ận trọng. “Laurene giống như m ột con h ổ xinh đẹp luôn ở bên cạnh
bảo vệ ông ấ y”, Jony Ive - ngư ờ i đã t ớ i thăm ngay khi Jobs đư ợ c cho phép gặp khách, nh ớ l ại. M ẹ
và ba anh trai của bà ấ y đã tớ i vi ện vào những thờ i gian khác nhau đ ể thay nhau ở cùng Laurene.
Chị gái Mona Simpson của Jobs cũng qua l ại thư ờ ng xuyên. Bà và George Riley là những ngư ờ i
duy nh ất Jobs đồng ý cho thay thế Powell túc trực cạnh giư ờ ng ông. “Gia đình c ủa Laurene đã giúp
chúng tôi chăm sóc b ọn trẻ - m ẹ và các anh trai củ a cô ấ y rất t ốt”, Jobs chia s ẻ. “Tôi đã rất yếu và
không th ể giúp ích đư ợ c gì. Nhưng nh ững chuyện như thế này đã gắn kết m ọi ngườ i l ại vớ i nhau
m ột cách sâu s ắ c”.
Powell đến bệnh viện vào 7 gi ờ s áng m ỗi ngày và thu thập các d ữ li ệu liên quan rồi đưa
chúng và o m ột bảng tính. “Nó r ất ph ức t ạp vì có quá nhi ều th ứ khác nhau đang diễn ra”, bà kể l ại.
Khi James Eason và các bác sĩ trong nhóm củ a ông đ ến vào lúc 9 giờ , bà s ẽ h ọp vớ i h ọ để t ổng h ợ p
l ại t ất c ả các vấn đề về vi ệc đi ều trị của Jobs. Vào lúc 9 gi ờ t ối, trư ớ c khi r ờ i vi ện, bà chu ẩn bị m ột
báo cáo v ề t ừng d ấu hiệu quan trọng và các ch ỉ s ố đang di ễn biến ra sao, cùng vớ i một loạt các câu
hỏi mà bà mu ốn có câu trả l ờ i vào ngày hôm sau. “Vi ệc này giúp não tôi hoạ t động hi ệu qu ả và tập
trung”, bà k ể l ại.
Eason đã làm nh ững việ c mà không ai ở Stanford t ừng làm m ột cách trọn vẹ n: ch ị u trách
nhiệm về m ọi m ặt trong vi ệc đi ều trị . Vì là ngư ờ i vận hành các thi ết bị , anh có thể th ực hi ện vi ệ c
hồi ph ục sau c ấ y ghép, các xét nghiệm ung thư, điều trị gi ảm đau, bổ su ng các dư ỡ ng chất, ph ục
hồi ch ức năng và c ả đi ều dư ỡ ng. Th ậm chí anh còn qua cửa hàng bán l ẻ mua nh ững loại đồ uống
tăng lự c mà Jobs ưa thích.
Hai trong số các y tá đ ến từ những thành ph ố nhỏ thuộc Mississippi, và h ọ đã tr ở thành
những ngư ờ i mà Jobs yêu quý. H ọ là nh ững ngư ờ i ph ụ nữ t ừ những gia đình t ử t ế và không bị ông
làm cho s ợ hãi. Eason b ố trí đ ể họ ch ỉ nhận giao việc t ừ Jobs. “Đ ể quản lý đư ợ c Steve, b ạn ph ải r ất
kiên trì”, Tim Cook chia sẻ. “Eason đã qu ản lý đư ợ c Steve và buộc ông ph ải làm những v i ệc mà
không ai ép đư ợ c, nh ững điều tốt cho ông ấ y thì thườ ng không hề dễ ch ị u”.
M ặc kệ m ọi s ự chiều chuộng, Jobs vẫn thườ ng xuyên nổi nóng, ông bự c bộ i vì không thể
ki ểm soát đư ợ c chính mình, thỉ nh thoảng lại bị ảo giác và trở nên nóng gi ận. Ngay c ả khi ông hoàn
toàn tỉ nh táo thì cá tính m ạnh c ủa ông v ẫn trỗi d ậ y. Có lúc bác sĩ chuyên khoa phổi c ố gắng đ ặt một
chiếc mặt n ạ oxy lên m ặt ông lúc Jobs đang dùng thuốc an th ần mạnh. Nhưng Jobs đã xé toạc nó và
l ầm bầm rằng ông ghét thi ết kế của nó và không muốn đắp. M ặc dù hầu như không có khả năng đ ể
nói chuyệ n, nhưng ông vẫn yêu c ầu họ mang tớ i năm chi ếc m ặt nạ khác nhau và ông s ẽ l ựa ch ọn
thiết kế mà ông thích. Các bác sĩ liếc nhìn Powell, lúng túng. Cu ối cùng bà cũng làm ông bị phân
tâm và h ọ có th ể đắp lại c hi ếc mặt nạ. ông cũng ghét máy oxygen mà h ọ kẹp vào tay ông. Jobs bả o
họ rằng nó x ấu xí và quá ph ức t ạp. Ông gợ i ý nhi ề u cách để có th ể thiết kế nó đơn gi ản hơn. “Anh
ấ y rất quan tâm v ớ i t ừng s ắc thái c ủa không gian và các v ật thể xung quanh, và điều đó bò n rút ti ếp
s ức l ực củ a anh ấ y”, Powell hòi tư ở ng.
Có một ngày, khi ông v ẫ n đang lơ lửng giữa trạng thái mê mê tỉ nh t ỉ nh, bạn thân của
Powell là Kathryn Smith tớ i thăm. M ối quan hệ của bà vớ i Jobs không ph ải lúc nào cũng tốt đẹp
nhưng Powell đã nài n ỉ Smith t ớ i bên giư ờ ng. Jobs ra hiệu cho bà l ấ y một chi ếc bút và một t ập giấ y
rồi viết, “tôi mu ốn có chiếc iPhone của mình”. Smith lôi nó ra kh ỏi vỏ và đưa cho ông. c ầm lấ y tay
bà, Jobs chỉ cho bà ch ức năng “l ắc để m ở ” và để bà dùng thử b ảng chọn.
M ối quan hệ của Jobs v ớ i Lisa Brennan - Jobs, con gái riêng của ông v ớ i Chrisann, vốn vẫn
căng th ẳng. Cô tốt nghi ệ p Harvard, r ồi chuy ển tớ i New York và hi ếm khi chuyện trò v ớ i bố mình.
Nhưng cô đã bay tớ i Memphis hai lần, và ông cả m kích về đi ều đó. “Hành đ ộng đó c ủa nó vô cùng
ý nghĩa đ ối vớ i tôi”, ông k ể l ại. Ti ếc là ông đã không nói đi ều đó vớ i cô ngay lúc đ ấ y. R ất nhi ều
ngư ờ i quanh Jobs cho rằng Lisa có thể cũng có nhữ ng đòi hỏi kh ắt khe như b ố cô, nhưng Powell đã
chào đón và c ố gắng kéo cô lại gần. Bà mu ốn củng c ố l ại m ối quan hệ này.
Khi Jobs dần hồi ph ục, bản tính nóng nả y của ông cũng trở l ại. ông vẫn còn giữ tính cáu
bẳn. “Khi ông ấ y bắt đầu hồi ph ục, giai đo ạn cảm kích trôi qua rất nhanh và tr ở l ại ngay cung cách
cáu giận thườ ng tr ực”, Kat Smith kể l ại. “Chúng tôi đều tự hỏi r ằng li ệu khi vượ t qua t ất c ả những
chuy ệ n này, ông có trở nên dễ ch ị u hơn không, nhưng ông đã không tr ở nên dễ ch ị u hơn.”
Ông vẫn tiếp tục là một kẻ ăn u ống c ầu kỳ, và đi ều này trở thành v ấn đề hơn bao giờ hết.
Ông ch ỉ uống các lo ại sinh t ố tr ái cây và yêu c ầu bày ra 7 hoặc 8 loại để ông có th ể ch ọn ra loại mà
mình thích, ông đưa thìa vào mi ệng đ ể th ử m ột mi ếng nhỏ rồi tuyên b ố, “Loại này không ngon.
Loại kia cũng không ngon.” Cuối cùng thì Eason ph ản bác l ại. “Ngài biết đấ y, đây không phải
chu yệ n kh ẩu vị ”, anh giả ng giải. “Đ ừng có nghĩ đây là đ ồ ăn. Hãy nghĩ chúng là thuốc.”
Tinh th ần của Jobs trở nên ph ấn ch ấn hơn khi ông đư ợ c tiếp khách t ừ Apple t ớ i thăm. Tim
Cook tớ i thư ờ ng xuyên và kéo ông vào quá trình ra mắt nh ững s ản ph ẩm mớ i. “B ạn có th ể th ấ y mắt
ông ấ y sáng lên mỗi khi nói v ề Apple”, Cook kể l ại. “Nó gi ống như là chiếc đèn đượ c bật lên v ậ y.”
ông vô cùng yêu công ty và ông dư ờ ng như sống trong niềm hy vọng s ẽ quay tr ở l ại. Nh ững chi tiết
ti ếp thêm sinh lực cho ông ấ y. Khi Cook mô t ả m ột th ế hệ iPhone m ớ i, Jobs dành m ột tiếng sau đó
để th ảo luận không chỉ vi ệc đặt tên nó như th ế nào - họ đã th ống nhất là iPhone 3GS - mà còn là cỡ
ch ữ và phông ch ữ củ a t ừ “GS”, bao g ồm cả vi ệc có nên viết hoa (có) và in nghiêng (không) chúng
hay không.
M ột h ôm, Riley đã b ố trí m ột cu ộc viếng thăm ngoài gi ờ đầ y bất ng ờ t ớ i Phòng thu âm Sun,
nơi Elvis, Johnny Cash, B.B.King và nhiều ca sĩ tiên phong c ủ a dòng Rock&Roll t ừng đ ến thu âm.
Họ nhận đư ợ c m ột chuy ế n tham quan và phần gi ớ i thi ệu lị ch s ử riêng b ở i m ột trong nh ững nhân
viên ở đây, ngườ i đã ng ồ i cùng Jobs trên m ột chi ế c gh ế băng đ ầ y dấu vết thu ốc lá mà Jerry Lee
Lewis t ừng s ử dụng. Tại thờ i điểm đó, dĩ nhiên là trong m ột nh ận đị nh đ ầ y canh cãi, Jobs đư ợ c coi
là ngư ờ i có ảnh hưở ng l ớ n nh ất trong n ền công nghi ệp âm nhạc, nhưng chàng trai đó l ại không
nhận ra ông trong bộ d ạng h ốc hác.
Khi họ rờ i đi, Jobs nói v ớ i Riley, “Anh chàng đó thực sự rất thông minh. Chúng ta nên
tuyển anh ta cho iTunes.” Do đó, Riley đã g ọi cho Eddy Cue, ngườ i đã cùng anh chàng đó bay t ớ i
California đ ể phỏng v ấn và cu ối cùng thì tuy ể n anh ta đ ể xây dựng những phần R&B và
Rock&Roll đầu tiên c ủa iTunes. Sau này, khi Riley tr ở l ại Sun studio đ ể gặp l ại b ạn bè, h ọ nói điều
đó đã đượ c ch ứng minh, như câu khẩu hi ệu củ a họ , r ằng những giấ c mơ l uôn có th ể tr ở thành hiệ n
th ực ở Sun Studio.
Tr ở l ại vào cuối th áng 5 năm 2009, Jobs bay từ Memphis về cùng v ợ và chị gái. Họ đượ c
Tim Cook và Jony Ive đón tại sân bay
San Jose, và hai ngườ i đã lên t ận máy bay ngay khi nó v ừa hạ cánh. “B ạn có th ể nhận th ấ y
ni ềm hào hứng trong mắt ông ấ y khi quay tr ở l ại”, Cook kể. “ông ấ y đã ph ải chi ến đấu vớ i bệnh tật
và gi ờ thì đang r ất háo h ứ c làm việc.” Powell mở m ột chai rượ u táo s ủi b ọt và chúc m ừng chòng, ai
nấ y đều rất ph ấn kh ở i. Ive u ống c ạn ly m ột cách đầ y kích động. Từ sân bay anh đã lái xe t ớ i nhà
Jobs và k ể cho ông nghe nh ững khó khăn th ế nào để m ọi vi ệc vẫn vận hành trong lúc ông đi v ắng.
Anh cũng phàn nàn về những bài báo cho rằng s ự s áng t ạo của Apple chỉ phụ thuộc vào Jobs và s ẽ
bi ến mất n ếu ông không quay l ại. “Tôi th ự c sự cảm thấ y bị t ổn thương”, Ive nói v ớ i Jobs. C ảm thấ y
như ‘b ị hủ y ho ại’ và b ị đánh giá thấp vậ y”, anh nói.
Jobs cũng t ừng c ảm th ấ y như vậ y trong giai đo ạn tâm lý mệt m ỏi sau khi trở l ại Palo Alto.
Ông bắt đầu đối m ặt vớ i suy nghĩ r ằng ông kh ông còn là ngư ờ i không thể thiếu đối vớ i công ty. c ổ
phiếu của Apple v ẫn tăng đều trong th ờ i gian v ắng ông, tăng từ 82 đô- la khi ông thông báo ngh ỉ
vào tháng 1 năm 2009 lên đ ến 140 đô-la khi ông tr ở l ại vào cuối th áng 5. Trong một hội nghị bằng
đi ện đàm vớ i các chuyên gia phân tích không lâu sau khi Jobs nghỉ , Cook đã thay đ ổi t ừ phong
cách lãnh đ ạm thườ ng thấ y để đưa ra m ột tuyên b ố đầ y nhiệt huyế t r ằng t ại sao Apple sẽ vẫn tiếp
t ục bay cao khi Jobs vắng mặt:
Chúng tô i tin tư ở ng r ằng chúng tôi hiện di ện trên trái đ ất này đ ể làm ra nh ữ ng s ản ph ẩm
tuyệt vờ i, và đi ều đó sẽ không thay đổi. Chúng tôi v ẫn không ngừng đ ổi m ớ i. Chúng tôi tin vào s ự
đơn gi ản, ch ứ không ph ải nh ững thứ phứ c t ạp. Chúng tôi tin r ằng chúng tôi c ần phải s ở hữu và
ki ểm soát nh ững công ngh ệ hàng đ ầu đằng sau nh ững s ản ph ẩm mà chúng tôi t ạo ra, và chỉ thâm
nhập vào những th ị trườ ng mà chúng tôi có thể mang lại nh ững đóng góp quan tr ọng. Chúng tôi tin
tư ở ng khi nói “Không” v ớ i hàng nghìn dự án để có th ể t hực sự t ập trung vào một s ố ít nh ững dự án
có tầm quan trọng và ý nghĩa đích thực đối v ớ i mình. Chúng tôi tin tưở ng vào nh ững g ắn bó sâu s ắc
và s ự kết hợ p của các nhóm làm việc của mình, điều này cho phép chúng tôi s áng t ạo theo nh ững
cách mà nh ững ngư ờ i khác không thể có. Và, m ột cách th ẳng thắn, chúng tôi sẽ không dừng l ại vì
bất k ỳ đi ều gì trừ s ự xuất s ắc của t ừng nhóm làm việc ở công ty này. Chúng tôi có lòng chân thật đ ể
dám th ừa nh ận khi làm sai và có tinh thần dũng cảm để thay đ ổi. Và tôi nghĩ r ằng, b ất kể ai làm
công vi ệc này, nh ững giá trị đó đ ều kh ắc sâu trong công ty mà Apple sẽ làm vô cùng t ốt.
Nghe có vẻ gi ống như nh ững gì Jobs s ẽ nói (ho ặc đã nói), nhưng báo giớ i đã phong t ặng nó
là “h ọc thuyế t Cook”. Jobs đã bị dằn vặt và trầm cả m nặng, nhất l à dòng cu ối cùng. Ông không biế t
nên l ấ y làm t ự hào hay t ổ n thương vì rằng đi ều đó có th ể đúng. Có nh ững lờ i bàn tán về vi ệc ông s ẽ
lui v ề và tr ở thành ch ủ t ị ch chứ không làm CEO nữ a. T ất c ả những đi ều đó càng khiến ông có thêm
động l ực để ra khỏi giư ờ ng, vượ t qua b ệnh t ật, và bướ c tiếp nh ững bướ c đi lớ n.
Cuộc họp hội đồng quản trị di ễn ra vài ngày sau khi Jobs trở l ại và ông đã khi ến mọi ngườ i
ngạ c nhiên v ớ i diện mạo của mình. Ông bướ c vào thong th ả và có thể đứng h ầu như suốt bu ổi họp.
Tớ i đầu tháng 6, ôn g t ổ ch ức nh ững buổi họp thườ ng ngày t ại nhà mình, và đ ến cu ối th áng, ông đã
tr ở l ại làm việc. Đi ều gì có th ể tuyệt vờ i hơn thế khi mà ông từng phải đối m ặt vớ i cái ch ết? Các
đồng nghi ệp của ông nhanh chóng có câu trả l ờ i.
Vào ngày đầu tiên trở l ại, ông đã khiến nhóm làm vi ệc t ốt nh ất c ủa mình cho áng v áng vớ i
hàng lo ạt cơn th ị nh n ộ. ông tách những ngư ờ i mà ông không g ặp mặt trong vòng sáu th áng ra khỏi
nhóm, xé tan một vài b ản kế hoạch marketing, và đay nghiến nh ững ngư ờ i có ch ất lư ợ ng công việ c
kém.
Nhưng những gì thực sự đượ c kể l ại là l ờ i tuyên b ố mà ông nói vớ i m ột vài ngư ờ i bạn vào
chiều muộn hôm đó. “Hôm nay, tôi đã có thờ i gian trở l ại làm việc tuy ệt vờ i nh ất”, ông nói. “Tôi
không tin n ổi vào c ảm hứng s áng t ạo mà tôi đang cảm nhận đư ợ c, cũng như của cả nhóm làm
vi ệc.” Tim Cook thì ti ếp nh ận điều này một cách bình tĩnh. “Tôi chưa bao giờ th ấ y Steve ki ềm ch ế
trong việ c di ễn tả t ầm nhìn và niềm đam mê c ủa mình”, ông k ể l ại sau này. “Nhưng đi ều đó cũng
t ốt.”
Những ngư ờ i bạn kể l ại r ằng Jobs v ẫn gi ữ tính khí nóng nả y. Trong lúc chờ hồi ph ục sức
khỏe, Jobs đã đăng ký dị ch v ụ cáp ch ất lư ợ ng cao của Comcast, và m ột hôm ông g ọi Brian
Roberts, ngườ i điều hành công ty này tớ i. “Tôi tư ở ng r ằng ông ấ y gọi đến để nói điều gì đó t ốt đẹp
về nó”, Roberts nhớ l ại. “Nhưng không ph ải, ông ấ y bảo tôi ‘Nó th ật vớ vẩn’.”
Nhưng Andy Hertzfeld l ại ấn tư ợ ng r ằng, dư ớ i vẻ cộc cằn đó, Jobs thể hi ện m ột s ự chân
thành hơn. “Trư ớ c đây, nếu bạn nh ờ Jobs làm m ột vi ệc gì đó th ì ch ắc ch ắn ông ấ y sẽ làm ngư ợ c
l ại”, Hertzfeld nói. “Ngang ng ạnh là b ản tính c ủa ông ấ y. Còn gi ờ thì ông ấ y đang cố gắng tr ở nên
t ốt hơn.” ông công khai tr ở l ại vào ngày 9/9 khi xu ất hiện trên sân khấu trong sự ki ện âm nhạc mùa
thu c ủa công ty. Mọi ngườ i đã đ ứng d ậ y hoan hô tớ i gần m ột phút. Sau đó, ông gi ở m ột m ẩu gi ấ y
ra và nói rằng ông đã đượ c hi ến tặng gan. “Tôi không th ể có m ặt ở đây nếu không có hành động
cao thư ợ ng đ ến như v ậ y”, ông nói, “do đó tôi hy v ọ ng tất c ả chúng ta đều có th ể cao thư ợ ng và chủ
động hi ến t ặng n ội t ạng.” Sau nh ững giây phút hân hoan - “Tôi đang ở th ờ i k ỳ sung s ức nh ất, tôi đã
tr ở l ại Apple và tôi yêu t ừng ngày trôi qua ở đây” - ông tiết l ộ dòng s ản ph ẩ m iPod Nano mớ i, vớ i
máy quay video, có chín màu sắc khác nhau của l ớ p vỏ nhôm đã đượ c oxy hóa. Vào đ ầu năm 2010,
s ức kh ỏe củ a ông h ồi ph ục gần như hoàn toàn, ông l ại lao vào công vi ệ c, và năm đó có l ẽ là m ột
trong nh ững năm hiệu qu ả nhất c ủa ông và cả Apple. Ông đã đạt đư ợ c hai thành công liên tiếp từ
khi giớ i thi ệu hai chiến lư ợ c k ỹ thuật s ố cốt lõi củ a Apple: iPod và iPhone. Và bây giờ ông sẽ ti ếp
t ục nh ả y vào một chi ến lư ợ c khác.
Chương 38: iPAD
Bước vào k ỷ nguyên PC- post
B ạn nói b ạn muốn m ột cu ộc cách m ạng
Vào năm 2002, Jobs đã nhận đư ợ c thông báo từ m ột kỹ sư c ủ a Microsoft, ngư ờ i không
ngừng giữ vững niềm tin của mình vào ph ần m ềm máy tính bảng do anh ta phát tri ển khi cho phép
những ngư ờ i s ử dụng ti ế p cận thông tin trên màn hình chỉ vớ i m ột chi ếc bút chấm hoặc bút máy.
M ột s ố nhà sản xu ất cho ra đ ờ i máy tính b ảng năm đó s ử dụng phần m ềm này, nhưng rốt cu ộc
ch ẳng ai gây ra đư ợ c cơn chấn động nào cả. Jobs đã rất háo h ứ c khi cho th ấ y đúng ra là nên làm
như th ế nào - không có chiếc bút châm ch ấm nào hết! - nhưng khi xem xét công nghệ cảm ứng đa
đi ểm (multi-touch multi - touch(côn g nghệ cảm ứng đa chạm) mà Apple đang phát triển, ông đã
quyết đị nh s ử dụng nó trư ớ c tiên đ ể t ạo nên một chi ếc iPhone.
Cùng lúc, ý tư ở ng v ề chiếc máy tính b ảng đã đượ c th ấm nhuần trong b ộ phận ph ần cứng
của Macintosh. “Chúng tôi không có k ế hoạch t ạo ra m ột chi ếc máy tính b ả ng,” Jobs tuyên b ố
trong cu ộ c ph ỏng v ấn vớ i Walt Mossberg vào th áng Năm năm 2003. “Hóa ra là m ọi ngườ i đều
muốn nh ững cái bàn phím. Những chiếc máy tính b ảng thu hút những ngư ờ i giàu có vớ i r ất nhi ều
những chiế c máy tính và thi ết bị đi k èm.” Như th ể bài phát biểu của Steve là v ề vấn đề “thi ếu cân
bằng hormone”, đó là m ột s ự hi ểu nh ầm; trong hầu hết nh ững cuộc họp thườ ng niên c ủa Jobs, máy
tính bảng là m ột trong số những dự án tương lai đư ợ c thảo luận. “Chúng tôi đã trình bày ý tư ở ng tại
rất nhi ều cu ộc họp, bở i l ẽ Steve chẳng bao gi ờ m ất đi khao khát khát t ạo ra m ột chi ếc máy tính
bảng,” Phil Schiller nhớ l ại.
Dự án máy tính bảng đượ c đẩ y m ạnh vào năm 2007 khi Jobs cân nhắc các ý tư ở ng v ề
những chiếc netbook giá thành th ấp. Trong l ần hội ý củ a nhóm đi ều hành vào một ngày th ứ Hai,
Ive đã hỏi t ại sao l ại c ần đến m ột bàn phím đư ợ c nối vớ i màn hình; nó th ật đắt đỏ và c ồng k ềnh.
Hãy đặt chi ếc bàn phím này vào màn hình sử dụng giao di ện multi - touchc ả m ứng đa điểm, anh gợ i
ý. Jobs tán thành. Do đó mà các ngu ồn l ực đã đư ợ c huy đ ộng đ ể tăng tốc d ự án máy tính bảng thay
vì thiết kế m ột chi ếc netbook.
Quá trình bắt đầu khi Jobs và Ive tính toán kích cỡ màn hình phù hợ p. H ọ đã ti ến hành 20
mô hình - t ất c ả đều là hình ch ữ nhật, tất nhiên - v ớ i nh ững kích c ỡ và tỷ l ệ khác nhau. Ive đ ặt
chúng trên một chi ếc bàn trong phòng thiết k ế, và vào bu ổi chi ều, họ nâng chiếc khăn trải bàn b ằng
nhung ở dướ i chúng lên và ti ến hành đo đ ạ c. “Đó là cách mà chúng tôi đã đo kích cỡ màn hình,”
Ive nói.
Như thườ ng l ệ, Jobs luôn khuy ến khích s ự đơn gi ả n thuần túy nhất có th ể. Đi ều đó đòi hỏi
phải xác đ ị nh đượ c đâu là b ản ch ất c ốt lõi của thi ế t bị . Câu tr ả l ờ i là: màn hình hi ển th ị . Do v ậ y,
quy tắ c ch ỉ dẫn là t ất c ả những gì h ọ làm đều ph ải hư ớ ng đ ến và chiều theo những y ế u tố của màn
hình. “Làm cách nào chúng ta có thể s áng t ạo, làm m ọi th ứ khác đi, khi không có hàng tấn nh ững
đặc tính và phím b ấm có thể làm xao lãng t ừ màn hình hi ển th ị?” Ive hỏi. Trong mỗi bư ớ c, Jobs
đều khuy ế n khích s ự khác bi ệt và đơn gi ản.
Jobs nhìn m ột mô hình và t ỏ ra đôi chút không hài lòng. Nó không mang l ại c ảm giác bình
thư ờ ng và thân thiện, vì th ế mà b ạn có th ể nâng nó lên và lư ớ t nó mau l ẹ m ột cách t ự nhiên. Ive đ ặt
ngón tay củ a mình lên, nhưng v ấn đề là: Chúng c ầ n đư ợ c ra hi ệu thì b ạn m ớ i có th ể ti ếp cận đư ợ c
bằng tay nh ờ vào l ực xung. Phần dư ớ i gờ c ần ph ải đư ợ c phát tri ển ở m ức độ tương đối, nh ờ đó b ạn
s ẽ cảm th ấ y tho ải mái khi ch ỉ nâng nó lên bình thườ ng thay vì phải nâng nó lên một cách cẩn th ận.
Đi ều đó có nghĩa là các kỹ sư phải thi ết k ế những c ổng k ết n ối c ần thi ết và các phím b ấm trong một
mép đơn giản và đủ m ỏng đ ể có th ể dễ dàng b ỏ qua ph ần dư ớ i.
Nếu chú ý tớ i nh ững m ạt giũa tinh x ảo, bạn có th ể th ấ y dãy s ố D504889 đã đượ c Apple g ắn
vào tháng Ba năm 2004 và phát hành vào 14 thán g sau đó. Các nhà s áng ch ế gồm có Jobs và Ive.
ứng d ụng này đã đem đ ế n bản phác th ảo về những chiếc máy tính b ảng điện tử hình ch ữ nhật vớ i
các gờ bao quanh, xem như theo cách mà iPad đượ c ch ế t ạo, khi một ngườ i gi ữ nó bình thư ờ ng
bằng tay trái trong khi d ùng tay phải c ủa mình ch ạ m vào màn hình.
Do những chiếc máy tính Macintosh đang s ử dụng các con chip Intel, Jobs bắt đầu lên k ế
hoạch s ử dụng con chip Atom h ạ th ế (điện áp th ấp) mà Intel đang phát triển cho iPad. Paul otellini,
CEO c ủa Intel, đã đ ẩ y m ạnh h ợ p tác trong thi ết kế , và Jobs đã rất tin tư ở ng ông ấ y. Công ty c ủ a
Paul đang làm ra nh ững b ộ x ử lý nhanh nh ất trên thế gi ớ i. Nhưng Intel đã t ừng chế t ạo ra bộ x ử lý
cho nh ững chiế c máy tính bàn, chứ không ph ải là nh ững chiếc máy cần ph ả i chú tr ọng b ảo qu ản,
gi ữ gìn tuổi th ọ pin. Vì th ế mà Tony Fadell đã tranh lu ận rất gay g ắt về m ột vài v ấn đề dựa trên
ki ểu cấu trúc, mà theo ông là đơn giản hơn và sử dụng ít năng lư ợ ng hơn. Apple đã từng là m ột đối
tác c ủa ARM, và nh ững con chip sử dụng kiểu cấ u trúc này đ ượ c l ắp ráp trong chi ếc iPhone
nguyên b ản. Fadell nh ận đư ợ c nhi ều sự ủng h ộ t ừ những k ỹ sư khác và ch ứ ng minh r ằng mình có
th ể đối ch ất vớ i Jobs và khiến ông thay đ ổi ý kiến. “Th ật sai lầm, sai l ầm, quá sai lầm!” Fadell đã
hét lên trong m ột cu ộc họp khi Jobs c ứ khăng khăng t ốt nh ất là nên tin tưở ng vào Intel để có th ể t ạo
ra m ột con chip di đ ộng. Fadell thậm chí đã đặt bi ểu tư ợ ng Apple lên trên bàn, đe d ọa t ừ ch ức.
Cuối cùng thì Jobs cũng d ị u l ại. “Tôi đang nghe anh đây”, Jobs nói. “Tôi không đị nh chống
l ại những ngư ờ i giỏi nh ất c ủa mình.” Trên th ực t ế, ông đã đi đ ến một giớ i h ạ n khác. Apple đã đăng
ký giấ y phép cho cấu trúc ARM, nhưng cũng mua một nhà máy thiết kế bộ vi x ử lý 150 ngư ờ i t ại
Palo Alto, đượ c gọi là P.A. Semi, và t ạo nên một tùy ch ỉ nh chip h ệ t hống (hệ-th ống-chip) A4, d ựa
trên cấu trúc ARM và đượ c Samsung Hàn Qu ố c sản xu ất ở Hàn Quốc bở i Samsung. Jobs nh ớ l ại:
Trong giớ i hạn hi ệu su ất cao, Intel là thương hi ệu hàng đầu. H ọ đã chế t ạo đư ợ c con chip
nhanh nh ất, nếu bạn không quan tâm đ ến sức m ạnh và giá thành. Nhưng h ọ ch ỉ ch ế t ạo cho b ộ x ử
lý trên m ột con chip, vì thế mà nó sẽ kéo theo r ất nhi ều ph ần khác. A4 của chúng tôi có m ột bộ x ử
lý và những đồ họ a, hệ th ống v ận hành di động, và bộ nhớ ki ểm soát đư ợ c t ất c ả m ọi con chip.
Chúng tôi đã c ố gắng đ ể giúp đ ỡ Intel, nhưng h ọ không nghe chúng tôi là m ấ y. Suốt nhi ều năm
ròng, chúng tôi đã nói v ớ i họ rằng những đ ồ họa của họ rất chán . M ỗi quý chúng tôi lên lị ch m ột
buổi gặp gỡ vớ i tôi cùng ba lãnh đ ạo hàng đầu và Paul otellini. Ban đ ầu, chúng tôi đã cùng tạo nên
những điều tuyệt vờ i. H ọ muốn dự án hợ p tác lớ n này có thể ch ế t ạo ra nh ững con chip cho nh ững
chiếc iPhone trong tương lai. Có hai lý do mà chúng tôi không th ể ti ếp t ục hợ p tác v ớ i Intel. M ột là
họ th ực sự rất ch ậm ch ạp. H ọ gi ống như m ột con tà u ch ạ y bằng hơi nư ớ c vậ y, không m ấ y linh
hoạt. Trong khi chúng tôi lại đang tiến khá nhanh. Hai là chúng tôi không hề muốn ph ải ch ỉ dạ y
cho họ m ọi th ứ, nh ững thứ mà h ọ có th ể đem đi và bán cho các đ ối th ủ của chúng tôi.
Theo lờ i otellini, có th ể ý nghĩa đ ối vớ i iPad khi s ử dụng những con chip Intel, v ấn đề ở
đây, ông nói, là Apple và Intel không th ể đồng thu ận về m ức giá. Ngoài ra, h ọ còn bất đồng ở
chuy ệ n ai sẽ ki ểm soát việc thi ết k ế. Đây l ại là một ví d ụ khác n ữa về ni ềm khao khát củ a Jobs, qu ả
th ực là một khát khao không sao ch ế ngự đượ c, là đi ều ch ỉ nh và kiểm soát từng khía c ạnh c ủ a m ột
s ản ph ẩm, “t ừ da cho đến th ị t”.
Ra mắt s ản ph ẩm, tháng Một năm 2010
S ự kích động thư ờ ng lệ khi Jobs có kh ả năng s ẽ cho ra mắt s ản ph ẩm đượ c rào trong việ c so
s ánh vớ i s ự điên cu ồng xây nên cho iPad ti ết l ộ công khai vào ngày 27 tháng M ột, 2010 t ại San
Francisco. T ờ Economist đã đưa ông lên trang bìa vớ i chi ếc áo choàng, vòng hào quang, và phong
cho ông là “Chúa Jesus c ủa Máy tính bảng”. T ờ Wall Street Journal cũng l ặ p lại đi ều đó bằng bài
vi ết ca ng ợ i: “L ầ n cu ối cùng có m ột s ự háo hức đến vậ y về m ột chi ếc máy tính b ảng, kèm theo một
vài những l ờ i răn d ạ y đư ợ c vi ết trong đó.” Cũng như đ ể nhấn m ạnh b ản ch ấ t l ị ch s ử của sự ra m ắt
này, Jobs đã m ờ i đến rất nhi ều nhân vật k ỳ cựu từ những ngày đ ầu tiên c ủ a Apple. Th ật xúc đ ộng,
James Eason, ngườ i tiến hành ca phẫu thuật ghép gan cho Jobs m ột năm trư ớ c và Jeffrey Norton,
ngư ờ i đã th ự c hiện ca ph ẫ u thu ật c ắt b ỏ khối u tuy ế n t ụ y cho ông vào năm 2004, cũng có mặt trong
hàng ghế khán gi ả, cùng vớ i đó là vợ và con trai ông, và cả em gái Mona Simpson.
Jobs đã làm nên m ột vi ệc ưu vi ệt khi đưa m ột thi ết bị m ớ i vào cuộc sống, cũng như cách
ông đã làm vớ i iPhone ba năm trư ớ c. L ần này ông đã d ựng lên một màn hình th ể hi ện đư ợ c m ột
chiếc iPhone và laptop v ớ i m ột câu h ỏi ghi d ấu ở gi ữa. “Câu h ỏi là, có nơi nào cho đi ều gì đó ở
gi ữa?” ông h ỏi. Cái g ọi là “đi ều gì đó” có thể là v ẫn truy c ập đư ợ c các trang web, email, ảnh, nhạc,
trò chơi, và cả ebook. ông đã từ bỏ tr ọng tâm của ý tưở ng netboo k. “Nh ững chiếc netbook chẳng
t ốt hơn gì c ả!” ông nói. Các khách m ờ i và nhân viên vui mừng. “Nhưng chúng tôi có ‘điều gì đó’ ở
đây. Và chúng tôi g ọi nó là iPad.”
Để nhấn m ạnh b ản ch ất t ự nhiên c ủa iPad, Jobs bướ c đi nh ẹ nhàng đến m ộ t bộ bàn gh ế da
thoải má i (th ực sự thì, theo khi ếu thẩm m ỹ của ông, đó là m ột chi ếc gh ế Le Corbusier và một chi ếc
bàn Eero Saarinen) và nh ấc một chi ế c iPad lên. “Nó còn thân thi ết và gần gũi hơn m ột chi ếc laptop
rất nhi ều”, ông tán dương. Jobs ti ếp tục lư ớ t trang web của New York Times, gửi m ột email cho
Scott Forstall và Phil Schiller (“Wow, chúng tôi thực sự đang gi ớ i thi ệu về iPad”), lư ớ t ngón tay
trên m ột album ảnh, s ử d ụng l ị ch, zoom vào Tháp Eiffel trên Google
Maps, xem một vài đo ạn phim (Star Trek và Up củ a hãng Pixar), cho th ấ y giá sách iBook,
và phát m ột bài hát (“Like a Rolling stone” c ủa Bob Dylan, bài hát mà ông đã chơi tại bu ổi ra m ắt
iPhone). “Thật tuy ệt vờ i ph ải không các b ạn?”, Steve h ỏi.
Ở slide cuối cùng của mình, Jobs nhấn m ạnh một trong nh ững chủ đề quan tr ọng t rong
cu ộc sống c ủa ông, đi ều đã đư ợ c th ể hi ện bở i iPad: d ấu hi ệu cho thấ y m ột góc c ủa Technology
Street và Liberal Arts Street. “Lý do khiến Apple có thể t ạo nên những s ản ph ẩm như iPad đó là
chúng tôi luôn luôn c ố gắ ng tr ở thành giao điểm củ a công nghệ và nghệ thuậ t”, ông k ết lu ận. iPad
là s ự tái sinh s ố hóa của Whole Earth Catalog(^^\ nơi mà sự s áng t ạo đư ợ c th ể hi ện trong những
công c ụ phục vụ cho cu ộ c sống.
Ngay lập tức, ph ản ứng ban đầu không phải là khúc Hallelujah Chorus. iPad chưa th ực sự
có m ặt trên thị trườ ng (nó sẽ đượ c bán rộng rãi vào th áng Tư), và m ột vài ngư ờ i đã xem bản demo
của Jobs không mấ y ch ắc ch ắn về vi ệ c iPad th ực sự là cái gì. M ột chi ếc St eroid trên iPhone ư?
“Tôi đã không b ị th ất vọng như th ế k ể t ừ khi Snooki lôi cu ốn vớ i chương trình th ực t ế The
Situation,” Daniel Lyons (ngườ i đã di ễn “Steve Jobs giả” trong m ột phiên b ản hài hướ c đăng trên
m ạng) viết. T ờ Gizmodo đã chạ y dòng tít bài viết của m ột c ộng tác viên: “Tám điều chán ngắt về
iPad” (không đa nhiệm, không camera, không Flash...). Thậm chí c ả cái tên iPad cũng tr ở thành
m ột s ự gi ễu cợ t, ch ế nhạo trên blog, vớ i nh ững lờ i bình lu ận quái thai v ề các s ản ph ẩm vệ sinh ph ụ
nhữ và những miến g băng vệ sinh. “#iTampon” là chủ đề đượ c trending (đăng tải) nhiều nh ất trên
m ạng xã h ội Twitter nh ữ ng ngày đó.
Ngoài ra là s ự phản hòi tấ t yếu t ừ Bill Gates. “Tôi vẫn nghĩ rằng m ột vài s ự k ết hợ p của âm
thanh, cây bút và bàn phím th ực sự nói theo cách kh ác là chiếc netbook - s ẽ tr ở thành xu th ế ch ủ
đạo”, Gates nói vớ i Brent Schlender. “Nó không gi ống như vi ệ c tôi ngồi đây và c ảm nhận theo
cùng m ột cách mà tôi thấ y vớ i chi ế c iPhone khi nói, ‘ôi Chúa ơi, Microsolf đã không nhắm đến
m ục tiêu đ ủ cao.’ Nó là một bộ đọc t ốt, nhưng ch ẳng có gì ở chiế c iPad khi ến tôi trông thấ y và ròi
nói, ‘ồ, ướ c gì Microsoft cũng có thể t ạo ra nó.’” Gates khăng khăng rằng phương pháp tiếp cận
của Microsoft là sử dụng một chi ếc bút châm cho đ ầu vào s ẽ chiếm ưu thế. “Tôi đã từng d ự đoán
về tương lai máy tính bả ng v ớ i chi ế c bút châm trong nhiều năm”, ông nói vớ i tôi. “Cu ối cùng thì
hoặc là tôi đúng hoặc tôi sẽ ch ết.”
Đêm trướ c ngày thông báo ra m ắt s ản ph ẩm, Jobs đã rất chán n ản và bực bội. Khi chúng tôi
cùng dùng b ữ a t ối trong phòn g bếp nhà ông, ông c ứ đi đi lại l ại quanh bàn đ ể truy cập hòm mail và
lư ớ t web trên chi ế c iPhone của mình.
Tôi đã nh ận đư ợ c khoảng 800 tin nhắn qua email trong suốt 24 gi ờ cu ối cùng trư ớ c bu ổi ra
m ắt. H ầu hết là phàn nàn. Nó không có c ổng USB! Nó chẳng có cái này, cũng ch ẳng có cái kia.
M ột trong số đó là, “M ẹ ki ếp, làm sao mà ông có th ể làm như vậ y?” tôi không mấ y khi tr ả l ờ i l ại,
nhưng lần này thì tôi phả n hòi, “H ẳn là bố m ẹ c ậu sẽ rất t ự hào về cách mà c ậu trư ở ng thành.” Và
vớ i c ả những ngư ờ i mà không th ích cái tên iPad n ữa, cứ th ế cứ th ế. Hôm nay tôi th ực sự rất th ất
vọng. Nó khiến bạn cảm th ấ y có đôi chút n ản lòng.
Hôm đó, ông chỉ nhận đư ợ c đúng m ột cu ộ c đi ện thoại chúc m ừng mà ông r ấ t bi ết ơn, trân
tr ọng, t ừ tham mưu trư ở ng c ủa Tổng thống Obama, Rahm E manuel. Nhưng Jobs nhận ra vào b ữa
t ối r ằng T ổng thống đã không g ọi cho mình. Lu ồng dư luận lắng xuống khi iPad đư ợ c bán vào
th áng Tư, mọi ngườ i bắt đầu chú ý và đ ặt mua nó. C ả t ờ Time l ẫn Newsweek đều đưa nó lên trang
bìa. “Điều khó khăn khi viết về những s ản ph ẩm của Apple là có r ất nhi ều đi ều th ổi ph ồng và
cư ờ ng điệu xung quanh chúng,” Lev Grossman vi ết trên t ờ Time. “M ột khó khăn khác đó là đôi
khi s ự th ổi phòng và cư ờ ng đi ệu đó lại đúng.” S ự dè d ặt ch ủ yếu củ a ông, một đi ều quan tr ọng, đó
là “đôi khi n ó là một thi ết b ị đáng yêu chi phối nội dung, nhưng lại ch ẳng thể t ạo điều kiện cho s ức
s áng t ạo của mình.” Nh ữ ng chiế c máy tính, đặc bi ệt là Macintosh, đã tr ở thành nh ững công c ụ cho
phép con ngườ i có th ể làm ra âm nhạc, nh ững đoạ n phim, các trang web và blog, và có thể đăng tải
chúng kh ắp th ế gi ớ i. “iPad đã chuy ển tầm quan tr ọ ng t ừ s áng t ạo nội dung đến vi ệc đơn thu ần bị
thu hút và ròi thao tác cũng như đi ều khiển nó. Nó khi ến bạn câm l ặng, đưa b ạn quay trở về là m ột
ngư ờ i tiêu dùng thụ động c ủa nh ững ki ệt tác c ủa con ngư ờ i.” Đây là m ột l ờ i phê bình mà Jobs luôn
ghi nh ớ . ông chắ c ch ắn rằng phiên bản tiếp theo của iPad sẽ chú trọng vào nh ững phương thứ c
nhằm tạo đi ều ki ện thuận lợ i cho những s áng t ạo khéo léo đượ c th ực hi ện bở i nh ững ngư ờ i s ử
dụng.
Dòng tít ch ạ y trên trang bìa c ủa Newsweek là “Có đi ều gì tuyệt vờ i về iPad? Tất c ả!”
Daniel Lyons, ngườ i đã t ừng h ạ gục nó vớ i l ờ i ch ỉ trích “Snooki” ở buổi ra m ắt, đã thu l ại ý kiến
của mình. “Ý nghĩ đầu tiên c ủa tôi, khi xem Jobs ch ạ y phiên b ản m ẫu, đó là nó dư ờ ng như ch ẳng
có gì đ ột phá c ả,” anh vi ế t. “Nó ch ỉ là m ột phiên b ản lớ n hơn c ủa chi ế c iPod Touch mà thôi, phải
vậ y không? Sau đó tôi có cơ hội s ử dụng iPad, và nó th ực sự đã chinh ph ục tôi: Tôi muốn có m ột
chiếc.” Lyons, cũng như những ngư ờ i khác, đã nhận ra rằng đây là dự án yêu thích của Jobs, và nó
th ể hi ện tất c ả m ọi đi ều mà ông trông chờ , khao khát, “ông ấ y có m ột kh ả năng phi thườ ng khi tạo
nên các thiết bị mà chúng ta đã không hề bi ết là mình cần, nhưng ròi b ỗng nhiên l ại không thể nào
s ống thiếu chún g đư ợ c”, anh vi ết. “Một hệ th ống đóng có thể là cách duy nh ất để mang đ ến dạng
th ức này c ủ a kinh nghi ệ m techno- Zen mà Apple trở nên nổi tiếng vì đó.”
M ột trong nh ững cuộ c tranh lu ận về iPad t ập trung vào vấn đề r ằng li ệu sự tích hợ p đóng
end-to -end (cu ối -đến- cu ố i) của nó có th ực sự thông minh, tuyệt vờ i hay ròi ph ải gánh ch ị u số phận
bi đát. Google đã b ắt đầu đóng vai giống v ớ i vai di ễn của Microsoft trong thập niên 1980, đưa ra
m ột nền tảng di đ ộng, Android, mở rộng và có thể s ử dụng b ở i t ất c ả những ngư ờ i làm ph ần cứng.
Fortune khơi d ậ y một cu ộ c tranh lu ận về v ấn đề này trong nh ững trang viết c ủ a mình. “Ch ẳng có gì
để bào ch ữa về h ệ th ống đóng c ả”, Michael Copeland viết. Nhưng đồng nghi ệp của anh, Jon Fortt
bác bỏ: “Các hệ th ống đóng đã ph ải gánh ch ị u nh ữ ng lờ i ch ỉ trích th ậm tệ, nhưng thự c t ế chúng đã
vận hành tốt và t ạo nên những ích l ợ i cho ngư ờ i s ử dụng. Ch ắ c hẳn ch ẳng có ai làm công ngh ệ
ch ứng minh đư ợ c đi ều này một cách thuy ết ph ục và lôi cuốn hơn Steve Jobs.
Bằng cách bó bu ộc ph ần cứng, phần m ềm cũng như các dị ch v ụ và ki ểm soát nó m ột cách
ch ặt ch ẽ, Apple nhất đị nh có thể đạt đư ợ c m ột bư ớ c nh ả y vọt so vớ i đối th ủ của mình và t ạo ra
những s ản ph ẩm vô cùng tinh tế.” H ọ đồng ý rằng iPad có thể là s ự th ử nghi ệm thông minh nh ất
cho câu h ỏi này k ể t ừ chiếc Macintosh nguyên b ả n. “Apple đã mang đại di ện control -freak(^®)
của nó đến m ột c ấp độ hoàn toàn m ớ i vớ i con chip A4 đầ y sứ c m ạnh,” Fortt vi ết. “Cupertino hiện
gi ờ có quy ết đ ị nh tuyệt đ ối v ề Silicon, thiết b ị , v ận hành hệ th ống, App store (C ửa hà ng ứng d ụng),
và h ệ th ống thanh toán .”
Jobs đã ghé cử a hàng Apple t ại Palo Alto m ột lát trư ớ c bu ổi chi ều ngày 5 tháng Tư, ngày
mà iPad s ẽ bắt đầu đư ợ c bán rộng rãi. Daniel Kottke - ngư ờ i bạn tâm giao t ừ th ủa còn theo h ọc
trườ ng Reed và nh ững ngày đ ầu ở Apple, đã không còn nung n ấu mối hận vì không đượ c tham gia
cổ phần - cũng có mặt ở đó. “Đã mư ờ i lăm năm ròi và t ối mu ốn gặp l ại c ậu ấ y,” Kottke thu ật l ại chi
ti ết. “Tôi đã b ắt tay Steve và nói r ằng tôi đã sử dụng iPad cho nh ững l ờ i bài hát c ủa mình. Tâm
tr ạng Steve r ất t ốt và chúng tôi đã có m ột cu ộc trò chuy ệ n vui v ẻ sau t ừng đó năm.” Powell và đ ứa
con út của ông, Eve, quan sát t ừ góc cửa hàng.
Wozniak, ngườ i đã t ừng là m ột nhân t ố trong quá trình chế t ạo ph ần cứng và phần mềm mở
hết s ức có th ể, tiếp tục xem xét l ại ý kiến đó. Như thư ờ ng l ệ, ông đã thứ c su ốt đêm vớ i nh ững
ngư ờ i đầ y nhiệt tình đang xếp hàng ch ờ c ửa hàng m ở cửa. L ần này ông đang ở Valley Fair Mall
của San Jose, và lái m ột chi ếc xe cá nhân Segway. M ột phóng viên h ỏi ông v ề bản ch ất đóng của
hệ s inh thái Apple, “Apple đưa b ạn vào một chi ếc xe đẩ y và gi ữ bạn ở đó, nhưng v ẫn có nh ững lợ i
ích đ ối vớ i vi ệc đó,” ông đáp. “Tôi thích nh ững h ệ th ống mở , nhưng tôi là m ột hacker. Tuy nhiên
hầu hết m ọi ngườ i đều muốn nh ững thứ d ễ s ử dụng. Mặt thiên tài c ủ a Steve là ông bi ết đư ợ c làm
th ế nào khi ến cho mọi th ứ tr ở nên đơn giản, vằ đôi khi yêu cầu ki ểm soát đư ợ c t ất c ả m ọi th ứ.”
Câu hỏi “Có điều gì trên chi ếc iPad của bạn?” đã thay th ế cho “Có điều gì trong chiếc iPod
của bạ n?” Ngay cả những thành viên trong đội ngũ của Tổng thống Obama, nh ững ngư ờ i ôm theo
chiếc iPad như là một thương hi ệu công nghệ tân thờ i, cũng chơi trò chơi. Cố vấn kinh tế Larry
Summers có đượ c nh ững thông tin tài chính từ Bloomberg, Scrabble và The Federalist Papers.
Tham mưu trư ở ng Rahm Emanuel thì đọc m ột s ố lư ợ ng l ớ n báo chí; cố vấn Truy ề n thông Bill
Burton đọc t ờ Vanity Fair và xem m ột mùa trọn vẹn của serie truyền hình Lost; còn Ph ụ trách
Chính trị David Axelrod thì theo dõi Giải Bóng rổ Nhà nghề và Đài Phát thanh Qu ốc gia.
Jobs đã g ửi cho tôi m ột câu chuyện khiến ông bị kích thích c ủa Michael Noer đăng trên
trang Forbes.com. Trong khi Noer đang đọ c m ột tiểu thuy ết khoa học hư cấu trên chi ế c iPad của
mình tại m ột nông tr ại vùng thôn dã ở Bogota, Colombia, một bé trai 6 tu ổi lau d ọn chuồn g ng ựa
nghèo kh ổ bướ c đến ch ỗ ông. H ết s ức tò mò, Noer đã đưa cho c ậu bé thi ết bị này. Không cần m ột
l ờ i ch ỉ dẫn, và dù chưa t ừ ng nhìn thấ y m ột chi ế c máy tính nào trướ c đây, cậ u bé đã s ử dụng nó
hoàn toàn theo tr ực giác,” Noer viết. “N ếu đó không ph ải là đi ều kỳ di ệu, thì tôi ch ẳng biết nó là
cái gì n ữ a.” Trong vòng chưa đ ến một tháng, các c ửa hàng Apple đã bán đượ c một tri ệu chi ếc iPad,
nhanh gấp hai lần khi iPhone đ ạt đư ợ c mốc này. Th áng Ba năm 2011, chín tháng sau khi ra m ắt, 15
tri ệu chi ếc đã đư ợ c bán. ở m ột ch ừng mực nào đó, nó tr ở thành s ản ph ẩm tiêu dùng thành công
nhất trong lị ch s ử.
Quảng cáo
Jobs đã không hề vui mừ ng v ớ i nh ững quảng cáo đầu tiên c ủa iPad. Như thườ ng lệ, ông lao
mình vào tiếp th ị quảng bá, làm việc vớ i James Vincent và Duncan Milner ở m ột hãng qu ảng cáo
(bây gi ờ đượ c gọi là TB W A/Media Arts Lab), và vớ i Lee Clow tư vấn t ừ xa. Đo ạn phim qu ảng cáo
đượ c th ực hi ện đầu tiên đ ặt trong m ột khung c ảnh thanh tao, trang nhã, một chàng trai trong chiếc
quần jean bạ c màu và áo n ỉ nằm tựa đầu trên m ột chi ếc gh ế, nhìn vào chi ế c laptop c ủa mình. C ả
đoạn qu ảng cáo không có m ột câu tho ại nào, ch ỉ có nhạc nền là bài “There Goes My Love” của
Blue Van. “Sau khi ch ấp thuận đo ạn phim quảng cáo này, Steve quy ết đị nh r ằng mình ghét nó”,
Vincent nhớ l ại. “ông ấ y cho r ằng nó trông gi ống như m ột qu ảng cáo củ a Pottery Barn v ậ y.” Sau
đó, Jobs nói lại vớ i tôi:
R ất đơn giản để gi ải thích iPod là gì - hàng nghìn bài hát nằm trong chiế c túi của bạn - có
th ể cho phép chúng ta nhanh chóng chuy ể n đến nh ữ ng quảng cáo vớ i h ình bóng có tính bi ểu tư ợ ng.
Nhưng th ật s ự rất khó đ ể gi ải thích đư ợ c iPad là gì. Chúng ta không mu ốn th ể hi ện nó như m ột
chiếc máy tính, cũng không mu ốn làm cho nó trở nên nh ẹ nhàng giống một chi ếc ti vi đáng yêu.
Đoạn phim quảng cáo đầ u tiên đã thể hi ện rằng ngay c ả chính chúng ta cũng không bi ết là mình
đang làm gì. H ọ có m ột chi ếc khăn len và đôi giày Hush Puppies để cảm nhận chúng.
James Vincent đã không h ề nghỉ ngơi trong nhi ều th áng. Vì th ế, khi cu ối cùng thì iPad
cũng đượ c bán và đoạn phim quảng cáo đượ c phát sóng, Vincent đã đưa gia đình mình đ ến Lễ hội
âm nh ạc Coachella ở Palm Springs, nơi quy tụ m ộ t vài ban nh ạc ưa thích c ủ a anh như Muse, Faith
No More, và Devo. Ngay khi anh t ớ i đó, Jobs đã g ọi đi ện đến. “Qu ảng cáo của cậu tệ quá!”, Jobs
nói. “iPad đã cách m ạng hóa cả th ế gi ớ i và chúng ta c ần đi ều gì đó th ật l ớ n lao. Cậu đã đưa cho tôi
cả đống c ứt!”
“Đư ợ c rồi, vậ y anh mu ốn gì?” Vincent h ỏi l ại. “Anh không th ể nói vớ i tôi là anh mu ốn cái
gì.” “Tôi không biết”, Jobs nói. “Cậu ph ải mang đ ến cho tôi điều gì đó m ớ i m ẻ. Cậu đã ch ẳng cho
tôi thấ y đi ều gì cả!”
Vincent cãi lại và bỗng nhiên Jobs trở nên gay găt. “ông ấ y bắt đầu hét vào m ặt tôi,”
Vincent nhớ l ại. Vincent không thay đ ổi, và tình hình leo thang.
Khi Vincent hét lên, “Anh ph ải nói cho tôi bi ết l à anh mu ốn cái gì chứ?” thì Jobs đáp l ại:
“Cậu ph ải cho tôi th ấ y m ột vài th ứ, và tôi s ẽ bi ết đó là gì khi trông th ấ y.” “ ồ tuyệt, hãy đ ể tôi viết
ngắn gọn đi ều đó cho nh ững nhân viên s áng t ạo của mình: Tôi sẽ bi ết nó khi nhìn thấ y nó.”
Vincent thất v ọng đ ến nỗi đã đấm mạnh tay vào tườ ng căn nhà mà anh đang thuê và t ạo nên
m ột vết nứt l ớ n trên đó. Cuối cùng anh cũng ra ngoài v ớ i gia đình mình, ngồi c ạnh b ể bơi, và họ
nhìn anh đầ y lo lắng. “Anh ổn ch ứ?”, v ợ Vincent h ỏi.
Vincent và nhóm củ a anh đã mất hai tu ần để nghĩ và s ắp xếp m ột ý tưở ng mớ i, anh đã đề
nghị gi ớ i thi ệu chúng t ại nhà c ủa Jobs thay vì t ại công ty, v ớ i hy vọng r ằng nơi đó sẽ có m ột môi
trườ ng d ễ ch ị u hơn. Đặt các t ấm bảng trên bàn uố ng cà phê, Vincent và Milner đã đưa ra 12 cách
th ức cả th ả y. M ột trong s ố đó đ ầ y cảm hứng và kích thích. M ột bản khác thì hài hư ớ c, khi Michael
Cera, một di ễn viên hài k ị ch, lang thang trong một căn nhà gi ả và đưa ra nh ững l ờ i bình lu ận vui
vẻ, hài hướ c về những cách thức mà m ọi ngườ i có th ể s ử dụng iPad. Nh ững phương án khác k ết
hợ p iPad vớ i nh ững nhân v ật nổi tiếng, hoặ c là đặt hoàn toàn nó trong một nền màu trắng, hoặ c
di ễn xu ất trong m ột tiểu ph ẩm hài nhỏ, ho ặc là thuyết minh sản ph ẩm m ột cách th ẳng thắn, chân
th ực.
Sau khi xem xét các l ựa ch ọn, Jobs đã nhận ra mình th ực sự muốn gì. Không hài hướ c,
cũng chẳng có ngư ờ i nổi tiếng nào, mà cũng không ph ải là giớ i thi ệu về s ả n ph ẩm. “Phải đưa ra
m ột tuyên b ố,” ông nói.
“Nó cần ph ải là một bản tuyên ngôn. Nó phải l ớ n lao.” Jobs đã tuyên bố rằ ng iPad s ẽ thay
đổi c ả th ế gi ớ i , và ông mu ốn một chi ến dị ch c ủng c ố cho tuyên b ố đó. Các công ty khác s ẽ sao chép
những chiếc máy tính b ả ng này ch ỉ trong vòng m ột năm ho ặc hơn, ông nói, và Jobs mu ốn m ọi
ngư ờ i ph ải nh ớ r ằng iPad mớ i là điều th ực sự. “Chúng ta muốn nh ững đoạn qu ảng cáo ph ải đại
di ện và tuyên b ố cho nh ữ ng gì chúng ta đã làm đư ợ c.”
Jobs đ ột nhiên tr ở l ại chi ếc gh ế của mình, trông ông có hơi m ệt m ỏi nhưng v ẫn tươi cư ờ i.
“Bây giờ chúng ta ph ải đưa ra một thông đi ệp”, ông nói. “Hãy b ắt tay vào làm việc đi.”
R ồi Vincent và Milne r, cùng v ớ i ngườ i viết k ị ch b ản qu ảng cáo Eric Grunbaum, b ắt đ ầu t ạ o
nên nh ững gì mà họ đặt cho “Bản tuyên ngôn” (Manifesto). Nó s ẽ là m ột không gian t ốc độ nhanh,
vớ i nh ững b ức tranh gây ấn tư ợ ng sâu sắc và nh ững nhị p điệu vang vọng, và nó ph ải tuyên b ố r ằng
iPad chính là một cu ộc cách m ạng. Âm nhạ c họ l ựa ch ọn là giọng hát của Karen o vớ i bài hát
“Gold Lion” c ủa nhóm Yeah Yeah Yeahs. Như nh ững điều kỳ di ệu mà iPad đã mang đến, m ột
gi ọng nói m ạnh mẽ s ẽ tuyên b ố, “iPad r ất m ỏng. iPad r ất đẹp... Nó là sứ c m ạnh điên cuồng. Nó là
phép màu... Đó là những đoạn phim, những b ứ c ảnh. Nhiều hơn nh ững cuốn sách bạn có th ể đọc
đượ c trong su ốt cu ộ c đờ i c ủa mình. Nó thự c sự là m ột cu ộc cách m ạng, và nó m ớ i ch ỉ vừa bắt đ ầu.”
M ột khi đo ạn qu ảng cáo “Manifesto” bắt đ ầu trình chi ếu, nhóm l ại thử đi ều gì đó m ềm mại,
dễ ch ị u hơn, như là nh ững ghi chép về m ột ngày trong cuộ c sống c ủ a nhà làm phim trẻ Jessica
Sanders. Jobs thích chúng - trong một khoảnh khắ c ng ắn ng ủi. Sau đó ông quay sang ch ống l ại
chúng vớ i cùng m ột lý do đã đưa ra cho quảng cáo đầu tiên theo phong cách Pottery Barn. “Chết
ti ệt!”, ông hét lên, “chúng trông gi ống như m ột qu ảng cáo Visa, m ột ki ểu đi ển hình của các hãng
quảng cáo.”
Ông đã luôn đòi hỏi nh ững quảng cáo khác bi ệt và m ớ i m ẻ, nhưng cuối cùng Jobs nh ận ra
rằng mình không muốn phân tán t ừ những gì mà ông suy nghĩ về ti ếng nói của Apple. Đối v ớ i ông,
ti ếng nói này phải có sự khác bi ệt c ủ a ch ất lư ợ ng: đơn giản, có tính tuyên b ố, rõ ràng. “Chúng tôi
đã bướ c theo cách đó, và nó dư ờ ng như cứ l ớ n dần lên trong Steve, r ồi bất ch ợ t ông nói, Tôi ghét
đi ều đó, nó không phải là Apple,’” Lee Clow nh ắc l ại. “ông nói v ớ i chúng tôi là hãy quay l ại vớ i
ti ếng nói của Apple. Nó là m ột giọng nói rất đơn gi ản và chân th ực.” Và rồi h ọ đã tr ở l ại ý tưở ng v ề
m ột nền màu trắng rõ ràng, s áng s ủ a, vớ i m ột cách tiếp cận gần gũi t ất c ả những điều rằng “iPad
là...”.
Các ứng d ụ ng
Các qu ảng cáo iPad không ph ải là về các thiết bị , mà là v ề những gì b ạn có th ể làm vớ i
chúng. Thự c sự thì thành công củ a nó đến không chỉ bở i cái hay c ủa ph ần cứng mà còn vì c ả những
ứng d ụng nữ a (vi ết t ắt là apps), nó cho phép b ạn th ỏa thích vớ i t ất c ả những hoạt động thú vị . Có
đến hàng nghìn - và s ẽ s ớ m là hàng trăm nghìn - những ứng d ụng mà bạn có th ể t ải về miễn phí
hoặc ch ỉ m ất m ột vài đô -la. B ạn có th ể bắn nh ững con chim d ữ vớ i một cú đánh m ạnh b ằng những
ngón tay của mình, theo dõi cổ phiếu của bạn, xem các bộ phim, đọc sách báo và t ạp chí, n ắm bắt
những tin t ức mớ i nh ất, chơi trò chơi, và t ận hư ở ng những kho ảng th ờ i gian tuy ệt v ờ i. M ột l ần nữa,
s ự tích hợ p củ a ph ần cứng, phần m ềm, và b ộ dự tr ữ trong máy đã làm cho nó tr ở nên thật dễ dàng,
đơn gi ản. Nhưng nh ững ứng d ụng này cũng cho phép nền tảng mở , theo một cách th ứ c đư ợ c ki ểm
soát, đ ối vớ i nh ững nhà phát tri ển bên ngoài muốn tạo ra m ột ph ần m ềm và nội dung cho nó - tính
m ở , đó là, gi ống như m ột khu vư ờ n cộng đ ồng có cổng và đượ c giám sát một cách cẩn th ận.
Các ứng d ụng phi thườ ng b ắt đầu vớ i chi ế c iPhone. L ần đầu tiên ra mắt vào năm 2007, nó
không có các ứng d ụng mà bạn có th ể mua từ những nhà phát tri ển bên ngoài, và ban đ ầu Jobs đã
chống lại vi ệ c cho phép họ. Ông đã không mu ốn nh ững ngư ờ i bên ngoài t ạo ra các ứng d ụng dành
cho iPhone có th ể gây ra nh ững r ắ c rối, lây lan vi rút cho máy, ho ặ c làm hư hại và ảnh hưở ng đ ến
s ự toàn v ẹn của nó.
Thành viên ban giám đốc Art Levinson là m ột trong nh ững ngư ờ i thúc đẩ y các ứng d ụng
của iPhone. “Tôi đã g ọi cho ông ấ y tớ i nửa tá cu ộc đi ện thoại để vận động cho tiềm năng của các
ứng d ụng,” ông nh ớ l ại. N ếu Apple không cho phép và thực sự khuyế n khích chú ng, một nhà s ản
xuất đi ện thoại thông minh khác s ẽ bắt đầu tiến hành vi ệc này, và mang đ ế n cho b ản thân nó m ột
l ợ i th ế cạnh tranh. Giám đ ốc tiếp th ị Phil Schiller đồng ý vớ i đi ều này. “Tôi đã không thể tư ở ng
tư ợ ng đượ c rằng chúng tôi có thể làm ra đư ợ c m ột th ứ gì đó đ ầ y sức m ạnh như iPhone và không
cho phép nh ững nhà phát tri ển có th ể t ạo nên đượ c nhi ều nh ững ứng d ụng”, ông nói. “Tôi biết là
các khách hàng s ẽ yêu thích chúng.” Nhà đ ầu tư m ạo hi ểm John Doerr tranh lu ận rằng việc cho
phép những ứng d ụng s ẽ s ản sinh ra vô kh ối nh ững doanh nhân m ớ i, nh ững ngư ờ i s ẽ t ạo ra nh ững
dị ch v ụ m ớ i.
Ban đầu, Jobs ch ấm dứt cu ộc th ảo lu ận, m ột ph ần vì ông đã cảm th ấ y nhóm c ủa mình
không thể đoán đị nh, lườ ng h ết đư ợ c nh ững s ự phức t ạp liên quan đến chính tr ị của bên thứ ba p hát
tri ển các ứng d ụng. Ông mu ốn tiêu điểm. “Vì thế mà Jobs không muốn nói chuyệ n về nó n ữ a,”
Schiller nói. Nhưng ngay khi iPhone ra m ắt, Jobs lại s ẵn lòng lắng nghe cuộ c tranh lu ận. “Mỗi l ầ n
đối tho ại, Steve dườ ng như đã c ở i m ở hơn đôi chút,” Levinson nói. Đã có những cuộ c th ảo lu ận tự
do và sôi nổi t ại bốn cu ộc họp ban lãnh đ ạo.
Jobs đã s ớ m nhận ra rằng có một cách để có đượ c nh ững gì tốt đẹp nh ất c ủa cả hai thế gi ớ i.
Ông cho phép nh ững ngư ờ i bên ngoài có th ể vi ết các ứng d ụng, nhưng h ọ s ẽ phải tuân thủ những
tiêu chuẩn ch ặt ch ẽ, đã đư ợ c th ử nghi ệm, kiểm tra và thông qua bở i Apple, và ch ỉ đượ c bán qua
iTunes store. Đó là m ột cách để thu đư ợ c l ợ i th ế t ừ vi ệc cho phép hàng nghìn nhà phát tri ển ph ần
m ềm trong khi vẫn giữ l ại s ự ki ểm soát đủ để b ảo vệ cho sự t oàn vẹn củ a iPhone và sự đơn gi ản của
những tr ải nghi ệm khách hàng. “Đó hoàn toàn là m ột gi ải pháp tuyệt vờ i để có th ể th ỏa mãn đư ợ c
nhu cầu”, Levinson chia s ẻ. “Nó mang đ ến cho chúng tôi những ngu ồn lợ i c ủa tính mở trong khi
vẫn duy trì sự ki ểm soát đóng.”
C ửa hàng ứng d ụng dành cho iPhone đã đượ c m ở trên iTunes vào tháng Bả y năm 2008;
lư ợ t t ải về th ứ m ột t ỷ là vào 9 tháng sau đó. Thờ i đi ểm iPad đượ c bày bán r ộng rãi vào tháng Tư
năm 2010, đã có tớ i 185.000 ứng d ụng cho iPhone. H ầu hết chúng cũng có th ể đượ c sử dụng trên
iPad, măc dù h ọ đã không tận dụng đượ c l ợ i th ế c ủa m ột kích c ỡ màn hình lớ n hơn. Nhưng ch ỉ
trong vòng chưa đế n năm th áng, nh ững ngư ờ i phát tri ển đã vi ết t ớ i 25 .000 ứng d ụng mớ i đặc bi ệt
dành cho iPad. Tháng Bả y năm 2011, đã có t ớ i 500.000 ứng d ụng dành cho c ả hai thi ết bị này, và
có hơn 15 t ỷ lư ợ t t ải vê.
C ửa hàng ứng d ụng đã t ạ o nên một ngành công nghiệp trong chốc lát. Trong nh ững căn
phòng, gara ô tô và nh ững công ty truy ề n thông l ớ n, các doanh nhân đã t ạo ra nh ững ứng d ụng
m ớ i. Công ty đ ầu tư m ạo hi ểm của John Doerr đã t ạo ra m ột iFund v ớ i 200 triệu đô -la đ ể cấp vốn
cho nh ững ý tư ở ng tốt nh ất. Các báo và t ạp chí v ốn không cho phép đ ọ c mi ễ n phí đã trông thấ y một
cơ h ội cu ối cùng để nhốt vị th ần của mô hình kinh doanh còn nhi ều hồ nghi và chưa rõ ràng này
vào trong chai. Những nhà xu ất b ản tân ti ến đã tạo nên những tờ t ạp chí m ớ i, nh ững cuốn sách mớ i,
những tài liệu họ c t ập ch ỉ dành cho iPad. Ví d ụ, Nhà xu ất bản Callaway, nơi đã xuất bản nh ững
cu ốn sách từ Madonna’s Sex cho đến Miss Spider’s Tea Party, đã quy ết đị nh “qua sông đốt
thuy ền” khi từ bỏ vi ệc in ấn thuần túy, để t ập trung vào xu ất bản nh ững cuố n sách vớ i tư cách là
các ứng d ụng tương tác. Th áng Sáu năm 2011, Apple đã chi trả 2,5 t ỷ đô-la cho nh ững ngư ờ i phát
tri ển các ứng d ụng.
iPad và những thiết bị k ỹ thuật s ố dựa trên n ền t ảng ứng d ụng đã báo trướ c m ột thay đ ổi cơ
bản trong th ế gi ớ i kỹ thu ật s ố. Quay lại th ập niên 1980, lên mạng thư ờ ng có nghĩa là liê n lạc vớ i
m ột d ị ch v ụ như AOL, CompuServe, hay Prodigy nh ững nơi thu phí cho việc truy c ập vào một khu
vườ n đư ợ c giám sát c ẩn th ận đư ợ c bao b ọ c bở i di ệ n tích bề m ặt cùng vớ i nh ững chiếc cổng thoát
hi ểm, cho phép những ngư ờ i s ử dụng can đảm có thể ti ếp cận vớ i Internet ở phạm vi rộng. Giai
đoạn th ứ hai b ắt đầu từ đầu nh ững năm 1990, là sự xuất hi ện của nh ững trình duy ệt cho phép mọi
ngư ờ i có th ể t ự do truy c ập vào Internet, sử dụng Giao thức truyền tải siêu văn b ản củ a World
Wide Web, dẫn đến hàng tỷ trang web khác nhau. Các công cụ tìm ki ếm xuất hi ện giúp m ọi ngườ i
có th ể dễ dàng tìm ki ếm những trang web mà họ muốn. S ự ra đ ờ i c ủa iPad đã báo hiệu m ột hình
m ẫu m ớ i. Các ứng d ụng có s ự tương đồng v ớ i nh ững khu vườ n có tư ờ ng bao quanh ngày xưa.
Những ngư ờ i s áng t ạo có th ể áp phí và đưa ra nhi ề u ch ức năng dành cho ngườ i s ử dụng đ ể t ải
chúng về. Nhưng s ự phát tri ển của các ứng d ụng cũng có ý nghĩa rằng tính m ở và b ản ch ất kết nối
của web đã “hy sinh”. Các ứng d ụng không dễ dàng đượ c tìm kiếm hoặ c kết nối. B ở i l ẽ iP ad cho
phép quy ề n sử dụng các ứng d ụng l ẫn các trình duy ệ t web, và đó không ph ải là ở cu ộc chi ến vớ i
các mô hình web. Nhưng nó đã cung cấp m ột s ự thay th ế, cho c ả ngư ờ i tiêu dùng l ẫn nh ững ngư ờ i
s áng t ạo nội dung.
Báo chí và Xu ất bản
Vớ i chi ếc iPod, Jobs đ ã chuy ển sang công vi ệc kinh doanh âm nh ạc. V ớ i iPad và C ửa hàng
ứng d ụng c ủa nó, ông đã b ắt đầu tiến đến tất c ả m ọ i phương ti ện truyề n thông, t ừ xuất bản cho đ ến
báo chí, cho tớ i truyền hình và đi ện ảnh.
Sách là m ột m ục tiêu rõ ràng, khi Kindle c ủa Amazon đã th ể hi ện sự khao khát đ ối vớ i
những cuốn sách đi ện tử. Vì vậ y, Apple đã tạo nên iBook store, nơi bán những cuốn sách đi ện tử
theo cách th ứ c mà iTunes Store đã bán những bài hát. Mặc dù vậ y, v ẫn có m ột s ự khác bi ệt nho
nhỏ trong mô hình kinh doanh này. Đối vớ i iTunes store, Jobs khăng khăng r ằng t ất c ả các bài hát
đã đượ c bán vớ i một cái giá không h ề đắt, ch ỉ có 99 cent lúc ban đ ầu. Jeff Bezos c ủa Amazon đã c ố
gắng thực hiện phương pháp tương tự vớ i nh ững cuốn sách điện t ử, bán chúng hầu hết vớ i giá 9,99
đô-la. Jobs đã đưa ra cho các nhà xuất bản đi ều mà ông đã từ ch ối các hãng đĩa: H ọ có th ể đặt bất
cứ cái giá nào h ọ muốn cho những hàng hóa của mình tại iBook store, và Apple s ẽ nhận đư ợ c 30%.
Ban đầu thì đi ều đó đồng nghĩa v ớ i nh ững mức giá cao hơn so vớ i Amazon. Nhưng t ại sao m ọi
ngư ờ i vẫn đặt mua ở Apple nhi ều hơn? “Đó không ph ải là trư ờ ng h ợ p này,” Jobs tr ả l ời, khi Walt
Mossberg đặt cho ông câu hỏi đó tại s ự ki ện ra m ắ t iPad. “Cái giá thự c ra là như nhau.” Và ông đã
đúng.
M ột ngày sau khi iPad ra m ắt, Jobs đã chia s ẻ vớ i tôi suy nghĩ c ủa ông v ề những cuốn sách:
Amazon đã thật sai lầm. Amazon trả giá bán buôn cho m ột s ố cu ốn sách, ròi b ắt đ ầu bán l ạ i
vớ i giá th ấp hơn 9,99 đô-la. Các nhà xu ất b ản ghét điều này - họ nghĩ rằng nó có thể làm m ất đi kh ả
năng bán những cuốn sách bìa c ứng c ủ a họ vớ i giá 28 đô-la. Vì thế th ậm chí trướ c cả khi Apple
bướ c vào tình huống này, m ột vài nhà cung cấp sách đã bắt đầu từ ch ối bán sách trên Amazon. Do
đó chúng tôi đã nói vớ i các nhà xu ất bản, “Chúng tôi sẽ đến vớ i mô hình môi giớ i trung gian, nơi
các bạn đặt ra m ột m ức giá còn chúng tôi sẽ thu về 30%, đúng là khách hàng s ẽ phải trả thêm một
chút, nhưng dù sao đó cũng chính là nh ững gì các bạn muốn.” Nhưng chúng tôi cũng yêu c ầu m ột
s ự bảo đảm rằng n ếu có bất c ứ ai khác đan g bán những cuốn sách rẻ hơn chúng tôi, thì chúng tôi
cũng có thể bán chúng vớ i mức giá th ấp hơn. Vì th ế mà h ọ đã đ ến Amazon và nói, “Các anh hãy ký
hợ p đồng v ớ i m ột hãng ho ặc chúng tôi sẽ không cung cấp sách cho các anh nữa.”
Jobs nhận th ức đư ợ c rằng mình đang c ố gắng “l ợ i c ả đôi đư ờ ng” khi đ ến vớ i âm nhạc và
sách báo. ông đã từng t ừ ch ối cung cấp cho các công ty âm nh ạc m ột mô hình trung gian môi gi ớ i
và không cho phép họ đ ặ t ra nh ững mức giá c ủa riêng mình. Tại sao? Bở i vì ông không phải làm
vậ y. Nhưng vớ i sách thì ông đã làm thế. “Chúng tôi không ph ải là nh ững ngư ờ i đầu tiên trong vi ệ c
kinh doanh sách”, ông nói. “Trong b ối c ảnh như th ế này, đi ều tốt nh ất đối vớ i chúng tôi là thực
hi ện bư ớ c akido và k ết thúc vớ i mô hình trung gian môi gi ớ i. Và chúng tôi đ ã tiến hành m ặc cho
những khó khăn và tr ở ngại.”
Ngay sau khi diễn ra sự ki ện ra m ắt iPad, Jobs đã đ ến New York vào th áng Hai năm 2002
để gặp gỡ những nhà đi ề u hành trong lĩnh v ực kinh doanh báo chí. Trong hai ngày, Jobs đã g ặp gỡ
Rupert Murdoch, con trai ông là James, và nhà qu ản lý của t ờ Wall Street Journal của họ: Arthur
Sulzberger Jr. và nh ững nhà đi ều hành hàng đ ầu của t ờ New York Times', cũng như các nhà điều
hành tờ Time, Fortune, và những t ờ t ạp chí khác c ủa Time Inc.. “Tôi muốn m ờ i nh ững t ờ báo có
ch ất lư ợ ng,” ông nói. “Chúng tôi không th ể phụ thuộc vào các blogger đ ể có đượ c nh ững tin t ức
m ớ i. Chúng tôi c ần đến nh ững phóng viên và biên tập viên thực sự hơn bao giờ hết. Do đó tôi
muốn tìm cách giúp mọi ngườ i t ạo nên những s ản ph ẩm số mà h ọ th ực sự có th ể ki ếm ra tiền từ
đó.” Vì th ế ông đã làm cho mọi ngườ i ph ải trả ti ề n cho âm nh ạc và ông hy vọng mình cũng có th ể
làm vậ y đối vớ i báo chí.
M ặc dù vậ y, các nhà xuất bản đã tr ở nên thận trọng và dè dặt đối vớ i “dây cứu sinh” của
Jobs. Điều đó có nghĩa là h ọ phải trả 30% doanh thu cho Apple, nhưng đó không phải là v ấn đề l ớ n
nhất. Quan tr ọng hơn, những nhà xu ất bản lo ng ại r ằng, dư ớ i hệ th ống c ủa Jobs, họ không còn duy
trì đượ c m ối quan hệ tr ực tiếp vớ i nh ững ngư ờ i đăng ký c ủ a mình n ữa; h ọ s ẽ không có đị a ch ỉ
email và s ố th ẻ tín d ụng đ ể có th ể tính hóa đơn cho khách hàng, giao ti ếp và liên l ạc vớ i họ, tiếp thị
quảng bá đ ến họ những s ả n ph ẩm mớ i nh ất. Thay vào đó, Apple sẽ có các khách hàng, tính hóa đơn
và thu đư ợ c nh ững thông tin c ủa họ trên hệ th ống d ữ li ệu của riêng mình. Và do chính sách b ảo mật
của mình, Apple sẽ không chia sẻ những thông tin đó tr ừ khi khách hàng cho phép h ọ làm vậ y.
Jobs đ ặc bi ệt quan tâm đ ến New York Times, theo ông đó là m ột t ờ báo l ớ n có nguy cơ xuống dốc
bở i l ẽ nó không tìm cách để đáp ứng n ội dung số. “Tôi đã quy ết đị nh r ằng một trong nh ững dự án
tr ực tiếp của mình trong năm nay là sẽ cố gắng đ ể m ờ i - dù h ọ có muốn hay không - t ờ The Times",
ông nói v ớ i tôi vào đầu năm 2010.
Trong suốt chuy ế n vi ếng thăm New York, Jobs đã dùng bữa t ối vớ i 50 nhà điều hành hàng
đầu củ a t ờ The Times trong một phòng ăn t ối riêng tư ở Pranna, một nhà hàng châu Á. (Ông đã g ọi
sinh tố xoài và mì ống chay, cả hai món đều không có trong th ực đơn.) T ại đây, ông đã l ấ y chi ếc
iPad ra và gi ải thích tầm quan tr ọng c ủa vi ệ c đưa ra một m ức giá khiêm tốn nh ất cho những n ội
dung s ố mà các khách hàng có th ể ch ấp nh ận.
Ông v ẽ ra m ột đ ồ th ị về số lư ợ ng đ ộc giả và những m ức giá khả thi. Sẽ có bao nhiêu đ ộc giả
tìm đọc nếu tờ The Times miễn phí? Họ s ẽ bi ết câu tr ả l ờ i cho đ ến đi ểm tận cùng của đò th ị , b ở i l ẽ
họ đang cung c ấp nội dung mi ễn phí trên trang web và có khoảng 20 triệu lư ợ t ghé thăm thư ờ ng
xuyên. Và n ếu đưa ra mộ t m ức giá th ự c sự đắt đỏ? Họ cũng có d ữ li ệu ở trên đó; thu c ủa nh ững
ngườ i đăng ký báo gi ấ y hơn 300 đô-la m ột năm và có đư ợ c khoảng 1 tri ệu độc gi ả. “Các anh hãy
đến vớ i đi ểm gi ữa, nơi có khoảng 10 triệu ngườ i đăng ký s ố ”, Steve nói v ớ i họ. “Và điều đó có
nghĩa là những tài kho ản đăng ký s ố của các anh nên thật r ẻ và d ễ dàng, ch ỉ m ột cái nh ấp chuột và
nhiều nh ất là 5 đô-la m ỗi th áng.”
Khi một trong các nhà đi ều hành củ a The Times quả quyế t r ằng t ờ báo cần thông tin về
email và thẻ tín d ụng c ủa t ất c ả những ngư ờ i đăng ký, ngay c ả khi họ đăng ký thông qua Cửa hàng
ứng d ụng, Jobs nói r ằng Apple không thể cung c ấ p nh ững d ữ li ệu đó đư ợ c. Đi ều đó khiến nhà điều
hành trên tức gi ận. “Đư ợ c thôi, anh có thể hỏi khách hàng điều này, nhưng nếu họ không tình
nguyện cung cấp cho anh, thì đừng có trách tôi”, Jobs nói. “N ếu anh không thích thì đừng s ử dụng
chúng tôi n ữa. Tôi không phải là ngư ờ i đặt anh vào tình th ế này. Anh là m ột trong số những ngư ờ i
đã phải dành 5 năm qua đ ể cung c ấp mi ễn phí tờ báo điện t ử của mình và rồi ch ẳng thu đư ợ c thông
tin thẻ tín d ụng c ủa bất c ứ ai.”
Jobs cũng đã g ặp riêng Arthur Sulzberger Jr. “Arthur là một ngườ i r ất t ốt bụng, và anh ấ y
th ực sự rất t ự hào về công trình mớ i c ủa mình, như là anh ấ y nên thế”, Jobs nói. “Tôi đã nói chuyệ n
vớ i Arthur v ề đi ều mà theo tôi là anh ấ y nên làm, nhưng rồi ch ẳng có chuyệ n gì xả y ra c ả.” Nó mất
t ớ i một năm, và vào tháng Tư năm 2008, tờ The Times b ắt đ ầu ra mắt ấn bản kỹ thu ật s ố và bán cho
m ột vài tài kho ản đăng ký thông qua Apple, không thay đổi nh ững chính sách mà Jobs đã thiết l ập.
Tuy nhiên, t ờ báo quyế t đị nh thu ướ c ch ừng b ốn l ần 5 đô-la phí hàng th áng mà Jobs t ừng g ợ i ý.
Tòa nhà Time- Life do chủ bút c ủa Time là Rick Stengel làm chủ. Jobs quý mến Stengel,
ngư ờ i đã chuy ển m ột nhóm tài năng do Josh Quitter lãnh đạo, để t ạo nên phiên bản iPad dành cho
t ạp chí từng tuần. Nhưng ông đã r ất th ất vọng khi trông th ấ y Andy Serwer c ủa Fortune ở đó. Đầ y
gay gắt và dữ dội, Jobs nói v ớ i Serwer vi ệc ông đã t ức gi ận như thế nào về câu chuy ệ n đăng trên
Fortune hai năm về trướ c, ti ết l ộ chi tiết tình tr ạng s ức kh ỏe của ông và gây ra những v ấn đề về cổ
phiếu. “Các anh đã đá cho tôi một cú khi tôi ngã”, ông nói.
Vấn đề l ớ n hơn ở Time Inc. cũng là v ấn đề ở The Times: Tờ t ạp chí này không mu ốn Apple
s ở hữu nh ững ngư ờ i đăng ký c ủ a nó và ngăn nó trực tiếp thu hóa đơn. Time Inc. đã mu ốn tạo nên
những ứng d ụng có thể d ẫ n trực tiếp độc giả đến vớ i trang web của nó để đăng ký đ ặt báo. Apple đã
t ừ ch ối. Khi Time và nhữ ng tờ t ạp chí khác cho phép các ứng d ụng có thể làm đư ợ c điều này, họ đã
t ừ ch ối quyề n trong C ửa hàng ứng d ụng.
Jobs c ố gắng thương lượ ng cá nhân vớ i CEO củ a Time Warner, Jeff Bewker, m ột ngườ i
theo ch ủ nghĩa thực dụng đ ầ y hi ểu bi ết vớ i s ức hút mạnh mẽ đối vớ i ôn g. H ọ đã th ỏa thu ận vớ i
nhau m ột vài năm trướ c về đoạn video đượ c đăng ký dành cho iPod Touch; th ậm chí Jobs cũng
không thể thuy ết ph ụ c ông ti ến hành m ột th ỏa thu ậ n liên quan đến vi ệc HBO đ ộc quyền phát sóng
những b ộ phim ngay sau khi công chiếu, và ông ng ưỡ ng mộ s ự th ẳng thắn và phong cách quyết
đoán của Bewkes. về phầ n mình, Bewkes cũng tôn trọng khả năng c ủ a Jobs khi v ừa là ngườ i suy
nghĩ có chiến lư ợ c l ại v ừa là bậ c thầ y của nh ững chi tiết nh ỏ nhặt nh ất. “Steve có th ể s ẵn sàng đi từ
những nguyên t ắc bao quát cho t ớ i nh ững chi tiết cụ th ể” ông nói.
Khi Jobs gọi cho Bewkes để ti ến hành m ột thỏa thu ận về vi ệc để những tờ t ạ p chí Time Inc.
xuất hiện trên iPad, ông b ắt đ ầu cảnh báo rằng ngành in ấn “th ật tòi tệ”, và rằng “mọi ngườ i thự c sự
muốn nh ững t ờ t ạp chí của anh”, và Apple đang mang đến cơ hội có th ể bán s ản ph ẩm cho những
ngư ờ i đăng ký s ố hóa, nhưng “các anh chẳng biết nắm lấ y cơ hội gì c ả.” Bewkes đã không đồng ý
vớ i bất c ứ đi ều gì trong số đó. ông nói mình rất vui khi Apple có thể bán cho nh ững ngư ờ i đăng ký
s ố cho Time Inc. Vi ệc Apple thu 30% cũng chẳng phải vấn đề. “Tôi đang nói v ớ i anh ngay lúc này
là, n ếu anh bán m ột tài kho ản đăng ký cho chúng tôi, anh có th ể có đượ c 30%”, Bewkes nói v ớ i
Jobs.
“Đư ợ c r ồi, đó là m ột s ự xúc tiến hơn là tôi thực hiện nó v ớ i b ất c ứ ai”, Jobs đáp. “Tôi ch ỉ có
m ột câu h ỏi thôi”, Bewkes ti ếp lờ i. “N ếu anh bán m ột tài khoản đăng ký cho tờ t ạp chí c ủa chúng
tôi, và tôi tr ả cho anh 30%, vậ y thì ai sẽ s ở hữu ngườ i đăng ký đó anh hay tôi?” “Tôi không thể
cung c ấp tất c ả những thông tin của nh ững ngư ờ i đăng ký b ở i vì đó là chính sách b ảo m ật c ủ a
Apple”, Jobs đáp.
“Đư ợ c rồi, sau đó chúng ta s ẽ tìm ra m ột đi ều gì khác, b ở i l ẽ tôi không mu ốn toàn bộ s ố
ngư ờ i đăng ký c ủa mình tr ở thành ngườ i đăng ký c ủa anh, dành cho anh r ồ i sau đó t ập kết hết ở
Apple Store,” Bewkes nói. “Và điều tiếp theo anh s ẽ làm, m ột khi anh đã đ ộc quyề n, là tr ở l ại và
nói v ớ i tôi rằng tờ t ạp chí c ủa tôi không nên bán m ộ t b ản giá 4 đô - la mà thay vào đó nên là 1 đô -la.
Nếu có ngườ i đăng ký đ ặ t mua t ờ t ạp chí c ủa chúng tôi, chúng tôi c ần bi ết đó là ai, chúng tôi c ần
phải t ạo ra m ột m ối giao tiếp trực tuy ế n vớ i nh ững ngư ờ i này, và có quy ền thông báo vớ i họ m ột
cách tr ự c tiếp về những thay đ ổi.”
Jobs đã có một khoảng thờ i gian d ễ th ở hơn vớ i Rupert Murdoch, ch ủ s ở hữu của
News Corp., sở hữu Wall street Journal, New York Post, cCing r ất nhi ều tờ báo trên khắp
th ế gi ớ i, Fox Studios và Fox News Channel. Khi Jobs gặp Murdoch và nhóm c ủa ông, họ cũng đã
nhấn m ạnh r ằng h ọ nên chia sẻ quyền sở hữu củ a nh ững ngư ờ i đăng ký thông qua C ử a hàng ứng
dụng. Nhưng khi Jobs từ ch ối, m ột điều thú v ị đã x ả y ra. Murdoch đư ợ c biết đến như một ngườ i d ễ
thuy ết ph ục, nhưng ông biết r ằng mình không có ảnh hưở ng trong vấn đề này, vì vậ y mà ông đã
ch ấp nh ận nh ững giớ i hạ n của Jobs. “Chúng tôi thích sở hữu nh ững ngư ờ i đăng ký hơn, và chúng
tôi đư ợ c thúc đẩ y bở i điề u này”, Murdock kể l ại. “Nhưng Steve s ẽ không th ực hiện một thỏa t huận
dựa trên nh ững điều này, vì th ế mà tôi nói, ‘Đượ c ròi, hãy cứ làm như vậ y đi.’ Chúng tôi không
th ấ y có bất c ứ lý do gì mà ph ải nghiêm tr ọng v ấn đề lên c ả. Cậu ấ y không chị u khuất ph ục - và tôi
cũng s ẽ không ch ị u khuất ph ục nếu ở vào vị trí c ủ a Jobs - vì th ế mà tôi đã đồng ý.”
Murdoch thậm chí đã ra mắt m ột t ờ nhật báo đi ện t ử, t ờ The Daily, đượ c “đo ni đóng giày”
đặc bi ệt dành riêng cho iPad. Nó s ẽ đượ c bán trong Cửa hàng ứng d ụng, cùng nh ững nguyên t ắc
đượ c Jobs đưa ra, vớ i m ức giá 99 cent một tu ần. B ản thân Murdoch đã đưa nhóm c ủa mình đ ến
Cupertino đ ể trình bày b ả n thi ết kế dự ki ến. Không m ấ y ng ạ c nhiên, Jobs ghét nó. “Anh có đ ể các
nhà thi ết k ế của chúng tôi giúp đỡ không?”, Jobs hỏi. Và Murdoch ch ấp nh ậ n. “Nh ững nhà thi ết k ế
của Apple đã ch ỉ nh s ử a nó đôi chút”, Murdoch nói, “và còn các thành viên trong nhóm c ủa chúng
tôi đã quay về và có đượ c một bản thi ết kế khác, và 10 ngày sau chúng tôi trở l ại đó và cho họ xem
cả hai b ản, và Steve thực sự đã thích phiên bản củ a chúng tôi hơn. Đi ều đó khiến chúng tôi r ất kinh
ngạ c.”
The Daily, m ột t ờ báo ch ẳng lá c ải mà cũng chẳ ng chính thống, nhưng thay vì là một s ản
phẩm dành cho thị trườ ng t ầm trung như USA Today, nó đã không m ấ y thành công. Nhưng nó đã
giúp tạo ra m ột c ầu nối thân thi ết gi ữ a Jobs và Murdoch. Khi Murdoch đề nghị Jobs phát bi ểu tại
phiên h ọp qu ản lý thườ ng niên c ủa News Corp. vào tháng Sáu năm 2010, Jobs đã t ạo ra m ột ngoại
l ệ đối vớ i quy t ắc của mì nh là không bao giờ xuất hi ện như thế. James Murdoch đã d ẫn dắt ông
trong một cu ộc ph ỏng v ấ n sau b ữa t ối kéo dài gần hai gi ờ đồng hồ. “C ậu ấ y đã ch ỉ trích gay gắt về
những điều mà báo chí đang làm trong lĩnh v ự c công nghệ”, Murdoch nh ớ l ại. “C ậu ấ y đã nói vớ i
chúng tôi rằng thật khó đ ể có th ể làm đúng m ọi thứ, b ở i l ẽ bạn đang ở New York, và bất c ứ ai đang
làm tốt công vi ệ c kỹ thuậ t c ủa mình tại Thung lũng Silicon.” Điều này không khiến cho chủ t ị ch
của M ạng K ỹ thu ật s ố củ a Wall Street Journal, Gordon McLeod , th ất vọng. Cu ối cùng thì,
McLeod đã đến ch ỗ Jobs và nói, “Cảm ơn, quả là m ột bu ổi t ối tuy ệt vờ i, nhưng ch ắc hẳn là anh
đang khiến cho tôi m ất vi ệc.” Murdoch cườ i khúc khích khi mô t ả l ại vi ễn cảnh đó. “R ồi kết c ục
của nó cũng thành s ự th ật”, ông nói. McL eod đã bị sa th ải trong vòng ba tháng.
Tr ở l ại v ớ i bài phát bi ểu t ại cu ộc họp, Jobs đã khiế n Murdoch ph ải l ắng nghe v ề Fox News,
th ứ mà ông tin r ằng đang h ủ y di ệt, gây h ại cho quốc gia, và là một vết nhơ đ ối vớ i danh tiếng c ủa
Murdoch. “Anh đang đánh m ất t ất c ả vớ i Fox News”, Jobs nói v ớ i Murdoch trong bữ a t ối. “Cái
tr ục ngày này không còn tự do và b ảo toàn nữ a, cái tr ục đó đang r ất bảo th ủ-hủ y di ệt, và anh đã
ném số phận cu ả mình vào tay những k ẻ hủ y di ệt. Fox đã tr ở thành một l ực lư ợ ng phá ho ại khó có
th ể tin n ổi trong xã h ội c ủa chúng ta. Anh có th ể làm tốt hơn, và nó đang tr ở thành một di s ản của
anh nếu không c ẩn th ận.” Jobs nói ông đã nghĩ rằng Murdoch th ực sự không thích vi ệ c Fox tiến
đượ c bao xa. “Rupert là ngư ờ i s áng l ập, ch ứ không ph ải là ngườ i phá tan t ất c ả”, Jobs nói. “Tôi đã
có vài cu ộc gặp gỡ vớ i James và tôi nghĩ là cậu ấ y cũng đồng ý vớ i tôi. Tôi ch ỉ có th ể nói như v ậ y
mà thôi.”
Sau đó Murdoch nói r ằng đã t ừng có những ngư ờ i như Jobs, phàn nàn v ề Fox “C ậu ấ y theo
quan đi ểm cánh t ả v ề vấn đề này”, ông nói. Jobs đã đề nghị Murdoch cùng ngườ i thân c ủ a mình
th ực hiện một cu ộn phim về m ột tuần ở những chương trình c ủa Sean Hannity và Glenn Beck - mà
theo ông nó còn tiêu c ự c và phá ho ại hơn hơn c ả Bill O’Reilly - và Murdoch đã đ ồng ý làm như
vậ y. Sa u đó Jobs nói vớ i tôi rằng ông đã đ ề nghị nhóm c ủa Jon Stewart đặt cùng m ột cu ộn phim
tương t ự cho Murdoch xem. “Tôi rất vui khi nhìn th ấ y nó”, Murdoch nói, “nhưng c ậu ấ y đã không
gửi nó cho tôi.”
Murdoch và Jobs thân thiết t ớ i m ức Murdoch đã tới ngôi nhà ở Palo Alto của Jobs để dùng
bữa t ối hai lần vào năm sau. Jobs nói đùa r ằng mình ph ải giấu nh ững dao dĩa dùng cho b ữ a t ối vào
những d ị p như thế này, bở i ông lo là ngư ờ i vợ phóng khoáng của mình sẽ moi ruột Murdoch khi
ông ấ y bư ớ c vào. v ề phầ n mình, Murdoch đã có đượ c m ột hi ểu bi ết l ớ n lao v ề các món ăn chay:
“Dùng bữa t ối t ại nhà c ủ a Steve th ực sự là m ột trả i nghi ệm thú vị , mi ễn là bạn ra về trướ c khi
những nhà hàng đ ị a phương đóng c ử a.” Chao ôi, nhưng khi tôi h ỏi Murdoch là có ph ải ông đã t ừng
nói điều này không, thì Murdoch không hề nhắ c l ại.
M ột chuy ế n vi ếng thăm đã diễn ra đầu năm 2011. Murdoch phải đi ngang qua Palo Alto
vào ngày 24 th áng Hai, và ông đã nh ắn tin cho Jobs, ông đã không biết đó cũng là sinh nh ật l ần thứ
56 c ủa Jobs, và Jobs đã không hề đề cập đến nó khi nhắn tin lại đ ể m ờ i Murdoch dùng bữ a t ối. “Đó
là cách c ủ a tôi đ ể ch ắc ch ắn rằng Laurene không bác b ỏ kế hoạch”, Jobs nói đùa. “Đó là sinh nhật
của tôi và cô ấ y ph ải để cho tôi m ờ i Rupert ch ứ.” Erin và Eve cũng ở đây, và Reed v ừa trở về t ừ
S tanford g ần cu ối bữa t ối. Jobs đã cho m ọi ngườ i xem nh ững b ản thi ết kế chiếc thuyề n của ông, và
Murdoch nghĩ rằng bên trong thì nó rất đẹp, nhưng lại “hơi đơn giản” bên ngoài. “Điều này chắ c
ch ắn th ể hi ện m ột s ự l ạc quan tuyệt vờ i về tình tr ạ ng s ức kh ỏ e của Jobs và cậu ấ y đã nói r ất nhi ều
về vi ệc ch ế t ạo chi ế c thuy ề n”, Murdoch nói.
Trong bữa t ối, họ đã nói về t ầm quan trọng c ủa việ c lan truy ền văn hóa doanh nghiệp và sự
nhanh nh ẹn, khéo léo vào công ty. Sony đã th ất bại khi làm vi ệc này, Murdoch nói. Jobs tán đồng.
“Tôi đã tin r ằng m ột công ty th ự c sự l ớ n mạnh không th ể có đượ c một n ền văn hóa doanh nghiệp rõ
rệt”, Jobs nói. “Nhưng giờ thì tôi tin đi ều đó là có th ể. Murdoch đã làm đượ c điều đó. Tôi nghĩ rằng
mình cũng đã thự c hi ện đư ợ c đi ều đó tại Apple.”
Hầu hết các cuộ c nói chuyệ n trong b ữ a t ối là v ề giáo dục. Murdoch đã thuê Joel Klein, c ựu
giám đ ốc củ a Sở giáo dụ c Thành ph ố New York, bắt đầu m ột chương trình gi ảng d ạ y phân ban s ố
hóa. Murdoch kể l ại r ằng Jobs đã khá tùy tiện vớ i ý tưở ng r ằng công ngh ệ có th ể thay đ ổi giáo d ụ c.
Nhưng Jobs đồng ý vớ i Murdoch là nh ững cuốn giáo trình bằng giấ y sẽ chuy ển thành những tài
li ệu học t ập số hóa.
Trên th ự c t ế, Jobs đã coi những cuốn giáo trình như là ngành kinh doanh ti ế p theo mà ông
muốn thay đổi. ông tin rằ ng nó là ngành công nghi ệp chín muồi trị giá 8 t ỷ đô- la m ỗi năm. Jobs
cũng b ị ấn tư ợ ng b ở i s ự th ật là r ất nhi ều trư ờ ng h ọ c, vì nh ững lý do an ninh, đã không trang b ị t ủ
đựng đò, vì th ế mà những đ ứ a trẻ phải mang nhữ ng chiếc ba lô nặng trĩu trên vai. “iPad sẽ gi ải
quyết vấn đề này”, ông nói. Ý tư ở ng c ủ a ông là thuê những ngư ờ i vi ết giáo trình th ật gi ỏi để t ạo
nên nh ững phiên bản số hóa, và bi ến chúng thành m ột tính năng c ủa iPad. Ngoài ra, ông còn t ổ
ch ức các cuộc gặp vớ i nh ững nhà xu ất bản l ớ n như Pearson Educat ion để th ảo luận về vi ệc hợ p tác
vớ i Apple. “Quy trình th ẩm đị nh những cuốn giáo trình đã b ị l ỗi”, ông nói. “Nhưng n ếu chúng ta
có th ể t ạo nên những cuố n giáo trình mi ễn phí, và m ọi ngườ i đọc nó cùng v ớ i iPad, thì chúng
không cần ph ải c ấp giấ y phép nữa. N ền kinh t ế thiếu hấp dẫn ở c ấp độ liên bang sẽ kéo dài kho ảng
m ột th ập kỷ, và chúng ta có th ể cho họ m ột cơ hội để tránh đượ c toàn bộ quá trình đó và ti ết ki ệm
ti ền bạc, chi phí.”
Chú thích
C ấu trúc ARM (Acorn RISC Machine): là một loại c ấu trúc vi x ử lý 32 -bit kiểu RISC đượ c
s ử dụng r ộng rãi trong các thiết k ế nhúng. Do có đặc điểm tiết kiệm năng lư ợ ng, các bộ CPU ARM
chiếm ưu thế trong các sả n ph ẩm điện t ử di động, mà vớ i các s ản ph ẩm này, việc tiêu thụ công suất
th ấp là một m ục tiêu thi ết kế quan tr ọng hàng đ ầu (37) vvhole Earth Catalog: cu ốn catalog về
những giá trị và hành vi c ủa các nhóm văn hóa tạo nên những trào lưu xã hội chính ngày nay, đượ c
xuất bản bở i Stewart Brand t ừ năm 1968 -1972, thư ờ ng xuyên đư ợ c sửa
đổi bổ sung cho đến năm 1998
control -freak: là chương trình đi ều khi ển Winamp t ừ bluetooth của điện thoại di động (như
máy điều khiển từ xa) có kh ả năng chọn bài ti ếp theo, bài trư ớ c, tạm dừng, chơi, dừng c ủa
Winamp... Nó có thể cho đi ều khiển cả màn hình desktop c ủa mì nh thông qua bluetooth.
Chương 39: NHỮ NG CUỘ C CHI Ế N M Ớ I
Và dư âm của các cuộ c chi ến cũ
Google: Mở hay đóng
Vài ngày sau khi công bố iPad vào th áng M ột năm 2010, Jobs m ở m ột cu ộc họp “tòa thị
chính” vớ i các nhân viên ở Apple. Tuy nhiên, thay vì hân hoan vui mừng v ớ i s ản ph ẩm đột phá
m ớ i c ủa mình, ông lại nguy ền rủ a Google vì đã s ả n xu ất hệ đi ều hành đối th ủ là Android. Jobs rất
t ức giận vì Google quyế t đị nh c ạnh tranh v ớ i Apple trong thị trườ ng đi ện thoại, ông nói: “Chúng ta
không nh ả y vào thị trườ ng Tìm ki ếm, nhưng họ l ại nh ả y vào thị trườ ng điện thoại. Không có gì
nhầm lẫn ở đây hết. H ọ muốn tiêu diệt iPhone. Chúng ta sẽ không để họ làm đư ợ c đi ều đó .” Vài
phút sau, khi cuộc họp đã chuy ển sang ch ủ đề khác, Jobs ti ếp tục quay lại đả kích slogan nổi tiếng
của Google: “Tôi muốn quay lại ch ủ đề ban đầu và bổ sung m ột điều. Cái câu th ần chú “Đ ừng làm
đi ều đó th ật quá nhảm nhí.”
Cá nhân Jobs cảm th ấ y như mì nh b ị phản bội. CEO c ủa Google là Eric Schmidt - t ừng là
thành viên ban giám đ ốc của Apple trong quá trình triển khai iPhone và iPad, còn các nhà sáng l ập
của Google là Larry Page và Sergey Brin t ừng coi Jobs là ngườ i thầ y của mình. Ông c ảm thấ y như
bị m ất cắp. Giao di ện màn hình cảm ứng c ủa Android đang b ắt chướ c ngày càng nhiều các tính
năng mà Apple đã t ạo ra như đa cảm ứng, tính năng vuốt và m ột lư ớ i ô vuông các bi ểu tư ợ ng ứng
dụng.
Jobs đã c ố gắng can ngăn Google triển khai Android. Năm 2008, ông đến tr ụ s ở chính c ủ a
Google gần Palo Alto và la hét tranh cãi v ớ i Page, Brin cùng trư ở ng nhóm ph ụ trách Android là
Andy Rubin. (Khi đó Schmidt v ẫn nằm trong ban giám đ ốc của Apple nên không tham gia các
cu ộc tranh lu ận liên quan đến iPhone.) ông hòi tưở ng: “Tôi đã nói rằng n ếu gi ữ đượ c quan hệ t ốt
thì chúng tôi s ẽ bảo đảm có phần truy nh ập Google trong iPhone cũng như dành cho Google một
hoặc hai bi ểu tư ợ ng trên màn hình chủ.” Nhưng ông cũng đe d ọa rằng n ếu Google tiếp tụ c phát
tri ển Android và s ử dụng b ất kỳ tí nh năng nào c ủa iPhone, ch ẳng h ạn như đa cảm ứng, thì ông s ẽ
ki ện. Ban đầu, Google tránh bắt chướ c các tính năng nhất đị nh, nhưng tháng M ột năm 2010, HTC
gi ớ i thi ệu m ột chi ếc đi ện thoại Android v ớ i tính năng đa cảm ứng cùng r ất nhi ều đi ểm gi ống
iPhone c ả về di ện m ạo lẫ n cảm nhận. Đó chính là ng ữ cảnh đ ể Jobs tuyên bố rằng slogan “Đừng
làm đi ều xấu” c ủa Google là “nhảm nhí”.
Vậ y là Apple đâm đơn ki ện HTC (và r ộng ra là Android) vì đã vi phạm 20 giấ y phép độc
quyền sáng t ạo của họ, bao g ồm các giấ y phép về ứ ng dụng đa c ảm ứng, vuố t để m ở , gõ hai l ần để
phóng to, kéo ho ặ c nhúm đ ể m ở rộng, và các b ộ cả m biến để quyết đ ị nh cách c ầm thiết b ị . Khi Jobs
ngồi trong căn nhà củ a mình ở Palo Alto vào tuần đâm đơn kiện, lần đầ u tiên tôi th ấ y ông giận dữ
đến như vậ y:
Đơn ki ện của chúng tôi ghi r ằng: “Google, các ngư ờ i đã ăn c ắp iPhone, ăn c ắp hàng lo ạt
của chúng tôi.” Thật là một hành vi trộm cắp bỉ ổi. N ếu cần, tôi s ẽ chiến đấu đến hơi thở cu ối cùng,
s ẽ dùng h ết 40 tỷ đô-la c ủa Apple trong tài kho ản ngân hàng đ ể làm cho r a l ẽ vụ này. Tôi s ẽ tiêu
di ệt Android, vì nó là m ột s ản ph ẩm ăn cắp. Tôi sẵ n sàng “gây chiến tranh nhiệt hạch” vì vấn đề
này. H ọ s ợ tư ở ng chết đư ợ c, vì h ọ bi ết là họ có t ội. Ngoài thị trườ ng Tìm ki ếm thì các sản ph ẩm
của Google - Android, Google Docs - đều ch ẳng ra cái thá gì.
Vài ngày sau Jobs nhận đư ợ c cu ộc gọi t ừ Schmidt, ông này đã t ừ ch ứ c kh ỏi ban giám đ ốc
của Apple vào mùa hè năm trướ c, ông đề xuất một cu ộc hẹn, và h ọ gặp nhau tại một quán cà phê ở
trung tâm mua s ắm Palo Alto. Schmidt hồi tư ở ng l ại: “Chúng tôi dành m ột nửa cu ộc gặp hôm đó
để bàn về các vấn đề cá nhân, và nửa còn l ại về nhận đị nh c ủa Jobs r ằng Google đã ăn cắp các thiết
kế giao di ện ngườ i dùng của Apple.” ở ch ủ đề th ứ hai, Jobs là ngườ i nói chủ yếu. ông nói v ớ i
Schmidt: “Google đã ăn cắp củ a tôi. Chúng tôi đã bắt qu ả tang đượ c các ngư ờ i. Tôi không mu ốn
thương lư ợ ng. Tôi không cần tiền củ a các ngư ờ i. Có cho tôi 5 tỷ đô-la, tôi cũng không thèm. Tôi
ch ẳng thiếu gì tiền. T ất c ả những gì tôi mu ốn là các ngư ờ i ng ừng s ử dụng các ý tưở ng c ủa chúng
tôi cho Android.” Hôm đó, h ọ không gi ải quyết đư ợ c đi ều gì.
Đằng sau tranh chấp này là một vấn đề còn cơ bản hơn, m ột vấn đề căng th ẳng ảnh hưở ng
t ừ m ột giai đoạn rất dài trướ c đây. Google cho ra m ắt Android như m ột n ền t ảng “mở ”: các nhà chế
t ạo ph ần cứng có thể s ử dụng miễn phí mã nguồn m ở của nó cho bất kỳ đi ện thoại ho ặc máy tính
bảng nào mà h ọ đang lắp ráp. Tất nhiên, Jobs đ ộc đoán tin r ằng Apple nên tích h ợ p hệ đi ều hành
vớ i ph ần cứng c ủa mình. Vào những năm 1980, Apple chưa cấp phép sử dụ ng h ệ đi ều hành
Macintosh, còn Microsoft cuối cùng đã giành đư ợ c thị phần rất l ớ n bằng cách c ấp phép sử dụng h ệ
đi ều hành của mình cho các nhà ch ế t ạo ph ần cứng và đã, theo Jobs là, ăn c ắp giao diện củ a Apple.
So s ánh gi ữa hành động c ủa Microsoft vào nh ững năm 1980 v ớ i nh ững gì Google đang cố
th ực hiện vào năm 2010 là không chính xác, nhưng cũng đ ủ gần gũi đ ể gây bất hòa và t ức giận. Nó
là minh chứng cho cu ộ c tranh cãi l ớ n trong th ờ i đạ i s ố: khép kín hay m ở cửa, hay như cách nói củ a
Jobs là tích hợ p hay phá v ỡ . Li ệu rằng k ết hợ p ph ần cứng, phần m ềm và xử lý n ội dung vào cùng
m ột hệ th ống g ọn nh ẹ để đem lại cho ngư ờ i dùng m ột trải nghiệm đơn giản hơn có phải là phương
án t ốt hơn, như Apple tin tưở ng và như chủ nghĩa hoàn hảo áp đảo của Jobs gần như ép bu ộc hay
không? Hay tốt hơn là trao cho ngư ờ i dùng và nhà sản xu ất thêm nhiều lựa ch ọn và dọn ch ỗ cho
các c ải tiến mớ i b ằng cách t ạo ra nh ững h ệ th ống p hần mềm có th ể đượ c điề u ch ỉ nh và s ử dụng trên
các thi ết bị khác? Sau này Schmidt có nói v ớ i tôi: “Steve mu ốn đi ều hành Apple theo một cách
riêng, cũng gi ống như 20 năm trướ c, đó là bi ến Apple là một nhà c ải tiến hệ đi ều hành khép kín
tuyệt vờ i. H ọ không m uố n ngườ i khác “đ ặt chân lên” nền tảng c ủ a họ khi chưa đư ợ c phép. ích l ợ i
của nền tảng khép kín chính là quy ền ki ểm soát. Nhưng Google thì tin rằng mở cử a m ớ i là cách
ti ếp cận hay hơn, b ở i nó mang l ại nhi ều phương án hơn, cũng như sự cạnh tranh và lựa ch ọn cho
khách hàng.”
Vậ y Bill Gates đã nghĩ gì khi chứng ki ến Jobs cùng chiến lư ợ c khép kín c ủ a ông khai chi ến
vớ i Google, cũng như nh ững gì ông đã làm vớ i Microsoft 25 năm trướ c đó? Gates nói: “Khép kín
cũng có một s ố ích l ợ i, nh ất là v ề cách anh ki ểm soát trải nghi ệm đó, và chắc ch ắn là đã có những
lúc ông ấ y đạt đư ợ c l ợ i ích đó.” Nhưng, Bill cũng nói thêm rằng, t ừ ch ối c ấ p phép sử dụng Apple
iOS đã mang đ ến cho các đ ối th ủ như Android cơ hội tăng doanh s ố bán hàng. “Các công ty này
không ph ải đang xây d ựng các kim t ự tháp bên cạ nh Central Park^^^V’ ông nói đùa về đại lý củ a
Apple trên Đại l ộ s ố Năm, “nhưng họ đang nghĩ ra các hư ớ ng c ải tiến m ớ i dựa trên s ự cạnh tranh
về khách hàng.” Gates ch ỉ ra rằng h ầu hết các c ải tiến ở máy tính cá nhân đề u xu ất hiện là vì khách
hàng có r ất nhi ều lự a ch ọ n, và đ ến m ột ngày nào đó, đi ều tương t ự cũng s ẽ x ả y đến ở th ế gi ớ i thi ết
bị di đ ộng. “Tôi nghĩ là cuối cùng, m ở cử a sẽ là hướ ng đi thành công, nhưng đó là xuất phát điểm
của tôi. về lâu dài, những thứ gắn ch ặt vớ i nhau đó, anh không thể dính lấ y nó mãi đư ợ c.”
Jobs tin tưở ng vào “s ự gắ n ch ặt vớ i nhau đó.” Ni ề m tin của ông vào m ột môi trư ờ ng khép
kín và đư ợ c ki ểm soát không hề lay chuy ể n ngay cả khi thị phần của Android ngày càng tăng. Khi
nghe tôi k ể về những gì Schmidt đã nói, ông xỉ vả: “Google nói r ằng chúng tôi lạm dụng ki ểm soát
hơn họ, r ằng chúng tôi khép kín còn họ thì mở cửa. Gi ờ thì nhìn vào k ết qu ả xem - Android là một
m ớ hổ l ốn. Nó có các kích thư ớ c màn hình và phiên b ản khác nhau, tính ra là hơn 100 ho Ấn vị .”
Dù c ho phương pháp của Google cu ối cùng có th ể s ẽ th ắng l ợ i trong th ị trườ ng, Jobs vẫn th ấ y
không ch ấp nh ận đư ợ c. “Tôi muốn ch ị u trách nhiệ m đối vớ i toàn bộ tr ải nghi ệm của ngườ i s ử
dụng. Chúng tôi thực hi ện đi ều đó không ph ải vì m ục tiêu kiếm tiền mà b ởi chún g tôi muốn tạo ra
những s ản ph ẩm tốt hơn, ch ứ không ph ải th ứ rác rư ở i như Android.”
Flash, App Store và s ự ki ểm soát
Jobs luôn kiên quy ết vớ i s ự ki ểm soát toàn bộ ngay c ả trong nh ững cuộc chi ến
khác, ở buổi họp th ị chính nơi ông đã công kích Google, Jobs cũng phê ph Ấn Flash - n ền
t ảng đa phương tiện cho website của Adobe, và g ọi nó là m ột th ứ nuốt pin đ ầ y lỗi do nh ững k ẻ
“lườ i bi ếng” t ạo ra. Theo ông, iPod và iPhone sẽ không bao giờ ch ạ y Flash. “Flash là một s ản
phẩm công nghệ ki ểu spaghetti thị t viên vớ i hi ệu su ất t ệ hại và các v ấn đề b ảo m ật th ật s ự tòi t ệ,”
ông nói v ớ i tôi như vậ y vào cuối tu ần đó.
Ông th ậm chí còn cấm đoán các ứng d ụng có s ử d ụng trình biên d ị ch do Adobe t ạo ra để
chuy ể n mã Flash nh ằm trở nên tương thích v ớ i iOS c ủa Apple. Jobs khinh thườ ng vi ệc sử dụng các
chương trình biên d ị ch cho phép lập trình viên vi ết s ản ph ẩm m ột l ần ròi truy ền vào nhi ều hệ đi ều
hành khác nhau, ông nói: “Truy ền Flash qua các n ề n t ảng nghĩa là mọi thứ bị quy đồng xuống m ẫu
s ố chung nh ỏ nhất. Chúng tôi n ỗ l ực rất nhi ều để bi ến nền tảng c ủa mình tr ở nên t ốt hơn, và ngườ i
l ập trình sẽ không đư ợ c l ợ i gì nếu Adobe ch ỉ có tác dụng v ớ i các chứ c năng mà t ất c ả các nền tảng
đều có. Vì v ậ y chúng tôi nói r ằng chúng tôi muốn các l ập trình viên tận dụng các tính năng ưu vi ệt
hơn của mình, n hờ đó các ứng d ụng c ủ a họ s ẽ hoạ t động đượ c t ốt hơn trên n ền tảng c ủa chúng tôi
so v ớ i c ủa bất kỳ ai khác.” về đi ều này thì ông đã đúng. M ất đi s ự khác bi ệt trong các n ền tảng c ủ a
Apple - để cho chúng tr ở nên thông d ụng như nh ững chiế c máy củ a HP và Dell - cũng chính là dấu
ch ấm hết cho công ty.
Bên cạnh đó còn có một lý do cá nhân hơn. Năm 1985, Apple đã đầu tư vào Adobe, và hai
công ty đã cùng khai tri ể n cu ộc cách m ạng chế bả n văn phòng. “Chúng tôi đã góp phần giúp
Adobe trở nên nổi tiếng,” Jobs tuyên b ố. Năm 1999, sau khi trở l ại vớ i Apple, ông đ ề nghị Adobe
làm ph ần m ềm ch ỉ nh s ửa video và các sản ph ẩm khác cho chiếc iMac cùng h ệ đi ều hành m ớ i c ủa
nó, nhưng Adobe đã t ừ ch ối. Thay vào đó, h ọ t ập trung th ực hi ện sản ph ẩm cho Windows. Chẳng
bao lâu sau đó, n hà s áng l ập của Adobe là John Warnock nghỉ hưu. “W arnock rờ i công ty mang
theo linh hồn của Adobe,” Jobs nói. “Ông ấ y chính là nhà phát minh, là ngư ờ i mà tôi quý m ến. T ừ
đó tr ở đi, công ty này chẳ ng còn ra th ể th ống gì n ữ a.”
Khi nh ững ngư ờ i truyề n bá cho Adobe và hàng loạt ngườ i ủng h ộ Flash trên c ộng đồng
blog công kích Jobs vì l ối ki ểm soát quá đà, ông quyết đị nh viết và đăng m ột lá thư ngỏ. Bill
Campbell, b ạn của ông và cũng là thành viên ban giám đ ốc, đã đ ến nhà ông đ ể xem bức thư này.
Jobs h ỏi Campbell : “Nghe có giống như tôi chỉ đang c ố bớ i móc Adobe không?” Ngư ờ i c ố vấn trả
l ờ i: “Không, đây là s ự th ật, cứ công b ố nó đi.” Phần lớ n lá thư t ập trung vào các h ạn ch ế k ỹ thu ật
của Flash. Nhưng dù Campbell đã khuyên can, Jobs v ẫn ph ải trút gi ận về m ối quan hệ đầ y vấn đề
gi ữa hai công ty ở phần cu ối thư cho bằng đượ c, ông viết: “Adobe là nhà lập trình bên thứ ba cuối
cùng b ắt chướ c hoàn toàn Mac OS X.”
Cuối năm đó, Apple bãi b ỏ m ột s ố hạn ch ế đối vớ i các trình biên d ị ch chéo giữa các n ền
t ảng, và Adobe đã có thể cho ra mắt một công cụ biên so ạn Flash có tận dụng các tính năng ch ủ đạo
t ừ iOS của Apple. Đó là m ột cu ộc chi ến đầ y cay đ ắng v ớ i cái lý thuộ c về Jobs. Cu ối cùng, cu ộ c
chiến này đã thúc đẩ y Adobe và các l ập trình viên trình biên dị ch khác t ận dụng t ốt hơ n giao diện
cũng như các tính năng đặc bi ệt c ủ a iPhone và iPad.
Nhiệm vụ khó khăn hơn của Jobs là chuy ể n hư ớ ng các cu ộc bàn cãi về khát khao c ủa
Apple mu ốn giữ ch ặt kiể m soát đối vớ i các ứng d ụ ng có thể đượ c t ải về iPhone và iPad. Cảnh giác
trướ c nh ững ứng dụng có chứa virus ho ặc vi ph ạm quyền riêng tư của ngườ i s ử dụng là đúng; ngăn
ch ặn các ứng d ụng đưa ngư ờ i dùng đến các trang web đặt mua thay vì thực hi ện qua iTunes store
cũng là có cơ s ở về m ặt kinh doanh. Nhưng Jobs cùng đội ngũ c ủ a mình đã đi xa hơn: Họ quyết
đị nh c ấm bất kỳ ứng d ụng nào làm mất danh dự con ngườ i, ch ẳng h ạn như dễ gây bùng nổ mâu
thuẫn chính tr ị hoặc bị b ộ phận ki ểm duyệ t c ủa Apple xác đ ị nh là có n ội dung khiêu dâm.
Vấn đề ki ểm soát quá đà này trở nên rõ ràng khi Apple t ừ ch ối m ột ứng d ụng giớ i thi ệu
phim hoạt hình chính tr ị c ủa Mark Fiore, lý do là cách anh ta công kích chính sách tra tấn dư ớ i thờ i
của Bush đã vi phạm giớ i h ạn củ a việc làm mất danh dự con ngườ i. Quy ết đ ị nh này đư ợ c công khai
và b ị đem ra làm trò cườ i kh i Fiore giành giải Pulitzer năm 2010 cho tác phẩ m hoạt họa vào tháng
Tư. Apple buộ c ph ải thay đ ổi ý ki ến của mình, và Jobs đã công khai xin lỗi. “Chúng tôi thấ y có lỗi
vì đã m ắc sai lầm,” ông nói. “Chúng tôi sẽ cố gắng làm tốt nh ất trong kh ả năng c ủa mình, chúng tôi
s ẽ học hỏi nhanh nhất có th ể - nhưng chúng tôi đã cho rằng nguyên t ắc đó là đúng.
Vụ này không chỉ là m ột sai lầm. Nó còn làm dấ y lên n ỗi ám ảnh v ề cách Apple ki ểm soát
các ứ ng d ụng chúng ta có th ể đọc và xem, ít nh ất là n ếu chúng ta mu ốn sử dụ ng một chi ế c iPad hay
iPhone. Jobs dư ờ ng như đang có nguy cơ biến thành m ột ngườ i Anh c ả ki ể u Orwell^'^’') mà chính
ông đã rất sung sư ớ ng đượ c tiêu diệt trong qu ảng cáo “1984” cho Macintosh của Apple, ông đã r ất
nghiêm túc vớ i v ấn đề này. M ột hôm, ông g ọi đ i ện thoại cho ngư ờ i ph ụ trách m ột chuyên trang củ a
t ờ New York Times là Tom Friedman đ ể bàn cách vạch ra các gi ớ i hạn sao cho không gi ống như
đang ki ểm duyệ t. Ông đề nghị Friedman đ ứng đ ầu m ột nhóm tư v ấn để giúp v ạch ra đườ ng l ối,
nhưng anh ta nói rằng đó s ẽ là m ột xung đột về l ợ i ích, và ròi không có ký k ết nào đượ c đưa ra.
Chủ trương c ấm nội dung khiêu dâm cũng gây ra v ấn đề. “Chúng tôi tin r ằng mình có trách
nhiệm đạo đức là ph ải ngăn ch ặn nội dung khiêu dâm khỏi iPhone,” Jobs tuyên bố như vậ y trong
m ột e-mail gửi cho khách hàng. “Ai thích xem những thứ như vậ y thì có thể mua một chi ếc
Android.”
S ự vi ệc này d ẫn đến m ột cu ộc trao đ ổi e - mail vớ i Ryan Tate - biên tập viên của website
công ngh ệ lá c ải Valleywag. Một bu ổi t ối, Tate vừa nh ấm nháp ly cocktail, vừa bắn m ột e -mail tớ i
Jobs v ớ i nội dung ch ỉ trích l ối ki ểm soát nặng tay của Apple đ ối vớ i các ứng d ụng. “N ếu bây giờ
Dylan mớ i 20 tu ổi thì li ệu ông ấ y sẽ nghĩ th ế nào về công ty c ủa ông?” Tate h ỏi. “Liệu ông ấ y có
nghĩ rằng iPad có chút liên h ệ nào vớ i ‘cách mạng’ không? Mà cách mạng thì ph ải đi kèm vớ i t ự
do.”
Trướ c sự ngạc nhiên c ủa Tate, vài ti ếng sau, tức là sau n ửa đêm, Jobs tr ả l ờ i: “Đúng, tự do
không tiến hành các chương trình ăn c ắp dữ li ệu cá nhân, t ự do không th ực hi ện các chương trình
ăn mòn p in, t ự do không sử dụng mấ y th ứ văn hóa phẩm đồi trụ y.
Đúng v ậ y, tự do đ ấ y. Thờ i đại c ủa chúng đã qua ròi, và vài ngườ i làm máy tính cá nhân
truy ền th ống c ảm th ấ y như thể th ế gi ớ i c ủa họ đang trôi tu ột đi vậ y. S ự th ật đúng là như v ậ y đấ y.”
Trong e-mail trả l ờ i c ủ a mình, Tate nêu ra m ột s ố suy nghĩ của mình về Flash và các chủ đề
khác, sau đó quay trở l ại vấn đề ki ểm duyệt. “Ông bi ết không, tôi không mu ốn ‘tự do không sử
dụng mấ y th ứ văn hóa phẩm đòi trụ y.’ Tôi th ấ y ch ẳng có gì sai trái c ả! Và tôi nghĩ là v ợ tôi cũng
đồng ý.”
Jobs đáp lại: “Đ ến khi có con, anh sẽ chú ý hơn v ề văn hóa phẩm đòi trụ y, vấn đề không
phải là t ự do, mà là Apple đang cố gắng làm đi ều tốt đẹp cho ngư ờ i dùng của mình.” Cu ối cùng,
ông chèn vào một câu r ất sâu cay: “Nhân ti ện, anh đã làm đư ợ c gì t ốt đẹp nào? Anh có tạo ra đư ợ c
cái gì không, hay chỉ bi ết ch ỉ trích công s ức và đẩ y lùi đ ộng l ực củ a ngườ i khác?”
Tate th ừa nh ận đã bị ấn tư ợ ng. Anh viết: “R ất hi ế m có CEO nào lại đấu kh ẩu tay đôi vớ i
khách hàng và blogger như v ậ y. Jobs xứng đ áng đượ c ghi nhận vì đã phá vỡ khuôn m ẫu của các
giám đ ố c đi ều hành ngườ i M ỹ đi ển hình, và không ph ải ch ỉ vì công ty c ủa ông t ạo ra đư ợ c các s ản
phẩm vượ t trội đ ến thế: Jobs không chỉ xây dựng r ồi gây d ựng lại công ty củ a mình dựa trên những
chính ki ến mạnh m ẽ về cu ộc sống s ố, mà ông còn s ẵn sàng công khai bảo vệ chúng. R ất thẳng th ắn.
R ất mãnh li ệt.” Nhi ều ngườ i trong c ộng đồng blogger cũng có cùng ý kiến và gửi e -mail ca ngợ i
ông. Jobs cũng r ất t ự hào; ông đã chuy ển cho tôi nh ững e -mail trao đổi vớ i Tate cùng m ột s ố l ờ i
khen ngợ i.
Tuy nhiên, v ẫn còn chút căng thẳng trong s ắc l ệnh c ủa Apple r ằng ngư ờ i s ử dụng s ản ph ẩm
của họ không nên đ ể m ắt t ớ i các phim ho ạt hình chính tr ị gây tranh cãi hay văn hóa phẩm đòi trụ y.
Website châm biếm eSarcasm.com đã khở i động một chi ến dị ch tr ực tuy ế n mang tên “Đúng vậ y
đấ y, Steve, tôi muốn xem phim khiêu dâm.” Trang web này tuyên bố: “Chúng tôi là những k ẻ vô
l ại bẩn th ỉ u, bị ám ảnh tình d ục cần đến nh ững thứ bẩn th ỉ u đó 24 giờ m ỗi ngày. Chúng tôi chỉ
muốn đư ợ c sống trong một xã hội c ở i m ở , không b ị ngăn c ấm, không phải ph ụ thuộc vào quy ết
đị nh c ủa m ột tên đ ộc tài công ngh ệ rằng có thể hay không thể xem cái gì.”
Vào thờ i đi ểm đó, Jobs và Apple đang đấu tranh v ớ i website con c ủa Valleywag là
Gizmodo, bở i họ đã có đ ượ c m ột phiên b ản th ử nghi ệm của chi ếc iPhone 4 khi nó chưa đượ c chào
bán do một kỹ sư c ủa Apple đ ể quên tại m ột quán bar. Khi c ảnh sát đến khám xét nhà c ủa phóng
viên đó d ựa trên các thông báo c ủa Apple, s ự vi ệ c này l ại đặt ra câu h ỏi r ằng li ệu có ph ải thói ki ểm
soát điên rồ đã k ết hợ p vớ i s ự ngạo m ạn hay không.
Jon Stewart là m ột ngườ i bạn của Jobs và cũng là m ột ngườ i hâm mộ Apple. Jobs đã đến
gặp riêng ông vào tháng Hai khi tớ i New York đ ể họp vớ i các giám đ ốc truyề n thông. Nhưng điều
này cũng không ngăn Stewart công kích Jobs trên chương trình The Daily Show, ông nói n ửa đùa
nửa th ật: “Đ áng l ẽ m ọi vi ệc không thành ra th ế này! Đ áng l ẽ Microsoft m ớ i là kẻ x ấu!” Sau lưng
ông, từ “appholes’’^"^^) hi ện lên màn hình. “Trướ c đây, các anh là nh ững k ẻ nổi lo ạn, những k ẻ
lép v ế. Nhưng gi ờ đây các anh đang bi ến thành cái gì? Còn nhớ hồi năm 1984, các anh có đám
quảng cáo tuyệt vờ i về l ậ t đổ Big Brother không? Giờ thì nhìn l ại mình đi!”
Cuối mùa xuân năm đó, v ấn đề này đư ợ c đem ra bàn luận gi ữa các thành viên ban giám
đốc. Vào m ột bữa trưa ngay sau khi nêu ra vấn đề này ở m ột cu ộ c họp, Art Levinson nói v ớ i tôi:
“Vấn đề là s ự ngạo m ạn. Nó g ắn liền vớ i tính cách c ủa Steve.
Ông ấ y ph ản ứng r ất bản năng và đưa ra nh ững l ờ i bu ộc t ội s ỗ sàng.” Sự ngạo m ạn đó có
th ể ch ấp nh ận đư ợ c khi Apple còn là một kẻ lép v ế nóng n ả y. Nhưng gi ờ đây Apple đang thống tr ị
th ị trườ ng di đ ộng. “Chúng tôi c ần thay đổi để tr ở thành một công ty lớ n và gi ải quyế t vấn đề v ề
thói kiêu ng ạo này,” Levinson nói. AI Gore cũng nói v ề vấn đề này ở các cu ộc họp ban giám đốc:
“Ph ạm vi của Apple đang thay đ ổi v ớ i t ốc độ chóng mặt, không còn là trò đ ả kích Big Brother nữa.
Gi ờ đây Apple đã l ớ n m ạ nh, mọi ngườ i s ẽ coi đó là s ự kiêu ng ạo.” Jobs trở nên thủ th ế khi chủ đề
này đư ợ c nêu ra. Theo Gore: “ông ấ y vẫn đang tự đi ều ch ỉ nh mình theo thay đ ổi đó. ông ấ y thà làm
m ột kẻ nép vế còn hơn là một gã kh ổng l ồ hèn mọ n.”
Jobs thườ ng thiếu kiên nh ẫn vớ i nh ững cuộc nói chuyện ki ểu đó. Khi ấ y, ông nói v ớ i tôi
rằng lý do Apple b ị ch ỉ trích là “các công ty như Google và Adobe đang dự ng chuyệ n và cố gắng
gạt bỏ chúng tôi.” “ông nghĩ gì về ý ki ến cho r ằng Apple đôi khi hành đ ộng r ất ng ạo m ạn? “Tôi
không lo lắng v ề chuy ện đó,” ông nói, “vì chúng tôi không h ề ngạo m ạn.”
Antennagate(): Thi ết kế và Kỹ thu ật
Tại nhi ều công ty sản xu ất s ản ph ẩm tiêu dùng luôn t ồn t ại m ối quan hệ căng th ẳng gi ữ a các
nhà thi ết kế, nh ững ngư ờ i mu ốn làm cho s ản ph ẩ m có m ột di ện m ạo đẹp đẽ, v ớ i các k ỹ sư, nh ững
ngư ờ i mu ốn đảm bảo rằng s ản ph ẩm th ỏa mãn đư ợ c các yêu cầu vận hành, ở Apple, Jobs đòi hỏi
rất cao ở cả thiết kế và k ỹ thuật, vì v ậ y sự căng th ẳng đó càng l ớ n hơn.
Khi Jobs và giám đốc thi ết kế Jony Ive trở thành đ ồng tham mưu s áng t ạo vào năm 1997,
họ có xu hướ ng coi nh ững mối lo ng ại c ủa các k ỹ sư là minh chứng c ủ a thái đ ộ làm vi ệc ng ại khó,
cần ph ải vư ợ t qua. Ni ềm tin của họ rằng thiết k ế tuy ệt v ờ i có th ể thúc đ ẩ y kỹ thuật xu ất s ắc đến siêu
vi ệt đã đư ợ c củng c ố nhờ thành công của iMac và iPod. Khi các kỹ sư nói không thể làm đư ợ c điều
gì đó, Ive và Jobs s ẽ buộc họ phải c ố gắng, và thườ ng thì họ thành công. Tuy nhiên thỉ nh tho ảng
cũng x ả y ra nh ững v ấn đề nhỏ, ví dụ như chiếc iPod Nano có thể bị xướ c vì Ive cho rằng một l ớ p
phủ trong suốt s ẽ làm gi ả m độ ti nh khi ết trong thi ết kế của ông. Nhưng đó chưa phải là kh ủng
hoảng.
Trong trư ờ ng h ợ p của iPhone, mong mu ốn về thiết kế của Ive g ặp ph ải trở ngại là một đị nh
lu ật vật lý cơ bản không thể thay đ ổi đư ợ c kể c ả cách b ằng bóp méo th ực t ế. Kim lo ại không phải
là m ột ch ất liệu tốt để đặt gần ăng-ten. Như Michael Faraday đã ch ỉ ra, sóng điện từ ch ỉ bay quanh
kim lo ại ch ứ không xuyên qua đượ c. Vì v ậ y, m ột bức tư ờ ng kim lo ại bao quanh m ột chi ếc đi ện
thoại có th ể t ạo ra cái mà ngườ i ta gọi là chi ếc lòng Faraday, làm gi ảm tín hiệu thu phát sóng.
Chiếc iPhone ban đ ầu có m ột d ải nh ựa dư ớ i đáy, nhưng Ive cho r ằng làm như vậ y sẽ phá hỏng thiết
kế t ổng thể và đ ề nghị ghép m ột vi ền nhôm vào xung quanh chiếc đi ện thoại. Sau khi ý tư ở ng này
thành công, Ive thi ết kế chiếc iPhone 4 vớ i vi ền thép. Thép s ẽ là khung ch ố ng đ ỡ c ấu trúc, có vẻ
ngoài bóng bẩ y và đóng vai trò là m ột ph ần ăng-ten c ủa chi ếc đi ện thoại.
Tuy nhiên, thi ết kế này ch ứa đựng những thách thức rất l ớ n. Đ ể đ ảm nhiệ m vai trò là một
chiếc ăng-ten, vi ền thép này phải có m ột khe h ở nhỏ. Nhưng nếu ta che kín khe hở đó b ằng một
ngón tay ho ặc lòng bàn tay đầ y m ồ hôi thì có th ể dẫn đến m ất tín hi ệu. Các kỹ sư đ ề xuất ph ủ m ột
l ớ p trong su ốt trên ph ần kim loại nh ằm lo ại bỏ đi ể m yếu này, nhưng một l ầ n nữa Ive l ại th ấ y rằng
làm như v ậ y sẽ m ất đi giá tr ị của thi ết kế kim lo ại bóng. V ấn đề đượ c trình bày vớ i Jobs t ại nhi ều
cu ộc họp, nhưng ông cho r ằng các kỹ sư chỉ đang báo động giả. Các anh có th ể làm đư ợ c, ông nói
vậ y và họ làm.
Và đúng là họ làm đư ợ c, gần như hoàn hảo. Chứ không phải là hoàn hảo trọ n vẹn. Khi
iPhone 4 đư ợ c tung ra vào tháng 6 năm 2010, nó có vẻ ngoài r ất tuy ệt vờ i, nhưng ch ẳng bao lâu đã
xuất hi ện m ột vấn đề: Nếu bạn cầm chiếc đi ện thoại này m ột cách nh ất đị nh, nhất là khi dùng tay
trái khi ến lòng bàn tay che kín khe hở nhỏ thì b ạn có th ể bị m ất kết nối. V ấn đề này xả y ra vớ i t ỷ l ệ
khoảng một trên một trăm cu ộc gọi. Jobs cứ nhất đị nh giữ bí m ật s ản ph ẩm chưa đượ c tung ra th ị
trườ ng c ủa mình (ngay đ ến chi ế c đi ện thoại mà Gizmodo v ớ đượ c trong quán bar cũng có m ột l ớ p
vỏ gi ả bao quanh), vì vậ y chi ếc iPhone 4 đã không đượ c trải qua th ử nghi ệ m trực tiếp như hầu hết
các thi ết b ị đi ện t ử khác. Do đó, l ỗi này đã không đượ c phát hiện trư ớ c khi m ọi ngườ i đ ổ xô đi mua
iPhone 4. Sau này Tony Fadell có nói: “Câu hỏi đ ặt ra là l i ệu hai chính sách song song bao g ồm ưu
tiên thi ết kế so v ớ i kỹ thu ật và gi ữ kín quá đà các sản ph ẩm chưa đượ c tung ra th ị trườ ng có giúp
ích đư ợ c gì cho Apple hay không, về t ổng thể thì có, nhưng s ức m ạnh chưa qua th ử nghi ệm là một
đi ều tòi tệ, và đi ều đó đã x ả y ra.”
Nếu đó không ph ải là Apple iPhone 4, một s ản ph ẩm đượ c t ất c ả m ọi ngườ i nể s ợ , thì v ấn
đề vài cuộc gọi bị ngắt đã không b ị m ổ x ẻ đến m ứ c đó. Nhưng t ừ đó nó đã bị gắn cho cái tên
“Antennagate,” và vấn đề lên đ ến đỉ nh điểm vào đầu th áng 7 khi t ờ Consumer Reports th ực hi ện
các cu ộc ki ểm tra khắt khe và k ết lu ận rằng h ọ không th ể khuyên dùng iPhone 4 đượ c vì vấn đề
ăng- ten.
Khi vấn đề này nả y sinh, Jobs và gia đình đang ở Kona Village, Hawaii. Ban đầu ông có
thái độ th ủ th ế. Art Levinson ngay l ập tức gọi đi ện thoại cho Jobs, và Jobs qu ả quyế t r ằng v ấn đề
nả y sinh là do mánh l ớ i c ủa Google và Motorola. “H ọ muốn hạ gục Apple,” ông nói.
Levinson cố gắng nhũn nhặn: “Ta hãy c ố gắng tìm hi ểu xem có vấn đề gì không.” Khi ông
đề c ập l ại nh ận đị nh v ề s ự ngạo mạn của Apple, Jobs r ất không v ừa lòng. Nó đi ngư ợ c l ại cách nhìn
đờ i trắng đen, phải trái rõ ràng c ủa ông. ông thấ y rằ ng Apple là một công ty có phép tắc. N ếu ngườ i
khác không nh ận ra đư ợ c đi ều này thì đó là lỗi c ủ a họ ch ứ không ph ải là lý do để Apple phải nhún
như ờ ng.
Phản ứng ti ếp theo của Jobs là cảm giác bị t ổn thương, ông coi l ờ i ch ỉ trích đó là nhắm vào
cá nhân mình và trở nê n rất đau khổ. “V ề cốt lõi, Jobs không làm nh ững vi ệ c mà ông ấ y thấ y là sai
rành rành như m ột s ố kẻ th ực dụng trong ngành c ủa chúng tôi,” Levinson nói. “Vì vậ y nếu th ấ y
mình đúng thì ông ấ y sẽ phản bác luôn chứ không nhìn nh ận lại bản thân.” Levinson thuyết ph ụ c
ông đừng quá bu ồn phiền nhưng vô hi ệu, ông bảo Levinson: “Kh ốn nạn th ậ t, m ọi chuy ện không
đáng phải thành ra th ế này.” Cu ối cùng Tim Cook cũng đã giúp đư ợ c ông thoát ra kh ỏi tình tr ạng
đó. ông trích d ẫn lờ i ai đó nói r ằng Apple đang tr ở thành Micros oft thứ hai, đầ y tự mãn và kiêu
ngạo. Ngày hôm sau Jobs thay đ ổi thái đ ộ. ông nói: “Hãy cũng gi ải quyết t ận gố c vụ này.”
Khi dữ li ệu về các cu ộ c gọi bị ngắt đư ợ c thu thập từ AT&T, Jobs nhận ra rằ ng đúng là có
vấn đề, dù nó nhỏ nhặt hơn là nh ững gì mọi ngườ i đang làm rùm beng. V ậ y là ông r ờ i Hawaii.
Nhưng trướ c khi đi, ông g ọi m ột vài cu ộc đi ện thoại. Đã đ ến lúc t ập hợ p lại nh ững c ánh tay đ áng
tin tưở ng t ừ xưa kia, những con ngườ i khôn ngoan đã sát c ánh bên ông trong nh ững ngày đ ầu lập
nên Macintosh 30 năm t rư ớ c.
Cuộc gọi đầu tiên là dành cho Regis McKenna, b ậc th ầ y quan hệ công chúng. “Tôi chu ẩn
bị t ừ Hawaii về để gi ải quyết vấn đề ăng -ten này, và tôi có vi ệc cần nh ờ anh,” Jobs nói. H ọ đồng ý
hẹn gặp tại phòng h ọp củ a ban lãnh đ ạo thành phố Cupertino vào 1 gi ờ 30 phút chi ều hôm sau.
Cuộc gọi th ứ hai là t ớ i chuyên viên qu ảng cáo Lee Clow, ông này đã cố rờ i Apple nhưng Jobs v ẫn
muốn có ông ở bên cạnh. Đồng nghiệp của ông là James Vincent cũng đư ợ c tri ệu tập.
Jobs cũng quy ết đị nh đưa con trai là Reed, khi đó đan g họ c năm cu ối trung h ọc, từ Hawaii
về cùng mình, ông b ảo con trai: “Bố s ẽ họp 24/7 trong kho ảng hai ngày, và b ố muốn con tham dự
t ất c ả các bu ổi họp đó bở i trong hai ngày ấ y, con sẽ học đư ợ c nhi ều hơn c ả so v ớ i hai năm h ọc
trong trư ờ ng kinh doanh. Con s ẽ đượ c ng ồi trong cùng m ột phòng v ớ i nh ữ ng con ngườ i tuy ệt vờ i
nhất th ế gi ớ i đang đưa ra nh ững quy ết đị nh c ực kỳ khó khăn, ròi con s ẽ vỡ ra đượ c nhi ều đi ều.”
Jobs hơi xúc đ ộng khi nh ớ l ại s ự vi ệc ấ y. Ông nói: “Tôi sẵn sàng trải qua t ấ t c ả những chuyệ n đó
m ột l ần nữa để có cơ h ội cho con trai ch ứng ki ến mình làm việc. Nó c ần ph ải biết bố mình làm gì.”
Cùng tham gia vớ i họ là Katie Cotton, giám đ ốc quan hệ công chúng lâu năm c ủa Apple.
Cuộc họp kéo dài su ốt c ả buổi chi ều. Sau này Jobs có nói: “Đó là một trong n hững cuộc họp tuyệt
vờ i nh ất trong đ ờ i tôi.” ông b ắt đầu bằng việ c đưa ra t ất c ả d ữ li ệu đã thu thập đư ợ c: “Đây là s ự
th ật. V ậ y chúng ta nên làm gì?”
McKenna là ngườ i bình tĩnh và th ẳng thắn nh ất, ông nói: “Hãy cứ công b ố s ự th ật, các d ữ
li ệu. Đ ừng t ỏ ra k iêu ng ạ o, mà hãy v ững vàng và t ự tin.” Những ngư ờ i khác, trong đó có Vincent,
khuyên Jobs nên tỏ ra bi ết l ỗi hơn, nhưng McKenna ph ản đối. ông khuyên: “Đừng cúp đuôi mà đi
vào bu ổi họp báo. Anh ch ỉ cần nói: ‘Đi ện thoại không hoàn h ảo, và chúng tôi cũng không hoàn
hảo. Chúng tôi cũng là con ngườ i, và chúng tôi đang làm hết s ức mình. Đây là các dữ li ệu.’” Nó đã
tr ở thành chi ến lư ợ c để gi ải quyết vấn đề. Khi chủ đề cu ộc họp quay lại nh ậ n đị nh v ề s ự kiêu căng,
McKenna thuy ết ph ụ c Jobs đừng quá lo lắng, về sau Mc Kenna có gi ải thích: “Tôi cho rằng c ố ép
Steve t ỏ ra nhún như ờ ng cũng chẳng đem lại kết qu ả gì. Đúng như Steve đã nói về chính mình:
‘Chúng ta nhận đư ợ c nh ữ ng gì mà chúng ta nhìn thấ y.’”
Tại s ự ki ện họp báo vào th ứ Sáu đư ợ c t ổ ch ức t ại khán phòng của Apple, Jobs đã làm theo
l ờ i khuyên củ a McKenna, ông không luồn cúi hay xin l ỗi, nhưng vẫn có th ể xoa dị u vấn đề bằng
cách cho th ấ y rằng Apple đã nhìn nhận đư ợ c sai lầm và sẽ cố gắng hoàn thiện nó. Sau đó, ông thay
đổi c ấu trúc c ủa bu ổi th ả o lu ận, phát bi ểu rằng t ất c ả đi ện thoại di động đ ều có m ột vài v ấn đề nào
đó. về sau, ông có bảo tôi rằng cách ông phát bi ểu hôm đó có phần t ỏ ra hơi “khó ch ị u”, nhưng trên
th ực t ế ông đã gi ữ đượ c m ột gi ọng nói đi ềm tĩnh và th ẳng thắn, ông kết lu ận bài nói bằng b ốn câu
tuyên b ố ngắn: “Chúng tôi không hoàn hảo. Đi ện thoại không hoàn h ảo. T ấ t c ả chúng ta đều bi ết
đi ều đó. Nhưng chúng tôi mu ốn làm cho ngư ờ i s ử dụng đượ c hài lòng.”
Ông nói thêm rằng n ếu có ai không hài lòng thì h ọ có th ể tr ả l ại (tỷ l ệ tr ả l ại đư ợ c công bố
là 1,7%, chưa b ằng một ph ần ba tỷ l ệ tr ả l ại c ủa chi ếc iPhone 3GS ho ặc hầu hết nh ững chiếc đi ện
thoại khác) ho ặ c đư ợ c nh ận m ột chi ếc vỏ bảo vệ miễn phí t ừ Apple. Ông tiếp tục báo cáo các dữ
li ệu cho thấ y rằng các lo ạ i điện tho ại di đ ộng khác cũng có cùng vấn đề. Đi ề u này không hoàn toàn
đúng. Thi ết kế ăng-ten c ủa Apple làm cho nó y ế u hơn hầu hết nh ững chiế c đi ện thoại khác, k ể cả
các các phiên bản trư ớ c của iPhone. Nhưng đi ều cần ph ải công nh ận là vụ rùm beng truy ền thông
về các cu ộ c gọi b ị ngắt c ủ a iPhone 4 đã bị làm quá lên. “Vụ này bị th ổi phòng lên quá mức đến khó
tin,” ông nói. Thay vì b ứ c xúc r ằng ông không ch ị u xin l ỗi ho ặc tuyên b ố thu hòi, h ầu hết khách
hàng đ ều nh ận ra rằng ông đã đúng.
Danh sách chờ mua iPhone 4, vốn đã hết hàng, đã t ừ hai tuần tăng lên thành ba. Nó gi ữ
nguyên v ị trí là s ản ph ẩm bán nhanh nh ất c ủ a công ty từ trướ c đến gi ờ . Các cuộc tranh lu ận của
truy ền thông chuyển sang vấn đề li ệu Jobs có đúng khi tuyên b ố r ằng các lo ại đi ện thoại thông
minh khác cũng có vấn đề tương t ự về ăng-ten hay không. Ngay c ả n ếu câu tr ả l ờ i là không thì đó
cũng là m ột vấn đề dễ đố i m ặt hơn là v ụ ầm ĩ về chiếc iPhone 4 b ị l ỗi.
M ột s ố ngư ờ i trong gi ớ i quan sát truy ền thông t ỏ ra hoài nghi. Michael Wolff c ủa website
newser.com vi ết: “Trong m ột màn thể hi ện xu ất s ắ c nhằm thoát khỏi bế t ắc, Steve Jobs v ừa qua đã
rất thành công khi xu ất hi ện và ph ủ nhận vấn đề, gạt bỏ m ọi ch ỉ trích và đ ẩ y lỗi cho t ất c ả những
nhà sản xu ất đi ện thoại thông minh khác. Đây là m ột trình độ marketing hiện đại, đánh l ạc hư ớ ng
và quản lý kh ủng hoảng mà t ừ đó b ạn ch ỉ có th ể đ ặt ra một câu h ỏi đầ y kinh ng ạ c, khiếp sợ và hoài
nghi: Họ đã làm th ế nào để thoát đư ợ c? Hoặc chính xác hơn là, ông ấ y đã làm thế nào để thoát
đượ c?” Wolff cho đó là nhờ hi ệu ứng đ ầ y mê hoặ c của Jobs trong vai trò “cá nhân lô i cu ốn cu ối
cùng.” Các CEO khác sẽ đưa ra nh ững lờ i xin l ỗi kh ổ s ở và chị u đựng những đ ợ t thu hòi kh ổng lồ,
nhưng Jobs thì không. “Vẻ ngoài g ầ y gò, d ữ t ợ n, tính chuyên ch ế, dáng đi ệu của m ột tu sĩ, cảm
giác về m ối quan hệ của ông ấ y vớ i đấng thần linh, tất cả đều có tác d ụng, và trong trườ ng h ợ p này
đã cho ông đặ c quyền quyế t đị nh cái gì có ý nghĩa và cái gì là không đ áng bận tâm.”
Scott Adams, tác gi ả của m ục bi ếm họa của Dilbert, cũng t ỏ ra hoài nghi, nhưng phần
nhiều là ngưỡ ng mộ. Vài ngày sau ông vi ết m ột bài blog (mà Jobs đã g ửi qua e -mail tớ i r ất nhi ều
ngư ờ i một cách đầ y t ự hào) tỏ ra khâm ph ục rằng “phương kế tài tình” c ủa Jobs ch ắc ch ắn sẽ đượ c
nghiên cứ u như một chu ẩn m ực quan hệ công chúng m ớ i. Ông vi ết: “Ph ản ứng c ủ a Apple đ ối vớ i
vấn đề về chiếc iPhone 4 không hề tuân theo quy t ắc quan hệ công chúng nào, bở i Jobs đã quyết
đị nh viết l ại quy t ắc đó. N ếu muốn bi ết thiên tài là như th ế nào thì hãy họ c hỏi l ờ i nói c ủa Jobs.”
Bằng cách tuyên bố ngay từ đầu rằng điện thoại là không hoàn h ảo, Jobs đã thay đổi ng ữ c ảnh c ủ a
cu ộc tranh lu ận bằng một kh ẳng đ ị nh không th ể bàn cãi. “N ếu Jobs không chuyển ng ữ cảnh t ừ
chiếc iPhone sang tất c ả các loại đi ện thoại thông minh nói chung thì tôi đã có th ể vẽ cho các b ạn
m ột đo ạn truyện tranh hài hướ c về m ột s ản ph ẩm đượ c làm c ẩu thả đ ến nỗi s ẽ không thể hoạt động
đượ c nếu tiếp xúc v ớ i bàn tay con ngư ờ i. Nhưng ngay khi ng ữ c ảnh đượ c chuy ể n thành ‘t ất c ả đi ện
thoại thông minh đ ều có vấn đề’ thì cơ h ội pha trò đã không còn n ữa. Không có gì gi ết ch ết s ự hài
hướ c t ốt hơn một s ự th ật thông thư ờ ng và nhàm chán .”
Here Comes the Suri() (Tiến đến m ặt tr ời)
Có vài vấn đề cần giải quyế t để s ự nghi ệp của Steve Jobs đượ c trọn vẹn. M ột trong số đó là
ch ấm dứt cu ộc chi ến kéo dài 30 năm v ớ i ban nhạc yêu thích của ông, the Beatles. Năm 20 07,
Apple đã dàn xếp xong cu ộc chi ến nhãn hi ệu vớ i Apple Corps, công ty chủ quản của the Beatles,
ngư ờ i đã kh ở i ki ện công ty máy tính non n ớ t vì s ử dụng cái tên Apple vào năm 1978. Nhưng đi ều
này vẫn chưa đưa đư ợ c the Beatles vào iTunes Store. Ban nhạc này là đ ối tư ợ ng cao giá cuối cùng,
ch ủ yế u là vì họ vẫn chưa dàn xếp đư ợ c vớ i hãng đĩa EMI - đang s ở hữu hầu hết các bài hát c ủ a
nhóm - về phương thức xử lý các quyề n lợ i s ố.
Mùa hè năm 2010, the Beatles và EMI đã giải quyế t xong vấn đề, và m ột cu ộ c họp cấp cao
bao gồm bốn ngườ i đã đư ợ c t ổ ch ức t ại phòng h ọ p ban lãnh đ ạo tại Cupertino. Jobs và phó giám
đốc iTunes store, Eddy Cue cùng tiếp Jeff Jones, ngư ờ i qu ản lý các l ợ i ích c ủa the Beatles, và
Roger Faxon, ngườ i đứng đ ầu hãng đĩa EMI. Gi ờ đây, the
Beatles đã sẵn sàng xu ất hiện trực tuy ến, vậ y thì Apple có th ể đưa ra cái gì đ ể bi ến cột mố c
l ị ch s ử này trở nên đặc bi ệt? Jobs đã mong đợ i ngày này t ừ lâu. Trên th ực t ế, ông và đ ội ngũ quảng
cáo của mình, Lee Clow và James Vincent, đã tạo sẵn mô hình một s ố quảng cáo t ừ ba năm trướ c
khi vạch chiến lư ợ c dụ the Beatles tham gia.
Cue hòi tưở ng l ại: “Steve và tôi đã nghĩ v ề t ất c ả những gì mình có th ể làm.” Đi ều đó bao
gồm chiếm trang nhất c ủ a iTunes store, mua các yết th ị để treo nh ững b ức ảnh đ ẹp nh ất c ủ a ban
nhạc và phát m ột lo ạt qu ảng cáo truyề n hình theo phong cách kinh điển của Apple. Họ chào bán
m ột hộp đĩa tr ị giá 149 đô-la bao gồm tất c ả 13 album phòng thu c ủa Beatles, b ộ sưu t ập “Past
Masters” và một video đ ầ y hoài ni ệm của bu ổi bi ểu di ễn Washington Coliseum.
Khi về cơ b ản, m ọi vi ệc đã đạt đư ợ c th ỏa thu ận, cá nhân Jobs cũng góp phần lựa ch ọn ra
các t ấm ảnh cho qu ảng cáo. Mỗi qu ảng cáo kết thúc bằng một bức ảnh đen tr ắng tĩnh củ a Paul
McCartney và John Lennon tr ẻ trung và tươi cư ờ i trong m ột phòng thu, đang nhìn xuống một bản
nhạc. Nó g ợ i nh ớ đến nh ững t ấm ảnh cũ trong đó Jobs và Wozniak đang nhìn vào m ột bảng mạch
Apple. Cue nói: “Đưa the Beatles lên iTunes là lý do tột bậc vì sao chúng tôi bướ c vào ngành âm
nhạc.”
Chú thích
(39) Đừng làm đi ều xấu (Don’t do evil): slogan n ổ i tiếng c ủ a Google.
Central Park: Công viên công cộng ở trung tâm Manhattan, New York. Đối di ện công viên
này là một đại lý của Apple trên Đ ại l ộ s ố Năm.
Anh cả ki ểu Orwell (Orwellian Big Brother): M ột nhân vật hư cấu nổi tiếng v ề s ự độc tài
trong cu ố n tiểu thuy ết 1984 của George Orwell.
Appholes: từ ghép c ủa app ( ứng d ụng) và assholes (nh ững tên kh ốn).
Antennagate: t ừ ghép c ủa antenna (ăng - ten) và Watergate - tên v ụ bê b ối chính tr ị trên
chính trư ờ ng Mỹ th ờ i Nixon, trong đó chính ph ủ củ a t ổng th ống này bí m ật do thám Đ ảng Dân chủ
và dùng âm mưu che đậ y ho ạt động này.
Here Comes the Sun: tên một bài hát n ổi tiếng c ủa the Beatles.
Chương 40: VÔ CÙNG T ẬN
Đám mây, Tàu vũ trụ, và hơn th ế nữ a
iPad2
Ngay từ trướ c khi iPad đượ c tung ra th ị trườ ng, Jobs đã suy nghĩ v ề những gì c ần có ở chiếc
iPad 2. Nó c ần nh ững chiếc camera ở m ặt trư ớ c và m ặt sau - t ất c ả m ọi ngườ i đều bi ết đi ều này s ẽ
đến - và chắ c ch ắn là ông mu ốn nó m ỏng hơn. Nhưng có một vấn đề th ứ yế u mà ông tập trung vào
tr ong khi h ầu hết m ọi ngườ i đều không nghĩ đến: Những chiếc vỏ bao mà m ọi ngườ i s ử dụng đã
che hết nh ững đườ ng nét tuy ệt đẹp của iPad cũng như màn hình. Cái gì đ áng phải làm mỏng đi thì
họ l ại làm to lên. H ọ khoác một l ớ p áo tẻ ngắt lên m ột thi ết bị đáng ra phải th ần kỳ v ề m ọi m ặt.
Vào thờ i đi ểm đó, ông đọc đư ợ c m ột bài báo về nam châm, bèn c ắt nó ra và đưa cho Jony
Ive. Nam châm có m ột cái lõi h ấp dẫn có th ể đượ c t ập trung vào m ột cách chính xác. Có l ẽ chúng
có th ể đượ c sử dụng đ ể s ắp th ẳng hàng một l ớ p vỏ t háo ra đư ợ c. B ằng cách đó, nó có thể bám vào
m ặt trư ớ c của chi ếc iPad mà không nh ấn chìm cả thiết bị . M ột ngườ i trong nhóm c ủa Ive đã tìm ra
cách chế t ạo m ột chi ế c vỏ tháo rờ i có th ể nối vớ i m ột bản lề nam châm. Khi b ạn bắt đầu m ở nó ra,
màn hình sẽ hi ện lên gi ống như gương m ặt cư ờ i c ủa m ột em bé b ị cù, sau đó v ỏ bao sẽ gấp lại
thành một giá đ ỡ .
Phát ki ến này không có gì là công nghệ cao, mà hoàn toàn chỉ là cơ h ọc. Nhưng nó th ật s ự
rất thú v ụ. Nó cũng là m ộ t ví d ụ nữa cho thấ y khát khao của Jobs mu ốn có đư ợ c một thể th ống nhất
hoàn toàn: Lớ p vỏ bao và chiếc Ipad đư ợ c thi ết kế cùng nhau sao cho t ất c ả các nam châm và b ản
l ề đều nối vớ i nhau trơn tru. Chi ếc iPad 2 s ẽ có r ất nhi ều cải tiến, nhưng chi ếc vỏ bao táo b ạo này,
th ứ mà h ầu hết các CEO khác ch ẳng bao gi ờ để ý đến, sẽ là th ứ đem đến nhiều hài lòng nhất.
Bở i Jobs còn đang ngh ỉ ch ữa bệnh nên ông không đượ c trông đ ợ i s ẽ có m ặt t ại bu ổi ra m ắt
chiếc iPad 2, dự tính là vào ngày 2 tháng 3 năm 2011 ở San Francisco. Nhưng khi giấ y m ờ i đư ợ c
phát ra, ông bảo tôi rằng tôi nên c ố gắng đ ến tham d ự. vẫn là cảnh thư ờ ng thấ y: các giám đốc cấp
cao củ a Apple ở hàng đ ầ u tiên, Tim Cook ngồi nhai nh ững thanh kẹo tăng l ực, và h ệ th ống âm
thanh phát ầm ĩ các bài hát của the Beatles r ất phù h ợ p, cu ối cùng là nh ững bài “You Say You
Want a Revolution” (Bạn nói r ằng b ạn muốn m ột cu ộc cách m ạng) và “Here Comes the Sun”
(Tiến đến m ặt trờ i). Reed Jobs đ ến nơi vào phút chót cùng nên hai ngư ờ i bạ n cùng phòng đại học
t ỏ ra khá sững s ờ .
“Chúng tôi đã nỗ l ực vớ i s ản ph ẩm này trong m ột th ờ i gian dài, và tôi th ực sự không muốn
bỏ l ỡ ngày hôm nay,” Jobs vừa nói v ừa thong thả bướ c lên b ục, vẻ ngoài h ốc hác đ ến đáng s ợ
nhưng trên môi là n ụ cư ờ i vui v ẻ. Đám đông v ỡ òa lên vớ i nh ững ti ếng hò reo và tung hô.
Ông bắt đầu giớ i thi ệu chi ếc iPad 2 t ừ l ớ p vỏ bao mớ i. ông giải thích: “Lầ n này, l ớ p vỏ bao
và s ản ph ẩm đượ c thi ết k ế cùng nhau.” Sau đó, ông chuy ển sang đề cập l ờ i ch ỉ trích đã giày vò ông
bở i nó th ực sự có ý đúng: Chi ếc iPad ban đ ầu đã tiêu thụ nội dung tốt hơn là t ạo ra nội dung. Vì
vậ y, Appl e đã sửa l ại hai ứng d ụng s áng t ạo tốt nh ất dành cho Macintosh, GarageBand và iMovie,
và tạo ra nh ững phiên bả n m ạnh mẽ cho iPad. Jobs cho thấ y có th ể so ạn nh ạc và ph ối khí cho m ột
bài hát, hoặ c đưa nhạ c và các hiệu ứng đ ặc biệt vào video, và đăng t ải ho ặc chia sẻ các tác ph ẩm ấ y
dễ dàng như th ế nào khi s ử dụng iPad.
M ột l ần nữa, ông kết thúc bài thuy ế t trình của mình b ằng một slide mô t ả đi ểm giao nhau
gi ữa Đư ờ ng Khoa họ c Xã h ội và Đư ờ ng Công nghệ. Lần này, ông đưa ra m ột trong nh ững cách
di ễn đạt rõ ràng nhất trên cương lĩnh c ủ a mình, r ằ ng s ự s áng t ạo và đơn giả n th ực th ụ đến từ vi ệc
tích hợ p công cụ t ổng thể - phần cứng và phần m ề m, nội dung và b ề ngoài cùng kinh doanh - ch ứ
không ph ải để nó phải c ở i m ở và v ỡ vụn như nh ững gì đã x ả y ra trong th ế gi ớ i c ủa máy tính cá
nhân Windows và giờ đây đang xả y ra vớ i các thiết bị Android:
Trong cốt lõi của Apple, công nghệ là chưa đ ủ. Chúng tôi tin rằng chính công nghệ kết hợ p
vớ i nhân văn s ẽ đem lại kết qu ả làm nứ c lòng chúng ta. Ch ẳng ở đâu điều này l ại đúng đắn hơn là
trong trư ờ ng h ợ p của các thiết bị sau máy tính cá nhân. Thiên hạ đang đ ổ xô vào th ị trườ ng máy
tính b ảng này, và h ọ đang coi nó như chi ếc máy tính cá nhân th ứ hai, trong đó phần cứng và phần
m ềm là do các công ty khác nhau tạo ra. Kinh nghiệm của chúng tôi, và từ ng t ế bào trong cơ thể
chúng tôi, khẳng đ ị nh r ằ ng đây không ph ải là cách tiếp cận đúng đắn. Đây là nh ững thiết bị sau
máy tính cá nhân cần có trực giác hơn và d ễ s ử dụng hơn máy tính cá nhân, và trong đó ph ần cứng,
phần m ềm và các ứng d ụ ng c ần đượ c kết hợ p càng nhuần nhuy ễ n hơn so vớ i máy tính cá nhân.
Chúng tôi nghĩ mình có cấu trúc thích hợ p không chỉ về Silicon, mà còn c ả trong t ổ ch ức củ a
chúng tôi, đ ể t ạo nên nhữ ng loại s ản ph ẩm này.
Nó là một c ấu trúc đã ăn vào không chỉ t ổ ch ức mà ông đã g ây d ựng nên, mà còn vào chính
tâm hồn ông.
Sau sự ki ện ra m ắt, Jobs như đư ợ c tiếp thêm sinh lực. ông đến khách s ạn Four Seasons đ ể
ăn trưa cùng tôi, vợ ông, Reed và hai ngư ờ i bạn củ a Reed ở Stanford. Lầ n này ông đã chị u ăn, dù
vẫn hơi kén ch ọn. Ông gọ i nư ớ c ép hoa qu ả tươi, sau đó đã tr ả l ại ba l ần vì cho r ằng m ỗi l ần đều là
nướ c đóng hộp, cùng m ột đĩa mì Ý tr ộn rau tươi mà ông đã đ ẩ y ra xa ch ỉ sau một l ần nếm. Nhưng
sau đó ông ăn m ột nửa đĩa salad cua
Louie của tôi và g ọi m ột đĩa đ ầ y cho riêng ông, tiế p theo là m ột c ốc kem. Khách sạn tận
tâm này thậm chí đã mang ra đượ c m ột c ố c nư ớ c hoa quả đáp ứng đượ c tiêu chu ẩn củ a ông.
Ngày hôm sau ở nhà, ông vẫn rất hứng khở i. Ông đang lên k ế hoạ ch hôm sau sẽ bay một
mình đến Kona Village, tôi bèn đ ề nghị đượ c xem ôn g đã cho những gì vào chiếc iPad 2 c ủa ông đ ể
chuẩn bị cho chuy ến đi. Trong đó có ba b ộ phim: Chinatown, The Bourne Ultimatum và Toy Story
3. Ngoài ra, ch ỉ có m ột cu ốn sách mà ông đã tải xu ống: The Autography of a Yogi, cu ốn hư ớ ng
dẫn thi ền đị nh và duy linh mà ông đã đ ọc l ần đầu hồ i thi ếu niên, sau đó đọc l ại ở Ấn Độ và từ đó tr ở
đi đã đ ọc m ỗi năm một l ần.
Đượ c nửa bu ổi s áng, ông quy ết đị nh là muốn ăn m ột th ứ gì đó. ông v ẫn còn quá y ế u để lái
xe, vì v ậ y tôi đưa ông đ ế n m ột quán cà phê trong m ột khu mua s ắm. Nơi đó đang đóng cửa, nhưng
ngư ờ i ch ủ đã quen v ớ i vi ệc Jobs gõ cử a vào những thờ i gian như thế này và rất vui v ẻ cho chúng
tôi vào. Jobs nói đùa: “ông ấ y đã nh ận sứ m ệnh v ỗ béo tôi.” Các bác sĩ yêu c ầu ông phải ăn trứng vì
đó là ngu ồn protein ch ất lư ợ ng, vì vậ y ông g ọi món trứng tr áng. “S ống chung vớ i m ột căn b ệnh
như th ế này, cùng v ớ i t ất c ả những cơn đau, liên t ục nh ắc nh ở anh đến cái chết, và đi ều đó có th ể có
những tác động k ỳ l ạ t ớ i não c ủ a anh n ếu anh không c ẩn th ận,” ông nói. “Anh không lên kế hoạch
trướ c cho nhi ều hơn một năm, đi ều đó nghe th ật tòi tệ. Anh c ần ép bản thân lên k ế hoạch như th ể
anh sẽ s ống nhi ều năm nữa.”
M ột ví dụ của l ối suy nghĩ th ần kỳ này là kế hoạ ch xây dựng một chi ếc du thuy ền sang
tr ọng c ủ a ông. Trướ c cu ộ c ph ẫu thuật c ấ y gan, ông và gia đình thườ ng thuê m ột chi ếc tàu đ ể đi
nghỉ t ại Mexico, Nam Thái Bình Dương ho ặ c Đị a Trung Hải. Trong r ất nhi ều nh ững chuyến đi
này, Jobs c ảm th ấ y bu ồn chán và b ắt đầu ghét thi ết kế của chi ếc tàu, vì v ậ y họ s ẽ rút ng ắn chuy ế n
đi và bay đến Kona Village. Nhưng thỉ nh tho ảng chuyến đi cũng di ễn ra tốt đẹp. “Chuy ế n du lị ch
tuyệt vờ i nh ất là l ần chúng tôi đi xuôi bờ bi ển Italia, sau đó tớ i Athens - nơi đó đúng là đ ị a ng ụ c,
nhưng đền Parthenon thì thật tuy ệt di ệu - ti ếp theo là đến Ephesus ở Thổ Nhĩ Kỳ, ở đây họ có
những nhà vệ sinh công c ộng c ổ đ ại lát cẩm th ạch cùng một khoảng ở gi ữa để các nh ạc công bi ể u
di ễn.” Khi h ọ đến Istanbul, ông nhờ m ột giáo sư s ử học đưa gia đình mình đi thăm thú. Cuối cùng,
họ đến m ột nhà t ắm ki ểu Th ổ Nhĩ Kỳ, nơi mà bài gi ảng c ủa giáo sư đã mang l ại cho Jobs một cái
nhìn th ấu su ốt về s ự toàn c ầu hóa c ủa gi ớ i trẻ:
Tôi đã có đượ c m ột khám phá th ực th ụ. Khi đó chúng t ôi đ ều đang m ặc áo choàng tắm, rồi
họ pha cà phê Th ổ Nhĩ Kỳ cho chúng tôi. Giáo sư giải thích rằng cà phê ở đây đư ợ c làm ra khác
bi ệt đến thế nào so vớ i bấ t kỳ nơi nào khác, và tôi ch ợ t nh ận ra: “Thì sao ch ứ ?” Đâu có đ ứa trẻ nào
quan tâm đến cà phê Th ổ Nhĩ K ỳ, kể cả bọn trẻ nướ c này? Tôi đã ng ắm nghía giớ i trẻ ở Istanbul
su ốt c ả ngày. Tất c ả bọn họ đều uống những gì mà gi ớ i trẻ trên th ế gi ớ i uống, và họ m ặc qu ần áo
trông như c ủ a hãng Gap, và h ọ đều đang dùng đi ện tho ại di đ ộng. Họ gi ống gi ớ i trẻ ở m ọi nơi k hác.
Tôi nhận ra rằng gi ờ đây vớ i giớ i trẻ thì c ả th ế gi ớ i đều giống nhau. Khi chúng tôi làm ra sản ph ẩm
thì không có cái thứ gọi là điện tho ại Th ổ Nhĩ Kỳ, hay máy nghe nhạc mà gi ớ i trẻ Thổ Nhĩ Kỹ thích
thú s ẽ ch ẳng khác gì cái mà một thanh niên ở nơi khác s ẽ muốn. Gi ờ đây chúng ta là một th ế gi ớ i.
Sau niềm vui của chuy ến đi đó, Jobs đã tiêu khi ển bằng cách b ắt đầu thi ết kế và sau đó là
liên t ục thi ết kế l ại một chi ếc tàu mà ông nói là ông mu ốn xây d ựng m ột ngày nào đó. Khi trở bệnh
vào năm 2009, ông suýt nữa đã hủ y bỏ dự án này. ông hòi tưở ng l ại: “Tôi đã cho rằng mình s ẽ
không còn s ống khi nó đượ c hoàn thành. Nhưng ý nghĩ đó khi ến tôi rất bu ồ n, vì vậ y tôi quyết đị nh
rằng thiết kế s ẽ là m ột thú vui, và có thể tôi s ẽ có cơ may s ống sót khi nó đượ c hoàn thành. Nếu
ngừng thiết kế chiếc tàu ròi l ại s ống đượ c hai năm n ữa thì tôi s ẽ bực mình lắm. Vì vậ y tôi v ẫn cứ
làm ti ếp.”
Sau khi ăn tr ứng tr áng ở quán cà phê, chúng tôi quay v ề nhà ông, r ồi ông cho tôi xem t ất c ả
các mô hình và b ản vẽ cấ u trúc. Đúng như dự đoán , chiếc du thuy ề n trông rấ t bóng bẩ y và tối giản.
Sàn gỗ t ếch nhẵn hoàn toàn và không hề đượ c trang trí. Giống như ở m ột c ử a hàng Apple, các c ửa
s ổ cabin đ ều là nh ững khung lớ n, gần như t ừ sàn lên đ ến trần, còn khu v ực sinh ho ạt chính đượ c
thiết k ế có những bứ c tư ờ ng kính dài mư ờ i hai mét và cao ba mét. ông đã nh ờ k ỹ sư trưở ng c ủa các
cửa hàng Apple thi ết kế m ột lo ại kính đặc bi ệt có th ể đóng vai trò c ột ch ị u lực.
Cho tớ i khi đó, chi ếc tàu đang đượ c xây d ựng dướ i tay các nhà đóng tàu Hà Lan là
Feadship, nhưng Jobs vẫn đang loay hoay vớ i thi ế t kế. Ông nói: “Tôi biết r ằng mình có thể s ẽ ch ết
và đ ể l ại cho Laurene m ột chi ếc tàu đang làm d ở . Nhưng tôi ph ải làm ti ếp. N ếu không, tứ c là một
l ờ i th ừa nh ận rằng tôi s ẽ ch ết.”
Ông và Powell sẽ t ổ ch ứ c kỷ ni ệm 20 năm ngày cư ớ i vài ngày sau đó, và ông th ừa nh ận
rằng đã có nh ững lúc ông không đánh giá bà đúng như nh ững gì bà x ứng đ áng. Ông nói: “Tôi r ất
may mắn, vì ta ch ẳng th ể nào biết đư ợ c mình đang d ấn thân vào cái gì khi cướ i. Ta ch ỉ bi ết d ựa vào
tr ực giác. Tôi đã làm k hông thể t ốt hơn, bở i Laurene không ch ỉ thông minh và xinh đ ẹp mà bà ấ y
hóa ra còn là một ngườ i r ất t ốt.” ông rơi nư ớ c m ắt trong ch ốc lát. ông nói v ề những ngư ờ i bạn gái
khác c ủ a mình, đ ặc bi ệt là Tina Redse, nhưng ròi kh ẳng đ ị nh r ằng mình đã kết thúc ở đúng chỗ.
ông cũng nhìn nh ận lại r ằ ng mình đã ích k ỷ và đòi hỏi đến th ế nào. “Laurene đã phải ch ị u đựng
tính cách đó c ủ a tôi, cũng như chị u đựng b ệnh t ật c ủa tôi,” ông nói. “Tôi biết r ằng s ống v ớ i tôi
không ph ải là một vi ệ c dễ dàng gì cho cam.”
M ột trong nh ững thói ích kỷ củ a ông thể hi ện ở ch ỗ ông có xu hướ ng quên các ngày k ỷ
ni ệm và sinh nhật. Nhưng lần này, ông quy ết đị nh lên kế hoạch th ật bất ng ờ . Họ đã làm đám cư ớ i
t ại khách s ạn Ahwahnee ở Yosemite, vì v ậ y ông quyết đị nh s ẽ đưa Powell trở l ại đó vào ngày k ỷ
ni ệm của họ. Nhưng khi Jobs g ọi đến thì nơi này đã đượ c đặt kín ch ỗ. Ông bèn nhờ khách sạn tiếp
cận nh ững ngư ờ i đã đặt căn phòng mà ông và Powell đã ở trướ c đây và xin h ọ hủ y đặt. Jobs h ồi
tư ở ng l ại: “Tôi đ ề nghị tr ả ti ền cho thêm một cu ối tu ần, nhưng ngư ờ i đó đã tốt bụng và nói: ’20
năm, m ờ i ông l ấ y phòng, nó là của ông.’”
Ông tìm l ại ảnh cướ i, do m ột ngườ i bạn ch ụp, và in ra những b ản lớ n trên giấ y bìa dày ròi
đặt vào m ột chi ế c hộp rất tao nhã. Ông tìm l ại trong chiếc iPhone của mình m ẩu ghi chú mà ông đã
so ạn sẵn để cho vào chi ế c hộp và đọc to nó lên:
20 năm trướ c chúng ta không bi ết nhi ều về nhau. Chúng ta đã đư ợ c trực giác mách b ảo; ở
bên em như th ể đang ở trên thiên đườ ng h ạ gi ớ i. Tuy ết rơi khi chúng ta làm đám cư ớ i ở khách sạ n
Ahwahnee. Năm tháng trôi qua, bọn trẻ ra đ ờ i, đã có những giây phút h ạnh phúc, nh ững thờ i đi ểm
khó khăn, nhưng chưa bao gi ờ là nh ững ngày tháng tòi t ệ. Tình yêu và s ự tôn trọng giữa chúng ta
đã tồn t ại và nả y nở . Chúng ta đã cùng nhau tr ải qua th ật nhi ều khó khăn, và gi ờ đây chúng ta đang
ở đúng xuất phát điểm của mình 20 năm trướ c - già d ặn hơn, khôn ngoan hơn - vớ i nh ững n ếp nhăn
trên m ặt và trong tim. Gi ờ đây chúng ta đã thấ y đư ợ c bi ết bao ni ềm vui, nỗi bu ồn, bí m ật và cả
những đi ều kỳ di ệu củ a cu ộc sống, và giờ đây chúng t a vẫn ở bên nhau. Chân anh v ẫn chưa bao gi ờ
ch ạm đất.
Đến cu ối bài đ ọc, ông khóc đến không ngừng n ổi. Khi đã lấ y lại bình tĩnh, ông nói thêm
rằng ông cũng sẽ dành m ột t ập ảnh cho m ỗi đứa con c ủa mình. “Tôi nghĩ chúng sẽ thích đượ c thấ y
rằng b ố mình cũng có m ột th ờ i trẻ trung.”
iCloud
Năm 2001, Jobs đặt ra m ột vi ễn cảnh: Chi ếc máy tính cá nhân sẽ đóng vai trò “trung tâm
s ố” của m ột lo ạt các thiết bị s ống như máy nghe nhạc, máy quay phim, điệ n thoại và máy tính
bảng. Viễn cảnh này nh ắ m đến điểm mạnh c ủa Apple trong việc t ạo ra các s ản ph ẩm tích hợ p dễ s ử
dụng. Chính vì v ậ y, Apple đã bi ến từ m ột công ty sản xu ất máy tính đ ắt tiền thành công ty công
nghệ giá trị nhất th ế gi ớ i.
Năm 2008, Jobs đã khai tri ển vi ễn cảnh đó cho làn sóng tiếp theo củ a th ờ i đại s ố. Ông tin
rằng trong tương lai, máy tính đ ể bàn sẽ không còn là trung tâm n ội dung của bạn nữa, mà thay vào
đó s ẽ là “đám mây”. Nói cách khác, n ội dung củ a bạn sẽ đượ c lưu giữ trên các máy ch ủ t ừ xa do
m ột công ty mà b ạn tin tư ở ng quản lý, và b ạn có th ể truy c ập nội dung đó trên b ất kỳ thiết bị nào,
ở bất kỳ nơi đâu. ông s ẽ m ất ba năm để hoàn thiệ n đư ợ c nó.
Ông bắt đầu vớ i một bư ớ c đi sai lầm. Vào mùa hè năm 2008, ông cho ra m ắ t một s ản ph ẩm
tên là MobileMe, m ột dị ch v ụ thuê bao đắt đỏ (99 đô -la m ỗi năm) cho phép bạn cất gi ữ s ổ đị a ch ỉ ,
tài li ệu, hình ảnh, video, email và l ị ch trình c ủa mình từ xa trong đám mây và đồng bộ nó v ớ i b ất k ỳ
thiết bị nào. Trên lý thuy ết, bạn có th ể dùng iPhone hoặc bất kỳ chiế c máy tính nào đ ể ti ếp cận vớ i
m ọi khía c ạnh cuộ c sống s ố của bạn. Tuy nhiên có một vấn đề l ớ n: D ị ch v ụ này, theo cách nói c ủ a
Jobs, chẳng ra gì. Nó rất ph ức t ạp, các thi ết b ị không đồng bộ hóa t ốt, còn email và các d ữ li ệu khác
thì ng ẫu nhiên bi ến m ất trong thinh không. “MobileMe c ủa Apple có quá nhi ều lỗi để có th ể tin
cậ y,” đó là tiêu đ ề bài đánh giá c ủa Walt Mossberg trên tờ Wall Street Journal.
Jobs rất t ức gi ận, ông t ập trung đ ội ngũ MobileMe trong khán phòng của Apple, đứng trên
bục và hỏi: “Ai có th ể cho tôi bi ết m ục đích của MobileMe là gì?” Sau khi các thàn h viên đưa ra
câu trả l ờ i, Jobs v ặc l ại: “Th ế thì t ại sao nó l ại không làm đượ c như v ậ y?” Trong vòng nửa tiếng
đồng h ồ sau đó, ông tiếp tục nhi ếc móc họ. “Các anh đã bôi nhọ danh ti ếng c ủa Apple,” ông nói.
“Các anh nên ghét nhau vì đã gây th ất vọng l ẫn nhau. Mossberg, ngư ờ i bạ n của chúng ta, không
còn vi ết nh ững điều tốt đẹp về chúng ta nữa.” Trư ớ c m ặt t ất c ả những ngư ờ i ở đó, ông sa thải
trưở ng nhóm MobileMe và thay thế b ằng Eddy Cue, ngườ i đã giám sát t ất c ả các nội dung Internet
t ại Apple. Như Adam Lashi nsky c ủa t ờ Fortune đã nêu trong một bài m ổ xẻ văn hóa đoàn thể ở
Apple, “Trách nhiệm đượ c đảm bảo nghiêm ngặt.”
Đến năm 2010, có thể th ấ y rõ rằng Google, Amazon, Microsoft và các công ty khác đều
đang nhắm tớ i mục tiêu tr ở thành ngư ờ i giỏi nh ất trong vi ệ c lưu trữ t ất c ả nội dung và d ữ li ệu trong
đám mây và đồng b ộ hóa chúng vào các loại thi ết b ị . Vì vậ y Jobs tăng cư ờ ng n ỗ l ực của mình. Mùa
thu năm đó, ông gi ải thích v ớ i tôi:
Chúng tôi phải là công ty qu ản lý m ối quan hệ của các b ạn vớ i đám mây - phát nh ạc và
video c ủa bạn t ừ đám mây, c ất giữ các bứ c ảnh và thông tin c ủa bạn, và th ậm chí có thể là c ả các dữ
li ệu bệnh lý c ủa bạn nữa. Apple là nơi đ ầu tiên có ý tưở ng v ề chiếc máy tính trở thành một trung
tâm số. Vì vậ y chúng tôi đã vi ết nên t ất c ả các ứng d ụng đó - iPhoto, iMovie, iTunes - và cài vào
các thi ết bị của mình như iPod, iPhone và iPad, và nó đã thành công vang dộ i. Nhưng sau vài năm
nữa, trung tâm này sẽ chuy ển từ máy tính của bạn sang đám mây.
Vì v ậ y, vẫn là chi ến lư ợ c trung tâm số ấ y, nhưng trung tâm sẽ chuy ển sang nơi khác. Đi ều
đó có nghĩa là bạn sẽ luôn luôn có th ể ti ếp cận nội dung của mình mà không c ần ph ải đồng b ộ hóa.
Chúng tôi cần th ực hi ện sự bi ến đổi này, b ở i đó là cái mà Clayton Christensen g ọi là “th ế
ti ến thoái lư ỡ ng nan của ngườ i tiên phong,” trong đó nh ững ngư ờ i phát minh lại thư ờ ng là ngư ờ i
cu ối cùng th ấu hi ểu đư ợ c nó, mà chúng tôi thì ch ắ c ch ắn là không mu ốn bị bỏ l ại đằng sau. Tôi sẽ
bi ến MobileMe thành mi ễn phí, r ồi chúng tôi s ẽ làm cho việc đồng bộ hóa nội dung tr ở nên đơn
gi ản. Chúng tôi đang xây d ựng một trung tâm máy ch ủ ở Bắ c Carolina. Chúng tôi có th ể đáp ứng
đủ nhu cầu đồng bộ hóa của bạn, và b ằng cách đó chúng tôi có thể gi ữ đượ c khách hàng.
Jobs th ảo luận về vi ễn cả nh này vào các cuộ c họp sáng th ứ hai, và dần dần nó đư ợ c cải tiến
thành một chi ến lư ợ c m ới. ông hồi tư ở ng l ại: “Tôi g ửi email tớ i các nhóm vào hai gi ờ s áng và v ật
l ộn vớ i các chi ến thuật. C húng tôi nghĩ về nó r ất nhi ều vì đây không phải là công vi ệc mà là cuộc
s ống c ủ a chúng tôi.” Dù m ột s ố thành viên ban giám đ ốc, trong đó có AI Gore, đặt ra vấn đề về ý
tư ở ng biến MobileMe thành dị ch v ụ miễn phí nhưng h ọ v ẫn ủng h ộ. Đó s ẽ là chiến lư ợ c của họ
nhằm thu hút khách hàng vào quỹ đ ạo củ a Apple trong th ập kỷ ti ếp theo.
Dị ch v ụ m ớ i đư ợ c đặt tên là iCloud, và Jobs đã tiết l ộ nó trong l ờ i gửi gắ m chính tớ i Hội
nghị các Lập trình viên của Apple trên toàn Thế gi ớ i vào tháng 6 năm 2011. ông vẫn đang tron g
th ờ i kỳ nghỉ ch ữa bệnh, và trong th áng 5 đã ph ải nh ập vi ện vì nhiễm trùng và đau đớ n. M ột s ố
ngư ờ i bạn thân thuyết ph ục ông đ ừng thuyế t trình bở i nó sẽ đòi hỏi r ất nhi ều sự chuẩn bị và tập
luyện. Nhưng vi ễn cảnh đượ c dẫn đư ờ ng cho m ột chuy ể n giao kiến tạo m ớ i trong th ờ i đại s ố
dườ ng như đã ti ếp thêm cho ông s ức m ạnh.
Khi đứng trên b ục phát bi ểu tại Trung tâm H ội nghị San Francisco, ông m ặ c m ột chi ếc áo
len san đen hi ệu VONROSEN bên ngoài chi ế c áo cổ rùa Issey Miyake màu đen quen thuộc của
mình, và bên trong chiếc qu ần bò màu xanh là chiếc qu ần lót gi ữ nhiệt. Nhưng trông ông vô cùng
hốc hác. Đám đông đứng v ỗ tay chào đón ông r ất lâu - “Điều đó luôn giúp ích r ất nhi ều, và tôi thật
s ự cảm kích,” ông nói - nhưng ch ỉ sau vài phút, c ổ phiếu của củ a Apple giả m hơn 4 đô-la, xuống
còn 340 đô-la. Ông đang cho th ấ y m ột nỗ l ực đáng khâm phục, nhưng trông ông rất yế u.
Ông nhườ ng l ại sân khấu cho Phil Schiller và Scott Forstall trình bày v ề các hệ đi ều hành
m ớ i cho Mac và các thi ết bị di động, sau đó tr ở l ại t ự mình giớ i thiệu iCloud. Ông nói: “Kho ảng 10
năm trướ c, chúng tôi đã có đượ c m ột trong nh ững nhận th ức quan tr ọng nhất c ủa mình. Máy tính
cá nhân s ẽ tr ở thành trung tâm cu ộ c sống s ố của bạn. Video, hình ảnh, âm nh ạc củ a bạn.
Nhưng nó đã s ụp đổ trong vài năm gần đây. Vì sao?” Ông giải thích rằng việc đồng b ộ hóa
t ất c ả nội dung vào t ừng thiết bị là khó đến m ức nào. Nếu bạn có m ột bài hát v ừa đư ợ c t ải xu ống
iPad, một b ức ảnh đượ c ch ụp bằng iPhone và một video đư ợ c giữ trên máy tính thì bạn sẽ cảm thấ y
mình giống như m ột nhân viên t ổng đài thờ i xưa khi cứ phải tháo l ắp dây cáp USB từ cái này sang
cái khác đ ể chia sẻ nội dung. “Đồng b ộ hóa nh ững thiết b ị này đang khiến chúng ta phát điên,” ông
nói và nh ận đư ợ c m ột tràng cư ờ i l ớ n từ khán phòng. “Chúng tôi có m ột giải pháp. Đó là nhận th ức
l ớ n tiếp theo của chúng tôi. Chúng tôi sẽ gi áng cấp máy tính cá nhân và Mac xu ống thành một thi ết
bị , và chuy ển trung tâm số vào đám mây.”
Jobs nhận thức r ất rõ r ằng “nh ận thức l ớ n” này th ực ra không h ẳn là mớ i. Th ậ t v ậ y, ông nói
đùa về cố gắng trướ c đây c ủa Apple: “Các bạn có th ể nghĩ rằng, Tại sao tôi ph ải tin h ọ? Họ chính
là nh ững ngư ờ i đã t ạo ra MobileMe’.” C ả khán phòng bật cư ờ i căng th ẳng. “Cho phép tôi nói rằng
đó không ph ải là giai đoạ n t ốt nh ất c ủa chúng tôi.” Nhưng khi ông giớ i thi ệu iCloud, có th ể th ấ y rõ
rằng nó s ẽ làm tốt hơn. Thư, danh b ạ và các mục trên l ị ch đ ều đư ợ c đồng b ộ hóa ngay lập tức. Các
ứng d ụng, hình ảnh, sách truyện và tài liệu cũng vậ y. Ấn tư ợ ng nhất là Jobs và Eddy Cue đã làm
hợ p đồng vớ i các công ty phát hành nhạc (không như Google và Amazon). Apple s ẽ có 18 triệu bài
hát trên các máy ch ủ đám mây củ a mình. N ếu bạn có bất kỳ bài hát nào trong số này trên các thiết
bị hoặc máy tính c ủa mình - dù là b ạn đã sở hữu nó m ột cách hợ p pháp hay bất hợ p pháp - thì
Apple cũng sẽ cho phép bạn có đư ợ c phiên b ản ch ấ t lư ợ ng cao của bài hát đó trên t ất c ả các thi ết b ị
của mình mà không c ần ph ải t ốn th ờ i gian và công sứ c t ải nó lên đ ám mây. “T ất c ả đ ều sẽ hoạt
động t ốt,” ông nói.
Khái ni ệm đơn giản đó - rằng mọi th ứ đều sẽ hoạt động nhu ần nhuy ễ n - như thườ ng l ệ vẫn
là lợ i thế cạnh tranh c ủa Apple. Microsoft đã qu ảng cáo cho “Cloud Power” trong hơn m ột năm, và
ba năm trướ c, ki ến trúc s ư ph ần m ềm trưở ng c ủ a công ty là huyề n thoại Ray Ozzie đã th ốt lên:
“Nguy ện vọng c ủ a chúng tôi là m ỗi cá nhân sẽ ch ỉ cần đăng ký các sản ph ẩ m truyền thông c ủ a
mình một l ần, sau đó có th ể dùng b ất kỳ... thiết bị nào của mình đ ể ti ếp cận và thưở ng thứ c sản
phẩm truyề n thông c ủa họ.” Nhưng Ozzie đã rờ i Microsoft vào cu ối năm 2010, và đ ộng l ự c đưa
đám mây của công ty vào các thiết bị tiêu dùng không bao giờ đượ c thự c hiệ n. Amazon và Google
đều đã đưa ra dị ch v ụ đám mây vào năm 2011 nhưng không công ty nào có khả năng tích hợ p ph ần
cứng, phần mềm và nội dung của một loạt các thiết bị . Apple ki ểm soát tất c ả các mắt xích và thi ết
kế để chúng cùng ho ạt độ ng: các thiết bị , máy tính, h ệ đi ều hành và phần mề m ứng d ụng, cùng vớ i
vi ệc kinh doanh và cất gi ữ nội dung.
Tất nhiên, nó sẽ ch ỉ hoạt động nhu ần nhuy ễ n nếu bạn sử dụng thiết bị của Apple và ở
nguyên trong vòng phong t ỏa của họ. Đi ều này t ạ o ra thêm m ột l ợ i ích cho Apple: sự trung thành
của khách hàng. M ột khi đã b ắt đầu sử dụng iCloud, s ẽ rất khó đ ể chuy ển sang dùng m ột thi ết bị
Kindle ho ặc Android. Âm nhạc và các n ội dung khác c ủ a bạn sẽ không đồ ng b ộ vớ i chúng; trên
th ực t ế, chúng th ậm chí có thể không ho ạt động. Đó chính là k ết qu ả đạt đư ợ c sau ba thập kỷ tránh
xa các hệ đi ều hành m ở . “Chúng tôi đã nghĩ v ề vi ệc l i ệu có nên t ạo m ột ph ần nh ạc cho Android,”
Jobs nói với tôi trong b ữa sáng hôm sau. “Chúng tôi đã cho iTunes vào Windows đ ể bán đượ c
thêm iPod. Nhưng tôi không th ấ y có lợ i ích gì trong việ c cài đ ặt ứng d ụng âm nh ạc củ a chúng tôi
vào Android, trừ vi ệ c làm h ài lòng ngư ờ i s ử dụng Android. Mà tôi thì không muốn làm hài lòng
ngư ờ i s ử dụng Android.”
Đị a đi ểm m ới
Hồi 13 tu ổi, Jobs tra c ứu số đi ện tho ại c ủa Bill Hewlett trong danh b ạ đi ện thoại r ồi gọi cho
ông để hỏi về m ột bộ phậ n cần cho b ộ đ ếm tần số mà ông đang c ố xây dựng, để rồi thành ra có
đượ c một công vi ệc làm thêm hè tại bộ phận dụng c ụ của Hewlett -Packard. Cùng năm đó, HP mua
đất ở Cupertino đ ể m ở rộng b ộ phận tính toán của mình. Wozniak đ ến làm việc ở đó, và chính ở
nơi này ông đã thiết kế Apple I và Apple II trong những giờ làm đêm củ a mình.
Khi vào năm 2010, HP quy ết đị nh b ỏ đị a đi ểm củ a mình tại Cupertino, nơi chỉ cách tổng
hành dinh One Infinite Loop của Apple 1,5 kilômét v ề phía đông, Jobs đã l ặng l ẽ dàn xếp để mua
l ại nó và c ả khu đất xung quanh, ông r ất ngưỡ ng mộ cách Hewlett và Packard đã gây d ựng một
công ty b ền vững, và ông cũng t ự hào vì đã làm đượ c điều tương t ự ở Apple. Gi ờ đây ông mu ốn có
m ột đ ại b ản doanh đ ể trưng bày, một thứ mà không công ty công ngh ệ nào ở Bờ Tây có đư ợ c. Cuố i
cùng ông tập hợ p đư ợ c t ổ ng c ộng 60 héc -ta, phần l ớ n trong số đó từng là các vư ờ n mơ khi ông còn
bé, r ồi lao mình v ào cái mà sau này s ẽ tr ở thành một dự án di sản kết hợ p đam mê thiết kế và đam
mê tạo l ập nên một công ty bền vững c ủ a ông. "Tôi mu ốn để l ại một t ổng hành dinh đ ầ y dấu ấn thể
hi ện các giá trị của công ty đến muôn đ ờ i sau," ông nói.
Ông thuê công ty ki ến trúc mà ông cho là tốt nh ất thế gi ớ i c ủa Ngài Norman Foster, công ty
đã xây nên nh ững tòa nhà đượ c bố trí r ất thông minh, ch ẳng h ạn như dinh thự đượ c ph ục hồi l ại
Reichstag ở Berlin và tòa nhà 30 St. Mary Axe ở London. Ch ẳng có gì ngạc nhiên khi Jobs tích c ực
tham gia lên k ế hoạch c ả về t ầm nhìn và chi tiết đ ế n nỗi g ần như không th ể quyết đ ị nh đượ c thi ết k ế
cu ối cùng. Đây sẽ là tòa dinh thự trườ ng tòn củ a ông, vì vậ y ông mu ốn làm cho h ẳn hoi. Công ty
của Foster c ử 50 kiến trúc sư tham gia đ ội ngũ, và r ồi trong su ốt năm 2010, c ứ ba tu ần họ l ại mang
đến cho Jobs những mô hình và lựa ch ọn đã đư ợ c ch ỉ nh s ửa. ông cứ liên tục nả y ra nh ững ý tư ở ng
m ớ i, đôi khi là m ột hình dáng m ớ i hoàn toàn, rồi bu ộc họ bắt đầu lại và đưa ra thêm các l ự a ch ọn
thay th ế.
Khi ông cho tô i xem các mô hình và kế hoạch lần đầu tiên trong phòng khách của mình, tòa
nhà trông gi ống như m ột đư ờ ng đua uốn lư ợ n kh ổng lò đượ c t ạo nên t ừ ba hình bán nguyệt liên k ết
vớ i nhau quanh một khoảng sân trung tâm rộng l ớ n. Tườ ng là những t ấm kính cao t ừ nền lên trần,
còn nội th ất bao g ồm các hàng văn phòng di động cho ánh sáng m ặt trờ i t ỏa xu ống các lối đi.
“Thi ết kế này t ạo nên kho ảng không gian hội họp linh ho ạt,” ông nói, “và t ất c ả m ọi ngườ i đều
đượ c hư ở ng ánh sáng m ặ t trờ i.”
Lần tiếp theo ông cho tôi xem thiết kế là m ột th áng sau đó, khi chúng tôi đang ở trong
phòng hội nghị rộng lớ n của Apple đ ối di ện văn phòng c ủ a ông, ở đó một mô hình d ự ki ến của tòa
nhà ph ủ kín chi ếc bàn h ọp. ông đã đưa ra một thay đ ổi l ớ n. Các văn phòng di đ ộng đ ều sẽ đượ c đặt
cách x a cửa sổ, nh ờ đó các hành lang dài đ ều sẽ ngập tràn ánh n ắng. Chúng cũng s ẽ đóng vai trò là
không gian sinh hoạt chung, ông đã tranh luận rất nhi ều vớ i một s ố ki ến trúc sư bở i h ọ muốn cửa sổ
đượ c m ở ra. Jobs thì chưa bao giờ thích ý tư ở ng là mọi ngườ i có t hể m ở đượ c các thứ. ông tuyên
bố: “Đi ều đó sẽ ch ỉ khiến cho ngư ờ i ta làm loạn.” ông đã chi ến th ắng trong vấn đề đó, cũng như ở
nhiều chi ti ết khác.
Khi về nhà vào buổi t ối hôm ấ y, Jobs khoe các bản vẽ trong b ữ a t ối, Reed bèn nói đùa rằng
cái v ẻ ngoài lơ l ửng ấ y làm c ậu liên tưở ng đ ến bộ phận sinh dục của đàn ông. Jobs g ạt bỏ l ờ i bình
lu ận ấ y, coi đó ch ỉ là tư duy củ a m ột ngườ i chưa trư ở ng thành. Nhưng ngày hôm sau, ông đề cập
đến bình lu ận ấ y vớ i các ki ến trúc s ự. “Thật không may là m ột khi tôi đã kể vớ i an h chuy ệ n đó thì
anh sẽ không bao giờ có th ể xóa bỏ hình ảnh ấ y kh ỏi tâm trí mình,” ông nói. Vào lần tiếp theo tôi
t ớ i thăm, hình d áng của tòa nhà đã đượ c thay đổi thành m ột hình tròn đơn gi ản.
Thiết kế m ớ i này đồng nghĩa v ớ i vi ệc sẽ không có m ột t ấm kính thẳng nào trong tòa nhà.
Tất c ả đều sẽ đượ c uốn cong và ăn khớ p vớ i nhau. Đã t ừ lâu, Jobs vẫn luôn bị các t ấm kính mê
hoặc, và theo kinh nghi ệ m của ông khi đòi h ỏi các t ấm kính lớ n làm theo yêu cầu cho các cửa hàng
của Apple giúp ông tự tin r ằng hoàn toàn c ó th ể t ạo ra m ột s ố lư ợ ng l ớ n nh ững t ấm kính cong
khổng l ồ. Khoảng sân trung tâm dự ki ến sẽ có chiề u dài kho ảng 244 mét (tứ c là l ớ n hơn chi ều dài
của ba kh ối nhà thành ph ố, ho ặc gần bằng chiều dài c ủa ba sân bóng đá), và ông cho tôi xem mô
hình này vớ i nh ững t ấm khăn tr ải bàn, ng ụ ý rằng nó có thể bao quanh Qu ả ng trườ ng St. Peter ở
Rome như thế nào. M ột trong nh ững ký ứ c còn sót lại c ủa ông là v ề các vư ờ n cây ăn qu ả t ừng t ồn
t ại trên khu đ ất này, vì v ậ y ông bèn thuê m ột chuyên gia tr ồng cây đầ y kinh nghiệm t ừ Stanford và
ra ch ỉ th ị rằng 80% khu đ ất s ẽ là c ảnh thiên nhiên vớ i 6.000 cây cối. Jobs hòi tưở ng lại: “Tôi đã đ ề
nghị ông ấ y ph ải tr ồng m ột vư ờ n cây mơ m ớ i. Trướ c đây ta thấ y chúng ở khắp nơi, ngay cả ở các
góc đư ờ ng, và chúng đã trở thành di s ản của th ung lũng này.”
Đến th áng 6 năm 2011, thiết kế của tòa nhà bốn tầ ng r ộng hơn 90 kilômét vuông v ớ i s ức
ch ứa hơn 12 nghìn nhân viên đã s ẵn sàng đư ợ c tiế t l ộ. ông quy ết đị nh thông báo v ớ i Hội đồng
Thành ph ố Cupertino một cách l ặng l ẽ và không công khai ngay sau ngày công b ố dị ch v ụ i Cloud
t ại Hội nghị Lập trình viên Quốc t ế.
Dù không còn mấ y sức l ực nhưng ông v ẫn có m ột l ị ch trình kín vào ngày hôm đó. Ron
Johnson, ngườ i đã tri ển khai các c ử a hàng của Apple và điều hành chúng trong hơn một thập kỷ, đã
quyết đị nh đồng ý đề nghị tr ở thàn h CEO của J.C. Penney, và sáng hôm đó ông đã đ ế n nhà Jobs đ ề
bàn về s ự ra đi c ủa mình. Sau đó Jobs và tôi cùng đ ến m ột quá cà phê tên là Fraiche ở Palo Alto,
ông đã nói r ất hào h ứng v ề các s ản ph ẩm trong tương lai củ a Apple. Cu ối ngày, ông đư ợ c đưa t ớ i
Santa Clara đ ể dự cu ộc họp hàng quý của Apple v ớ i các giám đ ốc cấp cao c ủa Intel, ở đó h ọ th ảo
lu ận về khả năng s ử dụng chip Intel trong các thiết bị di đ ộng tương lại. Đêm hôm đó, U2 chơi ở
Oakland Coliseum, Jobs đã đị nh s ẽ đến. Thay vào đó, ông quy ết đị nh t ối hôm ấ y sẽ trình bày đ ồ
Ấn của mình v ớ i Hội đồng Cupertino.
Đến nơi mà không có bộ s ậu tùy tùng hay bất kỳ s ự phô trương nào, vớ i dáng đi ệu thoải
mái, vẫn m ặc chi ế c áo len màu đen đã m ặ c t ại bu ổi nói chuyện hội nghị l ậ p trình viên, ông đứng
trên b ục vớ i chiế c đi ều khiển trong tay và trình bày các slide thiết kế vớ i các thành viên hội đồng
trong 20 phút. Khi m ột tòa nhà hình tròn bóng bẩ y như t ớ i t ừ tương lai hi ện lên trên màn hình, ông
ngừng l ại và m ỉ m cườ i. “Trông như th ể m ột chi ếc tàu vũ trụ vừa hạ cánh,” ông nói. M ột lát sau,
ông nói thêm: “Tôi nghĩ chúng tôi có th ể xây dựng nên tòa nhà văn phòng tuy ệt nh ất th ế gi ớ i.”
Thứ Sáu tuần sau, Jobs gửi email tớ i m ột đồng nghi ệp từ rất lâu trướ c đây là Ann Bowers,
vợ góa của nhà đồng s áng l ập Intel Bob Noyce. Bà là giám đ ốc nhân sự cũng như qu ản lý của
Apple vào đ ầu nh ững năm 1980, ch ị u trách nhiệ m khiển trách Jobs sau nh ững cơn th ị nh n ộ của
ông và xoa dị u các b ạn đồng nghiệp. Jobs h ỏi r ằng li ệu hôm sau bà có muốn đến thăm ông hay
không. Bowers đang ở New York, nhưng bà đã đế n nhà ông vào ch ủ nhật ngay khi bà quay l ại. Khi
đó, ông l ại trở bệnh, r ất đau đ ớ n và hầu như chẳng còn chút sức l ực nào, nhưng ông v ẫn rất hào
hứng cho bà xem hình ảnh c ủa đại b ản doanh mớ i. ông nói: “Bà hãy t ự hào về Apple. Bà hãy tự hào
về những gì chúng ta đã gây dựng.”
Sau đó ông nhìn bà chăm chú và h ỏi m ột câu h ỏi khi ến bà “ngã ngửa”: “Hãy cho tôi bi ết,
hồi trẻ tôi như th ế nào?”
Bowers c ố gắng đưa ra m ột câu tr ả l ờ i trung th ực: “ông r ất m ạnh mẽ, và khó tính. Nhưng
t ầm nhìn của ông thì đầ y thuy ết ph ục. Ông đã b ảo chúng tôi, ‘Hành trình chính là phần thưở ng.’
Đi ều đó quả th ật là đã đúng.”
Jobs tr ả l ờ i: “Đúng. Tôi đã học đư ợ c nhi ều điều trong hành trình đó.” R ồi vài phút sau, ông
nhắc l ại câu tr ả l ờ i, như để tr ấn an Bowers và c hính mình: “Tôi đã học đư ợ c nhi ều đi ều. Thật s ự
đấ y.”
Chương 41: VÒNG 3
Cuộc chi ến giai đo ạn cu ối
Gia đình gắn bó
Jobs có mong muốn cháy bỏng là có thể s ống t ớ i l ễ t ốt nghi ệp trung h ọ c củ a con trai vào
th áng Sáu năm 2010. “Khi đượ c ch ẩn đoán m ắc bệnh ung thu, tôi đã có một th ỏa ướ c vớ i Chúa
hoặc vớ i bất kỳ ai có quy ền năng, r ằng tôi thực sự muốn đư ợ c nhìn th ấ y Reed trong l ễ t ốt nghi ệp,
và rằng hãy cứu vớ t tôi qua năm 2009,” Steve nói. Là h ọc sinh cu ối c ấp, Reed trông kỳ quái gi ống
Steve năm 1 8 tu ổi, vớ i m ột nụ cư ờ i đầ y hi ểu bi ết và có ph ần nổi lo ạn, vớ i ánh nhìn rất mãnh li ệt
cùng mái tóc đen bù xù. Nhưng Reed cũng đượ c th ừa hư ở ng s ự ngọt ngào và kh ả năng th ấu cảm
nhạ y bén sâu sắ c t ừ m ẹ c ậ u, nh ững đi ều mà Steve không có. Reed luôn lộ rõ v ẻ trì u mến và háo hức
khiến ngườ i khác cảm thấ y hài lòng. Bất c ứ khi nào Steve ng ồi ủ rũ bên bàn ăn và nhìn ch ằm ch ằ m
xuống sàn nhà - đi ều thườ ng xuyên xả y ra khi ông bị ốm - thì việc duy nhất ch ắc ch ắn sẽ khiến cho
đôi mắt c ủa Steve b ừng s áng lên đó là khi Ree d bư ớ c vào.
Reed tôn thờ cha mình. Chẳng bao lâu sau khi tôi bắt tay vào vi ết cu ốn sách này, Reed ghé
thăm nơi ở của tôi và gi ống như những gì cha cậu thườ ng làm, c ậu đề nghị tôi đi d ạo. V ớ i m ột cái
nhìn m ạnh mẽ và nghiêm túc, Reed nói vớ i tôi rằng cha cậu không ph ải là m ột doanh nhân máu
l ạnh chỉ tìm ki ếm lợ i nhuận mà là m ột ngườ i đư ợ c thôi thúc b ở i tình yêu đ ố i vớ i nh ững việc ông
làm và ni ềm tự hào về những s ản ph ẩm mà ông tạ o ra.
Sau khi Jobs đượ c phát hiện bị ung thư, Reed đã b ắt đầu dành tất c ả những k ỳ nghỉ hè c ủa
cậu để làm vi ệ c t ại phòng thí nghiệm ung thư của Stanford và nghiên c ứu về trình t ự s ắp xếp AND
nhằm tìm ra những tế bào gen gây ung thư ruột k ết. Trong một l ần thí nghi ệm, cậu đã tìm hiểu cách
th ức các đ ột bi ến gen di truyề n gi ữa các thành viên trong gia đình. “M ột trong nh ững tia hy vọng
hết s ức hi ếm hoi khi tôi b ị ốm đó là Reed đã dành rất nhi ều th ờ i gian nghiên c ứu cùng vớ i m ột vài
vị bác sĩ r ất giỏi,” Jobs nói. “Lòng nhi ệt huyết c ủa Reed vớ i việc này chính xác là những gì tôi c ảm
th ấ y đối vớ i nh ững chiế c máy tính khi tôi b ằng tuổi nó. Tôi cho r ằng những đ ổi m ớ i s áng t ạo lớ n
nhất c ủa thế k ỷ XXI sẽ nằ m ở s ự kết h ợ p giữa sinh học và công ngh ệ. M ột thế k ỷ m ớ i đang bắt đ ầu,
gi ống như sự khở i đầu củ a m ột th ế k ỷ k ỹ thuật s ố hòi tôi bằng tuổi nó bây gi ờ .”
Reed đã s ử dụng nghiên c ứu về ung thư c ủ a mình làm nền tảng cho báo cáo cuối c ấp mà
cậu trình bày trư ớ c l ớ p t ại Trư ờ ng Crystal Springs Uplands. Khi Reed mô tả cách th ức cậu sử dụng
máy ly tâm và thuốc nhuộ m để s ắp xếp l ại nh ững tế bào AND củ a kh ối u, Jobs ng ồi phía dư ớ i hàng
gh ế khán gi ả cùng v ớ i t ất c ả các thành viên khác trong gia đình. Sau đó Jobs đã chia s ẻ r ằng “Tôi
đã tư ở ng tượ ng ra c ảnh Reed có một ngôi nhà ở Palo Alto này cùng vớ i gia đình riêng c ủ a nó và lái
chiếc xe đạp củ a nó đi làm vớ i tư cách là m ột bác sĩ t ại Stanford.”
Reed đã trưở ng thành rất nhanh trong năm 2009, khi có v ẻ như cha c ậu không còn s ống
đượ c bao lâu nữa. Reed đã chăm sóc các em gái củ a mình trong khi cha mẹ cậu đang ở Memphis,
và c ậu đã tr ở thành trụ cộ t luôn che chở , bao b ọc cho gia đình. Nhưng khi sức kh ỏe củ a Jobs ổn
đị nh l ại vào mùa xuân 2010, cậu đã tr ở về vớ i cá tính hay trêu đùa và ham vui c ủa mình. Một bu ổi
t ối nọ, Reed th ảo lu ận vớ i c ả nhà xem mình nên đưa b ạn gái đi ăn t ối ở đâu. Cha cậu gợ i ý nên tớ i
II Fornai o, nơi đư ợ c coi là tiêu chuẩn của sự trang nhã ở Palo Alto, nhưng Reed nói rằng c ậu đã
không thể đặt ch ỗ ở đó đượ c. Cha cậu hỏi “Con có mu ốn cha thử xem sao không?” Reed phản đối,
cậu muốn tự mình giải quyết. Erin, đ ứa em gái l ớ n có vẻ hơi nhút nhát, đã gợ i ý r ằng cô bé có th ể
dựng một cái lều ngay trong vườ n của gia đình và cùng em gái út Eve, có th ể phục vụ m ột bữa t ối
lãng m ạn cho anh trai mình. Reed bèn đ ứng d ậ y và ôm chầm lấ y cô bé. Reed hứa vớ i Erin r ằng c ậu
s ẽ nhờ cô bé làm đi ều đó vào một dị p khác. Vào một ngày th ứ B ả y, Reed là m ột trong b ốn thí sinh
trong đ ội Quiz Kids c ủa trư ờ ng tham gia thi đ ấu tạ i m ột đài truy ền hình đị a phương. C ả gia đình
đều đến cổ vũ cho Reed - tr ừ Eve do cô bé đang tham dự m ột trận đua ngựa. Khi đoàn làm phim
yêu cầu chuẩn bị bắt đ ầu, cha c ậu đã cố gi ữ bình tĩnh và không l ộ vẻ gì so v ớ i nh ững b ậc ph ụ huynh
đang ngồi ở những hàng ghế gấp củ a đài. Nhưng ông v ẫn rất nổi bật trong b ộ quần bò, áo đen cổ l ọ
đã tr ở thành thương hi ệu của Jobs, và m ột ngườ i ph ụ nữ kéo gh ế ngồi xu ống c ạnh ông và b ắt đầu
ch ụp ảnh ông. Không thèm đ ếm xỉ a gì đến ngườ i ph ụ nữ đó, ông đ ứng d ậ y và chuy ển sang phía
đầu kia c ủa dãy ghế. Khi đ ến lư ợ t Reed, bi ển tên c ủa cậu ghi là “Reed Powell”. Ngườ i dẫn chương
trình đã h ỏi các h ọ c sinh về ngư ờ i mà chúng mu ốn trở thành khi chúng l ớ n lên. Reed đã trả l ờ i anh
muốn trở thành “M ột nhà nghiên c ứu ung thư”. Jobs ch ở Reed trên chiếc Mercedes SL55 hai ch ỗ
ngồi c ủa mình, trong khi v ợ ông ch ở Erin theo sau trên chiếc xe củ a bà. Trên đườ ng v ề nhà, bà đã
hỏi Erin là t ại sao cô bé l ại nghĩ r ằng cha cô bé đã t ừ ch ối l ắp bi ển số xe ô tô. Erin đáp: “Để tr ở
thành một ngườ i n ổi loạn.” Sau này tôi đã đ ặt câu h ỏi đó vớ i Jobs, ông đã trả l ờ i r ằng, “B ở i vì thỉ nh
thoảng cũng có nh ững ngư ờ i theo dõi tôi, và nếu tôi có bi ển số xe ô tô, h ọ có th ể tra ra nơi tôi s ống.
Nhưng cách đó đã trở nên l ỗi th ờ i t ừ khi có Google Maps. Cho nên tôi cho r ằng, thực t ế ch ỉ đơn
gi ản là vì tôi không có bi ển số xe mà thôi.”
Trong l ễ t ốt nghi ệp củ a Reed, cha cậu đã gửi cho tôi m ột bức thư t ừ chiếc iPhone th ể hi ện
ni ềm hân hoan củ a ông, “Hôm nay là m ột trong nh ững ngày h ạnh phúc nhất trong cu ộc đờ i tôi.
Reed sắp t ốt nghiệp trung h ọc. Ngay lúc này. Và, mặc cho r ất nhi ều trở ngạ i, tôi đang ở đây.” Đêm
đó đã diễn ra m ột bữa tiệ c ở nhà họ cùng v ớ i nh ững b ạn bè thân thi ết. Reed đã khiêu vũ cùng v ớ i
t ừng thành viên trong gia đình, bao g ồm cả cha cậu. Sau đó, Jobs đưa Reed tớ i m ột nhà kho như là
m ột cái chu ồng ngựa và tặng cho cậu m ột trong hai chi ếc xe đạp của ông, nh ững chiế c xe mà ông
s ẽ không th ể lái đượ c nữ a. Reed đ ùa r ằng chiế c của Ý có vẻ hơi s ặ c sỡ quá, th ế là Steve b ảo Reed
hãy l ấ y chi ế c xe tốc độ tám ch ắc ch ắn hơn c ạnh đó. Khi Reed nói chắc mình sẽ m ắc nợ , Steve đáp:
“Con không c ần ph ải c ả m th ấ y m ắc nợ , b ở i vì con có DNA của cha.” M ột vài ngày sau đó thì Câu
chu yệ n đồ chơi 3 (Toy story 3) ra mắt. Jobs đã nuôi dưỡ ng b ộ ba tuyệt tác c ủa Pixar này ngay từ
những ngày đ ầu, và phần cu ối cùng này là v ề nhữ ng c ảm xúc quanh việc Andy vào đại học. “Mẹ
ướ c gì mình có th ể luôn ở bên con,” M ẹ của Andy nói. Andy tr ả l ờ i, “Mẹ s ẽ luôn ở bên con.” M ối
quan h ệ gi ữa Jobs vớ i hai cô con gái có ph ần xa cách hơn. ông dành ít sự quan tâm hơn đối vớ i
Erin, cô bé trầm lặng, hư ớ ng n ội và dư ờ ng như không bi ết chính xác cách cư x ử với ông, đặc bi ệt
khi ông hay sử dụng nhữ ng l ờ i châm ch ọ c dễ gây t ổn thương. Erin là m ột cô gái tr ẻ hấp dẫn và
đi ềm tĩnh, cộng v ớ i s ự nhạ y cảm hơn hẳn cha mình. Cô bé nghĩ r ằng mình có thể đã tr ở thành một
ki ến trúc sư, có lẽ vì cha cô yêu thích lĩnh vực này, và cô cũng có năng khi ế u về thiết kế. Nhưng
khi cha cô cho Reed xem nh ững b ản vẽ m ột khuôn viên làm vi ệc mớ i c ủa Apple, cô đang ngồi phía
bên kia c ủa phòng b ếp, và có v ẻ như ông cũng không có ý đ ị nh g ọi cô qua xem cùng. Ni ềm hy
vọng lớ n của Erin vào mùa xuân 2010 là cha s ẽ đưa cô tớ i Lễ trao gi ải Oscar. Erin yêu thích những
bộ phim. Th ậm chí cô còn muốn đư ợ c ng ồi cùng vớ i cha mình trên chi ếc máy bay cá nhân c ủa ông
và bướ c trên thảm đỏ cùng ông. Powell đã r ất s ẵn lòng hủ y bỏ chuy ế n đi và cố gắng thuyết ph ục
ch ồng cô đưa Erin đi cùng. Nhưng ông đã bác b ỏ ý ki ến đó . M ột l ần, khi tôi sắp hoàn thành cuốn
sách này, Powell nói v ớ i tôi rằng Erin muốn tôi phỏng v ấn cô bé. Tôi đã không đề nghị đi ều đó bở i
vì cô bé chỉ vừa mớ i bư ớ c sang tu ổi mư ờ i sáu, nhưng ròi tôi đã đ ồng ý. Điều mà Erin nhấn mạnh là
cô bé hiểu đư ợ c t ại sa o cha cô thư ờ ng không tỏ ra ân c ần, và cô chấp nh ận điều đó. “ông đã c ố gắng
hết mình để vừa làm một ngườ i cha và v ừ a làm CEO của Apple, và ông đã làm c ả hai việc khá t ốt,”
cô bé nói. “Đôi khi tôi ư ớc giá mà ông quan tâm tớ i tôi nhiều hơn, nhưng tôi bi ết c ông việc mà ông
đang làm rất quan tr ọng và tôi nghĩ rằng nó thực sự thú vị , vì th ế mà tôi cảm th ấ y không v ấn đề gì
cả. Tôi th ực sự không cần nhi ều sự quan tâm hơn t ừ phía ông.” Jobs đã h ứa sẽ đưa mỗi đ ứa con c ủa
ông đi chơi đến nơi mà chúng mu ốn khi chúng tr ở thành thi ếu niên. Reed đã chọn đi Kyoto, vì cậu
bi ết r ằng cha mình v ẫn bị mê hoặc bở i s ự tĩnh lặng c ủa Thiền nơi thành ph ố đẹp đẽ đó. Cũng không
có gì ngạc nhiên, khi Erin bư ớ c sang tu ổi mư ờ i ba vào năm 2008, cô cũng đã l ựa ch ọn Kyoto. Căn
bệnh c ủa cha cô đã khi ến ông phải hoãn chuy ến đi, do đó ông đã h ứa sẽ đưa cô đi vào năm 2010,
khi s ức kh ỏe của ông khá hơn. Nhưng th áng Sáu năm đó, Steve đã quyế t đị nh là ông không mu ốn
đi nữa. M ặc dù rất bu ồn nhưng Erin đã không chống lại quyết đ ị nh này. Thay vào đó, m ẹ cô đã đưa
cô tớ i Pháp cùng v ớ i nh ữ ng ngư ờ i bạn của gia đình, và họ đã lên kế hoạch l ại cho chuyến đi Kyoto
vào tháng B ả y. Powell lo lắng r ằng chồng bà có thể s ẽ hoãn chuyế n đi m ột l ần nữa, nên bà đã cảm
th ấ y rất hồi hộp khi c ả gia đình c ất c ánh vào đầu th áng Bả y t ớ i Làng Kona, Hawaii, ch ặng đ ầu tiên
của cu ộ c hành trình. Nhưng ở Hawaii, b ệnh sâu răng củ a Jobs đã trở nên nghiêm trọng hơn, do ông
đã c ố tình ph ớ t l ờ nó, đ ến nỗi ông mu ốn nh ổ bỏ chiếc răng sâu đi. Chi ếc răng đã bị vỡ và c ần ph ải
đượ c hàn l ại. Sau đó thì b ộ anten c ủa chi ếc iPhone 4 g ặp trục trặc l ớ n, và ông đã quy ế t đị nh phải
nhanh chóng tr ở về Cupertino cùng Reed. Powell và Erin ở l ại Hawaii, hy v ọng r ằng Jobs s ẽ quay
tr ở l ại và tiếp tục kế hoạ ch tớ i Kyoto. Không ph ụ s ự hy v ọng c ủa họ, và cũng khá ng ạ c nhiên, Jobs
th ực sự đã tr ở l ại Hawaii sau buổi họp báo đ ể đón họ và đưa họ t ớ i Nh ật Bả n. “Đó là m ột đi ều kỳ
di ệu,” Powell nói vớ i một ngườ i b ạn. Trong khi Reed chăm sóc Eve ở Palo Alto, Erin cùng v ớ i cha
m ẹ đã ở Tawaraya Ryokan, một nhà tr ọ gi ản dị mà Jobs rất thích. “Nó th ật tuy ệ t vờ i,” Erin nhớ l ại.
Hai mươi năm trướ c đây, Jobs đã đưa ch ị gái cùng cha khác mẹ củ a Erin, Lisa Brennan-Jobs, t ớ i
Nhật Bản khi cô t ầm tu ổi Erin bây gi ờ . M ột trong nh ững k ỷ ni ệm sâu s ắc nh ất c ủa Lisa đó là đư ợ c
thư ở ng th ức một b ữa t ối tuy ệt v ờ i cùng vớ i cha cô và ng ắm ông, một ngườ i r ất kén ăn, thư ở ng th ức
món unagi sushi và nh ững món ăn tinh t ế khác. Nhìn cách ông thích thú t ậ n hư ở ng món ăn khi ến
Lisa lần đầu tiên c ảm th ấ y thoải mái v ớ i ông. Erin nh ớ l ại m ột kỷ ni ệm tươn g tự: “Cha bi ết rõ nơi
mà ông muốn đến ăn trưa mỗi ngày. Ông nói v ớ i tôi rằng ông bi ết một c ửa hàng bán soba tuyệt v ờ i,
và ông đã đưa tôi đ ến đó, và món đó ngon tớ i nỗi s ẽ không th ể ăn soba ở đâu ngon như th ế n ữa.”
Họ cũng tìm th ấ y m ột quán ăn sushi gần đó , và Jobs đã đ ề nơi đó trên chi ế c iPhone của mình là
“nơi có món sushi ngon nh ất mà tôi đã t ừng ăn.” Erin cũng tán đồng. Họ cùng tớ i thăm nh ững ngôi
đền th ờ của nh ững tín đò Thiền; nơi Erin thích nh ất là Saihõ -ji, đượ c bi ết đến là “ngôi đ ền rêu
phong” nhất vớ i Chi ếc ao Vàng đượ c bao b ọ c xung quanh bở i nh ững khu vườ n đặc trưng v ớ i hơn
hàng trăm lo ại rêu khác nhau. “Erin đã r ất r ất h ạnh phúc, điều đó khiến con bé hết s ức ph ấn kh ở i và
giúp cải thi ện m ối quan hệ gi ữ a hai cha con,” Powell nhớ l ại. “Con bé x ứng đ áng đượ c như v ậ y.”
Con gái út c ủa họ, Eve, l ạ i có m ột câu chuyện hoàn toàn khác. Cô bé rất can trườ ng, t ự tôn,
và không bao giờ s ợ nhữ ng l ờ i dọa nạt c ủ a cha. Ni ềm đam mê c ủa cô bé là cưỡ i ng ự a, và cô bé đã
rất quyết tâm giành gi ải trong k ỳ thi Olympic. Khi m ột hu ấn luyện viên nói v ớ i Eve v ề vi ệc cô bé
s ẽ phải vất vả t ập luyện như thế nào, Eve đáp r ằng, “Hãy nói cho cháu bi ết chính xác đi ều cần ph ải
làm. Cháu s ẽ làm đi ều đó.” Anh ta đã ch ỉ dạ y cho cô bé, và cô bé đã rất c ần m ẫn theo sát chương
trình. Eve là chuyên gia trong m ột nhi ệm vụ khó khăn là có b ằng đượ c câu tr ả l ờ i t ừ cha mình; cô
bé v ẫn thườ ng g ọi đi ện trực tiếp cho trợ lý c ủ a ông t ại nơi làm vi ệc để đặt thêm m ột vi ệc gì đó vào
l ị ch c ủa ông. Cô bé cũng là một nhà thương thuyết khá tài tình. Vào một dị p cu ối tu ần năm 2010,
khi gia đình đang lên kế hoạch cho m ột chuy ế n đi chơi, Erin đã muốn lùi th ờ i gian kh ở i hành l ại
nửa ngày, nhưng cô bé s ợ phải yêu c ầu cha mình. Eve, khi đó mườ i hai tu ổi, đã tình nguy ện th ự c
hi ện nhi ệm vụ đó, và vào b ữa t ối Eve đã đ ặt vấn đề vớ i cha như th ể cô bé là một luật sư đứng trướ c
Tòa Ấn Tối cao v ậ y. Jobs ngắt l ờ i Eve - “Không, cha không nghĩ là mình mu ốn vậ y” - nhưng rõ
ràng là cha cô đang muốn trêu chọ c hơn là gây khó dễ cho cô bé. T ối hôm đó, Eve đã ng ồi c ạnh m ẹ
cô và c ố gắng đưa ra th ật nhi ều cách có th ể giúp gi ải quyết trư ờ ng h ợ p này t ốt hơn.
Jobs đánh giá cao tinh th ần của Eve - và nhìn th ấ y ở cô bé nhi ều điểm giống mình. “Con bé
như là m ột kh ẩu súng lục và có m ột ý chí m ạnh mẽ nhất trong số những đ ứ a trẻ mà tôi đã từng
gặp,” ông nói. “Điều đó gi ống như là sự đáp trả đ ối vớ i tôi v ậ y.” ông hi ểu rất rõ tính cách c ủa cô
bé, có l ẽ bở i vì tính cách c ủa cô bé có nhi ều đi ểm tương đồng vớ i ông. “Eve nh ạ y cảm hơn nhiều
ngư ờ i nghĩ,” ông gi ải thích. “Con bé thông minh t ớ i n ỗi đôi kh i nó đi trư ớ c ngườ i khác m ột chút, vì
th ế đi ều đó khiến con bé cách biệt vớ i m ọi ngườ i, và tự cảm th ấ y mình cô đơn. Con bé đang trong
quá trình học hỏi để tr ở thành chính mình, nhưng l ại bi ết cách ki ềm ch ế bả n thân xung quanh
những giớ i hạn, vì v ậ y con bé vẫn tìm đượ c nh ững ngư ờ i bạn mà con bé c ần.”
M ối quan hệ của Jobs vớ i v ợ đôi khi rất ph ức t ạp nhưng luôn chung th ủ y. Hi ểu biết và giàu
lòng tr ắ c ẩn, Laurene Powell là một nguồn ảnh hưở ng đem lại s ự cân bằng và là một ví dụ minh
ch ứng r ằng Jobs có khả năng bù đ ắp lại ph ần nào những đ ộng lực cá nhân ích k ỷ của mình khi bên
cạnh ông là nh ững con ngườ i nh ạ y cảm và có ý chí kiên cườ ng. Laurene âm thầm cân nhắ c nh ững
vấn đề trong việc kinh doanh, kiên quyết trong nh ững v ấn đề gia đình, và mãnh li ệt trong nh ững
vấn đề về y tế. Nh ững năm đ ầu trong cuộc hôn nhân của họ, bà đồng s áng l ập và khai gi ảng
College Track, m ột chương trình giúp cho nhưng đ ứa trẻ thiệt thòi đư ợ c t ốt nghi ệp trung h ọ c và
vào đại học. K ể t ừ đó, bà đã trở thành l ực lư ợ ng đi đ ầu trong công cuộ c cải t ổ nền giáo dụ c. Jobs
bày t ỏ s ự ngư ỡ ng mộ đối vớ i công vi ệ c của vợ mình: “Điều mà cô ấ y đang làm vớ i College
Track thực sự gây ấn tư ợ ng đ ối vớ i tôi.” Nhưng ông có xu hư ớ ng v ề cơ b ả n là không quan
tâm đến nh ững hoạt động t ừ thiện và không bao giờ t ớ i thăm những trung tâm c ủa bà. Vào th áng
Hai năm 2010, Jobs đã tổ ch ức sinh nh ật l ần th ứ 55 c ủa mình cùng v ớ i gia đình. Căn b ếp đư ợ c
trang trí v ớ i nh ững t ờ gi ấ y nhiều màu và bóng bay, những đ ứa con c ủa ông thì t ặng ông m ột chi ếc
vương mi ện đồ chơi đ ỏ như nhung và ông đã đeo. Hi ện gi ờ Jobs đã h ồi ph ục t ừ sau một năm kiệt
s ức vớ i nh ững v ấn đề v ề s ức kh ỏe, và Powell hy v ọng r ằng ông có th ể quan tâm tớ i gia đình nhiều
hơn. Nhưng ông l ại ch ủ yếu tập trung vào công vi ệ c. “Tôi nghĩ rằng gia đình mình đã c ảm th ấ y rất
khó khăn, đ ặc bi ệt là nh ữ ng cô con gái của tôi,” bà nói. “Sau hai năm Jobs b ị bệnh, cuối cùng ông
ấ y cũng đã khá hơn đôi chút, và những đ ứa trẻ hy v ọng r ằng ông ấ y có th ể quan tâm hơn t ớ i chúng,
nhưng ông ấ y đã không làm v ậ y.” Bà muốn ch ắc ch ắn rằng c ả hai khía c ạnh trong con ngư ờ i Jobs
đượ c ph ản ánh trong cu ố n sách này và đặt đúng vào hoàn cảnh c ủa chúng. “Giống như rất nhi ều
những con ngườ i vĩ đại s ở hữu nh ững tài năng phi thư ờ ng, Jobs cũng không phải là phi thư ờ ng
trong mọi lĩnh v ực,” bà nói. “ông ấ y không có s ự nhã nh ặn xã giao, ví d ụ như đặt mình vào đị a vị
của ngườ i khác để suy nghĩ, mà ông ấ y quan tâm sâu s ắc t ớ i vi ệc giao quyề n cho con ngư ờ i, sự
phát tri ển của con ngư ờ i, và đem đ ến cho h ọ những công c ụ s ử dụng thích hợ p.”
T ổng thống Obama
Trong một chuy ế n thăm tớ i Washington vào đ ầu mùa thu 2010, Powell đã gặp m ột vài
ngư ờ i bạn của bà tại Nhà Tr ắng và h ọ đã nói vớ i bà rằng T ổng thống Obama s ắp sửa t ớ i Thung
lũng Silicon vào th áng Mườ i năm đó. Bà đã gợ i ý r ằng có l ẽ t ổng thống s ẽ muốn gặp ch ồng bà.
Những phụ tá c ủa Obama thích đi ều đó; nó phù h ợ p vớ i đị nh hướ ng mớ i t ập trung vào tính cạnh
tranh c ủ a Tổng th ống. Bên c ạnh đó, John Doerr, một nhà đ ầu tư m ạo hiểm, một trong nh ững ngư ờ i
bạn thân của Jobs, đã nói về quan đi ểm của Jobs vớ i toàn thể hội nghị của Ba n Cố vấn Khôi phục
Kinh tế của Tổng thống Obama v ề vi ệc t ại sao nướ c M ỹ đang m ất đi nh ững đi ều đã từng khi ến họ
thành công. John đã h ết lòng đề nghị Obama gặp gỡ Jobs. Vì thế mà chương trình làm việc của
Tổng thống đã dành ba mươi phút cho bu ổi làm việc t ại Sân bay W estin San Francisco.
Tuy nhiên, có một vấn đề : Khi Powell nói chuy ện vớ i Steve, ông ấ y nói là mình không
muốn gặp Tổng thống, ông ấ y rất bực bội r ằng bà đã bí mật s ắp xếp vi ệc này sau lưng ông. “Tôi
không cố tình chen vào m ột bu ổi gặp chi ếu lệ để mà sau đó T ổng thống có thể hoàn thành cái vi ệc
phải gặp m ột CEO nào đó của ông ấ y,” Jobs nói v ớ i Powell như v ậ y. Bà khẳng đ ị nh r ằng T ổng
th ống Obama “th ực sự muốn gặp ông”. Jobs đã trả l ờ i r ằng n ếu đúng là như vậ y, thì ngài Obama
nên gọi đi ện thoại và t ự đ ề nghị gặp gỡ . Sự căng th ẳng kéo dài t ớ i năm ngày. Bà đã gọi Reed, lúc
đó đang ở Stanford, về nhà ăn tối và cố thuy ết ph ục cha. Jobs cu ối cùng cũng đã d ị u lại.
Buổi nói chuyện th ực t ế đã di ễn ra trong b ốn mươi lăm phút, và Jobs đã r ất th ẳng thắn.
“Ngài đượ c giao trọng trách điều hành đất nư ớ c trong m ột nhi ệm kỳ t ổng thống,” Jobs nói v ớ i
Tổng thống Obama khi bắt đầu cu ộc nói chuyện. Jobs nói, công tác quản lý đất nư ớ c cần ph ải
hướ ng t ớ i kinh doanh hơn. Ông mô tả v ề vi ệc xây d ựng một nhà máy ở Trung Qu ố c dễ dàng như
th ế nào, và nói r ằng bây gi ờ hầu như là không th ể làm như vậ y ở M ỹ, ph ần lớ n là do nh ững luật l ệ
và chi phí không cần thi ế t.
Jobs cũng đã t ấn công vào hệ th ống giáo d ục củ a M ỹ, cho r ằng h ệ th ống này quá cũ và đã bị
phá ho ại bở i nh ững quy tắc làm vi ệc của Liên đoàn giáo viên. Chừng nào mà các Liên đoàn giáo
viên M ỹ còn chưa đư ợ c phá b ỏ, thì g ần như chẳng có hy vọng nào cho việ c cải cách giáo dục. Các
giáo viên ph ải đư ợ c đối xử như là nh ững giáo sư, chứ không ph ải là nh ững công nhân s ản xu ất dây
ch uyề n. Các hi ệu trư ở ng phải có kh ả năng thuê và sa thải các giáo viên d ựa trên năng l ực của họ.
Các trư ờ ng h ọc ph ải m ở cửa ít nh ất t ớ i 6 giờ t ối và theo chương trình h ọc mườ i m ột th áng m ỗi
năm. ông nói thêm rằng thật ng ớ ngần khi các lớ p học ở M ỹ v ẫn dựa và o vi ệc các giáo viên đ ứng
trên b ục gi ảng và s ử dụng sách giáo khoa. Tất c ả các cu ốn sách, các tài liệu học t ập và đánh giá
phải đư ợ c số hóa và có tính tương tác, thích ứng v ớ i t ừng sinh viên và đưa ra ph ản hồi ngay l ập t ứ c.
Jobs đ ề nghị t ập hợ p m ột nhóm g ồm sáu hoặc bả y CEO, những ngư ờ i có th ể th ực sự lý gi ải nh ững
thách thức đổi m ớ i nào mà nư ớ c M ỹ đang g ặp ph ải, và tổng thống đã đ ồng ý. Vì v ậ y, Jobs đã đưa
ra m ột danh sách các CEO này trong m ột hội nghị t ại Washington đư ợ c t ổ ch ức vào tháng Mườ i
hai. Không may thay, sau khi Valerie Jarrett và các nhân viên phụ tá cho t ổng thống b ổ sung thêm
những cái tên khác, danh sách đã đư ợ c m ở rộng t ớ i hơn hai mươi ngư ờ i, vớ i cái tên đ ầu tiên là
Jeffrey Imment c ủa General Electric. Jobs đã gửi thư đi ện tử cho Jarrett, vi ết r ằng danh sách đó đã
bị “phình ra” và ông không có ý đ ị nh tham dự n ữ a. Trên th ự c t ế, do các v ấ n đề s ức kh ỏe tái di ễn
nên ông không th ể t ớ i tham dự, và Doerr đã kín đáo gi ải thích riêng cho T ổ ng thống. Vào tháng
Hai năm 2011, Doer đã b ắt đ ầu lên k ế hoạch t ổ ch ứ c một b ữa ăn tối nh ỏ cho Tổng th ống Obama t ại
Thung lũng Sillicon. ông và Jobs, cùng vớ i phu nhân c ủ a họ, t ớ i bữa t ối t ại Evvia, một quán ăn Hy
Lạp ở Paolo Alto, để đưa ra m ột danh sách nh ững khách m ờ i đư ợ c l ựa ch ọn kỹ lư ỡ ng. Mư ờ i hai
chuyên gia hà ng đ ầu về công ngh ệ đã đượ c l ự a ch ọn trong đó có Eric Schmidt của Google, Carol
Bartz c ủa Yahoo, Mark Zuckerberg cCia Facebook, John Chambers cCia Cisco, Larry Ellison
cCia Oracle, Art Levinson cCia Genentech, và Reed Hastings cCia Netflix. Đóng góp c ủa
Jo bs vào bữa t ối còn đượ c m ở rộng ra c ả vi ệc ch ọ n món. Doerr đã gửi cho Jobs một th ực
đơn dự ki ến, và ông đã tr ả l ờ i r ằng một s ố món do cửa hàng đề xuất - tôm, cá tuy ết, salad đ ậu lăng
- là nh ững món ăn quá xa x ỉ “và không đúng vớ i con ngư ờ i c ủ a anh, John ạ.” Ông cũng đặ c bi ệt
phản đối th ực đơn tráng miệng, bánh kem trang trí b ằng k ẹo m ềm sô -cô -la, nhưng những nhân
viên cấp cao c ủ a Nhà Tr ắ ng g ạt bỏ ý ki ến của Jobs bằng việc nói v ớ i nhà hàng r ằng T ổng thống
thích bánh kem. Vì Jobs đã sút rất nhi ều cân nên rất d ễ bị nhiễm lạnh, Doerr đã gi ữ ngôi nhà ở nhiệt
độ ấm đến nỗi mà Zuckerberg th ấ y mình toát cả mò hôi.
Jobs, ngồi c ạnh T ổng thố ng, b ắt đ ầu bữa t ối khi nói: “B ất k ể ni ềm tin chính trị của chúng ta
như th ế nào, tôi m uốn ngài biết r ằng chúng tôi ở đây để làm bất c ứ đi ều gì ngài yêu c ầu có th ể giúp
ích cho đ ất nư ớ c của chúng ta.” Ngo ại trừ câu nói đó, ban đ ầu bữa t ối trở thành một bu ổi nói
chuy ệ n dài v ớ i nh ững đ ề xuất về vi ệc Tổng thống có thể làm gì để phát tri ể n nh ững doanh nghiệp
ở đó. Ví dụ như Phòng thương mại đưa ra m ột b ản đề xuất cho v ấn đề thu ế h ồi hương trong kỳ nghỉ
l ễ, cho phép các tổ ch ức l ớ n có th ể tránh đượ c nh ữ ng kho ản thuế phải đóng góp cho những kho ản
l ợ i nhuận thu đượ c ở nước ngoài n ếu họ đem về M ỹ cho các ho ạt động đ ầu tư trong m ột giai đoạn
nhất đị nh. Tổng thống đã c ảm th ấ y khó chị u, và vì v ậ y Zuckerberg, ngồi ngay phía bên ph ải
Valerie Jarrett đã quay sang ông này và thì thầm, “Chúng ta nên nói về nhữ ng v ấn đề quan tr ọng
đối vớ i đất nư ớ c. T ại sao ông ta lại nói v ề ấn đề quan tr ọng đ ối vớ i bản thân?”
Doerr đã khiến bu ổi th ảo lu ận tập trung tr ở l ại bằng việ c yêu c ầu m ọi ngườ i đưa ra một
danh sách những việc cầ n làm. Tớ i lư ợ t Jobs, ông đã nh ấn m ạnh đ ến nhu c ầu có thêm nhiều kỹ sư
lành ngh ề và đ ề xuất r ằn g bất c ứ m ột sinh viên nư ớ c ngoài nào có đư ợ c t ấm bằng k ỹ sư t ại M ỹ nên
đượ c cấp visa ở l ại M ỹ. Obama nói r ằng đi ều đó ch ỉ có th ể th ực hiện đư ợ c trong b ối c ảnh c ủa “Đ ạ o
lu ật ướ c, đạo lu ật giúp cho những ngư ờ i nh ập cư trái phép đến M ỹ khi còn nhỏ và tốt nghi ệp trung
học đư ợ c trở thành công dân h ợ p pháp - m ột đi ều mà Đ ảng C ộng hòa đã phản đối. Jobs nh ận th ấ y
đây là trư ờ ng h ợ p rất phi ền toái c ủa chính tr ị làm dẫn tớ i s ự tê li ệt trong vi ệc vận hành đất nư ớ c.
“Tổng thống r ất thông minh, nhưng ông ta v ẫn không ngừng lý giải cho chúng tôi những lý do t ại
sao mọi việc l ại không th ể th ực hiện,” Jobs nhớ l ại. “Điều đó khiến tôi phát điên.” Jobs vẫn tiếp t ục
thuy ết ph ục Tổng thống r ằng có một cách để đào t ạo nhiều kỹ sư ngư ờ i M ỹ hơn. Apple có hơn
700.000 công nhân đang làm vi ệc t ại các nhà máy ở Trung Qu ố c, ông nói, và r ằng đó là do Apple
cần có 30.000 kỹ sư t ại đó để tr ợ giúp cho nh ững công nhân kia. Những k ỹ sư này không bu ộ c ph ải
có b ằng Tiến sĩ hay phải là nh ững thiên tài; họ ch ỉ cần có nh ững k ỹ năng cơ b ản của m ột k ỹ sư đ ể
phục vụ cho sản xu ất. Nh ững trườ ng công ngh ệ, các đ ại h ọc cộng đ ồng, hoặc nh ững trườ ng thương
m ại có th ể đào t ạo họ. “N ếu ngài có th ể đào t ạo nh ững k ỹ sư này,” Jobs nói, “chúng ta có th ể
chuy ể n nhiều nhà máy s ả n xu ất sang đó.” Cu ộc tranh lu ận đã để l ại ấn tư ợ ng sâu sắc đối vớ i Tổng
th ống. Hai hoặc ba lần trong th áng sau đó, ông đã nói v ớ i nh ững ngư ờ i ph ụ tá c ủa mình, “Chúng ta
cần ph ải tìm ra những cách thức để đào t ạo đư ợ c 30.000 kỹ sư s ản xu ất mà Jobs đã nói.”
Jobs rất hài lòng vì T ổng th ống đã t i ếp t ục suy nghĩ v ề vấn đề này, và h ọ đã nói chuy ện điện
thoại vài lần sau buổi gặp đó. ông đã đ ề nghị đượ c giúp Obama trong chiến dị ch tranh c ử 2012 tớ i.
(Jobs đã đưa ra đ ề nghị này một l ần vào năm 2008, nhưng ông thấ y bực mình khi chi ến lư ợ c gia
của Obama, David Axelrod, chẳng có gì hoàn toàn khác bi ệt c ả.) “Tôi cho r ằng việc qu ảng cáo
chính trị th ật t ệ hại. Tôi mu ốn Lee Clow không nghỉ hưu nữ a và chúng tôi sẽ có th ể nghĩ ra m ột
cách th ứ c qu ảng bá hình ảnh tuy ệt vờ i cho T ổng thống,” Jobs đã nói như v ậ y vớ i tôi vài tuần sau
bữa t ối đó. ông đã v ật l ộ n vớ i đau đ ớ n su ốt c ả tu ầ n, nhưng bu ổi nói chuyệ n về chính trị đã ti ếp
thêm sinh l ực cho ông. “Theo m ột chu k ỳ đ ều đặn, m ột ngườ i làm quảng cáo chuyên nghi ệp th ự c
th ụ s ẽ tham gia vào cu ộc chơi chính tr ị , giống như cách th ức mà Hal Riney đã làm v ớ i ‘Bình minh
ở nướ c M ỹ‘ cho đ ợ t tái b ầu cử củ a Tổng thống Reagan vào năm 1984. Vì vậ y đó là đi ều mà tôi
muốn làm cho tổng thống Obama.”
Đợt nghỉ Đi ều tr ị th ứ 3, năm 2011
Căn bệnh ung thư luôn có nh ững d ấu hiệu khi tái phát. Jobs đã học đư ợ c điề u đó. Ông sẽ ăn
không ngon và b ắt đầu cảm th ấ y toàn thân đau nhức. Các bác sĩ c ủa ông đã thực hi ện các cuộ c
ki ểm tra, chẳng phát hi ện ra điều gì và trấn an rằng ông vẫn hoàn toàn bình thườ ng. Nhưng ông bi ết
rõ vi ệc đó hơn. Căn bệnh ung thư có nh ững đườ ng truy ền tín hi ệu riêng, và một vài th áng sau khi
ông nh ận th ấ y các d ấu hi ệu, các bác sĩ s ẽ khám phá ra r ằng thực t ế là căn bệnh không còn thuyên
gi ảm nữ a. M ột s ự suy sụ p sức kh ỏ e khác bắt đầu vào đ ầu th áng Mườ i m ột năm 2010. Jobs thư ờ ng
xuyên đau nhức, không ăn uống đượ c và ph ải nuôi ăn tĩnh m ạch nhờ m ột y tá t ớ i t ận nhà. Nhưng
các bác sĩ đã không tìm thấ y dấu hi ệu nào c ủa nh ữ ng khối u khác, và h ọ cho rằng đây ch ỉ là m ột
trong nh ững chu kỳ l ặp lại c ủa quá trình kh áng khu ẩn và kh áng thuốc của cơ th ể Jobs. Ông không
phải là ngườ i duy nhất ch ị u đựng những cơn đau này, do đó các bác sĩ và gia đình ph ần nào đó trở
nên quen thuộc vớ i nh ững l ờ i phàn nàn c ủa ông.
Ông và gia đình t ớ i Làng Kona vào L ễ T ạ ơn, nhưng việc ăn uống c ủa ông không khá hơn.
Bữa t ối ở đó đượ c ph ục vụ trong một căn phòng lớ n chung, và nh ững v ị khách khác vờ như không
để ý rằng Jobs trông hốc hác, nhăn nhó và rên r ỉ trong b ữa ăn, và không h ề động vào chút th ức ăn
nào. Đó là b ằng chứng rõ ràng v ề vi ệ c tình trạng s ức kh ỏe củ a ôn g đã không hề đượ c tiết l ộ ra
ngoài. Khi trở l ại Palo Alto, Jobs tr ở nên dễ xúc động và r ầu rĩ hơn. Jobs nghĩ r ằng mình s ắp ch ết,
vì th ế ông đã nói điều đó v ớ i nh ững đ ứa con c ủ a mình, và ông c ảm th ấ y bế t ắc khi nghĩ đ ến vi ệc
ông sẽ không bao giờ đượ c t ổ ch ức tiệc sinh nh ật cho chúng n ữa. T ớ i Lễ Giáng sinh năm đó, ông
đã gi ảm xuống còn 52 kg, nh ẹ hơn gần 23 kg so v ớ i trọng lượ ng bình thư ờ ng c ủ a ông. Mona
Simpson cùng vớ i chòng cũ c ủa cô, nhà vi ết hài k ị ch trên truy ền hình - Richard Appel, và những
đứa con c ủ a họ, đã t ớ i Palo Alto vào k ỳ nghỉ . Tâm trạng Jobs t ốt hơn một chút. Hai gia đình chơi
các trò chơi trong nhà như trò Novel. Trong trò này, các thành viên tham gia c ố gắng đánh l ừ a nhau
xem ai có th ể vi ết đư ợ c m ột câu m ở đầu khác cho một cu ốn sách m ột cách thuy ết ph ục nh ất, và
những thứ mà có vẻ s ẽ phải m ất th ờ i gian tra cứu. Jobs đã không th ể ra ngoài ăn t ối cùng vớ i
Powell tại m ột nhà hàng vài ngày sau Lễ Gi áng sinh. Lũ trẻ tham d ự m ột kỳ nghỉ trượ t tuy ết nhân
dị p năm mớ i, còn Powell và Mona Simpson thay phiên nhau ở nhà vớ i Jobs ở Palo Alto. Tuy
nhiên, đến đầu năm 2011, rõ ràng đó không chỉ đơn thuần là một trong nh ữ ng giai đo ạn đặc bi ệt
khó khăn mà Jobs phải trải qua. Các bác sĩ củ a ông đã ch ẩn đoán là có b ằng chứng v ề những khối
u m ớ i, và nh ững d ấu hi ệ u của bệnh ung thư đã làm tình tr ạng chán ăn c ủ a ông trở nên trầm trọng
hơn. H ọ đang đ ấu tranh đ ể quyế t đị nh xem li ệu vớ i cơ th ể hao mòn như hiện nay c ủa Jobs có th ể
ch ị u đựng đượ c liều lư ợ ng thu ốc như thế nào. T ừng xen -ti -mét trên cơ thể ông như ph ải ch ị u
những cú đ ấm, Jobs nói vớ i bạn bè như vậ y, khi ông rên rỉ và đôi khi cườ ng điệu hóa s ự đau đớ n.
Đó là một chu k ỳ lu ẩn qu ẩn. Những d ấu hi ệu đầu tiên c ủa ung thư gây ra đau đ ớ n. Mocfin và
những thuốc gi ảm đau khác mà ông uống làm tri ệt tiêu h ứng thú ăn uống. Tuyến tụ y của ông đã bị
cắt bỏ m ột ph ần và gan của ông đã đư ợ c thay thế, vì vậ y hệ th ống tiêu hóa của ông b ị hỏng và gây
ra v ấn đề trong việc hấp thụ protein. Sút cân gây c ản trở cho việc áp dụng những li ệu pháp ch ữ a trị
bằng thuốc liều cao lên cơ th ể. Tì nh tr ạng suy nhượ c củ a cơ th ể cũng khiến ông trở nên dễ bị nhiễm
trùng hơn, giống như những gì gây ra bở i thu ốc tăng sức đề kháng mà ông đôi khi phải uống đ ể
giúp cho cơ th ể tránh th ải loại lá gan đượ c cấ y ghép. Việc sút cân còn làm gi ả m lớ p mỡ xung quanh
cơ quan c ảm nhận sự đau đớ n, khiến ông càng cả m th ấ y đau đ ớ n hơn. Và ông có xu hướ ng đ ẩ y
cảm xúc tớ i c ực độ, dễ dàng nhận ra bở i nh ững cuộc vật l ộn kéo dài củ a sự gi ận dữ và n ỗi t uyệ t
vọng, điều đó lại càng khi ến ông ăn mất ngon. Những v ấn đề v ề ăn u ống c ủ a Jobs đã bị tr ầm trọng
hóa qua nhi ều năm bở i thái đ ộ của ông đ ối vớ i đò ăn. Khi Jobs còn trẻ, ông đượ c học r ằng mình có
th ể đạt đư ợ c sự hưng phấ n và thăng hoa nhờ vào nh ững thứ c ăn đ ặ c bi ệt. Vì v ậ y m ặc dù bi ết là
mình nên ăn - nhữ ng bác sĩ đã kh ẩn cầu ông phải ăn nhi ều protein -thì ông v ẫn thừa nh ận rằng th ẳm
sâu trong ti ềm th ứ c của mình ông có bản năng đố i vớ i vi ệc ăn uống và đ ối vớ i ch ế độ ăn u ống
gi ống như ch ế độ ăn u ống toàn h oa quả củ a Arnold Ehret mà ông đã áp dụ ng t ừ th ờ i niên thi ếu.
Powell thườ ng xuyên nói v ớ i ông r ằng điều đó th ậ t điên r ồ, th ậm chí bà còn chỉ ra r ằng Ehret đã
ch ết ở tu ổi 56 khi ông ấ y bị s ẩ y chân ngã và đập đầu xu ống đ ất, và bà ấ y còn r ất t ức gi ận khi ông
ngồi xuống bàn và ch ỉ im l ặng nhìn chằm ch ằm vào chi ếc lap c ủ a mình. “Tôi đã mu ốn ông ấ y ph ải
ăn u ống một chút,” bà nói, “và đi ều đó rất căng th ẳng ở gia đình tôi.” Bryar Brown, đ ầu bếp làm
bán th ờ i gian t ại gia đình h ọ, thư ờ ng đ ến vào buổi chi ều và làm một loạt nh ững món ăn t ốt cho s ứ c
khỏe, nhưng Jobs ch ỉ nếm thử m ột ho ặc hai món và sau đó b ỏ hết chúng vì không th ể ăn đượ c. M ột
buổi t ối, ông tuyên b ố, “Tôi có th ể s ẽ ăn m ột chút bánh bí đỏ,” và bác Brown t ốt b ụng đã t ự tay làm
m ột chi ếc bánh rất đ ẹp sau một giờ hì hụi. Jobs đã ch ỉ ăn m ột mi ếng duy nh ấ t, nhưng bác Brown đã
rất xúc đ ộng.
Powell đã nói chuy ệ n vớ i các chuyên gia về ch ứng r ối lo ạn ăn uống và các chuyên gia tâm
th ần học, nhưng chòng bà mu ốn tránh xa h ọ. Ông t ừ ch ối việ c uống b ất k ỳ lo ại thu ốc nào hay tham
gia b ất kỳ cu ộc đi ều trị nào đối vớ i s ự suy nhượ c củ a mình, ông nói: “Khi bạ n có nh ững c ảm nhận,
như là bu ồn bã hay t ứ c gi ận về căn bệnh ung thư hay s ự tuyệt vọng c ủ a mình, việc che d ấu chúng
như là đang sống m ột cu ộ c sống gi ả t ạo.” Trên thực t ế, ông đã chuy ể n sang thái c ực ngượ c l ại. ông
tr ở nên ủ rũ, d ễ khóc và d ễ xúc động khi ông kêu than v ớ i nh ững ngư ờ i xung quanh r ằng ông sắp
ch ết. S ự suy nhượ c đã tr ở thành một chu k ỳ lu ẩn qu ần khiến ông trở nên càng không mu ốn ăn.
Những b ức ảnh và những vide o của Jobs trông h ốc hác b ắt đầu xu ất hi ện trên mạng, và nh ững tin
đòn về tình tr ạng s ứ c kh ỏ e t ồi t ệ của Jobs nhanh chóng đư ợ c tràn lan. Powell nhận ra rằng v ấn đề là
những tin đòn là s ự th ật, và chúng không biến m ất. Jobs đã miễn cư ỡ ng đồ ng ý ph ải nghỉ ốm hai
năm trướ c đó, khi gan c ủ a ông b ị hỏng, và l ần này ông v ẫn ph ản đổi vi ệc nghỉ ốm. Nó giống như
th ể phải t ừ bỏ quê hương, và không ch ắ c ch ắn rằng ông sẽ còn dị p trở l ại. Cu ối cùng khi ông ph ải
khuất ph ục trư ớ c đi ều không thể tránh khỏi, vào tháng Giêng năm 2011, ban đi ều hành công ty đã
hy v ọng ông sẽ làm vậ y; trong buổi họp qua điện thoại kéo dài ba phút ông nói v ớ i họ là ông mu ốn
nghỉ thêm một l ần nữa. Trong nh ững phiên họp liên quan đến vi ệc qu ản lý, ông vẫn thườ ng thảo
lu ận vớ i ban quản trị nhữ ng suy nghĩ củ a ông v ề vi ệc ai sẽ là ngư ờ i kế nhiệ m nếu ông có mệnh h ệ
gì, ông nêu ra cả những l ựa ch ọn ng ắn hạn và dài h ạn. Nhưng trong tình tr ạ ng hiện tại, không còn
nghi ngờ gì rằng Tim Cook s ẽ là ngư ờ i đảm nhận vi ệc vận hành các công vi ệc hàng ngày.
Buổi chi ều th ứ b ả y tiếp sau đó, Jobs đã cho phép vợ ông tri ệu tập m ột cu ộc họp nh ững bác
sĩ của ông. ông nhận th ấ y rằng ông đang g ặp ph ải m ột vấn đề mà ông không bao giờ cho phép xả y
ra tại Apple. Vi ệc điều trị của ông đã b ị gi Ấn đoạn thay vì liền mạch. Mỗi mộ t ch ứng b ệnh trong vô
s ố những chứng b ệnh c ủ a ông đang đư ợ c đi ều trị bở i nh ững chuyên gia khác nhau, những bác sĩ
chuyên khoa ung thư, nh ững chuyên gia trị đau, nh ững chuyên gia dinh dư ỡ ng h ọc, nh ững chuyên
gia v ề gan, và những chuyên gia về huyết họ c - nhưng họ không hợ p tác v ớ i nhau để tìm ra m ột
phương pháp toàn diện, theo cái cách mà James Eason đã làm ở Memphis. “Một trong nh ững v ấn
đề l ớ n trong ngành chăm sóc sức kh ỏe đó là thi ếu nh ững ngư ờ i nghiên c ứu dựa trên nhóm đ ối
tư ợ ng c ụ th ể hoặc nh ững luật sư gi ống như nh ững ti ền vệ của mỗi đội bóng.” Powell nói. Điều này
đặc bi ệt đúng ở Stanford, nơi mà có v ẻ như ch ẳng ai chị u trách nhiệm về vi ệc xác đ ị nh xem dinh
dưỡ ng có liên quan như th ế nào đến vi ệc chăm sóc vết thương và b ệnh ung thư. Vì v ậ y Powell đã
yêu cầu rất nhi ều các chuyên gia tại Stanford t ớ i nhà c ủa mình đ ể tham gia m ột bu ổi họp và đồng
th ờ i cũng m ờ i m ột vài v ị bác sĩ ở bên ngoài có s ử dụng những phương pháp kết hợ p và quyế t liệt
hơn, như là David Agus của use. Họ cùng th ống nhất về m ột ch ế độ dinh d ưỡ ng mớ i trong vi ệc
đi ều trị đau và vi ệ c kết hợ p vớ i nh ững phương pháp điều trị khác. Nh ờ có m ộ t vài nghiên c ứu khoa
học tiên phong, nhóm các bác sĩ đã có th ể giúp Jobs ti ến thêm m ột bư ớ c trong vi ệc điều trị ung thư.
ông đã trở thành một trong hai mươi ngườ i đầu tiên trên thế gi ớ i có t ất c ả các gen c ủ a kh ối ung thư
cũng như các gen c ủa ADN đượ c sắp xếp bình thườ ng. Tại th ờ i đi ểm đó, quá trình đó t ốn tớ i
100.000 đô la.
Vi ệc sắp xếp th ứ t ự gen và phân tích gen đã đư ợ c ph ối hợ p th ực hi ện vớ i đội ngũ chuyên
gia t ại Stanford, Johns Hopkins, và
Học viện Broad thu ộc Đạ i h ọc MIT và Harvard. Bằ ng vi ệc biết đư ợ c dấu hiệ u t ế bào và gen
đặc biệt hình thành nên kh ối u c ủa Jobs, các bác sĩ của ông đã có thể ch ọn ra đúng lo ại thu ốc đặc trị
có th ể t ập trung tấn công vào đư ờ ng d ẫn phân tử bị hỏng đã khi ến nh ững t ế bào ung thư phát tri ể n
theo m ột cách thứ c bất thư ờ ng. Phương pháp này, đư ợ c gọi là phương pháp đi ều trị t ập trung vào t ế
bào, hi ệu qu ả hơn nhiều so vớ i phương pháp hóa tr ị li ệu truyề n th ống, phương pháp tấn công vào
quá trình phân chia của toàn bộ các t ế bào trong cơ thể, bất kể t ế bào đó là tế bào ung thư hay
không. Phương pháp t ập trung vào t ế bào này không phải là một viên đ ạn bạ c, nhưng có nh ững lúc
nó đã g ần như có tác d ụng như vậ y: nó cho phép các bác sĩ xem xét m ột lư ợng lớ n các loại thu ốc -
phổ bi ến ho ặc không phổ bi ến, đã có s ẵn ho ặc đang trong quá trình nghiên c ứu phát tri ển - để tìm
xem m ột vài lo ại có công hi ệu nh ất. M ỗi khi căn bệnh ung thư c ủa ông biến đổi và bị m ất tác d ụng
vớ i m ột trong nh ững loại thu ốc này, các bác sĩ có ngay m ột lo ại thu ốc khác để s ử dụng sau đó.
M ặc dù Powell đã r ất c ần m ẫn trong vi ệ c theo dõi quá trình chăm sóc ch ồng, ông v ẫn là
m ột trong nh ững ngư ờ i đưa ra quy ế t đị nh cuối cùng về m ỗi ch ế độ dinh dưỡng đi ều trị m ớ i. M ột ví
dụ đi ển hình xả y ra vào tháng 5 năm 2011, khi ông t ổ ch ứ c m ột bu ổi họp vớ i George Fisher và
những v ị bác sĩ khác t ừ Stanford, nh ững chuyên gia phân tích trình tự s ắp xếp gen t ừ Học vi ện
Broad, và chuyên gia tư vấn t ừ bên ngoài David Agus. Họ đều t ập trung xung quanh một chi ếc bàn
trong một phòng t ại khách s ạn Four Seasons ở Palo Alto. Powell đã không đ ến, nhưng con trai của
họ, Reed đã đ ến. Ba ti ếng đồng h ồ vớ i các bài thuy ế t trình củ a nh ững nhà nghiên cứu thuộc
standford và H ọc vi ện Broad v ề những thông tin m ớ i mà họ mớ i thu th ập đư ợ c về những d ấu hi ệ u
về gen đối v ớ i căn b ệnh ung thư c ủa ông. Jobs vẫn thườ ng nóng tính. Có m ột l ần ông đã ng ắt quãng
m ột chuyên gia phân tích c ủa Học vi ện Broad ngư ờ i đã m ắc l ỗi trong vi ệ c sử dụng chương trình
trình chi ếu PowerPoint. Jobs đã khiển trách anh ta và gi ải thích tại sao phần m ềm thuy ết trình
Keynote của Apple l ại t ốt hơn, ông th ậm chí còn đề nghị dạ y anh ta cách s ử dụng nó. Cu ối bu ổi h ội
th ảo, Jobs và nhóm làm việc đã xem m ột lư ợ t t ất c ả những d ữ li ệu thuộc phân tử, đánh giá những
nguyên nhân căn b ản đối vớ i m ỗi m ột liệu pháp kh ả thi, và đưa ra m ột danh sách nh ững bài kiểm
tra có thể giúp h ọ s ắp xế p th ứ t ự ưu tiên áp d ụng những li ệu pháp này.
M ột trong nh ững v ị bác sĩ đã nói v ớ i ông r ằng có một hi v ọng cho bệnh ung thư c ủa ông, và
những ngư ờ i khác thích đi ều đó, nó s ẽ s ớ m đượ c cân nhắc như một căn b ệ nh ung thư hiếm hoi có
th ể ki ểm soát đư ợ c, căn bệnh mà có th ể duy trì cho t ớ i khi ngư ờ i bệnh chết về m ột nguyên nhân
khác. “Hoặ c tôi sẽ tr ở thành một trong nh ững ngư ờ i đầu tiên có th ể chiến th ắ ng b ệnh ung thư theo
phương pháp này, hoặ c tôi sẽ là m ột trong nh ững ngư ờ i cu ối cùng ch ết vì nó,” Jobs nói v ớ i tôi
ngay sau m ột trong nh ững cuộ c họp vớ i các bác sĩ. “Ho ặc sẽ là m ột trong số những ngư ờ i khi ến
phương pháp này tr ở thành phương pháp cốt lõi, hoặc là ngườ i cu ối cùng lo ại bỏ nó.”
Những v ị khách vi ếng thăm
Khi việc ông xin nghỉ ốm năm 2011 đượ c công bố, tình tr ạng có v ẻ như kinh kh ủng tớ i mức
Lisa Brenan -Jobs đã liên lạc l ại sau hơn m ột năm và sắp xếp để bay t ừ New York đ ến ngay tu ần
sau đó. M ối quan hệ gi ữ a cô và cha cô đã đượ c xây d ựng d ự a trên s ự oẤn gi ận. Cô đã c ảm th ấ y sợ
hãi một cách khó hiểu khi g ần như đã bị bỏ rơi hoàn toàn trong mườ i năm đ ầu đờ i. S ự vi ệc càng trở
nên tòi tệ khi cô đư ợ c th ừa hư ở ng một vài tí nh d ễ cáu giận củ a ông, và ông thì cảm th ấ y cố có nét
tính cách hay than vãn c ủ a m ẹ cô. “Tôi đã nói v ớ i con bé r ất nhi ều lần
rằng tôi ướ c có th ể là m ột ngườ i cha t ốt hơn khi con bé năm tuổi, nhưng bây gi ờ con bé nên
bỏ qua mọi chuy ệ n hơn là c ứ gi ận dữ như vậ y su ố t ph ần đờ i còn l ại,” ông nh ớ l ại ngay trư ớ c khi
Lisa tớ i.
Chuyến thăm đã di ễn ra t ốt đ ẹp. Jobs đã b ắt đ ầu cả m thấ y khá hơn m ột chút, và ông ở trong
tâm tr ạng thân thiện và th ể hi ện sự yêu mến đối vớ i nh ững ngư ờ i xung quanh, ở độ tu ổi ba mươi
hai, một trong nh ững l ần đầu tiền trong cuộc đờ i, Lisa đang có m ột m ối quan hệ nghiêm túc. B ạn
trai cô là m ột nhà làm phim tr ẻ s ống chật vật đến t ừ California, và Jobs đã đi xa t ớ i mức đề nghị cô
tr ở l ại Palo Alto n ếu họ cư ớ i nhau. “Nhìn xem, cha không bi ết còn s ống đượ c bao lâu nữ a,” ông nói
vớ i cô. “Nh ững bác sĩ không thể nói cho cha bi ết. N ếu con mu ốn nhìn thấ y cha nhi ều hơn, con nên
chuy ể n tớ i đây. Tại sao con còn ph ải đắn đo như vậ y?” M ặ c dù Lisa đã không chuy ể n về, Jobs
cũng đã r ất hài lòng v ề vi ệc hòa giải gi ữ a hai cha con đã có tác dụng. “Tôi đã không chắ c về vi ệ c
tôi mu ốn con bé t ớ i thăm trư ớ c đó, b ở i vì tôi đang ốm và tôi không muốn có thêm s ự rắc rối nào
nữa. Nhưng tôi r ất vui m ừ ng vì con bé đã tớ i. Nó giúp tôi giải t ỏa đư ợ c nhi ều thứ trong lòng mình.”
J obs đã có m ột cu ộc vi ếng thăm khác trong th áng đó t ừ m ột ngườ i cũng muốn xóa b ỏ s ự
ngăn cách. Ngườ i đồng s áng l ập của Google Larry Page, ch ỉ s ống cách gia đình Jobs ba khu nhà,
đã tuyên bố có k ế hoạch n ắm lại quyề n đi ều hành công ty từ Eric Schmidt. Ông biết cách khi ến
Jobs vui: ông đã hỏi r ằng li ệu ông có thể ghé qua và học hỏi nh ững bí quy ết để tr ở thành một CEO
gi ỏi. Jobs v ẫn còn điên ti ết vớ i Google. “Ý nghĩ đ ầu tiên c ủa tôi là, ‘Đồ khốn,’” ông nh ớ l ại.
“Nhưng sau đó tôi đã nghĩ về l ờ i đề nghị đó và nhận ra rằng mọi ngườ i đã giúp tôi khi tôi còn trẻ,
t ừ Bill Hewlett cho tớ i nh ững ngư ờ i đã làm việc ở HP. Vì th ế tôi đã g ọi l ại cho ông ta và nói là ông
ta có th ể qua.” Page ghé qua, ngồi trong phòng khách củ a Jobs, và lắng nghe những ý ki ến của Jobs
về vi ệc làm nên nh ững s ả n ph ẩm vĩ đại và nh ững công ty trư ờ ng tòn. Jobs nhớ l ại:
Chúng tôi đã nói rất nhi ề u về vi ệc t ập trung. Và l ự a ch ọn con ngư ờ i. Cách th ức để bi ết ai là
ngư ờ i đáng tin, và làm cách thức nào đ ể xây dựng một đội ngũ g ồm những ngư ờ i ch ủ ch ốt mà b ạn
có th ể tin c ậ y. Tôi đã miêu tả nguyên lý nâng và hạ của ròng rọc động mà ông ta c ần áp dụng đ ể
giúp công ty tránh khỏi bị thua lỗ hoặc bị chen ngang bở i đối th ủ cạnh tranh, vấn đề chính mà tôi
nhấn m ạnh vào là sự t ập trung. Xác đ ị nh xem Google mu ốn trở thành gì khi nó phát triển lên. Bây
gi ờ Google đã có mặt ở khắp nơi. Năm sản ph ẩm mà các bạn mu ốn t ập trung vào là gì? Hãy bỏ qua
t ất c ả những th ứ còn l ại, bở i vì chúng đang kéo các b ạn xu ống. Họ s ẽ bi ến các b ạn thành Microsoft.
Họ s ẽ khiến bạn ph ải loại bỏ nhứng s ản ph ẩm đã phù hợ p nhưng không xuất s ắc. Tôi đã có gắng đ ể
tr ở nên có ích h ết m ứ c có th ể. Tôi s ẽ ti ếp tục làm như v ậ y vớ i nh ững ngư ờ i như Mark Zuckerber.
Đó là cách mà tôi muốn làm trong khoảng thờ i gian còn l ại c ủa cu ộc đờ i mình. Tôi có th ể giúp th ế
hệ ti ếp sau ghi nh ớ về nguồn gố c của các công ty vĩ đ ại ở đây và cách th ức để ti ếp nối truyền thống
đó. Thung lũng Silicon đã r ất hỗ tr ợ tôi. Tôi c ần ph ải nỗ l ực hết mình đ ể đề n đáp.
Vi ệc công bố nghỉ ốm vào năm 2011 đã thôi thúc nh ững ngư ờ i khác t ớ i vi ế ng thăm ngôi
nhà của Jobs tại Palo Alto. Ví d ụ như Bill Cliton đã ghé qua và trò chuyện về m ọi th ứ t ừ Trung
Đông tớ i chính tr ị của M ỹ. Nhưng cu ộc viếng thăm ghi dấu ấn sâu s ắ c nh ất là c ủa một huyề n thoạ i
công ngh ệ sinh năm 1955, một nhân vật mà trong hơ n ba th ập kỷ, đã là đối th ủ và là đ ối tác c ủ a
Jobs trong việc vạch rõ ra một th ờ i đại c ủa máy tính cá nhân.
Bill Gates chưa bao gi ờ thôi ngư ỡ ng mộ Jobs. Vào mùa xuân năm 2011 tôi đã cùng ăn t ối
vớ i Bill t ại Washington, nơi ông t ớ i và th ảo lu ận về quỹ hoạt động vì nhữ ng n ỗ l ực nâng cao s ức
khỏe toàn cầu. ông đã tỏ ra vô cùng kinh ng ạ c trư ớ c sự thành công củ a iPad và cách th ức mà Jobs,
ngay c ả khi đang ốm năng, v ẫn t ập trung vào nghiên cứu nh ững cách thứ c để cải tiến nó. “Tôi đang
ngồi đây, đơn thu ần ch ỉ cố gắng c ứu th ế gi ớ i kh ỏi căn b ệnh s ốt rét và nh ững thứ ki ểu như vậ y, còn
Steve thì vẫn tiếp tục cho ra đ ờ i nh ững s ản ph ẩm m ớ i kỳ di ệu khác,” ông nói vớ i vẻ thèm mu ốn.
“Có lẽ tôi đã không nên rờ i bỏ cu ộc chơi.” ông cườ i và ph ải bi ết ch ắc là tôi bi ết ông ấ y ch ỉ đang
đùa, ho ặc ít nh ất là một ph ần nào đó đùa v ề đi ều đó.
Qua một ngườ i b ạn chung là Mike Sage, Gates đã sắp xếp một chuy ến viếng thăm Jobs vào
th áng năm. Một ngày trư ớ c cu ộc vi ếng thăm, trợ lý c ủ a Jobs đã gọi và nói r ằng ông cảm th ấ y
không đủ khỏe để ti ếp Gates. Nhưng cuộ c hẹ n đã đư ợ c xếp l ị ch lại, và vào đầu giờ chiều một ngày
Gates đã lái xe đến nhà Jobs, đi vào phía c ổng sau và m ở cửa phòng b ếp, ông trông th ấ y Eve đang
học bài trên bàn. “Steve có nhà không con?” ông hỏi. Eve đã ch ỉ ông tớ i phòng khách. Họ dành
hơn ba gi ờ đồng h ồ li ền vớ i nhau, ch ỉ hai ngư ờ i, cùng h ồi tư ở ng lại. “Chúng tôi giống như hai ông
già trong ngành cùng ngồ i nhìn lại,” Jobs nhớ l ại. “Tôi chưa t ừng thấ y ông ấ y hạnh phúc đ ến vậ y,
và tôi tiếp tục nghĩ t ại sao ông ấ y có th ể trông kh ỏ e m ạnh như th ế.” Gates cũng bị ấn tư ợ ng tương
t ự như vậ y vớ i vi ệc Jobs có nhiều năng lư ợ ng hơn ông nghĩ, m ặc cho v ẻ ngoài h ốc hác đ ến đáng
s ợ . Jobs r ất c ở i mở v ề tình tr ạng s ức kh ỏ e của mình và, ít nhất là vào hôm đó, c ảm thấ y l ạ c quan về
đi ều đó. ông nói vớ i Gates r ằng việc áp dụng có thứ t ự những phương pháp đi ều trị s ử dụng thu ốc
trúng mục tiêu giống như vi ệc “nhả y từ cánh hoa này sang c ánh hoa khác củ a m ột bông loa kèn
vậ y”, c ố gắng đ ể đi trướ c căn b ệnh ung thư một bư ớ c.
Jobs đã h ỏi m ột vài câu hỏi về giáo d ụ c, và Gates đã phác h ọ a t ầm nhìn của ông v ề vi ệc
những ngôi trườ ng c ủa tương lai s ẽ như th ế nào, vớ i vi ệc nh ững h ọ c sinh theo dõi bài giảng và t ự
xem nh ững bài học qua video trong khi s ử dụng kho ảng th ờ i gian lên lớ p để th ảo luận và tìm ra giả i
pháp cho các v ấn đề. Họ đồng ý rằng đ ến nay, máy tính đã t ạo ra m ột ảnh hưở ng nhỏ b ất ng ờ lên
trườ ng h ọ c - ít hơn nhi ều so vớ i tác đ ộng c ủa nó lên các lĩnh vực khác của xã hội như truy ề n thông,
y khoa và lu ật. Đ ể thay đ ổi đổi đư ợ c đi ều đó, Gates nói, máy tính v à các thiết bị di đ ộng c ần ph ải
t ập trung vào vi ệ c đem đến nh ững bài học đư ợ c cá nhân hóa và cung c ấp nh ững phản hồi đầ y tính
khích l ệ.
Họ cũng trao đ ổi nhi ều về ni ềm vui của gia đình, bao g ồm cả vi ệ c họ đã may m ắn th ế nào
khi có nh ững đ ứa con ngoan và cướ i đư ợ c đúng ngườ i ph ụ nữ của cu ộ c đờ i. “Chúng tôi đã cư ờ i l ớ n
về vi ệc Jobs đã may m ắn th ế nào khi g ặp Laurence, và bà ấ y đã giúp ông bớ t khùng một nửa, và
vi ệc tôi đã may m ắn khi g ặp Melinda, và bà ấ y cũng đã giúp tôi đ ỡ khùng một nửa,” Gates nh ớ l ại.
“Chúng tôi cũng đã th ảo luận về vi ệc nh ững đ ữa trẻ cảm thấ y thách th ức như thế nào khi là con của
chúng tôi và cách th ức chúng tôi giúp chúng b ớ t áp l ực. Đó là những đi ều khá riêng tư.” Có một lúc
Eve, trướ c đây đã t ừng cùng tham gia buổi bi ểu di ễn cư ỡ i ng ựa cùng vớ i con gái Jennifer c ủa
Gates, đi thơ thẩn trong b ếp, và Gates đã hỏi cô bé ch ặng nhả y ng ự a nào mà cô bé thích nh ất.
Khi thờ i gian trò truy ện đã hết, Gates đã khen ng ợ i Jobs về “những s ản ph ẩ m kỳ di ệu” mà
Jobs đã t ạo ra và có th ể cứu sống Apple vào cuối nh ững năm 1990s từ tay nh ững k ẻ đã g ần như phá
hủ y nó. ông th ậm chí đã chấp nh ận m ột s ự như ợ ng b ộ thú vị . Trong toàn b ộ s ự nghi ệp của họ, họ
đã g ắn ch ặt vớ i nh ững triết lý c ạnh tranh về m ột trong nh ững v ấn đề cơ b ản nh ất c ủa nh ững v ấn đề
k ỹ thuật s ố: ho ặc là ph ần cứng và phần m ềm nên tích h ợ p ho ặc tiếp tục t ự phát tri ển tách r ờ i. “Tôi
đã từng tin r ằng vi ệ c t ự phát tri ển tách r ờ i, nghĩa là mô hình nằm ngang sẽ chiếm ưu thế”, Gates nói
vớ i Jobs như v ậ y. “Nhưng ông đã chứng minh r ằng việc tích h ợ p, mô hình dọc cũng th ực sự tuyệt
vờ i.” Jobs đã trả l ờ i l ại dựa trên s ự thú nh ận của mình. “Mô hình c ủa ông cũng thự c sự có hi ệu
quả,” Jobs nói.
Họ đều đúng. Mỗi mô hình đ ều thành công trong lĩnh vực máy tính cá nhân, nơi mà
Macintosh t ồn tại song song v ớ i r ất nhi ều những c ỗ máy Windows, và điều đó có v ẻ cũng đúng
trong lĩnh v ực thi ết bị di đ ộng. Nhưng sau khi thu ật kỹ l ại cu ộc th ảo lu ận của họ, Gates đã đưa
thêm một dự báo: “Mô hình tích hợ p sẽ có hi ệu qu ả ch ỉ khi Jobs là ngườ i ch ỉ huy. Nhưng đi ều đó
không có nghĩa l à trong tương lai mô hình đó sẽ ti ếp tục th ắng l ợ i.” Jobs cũng c ảm th ấ y ph ải bổ
sung thêm một d ự báo về Gates sau khi mô tả về cu ộc gặp mặt giữa hai ngư ờ i: “T ất nhiên, mô hình
t ự phát tri ển tách r ờ i c ủ a Gates có hiệu qu ả, nhưng nó không thực sự t ạo nên những s ản ph ẩm vĩ
đại. Nó t ạo ra nh ững s ản ph ẩm dở . Đó là v ấn đề. M ột vấn đề l ớ n. ít nh ất là qua th ờ i gian.”
“Ngày đó đã đến”
Jobs có r ất nhi ều nh ững ý tư ở ng và những dự án khác mà ông ấp ủ th ự c hi ện. Ông muốn
phá vỡ ngành xu ất bản sách giáo khoa và giúp ích cho cột s ống c ủa nh ững sinh viên b ị đau kh ớ p
khỏi ph ải mang nh ững túi sách nặng b ằng việ c t ạo ra nh ững tài liệu đi ện tử và những tài liệu
chương trình trên chiế c iPad. Ông cũng đã làm vi ệc vớ i Bill Atkinson, một ngườ i bạn của ông
trong nhóm Macintosh trư ớ c đây, về vi ệc sáng ch ế ra những công ngh ệ s ố hóa có th ể hoạt động ở
cấp độ t ừng pixel nhằm cho phép mọi ngườ i có th ể có đượ c nh ững tấm ảnh đ ẹp bằng chiếc iPhones
ngay c ả khi không có đ ủ ánh sáng . Và ông cũng đã rất mu ốn làm điều tương t ự vớ i ti vi như những
gì ông đã từng làm vớ i nh ững chiếc máy tính, nh ữ ng máy nghe nhạc, và đi ệ n thoại: khiến chúng
tr ở nên đơn giản và trang nhã. “Tôi mu ốn tạo ra m ột chi ếc tivi tích h ợ p và hoàn toàn d ễ dàng s ử
dụng,” ông nói v ớ i tôi. “Nó sẽ đượ c kết n ối không dây v ớ i t ất c ả những thiết bị khác c ủa bạn và vớ i
đi ện toán đám mây.” Nh ững ngư ờ i s ử dụng s ẽ không còn phải m ất thì gi ờ vớ i nh ững chiế c đi ều
khiển t ừ xa phứ c t ạp của đầu DVD và những kênh truy ền hình cáp. “Nó s ẽ có giao di ện ngườ i dùng
đơn gi ản nh ất mà b ạn có th ể hình dung ra. Cu ối cùng thì tôi đã có th ể dấn thân vào s ản ph ẩm này.”
Nhưng cho đến th áng B ả y năm 2011, căn bệnh ung thư đã di căn t ớ i t ủ y của Jobs và nh ững
bộ phận khác trong cơ thể, và các bác sĩ đã g ặp khó khăn trong vi ệc tìm ra loại thu ốc đặc ch ủng có
th ể đẩ y lui s ự di căn này. Ông đã th ấ y rất đau đ ớ n, ngủ m ột cách th ất thư ờ ng, suy ki ệt năng lư ợ ng
và phải dừng làm vi ệc, ông và Powell đã đ ặt m ột chuy ế n du thuy ền cho c ả gia đình cuối th áng đó,
nhưng nh ững k ế hoạch đó đ ều bị hủ y bỏ. Ông v ẫn không ăn một chút thứ c ăn đ ặc nào, và ông dành
hầu hết th ờ i gian ở trong phòng ngủ xem ti vi.
Vào tháng tám, tôi nh ận đư ợ c m ột tin nh ắn rằng ông muốn tôi tớ i thăm. Khi tôi đ ến nhà
ông, đó là m ột bu ổi s áng th ứ bả y, ông vẫn đang ng ủ , nên tôi ngồi xuống c ạnh v ợ và những đ ứa con
của ông trong vư ờ n, nơi ng ập tràn hương thơm củ a nh ững bông hòng vàng và rất nhi ều loài hoa
cúc, cho đến khi ông nhắ n tôi vào. Tôi thấ y ông cuộn tròn trên giư ờ ng, mặ c m ột chi ếc qu ần sooc
màu ka ki và một chi ếc áo cao c ổ tr ắng. Chân củ a ông g ầ y gu ộc như ống giang, nhưng n ụ cư ờ i c ủa
ông rất nh ẹ và chỉ thoáng qua. “Chúng ta c ần rất kh ẩn trương, bở i vì tôi rất yế u,” ông nói.
Ông đã muốn ch ỉ cho tôi m ột s ố bức ảnh cá nhân và để tôi chọn một vài tấm dùng cho cu ốn
sách. B ở i vì ông đã quá y ếu để có th ể rờ i kh ỏi giư ờ ng, nên ông đã ch ỉ cho tôi nh ững chiếc ngăn kéo
trong phòng, và tôi đã rất c ẩn thận đưa cho ông nh ữ ng b ức ảnh trong mỗi ngăn. Khi tôi ngồi xuống
bên cạnh giư ờ ng, tôi gi ữ những t ấm ảnh và giở cho ông xem t ừng chiế c m ộ t. M ột vài tấm ảnh g ợ i
lên nh ững câu ch uyện: những t ấm khác chỉ t ạo ra nh ững ti ếng làu bàu hoặc m ột nụ cư ờ i. Tôi chưa
bao giờ th ấ y một t ấm ảnh nào của cha ông, Paul Jobs, và tôi đã phải giật mình khi tôi th ấ y một t ấm
ảnh v ề m ột ngườ i đàn ông đ ẹp trai dườ ng như đang chết đói trong tay ôm một đứa tr ẻ vào nh ững
năm 1950s. “Đúng, đó là cha tôi,” Jobs nói. “Ông có th ể s ử dụng b ức ảnh này.” Sau đó ông chỉ cho
tôi một chi ếc hộp gần cử a sổ có chứ a m ột t ấm ảnh c ủa cha ông đang nhìn ông rất trìu m ến trong
đám cư ớ i c ủa ông. “Ông ấ y là một ngườ i đàn ông tuyệt vờ i,” Jobs nói gần như thì th ầm. Tôi đã nói
th ầm sau đó rằng “ông ấ y ch ắc hẳn đã rất t ự hào về ông.” Jobs đã ch ỉ nh câu nói c ủa tôi: “ông ấ y đã
rất t ự hào về tôi.”
Những t ấm ảnh dườ ng như đã ti ếp thêm sinh khí cho ông ch ỉ trong giây lát. Chúng tôi đã
trò chuy ệ n về những đi ều mà rất nhi ều ngườ i trong quá kh ứ, t ừ Tina Redse t ớ i Mike Markkula cho
t ớ i Bill Gates, đã nghĩ v ề ông. Tôi đã kể l ại chi ti ết nh ững gì Gates đã nói sau cu ộc vi ếng thăm c ủa
Gates vớ i Jobs, cu ộc nói chuyệ n mà Apple đã chỉ ra r ằng mô hình tích hợ p th ực sự có hi ệu qu ả,
nhưng ch ỉ “khi Steve đang giữ vai trò ch ỉ huy.” Jobs cho rằng đi ều đó th ật ng ớ ngẩn. “Bất c ứ ai có
th ể t ại ra nh ững s ản ph ẩ m tốt hơn theo cách thức như v ậ y, ch ứ không ch ỉ mình tôi,” ông nói. Vì
vậ y tôi đã yêu cầu ông đưa ra t ên m ột công ty nào khác mà đã t ạo ra nh ững s ản ph ẩm vĩ đại bằng
cách tuân th ủ s ự tích hợ p nh ất quán t ừ đầu tớ i cu ố i, ông nghĩ m ột lúc, c ố gắ ng đưa ra m ột ví dụ.
“Nh ững công ty ô tô,” cu ối cùng ông nói, nhưng sau đó ông đã b ổ sung thêm, “Hoặc là ít nhất là họ
đã từng như v ậ y.”
Khi cuộc trò chuy ện củ a chúng tôi chuy ể n sang tình tr ạng tồi t ệ của nền kinh t ế và chính trị ,
ông đã đưa ra một vài ý ki ến rất s ắ c bén v ề vi ệ c thi ếu sự lãnh đ ạo m ạnh mẽ trên th ế gi ớ i. “Tôi th ất
vọng v ề Obama”, ông nói. “Ông ấ y có vấn đề trong lãnh đ ạo bở i vì ông ấ y không mu ốn làm mất
lòng m ọi ngườ i ho ặc khi ế n m ọi ngườ i t ức gi ận.” Jobs đã b ắt ngay đư ợ c ý nghĩ c ủa tôi và bày tỏ s ự
tán đồng b ằng một nụ cư ờ i: “Đúng vậ y, đó không phải là vấn đề mà tôi mắ c ph ải.”
Sau hai ti ếng trò chuy ện, ông tr ở nên im lặng, vì vậ y tôi rờ i kh ỏi giư ờ ng và chu ẩn bị ra v ề.
“Đợ i đã,” ông nói, trong khi ông v ẫ y tôi ngồi l ại giư ờ ng. Ch ỉ m ất m ột ho ặc hai phút đ ể ông có th ể
l ấ y lại đủ năng lượ ng đ ể ti ếp tục cu ộc trò chuyệ n. Cuối cùng ông nói, “Tôi r ất lo l ắng v ề dự án
này,” ông đang mu ốn nói đ ến quyết đị nh c ủ a mình trong việc vi ết cu ốn sách này. “Tôi đã th ực sự
lo l ắng.”
Tôi hỏi ông “T ại sao ông lại mu ốn vi ết cu ốn sách này?”
“Tôi muốn các con tôi biết về tôi,” ông nói.
“Tôi đã không thườ ng xuyên ở bên cạnh chúng, và tôi đã rất mu ốn chúng biết t ại sao l ại
như vậ y và hi ểu đư ợ c đi ề u mà tôi đã làm. Thêm vào đó, khi tôi ốm, tôi đã nhận ra nh ững ngư ờ i
khác sẽ vi ết về tôi n ếu tôi ch ết, và h ọ không bi ết gì hết. H ọ hi ểu sai m ọi th ứ. Vì vậ y tôi muốn ch ắc
ch ắn rằn g có m ột ai đó nghe đư ợ c nh ững điều tôi c ần ph ải nói.”
Trong hai năm, ông ấ y chưa bao giờ hỏi b ất c ứ đi ều gì về vi ệ c tôi sẽ đưa nh ữ ng gì vào cu ốn
sách hay là vi ệ c tôi đưa ra nh ững k ết lu ận gì. Nhưng bây gi ờ khi ông nhìn tôi và nói, “Tôi biết có
rất nhi ều thứ trong cu ốn sách mà tôi s ẽ không thích.” Câu này c ủ a ông giống như m ột câu h ỏi hơn
là m ột câu khẳng đ ị nh, và khi ông nhìn ch ằm ch ằm vào tôi ch ờ đợ i câu tr ả l ờ i, tôi đã g ật đầu, cư ờ i,
và nói r ằng tôi chắc ch ắn đi ều đó là sự th ật. “Th ế thì t ốt,” ông nói. “V ậ y thì nó s ẽ không giống m ột
cu ốn sách lưu hành trong nhà n ữa. Tôi s ẽ không đọ c nó ngay, b ở i vì tôi không mu ốn nổi cáu. Có lẽ
tôi nên đ ọc nó sau một năm n ữa - nếu tôi v ẫn còn s ống.” Khi đó, đôi mắt c ủa ông ấ y nh ắm nghi ề n
và tất c ả m ọi năng lư ợ ng c ủa ông d ườ ng như bi ến m ất, vì v ậ y tôi đã l ặng l ẽ ra v ề.
Sau khi s ức kh ỏe củ a ông đã suy giảm đi rất nhi ề u sau mùa hè, Jobs đã từ t ừ phải đối m ặt
vớ i đị nh mệnh: ông s ẽ không th ể tr ở l ại làm CEO c ủa Apple. Vì vậ y đã đến lúc ông cần ph ải t ừ
ch ức. Ông đánh v ật v ớ i quyết đ ị nh đó hàng tuần liề n, th ảo luận nó vớ i v ợ , Bill Campbell, Jony Ive,
và George Riley. “Một trong nh ững vi ệc mà tôi mu ốn làm đ ối v ớ i Apple đó là đưa ra m ột hình mẫu
về vi ệc làm thế nào bạn chuy ển giao quyền l ự c một cách đúng đắn,” ông nói vớ i tôi. ông đã đùa v ề
t ất c ả những thờ i kỳ chuy ển giao quyền lực khó khăn đã di ễn ra trong công ty trong su ốt ba mươi
lăm năm qua. “Nó luôn luôn là một v ở kị ch, giống như m ột qu ốc gia th ế gi ớ i thứ ba. Một ph ần mục
tiêu của tôi đó là khi ến Apple trở thành công ty t ốt nh ất trên thế gi ớ i, và có m ột s ự chuy ển giao
quyền lự c m ột cách gọn gàng là đi ều cốt yếu để th ực hi ện vi ệc đó.
Ông quyết đị nh r ằng thờ i đi ểm và không gian tốt nh ất để chuy ển giao quyền lực đó là ngày
họp ban điều hành thườ ng k ỳ củ a công ty vào ngày 24 th áng Tám. ông đã rất háo h ức đư ợ c trực
ti ếp làm việc đó, hơn là ch ỉ đơn thuần gửi một lá thư ho ặc là tham gia qua đi ện thoại, vì vậ y ông đã
t ự bắt mình ph ải ăn và lấ y lại m ột chút s ức kh ỏ e. M ột ngày trư ớ c bu ổi họp, ông đã quyế t đị nh là
ông có th ể làm đư ợ c vi ệc đó, nhưng ông ấ y cần có sự giúp đ ỡ của m ột chi ế c xe lăn. Họ đã s ắp xếp
để ông lái xe lăn t ớ i trụ sở và lăn bánh xe vào phòng hội đồng một cách bí m ật hết s ức có th ể.
Ông đã đến ngay trướ c 11 gi ờ s áng, khi các thành viên ban đi ều hành đã hoàn thiện các b ả n
báo cáo v ớ i ủ y ban và nh ững công việc thườ ng ngày khác. H ầu hết m ọi ngườ i đều bi ết vi ệc gì sắp
di ễn ra. Nhưng thay vì đi th ẳng vào vấn đề mà mọi ngườ i đều đang nghĩ đế n, Tim Cook và Peter
Oppenheimer, giám đố c tài chính, đã thông báo m ột lư ợ t các k ết qu ả kinh doanh trong quý và
những d ự báo cho năm t ớ i. Sau đó Jobs đã nói th ầm rằng ông có đi ều riêng tư c ần nói. Cook hỏi
ông liệu anh và nh ững quản lý cấp cao khác có cần ph ải r ờ i đi không, và Jobs đã im l ặng trong hơn
ba mươi giây trư ớ c khi ông quy ết đị nh là m ọi ngườ i nên r ờ i đi. Ngay khi cả phòng không còn ai
ngoại trừ những giám đ ốc thuê ngoài, ông b ắt đ ầu đọc to t ừ lá thư mà ông đã so ạn và sửa hàng tu ầ n
trướ c đó. Nó bắt đ ầu như thế này “Tôi vẫn luôn nói r ằng n ếu có m ột ngày tôi không th ể hoàn thành
đượ c trách nhi ệm và kỳ v ọng c ủa mọi ngườ i v ớ i tư cách là CEO của Apple, thì tôi nên là ngườ i đ ầu
tiên thông báo cho các b ạ n.” Th ật không may, ngày đó đã đ ến.”
Bức thư th ật đơn giản, th ẳng th ắn và ch ỉ dài tám câu. Trong bứ c thư ông đề xuất r ằng Cook
s ẽ thay th ế ông, và ông đã đ ề nghị đượ c làm chủ t ị ch c ủa ban quản trị . “Tôi tin rằng những ngày
th áng tươi sáng và mang tính đ ột phá nhất c ủa Apple đang ở phía trướ c. Và tôi ngóng chờ để theo
dõi và đóng góp vào s ự thành công củ a công ty trong vai trò m ớ i.”
Đó là một câ u dài. AI Gore là ngườ i đầu tiên c ất tiếng, và anh đã liệt kê ra nh ững thành t ựu
của Jobs trong su ốt th ờ i gian t ại vị . Mickey Drexler đã b ổ sung thêm r ằng theo dõi quá trình Jobs
bi ến chuy ển Apple là “đi ều kỳ di ệu nh ất mà tôi đã t ừng thấ y trong kinh doanh, ” và Art Levinson
đã ca ngợ i s ự cần m ẫn củ a Jobs trong vi ệc đảm bả o rằng việc chuy ể n giao quyền lự c di ễn ra suôn
s ẻ. Campbell đã không nói gì, nhưng anh đã khóc khi quy ết đị nh chính thứ c về vi ệc chuy ển giao
quyền lự c đư ợ c thông qua.
Trong bữ a trưa, Scott F orstall và Phil Schiller đã trưng bày những mô hình nguyên bản củ a
m ột vài s ản ph ẩm mà Apple đã tung ra thị trườ ng. Jobs đã liên ti ếp đưa ra những câu hỏi và nh ững
ý nghĩ củ a mình v ề chúng, đặ c bi ệt là về dung lượ ng t ối đa củ a sản ph ẩm th ế hệ th ứ tư - nhữn g
m ạng lướ i ki ểu tế bào này và nh ững tính năng c ần có trong những chiế c đi ệ n thoại c ủa tương lai.
Có một l ần Forstall đã trình diễn m ột ứng d ụng nhận di ện gi ọng nói. Khi anh thấ y sợ hãi, Jobs đã
ch ộp lấ y chi ế c đi ện thoại ở gi ữa của của bản demo và ti ếp tục xem li ệu ông có thể làm xáo trộn nó
như th ế nào. “Thờ i tiết ở Palo Alto như thế nào? ông hỏi. ứng d ụng đã đáp lại. Sau một vài câu hỏi
khác, Jobs đã thách th ức nó: “Mày là nam hay là n ữ?” Thật đáng ngạc nhiên, ứng d ụng đã trả l ờ i
bằng ti ếng rô b ốt, “H ọ không xác đ ị nh gi ớ i tính cho tôi.” Trong m ột kho ảnh khắc tinh thần của ông
đã phấn ch ấn hơn.
Khi bài nói chuyệ n chuy ể n sang máy tính b ảng, mộ t vài ngư ờ i đã bi ểu l ộ ni ề m tự hào chi ến
th ắng r ằng HP đã vừ a ph ải t ừ bỏ lĩnh v ực này, không thể cạnh tranh vớ i iPad.
Nhưng Jobs bỗng tr ở nên u ám và bày tỏ rằng đó thực sự là m ột khoảnh khắc bu ồn.
“Hewlett và Packard đã xây d ựng một công ty vĩ đại, và h ọ nghĩ rằng h ọ đã đ ặt nó vào tay c ủ a
những ngư ờ i tài gi ỏi,” ông nói. “Nhưng bây gi ờ nó đang b ị chia cắt và bị phá hủ y. Đó là bi k ị ch.
Tôi hy vọng r ằng tôi đã để l ại m ột di s ản m ạnh hơn để đi ều đó không bao giờ x ả y đến vớ i Apple.”
Khi ông chu ẩn bị rờ i đi, các thành viên ban qu ản trị đã tề t ựu quanh ông và dành cho ông m ột cái
ôm l ớ n.
Sau bu ổi h ọp vớ i đ ội ngũ đi ều hành để gi ải thích nh ững tin mớ i, Jobs đã lại v ề nhà cùng vớ i
George Riley. Khi h ọ về đến nhà, Powell đang ở sân sau thu ho ạch m ật ong t ừ những chiế c t ổ bà đã
chăm sóc, v ớ i s ự giúp đỡ của Eve. Họ bỏ những chiếc mũ b ảo hiểm che mặt và mang bình m ật ong
vào bếp, nơi Reed và Erin đã tập hợ p đầ y đủ, vì vậ y tất c ả họ đã có thể t ổ ch ức m ột bu ổi chuy ể n
giao thanh nhã. Jobs đã ăn m ột mu ỗng đ ầ y m ật ong và phát biểu về vị ngọt tuy ệt vờ i c ủa nó.
Tối hôm đó, ông đã nh ấn mạnh v ớ i tôi rằng ni ềm hy vọng c ủ a ông là c ố gắng năng đ ộng hế t
m ức có th ể ch ừng nào mà s ức kh ỏe của ông còn cho phép. “Tôi đang làm vi ệc về những s ản ph ẩ m
m ớ i và marketing và nhữ ng việ c mà tôi thích,” ông nói. Nhưng khi tôi hỏi ông thực sự cảm th ấ y
như th ế nào về vi ệ c t ừ bỏ quyền ki ểm soát công ty mà ông đã xây dựng nên, gi ọng ông bỗng tr ở
nên bâng khuâng, và ông đã chuyển về th ờ i quá khứ. “Tôi đã có m ột s ự nghi ệp rất may mắn, m ột
cu ộc sống r ất may m ắn,” ông tr ả l ờ i. “Tôi đã làm tất c ả những gì tôi có th ể.” Chú thích
(Dream Act) Viết t ắt c ủa Development, Relief and Education for Alien Minors (Đạo Lu ật
Phát Triển, Tr ợ Giúp và Giáo Dục đối vớ i nh ững đ ứa trẻ nhập cư trái phép): là m ột dự lu ật c ủa M ỹ
l ần đầu đư ợ c đệ trình lên Thượ ng ngh ị vi ện vào ngày 1/8/2001 và đư ợ c đệ trình l ần gần đây nhất
vào ngày 11/5/2011.
Chương 42: DI SẢN
Thiên đư ờng s áng t ạo sáng ngời
T ại hội ch ợ Macworld 2006, Jobs đứ ng trước một "slide" về ông và Wozniak t ừ 30 năm
trước
FireWire ()
Cá tính của Jobs đư ợ c ph ản ánh trong chính nh ững s ản ph ẩm của ông. Tri ế t lý c ốt lõi của
Apple, từ th ờ i chi ếc Macintosh đ ầu tiên năm 1984 cho đ ến th ế h ệ iPad là s ự tích hợ p toàn bộ gi ữa
phần m ềm và phần cứng, và t ất c ả đ ều liên quan đến Steve Jobs: niềm đam mê, chủ nghĩa hoàn
hảo, sự ti nh quái, niềm khát khao, tính nghệ thu ật, sự li ều lĩnh và cả nỗi ám ả nh ki ểm soát, đượ c kết
nối trọn vẹn vớ i phương th ức kinh doanh cũng như chế t ạo sản ph ẩm của ông.
Lý thuyết trư ờ ng thống nhất - th ứ gắn liền vớ i tính cách cũng như s ản ph ẩm của Steve Jobs
đượ c kh ở i đầu bở i nét tính cách tiêu bi ểu nh ất c ủa ông: sự m ạnh mẽ. Đôi khi, chính s ự m ạnh mẽ
này là điểm cu ốn hút, theo cách thứ c nh ạt nh ẽo củ a nh ững k ẻ ch ỉ có đam mê duy nhất là máy tính,
ch ẳng h ạn như khi ông gi ải thích về s ự uyên thâm, sâu s ắc trong p h ần âm nhạc của Bob Dylan hay
t ại sao b ất kỳ s ản ph ẩm nào Apple giớ i thi ệu ra công chúng đều luôn là nh ữ ng s ản ph ẩm đáng kinh
ngạ c nh ất. Nhưng nh ững lúc khác, sự m ạnh m ẽ đó lại thật đáng kinh sợ , điển hình như khi Steve x ỉ
vả Microsolf hay Google lợ i dụng Apple.
Chính sự m ạnh mẽ này đã mang đ ến cho Steve cái nhìn nhị phân v ề th ế gi ớ i. Các đồng
nghi ệp củ a Steve thì cho rằng đó là s ự lư ỡ ng phân anh hùng/k ẻ ngu dốt. B ạn có th ể vừa th ế này l ại
vừa th ế kia, thậm chí chỉ trong cùng m ột ngày. Đi ề u đó cũng đúng v ớ i s ản ph ẩm, ý tư ở ng và thậm
chí là c ả đồ ăn: Một thứ v ừa có th ể là “tuy ệ t v ờ i chưa t ừng có” nhưng cũng đồng th ờ i có th ể là kinh
t ở m, ngu dốt và không thể nuốt đư ợ c. Chính vì thế, b ất k ỳ l ỗ hổng nhận thức nào cũng có thể khiến
ngư ờ i ta trở nên huênh hoang, k hoác lác. Vì vậ y, đối vớ i các công đoạn - vi ệ c hoàn thi ện các mảnh
kim lo ại, các khúc uốn cong củ a đầu đinh vít, các sắc thái c ủa màu xanh trên chi ếc hộp, khả năng
cảm ứng c ủ a màn hình đi ều hư ớ ng— Jobs thườ ng luôn nói rằng “chúng hoàn toàn đã vỡ m ộng”,
ròi sau đó khi hoàn toàn chắc ch ắn, ông mớ i tuyên b ố các s ản ph ẩm đó là “hết s ức tuy ệt vờ i”. Ông
luôn tự cho mình là m ột ngh ệ s ỹ - m ột yế u t ố s ẵn có trong con ngườ i ông - và th ật s ự theo đu ổi tính
nghệ s ỹ đó.
Chính đòi hỏi v ề s ự hoàn h ảo đã khiến Steve buộc Apple ph ải có đư ợ c sự ki ểm soát toàn bộ
đối vớ i t ất c ả các s ản ph ẩ m của mình. Steve đã nổi sung, th ậm chí còn tệ hơn, khi chứng ki ến ph ầ n
m ềm tuyệt vờ i c ủa Apple chạ y trên ph ần cứng y ếu kém của m ột công ty khác. Tương t ự, Steve d ị
ứng v ớ i suy nghĩ r ằng các ứng d ụng hay nội dung chưa đư ợ c ch ứng nhận sẽ làm “ô nhiễm” s ự hoàn
hảo nơi các thi ết bị của Apple. Kh ả năng tích hợ p ph ần m ềm và phần cứng cũng như n ội dung vào
m ột hệ th ống h ợ p nh ất đã giúp ông thực hi ện đư ợ c m ục tiêu v ề tính đơn gi ả n. Nhà thiên văn học
Johannes Kepler đã nói r ằ ng “Thiên nhiên ưa chuộ ng s ự đơn gi ản và tính đơn nhất”. Và Steve cũng
vậ y.
Thiên hư ớ ng đ ối vớ i các h ệ th ống tích hợ p đã khiế n ông kiên quy ết đi theo m ột khía c ạnh
của thi ết b ị nền t ảng nhất trong th ế gi ớ i công nghệ s ố: h ệ th ống m ở và đóng. Các đ ặc tính chống tin
t ặc đư ợ c truyề n từ Câu lạ c bộ máy tính Homebrew đã có đư ợ c ích lợ i t ừ hệ th ống mở , b ở i ở đó s ự
ki ểm soát trung tâm rất yế u và ngườ i s ử dụng có thể t ự do thay đ ổi ph ần cứng và phần mềm, chia sẻ
mã code, viết tiêu chu ẩn mở , trốn tránh các hệ th ống đ ộc quyền và có những ứng d ụng và n ội dung
tương thích v ớ i nhi ều hệ th ống hoạt động cũng như thiết bị khác nhau. Wozniak cũng đi theo xu
hướ ng này: Chi ếc Apple II mà ông thiết k ế rất d ễ m ở và có nhi ều khe c ắm và cổng đ ể m ọi ngườ i có
th ể s ử dụng sao cho tho ải mái nhất. Nhưng cùng v ớ i Macintosh, Steve đã tr ở thành cha đ ẻ của một
xu hướ ng hoàn toàn khác. Macintosh s ẽ là m ột thi ết bị mà phần cứng và phần m ềm đượ c đan cài
ch ặt ch ẽ vớ i nhau và không th ể thay đ ổi. Nh ững đ ặc tính chống tin t ặ c sẽ phải bị hy sinh đ ể t ạo ra
m ột trải nghi ệm ngườ i dùng đơn gi ản và trơn tru, liền m ạch.
Cũng chính đi ều này là nguyên nhân khi ến Jobs đưa ra quy ết đị nh r ằng h ệ th ống đi ều hành
của Macintosh s ẽ không “s ẵn sàng” v ớ i bất kỳ phần cứng c ủ a m ột công ty nào khác. Ngư ợ c l ại,
Microsoft lại theo đu ổi chi ến lư ợ c hoàn toàn trái chi ều, cho phép hệ th ống đi ều hành củ a Windows
đượ c cấp phép thoải mái. Đi ều đó không giúp t ạo ra nh ững chiế c máy tính tinh x ảo, nhưng lại đưa
Microsoft đến vị trí th ống tr ị trong thế gi ớ i hệ đi ề u hành. Sau khi thị phần của Apple s ụt gi ảm
xuống còn dư ớ i 5%, phương pháp củ a Microsoft đư ợ c tuy ên b ố là “k ẻ chiế n th ắng” trong lãnh đị a
máy tính cá nhân.
Tuy nhiên, về lâu dài, mô hình của Jobs đư ợ c ch ứ ng minh là có nh ững l ợ i th ế nhất đị nh.
Bất ch ấp thị phần nh ỏ bé, Apple v ẫn có th ể duy trì biên lợ i nhuận l ớ n trong khi nh ững nhà sản xu ất
máy máy tín h khác ch ỉ ở m ức thông thư ờ ng. Ví dụ , năm 2010, Apple ch ỉ chiếm 7% trong tổng
doanh thu c ủa th ị trườ ng máy tính cá nhân, nhưng l ại có đư ợ c 35% lợ i nhuậ n ho ạt động.
Nổi b ật hơn, đ ầu nh ững năm 2000, s ự kiên quyết c ủa Jobs đối v ớ i h ệ th ống tích hợ p toàn bộ
đã mang đ ến cho Apple lợ i th ế trong việ c phát tri ể n chi ến lư ợ c trục bánh xe công ngh ệ s ố - cho
phép máy tính để bàn củ a bạn có th ể k ết nối trơn tru vớ i t ất c ả các thi ết bị di đ ộng, xách tay khác
nhau. Ví dụ, iPod là một h ệ th ống đóng và tích h ợ p ch ặt ch ẽ. Để s ử dụng nó, bạn cần sử dụng phần
m ềm iTunes của Apple và t ải n ội dung t ừ iTunes store c ủa họ. Kết qu ả là Ipod, cũng như iPhone và
iPad sau này, là s ản ph ẩm xuất s ắc tinh t ế, trái ngư ợ c vớ i các s ản ph ẩm cạnh tranh thi ếu liên k ết và
không th ể t ạo ra trải ng hi ệm ngườ i dùng toàn bộ li ền m ạch.
Chiến lư ợ c của Apple đã mang lại kết qu ả. Th áng 5 năm 2000, giá trị th ị phần của Apple là
1/20 so v ớ i Microsoft. Nhưng đ ến th áng 5 năm 2010, Apple qua mặt Microsoft và tr ở thành công
ty công ngh ệ giá trị nhất th ế gi ớ i. Đ ến th áng 9/2011, giá trị củ a Apple vượ t xa 70% so v ớ i
Microsoft. Trong quý đầ u năm 2011, thị phần máy tính cá nhân Windows gi ảm xuống còn 1%,
trong khi th ị phần củ a Macs tăng lên 28%.
Đến lúc này, m ột cu ộ c chi ến m ớ i l ại bắt đầu trong th ế gi ớ i thi ết bị di đ ộng. Google tiến
hành nhiều phương pháp m ở hơn, cho phép bất k ỳ nhà sản xu ất máy điện thoại bàn hoặc điện thoại
di động nào cũng có th ể s ử dụng h ệ đi ều hành Android c ủa họ. Đến năm 2011, th ị phần di động c ủ a
Google tương đương v ớ i c ủa Apple. Mặt h ạn ch ế trong h ệ th ống m ở củ a Android đó là nó có th ể bị
phân đoạn. R ất nhi ều nhà s ản xu ất máy c ầm tay và máy tính bảng đã thay đ ổi h ệ đi ều hành Android
thành hàng ch ụ c loại và dạng khác nhau, khi ến ứng d ụng khó có th ể duy trì đư ợ c sự nhất quán cũng
như không thể s ử dụng đượ c t ất c ả các tính năng c ủa nó. Tuy nhiên, cả hai phương pháp này đều có
những ưu điểm riêng. Một s ố ngư ờ i mu ốn đư ợ c t ự do s ử dụng h ệ th ống mở và có nhi ều lựa ch ọn
đối vớ i ph ần cứng hơn, trong khi những ngư ờ i khác rõ ràng l ại thích sự ki ể m soát và tích h ợ p ch ặt
ch ẽ củ a Apple - đồng nghĩa v ớ i vi ệc sản ph ẩm có giao di ện đơn giản, tu ổi đờ i pin cao, tính thân
thiện vớ i ngườ i dùng và s ử dụng n ội dung dễ dàng hơn.
Khuyết đi ểm trong phương pháp của Steve đó là chính khát khao đem lại ni ềm yêu thích,
vui sướ ng cho ngườ i dùng đã khiến ông t ừ ch ối trao quy ề n cho h ọ. M ột trong nh ững nhà đề xuất
th ận trọng và thấu đáo nhất về m ột môi trư ờ ng mở là Jonathan
Zittrain c ủ a Đại họ c Harvard, ông đã mở đầu cu ố n sách The Future of the Internet - And
How to Stop It (Tương lai c ủa Internet - Và cách thức ngăn ch ặn nó) b ằng phần gi ớ i thi ệu về
iPhone c ủa Jobs, đ ồng thờ i đưa ra l ờ i c ảnh báo về hệ quả của vi ệ c thay thế máy tính cá nhân bằng
“những ứng d ụng nghèo nàn bám ch ặt vào một hệ th ống kiểm soát”. Thậm chí, một ngườ i nồng
nhiệt hơn - Cory Doctorow - ngư ờ i vi ết ra bản tuyên ngôn mang tên “Tại sao tôi s ẽ không mua
iPad” cho trang blog Boing Boing, đã vi ết: “Quá thông minh và chín chắn khi ti ến hành cách thiết
kế đó. Nhưng nó cũng rõ ràng là sự khinh mi ệt đố i vớ i ngườ i ch ủ củ a mình. Mua một chi ếc iPad
cho con c ủa bạn không có nghĩa là ngay lập tức nh ận th ức rằng thế gi ớ i này là c ủ a bạn để ròi thích
thì tách ra và t ập hợ p vào, mà nó là cách đ ể nói vớ i con cái củ a bạn rằng ngay c ả thay pin cũng là
vi ệc mà b ạn cần giao phó cho các chuyên gia.”
Đối vớ i Jobs, ni ềm tin vào phương pháp tích hợ p là chính đ áng. “Chúng tôi th ực hi ện
những điều này không phải bở i chúng tôi là nh ững k ẻ l ập dị , độc đoán muố n ki ểm soát mọi th ứ”,
ông gi ải thích “mà bở i chúng tôi mu ốn tạo ra nh ững s ản ph ẩm tuyệt vờ i, bở i chúng tôi quan tâm
đến ngườ i s ử dụng, và bở i chúng tôi mu ốn đảm trách toàn bộ các trải nghi ệ m của khách hàng thay
vì những thứ tào lao mà nh ững k ẻ khác đã t ạo ra.” Jobs cũng tin tư ở ng r ằng mình đang mang đ ến
s ự phục vụ hữu ích cho con ng ườ i: “H ọ quá bận rộn hoàn thi ện tốt nh ất nh ững công việc thu ộc
phạm vi của mình, và h ọ muốn chúng tôi làm cũng làm điều tương t ự. Cu ộc sống c ủ a họ quá bận
rộn, họ có quá nhiều th ứ để làm hơn là suy nghĩ v ề vi ệc làm thế nào để k ết nối máy tính c ủa mình
vớ i các thi ết bị .”
Đôi khi, phương pháp này không đem lại k ết qu ả t ốt đ ẹp đối v ớ i l ợ i nhu ận kinh doanh ngắ n
hạn củ a Apple. Nhưng trong m ột thế gi ớ i v ớ i đ ầ y ắ p nh ững thiết b ị đ áng bỏ đi, những thông báo l ỗi
khó hi ểu và giao di ện màn hình đầ y khó chị u, phương pháp này mang đ ến nh ững s ản ph ẩm đầ y
kinh ng ạc vớ i nh ững tr ải nghiệm ngườ i dùng hấp dẫn. S ử dụng m ột s ản ph ẩ m Apple có thể đượ c so
s ánh vớ i c ảm giác tuyệt vờ i khi đi d ạo trong vườ n Thiền ở Kyoto mà Jobs đ ặc bi ệt yêu thích, và
không có tr ải nghi ệm nào đượ c t ạo ra bở i s ự tôn th ờ “b ệ th ờ của tính chất m ở ” hay cho phép hàng
nghìn bông hoa đượ c nở rộ. Đôi khi, vi ệc ở trong tay của nh ững k ẻ l ập dị thích kiểm soát cũng là
m ột đi ều hay.
S ự m ạnh mẽ của Jobs cũng đư ợ c th ể hi ện rõ rệt ở khả năng tập trung, ông s ẽ đặt ra những
ưu tiên, hướ ng s ự t ập trung cao độ vào đó và không để x ả y ra bất kỳ s ự xao nhãng nào. Nếu m ột
đi ều gì đó thu hút sự quan tâm của Job - giao di ện ngườ i dùng cho Macintosh nguyên b ản, thiết kế
iPod và iPhone, đưa âm nh ạc vào iTune store - ông đều rất t ập trung cao độ , không ngừng ngh ỉ .
Nhưng nếu không mu ốn dính dáng đ ến m ột vi ệc gì đó - m ột vấn đề nhức đầ u liên quan đến pháp
lu ật, m ột v ấn đề kinh doanh, vi ệc ch ẩn đoán ung thư c ủa mình, s ự lôi kéo c ủa gia đình - ông sẽ kiên
quyết ph ớ t l ờ nó. Chính s ự t ập trung đó đã giúp ông có thể nói không v ớ i nh ững đi ều không mong
muốn. Ông đã đưa Apple trở l ại đư ờ ng ray chính b ằng cách loại bỏ t ất c ả ch ỉ tr ừ m ột vài s ản ph ẩm
cốt lõi. Ông t ạo ra nh ững thiết bị đơn gi ản hơn bằ ng cách giảm bớ t các nút nh ấn, phần m ềm đơn
gi ản hơn bằng cách loại bỏ các tính năng và giao di ện đơn giản hơn bằng cách b ỏ bớ t đi các l ự a
ch ọn.
Jobs cũng mang kh ả năng tập trung cùng niềm yêu thích sự đơn gi ản đến vớ i vi ệc đào t ạo
Thiền của mình. Việc này mài dũa kh ả năng tr ự c đánh giá b ằng tr ự c giác, ch ỉ cho ông thấ y cách
th ức loại b ỏ b ất k ỳ th ứ gì gây cả n trở , ng ắt quãng hay không c ần thi ết, và nuôi dư ỡ ng nơi ông khi ếu
th ẩm m ỹ về ch ủ nghĩa t ối thi ểu.
Không may thay, vi ệc đào t ạo Thiền của ông không bao gi ờ mang đ ến cho ông sự bình tĩnh
hay trầm lặng n ội t ại, nhưng đi ều đó cũng lại là một trong nh ững di s ản của ông. Ông thư ờ ng mất
kiên nh ẫn và rối lo ạn - những đ ặc đi ểm mà ông không thể che giấu. H ầu hết t ất c ả m ọi ngườ i đều
có m ột b ộ đi ều ch ỉ nh gi ữ a tư duy và nh ững đi ều nói ra - th ứ đi ều tiết c ảm giác đ ộc ác và nh ững cơn
bốc đồng bảo thủ. Nhưng Jobs thì không, ông trung th ự c đến tàn nhẫn. “Công vi ệ c củ a tôi là nói ra
khi có bất kỳ đi ều gì không như mong đợ i, ch ứ không ph ải là gi ấu gi ếm, bao che nó”, ông nói.
Chính điều này khi ến ông càng trở nên thu yết ph ụ c, lôi cuốn và gợ i c ảm hứ ng, nhưng đồng thờ i
cũng, theo ngôn ng ữ k ỹ thuật, rất kh ốn nạn.
Andy Hertfeld đã nói vớ i tôi: “Có m ột câu h ỏi mà tôi thật lòng mu ốn Steve tr ả l ờ i, đó là:
Tại sao đôi khi ông lại ích k ỷ như vậ y?’” Thậm chí ngay cả các thành v iên trong gia đình cũng t ự
hỏi liệu có ph ải đơn giản là vì ông thi ếu bộ l ọc ki ề m ch ế trướ c vi ệ c gây ra những suy nghĩ mang
tính xúc ph ạm, gây tổn thương hay chủ ý ph ớ t l ờ chúng đi. Jobs tự cho r ằng đó là do sinh ra đã thế.
Nhưng tôi cho rằng ông th ật s ự có th ể t ự ki ểm soát bản thân, nếu ông mu ốn. Khi Jobs gây t ổn
thương cho m ọi ngườ i, đó không ph ải bở i ông thi ếu nh ận th ức về cảm xúc. Mà hoàn toàn ngườ i
l ại: ông có th ể quan sát và nh ận bi ết con ngư ờ i, hi ểu rõ suy nghĩ c ủa họ cũng như bi ết cách kết
thân, tán t ỉ nh hay th ậm chí là gây tổn thương cho họ theo ý mình.
S ự cáu kỉ nh, t ồi t ệ không mang cho ông điều gì tốt đẹp. Nó gây cho ông nhi ề u trở ngại hơn
là giúp đ ỡ . Nhưng đôi khi, nó cũng h ỗ tr ợ cho m ột mục đích nào đó. Nh ững nhà lãnh đạo dị u dàng
và lị ch s ự, nh ững ngư ờ i luôn chú ý tránh gây t ổn thương cho ngườ i khác, thông thư ờ ng l ại không
hi ệu qu ả trong việc thúc đẩ y sự thay đ ổi. Hàng chục đồng nghi ệp đã bị Jobs lăng m ạ tòi t ệ nhất đã
trung thực th ừ a nh ận rằng ông đã khiến họ làm đư ợ c nh ững điều mà h ọ chưa bao gi ờ nghĩ rằng
mình có thể. Và ông đã tạo ra m ột doanh ngh i ệp ních đầ y nh ững tay chơi hàng đầu.
Thiên tiểu thuy ết về chiế n công của Steve là câu chuy ện th ần thoại đư ợ c t ạ o ra và th ừa
nhận như thể hi ển nhiên t ại Thung lũng Silicon: kh ở i nghi ệp m ột doanh nghiệp trong chính gara
của bố m ẹ và bi ến nó thành công ty giá trị nhất th ế gi ớ i. Th ẳng thắn mà nói, ông không s áng t ạo ra
nhiều th ứ nhưng lại là bậ c th ầ y trong vi ệc kết hợ p các ý tư ở ng, nghệ thu ật và công ngh ệ theo
những cách thứ c mà s ẽ s áng t ạo ra tương lai. ông đã thi ết kế Mac sau khi đánh giá s ức m ạnh c ủa
giao di ện đồ họ a theo cách mà Xerox đã không th ể làm đư ợ c, và sau đó tạo ra iPod khi thấu hi ểu
ni ềm vui sướ ng c ủ a con ngư ờ i nếu có đư ợ c hàng nghìn bài hát trong chi ếc túi c ủa mình, nhưng
theo cách th ứ c mà Sony - nơi có đầ y đủ củ a cải và di sản - không th ể hoàn thành. Một s ố nhà lãnh
đạo thúc đẩ y sự c ải tiến bằng cách làm cho bứ c tranh tổng thể tr ở nên t ốt đẹ p hơn. Những ngư ờ i
khác lại làm điều đó bằng cách làm chủ những v ấ n đề chi tiết. Jobs thì làm c ả hai, liên t ục không
ngừng ngh ỉ . Kết qu ả là ông đã cho ra đờ i hàng lo ạ t s ản ph ẩm mà trong ba th ập kỷ qua đã thay đổi
hoàn toàn tất c ả m ọi lĩnh v ực:
Máy Apple II, sử dụng b ảng mạch c ủ a Wozniak và trở thành chi ế c máy tính cá nhân đầu
tiên không ph ải ch ỉ dành cho nh ững ngư ờ i có sở thích riêng vớ i máy tính.
Macintosh, chi ếc máy t ạ o ra cu ộc cách m ạng máy tính gia đình và ph ổ bi ến hóa giao diện
ngư ờ i dùng đồ họa.
Toy Story và những b ộ phim bom t ấn khác của Pixar - những b ộ phim đã mở ra s ự k ỳ di ệu
của hình ảnh k ỹ thuật s ố.
C ửa hàng Apple - tái t ạo lại vai trò c ủa m ột c ử a hà ng trong xác đ ị nh thương hiệu.
iPod - s ản ph ẩm thay đổi cách con ngư ờ i thư ở ng thức và đốt cháy âm nhạ c.
iTune Store - s ản ph ẩm cứu sống ngành công nghi ệp âm nhạc.
iPhone - th ứ đã bi ến nh ữ ng chiếc đi ện thoại di độ ng thành các thiết bị lư ớ t web, email,
video, ch ụp ảnh và nghe nh ạc.
App Store - th ứ đã tạo ra m ột ngành công nghiệp sáng t ạo nội dung m ớ i.
iPad - s ản ph ẩm khở i đầu cho dòng máy tính b ảng và giớ i thi ệu m ột nền tảng cho các loại
hình video, sách, tạp chí và báo k ỹ thuật s ố.
iCloud - s ản ph ẩm đánh bật máy tính khỏi vai trò trung tâm trong qu ản lý nộ i dung và giúp
t ất c ả các thi ết bị của chúng ta đượ c đồng bộ hóa một cách trơn tru.
Và b ản thân Apple - th ứ mà Jobs coi là sáng t ạo tuyệt đỉ nh nhất c ủa bản thân, nơi mọi s ự
tư ở ng tượ ng, khả năng s áng t ạo đều đượ c nuôi dư ỡ ng, ứng d ụng và thự c hi ện theo cách th ứ c sáng
t ạo đến m ức đã tr ở thành công ty giá tr ị nhất th ế gi ớ i.
Vậ y Jobs có th ật s ự thông minh? Không, không h ề như vậ y. Mà thay vào đó, Jobs là m ột
thiên tài. Bư ớ c nh ả y vọt đầ y sáng t ạo củ a ông xu ất phát t ừ bản năng, đ ầ y bất ng ờ và đ ầ y tính ảo
thuật. Th ực t ế, ông là m ộ t ví dụ đi ển hình của nh ững gì mà nhà toán học Mark Kac gọi là thiên tài
phù thủ y - ngư ờ i mà s ự hi ểu biết và thông hi ểu rất xu ất s ắc, đòi h ỏi kh ả năng tr ực giác nhi ều hơn là
năng lự c xử lý trí tu ệ. Gi ống như những k ẻ lái máy bay ch ỉ đi ểm, Jobs có thể “h ấp thu” tin tức,
đánh hơi đư ợ c tiếng gió và cảm nhận đư ợ c đi ều gì đang ch ờ mình phía trướ c.
Vì th ế, Steve Jobs tr ở thành nhà đi ều hành doanh nghiệp vĩ đại nh ất thờ i đ ại, ngườ i s ẽ đượ c
công chúng ghi nhớ lâu nh ất và nhi ều nh ất trong su ốt một thế k ỷ nữ a tính t ừ th ờ i điểm này. Lị ch s ử
s ẽ vinh danh ông trong đ ền th ờ những danh nhân, bên cạnh Edison và Ford. Hơn bất kỳ ai khác
trong thờ i đại c ủ a mình, Jobs đã t ạo ra nh ững s ản ph ẩm hoàn toàn cải tiến, kết hợ p sức m ạnh c ủ a
ch ất thi v ị , thẩm m ỹ vớ i hệ đi ều hành. Một chút d ữ t ợ n nơi ông khiến vi ệc làm việc cùng ông cũng
đáng lo như nh ững gì mà ông đã gợ i c ảm hứng cho họ, nhưng cũng chính vì th ế, ông cũng đã xây
dựng lên một công ty sáng t ạo nh ất thế gi ớ i, ông có th ể truy ền vào DNA của công ty tính nh ạ y cả m
đối vớ i các thiết kế, ch ủ nghĩa hoàn hảo và sáng t ạ o mà đã khi ến cho nó có đư ợ c tên tu ổi như hôm
nay, th ậm chí hàng thập kỷ sau, công ty v ẫn sẽ th ị nh vượ ng, phát triển nh ất trong sự k ết hợ p gi ữ a
tính ngh ệ thuật và công ngh ệ.
Và một đi ều nữ a...
Những ngư ờ i vi ết tiểu sử chúng tôi dườ ng như đã hoàn thành nh ững dòng cuối cùng.
Nhưng đây là tiểu sử của Steve Jobs. Mặc dù ông không thể hi ện niềm khát khao đối v ớ i việ c kiểm
soát dự án này, nhưng tôi nghi ngờ rằng mình vẫn không truyề n tải đư ợ c hế t c ảm nhận củ a bản
thân v ề ông - cách ông kh ẳng đ ị nh b ản thân trong bất k ỳ tình hu ống nào - n ế u như tôi ch ỉ để ông l ại
cho sự phân đ ị nh c ủ a l ị ch s ử mà không để ông lên ti ếng một l ờ i nào.
Trong hàng lo ạt các cuộc trao đ ổi gi ữa chúng tôi, rất nhi ều lần ông đã đề c ậ p đến vi ệc ông
hy v ọng ông sẽ đ ể l ại nh ững di s ản gì. Dướ i đây là m ột s ố suy nghĩ của ông, theo đúng nh ững gì
ông nói: “Đam mê của tôi là xây dựng một công ty bền vững, lâu dài nơi m ọi ngườ i đều đư ợ c thúc
đẩ y tạo ra nh ững s ản ph ẩ m tuyệt vờ i. T ất c ả những thứ còn l ại đều là thứ yếu. Chắc ch ắn rằng nó
phải đủ tuyệt vờ i để có th ể t ạo ra lợ i nhuận, bở i l ợ i nhuận chính là th ứ cho phép bạn tạo ra nh ững
s ản ph ẩm tuyệt v ờ i. Nhưng sản ph ẩm, không phải l ợ i nhu ận, m ớ i chính là đ ộng lực. Sculley đã mỉ a
mai những ưu tiên này rằ ng m ục tiêu cuối cùng vẫ n ch ỉ là ki ếm tiền. S ự khác bi ệt c ủa mục tiêu này
hết s ức tinh vi, m ục tiêu như th ế nào sẽ đượ c th ể hi ện trong tất c ả m ọi th ứ: nh ững ngư ờ i bạn tuyển
dụng, những ngư ờ i đư ợ c đề bạt và nh ững gì b ạn th ảo lu ận trong các cu ộ c họp.
M ột s ố ngư ờ i nói: ‘Hãy mang đ ến cho khách hàng những gì h ọ muốn’. Nhưng đó không
phải là phương pháp c ủa tôi. Công việc của tôi là ch ỉ ra đượ c nh ững gì h ọ s ẽ mong muốn trư ớ c khi
họ bi ết đượ c. Tôi nh ớ Henry Ford có lần đã nói: “N ếu tôi h ỏi khách hàng xem h ọ muốn gì, h ọ s ẽ
nói vớ i tôi ‘M ột con ngự a vớ i t ốc độ nhanh hơn’. M ọi ngườ i không biết mình muốn gì cho đ ến khi
bạn ch ỉ ra đi ều đó cho họ . Đó chính là lý do vì sao tôi không bao gi ờ dựa vào các nghiên c ứu th ị
trườ ng. Nhi ệm vụ của chúng ta là đ ọ c nh ững điều chưa có trên m ặt gi ấ y.
Edwin Land của Polaroid đã nói v ề s ự giao thoa gi ữa con ngư ờ i và khoa h ọ c. Tôi thích sự
giao thoa đó. Đó là m ột đi ều gì đó h ết s ứ c kỳ di ệu và đầ y ma thuật. Có r ất nhiều cải tiến của con
ngư ờ i, và đó không ph ải là nét đ ặc bi ệt trong sự nghi ệp của tôi.
Lý do mà Apple có đư ợ c tiếng vang đó là b ở i luôn có tính nhân văn sâu sắc trong nh ững c ải
ti ến của chúng tôi. Tôi cho r ằng những ngh ệ s ỹ xuất chúng nhất và nh ững k ỹ sư tài giỏi nh ất là
gi ống nhau, họ đ ều có khát khao th ể hi ện chính mình. Th ực t ế, m ột s ố những ngư ờ i gi ỏi nh ất
nghiên cứu máy tính Mac nguyên bản là nh ững nhà thơ, nh ạc sỹ. Nh ững năm 1970, máy tính trở
thành cách th ứ c để con ngườ i th ể hi ện sự s áng t ạo của bản thân. Những ngh ệ s ỹ vĩ đ ại như
Leonardo da Vinci và Michenlangelo đ ều rất xu ất s ắc trong lĩnh vực khoa học. Michenlangelo
hi ểu rất rõ cách khai thác đá, ch ứ không ch ỉ là cách tr ở thành một nhà điêu khắc.
M ọi ngườ i trả ti ền để chúng tôi tích hợ p m ọi th ứ cho h ọ, bở i họ không có th ờ i gian đ ể suy
nghĩ về những chuyệ n vớ vẩn này. Nếu bạn có ni ề m đam mê c ự c độ đối vớ i nh ững s ản ph ẩm tuyệ t
vờ i, đi ều đó sẽ thúc đ ẩ y bạn muốn đư ợ c tích h ợ p, kết nối ph ần cứng v ớ i ph ần m ềm cũng như qu ản
lý n ội dung của mình. B ạ n muốn phá vỡ m ột nền tảng mớ i, do đó b ạn cần tự mình thực hi ện đi ều
đó. Nếu bạn để các s ản ph ẩm của mình “mở ” đối vớ i các phần m ềm hoặc ph ần cứng khác, bạn sẽ
phải t ừ bỏ m ột s ố tri ển vọ ng c ủa bản thân. Tại một s ố th ờ i điểm trong quá kh ứ, đã có rất nhi ều công
ty trowe thành bi ểu tư ợ ng c ủa thung lũng Silicon. Đó là Hewlett-Packard trong m ột th ờ i gian dài.
Sau đó, trong thờ i đại c ủ a ch ất bán d ẫn, vị trí đó là c ủa Fairchild và Intel. Tôi nghĩ, v ị trí đó cũng
t ừng là c ủa Apple trong m ột khoảng thờ i gian và sau đó pha i nh ạt dần. Và ngày nay, tôi nghĩ đó là
Apple và Google - nghiêng v ề Apple nhi ều hơn một chút. Tôi nghĩ Apple đã tr ụ vững đượ c trong
m ột th ờ i gian dài. Đó có th ể ch ỉ là m ột th ờ i gian, nhưng nó đã v ẫn vư ợ t xa các đ ối th ủ.
Thật d ễ để “ném đá” vào Microsoft. Họ đã hoàn toàn đánh m ất v ị trí th ống tr ị của mình. H ọ
tr ở nên hầu như không còn thích h ợ p.
Tất nhiên là tôi đang đánh giá những gì h ọ làm và vi ệc đó m ớ i th ật khó khăn làm sao. H ọ
không bao giờ hoài bão như h ọ nên như v ậ y. Bill mu ốn kh ắc họa bản thân như một con ngư ờ i c ủa
s ản ph ẩm, nhưng anh ta không bao giờ đượ c như v ậ y. Anh ta là m ột doanh nhân. Kinh doanh thành
công và thắng l ợ i còn quan trọng hơn là tạo ra nh ững s ản ph ẩm tuyệt vờ i. Cu ối cùng, anh ta cũng
tr ở thành k ẻ giàu có nhất th ế gi ớ i, và n ếu đó là m ục tiêu c ủa anh ta, thì anh ta đã đạt đư ợ c nó.
Nhưng nó không bao giờ là m ục tiêu c ủa tôi, và tôi t ự hỏi, cu ối cùng liệu đó có th ật s ự là m ục tiêu
của anh ta hay không. Tôi ngưỡ ng mộ anh ta bở i công ty mà anh ta đã xây dựng - nó thật s ự ấn
tư ợ ng - và tôi thích làm vi ệc cùng anh ta. Anh ta thông minh, sáng chói và th ực sự có khi ếu hài
hướ c. Nhưng Microsoft chưa bao gi ờ có tính nhân văn và ngh ệ thuật t ự do trong DNA củ a mình.
Thậm chí ngay cả khi đư ợ c quan sát Mac, họ cũng không th ể sao chép t ốt nó đư ợ c. H ọ hoàn toàn
không th ể làm đư ợ c đi ều đó.
Tôi có học quan đi ểm riêng v ề những nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn c ủa các công ty như
IBM hay Microsoft. Công ty có m ột công vi ệ c tuy ệt vờ i, sự cải tiến và tr ở thành đ ộc quyền, lũng
đoạn ho ặc gần như thế trong một s ố lĩnh v ực, ròi sau đó chất lư ợ ng s ản ph ẩm dần trở thành thứ
yế u. Công ty b ắt đầu coi tr ọng những gã bán hàng gi ỏi, bở i họ là nh ững ngư ờ i có th ể dị ch chuyển
chiếc kim la bàn doanh thu, ch ứ không ph ải là các k ỹ sư hay các nhà thiết kế. Vì th ế, cu ối cùng
nhân viên bán hàng tr ở thành ngư ờ i điều hành công ty. John Akers của IBM là m ột nhà kinh doanh
gi ỏi, có kh ả năng hùng biện và rất thông minh, nhưng anh ta không hi ểu gì về s ản ph ẩm. Điều
tương t ự cũng x ả y ra vớ i Xerox. Khi nh ững gã bán hàng đi ều hành công ty, n hững anh chàng của
s ản ph ẩm không còn ý nghĩa gì nhiều, và phần l ớ n họ đều bị sa th ải. Đi ều đó cũng x ả y ra vớ i Apple
khi Sculley gia nhập công ty, đó là l ỗi c ủa tôi, và nó cũng xả y ra khi Ballmer tiếp qu ản Microsoft.
Apple đã may mắn và đo ạt l ại vị trí c ủa mình, nhưng tôi không cho rằng s ẽ có gì thay đ ổi t ại
Microsoft nếu như Ballmer v ẫn còn điều hành nó.
Tôi không thích mọi ngườ i t ự gọi mình là “nhà kh ở i nghiệp” khi mà những điều họ th ực sự
nỗ l ực làm là khai trương một doanh nghi ệp m ớ i và ròi sau đó bán đi, ho ặ c chào bán nó ra công
chúng, để có ti ền và ti ếp tục công vi ệc đó. H ọ không sẵn lòng làm nh ững việc cần thi ết để xây
dựng một công ty th ực sự - công vi ệc khó khăn nh ất trong th ế gi ớ i kinh doanh.
Công việc đó chính là cách b ạn đóng góp và tiếp tục phát tri ển di sản củ a nh ững ngư ờ i đi
trướ c. B ạn xây d ựng m ột công ty mà s ẽ đứng v ững trong một ho ặc 2 thế hệ nữa kể t ừ th ờ i điểm bây
gi ờ . Đó chính là nh ững gì Walt Disney đã làm, và Hewlett - Packard và cả những ngư ờ i đã xây
dựng Intel. Họ đã tạo ra m ột công t y vớ i m ục tiêu trư ờ ng tòn, ch ứ không ph ải là để ki ếm tiền. Đó
cũng chính là nh ững gì mà tôi muốn Apple trở thành.
Tôi không nghĩ r ằng mình đã đi ều hành theo phương thức chà đ ạp, ức hi ếp m ọi ngườ i,
nhưng nếu có đi ều gì đó x ả y ra, tôi s ẽ tr ự c tiếp nói thẳng th ắn vớ i họ. Công vi ệc của tôi là trung
th ực. Tôi hiểu rõ nh ững gì mình nói và hóa ra tôi l ại thư ờ ng đúng. Đó là n ền văn hóa mà tôi đã n ỗ
l ực t ạo ra. Chúng tôi hoàn toàn trung th ự c vớ i nhau, và b ất kỳ ai cũng có thể nói vớ i tôi rằng h ọ
th ấ y tôi hoàn toàn k hốn nạn, đểu gi ả và tôi cũng có th ể nói vớ i họ những điề u tương t ự. Và chúng
tôi đã có nh ững cuộc tranh lu ận nả y l ử a, gần như quát tháo vào m ặt nhau, nhưng đó lại là một trong
những kho ảng thờ i gian tuy ệt vờ i nh ất mà tôi có. Tôi c ảm th ấ y hoàn toàn thoải má i khi nói “Ron,
cái c ửa hàng đó trông như c ứt ấ y” trướ c m ặt ngườ i khác. Hoặc tôi có th ể nói: “Chúa ơi, chúng con
th ật s ự điên đầu vớ i việc thi ết kế k ỹ thuật cái th ứ này” trướ c m ặt ngườ i ch ị u trách nhiệm vấn đề k ỹ
thuật. B ạn cần là ngườ i siêu trung th ự c. Có th ể có m ột cách th ức t ốt hơn thể hi ện nh ững điều đó,
ch ẳng h ạn như một câu l ạc bộ củ a nh ững ngư ờ i đàn ông nơi t ất c ả chúng ta đều th ắt cà vạt và nói
th ứ ngôn ngữ Bà-la -môn thượ ng đ ẳng cũng như hiểu rõ nh ững t ừ mã hiệu, nhưng tôi không bi ết
cách đó, bở i tô i là t ầng l ớ p bình dân đ ến từ California.
Đôi khi tôi cũng đã quá khó khăn và khắt khe v ớ i mọi ngườ i, có th ể là khó khăn hơn nh ững
gì cần thi ết. Tôi nh ớ khi Reed m ớ i 6 tuổi, tôi v ề nhà sau khi sa th ải m ột s ố ngư ờ i, tôi đã hình dung
m ột ngườ i trong số họ s ẽ về nhà và nói v ớ i gia đình cũng như đ ứa con trai nh ỏ của mình rằng anh
ta đã b ị m ất vi ệc như thế nào. Đó thật s ự là m ột vi ệc khó khăn. Nhưng m ột s ố ngư ờ i ph ải làm việ c
đó. Tôi đã cho rằng công việc củ a tôi là đảm bảo rằ ng nhóm làm việ c ph ải luôn là xu ất s ắc, và n ếu
tôi không làm đi ều đó, s ẽ không ai làm cã.
Bạn luôn ph ải luôn thúc đẩ y sự cải tiến. Dylan có th ể hát mãi những bài ca ph ản kh áng,
ch ống chiến tranh và ki ế m đượ c r ất nhi ều tiền, nhưng anh ta đã không làm vậ y. Anh ta ph ải tiến bộ
hơn nữa, và khi thực hi ện đi ều đó, b ằng cách s ử dụ ng các âm thanh đi ện tử năm 1965, anh ta đã
khiến rất nhi ều ngườ i t ứ c giận. Tour di ễn quanh châu Âu của an h ta năm 1966 rất tuy ệt vờ i. Anh ta
đã đ ến và chơi nh ững b ả n ghi-ta thính âm, và t ất nhiên khán gi ả rất hài lòng. Sau đó, anh ta gi ớ i
thiệu ban nhạ c có tên The Band, và họ cùng s ử dụng các nh ạc cụ b ằng đi ện, vì th ế đôi khi khán gi ả
l ại la ó phản đối. Có khi anh ta hát “Like a Rolling stone” và m ột khán gi ả la lên “Judas” thì Dylan
s ẽ nói “Hét to nữa nào” và họ s ẽ làm như v ậ y. The Beatles cũng làm như v ậ y. H ọ ti ếp t ục tham gia,
ti ến lên và chắt l ọc hơn n ữa nghệ thuật c ủ a mình. Đó cũng chính là những gì mà tô i nỗ l ực theo
đuổi, th ực hi ện - luôn luôn ti ến lên.
Vậ y đi ều gì đã th ật s ự thúc đ ẩ y tôi? Tôi nghĩ h ầu hết nh ững ngư ờ i s áng t ạo đều muốn th ể
hi ện sự đánh giá cao đ ối vớ i nh ững l ợ i ích từ công trình c ủa các thế hệ đi trướ c. Tôi không phải là
ngườ i s áng t ạo ra ngôn ngữ hay môn toán học mà mình đang sử dụng. Tôi cũng t ạo ra rất ít thực
phẩm cho bản thân, và không m ột chút đóng góp nào cho nh ững trang ph ụ c đang m ặc. T ất c ả m ọi
th ứ đều ph ụ thuộc vào các thành viên khác trong cộng đồng của chúng ta và những “đôi vai” kh ổng
lò khác mà chúng ta đang đ ứng lên trên. Rất nhi ều ngườ i trong chúng ta mu ốn đóng góp cho c ộng
đồng, đồng lo ại và bổ sung hơn nữa cho dòng ch ả y công trình của chúng ta. Đó là sự th ể hi ện theo
cách th ức mà tất c ả chúng ta đều biết - bở i chúng ta không th ể vi ết nh ững bài ca của Bob Dylan hay
những v ở kị ch c ủa Tom Stoppard. Chúng ta nỗ l ự c sử dụng tài
năng c ủa mình đ ể th ể hi ệ n sự đánh giá đ ối vớ i đóng góp c ủa các thế h ệ đi trướ c và bổ sung
thêm một vài đi ều gì đó vào dòng ch ả y chung ấ y. Đó chính là nh ững thứ đã thúc đ ẩ y tôi.
Đoạn cu ối
Vào một bu ổi chi ều đầ y nắng, khi không kh ỏ e l ắ m, Jobs ngồi trong vư ờ n và nghĩ ng ợ i về
cái chết. Ông nói v ề nhữ ng tr ải nghi ệm của mình tại Ấn Độ 40 năm trướ c, nh ững nghiên c ứu củ a
bản thân về Phật giáo và quan đi ểm về vi ệc đầu thai chuyển ki ếp cũng như nh ững điều siêu tưở ng
của tâm linh. “Tôi đã sống 55 năm trong ni ềm tin v ớ i Chúa”, ông nói “Tôi luôn c ảm th ấ y rằng có
quá nhi ều đi ều cần làm khi sống hơn là khi xuôi tay nh ắm m ắt.”
Ông th ừ a nh ận, khi đối di ện vớ i cái ch ết, rằng có thể ông đã quá tin tư ở ng vào cu ộc sống
sau cái ch ết “Tôi luôn mu ốn nghĩ rằng s ẽ có s ự s ố ng sau cái chết,” ông nói. “Th ật kỳ l ạ khi nghĩ
rằng b ạn tích lũy đượ c t ấ t c ả những k inh nghi ệm này, dù có thể có r ất ít trong đó là s ự thông thái,
và ròi t ất c ả l ại theo b ạn ra đi. Vì th ế, tôi th ự c sự muốn tin rằng có s ự s ống sau cái chết, dù đó có thể
ch ỉ là s ự t ồn tại ý thứ c củ a bạn.”
Ông im lặng một lát rồi nói “Nhưng ngượ c l ại, có th ể nó giống như m ột chi ếc công tắ c
t ắt -bật. Ấn nút! Và thế là b ạn ra đi.”
Sau đó ông lại ng ừng mộ t lát và m ỉ m cườ i “Có thể đó là lý do t ại sao tôi không bao gi ờ
thích đ ặt nh ững công t ắc bật -t ắt trên các thi ết bị củ a Apple”.
Chú thích
FireWire là tên thương h i ệu của hãng Apple cho chu ẩn giao tiếp lEE 1394 (bao gồm tất c ả
các chu ẩn giao tiếp lEE 1394) đượ c Apple phát triển cùng các k ỹ sư c ủ a Texas Instruments, Sony,
Digital Equipment Corporation, IBM và INMOS/SGS Thomson và gi ớ i thi ệu ra công chúng năm
1995. Nó đượ c hi ểu như một giao tiếp mang tính chuẩn m ực trên các thiết bị s ố.
FireWire đư ợ c hiểu là đư ờ ng truy ền dữ li ệu t ốc độ cao và giao tiếp song song (vì thế không
ngốn tài nguyên b ộ nhớ và CPU trong quá trình truyề n dữ li ệu). Dữ li ệu đư ợ c truyền t ải v ớ i mật độ
cao t ại cùng m ột thờ i điể m và liên tục. Phương th ứ c này đượ c dùng ph ổ bi ến trong các thi ết b ị nghe
nhìn k ỹ thuật s ố, máy tính cá nhân cao c ấp.
FireWire là chuẩn thay thế tuyệt v ờ i c ủa giao tiếp Parallel SCSI danh ti ếng c ủa Apple trướ c
đây. V ớ i 6 đư ờ ng cáp riêng bi ệt, cung c ấp tớ i đi ện áp 30 vol và công su ất 40w, vì vậ y m ột s ố thiết
bị s ử dụng giao ti ếp này không c ần hỗ tr ợ nguồn (công suất nh ỏ) và hỗ tr ợ cho t ất c ả các hệ đi ều
hành hi ện có trên th ị trườ ng máy tính (tr ừ những h ệ đi ều hành phát tri ển nhưn g không mang m ụ c
đích thương m ại).
STEVE JOBS – 1955 - 2011
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com