Thực tiễn QLQHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở VN hiện nay
1, Thời kì trước đổi mới (trước 1986)
Trước thời kì đổi mới nước ta nước ta có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp và sự thể hiện quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX biểu hiện cụ thể:
+Nước ta đã thiết lập một chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách ào ạt, trong khi đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển LLSX (vi phạm tính lịch sử cụ thể).
+ Đồng thời, trong quá trình cải tạo nền sản xuất chỉ tập trung cải tạo QHSX, chủ trương xây dựng QHSX tiến bộ mở đường cho LLSX phát triển (đi ngược lại với quy luật QHSX phù hợp với phát triển của LLSX).
Thực tế vận dụng quy luật này cho thấy chúng ta đã quá coi trọng vai trò của QHSX và cho rằng có thể đưa QHSX đi trước để mở đường, thúc đẩy LLSX cùng phát triển. Việc áp dụng quan niệm ấy là hoàn toàn sai lầm, minh chứng cho điều đó là LLSX trong thời gian qua thấp kém, QHSX được duy trì ở trình độ quá cao. Từ đó làm mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển LLSX với hình thức kinh tế - xã hội được áp đặt một cách chủ quan trên đất nước ta. Mâu thuẫn đó đã để lại nhiều hậu quả nặng nề cho nền kinh tế nước nhà: kinh tế chậm phát triển, sản xuất trì trệ, . Nhà nước thiếu vốn đầu tư cho nền kinh tế, hàng tiêu dùng thiếu trầm trọng,..
Qua đó, ta có thể thấy một thực tế của việc làm trái quy luật đã gây ra hậu quả nặng nề cho nền kinh tế đất nước là rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Như vậy, QHSX không phù hợp với trình độ LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển của LLSX.
2, Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay
a,Trình độ phát triển của LLSX ở VN hiện nay: .
-Thứ nhất, là trình độ của người lao động: đã được nâng cao rõ rệt và không ngừng tăng cao, Người lao động năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó,...kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người VN cũng khác nhau: có kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động cơ khí, máy móc, có kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động đối với máy móc hiện đại, tự động hóa,... Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ở Việt nam hiện nay đã có nhiều tiến bộ. Qua đó, cho thấy trình độ chuyên môn tay nghề của lao động nước ta đang có những chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cũng như đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.
-Thứ hai, là trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn so với thời kì trước đổi mới cụ thể:
+ Công cụ lđ hiện đại hơn với sự đầu tư, mua mới nhiều máy móc, công cụ hiện đại vào trong quá trình sản xuất góp phần làm cho năng suất lao động tăng cao, giảm bớt được chi phí sức lao động. Điển hình, trước thời kì đổi mới chúng ta sử dụng trâu, bò để cày, máy móc đưa vào sản xuất còn hạn chế và thô sơ. Nhưng đến giai đoạn hiện nay, đã được thay bằng máy cày,...việc sản xuất đã được trang bị bởi một hệ thống máy móc hiện đại nhập khẩu từ nước ngoài góp phần làm cho nền kinh tế đất nước phát triển nhanh.
+ Đối tượng lđ hiện nay cũng hiện đại hơn rất nhiều: nếu trước đây với nền văn minh nông nghiệp thì đối tượng lđ chủ yếu là ruộng đất còn trong giai đoạn hiện nay, với nền văn minh cơ khí thì đối tượng lao động được mở rộng với các nguyên liệu như: than đá, chất đốt, dầu khí,...Tất cả tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng hiện đại của lực lượng sản xuất
b,Những QHSX đang được xây dựng và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển của LLSX QHSX chúng ta thiết lập và xây dựng hiện nay là QHSX trong nền kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là QHSX xã hội chủ nghĩa tiến bộ vì nó hơn hẳn QHSX phong kiến và QHSX tư bản chủ nghĩa ( có bản chất bóc lột và ngày càng tỏ ra lỗi thời không phù hợp với lịch sử). Và QHSX xã hội chủ nghĩa sẽ dần xóa bỏ áp bức bóc lột đưa mọi thành viên trong bộ máy sản xuất và cả xã hội đến ấm no, hạnh phúc.
- Đa dạng hóa các hình thức sở hữu: Do trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay đa dạng, không đồng đều, nhiều trình độ do đó nước ta phải xây dựng một QHSX phù hợp. Cùng với tiến trình xã hội hóa lực lượng sản xuất do công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại, con đường cơ bản của sự phát triển
Các hình thức kinh tế quá độ để chuyển tư hữu thành công hữu là rất đa dạng. Thực tiễn cuộc sống và sự phát triển tư duy lý luận sẽ ngày càng bổ sung thêm những hình thức mới. Cho đến nay chúng ta có thể khẳng định, để chuyển tư hữu thành công hữu không chỉ bằng con đường tịch thu, quốc hữu hóa hay bằng chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà còn có thể bằng phát triển rộng rãi các hình thức của kinh tế hợp tác, các công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế của những người lao động làm chủ, liên doanh, liên kết. Đa dạng có nghĩa là chúng ta xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu nhà nước giữ vị trí chủ đạo và then chốt trong nền kinh tế quốc dân. Điều này hoàn toàn phù hợp với LLSX ở nước ta hiện nay. Quan hệ sở hữu đang ngày càng tiến bộ vì nó đang vận hành theo hướng hạn chế đến mức tối thiểu những tiêu cực trong quá trình sản xuất và phấn đấu đi đến xóa bỏ áp bức bóc lột đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: trải qua thời kì chiến tranh nước ta đã và đang từng bước vượt qua khó khăn, hoàn thiện tiến dần tới sự tiến bộ và phù hợp. Nếu trước kia chúng ta chỉ công nhận sự tồn tại của hai thành phần kinh tế: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Một ví dụ minh chứng cụ thể cho sự tồn tại của thành phần kinh tế cũ này là: ở nước ta tồn tại mô hình hợp tác xã, mô hình này trước thời kì đổi mới là các hợp tác xã mang tính chất ép buộc ( buộc mọi người vào làm trong hợp tác xã), tính công theo ngày không quan tâm tới năng suất, hiệu quả, tinh thần trách nhiệm của mọi thành viên trong hợp tác, cũng như lợi ích của người lao động, công cụ lao động thủ công nên người này chăm chỉ, người khác vẫn có thể lười biếng. Từ thực trạng tiêu cực đó nước ta không thể duy trì hai thành phần kinh tế đó nữa mà cần có sự đa dạng, mở rộng với việc công nhận thêm các thành phần kinh tế khác: thành phần kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước nhằm tạo ra sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế và giữ được sự ổn định về chính trị, gắn với công bằng xã hội
III, Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng đúng đắn quy luật này ở Việt Nam
- Không ngừng phát triển LLSX thông qua việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục, đào tạo.
- Không ngừng xây dựng và phát triển các QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thông qua việc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường.
- Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. - Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com