Chương 2: Bái
"Duyên trời ép gả cho rồi,
Ngờ đâu trói chặt hai đời vào nhau."
Ngày nào tôi còn mơ tưởng viễn vông, nghĩ bụng chắc mai này được làm lẽ cho cậu Hai Bình. Chớ tôi thân trai nghèo, trên răng dưới dái, sao dám mơ mộng làm chánh thất của cậu, tôi đâu có kham nổi.
Vậy mà nay, khi tôi vừa tròn mười tám, cậu Ba Hanh cũng sắp sửa hai mươi, lại thành ra hai đứa về chung một nhà, ai nghe cũng muốn bật ngửa té ghế. Người ta nói nhau rần rần ngoài chợ:
"Cái thằng Quốc đó nghen, cái đứa chua ngoa, miệng mồm bén như dao, vậy mà coi bộ có giá dữ à nhen."
Mấy đứa học trò cùng lớp tôi ở nhà ông đồ Phạm lúc đó, đứa nào đứa nấy cũng lanh mồm lẹ miệng, cứ hay chọc ghẹo. Bọn nó cứ kháo nhau rằng:
"Hai người đó học riết mà chưa bữa nào thấy nói với nhau được một câu tử tế."
"Cái thằng Quốc thì cứ liếc con mắt nửa tròng, gặp cậu Ba Hanh là mặt nặng mày nhẹ."
"Còn cậu Ba, trời ơi, nói cái gì cũng lấp lửng bóng gió, như rót nước đường vô câu chữ mà là để rót cho kiến chết chứ hổng phải rót người ta nghe ngọt ngào."
Thiệt ra không phải không nói chuyện, mà mỗi lần mở miệng là cậu Ba xéo tôi bằng mấy câu nhẹ tênh mà thâm thuý.
Tôi vốn con nhà nông chuyện học hành cũng để chỉ cho biết, chứ nhà tôi chẳng có ai có bụng chữ nào cả. Bởi vậy tôi chậm tiêu dữ lắm, mấy con chữ thầy dạy rồi nhưng tôi có nhớ nhung gì đâu, cậu Ba ngó tới rồi khẽ nói:
"Người đọc chữ mà không ngấm, khác chi kẻ mặc áo gấm mà đi cày."
Mấy lời đó nghe thì chẳng động chạm gì, nhưng ai có hiểu chữ nghĩa thì thấm tận gan.
Bữa nọ, cậu Ba ngồi gò lưng viết, tôi bước tới vấp trúng cái bàn, cậu không ngẩng đầu, chỉ hờ hững buông:
"Người mà cái dáng cũng không giữ được cho đoan, thì mai sau cũng khó mà có ai dòm tới."
Mấy đứa học trò nghe xong thì cười bò, ông đồ thì lắc đầu cười khổ.
Còn tôi không thèm nói nữa. Thấy con Mực nằm xoãi trước sân, tôi chẳng buồn gọi tên, chỉ búng tay cái "chéc!", rồi chạm ngón trỏ vào chóp mũi cái là nó hiểu phóc, chồm dậy chạy lại.
Con Mực nó khôn lắm, ông đồ mang nó về nuôi vì sợ tụi bặm trợn ngoài đường bắt giết nó. Người ta bảo máu chó mực để trừ tà rất hiệu nghiệm.
Cả cái chỗ này ai cũng thân với tôi, kể cả con chó chỉ duy nhất cậu Ba là một ngoại lệ.
Mà có ai ngờ đâu, cái người tôi hoạnh hoẹ, sau này lại là người rước tôi về làm chồng, rước cả nết chua lòm của tôi về.
Chuyện cưới hỏi cũng đâu phải giỡn chơi. Đích thân bà Hai, má cậu Hanh qua tận nhà tôi thưa chuyện, hỏi cưới đàng hoàng.
Lễ cưới linh đình, hồi môn đem theo gần mười cây vàng, đủ để má tôi sửa cái mái dột, lo thuốc men cho tía, lại còn dư để tôi lên nhà ông đồ học chữ tiếp. Nhưng có chồng rồi tôi đâu có đi học tiếp được, má dặn tôi phải phụ bà Hai trông coi nhà cửa.
Tôi cũng đâu mấy ham học, nghe được nghỉ liền sáng rỡ đôi mắt.
Mà cũng tại ông thầy bói, ổng phán cậu Ba yểu mệnh, khó lòng qua khỏi tuổi hai mươi nếu không cưới người hợp tuổi, hợp mệnh về trấn mạng. Ổng coi tới coi lui, rốt cuộc chỉ mặt tôi cái đứa ngỗ nghịch từ nhỏ, nói tôi với cậu hợp tuổi, hợp vía.
Vậy là tôi đường đường chính chính bước chân vô nhà họ Kim, không phải làm người hầu, chẳng phải làm lẽ, mà là chính thất của cậu Ba Hanh. Nói ra người ta cười chớ lòng tôi thì vừa ngỡ ngàng, vừa run, vừa không biết cậu Ba nghĩ gì trong bụng nữa...
Cậu sẽ đối đãi với tôi đầy chán ghét, ó đăm như trước đây cậu hay làm sao?
____
Cậu Ba điềm đạm, ít nói, chưa bao giờ cãi lời bề trên, chưa từng ngó nghiêng đàn bà con gái quá ba lần. Cậu Ba giống như khuôn vàng thước ngọc, cái gì cũng phải đúng, mà phải đúng theo lệ nhà họ Kim.
Cái nhà họ Kim đó, ôi thôi đủ thứ nghi thức rườm rà, mỗi cái lễ cưới thôi mà hành Quốc muốn chớt. Hết quỳ rồi lạy, hết khấn vái rồi cúi đầu, chỉ thiếu điều bắt Quốc trèo lên mái nhà hái trầu mới đủ bộ.
Má chồng ngồi chễm chệ trên bộ tràng kỷ gõ gõ cây quạt mo lên đầu gối, phe phẩy hờ hững, mà con mắt bà thì sáng như soi thóc.
Nói nào ngay, mấy chục năm làm chủ vựa lúa, gặp đủ kiểu người, hễ ai đứng lệch, quỳ trật, gồng không đúng chỗ, là bà biết liền. Bà dòm Quốc từ đầu tới chân, thấy quỳ chệch hẳn một bên, liền liếc xéo một cái bén như dao cạo.
Cậu Ba thì đứng sừng sững bên cạnh, im ru bà rù như tượng đất, tay chắp sau lưng, mặt nghiêm như đi chầu vua, hổng dòm Quốc tới nửa con mắt.
Nghi lễ trong phủ nhà họ Kim xưa giờ vẫn vậy. Vừa rước dâu xong là phải làm lễ bái tổ, trước bàn thờ tổ tiên bày cả một mâm của quyền, trà rượu đầy đủ. Lạy ông bà, rồi lạy cha mẹ chồng thể hiện lòng tôn kính, cam lòng học đạo làm con hiền.
Cuối cùng là đối bái, tức hai người quay vô nhau, cúi đầu cùng lúc. Người xứ này tin lắm cái tục truyền: ai cúi đầu thấp hơn là thương người kia nhiều hơn. Mà bà Hai, má chồng Quốc thì càng tin dữ thần. Tin đến độ dặn dò kỹ Quốc:
"Đừng có để thằng Hanh cúi thấp hơn nghen, mất mặt dòng họ. Nhà này, con trai họ Kim không cúi đầu trước ai hết."
Bà Hai nói vậy nên Quốc biết ý, định bụng cúi vừa phải cho đúng lệ cho vừa cái lòng nhà này, chứ mấy chuyện này với Quốc cũng chẳng ăn nhầm hay mất gì.
Khi ông bá Kim lên tiếng dõng dạc:
"Giao bái đi."
Thì không khí cả gian chính điện nghiêm trang như đình làng ngày tế tổ. Mấy đứa gia nhân nín thở, người làm công đứng sau xúm tụm nhau coi như coi hát.
Quốc hơi cúi đầu, nghiêng người một góc vừa phải, rồi đứng đó nín thinh. Cậu Ba thì vẫn đứng trơ trơ, mặt nghiêm thấy ớn. Ai cũng ngỡ cậu không thèm cúi, không chịu bái.
Bà Hai thấy vậy hả dạ lắm, còn chưa kịp gật gù thì quay qua rầy:
"Cúi vậy ai coi được! Gồng cứng như trâu đất, người ta tưởng bị trói đem vô nữa à!"
Quốc quê một bụng, ngước lên dòm chồng. Cậu Ba chẳng nói câu nào, đột nhiên co giật chân như bị đạp trúng gai rồi quỳ xuống đất, đầu cúi rạp chạm nền gạch, một lạy tròn trĩnh tới nơi tới chốn, không thiếu một chút cung kính nào.
Trước mặt ông bà bá, đầy tớ hầu hạ, rồi đám thợ cuốc thợ cày hóng chuyện đứng lố nhố ngoài sân là hình ảnh cậu Ba Kim Thái Hanh, người trầm lặng, nghiêm khắc, con trai nhà bá hộ đang dập đầu cúi lạy dưới chân Điền Chính Quốc.
Không ai nói tiếng nào, tiếng tim Quốc chợt đập mạnh như trống làng. Người dòm người ngó, bà Hai há hốc miệng muốn chửi lắm rồi.
Xong cái cú quỳ gây động đất, chưa ai kịp định thần, cậu Ba đã ung dung đứng dậy, phủ nhẹ tay áo, mặt tỉnh rụi như thể nãy giờ không có gì xảy ra.
Giữa bao ánh mắt trố mắt nhìn, cậu Hanh thản nhiên buông một câu:
"Té chớ bộ...chớ ai cúi thiệt."
Nói xong còn lơ đãng thổi nhẹ lớp bụi tưởng tượng trên ống tay áo, rồi điềm nhiên trở về vị trí, chắp tay sau lưng đứng lại y chang cũ, như tượng chưa từng động.
Quốc tự dưng thấy hai vành tai mình nóng ran, mặt đỏ tưng bừng như vừa uống cả bầu rượu nếp.
Quốc không biết nên giận, nên cảm động hay nên đấm một cái cho bõ tức. Rõ ràng cậu Ba biết mình sẽ bị nói ra nói vô nếu lạy thấp hơn.
Giây phút đó, trong lòng Quốc như có cái gì đó chảy mềm xuống. Cảm giác quen thuộc, thân thương, giống như hồi nhỏ trốn học bị bắt gặp, rồi được mẹ cười xòa tha cho.
Quốc lén nghiêng đầu nhìn sang cậu Ba, người đàn ông đang đứng nghiêm, hai tay sau lưng, mặt lạnh như sương sớm, nhưng cái trán vẫn còn in đỏ dấu nền gạch tàu.
_______
Trước cái bữa đám cưới, Quốc dọn bớt đồ đạc trong phòng ở nhà tía má ruột, má Quốc rơm rớm dạy biểu đứa con non dại:
"Vô nhà người ta thì phải biết trên biết dưới. Nhà chồng là nơi mình sống tới già, phải trông coi quán xuyến cho ra dáng, đừng có đem cái nết đanh đá ở nhà qua bên đó. Nhớ nghen, chồng là trụ cột, dẫu nó có nạt nộ cỡ nào cũng phải lựa lời mà nói lại, chớ có hất hàm trợn mắt với người ta."
Quốc cười, không đáp. Nhưng tới khi má quay lưng, Quốc mới khẽ gật đầu, cắn môi nuốt hết những phản bác vô bụng. Quốc ngồi bên mé giường, tay lần lần sợi chỉ đỏ nằm dưới gối, cái sợi dây của cậu Hai Bình cho Quốc.
Sợi dây màu đỏ tươi như vầy sao lại mang cái nét buồn thăm thẳm vậy? Quốc buồn vì cậu Hai không rước mình sao? Hay buồn vì cậu Hai đi biền biệt nhiều năm đến giờ vẫn chưa về?
Hay Quốc buồn gì một thứ gì khác?
Nay lấy chồng, Quốc sợ lạc mất sợi dây bình an, nên cẩn thận xếp nó vô cái hộp gỗ nhỏ.
Mở hộp ra, dưới lớp vải màu cũ kỹ, còn có một món nữa: sợi dây dâu tằm nhỏ xíu, đã sờn chỉ. Nhìn nó, Quốc khựng người.
Đó là của cậu Ba.
Hồi đó...
Quốc mới chừng bảy tuổi, nhỏ xíu, tóc tai rối bù, tay dắt tay má ra chợ lớn mua lan. Mới dạo chừng hai sạp, Quốc đã bị hoa lan thu hút quên cả lối về. Nhưng rồi ánh mắt cậu va vô một đứa nhỏ bụ bẫm được dì Tư bán rau bồng trên tay. Tay đứa nhỏ có đeo sợi dây dâu tằm đỏ đỏ, đính thêm hột nhỏ lủng lẳng.
Quốc nhìn cái dây mà mê mẩn. Mặt sáng trưng, Quốc kéo áo má:
"Má, má, con muốn đeo dây giống nó."
Má Quốc vừa lựa lan, vừa liếc:
"Dây đó cho con nít đeo trừ gió. Con lớn đầu rồi, đeo vô coi sao được. Kỳ cục quá à."
Nhưng Quốc hổng chịu, xụ mặt, dậm chân rấm rứt. Mới đầu còn im, sau khóc lớn giữa chợ. Mấy bà bán hàng lân cận nghe động còn tưởng cướp giựt gì. Má quê quá, gắt:
"Khóc cái gì! Lớn rồi mà ham mấy cái tầm bậy, má đánh cho giờ!"
Dì Tư ngồi bán rau gần đó cười nắc nẻ:
"Trời đất ơi, cái mặt già quán trọ chắc người ta không thèm hỏi tuổi luôn mà đòi đeo dây trừ gió. Nè, dì hái cho nắm rau thơm đeo chơi nha!"
Nghệ thuật phóng đại của bà con xứ quả thực là phong phú. Đang cười, dì Tư bỗng ngừng lại, nghiêng đầu liếc người đứng sau sạp. Là cậu Ba Hanh, lúc đó cũng chỉ lớn hơn Quốc vài tuổi, mặc bộ đồ vải nâu, tay ôm giỏ tre, đang lựa rau cần.
Cậu Ba vừa ngoan vừa giỏi hết phần thiên hạ. Nhà Hanh vốn bao ăn cho người làm nên mỗi sớm cậu Ba đều ghé chợ mua đồ ăn cho họ, mới có tí tuổi đầu mà được việc dữ lắm.
"Ủa, nay cậu Ba đi chợ à? Mua rau gì vậy?"
Cậu Ba chưa kịp trả lời, dì Tư đã quay lại phía Quốc, chỉ tay chọc quê:
"Cậu thấy không, nó lớn đầu rồi mà còn nhõng nhẽo. Đòi đeo dây dâu tằm bị má nó chửi cái khóc giữa chợ luôn kìa!"
Cậu Ba không nói gì liền, chỉ đứng đó, tay vẫn cầm bó rau chưa kịp lựa, ánh mắt lướt ngang cái mặt đang sưng sỉa vì quê của Quốc. Quốc lấy tay áo quẹt quẹt nước mắt, mặt đỏ như gấc, tròng trành trốn sau lưng má, chỉ thiếu điều đào lỗ chui cho đỡ nhục.
Vậy mà không hiểu sao, cậu Ba bỗng lên tiếng, giọng nhát gừng:
"Đấy mà ngoan...tôi xâu cho một sợi."
Quốc tưởng lộn tai. Ngước phắt lên, thấy cậu Ba đã quay đi, chỉ còn cái lưng áo nâu nhạt đang lùi dần về phía chỗ bà bán cái đối diện.
Cậu Ba gì mà lạ, chẳng bao giờ nói dư một chữ, vậy mà lại mở miệng hứa xâu dây cho Quốc, chỉ vì thấy người ta khóc đòi giữa chợ. Quốc đứng đơ ra, hai má vẫn còn nóng hừng, nhưng bụng dưới thì nhoi nhói như có con gì chạy qua.
Dì Tư bán rau nghĩ đơn giản là vì cậu Ba Hanh sợ Quốc làm phiền chỗ buôn bán nên hứa đại hứa càng.
Nào ngờ đâu...
Năm Quốc mười ba tuổi, một lần Quốc ôm nhầm cậu Ba, không nhớ là vì nguyên do gì nhưng sau hôm đó, ở nhà ông đồ cậu Ba đã đặt sợi dậy tằm ăn cỡ lớn lên cái bàn học tre của Quốc mà chẳng nói chẳng rằng.
Chắc có lẽ vì sau bao năm ngỗ nghịch, cậu Ba đã thấy Quốc ngoan sao?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com