Chương 31: "Nhà" của cậu Ba
Con Chi không nghĩ ngợi được gì nữa. Chân nó tự động quay đầu, phóng ra sau hè, nơi có bóng thím Bảy đang ngồi thẫn bên sàn nước.
Thím Bảy thở dài, mắt đục ngầu. Chay mặn, chung quy cũng là cái bụng mỗi người. Ai ăn sao miễn không trái với đạo đức là được. Nhưng bà Hai đâu có nhìn vậy? Bà không cần biết Quốc vì thương chồng, vì biết cậu Ba mấy bữa nay thức khuya dậy sớm, vừa trông kho vừa lo làng, mà cố nấu nướng đem chút đồ mặn vô phủ. Bà chỉ chực có cớ, chỉ cần một vết nhỏ là làm lớn lên như tội tày trời. Đày đọa cho đã.
Con Chi quỳ sụp trước mặt thím Bảy, nước mắt nước mũi hòa lẫn:
"Thím...thím cứu cậu Quốc đi...Thím làm ơn..."
Nó nấc lên, tay túm chặt vạt áo nâu sòng của thím như bấu víu lấy chút hy vọng cuối cùng.
"Cậu bị nhốt rồi, nhốt trong cái buồng trống gian nhà sau á...Đợi tới canh một là dắt cậu đi...đi tới cái đền Thất Diêm á thím! Cái đền đó bỏ hoang lâu rồi, lạnh lắm...rừng cây mọc rậm rạp, dân trong xóm cũng không dám bén mảng."
Nó líu lưỡi vì khóc, mắt rơm rớm, giọng khẩn thiết:
"Ông thầy pháp đó...con sợ...con sợ ổng giết cậu luôn á thím ơi. Ai đời người sống sờ sờ mà bị khiêng đi như ma quỷ nhập tràng vậy đâu?"
Cậu Quốc không phải người đoan trang quyền quý gì cho cam, nhưng lại là người biết thương người. Thương Chi như em gái ruột. Hễ đi đâu với cậu Ba về cũng dúi cho nó cái bánh, cái kẹo, dặn ăn lẹ kẻo bà Hai thấy. Mỗi lần bếp còn dư chút thịt, cậu lén gói lại, giấu trong thùng hạt giống của ông Kim, đợi nó tới bếp mới khẽ dúi vào tay, biểu ráng ăn vô cho hồng da, có sức.
...
Tiếng trống vọng lại từ phía đình làng như lời nhắc. Trời sắp tối, thời gian không còn nhiều.
Rồi đột nhiên, ánh mắt thím Bảy chớp lên một tia sáng. Như nhớ ra điều gì. Thím khẽ cúi xuống, thì thầm sát tai con Chi một câu rất nhỏ, rất gấp mà vừa nghe xong, mắt con Chi tròn xoe, gật đầu lia lịa rồi phóng đi như tên bắn. Cát bụi tung mù sau gót. Thím chắp tay lạy một lạy thật sâu, miệng lầm rầm niệm Phật.
"Chị Huệ...em xin chị! Chị mở cửa cho anh Tèo đi..."
Tiếng con Chi run rẩy giữa bóng tối cuối năm, khẩn khoản như dốc hết gan ruột ra van lạy. Nó đứng trước gian bếp âm u, nơi con Huệ đang nép mình ở một góc, tay siết chặt chùm chìa khoá giấu sau lưng.
Chẳng biết từ lúc nào, Quốc đã bị người ta dắt đi rồi. Chỉ còn thằng Tèo, đứa rõ nhất cậu Ba đi hướng nào, đang bị nhốt trong kho. Mà kẻ cầm chìa khoá...lại chính là con Huệ.
Con Huệ vẫn lặng thinh. Cái im lặng của nó không phải do lạnh lùng, mà là do tay đang run lên vì sợ, vì giằng xé.
Chi nghẹn ngào, đưa tay nắm lấy vạt áo con Huệ, cố giữ giọng thật nhỏ nhưng không giấu nổi sự van lơn.
"Cậu Quốc chưa đừng đối xử tệ với chị. Em xin chị, chị cứu cậu Quốc mạng này đi. Lỡ mà chuyện dở lỡ cũng có cậu Ba ra mặt cứu mình mà."
Nói rồi, nó quay sang nhìn Thím Bảy với thằng Cò. Ba người đứng quay lại trước con Huệ, ai cũng đắn đo, sợ to tiếng sẽ khiến bà Hai chú ý.
Thằng Cò bỗng nhỏ giọng chen vô, mắt sáng như đã quyết:
"Nếu lỡ bà hay...thì cứ đổ lên tôi. Cứ nói là tôi hành hung chị để cướp chìa. Tôi chịu."
Con Huệ nghe mà ngẩn người. Cả phủ này, ai nấy đều lần lần thương Quốc.
Con Huệ không phải đứa máu lạnh, nhưng nó sống nhờ bà Hai, được bà nuôi từ nhỏ, chưa từng bị đánh đòn, chưa từng bị quát nạt. Với nó, lời bà Hai là khuôn vàng thước ngọc. Bà biểu tẩy uế cho Quốc là để "rửa sạch nghiệp xấu", nó đâu nghĩ chi khác.
Nó mím môi, mắt cụp xuống, rồi như vừa đánh mạnh vào lòng mình, lôi chùm chìa khoá từ trong áo ra, dúi vội vào tay con Chi.
Không ai nói thêm lời nào. Nhưng cái khoảnh khắc đó, con Huệ biết mình vừa phản lại người nuôi mình lớn. Nhưng cũng vừa làm điều đúng với lòng mình nhất.
Cái đình làng đầu xóm từ hôm qua đã được quét dọn sạch trơn, cờ phướn dựng rợp cả cổng.
Dân tình lũ lượt kéo về, kẻ xách nếp, người bưng gà, rộn ràng như đi ăn đám.
...
Trăng rằm vừa lên khỏi ngọn tre, ánh sáng vằng vặc phủ xuống mái đền rêu phong phủ kín, lâu năm không người bén gót.
Con Chi dắt tay thằng Tèo, cả hai thở hổn hển sau một đoạn đường dài. Gió đêm lùa qua đồi gò, rít lên từng cơn lạnh sống lưng.
Bọn nó lén lấy ngựa của ông Kim, dắt đi vòng sau qua bãi trống, tránh đường lớn kẻo có người nhận mặt.
Thằng nhỏ vừa cưỡi ngựa vừa khóc thút thít, giọng đứt quãng:
"Con sợ bà Hai mà biết...bà giết con mất...mà cậu Quốc...mà có chuyện...cậu Ba cũng không sống nổi."
...
Trong sân đền Thất Diêm, Quốc ngồi một mình dưới nền đất lạnh. Ánh sáng mờ mờ từ mấy ngọn đèn dầu cắm quanh sân, bóng cây đổ dài như những bàn tay uốn éo trườn bò trên nền gạch vỡ.
Trước mặt Quốc là một mâm lễ rườm rà: gạo, đậu đỏ, muối hạt, vài tờ tiền vàng đang đợi đốt, một bó roi tà bằng sậy khô cắm giữa, rùng rợn như trận pháp cấm người.
Ông thầy pháp vận áo vàng, cổ đeo chuỗi hạt lớn bằng đốt ngón tay, mặt đỏ phừng phừng như mới vừa uống rượu. Ổng đứng ngay cạnh Quốc, cầm nhang múa qua múa lại trước mặt, miệng lẩm nhẩm đọc mấy câu chú không ai hiểu được.
Quốc ngồi yên, không nhúc nhích. Quốc hiểu rõ mình không chống cự nổi, không ai trong phủ sẽ dám cãi lời bà Hai. Nhưng ngồi yên không có nghĩa là im miệng.
"Tôi tắm mỗi ngày. Dơ dáy gì mà cần tẩy uế? Bộ làm lễ là hết tội lỗi hả? Nực cười thiệt."
Rồi Quốc quay hẳn sang, gằn giọng:
"Ông đi mà tẩy cho má chồng tôi đi. Bà sống ác tới vậy, đừng nói không có nghiệp."
Thầy pháp lập tức quay phắt lại, mặt đỏ gay vì giận. Ổng vung tay, lấy giọng trầm dọa nạt:
"Ngươi phạm thượng! Dám nhắc đến bề trên bằng cái giọng đó? Phải tội lắm! Không tẩy uế thì oan hồn nhà ngươi ám cả dòng họ người ta, nghe chưa?!"
Quốc nhìn ổng trừng trừng, đôi mắt sáng trong đêm như nước giếng sâu. Quốc nghe, nhưng chẳng thèm để một lời nào lọt vào lòng.
...
Vừa ra khỏi cái xóm đang nhộn nhịp lễ hội, ánh đèn lồng còn le lói dọc các ngả đường, thằng Tèo chợt kéo mạnh dây cương, suýt khiến ngựa ngã nhào. Mắt nó tròn xoe, tim đập dồn dập ở đằng trước, giữa đoàn người đang từ từ trở về đình làng, có dáng một người cao lớn mặc áo dài xanh đen, đi trước đội bưng lễ. Dưới ánh đuốc, khuôn mặt ấy lặng thinh mà sắc lạnh, lưng thẳng, mắt nhìn không nghiêng ngó.
Đó là cậu Ba Kim Thái Hanh.
Không kịp suy nghĩ, thằng Tèo lao lên. Giữa tiếng mõ vang vọng từ đình sau lưng, giữa tiếng người cười nói rộn rã của đám trẻ múa lân còn chưa chịu về, tiếng nó lạc đi nhưng dội thẳng vào lồng ngực Hanh:
"Cậu Ba! Cậu Quốc bị...bị bà đưa lên chùa rồi!"
Ngựa lồng lên, đám người trong đoàn rối rít né qua hai bên. Hanh quay đầu lại, ánh mắt xé gió nhìn thằng Tèo, đôi mày nhíu hẳn xuống.
"Nghe đâu...bà bắt cậu Quốc tu tới khi nào tâm tịnh thì thôi..."
Giọng thằng nhỏ thổn thức, đứt quãng như chính nó cũng không tin được lời mình vừa nói ra.
Nó biết rõ, cậu Quốc mà bị bắt lên chùa thì có khác gì đày ải. Người như Quốc vui thì cười, buồn thì khóc, thương ai thì sống chết vì người ấy làm sao có thể ngồi yên gõ mõ tụng kinh giữa bốn bức tường đá lạnh?
Thằng Tèo còn nhớ lời Quốc từng nói trong bếp:
"Tâm tôi tịnh nhất là lúc ôm Hanh ngủ, không mộng, không mê."
Nếu tách Quốc ra khỏi Hanh, vậy tâm tịnh bằng cách nào?
Đoàn người chưa kịp hiểu chuyện gì thì cậu Ba đã xoay người, bước nhanh về phía cổng đình. Áo dài lật phật trong gió đêm, Hanh đã bước như chạy qua đám đông.
Không một lời chào khách, không một cái liếc cho kẻ nào ngăn cản, Hanh gạt tay gia nhân, mắt rực lên như có lửa.
Có ai đó gọi theo:
"Cậu Ba! Còn lễ!!!"
Hanh không dừng.
Tim Hanh đập thình thịch như trống giục lệnh, máu trong người sôi lên như bị dội lửa.
Bao năm nay, Hanh đã sống trong sự điềm lặng, nhẫn nhịn.
Hôm nay mà Quốc bị đem đi như thể một món đồ thừa, thì Hanh không nhịn được nữa.
Không ai, không ai được đụng vào người đó.
Người mà Hanh gọi là thương. Người mà Hanh muốn ở cạnh suốt đời.
Nếu bà Hai bắt Quốc đi thật, thì đừng trách Hanh dám quay lưng với cả phủ này!
...
Gió rít dọc theo sườn núi. Trăng lặn khuất sau đám mây xám, chỉ còn ánh đuốc lập loè phía trước hắt lên bóng dáng gấp gáp của người đàn ông đơn độc.
Cậu Ba Kim Thái Hanh ghì chặt cương, đôi mắt hun hút lửa giận. Gió quất rát mặt, bụi đường bám kín vai áo, nhưng Hanh chẳng màng. Lời thằng Tèo văng vẳng bên tai Hanh, như lưỡi dao nhỏ máu:
"Cậu Ba! Cậu Quốc bị...bị bà đưa lên chùa rồi!"
"Nghe đâu...bà bắt cậu Quốc tu tới khi nào tâm tịnh thì thôi..."
Ngựa vừa tới chân đồi, Hanh nhảy xuống, nắm lấy dây cương buộc hờ vào gốc cây rồi một mình bước thẳng vào cổng đền cũ.
Cổng sơn đỏ mục nát, rêu xanh phủ mờ chữ, chẳng thấy nổi tên "Thất Diêm" trên bảng gỗ cong vẹo.
Trong sân, ánh đèn dầu leo lét. Mùi nhang trộn với muối và giấy tiền, tanh và ngột ngạt. Quốc quỳ giữa đám đồ cúng, cổ tay còn hằn vết trói, áo quần xộc xệch.
Bên cạnh là lão thầy pháp già đang lầm rầm tụng thứ gì đó như thần chú, tay vung vẩy bó nhang cháy dở.
"ĐẠP!"
Một tiếng lạnh băng vang lên.
Quốc giật mình quay đầu.
Cậu Ba đã đứng đó tự bao giờ. Cặp mắt hắn tối như vực sâu, chẳng cần hỏi han đã hiểu hết sự việc. Gió luồn qua vạt áo Hanh, xô những tờ sớ vàng lên không rồi rơi xuống lả tả quanh sân.
"Dạ?"
Quốc buột miệng, phản xạ yếu ớt như người vừa tỉnh mộng.
Giọng Hanh bật ra, sắc như lưỡi dao rút khỏi vỏ:
"TÔI BIỂU ĐẤY ĐẠP ĐỔ HẾT! CÓ NGHE KHÔNG?"
Quốc chết lặng. Trong phút chốc, nước mắt dâng ngang mí mắt. Cổ họng nghẹn lại. Mỗi tiếng vang của Hanh như đập tan xiềng xích mà mình đã bị trói vào suốt bao lâu.
"Đấy cứ đi trước đi, vượt mặt tôi cũng được. Còn ai chắn, tôi đạp."
Cậu Ba không đợi thêm. Bước sải dài qua sân, Hanh đưa tay kéo Quốc đứng dậy. Chân Quốc mềm oặt nhưng vẫn theo phản xạ đạp một cú vào mâm cúng, giấy tiền vàng mã văng lên, rơi rào rào như mưa.
Ông thầy pháp kinh hãi, gào lên:
"Không được! Phạm uế! Phạm uế trời đất!"
Hanh xoay người, chắn trước Quốc, mắt lạnh lùng rọi thẳng vào ông ta:
"Phạm uế cái má nhà ông! Ông giỏi vậy có thấy được ngày mình chết dưới tay tôi ra sao không?"
Một thoáng im lặng. Không gian bỗng lạnh toát như có bóng ma đi ngang. Thầy pháp cứng người, không dám nhúc nhích, sống lưng lạnh ngắt.
Hanh nắm lấy tay Quốc, siết chặt, rồi dứt khoát kéo ra khỏi sân đền. Không ngoái đầu lại. Không cần nói thêm một lời nào.
Đêm đen rẽ lối, bóng hai người in dài trên con đường trở về. Người đi trước vẫn kiên cường như núi. Người đi sau run nhẹ nhưng nụ cười đã chớm trên môi.
Từ giờ, chẳng còn ai có quyền tẩy uế Quốc nữa.
Bởi vì...người duy nhất được chạm vào Quốc, là cậu Ba.
Nhưng chẳng phải họ đang giận nhau sao?
Hanh tự dưng thấy không gian bây giờ tràn ngập sự ngượng nghịu, chẳng khác nào cái ngày Quốc mới về phủ rồi cùng Hanh ra sau vườn hú hí nắm tay vậy.
Dù vậy, nhưng Hanh vẫn nhẹ nhàng cất giọng:
"Đấy...ăn gì chưa?"
Quốc khẽ gật.
"Tôi ăn rồi. Cậu Ba khéo lo cho tôi hử?"
Quốc biết Quốc trẻ con khi không thẳng thắn tìm hiểu ngọn ngành vì sao Hanh vẫn chưa chịu có con với mình, mà đã phán vội Hanh không thương mình.
"Lo gì? Tôi nuôi đấy dùm, đặng đợi Quan lớn về, rồi tôi gả."
Nghe Quốc bị nhốt trưa giờ nên Hanh lo Quốc chưa ăn gì, cái cớ Quốc bị phạt thì chỉ vì lo cho miếng no của Hanh.
Hanh nghe qua thì rất cảm động, rất thương nghĩ việc mình và Quốc cạch mặt nhau mấy ngày qua, và Quốc muốn Hanh xem Quốc là người dưng nữa, thì lòng Hanh không thể không giận.
Hanh thương Quốc, cưới Quốc về đâu phải đặng xem Quốc là người ngoài?
Đến nước này, lời lẽ lạnh lùng cậu Ba nói ra Quốc không thèm tin. Chẳng có ai không ưa Quốc, muốn gả Quốc cho người khác mà lại sốt vó đi tìm Quốc như vậy đáng ra nên để Quốc lên chùa tu cho tâm thanh tịnh rồi.
Quốc chắc nịch pha lẫn chút hồn đọc to:
"Khi nào muối ngọt chanh thanh.
Thì tôi mới bỏ Hanh đi lấy chồng."
(Ca dao Việt Nam đã chỉnh sửa)
Không gian vẫn im tĩnh mịch...
...
Lúc sau...vẫn vậy...
Cậu Ba một tay dắt ngựa, mắt thì nhìn thẳng về phía trước mà môi cong cong cười trộm. Quốc đi cạnh im lặng hồi lâu cũng mở lời:
"Cảm ơn cậu Ba đã cứu tôi. Không có cậu tôi không biết làm sao nữa...tôi làm vướng tay chân cậu quá."
Cái điệu đó rõ là nó dèm để dò la tâm tư của Hanh.
"Đấy mà có chuyện gì, tôi đem phủ này đi đốt hết!"
Cậu Ba vẫn bước đều, mắt không rời lối cỏ tối mờ phía trước. Con ngựa hí nhẹ, hệt như thay lời cảnh báo: đừng giở trò, đừng khơi chuyện.
Quốc nhìn trộm dáng người ấy dưới ánh trăng. Vai rộng, lưng thẳng, bước đi bình thản như thể chuyện ban nãy chỉ là chuyện cỏn con. Nhưng Quốc biết, có ai bình thản mà lạnh giọng dọa một ông thầy pháp đến câm lặng?
"Cậu Ba bận tâm như vậy...có phải trong lòng cậu Ba có tôi rồi không?"
Nếu nói lo là thương, thì trong lòng Hanh đã có Quốc từ rất lâu.
Đến cả Quốc còn chẳng rõ nữa sao? Hanh vẫn đều đều bước chân chậm đặng Quốc theo kịp, con ngựa cũng im lặng mà thở phì phò vì mệt. Chớ nó mà không kiệt sức, chắc Hanh và Quốc phi tới nhà từ giấc nào rồi.
Nhờ vậy mà Quốc có cơ hội bày tỏ với chồng.
"Đấy vẫn ở trong lòng tôi nếu đấy chịu ở yên đó."
Thịch
Thịch
Thịch
Thịch
Tim Quốc chợt đập rất mạnh, có ai nghe gì không?
Không phải tiếng tim đập của Hanh hay của Quốc mà là tiếng cậu Ba vừa nói thương Quốc.
Dù miệng Hanh không biểu thương nhưng trong lòng Hanh có Quốc, vậy không phải là thương chớ còn gì?
Chợt con ngựa đứng sững lại, không phải vì nó muốn đứng mà là vì cậu Ba dừng bước nên nó cũng đồng lòng mà khựng lại.
Hanh quay sang nhìn Quốc. Cảm nhận được điều đó, Quốc nhướn mày nhìn Hanh. Gương mặt Hanh nghiêm nghị như mọi ngày, rồi điềm nhiên cất tiếng hỏi:
"Vậy còn nhà, trong lòng nhà đã có tôi chưa?"
Trời tối om, Hanh đâu thấy được đôi gò má người ta ửng đó. Chồng Quốc kêu Quốc là "nhà" bà con ơi.
Cái người từ thuở bé tới giờ chỉ biết một câu là "đấy", hai câu cũng "đấy" nay lại gọi Quốc là "nhà" như một điều hiển nhiên chẳng có chút gượng gạo.
Cứ như là Hanh đã quen gọi nó từ rất lâu rồi vậy.
"Ông thầy lang ổng biểu tôi bị bệnh tương tư cậu Ba. Tôi cũng thấy đúng, bởi càng ở gần tôi lại càng nhận ra mình thương cậu ba nhiều ơi là nhiều. Cậu Ba chỉ cần ở cạnh tôi một xíu là cái lồng ngực tôi nó đập không thua gì cái trống làng luôn."
Đó là con người mà Hanh thương, vừa ngây ngô vừa dịu dàng như ánh nắng ban mai. Người mà Hanh chỉ muốn giữ làm riêng suốt cả đời, cả kiếp này.
Quốc nghĩ gì nói đó, thiệt lòng thiệt dạ và rõ ràng, rạch ròi. Đó mới chính là Quốc mà Hanh thương, Hanh không cần một kẻ quá khéo léo tuân theo lễ giáo mà thương Hanh theo lễ nghĩa dù chẳng có tí cảm xúc nào.
Cả Hai đều cúi cúi mặt rồi thầm nở một nụ cười.
Chưa bao giờ, lòng Hanh rộn ràng như vậy.
Giữa màn đêm, Hanh chỉ muốn la lên và khoe rằng người Hanh thương cuối cùng cũng biết thương Hanh.
Hanh muốn chạy đến chỗ ông Hương cả đặng cười một trận cho đã.
"Cậu kêu tôi là nhà, chớ nhà kiểu gì vậy cậu?"
Hanh chỉ nói một câu, mà có lẽ sẽ khiến Quốc nhớ mãi:
"Nhà là nơi người ta để lòng lại. Mà lòng tôi, để hết bên 'đấy' rồi còn đâu?"
"Nhà là chốn để lòng yên
Để ai cất nhớ, để phiền bỏ quên
Nhà người có nóc có nền
Nhà tôi là đấy, dịu mềm gió trưa
Người ta về giữa song thưa
Tôi về ánh mắt đấy chưa nói gì
Đời ai cũng chọn mái liêu
Riêng tôi chọn đấy là điều chẳng phai
Không rường, chẳng cột, không ai
Chỉ cần đấy ở, lòng tôi cũng về
Dẫu thân có mặc đạo quê
Tình tôi gửi trọn lời thề thầm trao
Dẫu ai chê chữ đồng giao
Tôi thương, vẫn giữ lời trao thuở nào
Nhà là nơi để lòng trao
Mà lòng tôi...gửi hết vào đấy thôi."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com