Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Một số vấn đề cơ bản về tài phán hành hính

liên kết cá nhân | Albums | Tự giới thiệu

Luật học - Nghề luậtTrackbacks (0)Thêm góp ý   

I. Khái niệm tài phán hành chính:

1. Khái niệm tài phán:

Pháp luật với tư cách là công cụ để nhà nước điều chỉnh các quan hệ xã hội, có chức năng đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, giai cấp nắm quyền lực nhà nước. Cùng với việc ban hành các quy phạm pháp luật, nhà nước đồng thời có các biện pháp bảo đảm cho các quy phạm pháp luật ấy được thực hiện bởi mọi chủ thể. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, khi tham gia vào các quan hệ xã hội, các chủ thể vẫn thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi ích nhà nước, xã hội, tập thể và quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân. Những tranh chấp và xung đột pháp lý, những vi phạm pháp luật không loại trừ xảy ra ngay cả trong nhà nước xã hội chủ nghĩa khi pháp luật thể hiện ý chí tuyệt đại đa số nhân dân lao động. Để phản ứng lại những hành vi vi phạm pháp luật, nhà nước áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác nhau đã được pháp luật dự kiến trước trong các chế tài của các quy phạm pháp luật. Song, những biện pháp cưỡng chế nhà nước chưa thể áp dụng ngay được nếu như chưa có sự phán xét, đánh giá những hành vi được coi là vi phạm pháp luật hay những tranh chấp pháp lý cụ thể. Vì vậy, nhà nước cần có một hay nhiều các tổ chức, cơ quan thay mặt nhà nước đứng ra thực hiện chức năng xem xét khía cạnh pháp lý của sự việc, giải quyết những tranh chấp và áp dụng chế tài theo luật định. Hoạt động mà các cơ quan đó thực hiện chính là “hoạt động tài phán” và bản thân cơ quan đó là “cơ quan thực hiện chức năng tài phán”

Thuật ngữ “tài phán” có gốc từ tiếng La Tinh là “jurisdictio” có nghĩa là tổng thể những quyền hạn của Tòa án hoặc cơ quan hành chính về việc đánh giá khía cạnh pháp lý của những sự kiện cụ thể, trong đó có việc giải quyết tranh chấp và áp dụng những chế tài theo luật định.[1]

Như vậy, có thể nói khái niệm “tài phán” rộng hơn khái niệm “xét xử” ở nhiều khía cạnh. Hoạt động tài phán có thể thực hiện bởi nhiều loại cơ quan khác nhau. Không chỉ tòa án mà các cơ quan hành chính hay các cơ quan khác cũng có quyền tài phán. Quyền tài phán có thể do một cơ quan độc lập, chuyên trách thực hiện hoặc có thể do một cơ quan thực hiện nhiều chức năng, trong đó có chức năng tài phán. Điều đó phụ thuộc vào cơ cấu, phương thức tổ chức quyền lực trong bộ máy nhà nước, vào thẩm quyền mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật.

2. Khái niệm tài phán hành chính:

2.1. Khái niệm:

Tài phán hành chính trước hết phải được hiểu là một trong những phương thức đặc thù bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước.

Trong mối quan hệ với tài phán nói chung thì tài phán hành chính là một loại tài phán, nó mang đầy đủ những đặc điểm chung của hoạt động tài phán. Nếu như khái niệm tài phán rộng hơn khái niệm xét xử thì tương tự khái niệm tài phán hành chính cũng rộng hơn khái niệm xét xử hành chính. Do vậy, khi nói đến tài phán hành chính thì không có nghĩa là chỉ nói về hoạt động xét xử của Tòa án hành chính. Chúng ta không nên đồng nhất “tài phán hành chính” với tòa án hành chính và việc xét xử của toà án hành chính.

Hiện nay, mặc dù vấn đề tài phán hành chính được nhiều nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu ở những mức độ khác nhau nhưng chưa có quan niệm thống nhất. Có quan điểm cho rằng “tài phán hành chính nằm trong hệ thống cơ quan tài phán hành chính” hoặc “tài phán hành chính là tổng hợp tất cả các tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện hoạt động quản lý nhà nước”. Quan niệm khác cho rằng “tài phán hành chính là xét xử các khiếu kiện hành chính của công dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính và hoạt động tư vấn”[2].

Trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước và các công chức, viên chức nhà nước có nhiều quyền, trong đó có việc ban hành các quyết định hành chính và tổ chức thực hiện các quyết định ấy (hành vi hành chính). Quyết định hành chính mang tính ý chí, tính quyền lực nhà nước. Đó là kết quả sự thể hiện ý chí của các chủ thể quản lý có thẩm quyền thực hiện nhân danh quyền lực nhà nước, vì lợi ích của nhà nước. Đó cũng là ý chí đơn phương của nhà nước mà mọi chủ thể khác buộc phải tuân theo nếu thuộc phạm vi điều chỉnh của quyết định hành chính. Nhờ vậy, hành vi của các công chức, viên chức nhà nước, tổ chức thực hiện quyết định hành chính cũng mang tính quyền lực và ý chí đơn phương. Chỉ có cơ quan hành chính nhà nước và những người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước mới có đặc quyền ban hành quyết định hành chính và tổ chức thực hiện quyết định hành chính. Không tránh khỏi những trường hợp các quyết định hành chính, hành vi hành chính vượt quá thẩm quyền, không phù hợp với pháp luật hoặc chậm trễ, từ chối không thực hiện đúng chức trách, công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân làm phát sinh những tranh chấp hành chính, khiếu kiện hành chính. Điều này lại đòi hỏi nhà nước phải xem xét giải quyết các tranh chấp hay nói cách khác là cần đến hoạt động tài phán hành chính của nhà nước.

Tuy nhiên, điều đặc biệt là khi xét xử, giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện hành chính thì nhà nước không phán xét, đánh giá hành vi của ai khác mà chính là quyết định hành chính, hành vi hành chính của bản thân cơ quan nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước. Quyết định hành chính và hành vi hành chính sẽ được kiểm tra tính hợp pháp và hợp lý căn cứ vào những quy định, yêu cầu về nội dung, trình tự, thủ tục của pháp luật. Nhờ hoạt động tài phán hành chính, nhà nước mới có căn cứ để đi đến một phán quyết cuối cùng giải quyết những tranh chấp và khiếu kiện hành chính.

Như vậy, thực chất hoạt động tài phán hành chính là toàn bộ các hoạt động phán quyết tính hợp pháp các quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước. Hình thức thể hiện của Tài phán hành chính là việc giải quyết các khiếu nại hành chính hoặc các vụ kiện hành chính.

Có thể phân chia tài phán hành chính thành 2 loại:

-              Tài phán hành chính về tính hợp pháp của một quyết định hành chính cá biệt nếu công dân hoặc tổ chức khiếu kiện;

-              Tài phán về trách nhiệm công vụ (của cơ quan hành chính, công chức trong bộ máy nhà nước) khi có hành vi trái pháp luật.

Quyền tài phán hành chính có thể được thực hiện bởi cơ quan hành chính theo thủ tục hành chính nhưng cũng có thể được thực hiện bởi một cơ quan tài phán riêng biệt (Tòa án hành chính, Viện tài phán hành chính,...) theo thủ tục tố tụng hành chính.

2.2. Trách nhiệm công vụ - cơ sở của Tài phán hành chính:

Trách nhiệm công vụ được xem xét dưới hai góc độ khác nhau:

-              Trách nhiệm công vụ tích cực: là bổn phận của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước thực hiện nghĩa vụ trước nhân dân, là thái độ, tình cảm, nội tâm bên trong của họ đối với hoạt động công vụ.

-              Trách nhiệm công vụ thụ động (tiêu cực): là một loại trách nhiệm pháp lý. Là sự phản ứng của nhà nước đối với các cơ quan, cá nhân công chức khi thực hiện một hành vi hành chính trong quá trình thực thi công vụ trái pháp luật hoặc quyết định của cơ quan cấp trên gây thiệt hại, xâm phạm đến quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, thể hiện ở sự áp dụng các chế tài pháp luật tương ứng, hệ quả là cơ quan nhà nước, cá nhân công chức gánh chịu những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất, tinh thần do cơ quan có thẩm quyền thực hiện.

Trách nhiệm công vụ dưới góc độ là một dạng trách nhiệm pháp lý chính là cơ sở của tài phán hành chính. Khác với các loại trách nhiệm pháp lý khác (trách nhiệm hình sự, dân sự,...) được quy định rõ trong một đạo luật, trách nhiệm công vụ được quy định trong nhiều văn bản pháp luật của ngành Luật hành chính. Chính vì vậy, xác định phạm vi trách nhiệm công vụ và phân biệt nó với các dạng trách nhiệm pháp lý khác là rất cần thiết.

Như chúng ta đã biết, trách nhiệm pháp lý nói chung có cơ sở là các vi phạm pháp luật: Cơ sở của trách nhiệm hình sự là tội phạm, cơ sở của trách nhiệm dân sự là vi phạm quan hệ tài sản và nhân thân, cơ sở của trách nhiệm công vụ là vi phạm pháp luật trong hoạt động công vụ. Cụ thể hơn, đó là vi phạm pháp luật trong việc ban hành quyết định hành chính hay thực hiện hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước hoặc công chức nhà nước.

Có thể liệt kê các cơ sở của trách nhiệm công vụ là:

-              Hành vi hành chính trái pháp luật, quyết định gây thiệt hại cho công dân;

-              Hành vi hành chính vô quyền;

-              Hành vi hành chính lạm quyền;

-              Hành vi chậm trễ trong công vụ gây thiệt hại cho công dân, tổ chức;

-              Hành vi từ chối không thực hiện các dịch vụ hành chính theo quy định của pháp luật.[3]

Khi giải quyết các khiếu kiện hành chính của công dân đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính cơ quan tài phán có quyền áp dụng các biện pháp trách nhiệm công vụ khác nhau. Hành vi bị truy cứu trách nhiệm công vụ phải là hành vi có lỗi, gây thiệt hại thực tế, chứ không phải là thiệt hại suy đoán. Giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại phải có mối liên hệ nhân quả.

II. Phân biệt khái niệm tài phán hành chính với các khái niệm liên quan:

1. Tài phán hành chính và quản lý nhà nước:

Quản lý nhà nước (hiểu theo nghĩa hẹp) – hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước được tiến hành trên cơ sở và để thi hành pháp luật nhằm thực hiện các chức năng nhà nước trong cuộc sống hàng ngày trên mọi lĩnh vực hành chính, chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội. Hoạt động quản lý nhà nước do nhiều chủ thể thực hiện, nhưng chủ yếu do cơ quan hành chính thực hiện, đứng đầu là Chính phủ. Các cơ quan hành chính khác cũng thực hiện chức năng quản lý nhà nước là: Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các Sở, Phòng, Ban (cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân).

Có thể coi quản lý nhà nước và tài phán hành chính là hai mặt hoạt động của nền hành chính quốc gia. Vì vậy, hai khái niệm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng cũng không thể đồng nhất với nhau.

Hoạt động tài phán hành chính và quản lý nhà nước đều được tiến hành theo một trình tự nhất định được các quy phạm thủ tục hành chính điều chỉnh. Hai hoạt động này đều mang tính sáng tạo và dưới luật. Tuy nhiên, tài phán hành chính và quản lý nhà nước có nhiều điểm phân biệt:

-              Thứ nhất, về chủ thể, hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động tài phán hành chính có thể do nhiều chủ thể thực hiện, chủ yếu là cơ quan hành chính. Tuy nhiên, chức năng xét xử hành chính là cơ bản nhất trong hoạt động tài phán hành chính. Từ đó có thể nhận định: quản lý nhà nước gắn liền với chức năng của cơ quan hành chính, còn tài phán hành chính thì gắn liền với hoạt động xét xử của Tòa án hành chính hoặc một cơ quan độc lập thực hiện chức năng tài phán hành chính. 

-              Thứ hai, tính sáng tạo của quản lý nhà nước thể hiện ở hoạt động sáng tao pháp luật, xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lý hành chính. Tài phán hành chính có tính sáng tạo thể hiện qua hoạt động áp dụng pháp luật để xét xử các khiếu kiện hành chính.và xem xét lai quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện.

-              Thứ ba, quản lý nhà nước do các quy phạm thủ tục hành chính thông thường điều chỉnh và thực hiện ngoài trình tự tố tụng, theo chu trình. Chu trình quản lý nhà nước gồm những giai đoạn diễn ra kế tiếp nhau theo trình tự thời gian tương ứng với việc giải quyết một vấn đề nhất định, thực hiện một chức năng nhất định. Đó là: đánh giá tình hình, phát hiện vấn đề cần giải quyết, chuẩn bị dự thảo quyết định quản lý, ban hành quyết định, tổ chức thực hiện quyết định, cuối cùng là kiểm tra việc thực hiện quyết định. Tài phán hành chính có thể thực hiện theo thủ tục hành chính (giai đoạn tiền tố tụng) hoặc theo thủ tục tố tụng hành chính, nghĩa là thực hiện theo trình tự tòa án. Các giai đoạn tố tụng hành chính bao gồm: khởi kiện vụ việc của công dân, cơ quan tổ chức; tiến hành thụ lý vụ án do Tòa án hành chính thực hiện, giai đoạn chuẩn bị xét xử, giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm...

-              Thứ tư, trong hoạt động quản lý nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước có thể sử dụng các hình thức pháp lý hay ít hoặc không mang tính pháp lý. Hình thức mang tính pháp lý bao gồm: ban hành văn bản quản lý chủ đạo, văn bản quy phạm pháp luật và văn bản cá biệt, cụ thể. Hình thức ít hoặc không mang tính pháp lý bao gồm: thực hiện họat động tổ chức trực tiếp, tiến hành các hoạt động mang tính chất tác nghiệp vật chất, kỹ thuật...  Tài phán hành chính chỉ sử dụng hình thức mang tính pháp lý và chỉ ban hành các văn bản cá biệt, cụ thể để giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện hành chính (bản án, quyết định)

Ngoài ra, khi nói đến sự khác biệt giữa tài phán hành chính và quản lý nhà nước, chúng ta cần so sánh hoạt động xét xử của Tòa án hành chính và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước:

-              Quản lý nhà nước được thực hiện nhân danh Chính phủ, còn tòa án xét xử nhân danh nhân dân để đưa ra phán quyết.

-              Cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm quyền hoạt động trong quan hệ trên dưới trực thuộc, dưới sự lãnh đạo, điều hành từ một trung tâm đầu não – Chính phủ; còn Tòa án hành chính hoạt động một cách độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Quyết định và bản án là quyết định cuối cùng, không bị xem lại bởi bất kỳ cơ quan nào, trừ khi có kháng nghị, kháng cáo được xem lại ở tòa án cấp phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

-              Quản lý nhà nước làm việc trong mối quan hệ với hệ thống hành chính, còn tòa án xét xử bị kiểm tra, giám sát từ nhiều phía.

-              Cơ quan quản lý nhà nước hoạt động nhằm đạt đến sự hợp lý của công việc, còn tòa án xét xử nhằm đạt đến sự hợp pháp.

-              Công chức quản lý nhà nước hoạt động mang tính bảo mật; còn thẩm phán xét xử công khai, trừ những trường hợp phải xử kín theo quy định của pháp luật hoặc theo yêu cầu của đương sự.

-              Công chức quản lý nhà nước là nhà tổ chức, điều hành; còn thẩm phán có chức năng phán xét tính đúng, sai của quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, những người có chức vụ và có “trách nhiệm công vụ” tích cực.[4]

Tóm lại, quản lý nhà nước và tài phán hành chính là hai mặt hoạt động của nền hành chính quốc gia. Nếu quản lý nhà nước là mặt hoạt động tích cực thì tài phán hành chính là mặt thụ động trong nền hành chính quốc gia. Hai mặt hoạt động này luôn hỗ trợ lẫn nhau, tác động liên hệ qua lại. Hoạt động tài phán hành chính đúng đắn sẽ tạo điều kiện hoàn thiện cho hoạt động quản lý nhà nước, hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước. Hành chính tài phán cần phải được đặt song song với hành chính điều hành, tức là phải có một cơ quan có chức năng và thẩm quyền xét xử những vi phạm pháp luật hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước theo trình tự tách biệt với quản lý nhà nước, không phải lối xử lý nội bộ, cơ chế “bộ trưởng - quan tòa”.

2. Phân biệt tài phán hành chính với tài phán tư pháp:

2.1. Đối tượng của tài phán hành chính và tài phán tư pháp:

Theo quy định tại Điều 1 – Luật tổ chức Tòa án nhân dân số 33/2002/QH10 ngày 02/04/2002 thì đối tượng xét xử của Toà án là “những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy, ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân thực hiện cả chức năng tài phán tư pháp và một phần tài phán hành chính. Ngoài ra, một phần chức năng tài phán hành chính tương ứng với giai đoạn tiền tố tụng do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện (việc giải quyết khiếu nại, xem xét lại tính hợp pháp của quyết định hành chính và hành vi hành chính).

Đối tượng của tài phán tư pháp là các quan hệ có đặc điểm: Các bên tham gia quan hệ này không có tính trực thuộc quản lý. Những vụ kiện phát sinh trong quan hệ này không thuộc thẩm quyền của tòa án hành chính mà thuộc thẩm quyền của tòa án tư pháp. Trong đối tượng của tài phán tư pháp có cả bao gồm cả quan hệ giữa công dân với công dân (dân sự, hôn nhân gia đình) và quan hệ giữa nhà nước và công dân (hình sự, lao động) hoặc tổ chức với tổ chức (kinh tế)... Nhưng trong đó chủ yếu tòa án tư pháp giải quyết tranh chấp giữa công dân và công dân hoặc là sự phán quyết của nhà nước đối với hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, có thể nói tài phán tư pháp là “tài phán của nhà nước đối với dân”. Ngược lại, tài phán hành chính giải quyết tranh chấp trong mối quan hệ giữa cá nhân với cơ quan hành chính phát sinh trong quá trình hoạt động quản lý nhà nước. Cơ quan tài phán hành chính mà điển hình nhất là Tòa án hành chính thông qua hoạt động tài phán hành chính sẽ đưa ra kết luận về tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính và công chức nhà nước với tư cách là các chủ thể quản lý, mang trách nhiệm công vụ.

Đối tượng của tài phán hành chính là quyết định hành chính và hành vi hành chính: Cơ quan tài phán hành chính không xét xử các quyết định hành chính mang tính chủ đạo và quy phạm. Bởi lẽ, khi các quyết định này không hợp pháp, hợp lý về nội dung, hình thức thủ tục ban hành thì sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý là bị đình chỉ, bãi bỏ và sửa đổi bởi các cơ quan có thẩm quyền (có thể là cơ quan quyền lực cùng cấp hoặc cơ quan hành chính cấp trên). Cơ quan tài phán hành chính chỉ xét xử quyết định hành chính cá biệt, cụ thể của một số cơ quan hành chính trong một số lĩnh vực theo quy định của pháp luật (khoản 4 – điều 1 – Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội số 29/2006/PL-UBTVQH11 ngày 05/4/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Như vậy, tài phán hành chính được phân biệt với tài phán tư pháp trước tiên qua đối tượng xem xét của cơ quan tài phán hành chính với đối tượng xét xử của tòa án tư pháp. Đối tượng xem xét của cơ quan tài phán hành chính là quyết định hành chính và hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước và công chức nhà nước. Nếu một người có chức vụ ra quyết định bất hợp pháp với ý chí cá nhân vì mục đích vụ lợi cho cá nhân, ví dụ: nhận hối lộ để cấp giấy phép xây dựng không đúng trình tự thì không được coi là quyết định hành chính thuộc đối tượng xem xét của tài phán hành chính. Với trường hợp này, Tòa án tư pháp sẽ xét xử người có chức vụ đó theo thủ tục tố tụng hình sự về tội nhận hối lộ. Ngược lại, nếu một quyết định hành chính được ban hành theo đúng trình tự, nhân danh cơ quan hành chính mà không có yếu tố vụ lợi cá nhân, mà bị khiếu kiện thì quyết định hành chính đó thuộc thẩm quyền thụ lý của cơ quan tài phán hành chính.       

 2.2. Sự khác biệt giữa tố tụng hành chính và tố tụng tư pháp:

Trong hoạt động xét xử, tòa án tư pháp chỉ kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định hành chính một cách gián tiếp, thông qua việc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền hủy bỏ những quyết định hành chính trực tiếp có liên quan đến vụ án do mình giải quyết. Ngược lại, tòa án hành chính có chức năng xét xử các vụ kiện hành chính, phán xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính và hành vi hành chính, đồng thời có thể bãi bỏ mọi quyết định hành chính trái pháp luật thông qua hoạt động xét xử theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền của mình.

Bản án, quyết định của tòa án tư pháp trực tiếp tác động tới cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật; trong khi bản án, quyết định của tòa án hành chính trực tiếp tác động đến cơ quan hành chính đã ra quyết định hành chính hoặc có công chức gây ra hành vi hành chính bị khiếu kiện, chứ không trực tiếp hướng đến cá nhân người đứng đầu cơ quan hành chính hoặc công chức đã ký quyết định hành chính hoặc gây ra hành vi hành chính đó. Mặt khác, thủ tục tố tụng hành chính của tòa án có đặc thù khác với thủ tục tố tụng tư pháp được thực hiện bởi tòa án, đặc biệt là thủ tục tố tụng hình sự. Hoạt động xét xử hành chính và xét xử các lĩnh vực khác dẫn đến những hậu quả pháp lý rất khác nhau trên thực tế cho các chủ thể tham gia vụ kiện. Ví dụ: Hậu quả pháp lý của việc nhận hối lộ và ra quyết định hành chính nhằm vụ lợi cá nhân như đã nêu ở trên sẽ dẫn đến phải chịu hình phạt theo bản án của Tòa án. Nhưng nếu quyết định hành chính đó chỉ được xem xét theo trình tự tố tụng hành chính thì hậu quả pháp lý có thể là quyết định hành chính bị hủy bỏ hoặc sửa đổi mà người có thẩm quyền ký quyết định đó không bị chịu hình phạt hoặc trách nhiệm cá nhân.  

III. Vị trí của tài phán hành chính trong nền hành chính quốc gia:

1. Tài phán hành chính là một nội dung quan trọng của nền hành chính quốc gia:

Thực tiễn và lý luận cho thấy trong việc thực hiện chức năng tổ chức chấp hành và điều hành của cơ quan hành chính không thể tránh khỏi biểu hiện lạm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền. Vả lại nước ta vẫn đang trong quá trình cải cách hành chính mà một trong các mục tiêu là nâng cao trình độ cho cán bộ, công chức. Do vậy, phải có một hệ thống các cơ quan thực hiện chức năng tài phán hành chính để giải quyết khiếu kiện hành chính, kiểm soát hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan hành chính và các cán bộ, công chức.

Nhìn từ khía cạnh quyền lực, tài phán hành chính là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước và cơ quan tài phán hành chính - sự hiện diện của quyền tài phán hành chính là một bộ phận quan trọng của bộ máy nhà nước. Tài phán hành chính có một vị thế quan trọng trong nền hành chính quốc gia. Một mặt, tài phán hành chính là một cơ chế nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; mặt khác tài phán hành chính là một thiết chế góp phần tích cực vào việc củng cố pháp chế, trật tự pháp luật và là một công cụ hữu hiệu nhằm bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Tài phán hành chính là một trong hai lĩnh vực hoạt động của nền hành chính quốc gia. Tài phán hành chính là biện pháp kiểm tra, giám sát hữu hiệu hoạt động đối với cơ quan quản lý nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, tránh hiện tượng lạm quyền và lộng quyền, trốn tránh trách nhiệm, loại trừ các hiện tượng tiêu cực, quan liêu, cửa quyền trong bộ máy hành chính, góp phần xây dựng nền hành chính quốc gia trong sạch, năng động, hiệu quả đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của nhân dân.

Từ đó, thực hiện tốt quyền tài phán hành chính sẽ góp phần thực hiện tốt nọi dung khác trong hoạt động quản lý nhà nước. Cơ quan tài phán hành chính như: “thanh kiếm, lá chắn” đấu tranh và ngăn chặn mọi hành vi vi phạm pháp luật phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành bộ máy quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. Nếu không thực hiện tốt tài phán hành chính thì sẽ gây trở ngại cho quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2. Vai trò của cơ quan tài phán hành chính đối với nền hành chính quốc gia:

Nếu như tài phán hành chính làm một trong hai lĩnh vực bắt nguồn từ hệ thống hành chính, thì vai trò của tài phán hành chính được biểu hiện bằng chức năng tài phán thông qua việc xét xử các vụ án hành chính hoặc giải quyết tranh chấp hành chính giữa cơ quan hành chính, người có thẩm quyền với công dân, tổ chức.

Trong quá trình giải quyết, cơ quan tài phán hành chính có quyền và nghĩa vụ kiểm tra tính hợp pháp của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu kiện. Qua đó, cơ quan tài phán hành chính đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần cải cách thể chế hành chính, thủ tục hành chính nào còn rườm rà, góp phần vào quá trình cải cách hành chính.

Thông qua hoạt động xét xử về hành chính, cơ quan tài phán hành chính góp phần tăng cường, củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng trong cơ quan công quyền làm cho bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh. Sự tồn tại của cơ quan tài phán hành chính giúp các cơ quan quản lý nhà nước và cán bộ, công chức nâng cao trách nhiệm, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân. Đó là một trong những biểu hiện của nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.

IV. Một số mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính điển hình trên thế giới:

Mỗi quốc gia trên thế giới xuất phát từ quan niệm khác nhau về hoạt động tài phán hành chính và do những yếu tố mang tính khách quan: truyền thống pháp lý, trình độ dân trí, tình hình kinh tế - xã hội, tập quán... mà tìm ra những giải pháp riêng về vấn đề tổ chức cơ quan tài phán hành chính. Qua nghiên cứu, tựu trung lại có các mô hình tổ chức cơ quan tài phán hành chính sau đây:

1. Các nước theo chế độ nhất hệ tài phán:

Là những nước thuộc hệ thống luật Ăng-lô-xắc-xông gồm: Anh, Mỹ và các nước chịu ảnh hưởng của pháp luật Anh – Mỹ. Ở những nước này quyền phán xử các hành vi công quyền thuộc về tòa án thường (tòa án tư pháp). Cách thức tổ chức được chia thành hai loại:

-              Tòa án tư pháp có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính: Anh, Ai-len, Na-uy, Ni-giê-ri-a, It-xa-ren...

-              Tòa hành chính là phân tòa trong tòa án tư pháp: Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Công-gô...  

Ở các nước theo chế độ nhất hệ tài phán, tổ chức cơ quan tài phán hành chính đơn giản và gọn nhẹ, việc giải thích và áp dụng pháp luật dễ dàng được thống nhất, không phát sinh vấn đề tranh chấp về thẩm quyền giữa các tòa án với nhau. Tuy nhiên, hoạt động xét xử các vụ kiện về hành chính nhiều khi gặp khó khăn bởi vì hoạt động quản lý (đối tượng của xét xử các vụ kiện hành chính) vẫn đa dạng và khá phức tạp. Tòa án không dễ dàng đánh giá được tính hợp pháp của một quyết định, một hành vi hành chính. Tòa án đôi khi gặp khó khăn trong việc thu thập chứng cứ từ cơ quan hành chính. Hơn nữa một đặc điểm của tố tụng hành chính là bản án, quyết định của Tòa án muốn có hiệu lực trên thực tế phải thông qua quyết định của cơ quan hành chính. Với nguyên tắc chế độ phân quyền, Tòa án chỉ có thể yêu cầu chứ không thể thay thế cơ quan quản lý để ra quyết định hành chính. Vì vậy, việc thi hành phán quyết của Tòa án gặp nhiều khó khăn. Đây là vấn đề thường xuyên phải đương đầu và tìm các phương cách giải quyết.

2. Các nước theo chế độ lưỡng hệ tài phán:

Lưỡng hệ tài phán được hiểu là tài phán tư pháp và tài phán hành chính độc lập với nhau. Tài phán tư pháp xét xử những vụ việc về hình sự, dân sự... trên cơ sở áp dụng luật tư; tài phán hành chính xét xử các khiếu kiện hành chính trên cơ sở áp dụng luật công. Cách tổ chức này chia thành hai loại:

-              Cơ quan tài phán hành chính cấp cao (Hội đồng nhà nước) có hai chức năng: tư vấn về pháp luật và xét xử hành chính (Pháp, Hy Lạp, Ai cập, Thái Lan).

-              Cơ quan tài phán hành chính chỉ xét xử hành chính (Cộng hòa liên bang Đức, Thụy Điển, Phần Lan, Áo, Bồ Đào Nha, Cos-ta-ri-ca).

Ở những nước theo chế độ lưỡng hệ tài phán: tòa án hành chính được tổ chức riêng, thẩm phán chuyên phát hiện và xét xử những vụ kiện trong lĩnh vực hành chính và khoa học quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng xét xử của họ. Việc thi hành phán quyết của cơ quan tài phán hành chính có nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, tổ chức xét xử ở những nước theo chế độ lưỡng hệ tài phán khá phức tạp và cồng kềnh. Việc có mặt hai hệ thống tài phán gây tranh chấp về thẩm quyền mà vấn đề này đôi khi không đơn giản. Sự đùn đẩy giữa hai ngành xét xử làm cho chậm trễ quá trình giải quyết vụ việc và điều đó gây thiệt hại cho công dân, tổ chức – những người khiếu kiện. Sự tồn tại hai Tòa án tối cao (về hành chính và tư pháp) cũng dẫn đến một nguy cơ khác là có thể có sự giải thích và áp dụng khác nhau giữa hai loại tòa án trước một vấn đề. Điều đó hoàn toàn không có lợi cho việc đảm bảo tính thống nhất của một nền hành chính; tất nhiên, đây là vấn đề mang tính lý thuyết mà ít khi xảy ra trong thực tế.

3. Các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu (trước đây):

Các nước Đông Âu về nguyên tắc không chấp nhận việc kiểm tra hoạt động của cơ quan hành chính dưới hình thức tòa án. Tuy nhiên, theo nhu cầu của việc giải quyết vấn này mà ở một số nước từng bước đã tổ chức mô hình cơ quan tài phán hành chính với những mức độ khác nhau.    

[1] PGS. TS. Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005, trang  678.

[2] Xem PTS. Phạm Hồng Thái – PTS. Đinh Văn Mậu, Tài phán hành chính ở Việt Nam, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1996, trang 16, dòng 3-5.

[3] PTS. Phạm Hồng Thái – PTS. Đinh Văn Mậu, Sách đã dẫn, trang 69, dòng 11-21

[4] PTS. Phạm Hồng Thái – PTS. Đinh Văn Mậu, Sách đã dẫn, trang 26

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com