TAM THẾ LUÂN HỒI
TAM THẾ LUÂN HỒI ĐỨC MẪU LIỄU HẠNH
TAM THẾ LUÂN HỒI, VU VỈ NHUẾ, VU VÂN CÁT, VU NGA SƠN, VU SÒNG - LẠNG - TÂY HỒ, NGŨ BÁCH DƯ NIÊN QUANG THỰC LỤC
(Ba kiếp giáng trần, ở Vỉ Nhuế, ở Vân Cát, ở Nga Sơn, ở Sòng (Sơn) - Lạng (Sơn) - Tây Hồ, hơn năm trăm năm ngời sử sách)
LỊCH TRIỀU BA CỔN, VI ĐẾ NỮ, VI ĐẠI VƯƠNG, VI CHÚNG MẪU, VI THÁNH - THẦN - TIÊN PHẬT, ỨC NIÊN VẠN CỔ ĐIỆN DANH BANG
(Các triều phong tặng, là Đế Nữ, là Đại Vương, là Thánh Mẫu, là Thánh - Thần - Tiên Phật, ngàn năm vạn thuở rạng non sông)
Nước Đại Việt dưới thời Lê Sơ không còn chỉ là một quận Giao Chỉ của nhà Minh mà đã trở lại thành một quốc gia độc lập, bách gia trăm họ được sống dưới hồng ân của một triều đại hoàng kim nhất trong lịch sử. Từ Thái Tổ Cao Hoàng Đế - Lê Thái Tổ tới người kế vị Lê Thái Tông và những vị đế vương sau này, Đại Việt vươn mình như một con rồng thức dậy, vươn dài lãnh thổ, bảo yên bờ cõi, trăm sự đều an.
Vùng Bắc Kỳ có phủ Nghĩa Hưng, nằm ở tỉnh Nam Định, trấn Sơn Nam vốn nổi danh một đôi vợ chồng hiền hậu nhân từ ở xã Trần Xá, huyện Đại An, ngày đêm chỉ lo vun trồng cội đức, bồi đắp ngành nhân hằng tam đã sẵn, hằng sản lại nhiều, nên thực là bậc nhà có tiền có của. Ấy là Phạm Thái Ông, hiệu là Huyền Viên, húy là Đức Chánh, lấy vợ người Mậu Diệu hiệu là Thuần Nhứt, tức Phạm Thái Bà. Người ta đồn rằng, chẳng một việc thiện nào mà lại không có hai ông bà họ Phạm. Từ tô tượng đúc chuông, xây chùa lập miếu, nào là san cơm sẻ áo cho kẻ bần cùng, nào là phát gạo cấp tiền cho người cô quả.
Ngặt một nỗi, Phạm Thái Ông và Phạm Thái Bà ôm một niềm buồn rầu đã lâu. Rằng, tuổi đã cao mà chẳng có lấy một mụn con, lấy ai mà kế thế về sau để giữ lấy cơ đồ nhà họ Phạm?
Thường ngày, ngoài những việc thiện cho dân cho đời, hai ông bà lại thiết đàn làm chay cầu Trời khấn Phật, xin cho một người con hậu tự. Lời kêu thấu tới tận trời xanh, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế trên Thiên Đình mới động tâm mà mở sổ Nam Tào. Xét thấy, Phạm Thái Ông khi xưa làm Phó Sứ Thiên Triều Khâm Sai, bởi có bị điều bất công nên phải trích giáng xuống nơi trần thế, nên Ngọc Hoàng tức thì xem xét lại lời khấn của Phạm Thái Ông. Thiên Đình doãn hợp!
Năm Quý Sửu niên hiệu Thuận Thiên lục niên (1433), triều Vua Lê Thái Tổ, một đêm rằm tháng Sáu, trên Thiên Đình mở Thiên Triều Hội Nghị. Đức Ngọc Hoàng cho vời Đệ Nhị Tiên Nương Quỳnh Nương Tiên Chúa vào chầu. Vài phút sau, một vị Tiên Nương mặc áo hầu gót sen nhẹ bước tới, khoan thai mà quỳ lạy trước sân rồng chờ lệnh. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế phán rằng, "Trần Hoàng có Phạm Thái Ông, tu nhân tích đức đã lâu mà chưa có con. Nay cha muốn cho con xuống đầu thai làm con nhà họ Phạm ít lâu rồi lại trở về Linh Tiêu, con thấy sao?"
"Đội Đức Thiên nhan non cao bể rộng, không toan cưỡng lời, Hoàng phụ thân phán dạy mấy lời, con xin tuân mệnh" - Tiên Chúa khẽ tâu lại.
Đức Ngọc Hoàng nghe Tiên Chúa tuân lệnh vui lòng xuống trần gian thì trong lòng vui vẻ lắm. Quần Tiên xung quanh tấu lên tâu hỏi Đức Thiên Đế rằng, "Tiên Chúa xuống trần gian thì độ bao lâu?". Suy nghĩ một lát, Đức Ngọc Hoàng liền cầm bút son ngự phê hai chữ "Linh Tiêu" trên đầu của Tiên Nương, phía dưới đề năm chữ "Tứ phương lai cúng Phật", rồi truyền bãi triều. Dưới trần gian, nhằm giờ Tý đêm rằm đó, Phạm Thái Bà nằm chiêm bao thấy Đức Tây Cung Vương Mẫu hiện lên, ban cho bà một quả đào tiên hương thơm ngào ngạt. Kế đó, Phạm Thái Bà có thai!
Thời gian thấm thoắt thoi đưa, đã đến ngày Đệ Nhị Quỳnh Nương Tiên Chúa giáng trần. Trước khi đi, Tiên Chúa bước vào lạy Đức Hoàng Phụ và Mẫu Hậu, rồi trở ra ngoài mà chào văn võ bá quan cùng các vị quần Tiên. Dặn dò mọi việc đâu vào đó, Tiên Chúa mới bước lên Loan Xa đã chờ sẵn trước Thiên Môn. Ngay tức thì, xanh ca đàn hát đôi bên, dập dìu phụng liễu xuống miền nhân gian, cờ bay nhạc thổi trống vang, theo hầu Tiên Chúa cả một đàn Tiên Nga.
Một đêm tháng ba, nhằm ngày mùng sáu, năm Giáp Dần niên hiệu Thiệu Bình nguyên niên, triều Vua Lê Thái Tông (1434), Phạm Thái Ông nằm mơ thấy các vị Tiên Nga vào nhà mình, khắp nơi đều tỏa một mùi thơm ngào ngạt. Lấy làm ngạc nhiên, ông vội khăn áo chỉnh tề ra nghênh tiếp. Bước xuống thềm, ông vì kinh sợ khúm núm mà thụt lùi, lệch chân suýt vấp ngã thì giật mình tỉnh giấc. Khi ấy, nhằm giờ Dần, Phạm Thái Bà đã sinh hạ được một người con gái. Trong nhà lúc ấy thơm nức mùi hoa huệ, ai nấy cũng lấy làm vừa mừng vừa lạ. Hoa huệ ấy chính là do các vị quần Tiên đem dâng Tiên Chúa trước lúc giáng trần. Phạm Thái Ông thấy con mình hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm, lại nhớ đến giấc chiêm bao khi các vị Tiên Nga vào nhà, nên đặt tên cho con là Phạm Tiên Nga.
Tiên Nga lớn lên trong sự chăm sóc, yêu thương vô bờ bến của hai bậc phụ mẫu. Bởi gặp cảnh lão bạn sanh châu, Phạm Thái Ông và Phạm Thái Bà lại càng chăm nom săn sóc một cách khác thường, thật quả là
"Yêu như ngọc dấu như ngà
Nưng châu rún biển hứng hoa lưng trời
Mà thê trướng gấm thảnh thơi
Thâm khuê dưỡng dục khác vời Tiên Cung"
Từ khi sinh ra Tiên Nga, hai ông bà thường bảo nhau rằng "Từ khi kết nghĩa với nhau đã hơn hai mươi năm mà chưa hề sinh nở lần nào, thế là biết hào tức tử của ta hiếm lắm. Bây giờ ta già rồi mới có, chắc vì thường ngày chúng ta hay làm những điều phước thiện, cho nên Hoàng Thiên không nỡ phụ lòng, thiệt là cảm ơn Trời Phật không biết nhường nào.". Nghĩ vậy, nên Phạm Thái Ông cùng vợ mình lại tiếp tục lo làm thêm nhiều điều phước thiện hơn nữa. Thời gian thấm thoắt thoi đưa, chẳng mấy chốc mà nàng Tiên Nga đã lên mười tuổi. Năm ấy là năm Quý Hợi, niên hiệu Thái Hòa nguyên niên triều vua Lê Nhân Tông. Thơ rằng:
"Năm lên mười tuổi khôn thay
Một bề hiếu thuận nết na ai tày
Thung thuyên sớm dép túi dài
Quạt nồng đắp lạnh đêm ngày vào ra
Tôn thân thượng mục hạ hòa
Lời ăn tiếng nói như hòa khoan thai
Đủ điều ngôn hạnh công dung
So xem cốt cách khác người trần gian"
Dù mới lên mười tuổi nhưng khác với những thiếu nữ khác đương độ ngây thơ, chẳng biết gì là sự khôn dại hay hiếu thảo, Tiên Nga lại có trí thức thông minh, sớm có những suy nghĩ hiếu thuận, cung phụng hai thân mùa hạ quạt mát, mùa đông chăn mền. Nàng biết mình thác sinh vào cửa nhà giàu có mà trong lòng chưa thực lấy làm vui. Bởi lẽ, nếu là con của nhà nghèo khó, nàng có thể giúp đỡ được phụ thân của mình nhiều hơn. Những khi Phạm Thái Ông hay Phạm Thái Bà đau nhức, Tiên Nga đều hầu bên trướng, nửa bước không rời, chăm lo thuốc thang cơm cháo đến khi cha mẹ lành bệnh mới bớt âu lo.
Một đêm mùa đông tuyết sương lạnh lẽo, Phạm Thái Ông lâm bệnh đã ba, bốn ngày mà thuốc thang bệnh tình chẳng thuyên giảm, ngày biếng ăn đêm ngủ không ngon, vóc ngọc mình mai mà bề ngoài giả dạng làm vui, để Phạm Thái Bà và con không lo lắng. Tuy nhiên, mãi mà bệnh tình chắng bớt, nàng Tiên Nga lấy thực làm lo lắng lắm, trong lòng không yên, nửa đêm bèn tỉnh dậy một mình thắp hương ra giữa thinh không, khấn vái Trời Phật phù hộ cho bệnh tình cha thuyên giảm. Phạm Thái Bà nửa đêm chở dậy chợt tỉnh giấc, không thấy con đâu bèn thắp đèn đi tìm, làm cả Phạm Thái Ông thức giấc. Ra điện giữa sân, hai ông bà thấy Tiên Nga đương quỳ khấn nguyện giữa trời, tuyết rơi phủ kín cả người bèn cảm động quá, chờ con khấn xong vội gọi vào thay áo đi nghỉ. Bởi thấy con mình cỏn nhỏ mà đã chí hiếu với cha mẹ, Phạm Thái Ông trong lòng khoan khoái vui tươi, từ đó về sau mà bệnh tình thuyên giảm.
Đến tuần tam ngũ phương chi, bạn tần khách tấp nập dìu vãng lai. Phạm Thái Ông mới ướm lời hỏi con rằng, "Chiêu thân sớm định để già tâm khoan, thấy con ngồi dưới gốc thừa hoan thân con nên phải lo việc nhà". Tiên Nga nghe song thân chỉ dạy vậy cũng lấy làm cảm động, nhưng nàng quyết nhất định thủ tâm trinh bạch, bụi trần không chút vướng dơ, liền tự nghĩ mà thưa lại rằng:
"Nay con đội đức sinh thành
Ơn tày biển rộng nghĩa đà non cao
Hổ thân chút phận thư đào
Hình tâm tử tức triệt vào cung phu
Cuộc đời như thể phù vân
Thần Tiên bận lấy duyên trần làm chi?
Nhớ khi nuôi dưỡng phù trì
Nghĩ sao báo đáp ơn này cho phu?
Con xin dốc chí đường tu
Chiều hôm ban sớm duy du vui cùng
Mặc ai mối điệp tin ong
Mặc ai lá thắm chỉ hồng bạn duyên
Khi xưa phẩm cách người Tiên
Lễ nào lỡ để hồng liên bùn lầy."
Phạm Thái Ông và Phạm Thái Bà nghe vậy chẳng nói thêm được lời nào, lại ngỡ rằng con mình tiền thân Phật Quan Thế Âm giáng thế chăng, nên cũng chiều lấy lòng con mà chẳng bàn thêm đến chuyện duyên số nhân duyên nữa. Cứ thế, nàng Tiên Nga ở vậy mà tu tâm tích đức, lại chăm lo mọi việc gia thất chu đáo, lo cho song thân được an bình, thật quả là:
"Ngán thay dưới đất trên trời
Một người mà gánh hai vai thâm tình
Báo ân tử đức sinh thành
Gần xa ai kẻ nức danh nữ tài".
Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Quang Thuận tam niên, dưới triều vua Lê Thánh Tông, Phạm Thái Ông tạ thế. Năm ấy, Tiên Nga hai chín tuổi.
Năm Giáp Thân, niên hiệu Quang Thuận ngũ niên, triều vua Lê Thánh Tông, Phạm Thái Bà đi theo Phạm Thái Ông về miền cực lạc. Năm ấy, nàng Tiên Nga vừa tròn ba mốt tuổi.
Chỉ trong hai năm, cả song thân đều mất, Tiên Nga đau đớn mà ngất đi tỉnh lại chẳng biết bao nhiêu lần. Trên không anh, dưới không em, một mình nàng Tiên Nga phải bối rối ngậm thảm nuốt sầu, khó bề toan liệu, bèn mời các trưởng lão trong làng trong xóm lại bàn. Các ông trông thấy Tiên Nga nết na hiếu lễ, ai cũng thương tình mà người giúp việc này, kẻ đỡ việc kia, làm lễ táng cho cả hai ông bà vô cùng trọng hậu. Tiên Nga lo toàn mọi việc, nào hầu hạ họ đương làng nước, thiết đãi kẻ viếng người thăm, lo thiết đàn chay cầu siêu cho song thân, lo tống táng an toàn, một mình nàng trăm tính ngàn toan, lo đâu đó mọi việc chu đáo. Rồi sau đó lại lo báo đáp người có công giúp, lạy tạ người giúp việc mình không sót một điều đáng trách. Tới tuần tứ cửu, Tiên Nga lập đại đàn chay bố thí bảy ngày đêm, lại cầu nguyện cho vong linh song thân được siêu độ.
Lòng hiếu thảo và sự tận tụy của Tiên Nga thấu đến cửu thiên. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đem bộ trắc giáng ra ngự lãm, thấy rằng Đệ Nhị Tiên Nương Tiên Chúa còn mười năm nữa mới đến hạn quy tiên. Rồi, Ngài ban rằng, Phạm Thái Ông và Phạm Thái Bà hằng ngày lo làm việc phúc thiện, tu nhân tích đức nên cho được siêu độ.
Dưới trần gian, Tiên Nga bởi nhớ cha thương mẹ mà ngày biếng ăn đêm biếng ngủ, chỉ thở vắn than dài không còn mong muốn làm gì nữa. Trong làng có một cụ già thấy Tiên Nga nết na hiếu thuận, lại xảy ra việc như vậy nên thương tình mà tới khuyên giải rằng, "Đạo làm con, khi cha mẹ mất rồi, không phải là than phiền như thế mãi mới là có hiếu. Hai ngài không có con trai, chỉ một mình cô là con gái lại không xuất giá, thế là gái cũng như trai. Cô nên giả sầu làm vui, chăm chỉ làm ăn mà giữ bền cơ nghiệp. Kẻo một mai cơ đồ sa sut, chắc hai ngài ở dưới cửu tuyền cũng không được thỏa dạ. Cô nên nghĩ lại mà khuya sớm giải khuây". Tiên Nga nghe vậy như hồi tỉnh, bèn quỳ xuống lạy mà tâu rằng, "Thưa Cố, những lời Cố dạy con xin ghi tạc vào lòng, ơn đó sau này chẳng dám quên".
Từ sau buổi gặp gỡ đó, Tiên Nga canh cửi vá may, lại lo lắng làm ăn, chẳng buồn rầu như trước nữa. Một ngày nọ, Tiên Nga chiêm bao thấy có bà Tam Tinh Công Chúa hiện lên mà nói rằng, "Tôi là con gái Vua Động Đình, vâng mệnh đem vàng bạc châu báu lại mà giúp". Kể từ đó, quả nhiên trong mười năm sau tài chí như xuyên. Tiên Nga làm ăn phát, chẳng bao lâu mà giàu gấp năm gấp mười lần trước đây, nàng cảm tạ cái ơn của Vua Động Đình nhiều lắm. Càng giàu lên bao nhiêu, nàng lại đi làm phước thiện bấy nhiêu. Nào trợ cấp cho đồng dân, lo dựng chùa lập miếu cho làng, lo xây đắp mộ cho các vị Tiên Linh, sửa sang nhà từ đường để phụng sự, còn dư giả bao nhiêu Tiên Nga đem bố thí cho bốn phương dân cùng.
Ngày tháng thoi đưa, rồi sẽ chẳng mấy chốc là Tiên Nga mãn hạn trần gian để trở về Thiên Cung. Một ngày nọ , nhân tiết trời xuân, khí trời mát mẻ, trăm hoa đua nở trong vườn, trên cành chim hót líu lo, Tiên Nga nhân khi nhàn hạ dạo gót sen ra vườn mà thưởng ngoạn cảnh xuân cho tiêu sầu giải muộn. Nàng chợt nhớ ra, hôm nay là ngày mùng Chín tháng Giêng, là ngày Vạn Thọ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Nàng mơ màng trong trí nhớ, nên sau thường trông cho ngày tháng mau qua để trở về Trời mà hưởng vui cùng chị em trong cung Quảng.
"Quản cai long mạch bấy lâu
Phụng sai rước Chúa về chầu Thiên Cung"
Ngày mùng Một tháng Ba năm Quý Tỵ, niên hiệu Hồng Đức tứ niên, triều vua Lê Thánh Tông (1473), vị Thổ Thần (tức Phùng Vương) hiện lên báo cho Tiên Nga biết đã tới ngày nàng trở về Thiên Cung. Kế đó, nhằm giờ Dần, ngày mùng Hai, một trận gió ào ào làm đổ lộc rung cây, có một đám mây ngũ sắc dựng lên mùi thơm ngào ngạt. Kế đó, trên không trung hiện ra các Tiên Nữ, có Quân Tiên chầu sẵn với hai Tiên Nữ dâng quả ngọc thạch, quả ngọc đào lên. Tiên Nga dở ra, thấy bên trong có một con dao, liền lấy dao cắt quả đào mà trật tay rơi ba dây máu, bấy giờ gọi là Ba Khê. Còn đương xem ngón tay thì xe loan đâu đã tới, Tiên Nga thấy vậy liền bước lên xe mà về hầu Thượng Đế. Lên tới Thiên Cung, Tiên Nga - lúc này đã trở lại thành Đệ Thị Quỳnh Nương Tiên Chúa, vào bái yết Phụ Hoàng cùng Phụ Mẫu, rồi trở ra chào văn võ bá quan, sau đi thăm các vị Quần Tiên cùng chị em trong cung Quảng, vui vẻ thanh nhàn:
"Bầu trời cảnh Phật non Tiên
Mới hay vui thú khác miền trần gian
Linh Tiêu ngày tháng thanh nhàn
Tràng sinh đơn nhược rõ ràng là đây"
Vui cảnh Linh Tiêu, nhưng Tiên Chúa vẫn nặng một lòng nhớ về vùng Nghĩa Hưng quê nhà. Rồi một ngày kia, nhằm năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên, triều vua Lê Anh Tông (1557), nhân lễ Vạn Thọ của Đức Ngọc Hoàng, Thiên Đình mở tiệc linh đình, cờ treo ngũ sắc, đèn sáng muôn màu, trên bàn ngự sơn hào hải vị, trước sân rồng vũ nhạc tiêu thiều. Liệt Thánh Liệt Tiên, văn võ bá quan làm lễ chúc thọ trước Điện Rồng rất uy nghiêm. Trước cảnh uy nghi tráng lệ ấy, Tiên Chúa chợt nhớ rằng, khi còn là nàng Tiên Nga ở dưới trần gian chưa từng làm được lễ chúc thọ cho song thân - Phạm Thái Ông và Phạm Thái Bà - được long trọng như thế để báo hiếu cho cha mẹ. Nàng cảm động quá mà thổn thức trong lòng, chân tay rã rời. Tới khi lên dâng thọ tửu mừng Đức Ngọc Hoàng, Tiên Chúa bổng sẩy tay mà làm rơi chén Ngọc. Ngọc Hoàng Thượng Đế thất ý, liền truyền ghi ngay tên Tiên Chúa vào sổ trích giáng trần thế. Bị trích giáng mà tỏ ý không bằng lòng, cho nên Tiên Chúa đi ra mà chân bên tả đi nghiêng, lệch không thẳng. Ngọc Hoàng thấy vậy bèn cho vời Đức Thế Tôn phán rằng, "Quỳnh Nương (tức Tiên Chúa - Đệ Nhị Tiên Nương) bị trích, ta thấy khi ra chân bên tả hơi lệch, tất sau này có biến phi thường, trần gian nhiều người oán khổ, lệnh sai ba vị Tiền Quan, Trung Quan và Hậu Quan ra phép trừ đi mới khỏi".
Vậy là sau tám mươi tư năm trên Linh Tiêu, Tiên Chúa lại bị trích giáng xuống trần gian. Lần này, Tiên Chúa vẫn giáng về vùng Nghĩa Hưng quê cũ.
Lại nói, dưới trần gian lúc này nhằm thời vua Lê Anh Tông. Vốn tới thời này, dòng đích của Lê Thái Tổ không còn người kế vị do vua Lê Trung Tông không có con nối dỗi. Đây là thời kì triều đình rối loạn, hai phe Nam triều (nhà Lê) và Bắc triều (nhà Mạc) đánh nhau dai dẳng suốt một vùng từ Thanh - Nghệ ra Bắc. Năm 1592 nhà Mạc thua chạy lên Cao Bằng, họ Trịnh dựa vào danh nghĩa họ Lê nắm toàn quyền thống trị hình thành nên một triều đình "Vua Lê – chúa Trịnh" ở Đàng Ngoài.
Ở tỉnh Nam Định, phủ Nghĩa Hưng, huyện Thiên Bản có thôn Vân Cát thuộc xã An Thái, có nhà Lê Thái Ông hiệu là Đức Chính lấy vợ là Trần Thị Tự hiệu là Phúc Thuấn. Lê Thái Ông vốn xưa nguyên dòng dõi nhà Trần. Sau thời kì loạn lạc Hồ Quý Ly, dòng họ gia tộc mới phải cải họ Trần ra họ Lê cho khỏi bị họa Trương Minh Phụ giết tôn thất nhà Trần quá nhiều. Hai vợ chồng nhà Lê Thái Ông là người hiền đức, ngày làm việc thiện, đêm lại thắp hương cáo với Ngọc Hoàng Thượng Đế, đến năm bốn mươi tuổi mới sinh được một người con trai đầu lòng tên là Lê Lục.
Năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên, triều vua Lê Anh Tông (1557), Lê Thái Bà có thai lần thứ hai, nhưng đã quá ngày mà chưa sinh được. Thường ngày, Bà không ưa các thức mặn mà chỉ thích hoa quả, trong nhà thấy vậy ngỡ tưởng yêu quái quấy nhiễu nên thiết đàn mời thầy phù thủy tới mà trừ tà trị bệnh. Tuy vậy mà không hiệu quả, mọi chuyện còn tệ hại hơn.
Một ngày tuần tháng ba, trời thanh trăng tỏ, có một người chít khăn nâu áo vải, ra dáng một đạo nhân, đứng ngoài cửa xin được vào chữa bệnh. Tuy vậy mà người nhà không cho vào. Người đạo nhân mới cười mà nói rằng, "Ta đây có phép phục long, hàng hổ, xuất u nhập minh, thấy nhà ngươi ăn ở hiền lành mới vào cứu giải, sao nhà người lại không cho ta vào?". Lê Thái Ông nghe vậy vội mở cửu mời vào. Vừa vào tới nhà, người đạo nhân rũ tóc lên đàn, miệng niệm thông thiên thần chú, tay rút cái búa ngọc trong tay áo ra ném xuống đất. Ngay tức thì, Lê Thái Ông mê thiếp đi, mơ thấy hai viên lực sĩ đầu đội nói dấu, mình mặc áo giáp, tay cầm hèo hoa dẫn ông đi. Đường đi khúc khuỷu quanh co, càng lên càng cao, hết tầng này tới lớp khác, sắc trời cứ mờ mờ như sáng trăng, chẳng trông rõ được gì. Đức Thái Ông đi mãi cũng thấm mệt, không muốn đi nữa, bèn xin hai ông lục sĩ ngồi nghỉ nhưng chẳng được, trái lại còn giục đi gấp mà nói rằng, "Kìa cửa Kim Khuyết đã tới nơi, mời ông chịu khó đi gấp kẻo trễ". Lê Thái Ông lại theo hướng tay của hai người mà đi, một chốc thì tới một cái cửa làm toàn bằng vàng sáng chói cả mắt, phía ngoài có hai con rồng chầu mặt nguyệt, tầng dưới có hai con phụng ngậm quyển thư, tầng trong là con kỳ lân giỡn quả cầu, dưới có có hai con quy đội đồ bát quát, làm toàn bằng ngọc cả.
Tới đây, Lê Thái Ông đang đứng ngẫm nghĩ ngắm cảnh thì hai ông lực sĩ đem áo cho ông thay, lại đưa qua chín tầng cửa nữa mới tới một tòa nhà làm bằng mã não, bảo ông đứng chờ bên ngoài. Mấy phút sau, chợt đám mây hồng mùi thơm ngào ngạt bay tới, hiện ra một vị tóc bạc phau phau, khuôn mặt vuông chữ điền, màu da đỏ thắm, đội mũ bình thiên, tay cầm ngọc như ý chung quanh mình có đạo hào quang chiếu sáng rực rỡ khắp một vùng trời. Bốn phía che tàng tía, hai bên đích thị là các quan đứng chầu áo mão xiêm đai, văn võ tướng kể biết bao nhiêu người. Sự nghiêm chỉnh này, dưới trần gian, Lê Thái Ông chưa từng nhìn thấy bao giờ. Tức thì, nhạc quân thiên tấu trước, khúc nghê thường chen gót múa sau. Trên mâm lưu ly dâng quả bàn đào của Đức Vương Mẫu, trong bình đơn nhược của Đức Lão Quân, hằng hà sa số châu báu không kể xiết.
Lát sau, Lê Thái Ông thấy cảnh một vị Tiên Nữ mặc áo hồng vào làm lễ, bưng chén Ngọc dâng tửu lên chúc thọ, sẩy tay rơi xuống. Bên tả một vị quan mở quyển sổ ngọc, biên vào ước chừng mười chữ, rồi thấy vị ngồi trên ngai Rồng ở giữa nổi cơn thịnh nộ lôi đình mà mắng "Sao ngươi không tròn phận sự giữa Đế Đình như thế?". Rồi có hai vị sứ giả và vài người thị nữ dắt Tiên Nữ ấy đi ra cử nam, một người cầm tiên bài đi trước, trên có đề hai chữ Sắc Giáng, đoạn dưới có hai chữ "Nam Nam" và vài dòng chữ nhỏ. Lê Thái Ông lấy làm lạ, mới quay sang hỏi hai vị lực sĩ rằng "Đây là chốn nào? Đó là ai? Có chuyện gì xảy ra vậy?". Một người mới đáp rằng, đây là Thiên Đình, người ngồi giữa là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, còn người con gái mặc hồng y là Đệ Nhị Quỳnh Nương bị trích giáng.
Nói đoạn, có tiếng quát rằng "Các người là ai? Làm chức tước gì ở nơi nào mà dám tới đây". Hai viên lực sĩ mới thưa rằng, "Chúng tôi là Ngũ Lôi Thần Binh đến chờ chỉ". Nói rồi, hai người lại đem Lê Thái Ông trở về trần gian. Lúc này, trống đã tàn canh, Lê Thái Ông dần tỉnh lại.
Ngày hôm ấy nhằm ngày Giáp Dần, giờ Dần, tháng Bính Thìn, tức ngày mùng Ba, tháng Ba năm Đinh Tỵ, niên hiệu Thiên Hựu nguyên niên, triều vua Lê Anh Tông (1557), Lê Thái Bà hạ sinh một người con gái.
Lúc ấy, mùi thơm ngào ngạt, ánh hào quang rực rỡ đầy nhà khiến ai nấy đều vui mừng. Trong lúc cả nhà đang cười nói xôn xao, xóm làng bà con xa gần đều đến viếng thăm, người đạo nhân đã biến mất đi đâu chẳng rõ. Ai lấy cũng cho đây là sự linh cảm, ngợi khen không ngớt. Lê Thái Ông mừng lắm, lại nhớ tới sự xuất thần ban nãy của mình, ắt con gái mới sinh là Tiên Nữ giáng trần, mới đặt tên con là Lê Thị Thắng, hiệu là Giáng Tiên. Lại nói, nhà Lê Thái Ông sở dĩ được Tiên Chúa trên Thiên Đình là Đệ Nhị Quỳnh Nương giáng vào là nhờ ngôi mộ tổ tam đại, kết ngôi mộ đó tọa không hướng cấn ở xứ La Hào, làng An Thái, huyện Vụ Bản.
Giáng Tiên lớn lên, da trắng tóc mây, đôi mắt ngọc long lanh, lông mày cong cong hình bán nguyệt, nhan sắc lạ thường trần gian hiếm có. Được vợ chồng Lê Thái Ông hết mức yêu thương, chăm bẵm, Giáng Tiên càng lớn càng có tư chất thông minh, được cha bày cho vịnh phú ngâm thơ, cho đi học thầy học bạn. Năm lên mười tuổi, Giáng Tiên đã thuộc lòng thông thạo ngũ kinh tứ thư. Bấy giờ nhà Lê Thái Ông đông khách văn kẻ ra người vào, Giáng Tiên chẳng thể chuyên cần đặng sự học hành nghiên bút, mới xin song thân cho ở riêng một cái nhà vườn sau để tịnh mà đọc sách ngâm thơ. Ngày ngày, Giáng Tiên ở đó đề thơ vịnh phú, đọc sách gẩy đàn thanh nhàn thanh cảnh.
Một ngày, Lê Thái Ông dạo chơi trước sân, bỗng nghe tiếng đàn của Giáng Tiên thanh tao mà văng vẳng như tiếng nhạc quân thiên trên Thiên Đình trong giấc mê nọ, mới ngờ rằng con mình là người Thiên Cung, thác sinh về nhà mình dưới trần gian sợ chẳng nuôi nổi. Ông bèn bàn với vợ mình, gửi con làm nghĩa nữ cho một người bạn thân là Trần Công. Nguyên xưa Đức Trần Công là một viên quan hồi hưu, dòng dõi Trần Triều, kiều cư tại thôn Vân Cát đây. Sau khi bằng lòng nhận Giáng Tiên là nghĩa nữ, Trần Công cho nàng một ngôi nhà lớn ở sân gần bên vườn hoa để thanh tịnh mà chăm đèn sách.
Lại nói, trấn Sơn Nam bấy giờ nổi danh một chàng trai văn hay chữ tốt, tiếng tăm lừng lẫy là Trần Đào Lang, con nhà một lão quan họ Trần. Khi xưa Trần lão quan mãi mà chẳng có con, một đêm kia nhân lúc nhàn hạ gió mát trăng thanh mới dạo gót ra vườn hoa chơi, bỗng gặp một bé trai ở dưới gốc cây đào bèn đem về nuôi, đặt cho chính cái tên là Đào Lang. Xét thấy Đào Lang thông minh đĩnh ngộ, diện mạo khôi ngô, Trần lão quan cùng vợ hết lòng thương như con ruột, cho đi học đủ điều. Năm Quý Dậu niên hiệu Gia Thái nguyên niên, triều vua Lê Thế Tông (1573), Trần Đào Lang lên tuổi hai mươi. Khi đó, nàng Giáng Tiên cũng đã mười bảy tuổi tròn.
Thường ngày, Trần lão quan vẫn hay qua lại chơi nhà Trần Công, thấy Giáng Tiên nhan sắc tuyệt trần, lại thông minh quần chúng, bèn cậy người mai mối tới Lê Thái Ông để cầu hôn cho con trai là Đào Lang. Song thân của Giáng Tiên mới cùng bàn chuyện với Đức Trần Công, xét thấy nhà họ Trần cũng là dòng dõi trâm anh, mà Đào Lang cũng học hành nức tiếng, đã là đồng hương mà lại cân đối tài sắc với Giáng Tiên, bèn quyết nói lời với con gái về việc hôn sự này. Thế nhưng, Giáng Tiên một hai không chịu, chỉ muốn thanh tu cho khỏi sự trần lụy này. Tuy vậy, Lê Thái Ông và Lê Thái Bà vẫn cố lòng khuyên giải và nhất định hứa hôn Giáng Tiên cho chàng Đào Lang.
Ngẫm nghĩ một hồi lâu, Giáng Tiên mới tự nhủ rằng, thân là Tiên Chúa, Đệ Nhị Quỳnh Nương của Thiên Đình, mà nay đã giáng xuống cõi trần, để báo đáp ơn sinh thành của song thân, cũng là cho trọn quả kiếp, thôi đành kết duyên để mà vừa lòng đẹp ước song thân. Năm tròn mười tám tuổi, Giáng Tiên bái biệt thân phụ, thân mẫu, vu quy về làm dâu nhà Trần lão quan, se duyên với chàng Đào Lang. Từ ngày về làm con dâu, Giáng Tiên luôn giữ cử chỉ trong nhà, kính lễ cha mẹ, giữ đạo thành hôn, trong họ ngoài làng ai ai cũng đều khâm phục.
Một năm sau, cuộc se duyên của Giáng Tiên và Đào Lang trọn vẹn khi sinh được một người con trai, đặt tên là Trần Nhâm, mặt vuông tai lớn, miệng rộng trán cao, thật là một trang hào kiệt. Cuộc sống trôi qua êm đềm hạnh phúc, khi thanh nhàn, chàng Đào cùng nàng Giáng Tiên xướng họa thi ca, quang cảnh lạc thú trong gia đình khiến ai nhìn vào cũng thật là khen ngợi. Cuộc sống cứ trôi qua êm đềm như vậy, tưởng sẽ chẳng có gì chia lìa được đôi lứa vui bầy.
Bỗng, trâm gãy bình rơi, tạo hóa trêu ngươi...
Giờ Dần, ngày mùng Ba tháng Ba năm Đinh Sửu, niên hiệu Gia Thái ngũ niên triều vua Lê Thế Tông (1577), Giáng Tiên không bệnh mà mất, hưởng linh hai mưoi mốt tuổi!
Than ôi! Trời xanh sao nỡ chia lìa đôi lứa, chưa vui sum họp đã sầu chia phôi. Tứ thân phụ mẫu Giáng Tiên cùng đúc lang quân vô cùng buồn thương đau xót tới mức ngỡ ngàng, thảm thương bi oán, làm lễ an táng rất hậu. Mộ nàng được táng tại cây đa bóng làng An Thái. Thế là, Giáng Tiên đã mãn hạn trần gian, trở về Thiên Cung, trở lại làm Đệ Nhị Quỳnh Nương Tiên Chúa của Linh Tiêu.
Từ khi thác hóa về chốn Thiên Đình, Tiên Chúa lấy sự trần duyên chưa mãn mà trong lòng áy náy khôn nguôi. Mỗi khi lên chầu Ngọc Hoàng lại sầu ủ mày xuân, khi hội tiệc Đức Mẫu Vương thì châu chan nét ngọc. Các vị Quần Tiên lúc ấy cũng thấy thương xót cho Tiên Chúa, bèn bảo nhau tâu bày cùng Ngọc Hoàng Thượng Đế. Đức Ngài mới sắc phong cho Tiên Chúa là "Liễu Hạnh Công Chúa", cho phép trắc giáng phi thường, tiêu diêu tự thích cho khỏi nỗi u sầu. Năm ấy chính là năm Kỷ Mão, niên hiệu Quang Hưng nhị niên, triều vua Lê Thế Tông (1579).
Tuân thừa mệnh lệnh, Tiên Chúa giáng trần về thẳng quê nhà. Lúc này dưới trần thế, cả nhà đang làm giáp lễ đại tường, tức đoạn tang ba năm của Tiên Chúa, tức nàng Giáng Tiên. Từ ngày con gái mất, Lê Thái Bà sầu não, nhớ con mà trong lòng vô cùng đau xót. Một hôm, bà ra thư phòng, kiểm tra lại thư tịch và đồ dùng mà chỉ thấy gió cuốn màn xưa, mặt trời chiếu thẳng qua ô cửa sổ, mọi thứ đồ bài trí vẫn còn đó, nào sách vở, nào đàn sáo đều nhện giăng bụi phủ, nên Thái Bà trông mà động lòng quá khóc ngất đi. Bỗng nhiên, một trận gió từ phương đông thổi lại, rồi thấy Tiên Chúa trong hình hài của nàng Giáng Tiên hiện lên, ôm lấy Lê Thái Bà mà gọi rằng, "Thưa Từ Mẫu lai tỉnh, con đã hạ trần xuống thăm Từ Mẫu đây". Lê Thái Bà bàng hoàng mở mắt ra xem, như chẳng tin vào cả đôi mắt lẫn đôi tai mình. "Hạ trần?". Chẳng lẽ Giáng Tiên con gái bà chính là Tiên Chúa giáng trần sao? Lúc ấy, nàng Giáng Tiên làm thinh mà ứa hai hàng lệ. Lê Thái Ông và hai ông bà Trần Công cùng người anh trai Lê Lục cũng đã tới thư phòng, xúm lại mà nửa mừng nửa sợ. Chàng Đào Lang bấy giờ cũng vừa bồng con lại mà than khóc thảm thiết thê lương ai oán.
Giáng Tiên bây giờ mới gạt nước mắt lạy mà rằng, "Con thật bất hiếu, lụy đến song thân. Chẳng phải con không biết đạo làm con để mà vui vầy dưới gối, song vì duyên số khôn lường, số Trời khó tránh, xin song thân nhẹ đoạn tình thâm, tạm thâu giọt lệ". Nói đoạn, nàng quay sang thưa với thân huynh, xin thân huynh hầu hạ song thân thay cả phần của nàng, bởi còn hạn phải về chầu Thượng Đế. Rồi sau đó, nàng mới quay qua mà lạy phu quân là chàng Đào Lang mà thưa rằng, "Xin phu quân bớt cơn sầu muộn, để tiện thiếp phân biệt đôi lời. Thôi thì số trời đã định, cho tiện thiếp kết duyên với chàng chỉ ngần ấy thôi. Xin phu quân xem xét lại mà di dưỡng tinh thần, kẻo hao mòn quý thể."
Kế tới, Giáng Tiên quỳ lạy ông bà Trần Công mà lạy xin hai vị yên lòng mà lượng thứ cho nàng. Đức Trần Công mà rằng, "Từ khi âm dương cách biệt, chúng ta hồn vơ phách vẫn, ruột héo gan mòn, bữa thường ngao ngán, giấc những mơ màng, tưởng đến hình dạng con mà chẳng nguôi tấc dạ.". Giáng Tiên nghe vậy thì xúc động lắm, bèn thưa rằng "Con là Đệ Nhị Quỳnh Nương Tiên Chúa trên Thiên Cung, bị trích giáng, nay đã từ giã cõi trần mà về chầu Thượng Đế. Xong, nghĩ tới ân thâm cúc dục nghĩa trọng cù lao mà tạm xin Ngài được về viếng thăm, gọi là chút tạ ơn để cha mẹ có âm đức, được liệt vào Tiên tịch, rồi ngày sau tất sẽ được đoàn viên.".
Chàng Đào Lang lặng thinh từ đầu, nghẹn nói không thành lời. Giáng Tiên thấy vậy động tâm quá mà lụy lòng, bồng lấy con mơn mớn tạm biệt, cảnh tượng vô cùng sầu oán. Đào Lang khi ấy mới nói rằng, "Tôi may được phối hiệp lương duyên, cũng mong được bách niên giai lão. Não ngờ đâu nửa đường ly biệt, nặng gánh sầu tư nay lại được kết duyên tái sinh này thật hạnh phúc, cũng xin nàng lưu lại chốn này.". Giáng Tiên nghe vậy thấy xót xa trong lòng mà bật khóc, thưa lại rằng "Tôi cũng muốn ở lại hầu hạ lương nhân cho trọn chữ tòng, nhưng số Trời đã định, ở trần thế chỉ có chừng ấy thôi". Nói đoạn, nàng sụp xuống lạy chàng Đào hai lạy rồi hóa Tiên Chúa biến mất. Ánh hào quang trong nhà bay ra, mùi thơm ngào ngạt rồi chẳng còn thấy bóng dáng người nữa.
Thời gian cứ trôi, mà lòng người thì mãi ở lại đó. Chàng Đào Lang lên kinh học tập, đem theo cả con mình. Nhưng, phần vì thương con, phần thì nhớ vợ mà chẳng thể nào chuyên tâm học tập. Một hôm đương tiết sang thu, trời trở giá lạnh, lách tách mưa gió giọt thêm nghe phiền trong dạ. Chàng Đào Lang ngồi ngâm hai bài thơ tứ tuyệt cho vơi nỗi buồn buồn, thơ rằng:
" Kiếp bạc thương thay uổng một đời
Duyên xưa ngẫm lại lúc nào nguôi
Cầu Hoàng Tư mã đàn năm trước
Loan hạc bây giờ bỗng lẽ đôi"
và
"Quán khách buồn tanh gối chẳng yên
Huống trời mưa gió lại thêm phiền
Trời kia có ý thương ta nhỉ
Mưa gió đừng cho lọt mái hiên"
Chàng Đào Lang ngâm thơ vừa xong thì cũng là lúc hài nhi an giấc, bấy giờ bỗng đâu gió lạnh thoảng qua, ngọn đèn nửa mờ nửa tỏ, lắng tai nghe thấy có tiếng người. Chàng đứng dậy nhìn thì ô kìa, phải chăng là bóng dáng của Tiên Chúa giáng xuống trần gian? Nửa mừng nửa sợ, chàng Đào Lang níu lấy áo mà than khóc rằng, "Nương nương ơi! Ta là thư sinh trần tục tốt duyên dầy phúc, được gặp người Tiên lòng những mừng thầm. Con trai đã có, nhà cửa vẻ vang những tưởng trăm năm vàng đá. Ngờ đâu đứt gánh giữa đường, phụng rẽ loan chia để một mình vò võ, ngao ngán thay chiếc gối mơ màng, thật là trăm sầu nghìn thảm. Dẫu cho gan vàng cũng nát, dạ sắt cũng tan, nay xin nương nương cho tôi nối gót theo cùng cho thỏa lòng sầu thảm mấy năm trời.
Tiên Chúa lấy tay che mặt khóc mà thưa lại rằng, "Xin lương nhân đừng quá thương tâm như thế mà sai, chớ nghĩ tình duyên má phấn để phí lãng khoa danh. Vả lại, nghiêm từ già yếu, con trẻ thơ ngây biết cậy nhờ ai?". Chàng Đào Lang nghe Tiên Chúa khuyên mấy lời, trong lòng không khỏi xót xa lụy ứa thắm khăn liền nói với Tiên Chúa mà rằng "Chẳng phải tôi đây thiếu nghĩ, song mà gánh sầu nặng vai, dẫu có nắng mưa giữ gìn, sống được e khó nỗi.". Nghe vậy, Tiên Chúa an ủi mà dãi bày "Thiếp vốn là Thiên Cung Tiên Nữ, còn lương nhân là Đề Sở Tinh Tào, hai bên gặp gỡ ắt có thiên nhiên tiền định. Chẳng may nửa chừng bình rơi trâm gãy, để cho đôi ta nuốt thắm ngậm sầu. Vả lại tình duyên chưa mãn, khoảnh khắc trong ba mười năm đôi ta được tái hợp, xin lương nhân tạm gác cơn sầu mà chăm nuôi con khôn lớn trưởng thành, chớ nghĩ đến thiếp lòng phiền đeo nặng.". Nói tới đây thì trăng cũng vừa lạc bóng, trời sắp rạng đông, Tiên Chúa đứng dậy mà thưa rằng "Bây giờ âm dương cách biệt, mỗi khi thiếp nhớ về quê hương mà lòng lại đau như cắt, dạ này như nhung. Thiếp nhờ lương nhân thay thiếp viếng thăm, trước để cha mẹ thiếp được khuây lòng, sau lương nhân trọng bề bán tử. Cũng xin lương nhân thay thiếp hầu hạ song thân cho trọn bề hiếu nghĩa, hết phận làm con. Con việc vợ chồng, tuy là bể ái nguồn ân, song mà số phận tại trời, chẳng phải là thiếp ham nơi bổng dảo mà phụ nghĩa tào khang, xin lương nhân đổi sầu làm vui kẻo hao mòn quý thể". Nói đoạn, Tiên Chúa biến mất, để lại chàng Đào ngẩn ngơ nhìn theo mà tuôn hai hàng lệ chẳng biết làm sao.
Trải qua những cuộc bể dâu, từ nỗi đau mất cha mẹ mà trong lòng khôn nguôi nỗi chưa phụng dưỡng song thân tới nơi chốn, cho tới mối lương duyên lỡ dở với chàng Đào Lang, Tiên Chúa phải nuốt tủi ngậm sầu, đắng cay ngàn nỗi không biết bao nhiêu đêm. Sau lần gặp lại cố nhân ấy, Tiên Chúa càng thêm buồn sầu tủi. Người hóa thành một cô gái đẹp, bán trầu rượu ở vùng Đèo Ngang Ba Dội, lúc lại hóa ra một bà lão già mua bán các đồ thực phẩm ở Phố Cát Đại Đồng. Người trần thế không rõ sự tình mà hỷ cợt Tiên Chúa điều chi đều bị tai họa ngay lập tức. Cũng bởi Tiên Chúa là Tiên Nữ trên Thiên Đình, đẹp tựa ngàn hoa, vậy nên có lắm kẻ ngu nhân tục tử ao ước đắm say, mà khi kết cuộc không thành lại đặt ra những câu hát vè mà tỏ lòng khát vọng:
"Ăn trầu nhớ miếng cau khô
Lên đèo Ba Dội nhớ cô bán hàng
Ăn trầu nhớ miệng cau khô
Qua đồi Phố Cát nhớ người năm xưa"
Tới khi Tiên Chúa hiện là một cô gái đẹp ở Phố Cát Đại Đồng, chúng người ấy lại đặt ra những câu hát tỏ lòng mơ tưởng:
""Ai lên Phố Cát Đại Đồng
Hỏi thăm cô tú có chồng hay chưa
Có chồng năm ngoái năm xưa
Năm nay chồng vắng như chưa có chồng"
Phàm những kẻ đặt ra những câu hát đó, hay những người hát lại đều bị tai họa, ai nấy đều phải dốc lòng kính phục, tỏ dạ chân thành mà cúng vái cầu khấn, thờ lại cho được sở cầu như nguyện. Tiên Chúa lúc này mới thấy phụ thân phụ mẫu đã già, đức lang quân lại mắc bề con dại nên gia đình ngày càng nghèo nàn sa sút. Tức thì, Ngài hiện thân làm các tửu quán để mà bán lấy tiền ẩn giúp lang quân và tứ thân phụ mẫu được bình an. Cho tới khi tứ thân phụ mẫu tạ thế, rồi sau đó Đào Lang lo an táng xong cũng lo buồn mà lâm bệnh mất, để lại con trai cho huynh trưởng Lê Lục dạy dỗ, Tiên Chúa lúc này thực sự thấm được nỗi xót xa đau đớn. Cha mẹ hai bên chẳng còn, đức lang quân cũng đã đi, Tiên Chúa vẫn cứ ngày ngày đeo thảm ngậm sầu. Người hiểu tình xót xa, càng nghĩ đến bao nhiêu lại càng căm giận với cái trần kiếp này bấy nhiêu. Trong lòng không thôi bực bội, Tiên Chúa lúc này hiển hiện phi thường, nào bọn ngu nhân nào kiều lẫn gian dâm, Tiên Chúa ra oai sát phạt tất. Thiên hạ chết nhiều vô kể, nhân gian khổ sở, tiếng than vang oán trách đến tận trời xanh.
Năm ấy, Tiên Chúa hóa thân thành một cô gái đẹp, dựng quán bán hàng ở Đèo Ngang. Trên con đường thiên lý từ Bắc tới Nam, đây là một đoạn đường vắng, xưa có nhiều giặc cướp bóc. Từ ngày có quán bán hàng, mà cô chủ lại là một tuyệt sắc giai nhân nên ngày càng có nhiều khách biết mà lui tới ăn uống, nghỉ ngơi. Ấy vậy mà, phàm những kẻ nào vì thấy nữ chủ quán xinh đẹp mà giở thói cợt nhả trêu ghẹo, lại cậy thế làm điều bất chính thì khi về nhà chẳng lăn đùng ra chết thì cũng hóa ngây dại bệnh tật. Tiếng đồn vang khắp nơi nơi, rằng dám mở quán bán hàng ở đây, ắt hẳn nữ chủ quán đây phải là một nữ sĩ võ nghệ cao cường. Mà cũng có những tin đồn lại rằng, ả ta là kẻ giang hồ chuyên quyến rũ trai tơ và làm rặt những điều không lương thiện. Đâu đó, dân truyền tai nhau rằng, chẳng hóa đây chính là một nàng Tiên giáng xuống thử thách phàm trần chăng?
Tiếng đồn đã bay tới tận kinh thành. Hoàng tử con vua là kẻ hiếu sắc, muốn sai người đi bắt chủ quán ở Đèo Ngang về mà sợ vua cha nghiêm khắc quở trắc. Nhưng tính chẳng bỏ, lại thêm sự tò mò, hoàng tử vội sai quân lính chuẩn bị võng cáng và cải trang làm con nhà giàu có, vượt thành, vượt mọi đường đi để tới Đèo Ngang một phen. Tiên Chúa từ xa xét thấy hoàng tử quả là một kẻ tầm thường, chẳng bản lĩnh mà lại kiêu ngạo, ham mê tửu sắc bèn hóa thân thành một cây đào ở gần quán, để hoàng tử ngồi mà nghỉ chân. Trên cây đào ấy, lại mọc ra chỉ một quả chín duy nhất. Hoàng tử thấy vậy, muốn ăn nên sai quân lính hái xuống. Lạ thay, khi cầm vào, quả đào bỗng mềm nhũn rồi thu nhỏ mà biến mất. Ấy là cái sự răn đe của Tiên Chúa dành cho hoàng tử, còn không mau biến khỏi nơi đây? Tuy thấy vậy, lại được quân thị vệ khuyên cẩn trọng, nhưng bởi tính tò mò mà hoàng tử quyết thúc giục đám quân đi cho nhanh.
Tới quán, không chỉ hoàng tử mà những kẻ thị vệ cũng lấy làm mê nhan sắc tuyệt trần của cô chủ. Cả đoàn ăn uống đến tận chiều, trời gần tối mà cũng chẳng chịu đi, lại đòi nghỉ lại, khiến cho cô chủ quản chẳng thể khước từ. Đã vậy, đêm trăng sáng dưới ngọn đèn dầu, nữ chủ quán vẫn kiên trì ngồi tiếp chuyện hoàng tử. Cũng bởi lời nói êm dịu, lại càng khiến hoàng tử đắm say, quên đi mọi nhẽ mà tìm cách ong bướm lả lơi. Càng lúc, hành động của hoàng tử lại càng lỗ mãng, sỗ sàng, thế nên nữ chủ quán phải chạy vào buồng trong. Ấy vậy mà, hoàng tử còn không biết phép tắc, dám đuổi theo mà hòng giở trò xằng bậy. Tiên Chúa thấy vậy tức lắm, bèn hóa phép biến một con khỉ trên núi thành một cô gái đẹp. Hoàng tử lúc này đương trong cơn si mê, lại không thấy chủ quán xinh đẹp đâu, chỉ thấy một cô gái khác trong buồng mà cũng tiến tới giở trò. Tới gần, hoàng tử rú lên bởi người đẹp đâu chẳng thấy, trước mặt chỉ là mọt con khỉ lông lá đáng sợ, rồi nó biến thành một con rắn lớn, trườn qua người hoàng tử, leo lên xà nhà phun lửa phì phì. Hoàng tử sợ đến ngây dại, đám lính vội vàng đưa về kinh. Từ đó, hoàng tử mắc bệnh mất trí nhớ, rồi dở điên dở dại cười nói lảm nhảm. Hoàng hậu thấy vậy sợ hãi lắm, vừa lo che giấu hành tung sai trái của hoàng tử, một mặt tính chuyện nhờ Bát Vị Kim Cương xử lý.
Lại nói, Bát Vị Kim Cương chính là do Phật Bà Quan Âm hóa phép ra hai cái túi, một nổi ở ngoài Biển Đông, một ở xứ Thanh. Sau, hai cái túi ấy nở thành hai đóa hoa, mỗi đóa biến thành bốn vị tướng đủ phép huyền diệu, đi khắp các vùng mà tiễu trừ yêu quái.
Lúc này, triều đình sai người về lại xứ Thanh mà xin bùa của Bát Vị Kim Cương, giải bệnh cho hoàng tử. Khi tỉnh lại, sau tra xét, hoàng tử kể lại câu chuyện nữ chủ quán Đèo Ngang đã gieo vạ tai họa ra sao. Đức Vua giận lắm, truất ngôi hoàng tử bởi những hành vi làm điều xằng bậy, lại sai người về Đèo Ngang truy tìm tung tích và hành vi của nữ chủ quán ấy. Sớ tâu về rằng, Đèo Ngang có một nữ yêu quái hiện hình làm gái đẹp bắt hồn đàn ông, nếu không có tài cao thì thật khó lòng khuất phục. Biết bao nhiêu thầy phù thủy cao tay được Triều Đình cử đi để diệt trừ mà rồi đều đại bại dưới tay của vị nữ chủ quán Đèo Ngang ấy.
Lúc ấy, trên Thiên Đình, Đức Thế Tôn thấy chuyện, mới sai ba vị Tiền Quan, Trung Quan và Hậu Quan xuống ra phép giải trừ, cấm Tiên Chúa sát phạt dân chúng như vậy. Đây cũng là ba vị Quan năm xưa khi Tiên Chúa bị trích giáng xuống trần gian lần thứ hai đã được lệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế mà dõi theo Tiên Chúa. Ba vị vốn biết Tiên Chúa có phép lục trí thần thông của Đức Giao Trì Vương Mẫu giao cho, thật khó lòng mà trừ được, nên khi xuống trần đã bàn với nhau lập ra một kế đánh lừa Tiên Chúa.
Tới Đèo Ngang, vị Hậu Quan hóa thành một người sứ giả, đầu đội mũ ni chân đi giày, mình mặc áo nâu, tay cầm gậy chúc vào tới quán của Tiên Chúa lễ phép mà nói rằng "Bần tăng bấy lâu nay tu luyện ở trong núi kia, nghe nói Tiên Cô có phép lục trí thần thông, rất lấy làm hâm mộ. Nay nhân khi nhàn hạ, muốn đến xin thỉnh giáo, chẳng biết cô có vui lòng dạy bảo ta chăng?". Tiên Chúa thấy vậy cũng lấy làm vừa lòng, đương lúc bất ý không ngờ mà tưởng thật, mới đáp lại "Phù phép ta đây cũng có được ít nhiều, nếu ngài không hiềm chê tôi là hèn mọn, cũng xin sẵn lòng hiến thử một vài phép cho ngài xem".
Tức thi, Tiên Chúa hóa các phép thần thông quảng đại, mà khi Tiên Chúa đang làm phép và ấn quyết, thì từ đằng sau hai vị Tiền Quan và Trung Quan đã thu phép của Tiên Chúa vào Hồ Lê cả lượt. Đến khi trổ tài xong, Tiên Chúa định thu phép vào thì mới chợt nhận ra mình đã bị mắc lừa, mà lúc này quả là ăn năn chẳng kịp. Ba vị Quan lúc này mới nói rằng "Phép của Đức Tiên Chúa như thế, thì cũng đã nhiệm màu linh ứng, nhưng hãy còn thiếu, Tiên Cô quả nhiên nên luyện tập thêm nữa". Tiên Chúa mới hỏi lại "Thiếu gỉ?", thì vị Quan mới đáp rằng, "Ấy là thiếu tấm lòng từ bi!".
Tiên Chúa còn đương ngẫm nghĩ, thì vị Quan lại tiếp lời rằng: "Bấy lâu nay Tiên Cô sát phạt sinh linh nhiều quá, tổn lại tới cả đức hiếu sinh của đức Thượng Đế. Bởi vậy, ba chúng tôi mới vâng mệnh lệnh của Đức Thế Tôn, xuống đây nói lại với Tiên Cô biết. Bây giờ chúng tôi hẵng tạm thu lại bửu bối của Tiên Cô đã. Nay Tiên Cô nên tìm tới cửa từ bi tu luyện ít lâu, sau khi Phạt quả viên thành chúng tôi xin giao lại.". Nói đoạn, ba vị Quan đẳng mây lên thượng giới.
Bấy giờ, Đức Tiên Chúa mới tỉnh ngộ mà lấy làm hối hận, bởi quá tin người mà bị thu bảo bối, lại do sát phạt sinh linh mà kinh động tới Ngọc Hoàng, khiến Người phải tức giận. Tiên Chúa bỏ quán ở Đèo Ngang và đi vân du thiên hạ, tới vùng Lạng Sơn thì dừng chân tại một ngôi chùa đổ nát có tên là Thiên Minh Tự, khói lạnh hương tàn nằm giữa non cao đường vắng. Năm ấy đương là năm Đinh Dậu, niên hiệu Quang Hưng nhị thập niên, triều vua Lê Thái Tông (1597). Tiên Chúa vào lễ Phật rồi ra ngoạn cảnh xem hoa. Cảnh chùa giữa một rừng thông, vượn hót chim kêu như rung chuông, như gõ mõ trước chùa, lại có một con suối bốn mùa nước chảy trong vẻo, lửng lơ vài con cá như có ý nghe kinh. Cảnh tuy đơn sơ mà có vẻ thiên nhiên. Thoạt nhiên, Tiên Chúa thấy Đức Phật Quan Thế Âm hiện thân thuyết pháp, bèn quỳ xuống bạch Phật mà xin được thọ giới.
Ở lại trong chùa, khi cảnh nhàn hạ, Tiên Chúa thường ngồi dưới gốc cây thông trước chùa, kê lấy chiếc ghê mà mà đàn hát cho khuây khỏa. Một ngày kia, đương trong khúc đàn tiếng hát say sưa, tựa như vang vọng cả thiên nhiên đất trời, hợp cảnh với núi non, Tiên Chúa bỗng lắng nghe thấy một tiếng người ngâm đối rằng:
"Tam mộc sum đình, tọa trước hào hề nữ tú"
nghĩa là ba cây gỗ hợp trước sân, ngồi đó mà phô trương vẻ đẹp, ấy là Tiểu Thư, có ý hợp ba chữ "mộc" 木 thành ra chữ "sum" 森, hai chữ "nữ" 女 chữ "tử" 子 thành ra chữ "hảo" 好. Tiên Chúa thoạt nhiên chẳng biết là ai nói, vội quay qua xem thì thấy một người đội mũ cao áo rộng, cưỡi ngựa đi trước, vài ba mưoi người theo sau, lại có cây cờ mao tiết, đề chữ Đi Tiền Đạo. Tiên Chúa nhận ra, đây chính là sứ giả vâng mệnh Triều Đình đi sứ, bèn đọc đối lại rằng:
"Trùng sơn xuất lộ tẩu lai sứ giả lại nhân"
nghĩa rằng, hai quả núi ra đến đường chạy lại, kẻ đi sứ chính là ngươi, có ý kết hai chữ "sơn" 山 thành chữ "xuất" 出, hai chữ "lại" 俫 và chữ "nhân" 人 thành ra chữ "sứ" 使.
Người sứ giả ấy chính là Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan đang trên đường đi sứ Trung Quốc về, qua vùng Lạng Sơn này. Ông nghe đối lại hay quá, lấy làm khâm phục liền xuống ngựa vái chào mà thưa rằng: "Chẳng hay cô tên họ là gì? Người ở đâu mà lại tài năng đối ứng như vậy?". Tiên Chúa mới chỉ vào trong núi mà rằng, "Chính chúng tôi ở kia!", còn tên họ thì nhất mực không nói. Phùng Khắc Khoan liền đọc một câu đối rằng:
"Sơn nhân bằng nhất kỷ, mạc phi Tiên nữ giáng phàm"
nghĩa là người ở núi ngồi trên một cái ghế, há chẳng phải bậc Tiên nữ giáng phàm trần, kết chữ "sơn"山 và chữ "nhân"人 là chữ tiên仙, chữ "nhất" 一 và chữ "kỷ"几 thành ra chữ "phàm"凡. Tiên Chúa tức thì liền ưng khẩu đối lại mà rằng:
"Văn tử đới trường cân, tất thị học sinh thị trướng"
nghĩa là con nhà văn đội cái khăn dài, hẳn đó là kẻ học sinh hầu bên trướng, kết lấy hai chữ "văn" 文 chữ "tử" 子 ra chữ "học" 斈, chữ "trường"長 và chữ "cân"巾 thành ra chữ "trướng"帳. Câu đối lại của Tiên Chúa vừa cân chỉnh, lại có ý nghiêm khắc, coi người đối như bậc học sinh của mình. Phùng Khắc Khoan nghe xong ngoảnh lại thì Tiên Chúa đã biến mất, lấy làm ngạc nhiên lắm, đi tìm khắp trong chùa và xung quanh núi đều chẳng thấy, chỉ thấy một cây gỗ nằm ngang giữa đường, nhìn đi nhìn lại có bốn chữ:
"MÃO KHẨU CÔNG CHÚA"
卯口公主
Cây gỗ là bộ mộc. Mộc 木 thêm chữ mão 卯 là chữ liễu 柳. Mộc 木 thêm chữ khẩu 口 là chữ hạnh 杏, người con gái vừa rồi chính là Liễu Hạnh Công Chúa! Bên cây gỗ nằm ngang, cách xa mấy chữ lại cắm một cái thẻ đề bốn chữ:
"BĂNG MÃ DĨ TẤU"
冫馬已走
Bộ băng 冫 đi với chữ mã 馬, chính là họ Phùng 馮 của ngài sứ giả. Chữ dĩ 已 nằm cạnh chữ tẩu 走, chính là chữ khởi 起. Có lẽ Liễu Hạnh Công Chúa dặn Phùng Khắc Khoan phải khởi công sửa lại ngôi chùa Thiên Minh này. Nghe vậy, Phùng Khắc Khoan đòi các phụ lão trong làng lại, giao cho tiền bạc để sửa sang Thiên Minh Tự, lại đề một bài thơ rằng:
"Tùng lâm tịch mịch phớt nhân gian
Hốt thỉnh nhân sơn sơn ngoại ca
Ca khúc nhiển vân nhân bất kiến
Măng tiền sơn sắc bích sà nga"
Dịch nghĩa rằng:
"Rừng xanh tịch mịch vắng teo nhà
Tiếng hát đâu từ cạnh núi ra
Khúc hát cuốn mây người chẳng thấy
Mấy tầng xanh biếc núi nguy nga"
Sau này, Tiên Chúa tu luyện ở Thiên Minh Tự, rồi hồi lâu sau thong thả dạo chơi khắp bốn phương trời, nào nơi lâm tuyền sơn thủy, rồi chốn thành thị chùa triền, cùng các nơi danh tiếng, lại tưởng nơi phồn hoa thắng cảnh. Tiên Chúa xe mây cưỡi gió ra chốn đông kinh, kinh đô Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay, dạo khắp các miền thắng cảnh. Tới cảnh hồ Lãng Bạc (hồ Tây), dựng quán tửu lâu đề bốn chữ Tây Hồ Phong Nguyệt, hai bên lại đề rằng "Hồ trung nhàn nhật nguyệt - Thành ngoại tiểu càn khôn" (Ngày tháng an nhàn cùng bầu rượu - Dưới thành như thu nhỏ vùng trời).
Lại nói về Phùng Khắc Khoan, ngày đi sứ trở về, Ông được cử làm quan trông coi bộ Lại. Việc quan bận rộn, giấy tờ chất đống khiến cho ông chẳng khi nào được thư thái. Có những lúc, ông nhớ đến những danh lam cổ tích của Trung Quốc mà đã đi trong lần đi sứ, nào là Động Đình, lầu Hoàng Hạc, lầu Nhạc Dương, sông Xích Bích... Một ngày đầu hạ, trời trong sáng, mây trôi lững lờ, ông cùng Ngô cử nhân và Lý tú tài đi dạo chơi ngắm cảnh Hoàng Đình Thủy Tạ, ngắm đài Thượng Lâm, chẳng mấy chốc mà tới Tây Hồ. Cảnh đẹp khiến cho ba vị vui vẻ ngâm thơ, ngắm trời mây non nước, lại đi bách bộ ven hồ, bỗng thấy một tòa tửu lâu dưới bóng cây hòe cùng hàng trúc. Ấy chính là Tây Hồ Phong Nguyệt của Tiên Chúa.
Trong quán lúc ấy thấp thoáng bóng một người mặc áo đỏ xinh đẹp đứng bên cửa sổ, chính là Tiên Chúa. Lý tú tài mới rằng, "Đây là nơi nào? Chúng tôi quá bước nhầm cõi, muốn nhờ quí trang mượng làm nơi tháng hội "Lan Đình", liệu có được phép chăng?". Người nữ nhân trong quán cất tiếng đáp: "Đây là quán hàng của Liễu nương, các vị là người thi tửu ngồi chốc lát hẳn có hại gì?".
Nói rồi, Tiên Chúa sai thị nữ cuốn rèm cửa, ba người đĩnh đạc bước vào ngồi ở cửa sổ phía nam mà dùng rượu. Ngay trước thềm quán có chú chim oanh vũ hót líu lo, trên tường có bức tranh cổ và những nét cổ thi tuyệt diệu. Hương sen từ hồ thoảng đưa vào càng khiến không khí dễ chịu hơn. Giữa cảnh trang nhã như vậy, Lý tú tài bỗng để ý tới một bài thơ tứ tuyệt ở phía đông, đề rằng:
"Điếm phương môn nội chiếu minh nguyệt
Thời chính nhân bàng lập thổ khuê
Khách hữu tâm tinh cầu nguyệt đới
Huệ nhiên nhất mộc lưỡng nhân đề"
Lý tú tài đem bốn câu thơ đoán triết thành chữ rằng:
"Điếm phương nhân
Thời chính khai
Khách hữu tâm
Huệ nhiên lai"
Nghĩa là:
"Quán đương rỗi
Ngày rất tốt
Khách có lòng
Mời tới chơi"
Đoán chữ xong, nhân ngà ngà chén rượu mà Lý tú tài nói lớn "Chủ nhân có lòng mời khách đến chơi, nay khách đã đầy nhà mà để ngồi xuống vậy sao?". Thị nữ trong nhà khi ấy mang bức hoa tiên tới, trên đề chữ Tây Hồ quan ngự. Cả Phùng Khắc Khoan, Lý tú tài và Ngô cử nhân đều lấy đó mà làm một bài ngâm thơ phú, lại được cả Tiên Chúa tiếp câu, những câu thơ thật cân chỉnh, lại uyên thâm, thành ra một tuyệt tác. Họ lồng cả tâm tư của mình vào trong đó, bởi bấy giờ là thời chiến tranh loạn lạc giữa nhà Mạc và nhà Lê - Trịnh, những mong một cuộc sống thanh bần, không quy lụy mưu cầu công danh giàu sang trong buổi nhiễu nhương. Bỗng có người đem cá tới, rồi Tiên Chúa sai người làm gỏi chừng nửa tiếng là bưng mâm ra. Lúc này, Tiên Chúa mới ra ngồi nhẹ nhàng mà thưa, "Được các thi nhân tới thăm, quán tôi xin có món ăn nhỏ đáp lại thịnh tình, mong chư vị thông cảm". Cùng bàn luận văn thơ với nữ chủ quán xinh đẹp, đến hồi ra về, Phùng Khắc Khoan cùng những người bạn vẫn suy tư về một tửu quán kì lạ, một bà chủ quán xinh đẹp lại uyên thâm siêu phàm, thật đáng kính nể. Ít lâu sau họ trở lại Tây Hồ mà chỉ thấy hồ nước mênh mông, quán cũ chẳng còn, trên thân cây còn đề chữ "Nhất đại sơn nhân ngọc Quỳnh Hoa", có ý rằng chủ quán Tây Hồ hôm trước là người Tiên tên Quỳnh Hoa!
Năm Kỷ Dậu, niên hiệu Hoằng Định thập niên, triều vua Lê Kính Tông (1609), chàng Đào Lang, đức lang quân của Tiên Chúa khi còn là nàng Giáng Tiên, bởi vì sầu uất qua đời mà tái sinh thành chàng trai hai mươi tuổi tên là Mai Sinh, ở làng Tây Mụ, Nga Sơn, Thanh Hóa. Chàng Mai tuổi mới hai mươi, chí khí khác thường, thông minh, song thân đều qua đời hết cả mà anh em cũng chẳng có, nhà cửa gia cảnh lại nghèo, cũng chưa có vợ con gì. Đương lúc ấy, Tiên Chúa cũng biết rằng lang quân đã được tái sinh, nên từ giã cảnh Tây Hồ mà về vùng Thanh Hóa, thấy cảnh núi Sòng Sơn, cả dãy núi đều là cây đào xanh tốt, dưới lại có một hòn đá vuông, Tiên Chúa mới lấy cành lá quét sạch, ngồi trơi trông xem bốn bề cảnh trí thiên nhiên chẳng khác gì Tiên cảnh, mà hiềm một nỗi vắng khách tri âm, biết cùng ai mà ngâm thơ vịnh phú? Tiên Chúa lại gần bên khe nước, ném hoa rụng mà chơi, bỗng thấy một gã thư sinh hình dung tuấn tú, cốt cách phi phàm đang thẳng đường Tây Mụ mà đi tới. Tiên Chúa nhận ra, quả thật đây chính là chàng Đào Lang tái sinh, mới đứng từ đàng xa mà rằng, "Tôi nhân đi chơi vội, vì quá vui chân bước tới, bây giờ quên cả lối về. May gặp khách qua đường, xin mong ơn chỉ giúp". Chàng thư sinh cứ ngỡ đây là một cô gái giang hồ nên chẳng bằng lòng, giả cách không nghe thấy mà cứ bước thẳng.
Ngày hôm sau, chàng Mai Sinh đi học lại đi ngang qua đó, thấy có một mảnh giấy dân ở cây đào, trên có bài thơ vịnh cây đào mà rằng:
"Vóc đẹp trời sinh há sửa bày
Lòng thơm gìn giữ mấy năm nay
Dễ dàng mắt tục bao giờ thấy
Lần lượt mùi hoa đợi gió bay
Bóng nguyệt quen nhau sai đó mãi
Tin xuân đưa mối đợi ai rày
Sớm hay dòng nước tình ai lãng
Nỡ để hồng rơi giục khách say"
Chàng Mai Sinh đọc xong, nhớ tới vị nữ nhi hôm qua, mới khen rằng thật là tài, chẳng ngờ chốn trần thế lại có một tiểu thư tài tình đến thế, thật đáng khâm phục. Chàng liền họa một bài thơ rằng:
"Liếc mắt đền Giao trước sẵn bầy
Dòng tiên lưu lạc tới gì đây?
Chán trông ngọn cỏ thầm thầm nín
Tiếng với mùi lang thoang thoảng bay
Đàn sáo xôn xao cười những thế
Bướm ong lơi lả đám đâu rày
Dưới rừng gặp gỡ càng vướng vấn
Một chén non sầu đã muốn say"
Chàng Mai đề thơ xong, muốn đi tìm tiểu thư ấy, ngặt nỗi lo đường đột, và chẳng sợ nay đi chỗ này, mai đi chỗ khác, tìm cũng bất nhã nên phải nén lòng mà về. Rồi trời mưa dầm ngót đã mấy ngày, lòng càng áy náy, chàng Mai Sinh vẫn chờ một cơ hội để tìm kiếm vị tiểu thư đó. Cách mấy hôm sau, mưa hòa gió tạnh, đất trời quang minh, chàng Mai Sinh lại tìm ra gốc đào nọ. Vốn tưởng mưa gió đã làm bay mực đi, mà đến nơi vẫn thấy hoa đào tươi thắm, bài thơ vẫn nguyên nét như hôm nào. Chàng Mai Sinh lại làm thêm một bài thơ nữa, đề rằng:
"Trăm mối sầu riêng những rối bầy
Một phen nỡ phụ tìm tới đây
Người in chữ gấm đôi hàng mối
Hoa bén mùi xuân một tràn bay
Dạ ngọc ân cần khen đó cũng
Tin sương ngơ ngác giận ta rày
Than ôi gặp gỡ còn đâu thấy
Man mát bể sâu chén rượu say"
Viết bài thơ xong, Mai Sinh bỗng nghe trong rừng có tiếng chào hỏi, ngoảnh lại thì đã thấy Tiên Chúa đứng đó, mới thi lễ mà rằng "Ngày trước được mong ơn nàng có lòng hỏi đến, bần sinh có lòng cảm tạ, nhưng mắt trần không biết, dạ tục ngây ngô, hồi tỉnh lại lúc đầu gặp gỡ, thư sanh mong ân chẳng xiết. Chẳng ngờ hôm nay, nàng còn đoái trước đến ta mà cho tái ngộ, chẳng biết quả phúc thế nào mà hôm nay lại được như vậy. Tiên Chúa mới mời chàng Mai Sinh ngồi lên phiến đá trắng mà rằng, "Thiếp cũng là con nhà khuê các, ở nơi cạnh huyện này. Song thân đều đã tạ thế, nhà cửa tiêu điều không được bằng ai, nên phải lánh chốn phồn hoa mà vào nơi lâm huyền tĩnh mịch. Mà nay thiếp gặp được người kiệt sĩ chân nho, nên có ý giao cầu, nếu chàng không ngại gần xa cho thiếp kết nghĩa trăm năm, thế là ba sinh hương lửa."
Chàng Mai Sinh lắng nghe những lời đính ước trăm năm trân trọng ấy, mới lấy làm rất có cảm tình, tiền tạ mà nói rằng, "Nàng đã có lòng hạ cố, chẳng phụ kẻ hèn nho, nhưng song thân tôi đều mất sớm, anh em chẳng có nhà cửa lại sơ sài, thanh đam, chỉ một mình mà theo việc bút nghiên mà nươn thân cửa Khổng. Bây giờ nàng có lòng đoái tưởng, ta đâu dám phụ. Nhưng xin nàng miễn chấp cho tôi sẽ liệu bề mai mối". Nghe tới vậy, Tiên Chúa nghiêm mặt mà nói rằng, "Hai bên song thân quá cố, họ hàng thân thích đều không, biết lấy ai mà cậy người mai mối?".
Thế rồi, hai bên thiết bàn bái yết Thiên Đình mà xin duyên cầm sắt. Rồi, Tiên Chúa mới vịnh một bài thơ:
"Mấy cụm dào hoa vắn lại bày
Lưu lang nay lại trở về đây
Trăm năm duyên nợ đành xong hẳn
Muôn hộc u sầu cũng xóa bay
Duyên bén tơ hồng ai bảo chẳng
Mốt đưa lá thắm bấy lâu nay
Cào châm định trước từ xưa vậy
Chớ oán Thiên Đình vỡ ngọc bôi"
Chàng Mai Sinh nghe đến câu kết, mới hỏi làm sao mà lại có chữ "Thiên Đình" với "ngọc bôi" là chén ngọc, Tiên Chúa mới thưa lại rằng việc sau sẽ biết, bây giờ chẳng dám thưa. Mai Sinh nghe vậy cũng chịu, liền theo nguyên vận họa lại rằng:
"Lưu ngọc duyên đâu, dám chắc mà
Lửa đôi may gặp tự trời cho
Xưa cầu ngân hán còn ngăn lại
Nay khóa vườn xuân đã mở ra
Bói hộp điềm lành tin phụng đó
Vắn đưa lời mối mặc ta hồi
Lấy gì tỏ giải lòng cho được
Xin tượng tơ tình tạ chén say"
Vậy là, Tiên Chúa mà Mai Sinh kết duyên tơ hồng, chỉ non thề ước, lạy tạ cao xanh, kết duyên cầm sắt một nhà sum hợp, khi ăn nói, lúc lễ nghi, xem trông âu yếm đều cùng kính yêu. Lấy vợ ròi, chàng Mai Sinh từ đó về sau mà cầm sắc hòa minh, khuê phòng lạc thú, nên có ý mà sao nhãng học hàng, bút nghiên chẳng còn được chuyên cần như trước. Tiên Chúa thấy vật rất chẳng bằng lòng. Một đêm, đã khuya mà Tiên Chúa vẫn ngồi dệt vải để chờ Mai Sinh đi chơi về. Thấy lang quân về, nàng mới lấy rượu ra đối ẩm, nói rõ sự tình chẳng bằng lòng mà khuyên nhủ phu quân. Mai Sinh nghe vậy như bừng tỉnh, tạ lỗi với Tiên Chúa mà rằng "Ta sức tài hèn mọn, đáng chí phòng tâm, nay nhờ hiền thơ nhắc nhủ". Tiên Chúa thấy lang quân hối quả, lấy làm mừng vui, bèn cùng chàng trò chuỵện xướng họa tới khi trăng lặn mới ngừng.
Được độ một năm, Tiên Chúa sinh được một người con trai đặt tên là Mai Cổn, thông minh đỉnh ngộ, biện mạo khôi ngô, quả là thế gian ít có. Rồi Mai Sinh đi thi, đậu cả kì thi hương và kì thi hội, xung vào hàn lâm viện rồi được bổ ra làm quan. Tính chàng cũng giản dị, nên công việc cũng rảnh rang, thường cùng hiền thê uống rượu ngâm thơ, bên xướng bên họa như gấm dệt, như hoa thêu. Cảnh lạc thú trong nhà cứ vậy mà diễn ra êm đềm.
Rồi một ngày, Tiên Chúa nhận được lệnh phải về chầu Thiên Đế. Một ngày cuối đông, hạ tuần tháng chạp năm Canh Tuất, niên hiệu Hoằng Đinh thập nhất niên khi trởi rét mướt, Mai Sinh đang cùng Tiên Chúa. Bỗng nhiên, nước mắt Tiên Chúa chảy xuống không ngừng, bức tức nghẹn lời, nói không ra tiếng, hồi lâu sau mới thưa rằng "Thiếp vốn là Thiên Đình Tiên Nữ, chỉ vì lỡ tay đánh rơi chén ngọc mà bị trích giáng xuống trần gian tạm thời, thiếp đã cùng phu quân tác hiệp một kiếp trước rồi, nhưng trần duyên chưa mãn nên kiếp này xin được một lần tái hợp nữa, nay trích kỳ cũng đã hết, thiếp lại phải phụng mệnh trở về Trời. Nhưng thảm thay, thiếp nghĩ đến phu quân gối chiếc chăn đơn, khuya sớm không ai hầu hạ, nghĩ đến con thơ đầu xanh tuổi trẻ, ngày đêm ai kẻ bồng bế, lòng thiếp không nguôi cơn giận, khó bớt nỗi sầu. Thôi, nhưng mà, ly hợp bởi Trời, hoan bi thường sự, bây giờ dẫu phiền sầu cho ra tóc bạc, khóc cho chảy máu đào âu cũng là vô ích. Vậy, thiếp kính lạy phu quân đừng quá thương tâm mà không giữ nổi mình vàng vóc ngọc, huống chi con còn măng sữa, anh em chẳng có một ai, bây giờ thiếp phải về chốn Thiên Cung chỉ còn một mình phu quân, khi đau ôm lúc sầu phiền lấy ai là người giúp đỡ? Xin phu quân nghĩ kĩ, thiếp cũng biết sinh ly tử biệt thê thảm nhường nào, kể sao cho xiết, thử cảnh thử tình để cho phu quân trăm bề thống khổ, lòng thiếp thê thảm trăm đường cũng như phu quân đây."
Mai Sinh nghe nói vậy, mắt vía hồn kinh, chân tay rã rời mà nói rằng "Tiên - trần xa cách, may được kết duyên nghĩa vợ chồng, lẽ nào lại quên được? Ôi, sao mà dễ hợp dễ ly đến thế?". Tiên Chúa nghe vậy lòng đau như cắt mà rằng "Thiếp nhờ phu quân đã bao lâu nay, xin phu quân lượng xét. Thiếp chẳng phải kẻ ham chơi bồng đào mà quên đi nghĩa tào khang, nhưng hạn quy Tiên đã bức cận, chẳng thể lưu lại được nữa." Nghe hết lời, Mai Sinh lấy làm kinh hoàng, than khóc nức nở. Đến cuối canh ba giờ Sửu, Tiên Chúa bồng con đến bên Mai Sinh, khuyên giải một hồi rồi cúi xuống lạy Mai Sinh hai lạy xin từ biệt, cầm tay Mai Sinh mà khóc nức nở. Bỗng có tiếng xe loan đã tới trước thềm nhà, Tiên Chúa lại nói nốt vài lời, rồi bồng con trao cho Mai Sinh, rồi nắm tay chàng và tay con, không khí thê lương chẳng kể xiết. Mai Sinh thấy vậy muốn níu vạt áo mà ánh hào quang tỏa ra rực rỡ quá, hương thơm quanh nhà ngào ngạt, Tiên Chúa đã về trời, chỉ còn để lại chàng ngẩn ngơ, rồi ngất đi hồi lâu mới tỉnh.
Từ đó, chàng Mai Sinh buồn rầu, chiều sớm nhớ thương, rượu không uống thơ không ngâm, việc quan bê trễ. Chàng mới dâng sớ xin về hưu, làm một cái nhà giữa rừng đào khi xưa đã gặp Tiên Chúa, ở đó mà dạy con thành tài trọn đời.
Lên đến Linh Tiêu, Tiên Chúa cũng chẳng được vui lòng, ngày đêm buồn rầu chẳng thiết thứ chi. Rồi một ngày, Tiên Chúa tâu với Thượng Đế rằng "cái án trích giáng trần của con đã hết, nhưng ngặt nỗi luôn nhớ tới nghĩa ba sinh, tình duyên chưa đoạn, cúi đầu xin Phụ Hoàng ban đặc ân cho con trắc giáng bất thường để mà vãi lai trần giới.". Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế xét thấy hai lần Tiên Chúa đã lỡ dở tình duyên, nghĩ cũng thương tình nên chuẩn tấu, lại cho hai vị Tiên Nương, một vị là em dâu Tiên Chúa, một vị là cháu cùng giáng xuống, trước khi đi có dặn dò rằng, "phen này Quỳnh Hoa (tên thật của Đệ Nhị Tiên Nương Tiên Chúa) xuống trần tất có sự hay, giờ ta cho hai Nương đi theo để giáng phúc cho dân". Nói rồi, Tiên Chúa và hai vị Tiên Nương lạy tạ Ngọc Hoàng Thượng Đế và hạ trần.
Xuống trần giới, Tiên Chúa thấy vùng Phố Cát, Thanh Hóa cảnh sắc thiên nhiên đẹp, rừng xanh cây tốt nên hiển linh ở đó, nhân dân lập đền thờ rất thiêng. Khoảng năm Ất Hợi, niên hiệu Dương Hòa nguyên niên, triều vua Lê Thần Tông khắp vùng nổi danh sự linh thiêng của ngôi đền ấy, khách đi qua lại trước đền mà không có sự lễ phép, không xuống ngựa xuống võng đều sẽ bị ba Ngài khiển trách, làm cho vất vả vài phần. Triều Đình ngỡ là yêu quái, bèn sai Trịnh Hoàng Phúc đem một đạo binh đi trừ yểm. Họ Trịnh cũng sợ khó lòng làm nổi, bèn mời một thầy phù thủy có tiếng vào đó họa phụ yểm trước rồi mới cử binh đi sau.
Thầy phù thủy cùng bốn người đạo tràng lên đường, vào tới vùng Đèo Ngang gần Phố Cát thì gặp một bà già chống cây gậy trúc đi lom khom bên đường mới hỏi "Thưa bà, nghe nói ở đây có một con yêu tinh thường hay quấy nhiễu nhân gian lắm phải không?". Bà lão mới đáp rằng, "Phải, nhưng ông hỏi làm gì?". Thầy phù thủy lúc ấy mới nói rằng "Ta là Pháp sư, ra đây để trừ yểm con yêu tinh đó, cho nhân gian khỏi bị tai hại vì tay nó nữa.". Bà lão lại cười mà rằng "Chớ! Ông phải coi chừng với "con yêu tinh" đó, nó cao phép lắm, chưa chắc ông trừ được mà lại nguy tới tính mạng, ta khuyên ông về thì hơn.". Tức thì, pháp sư cao ngạo nói "Bà không phải lo gì, chuyến này nó sẽ thật là biết tay tôi".
Tức thì, bà lão la lên "Pháp sư ơi, nó kia kìa, chính nó đã hiện hình ra một cô gái đẹp đương đi lại đó, ông phải lo mà chạy kẻo khốn". Nhìn theo tay bà lão, pháp sư chẳng thấy gì cả, tới khi ngoảnh lại toan hỏi bà lão thì chỉ thấy một cô gái thật đẹp đang nhìn chằm chằm vào pháp sư, dáng vẻ kiêu ngạo. Pháp sư nổi giận la lớn "À! Mày dám hỗn với tao à?". Tức thì, pháp sư niệm chú bắt quyết liên thiên, mà cô gái vẫn ung dung đừng cười, càng ấn quyết cô gái càng cười thêm. Tới khi pháp sư tức giận rút tham gươm ra chém, cô gái mới từ từ đi thụt lùi. Pháp sư chạy theo cũng chẳng kịp, dùng hết sức mà chỉ cách vài thước cũng không chạm tới, chẳng may vấp phải hòn đá ven đường mà ngã lăn xuống đất chết. Đám người đạo tràng thấy vậy sợ quá, quay về mà bẩm báo với Trịnh Hoàng Phúc.
Khi ấy, Trịnh Hoàng Phúc trong lòng bối rối lắm, tiến thoái lưỡng nan. Nếu đi thì sợ phải chết, mà không đi thì e Triều Đình bắt tội, lại trái vương mệnh, nhục với quan quân. Thế rồi, dầu có chết cũng chết vinh, Trịnh Hoàng Phúc lên đường. Đi gần đến Đèo Ngang, ông trông thấy xác pháp sư nằm đó mà chẳng thấy hòn đá nào như lời kể thì lấy làm hoảng loạn lắm, nhưng vẫn cố bình tâm mà đi tới Phố Cát. Đến nơi, Trịnh Hoàng Phúc ra lệnh đốt phá đền miếu, tức thì tên bắn mù trời, sấm vang dậy đất, non sông biến sắc, cầm thú kinh hoàng, chỉ một lát mà cả đền ra tro, chẳng còn gì cả. Đốt xong, Trịnh Hoàng Phúc vẫn bình yên mà hồi cung.
Lại nói, chỉ vài tháng sau, cả vùng mắc chứng ôn dịch, người thì chật vật, súc vật chết nhiều không kể xiết, dân mới lập đàn cầu đảo. Khi đó, Tiên Chúa mới giáng về một người trong đoàn mà phán rằng: " Ta đây! Liễu Hạnh Công Chúa giáng ứng linh đồng mà báo cho các ngươi biết phải về tâu với Triều Đình sửa lại Đền Miếu, hương hỏa phụng sự, nếu không nghe lời chúng ngươi sẽ còn bị hại nữa!". Trong dân thôn mới có người hỏi, "Tâu Công Chúa, Ngài quả thật linh ứng, nhưng sao Trịnh Hoàng Phúc đem binh ra đốt phá Đền Ngài, Ngài lại không làm hại. Còn như con dân không có tội, sao Ngài lại trách phạt?". Tiên Chúa mới phán lại rằng, "Ta chẳng phải không linh thiêng, cũng chẳng phải lo sợ gì Trịnh Hoàng Phúc. Thế nhưng, ta chẳng muốn làm chết ai, vì họ Trịnh kia phụng mệnh Vương Mệnh mà phá đền miếu, chứ lòng chẳng muốn. Nếu ta giết, chẳng phải ta đang mang tiếng chống Vua, nên ta chẳng muốn. Còn chúng ngươi tuy chẳng đốt phá, nhưng khi chị em ta hiển linh về đây, đều ban cho cầu được ước thấy. Vậy mà chẳng biết lễ nghi lễ phép, lại ngờ ta yêu quái đến nỗi triều đình phải sai quân ra phá đền, cho ta mang danh ác muôn đời, thế chẳng phải là có tội hay sao? Ta trị tội các ngươi bởi lẽ thế!".
Bấy giờ, dân trong vùng mới vỡ lẽ, các ông Hương lão mới cho người ra Kinh Đô mà tâu bày với đức Vua. Ngài mới cho sắc hạ cho sửa Đền miếu nguy nga tráng lệ. Tới năm Ất Hợi niên hiệu Dương Hòa nguyên niên (1635), vua Lê Thần Tông phong cho Tiên Chúa là "MẠ VÀNG CÔNG CHÚA THƯỢNG ĐẲNG TỐI LINH TÔN THẦN". Từ đó muôn dân nhờ phép Tiên Chúa gia hộ mà được yên bình, ai cầu đảo việc gì đều linh ứng. Năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Dương Hòa bát niên (1642), Vua lại sắc phong cho Tiên Chúa là "THƯỢNG ĐẲNG TỐI LINH, VI BÁCH THẦN CHI THÚ".
Chuyện xưa cũng kể rằng, dưới thời vua Lê Huyền Tông, giặc Xiêm sang làm loạn, có quận công Phan Văn Thái được cử đi diệt. Hiềm một nỗi, thế giặc hùng dũng, khó nỗi phá tan được. Khi Phan Văn Thái cử binh đến Đèo Ngang, thuộc hạt Ninh Bình mới ghé vào Phố Cát thờ Tiên Chúa mà làm lễ tham yết mật truyện âm phò mạc hựu rồi xuất quân, khi tới mặt trận bỗng thấy ù ù sấm chớp, gió cuốn cát bay, nghe tiếng hò reo trên không trung rất dữ dội. Ngài và quân lính lấy làmkinh hoàng, nhưng tự nghiệm biết rằng mình có cầu Tiên Chúa nên Tiên Chúa mới giúp sức truyền quân tới, mới tấn công mà phá tan giặc. Bấy giờ, Phan Văn Thái mới nói với quân lính rằng, "Chúng ta chẳng tài giỏi gì, là nhờ thần oai võ lực của Đức Tiên Chúa mà đánh tan giặc này." Về tới Kinh Đô, Phan Văn Thái mới đem chuyện kể cho Đức Vua, ca ngợi sự hiển linh oai phong của Tiên Chúa đền Phố Cát. Bấy giờ, vua Lê Huyền Tông mới nhớ ơn Tiên Chúa "hộ quốc bình nhung", hạ chiếu gia phong: CHẾ THẮNG BẢO HÒA DIỆU ĐẠI VƯƠNG", lệnh cho tổng sở tại đó khỏi nạp sưu thuế, đăng lính để phụng sự muôn thu. Ngài linh ứng dị thường, ai cầu chi được nấy, nên người đời cảm tạ công đức to lớn mà đời tôn xưng Tiên Chúa là Đức Thánh Mẫu từ đây.
Đền Phố Cát nằm ở huyện Thạch Thành, Thanh Hóa, ngang qua con núi Triệu Tường mà đi lên, càng ngày càng huy hoàng tráng lệ. Cách đó tầm 35 cây số, Đức Thánh Mẫu cũng hiển linh về vùng Sòng Sơn thuộc Thanh Hóa, nên dân lập ra một ngôi đền tráng lệ uy nghi gọi là Đền Sòng. Rồi Đền Dâu, Đền Rồng, mỗi nơi Mẫu giáng linh đều hiển ứng, đã linh lại càng linh thiêng. Từ ấy về sau, Ngài khôn nghi đại tứ viễn chấn linh Thanh nên cả xứ Bắc Kì gia gia phụng tự xứ xứ lập đền thờ, nhân dân thờ tự Đức Thánh Mẫu rất kính thành, cảm tạ công đức người mà kinh thương như Mẹ đẻ. Thiên hạ đều nhất mực xưng ngài là MẪU NGHI THIÊN HẠ, mẹ của muôn dân. Trở về vùng Nam Định nơi Mẫu giáng sinh hai lần, làng Vân huyện Vụ Bản cũng có đền thờ Mẫu uy nghi, rồi Lăng tẩm của Ngài, rồi làng Tiên Hương - Vân Cát cố lý quê hương Đức Thánh Mẫu cũng lập đền cho Ngài, tạo thành uy nghi quần thể Phủ Giầy, lấy Phủ Tiên Hương mà làm Phủ chính. Sau, chính Thánh Mẫu cúng giáng bút mà phê hiệu Ngài là "Vân Hương Thánh Mẫu". Vân là Vân Cát, Hương trong Tiên Hương, nên có khi Ngài được gọi là "Tiên Hương Thánh Mẫu" hoặc "Thiên Tiên Thánh Mẫu".
Ngoài vùng Bắc Kì uy nghiêm phụng thờ, mạn các tỉnh phía bắc Trung Kỳ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình, Quảng Trị cũng sùng bái Ngài, tôn Ngài làm Đức Thánh Mẫu. Phần đông thiện nam tín nữ theo tín ngưỡng Tam Tứ Phủ nhất tâm cầu nguyện khi đau ốm, lúc tai nạn, nhờ hồng đức của Thánh Mẫu mà tai qua nạn khỏi, khắp nơi ai nấy bình an vui mừng.
Đức Thánh Mẫu thường khi giáng phê cho các kinh văn nhiều bộ để khuyên dạy, xin biên ra đây chút ít để bách gia trăm họ được tỏ tường điển tích Đức Mẫu Liễu Hạnh - Mẫu Nghi Thiên Hạ!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com