Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

TÂY TIẾN_ĐOẠN 2

Quang Dũng(1921-1988) là một người nghệ sĩ đa tài: làm văn, viết thơ, vẽ tranh và soạn nhạc. Nhưng trước hết ông là một nhà thơ với hồn thơ lãng mạn, đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoài của mình. Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào năm 1947 với nhiệm vụ hợp tác với đoàn quân Lào chống thực dân Pháp. Dù phải sống trong hòan cảnh gian nan, thiếu thốn, phải đối mặt và vượt qua căn bệnh sốt rét nhưng người lính Tây Tiến vẫn lạc quan, iu đời và chiến đấu anh dũng. Cuối năm 1948, Quang Dũng phải chuyển sang đơn vị khác, rời xa Tây Tiến chưa bao lâu, ông đã viết bài thơ "Nhớ Tây Tiến" mà sau này ông đổi thành " Tây Tiến".

Tây Tiến là một bài thơ tiêu biểu cho đời thơ của Quang Dũng được in trong tập "Mây đầu ô". Nếu trong đoạn 1, Quang Dũng nói về bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ và mỹ lệ thì với đoạn 2, thiên nhiên Tây Bắc bỗng trở nên thơ mộng trữ tình với những nét vẽ tinh tế mềm mại:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Quang Dũng đã viết lên những nét vẽ khỏe khoắn và đầy mê say, dẫn người đọc vào một đêm liên hoan văn nghệ hấp dẫn. Ấy là đêm liên hoan văn nghệ hiếm hoi giữa người lính Tây Tiến và người dân địa phương đầy vui tươi và sống động. "Bừng" là một động từ mạnh, nó thể hiện trạng thái ngạc nhiên, hết sức ngỡ ngàng, nhưng đó cũng ẩn dụ cho ánh sáng, ánh sáng bừng lên, đẩy lùi đi bóng tối, đẩy lùi mọi gian khổ mà các anh đã phải chịu đựng trong lúc di chuyển. Hình ảnh "hội đuốc hoa" trong những tác phẩm trung đại thường được dùng trong khoảnh khắc đêm tân hôn nhưng "hội đuốc hoa" này cũng được hiểu như ánh sáng của ngọn lửa trại sáng rực rỡ. Hình ảnh này xuât hiện trong đêm vui liên hoan của người lính đã tạo nên một màu sắc vừa cổ kính, vừa hiện đại, vừa thiêng liêng, vừa ấm áp tình quân dân gắn bó. Đoạn thơ cũng đã bộc lộ được nét lãng mạn của hồn thơ Quang Dũng, hồn thơ lãng mạn của ông bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang màu sắc lãng mạn, bí ẩn con người và cảnh vật nơi xứ lạ. Và nhà thơ như đang nói với người vũ nữ:

"Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp"

Giọng thơ đầy triều mến, thích thú, vui sướng đến ngỡ ngàng trước hình ảnh "nàng e ấp" vô cùng tình tứ cùng với bộ xiêm áo lộng lẫy trong làn "man điệu" đầy hoang dã và cũng đầy quyến rũ ở xứ lạ. Câu thơ "Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ" có 6 thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng chới với như có thể đưa người lính về chốn Viên Chăn, thủ đô nước bạn xa xôi để xây hồn thơ. Như vậy, chỉ với vài hình ảnh, màu sắc và âm thanh trong buổi liên hoan, 4 câu đầu của đoạn trích không những gợi không khí mê say, ngây ngất mà còn thể hiện tình quân dân đằm thắm keo sơn và tinh thần lạc quan, iu đời và iu cuộc sống kháng chiến của bộ đội Tây Tiến.

Ở khổ 2 của đoạn trích, cảnh sông nước hiện lên vừa thực vừa mộng:

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Nếu khung cảnh đêm liên hoan làm người đọc thấy được không khí vui tươi, nhộn nhịp, đầy say mê thì 4 câu thơ sau lại nói đến sự bình yên, nó gợi lên khung cảnh lãng mạn nhưng chứa chan tình thi sĩ. Thiên nhiên ở nơi chốn chỉ có "bản sương giăng, đèo mây phủ", khi chiều về vốn mờ ảo lại càng mờ ảo hơn khi có lớp sương mờ bảng lảng choáng lên như thực như mơ. Qua hoài niệm, khung cảnh Tây Bắc như đang sống dậy trong kí ức của tác giả làm cho giọng thơ của ông cất lên như tiếng thì thầm, như lời tự hỏi "có thấy- có nhớ", day dứt càng gợi lên cảm giác bâng khuâng xa vắng đầy lưu luyến. Con người có tâm hồn tài hoa và lãng mạn ấy thấy bạt ngàn hồn lau trong gió trong cây như xôn xao một nỗi niềm.

"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ"

Từ "người" được tác giả sử dụng thật tài tình. Ở đây nó mang tính chất vừa cụ thể, vừa phiếm chỉ, vừa là tác giả vừa là đồng đội, những người tri âm, tri kỷ đã từng đồng cam cộng khổ sống chết có nhau. "Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi...thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Từ "ấy" không xác định được thời gian, nhưng lại gợi về thời khắc khó quên, một đi không trở lại, đã in đậm trong trái tim, trong nỗi nhớ đầy vơi của Quang Dũng và những người lính Tây Tiến. Chữ "ấy" đó lại bắt vần với chữ "thấy" ở câu dưới tạo nên một vần lưng đầy quyến luyến, vấn vương. Có lẽ, trong những hình ảnh làm cho người lính Tây Tiến "Nghìn năm chưa dễ mấy ai quên" ấy thì hình ảnh "hồn lau nẻo bến bờ" là hình ảnh gợi cảm nên thơ nhất. Những hồn lau như thế xuất hiện trong làn sương chiều mờ ảo nơi bến bờ sông suối hoang sơ hẻo lánh của miền Châu Mộc, Châu Mai đã nói với ta rất nhiều về vẻ đẹp tâm hồn của một thi sĩ tài hoa lãng mạn đã có cách nhìn, cách cảm thiên nhiên rất lạc quan yêu đời và có phần mộng mơ. Tâm hồn lãng mạn mộng mơ đó còn phát hiện ra trong cảnh sông nước chiều sương mang đậm màu sắc cổ tích huyền thoại ấy, hình ảnh con thuyền độc mộc với dáng mềm mại của cô gái và bông hoa trôi theo nước lũ:

"Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Hình ảnh "hoa đong đưa" là một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái "dáng người trên độc mộc" trôi theo thời gian và dòng hoài niệm. Đoạn thơ này được tác giả Quang Dũng vẻ ra những đường nét thật lãng mạn và nên thơ. Nó gợi ra một vẻ mơ hồ, hư ảo giữa nền sương trắng xóa. Với một chữ "trôi" mà tác giả dùng ở đây cũng rất tinh tế, gợi lên sự nhẹ nhàng thanh thoát "Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Với một chữ "trôi" tinh tế và một chữ "đong đưa" hơi phong tình, dòng nước lũ dữ dằn bỗng trở thành suối mơ êm đềm yên ả, để con thuyền lướt nhẹ êm trôi.

Như vậy, với bút pháp nghệ thuật gợi tả cùng với sự hài hòa giũa chất nhạc và chất thơ, đoạn thơ đã thể hiện cảm xúc trào dâng của nhà thơ về những kỉ niệm đẹp với thiên nhiên và con người Tây Bắc.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com