Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

XI - XV

XI

Anh tìm cái gì?

Tìm Ánh-Sáng ư? Ánh-Sáng đã có nơi anh. Hãy tầm sự sáng-suốt nơi anh, thì sự Tối-tăm còn gì mà có nữa.

Tìm sự Vui-Sướng ư? Vui-Sướng đã có nơi anh. Hãy tầm sự Vui-Sướng nơi anh thì sự thống-khổ làm gì mà có nữa.

Tìm sự Hiểu-Biết ư? Hiểu-Biết đã có nơi anh. Hãy tầm sự Hiểu-Biết nơi anh thì sự ngu-muội làm gì mà có nữa.

Chính ta tạo lấy xiềng tỏa, rồi lại tưởng mình bị xiềng-tỏa... Lầm!

Chính ta nhắm mắt lại, rồi tưởng mình đui-mù... Lầm!

Chính ta tạo nên sự thèm muốn, rồi lại tưởng mình thèm muốn... Càng lầm!

Tầm cái đều anh đã có, anh chỉ là kẻ đi tầm cặp mắt kiến trong khi nó ở trên sống mũi của anh...

XII

SỨ-MẠNG của con người không phải để dìu-dắc kẻ khác, mà chính để học dìu-dắc lấy mình... Tự-trị rồi mới mong trị người đặng... Nhưng mà làm sao trị người, nếu cái lợi cho ta không phải cái lợi cho người?ư

Chỉ có một cái luật độc nhất mà thôi, là phải tuân theo luật thiên-nhiên mà sống. Luật xã-hội, thì chỉ là một điều phụ-thuộc, nếu nó có trở ngại cho cuộc sống của ta, không cho ta tuân theo luật thiên-nhiên của con người của ta mà sống, thì ta có quyền phản-kháng và sửa đổi.

Luật của xã-hội, có ăn chịu vào đâu với cái luật của sự Yêu-Thương. Xã-hội không có quyền định-hạn cái đời tình-cảm của ta, Xã-hội không có quyền đàn-áp tinh-thần cá-nhân. Tình cảm và Lý-trí là hai sức mạnh tương-đương nhau, và điều-hòa nhau. Xã-hội không có quyền gì bó buộc nó phải đi theo một khuynh-hướng nào.

Lấy quyền gì mà xã-hội bảo với Lý-Trí:

"Ngươi không nên đi xa hơn nữa? Hãy dừng lại chỗ mà các ông cha ta đã dừng đó! Ngươi không còn gì mà phải tầm kiếm thêm, mà mong mỏi them làm chi nữa. Cái gì đã làm rồi, là đúng-đắn cả. Ngươi không tài gì mà sửa đổi những giáo-lý hay chế-độ đã qua. Thảy đều là những công-trình bất hũ và bất khả xâm phạm.

Lấy quyền gì mà xã-hội bảo với Tình-Cảm:

"Ngươi phải tuân theo luân-lý, chế-độ, tôn-giáo, đảng-phái... Hãy dừng lại. Ngoài cái phạm-vi ta đã vạch sẵn cho ngươi, ngươi không còn phương-thế nào mà biết cái gì hay hơn nữa. Xa nữa thì là chỗ mịt-mù, không có gì là thực-tế cả... Xa nữa là sự trừu-tượng mơ-màng,... Không có gì là chắc-thật cả. Ngoài sự Công-Lợi, thảy là dối-giã. Ngoài miếng ăn, không có gì là đáng để ý cả! Ta cấm ngươi hoạt-động ngoài cái khuôn-mẫu của ta đã bày sẵn. Thương yêu tự-do theo ý ngươi, là quấy. Tự-do luyến-ái cũng là quấy. Hành-động không hạp với thành-kiến, với phong-tục, với luân-lý cũng là quấy... Cấm không cho tư-tưởng theo ngươi. Nhân danh cái luân-lý cao-siêu của ta, ta cấm không cho ngươi làm như đều gì ta cho là quấy đó. Có thương thì hãy thương trong giới-hạn của quy-luật ta, nghĩa là người đừng có thương. Vượt ra ngoài quy-luật ta, ngươi sẽ bị sa-thải. Ngươi không phải kẻ ngang hàng với ta. Ngươi là một con vật để cho ta dung theo sự nhu-cầu ta mà thôi.

XIII

Ích-kỷ có phải là một đều hèn chăng?

Thương mình có nghịch hẳn với sự thương người chăng? Người ta thường phân-biệt hai lẽ Công-Tư mà trọng bên này khinh bên kia. Không để Công và Tư chỉ là hai thứ tiếng để chỉ vào một tâm-trạng của lòng.

Người ta lầm vì tiếng nói, vì người ta không chịu hiểu theo sự thật, mà lại chỉ hiểu theo chữ mà thôi.

Tại sao ta thương người, nếu không phải vì ta, cho ta, hay là vì sự thích riêng của ta, vì sự lợi ích cho tinh-thần hay vật-chất của ta.

Đi sâu vào tâm khảm con người, ta sẽ thấy cái chân-tướng của nó. Ta làm phải cho người phải chăng, vì cái sự phải ấy không có hại gì đến quyền lợi ta, mà lắm khi nó lại có lợi cho ta là khác. Nếu anh biết trước rằng làm ân cho người bạn anh, anh sẽ bị hại, anh có làm chăng?

Đến vì người mà mình hi-sinh đi nữa, thì cũng phải biết cho sự hi-sinh ấy cũng không thoát ra khỏi được cái vòng ích-kỷ... Nếu anh hi-sinh mà lòng anh không tự thấy khoái-trá vì anh thấy anh được hơn người về nhân-phẩm, thì sự hi-sinh ấy mới thật là không ích kỷ.

Tình chồng vợ, nghĩa kim-bằng... cho đến cha con, an hem... cũng đều là biểu-hiệu của sự ích kỷ. Những tình-cảm ấy giúp cho cá-nhân được phát-triển thêm lên, giúp cho cá-nhân được sung-sướng thêm lên, không phải là vì có lợi cho mình ư? Bất kỳ cái chi làm cho cái người của ta được cao trọng them lên, về nhân-cách, về hạnh-phúc, về trí-huệ, về tài năng, đều gọi là lợi cả.

Lợi cho mình là ích-kỷ.

Ích là them, kỷ là mình. Những đều chi làm cho con người tinh-thần ta trụy-lạc, kém cỏi, sa-sút không phải là ích-kỷ. Kẻ vì cái lợi về sự ăn, mặc, ở mà phải làm những điều ô-tiện, nhân-phẩm ta vì đó mà giảm bớt đi, trí huệ ta vì đó mà lu-lờ đi... không phải là ích-kỷ.

Kẻ ngu, tưởng mình là một vật độc-lập trong hoàn-vũ, nên chỉ lo mưu cái lợi cho mình mà quên đến cái lợi cho người. Vì lẽ ấy họ mới dám vì lợi cho họ mà hại người.

Người trí, biết mình có quan-hệ mật-thiết với vạn-vật, nên lo mưu cái lợi cho mình vì lợi-ích cho đời... vì họ biết cái hư-hỏng của họ sẽ làm hư-hỏng cho chung quanh họ, họ không chịu làm " con chiên ghẻ" trong xã-hội.

Một việc làm mà ta phải mất tự-do, giảm chí-khí, không phải là một việc làm ích-kỷ, cái ích-kỷ theo cái hiểu của người trí...

Xưa kia, ông cha ta còn thô-sơ không hiểu đến cái lý-thuyết gì cao xa cả, cũng không cần biết đến luân-lý, tôn-giáo gì cả, chỉ biết vì những sự nhu-cầu cần-thiết và cần-cấp của mỗi cá-nhân mà liên-hiệp nhau thôi.

Sống giữa những sự khủng-khiếp, nào là thú giữ, phong sương bão tố, những lực-lượng ghê ghớm của tự-nhiên mà họ không thể hiểu biết nguyên-do là gì cả, họ cảm thấy cái người của họ, riêng ra không thể nào phấn-đấu nỗi... Thế là họ kết-liên nhau, vì lợi ích của từng cá-nhân. Nhờ sự hợp tác ấy, họ được nhiều sự lợi-ích, mà họ không thể có đặng, khi họ đứng rời nhau ra từng người. Họ không còn sợ thú dữ nữa, họ đã không trốn, họ lại còn vây lại ác thú và sát hại nó, lấy da nó làm áo mặc, lấy thịt nó làm món ăn. Cái bụng ích-kỷ của mỗi cá-nhân đều quy vào một tôn-chỉ cuối cùng, là mưu đồ sự ích-lợi chung cho mỗi người và cũng là cho hết thảy mọi người.

Xã-hội chủ-nghĩa phải chăng nầy sanh nơi sự ích-kỷ, xã-hội luân-lý phải chăng căn cứ vào sự ích-lợi của cá-nhân.

Thế mà, vì đã phải trải qua một thời gian rất lâu, con đường tiến-hóa của xã-hội chủ-nghĩa phải bị sự lạc lối lầm đường... Một nhóm cá-nhân thông minh hơn, tài trí hơn lợi dụng cái công phu chung của mọi người mà bóc-lột, thâu-trữ riêng... Sự nô-lệ bấy giờ mới nảy sanh ra với những kết quả đau-đớn nhuốc-nhơ của nó mạnh hiếp yếu, khôn hiếp dại, con người trở lại dã-man như xưa, sống tuân theo cái luật "đào-thải tự-nhiên", "khôn sống bống chết", sanh tồn cạnh tranh, " ưu thắng liệt bại"... Thế là những công trình kiến-thiết xã-hội vì lợi chung cho mình và cho người, đã tiêu tan như giá rữa.

Thờ cá-nhân như thế, đâu phải là ích-kỷ. Người ta đã nhân-danh nó mà làm cho mất cái nghĩa hay ho hoằng đại của nó.

Những hành động nào làm cho cá-nhân giảm giá-trị, kém tinh-thần, mất tự-do không phải là hành-động của người thờ chủ-nghĩa cá-nhân.

Người thờ chủ-nghĩa cá-nhân lấy sự phát-triển hoàn-toàn và đầy đủ của cá-nhân về trí-huệ, về nhân-cách làm căn-bổn cho hành vi mình.

Trong một giàng máy, nếu họ là giây thiều thì họ làm lầm sao cho cái địa-vị giây thiều của họ đặng hoàn toàn; nếu họ là con ốc, thì họ làm sao cho địa-vị con ốc của họ đặng hoàn-toàn... Họ lo cho họ hoàn toàn, để cho có lợi cho cái giàng máy to-tát kia mà họ là một bộ-hận hết sức quan-hệ.

Vậy thì vì sự lợi ích cho nhau, cho cá-nhân và cho xã-hội, mà hợp-tác với nhau có hay hơn không? Tranh-đấu có bằng hợp-tác hay chăng? Tranh đấu thì bao giờ cũng giảm sức, còn phải lo sợ sự thua-sút. Nhân-cách con người trong khi tranh-đấu cũng phải còn sợ giảm mất nhiều, đê-tiện nhiều, ô-nhục nhiều, ... Trái lại, hòa-hão, con người nhờ đó mà súc-tích đặng nhiều sức-lực của tinh-thần, di-dưỡng đặng tính-tình và nhân cách.

Cán-nhân chủ-nghĩa của sự phấn-đấu và chiến-tranh và chủ-nghĩa cá-nhân của sự hơp-tác hòa-bình, cái nào quý?

Ta muốn sống, sống một cách phong-phú, sống một cách hoằng-đại tự-do hơn... ta phải nghe theo tiếng nói của chủ-nghĩa nào? Cố nhiên, cái nào làm cho ta thêm nhân-phẩm, thêm trí-huệ, thêm sự yên vui, hạnh-phúc là ta nghe.

Muốn Hòa-Bình không phải khó? Chỉ vì tại ta không quyết tâm ao-ước, nhứt là tại ta sống một cách hết sức thờ-ơ và vô-tâm, không biết rằng tại ta gây nên cơ sự não-nề nầy, mà chỉ biết đổ-trút bao nhiêu tội ác của ta làm, một cách vô-tâm hay hữu-ý, trên đầu của xã-hội. Ta không hay rằng xã-hội là cái tên, chỉ có cá-nhân là thực-sự.

Bây giờ không cần phải cãi, tại cá-nhân hay xã-hội gây ra sự tồi-tệ trụy-lạc mà làm gì, chỉ nên biết hiện thời xã-hội đang cần có những cá-nhân hữu-tâm và nhiệt-thành ra sửa đổi lại cái chế-độ hư-hỏng đã qua... Văn-Hóa đang cần cá-nhân, nhân-loại đang cần cá-nhân hoàn-toàn, để mưu lại những nền tự-do mới.

Thế-giới đang cần những cá-nhân siêu-đẳng, những cá-nhân có nhân-cách hoàn-toàn, những cá-nhân không để cho hoàn-cảnh un-đúc, không để cho thời-lưu lôi cuống, những cá-nhân có can-đảm suy nghĩ phán-đoán lấy mình, những cá-nhân đứng giữa cơn giông-tố bão-bùng, rền rỉ những tiếng la-thét của quần-đoàn, của một đoàn trừu mất đường, lạc lối... mà vẫn không băn-loạn, vững-vàng giữ đặng sự tinh-minh phi-thường của tâm-trí...

Sống, làm một tay thủ-lĩnh bách-dịch để cho cả thảy con người khủng khiếp, phục-tùng hoặc bất bình bực-tức: hoặc sống, làm một tên tôi mọi lòn cúi, bợ-đỡ hèn-hạ nô-lệ cho thế-lực, bất kỳ là thế-lực nào... đến ai xem đến cũng phải khinh, ngờ... Sống như thế đâu phải là sống.

Cá-nhân biết tự-trọng, không bao giờ chịu sống theo chủ-nghĩa của sự phục-tùng, nô-lệ, cũng không bao giờ chịu sống theo chủ-nghĩa của sự đàn-áp bóc-lột...

XIV

NGƯỜI theo chủ nghĩa cá-nhân không thể là một nhà quốc-sĩ... Những kẻ nhân-danh quốc-gia, mà xúi dục đồng-bào họ vào cuộc chiến-tranh, phải là kẻ thật yêu đồng-bào họ chăng?

Những kẻ tán-trợ quốc-gia chủ-nghĩa là những người tội-nhơn của chiến-tranh.

Vì nhà lãnh-sự bị đánh một cây quạt, mà nhân-danh thể thống quốc-gia người ta đam hi-sinh mấy vạn sanh linh... Vấn-đề danh-dự... hay là vấn-đề công-lợi của một nhóm người lợi dụng? Thế mà người ta lại đam thoa lên trên cái tội ác ấy một nước sơn "Quốc gia danh-dự" để che đậy cái dã-tâm họ, ghi cái tội ác ấy vào lịch-sử và đam nó mà nhồi-sọ đám trẻ-thơ...

Người ta còn nhân-danh biết bao nhiêu cái tên to-tát hơn nữa, nào là Nhân-Đạo, Hòa-Bình, Từ-Bi, Bác-Ái... để đam đám tôi-tớ của họ kia làm bia cho tên đạn.

Thương quốc-gia mình, là một lẽ thường, không nói mà làm chi. Cái nầy không, ta còn tôn-thần-thánh nó, đặt nó lên trên hết các quốc-gia khác.

Đối với người Nhựt thì Nhựt-quốc là xứ văn-minh hơn hết, anh hung hơn hết...

Đối với người Pháp, thì Pháp-quốc là văn-minh hơn hết, anh hung hơn hết...

Mỗi quốc-gia đều nói như thế, thì tránh sao khỏi nạn chiến-tranh.

Đừng nói chi xa, trong một nước Việt-Nam đây mà người Bắc thì cho là mình thông-minh, anh hung hơn người Nam, người Nam thì cho là mình thông-minh, anh hung hơn người Bắc. Trong các công-đoàn, thì anh thợ mộc cho nghề mình là khó làm hơn nghề thợ dệt, anh thợ in cho nghề mình khó làm hơn nghề thợ mã... Trái trở lại, ai cũng tưởng cái nghề của mình là hơn cái nghề của người khác, và bênh-vực nhau có khi lại đến phải đâm chém nhau...

Thì con của ta bao giờ cũng ngộ hơn con của người lân cận...

Cái lòng vị-kỷ kia làm cho ta chỉ thấy có ta là tâm-trung-điểm của vạn-vật mà thôi. Cái gì của ta là hay, cái gì của ta là đẹp. Hễ có thờ một tôn-giáo nào, thì tôn-giáo của ta là hoàn-toàn, ngoài ra thảy đều là dở cả. Hễ có thờ một đảng-phái nào, thì đảng-phái của ta theo là hoàn-toàn, ngoài ra thảy đều lầm-lạc cả.

Ta quên rằng: nước nào hay xứ nào cũng đều có hạng người ngu-si lố-bịch.

Nhắm mắt mà khen đùa, mà tôn trọng thần-thánh, những tội-ác của quốc-gia ta làm, thật là tỏ ra mình là một người dua-nịnh, nô-lệ.

Người có nhân-phẩm phải để trên hết mọi sự cái biểu-hiện của Chân-Lý và Nhân-Đạo, phải có can-đảm ly-gián với tất cả những ai vấy-đạp cái lý-tưởng cao trọng ấy, dầu người ấy là đồng bào của mình, dầu người ấy là anh em cật ruột, hay là cha mẹ của mình cũng mặc.

Hãy có gan đạp-đổ các "vị bụt" ấy! Hãy có gan phá-tan các đền thờ chùa miếu của các vị thần ấy, dầu là "vị thần Quốc-gia", hay "vị thần" nào bất kỳ...

Ta phải đoạn-tuyệt hẳn cái lối tư-tưởng theo quần-đoàn, lối hành-động theo quần-đoàn. Trước khi nhớ mình là người Annam hay người Tàu, hay người Nhựt... trước khi nhớ mình là người thợ dệt, hay thợ máy... nhà văn-sĩ hay nhà lao-nông, ta phải nhớ trước hết "ta là người", ta có một đầu-óc của ta, ta phải có một sự phán-đoán riêng của ta và đừng để cho kẻ khác dìu-dắc, chỉ huy ta theo con đường trái với lẽ Phải của ta.

Chiến-tranh! Người ta giết nhau như một bầy điên. Người ta ngây máu, cho tới khi đến phiên mình bị đập chết... vì lợi-quyền của một đám tư-bản, của một đám người cầm quyền dẫn đạo...

Xem đó thì đủ biết, hằng ngày, ta tang-tụng con ta, ta tôn-thần-thánh nước ta, ta bênh-vực phe đảng ta... ta chính là kẻ tội nhơn của chiến-tranh vậy.

Đừng có tạo thêm các "vị bụt" mới mà làm gì! Các "vị bụt" cũ kia, đã làm cho ta mất cả nhân-cách của con người rồi, đã làm cho ta mất cả tự-do sinh-hoạt theo bản tánh ta rồi, còn tạo thêm cái mới mà làm chi nữa.

Bụt nào cũng như bụt nấy, đều buộc ta phải lấy máu thịt, mà cúng tế, buộc phải đam cả nhân-cách của cá-nhân ta mà dâng hiến...

Bênh-vực cái lý tưởng của ta, cho nó là hay mà của người là dở, là cái thông-bệnh của loài người. Nhưng đến nước bênh-vực nó mà phải giết người, giết những ai không tư-tưởng theo ta, giết những ai không hành động theo ta... thì thật là dã-man thái-thậm.

Đó là hành-vi của kẻ thờ chủ-nghĩa cường-quyền.

Trên hết, cái mạng sống của người là quý.

Đừng làm con người của một đảng phái riêng biệt nào, cũng đừng làm con người của một tờ báo chí hay của khuynh-hướng riêng biệt nào.

Người theo chủ-nghĩa cá-nhân phải hết sức phản-đối những lối mê-muội lạc-lầm ấy. Đứng trước một dân-tộc dã-man hoặc chưa được văn-minh rộng-rãi, đừng vội khinh khi những phong-tục,tập-quán của họ, vội đem cái đều mà mình cho là cao-thượng để buộc họ sống một cái đời sống trái với bản-tánh và trình-độ của họ.

Yêu đời như thế, thà đừng yêu còn hơn...

Yêu đời như thế, là lối yêu đời dối-giả của người chinh-phục, nhân-danh Nhơn-đạo để bóc-lột của người.

XV

NGƯỜI thợ tên Khánh, làm một cái giá chuông xinh-đẹp hoàn-toàn đến đỗi thần kinh quỷ phục. Lỗ-hầu đến xem và hỏi Khánh dùng thuật-pháp nào mà đặng như vậy? Khánh tâu: Tôi là một tên thợ, tôi có thuật-pháp nào đâu! Tuy vậy mà có. Thuật-pháp ấy như vầy: khi tôi lãnh làm giá chuông đó, tôi tập chăm-chỉ, thâu lại hết cả sức tự-trị của tôi, tôi không trông khéo, không sợ vụng nữa. Tập được như vậy trong bảy ngày, tôi quên mất tới bệ-hạ, tới triều-thần, hết thảy kỹ-năng của tôi đều chú về cái giá chuông. Bấy giờ, tôi biết rằng đến lúc khởi công vậy. Tôi vào rừng xem hình trạng của cây cối, hình-trạng nào hoàn-toàn hơn hết. Khi tôi thấu rành cái ý-tưởng đó rồi, chừng ấy tôi mới để tay vào việc. Nhờ hiệp lại làm một cái thiên-tánh của tôi với cái thiên-tánh của cây mà cái giá chuông này mới có đủ tư-chất làm cho người đều khen nó.

TRANG TỬ

Diệt cả tình-dục của tư-tâm, – (nào là ham khen, sợ chê, ham khéo, sợ vụng,v.,v...) – để biểu-lộ cái thiên-tánh của mình đặng đam hòa với thiên-tánh của Lẽ-Trời ở trong mọi sự vật, – đó là cái hành-vi hoàn-toàn, rất thuận với thiên-lý. Trời là thế nào...

"Lẽ Trời không phải ngũ-quan là thính giác đặng, chỉ có Tâm cảm đặng và Trí suy đặng mà thôi. Lẽ Trời đối với hữu-hình Vũ-trụ cũng như cái hồn đối với xác-thịt, mà không hiển-lộ ra, mà vẫn dịch-sử không ngừng..."

... Trời đã là thế, thì hình như không thể suy-trắc đặng. Nhưng ta, có thể lấy cái chỗ hiển-hiện của lẽ ấy nơi vạn-vật chung quanh ta đây mà suy, may có thấy đặng vài cái bản-tánh của nó, như thế ta có thể lý-hội đặng nó vậy.

Lẽ Trời, ta chỉ thấy đặng hai bản-tính, một là tính Cảm-Sinh, hai là tính Dịch-hóa.

Cảm-Sinh, tức là hai món cảm hợp nhau mà sanh ra sự vật. Ý-tưởng hoặc những vật hữu-hình hay vô-hình, vật gì sanh ra cũng đều do hai cái mà sanh ra cả. Tính ấy làm cho trong Vũ-trụ, cái nọ rang buộc lấy cái kia, mới không tuyệt-diệt, mới vững-vàng được, mới sinh-hóa bất cùng đặng, nghĩa là mới có đặng thời-gian và không-gian.

Dịch-hóa là gì? Dịch, – là không yên một chỗ, không nhứt định một bản-sắc, không câu chấp một cách thức nào. Hóa, là vì "dịch", nên biến-thiên luôn-luôn.

Dịch-hóa là do nơi Cảm-sinh mà có. Ví có Cảm-Sinh, cái nọ dan-díu với cái kia, – cho nên phải dịch-hóa dể mà Cảm-Sinh không dừng vậy.

Hai bản-tánh ấy, tương-đương không bao giờ rời nhau đặng. Vạn-sự Vạn-vật có cảm nhau, có thay đổi luôn mới đứng vững được giữa Vũ-trụ. Các loài, nếu cứ theo hai cái tính ấy mà sinh-hoạt thì vô-sự.

Con người, cũng một thế. Nếu biết lấy Tâm mà "cảm", lấy Trí mà "dịch" thì không bao giờ phải hư-hỏng khổ-sở.

Đời người, đã là hình-ảnh của Tâm và Trí, muốn ở cái đời người cho hợp lẽ Trời, thì nhất diện phải dưỡng Tâm, nhất diện phải dưỡng Trí.

Kẻ nào, chỉ có Tâm hay cảm, nhưng không có Trí để biết, cho hợp thời thuận cảnh, thì hành-vi đã là không lợi cho người, mà lại còn lắm đều nguy-hại, kể không xiết.

Đừng làm theo cái gương anh nông-phu "nhớm gốc lúa", của vua nước Lỗ nuôi chim... Cái di-hại cho đời có phải do nơi có Tâm mà không có Trí hay chăng?

Trái lại, có người biết nghĩa-vụ nầy là phải, rõ phận sự kia là đúng, vẫn có trí-lược làm nổi, nhưng mà lãnh-đạm hững-hờ, họ không làm, ai có làm, họ cũng mặc, ấy là chỉ vì có biết mà không có cảm. Tâm họ không từng hàm-dưỡng bao giờ, không đủ ái-tình, không đủ nghị-lực. Có Trí mà không có Tâm, có Tâm mà không có Trí, cũng không làm gì đặng cả.

Cứ lấy đó mà suy xét ra mãi, thời ta sẽ thấy rõ ràng, giữa vũ-trụ nầy, có "dịch-hóa mới có cảm-sinh mầu-nhiệm", mà con người có trí-thức mới làm được việc phải, tức là những đều lợi-ích cho nhân-sanh.

Cái sở-đắc, do Tâm và Trí hỗn-hợp nhau mà đúc nên. Được như thế, mới thật là con người hoàn-toàn; hành-vi như vậy, mới thật là hành-vi tận thiện, đồng với Lý Trời.

Một nhà học-giả kia có nói: "Trong loài người, chỉ có cái thần-diệu công-phu đó là quý-nhất, mà người ta có biết được cái thần-diệu đó, thì mới là con người hoàn-toàn, tôi xin mượn tên của Trang-Châu đặt, gọi con người ấy là "Chân-Nhân".

"Thế nào là Chân-Nhân? Là người đã dưỡng làm theo cái bản-năng thiện của mình do cẩn-thủ đến tự-nhiên, để biết thuận theo những mối cảm của mình đối với người và vật. Muốn thuận theo như vậy, thì chân-nhân trước đã lấy trí-lự mà suy biết những mối liên lạc của bản-thân với sự vật là những mối gì, mối cảm-tình nào là quan-hệ hơn và sự thay tình-cảnh của những cảm-tình ấy ra thế nào, sau mới lực-hành cái sở-tri ấy. Thí-dụ như bản-thân thật có cảm-tình liên-lạc với người đồng-chủng, thì chân-nhân không phải nhắm mắt theo liều tập-quán, hoặc phong trào, hoặc sách-vở. Chân-Nhân đã từng xét biết rằng hỡi lẽ cảm-sinh của vũ-trụ với người thật có mật-thiết quan-hệ với người đồng-chủng khác, cho nên chân-nhân thương-yêu binh-vực người đồng-chủng cho thuận Lẽ Trời, thương-yêu binh-vực một cách có ý-thức, không phải bông-lông. Mối tình với đồng-chủng đó, bởi tính dịch-hóa của lẽ Trời, tùy thời tùy cảnh, thay đổi ra thế nào, hoặc tăng lên, hoặc giảm xuống, hoặc nên động, nên tịnh, thì chân-nhân cũng theo đó cơ-biến hành quyền. Nói thô ra, thì lẽ Trời cũng như chiều gió, mà chân-nhân cũng như ngọn cỏ; chiều gió khi nam khi bắc, khi mạnh khi êm, khi nóng khi lạnh bất thường thì sự cư-xử của chân-nhân cũng khi nam khi bắc, khi mạnh khi êm, khi nóng khi lạnh, không sai tí nào, nhưng tự làm không sai được là nhờ công-phu trí-não một phần to.

Đó là mới đem kể một mối cảm sinh của cá-nhân đối với đồng-chủng, còn biết bao nhiêu mối cảm-sinh khác lẽ Trời xây-vần cho mình, mình đối với than mình, với nhà, với nước, với thiên-hạ, với cổ-nhân, với hậu-thế, với cảnh sắc thiên-nhiên, với công-trình nhân tạo... đối với thân ngoại chi vũ-trụ, mình phải cư-xử cho trúng-tiết, cho bất-du-củ. Biết được bấy nhiêu đều nghĩa-vụ, mà biết cho ra trò biết đã khó; làm hết bấy nhiêu mà làm được thuận dòng đúng hướng, lại khó biết dường nào! Một mình gánh-vác hết thảy những thiên-chức ấy, khi nào cũng hợp Tâm và Trí mà thi-vi, lâu ngày không phải miễn-cưỡng nữa, cái Tâm cảm làm sao, cái Trí xui làm sao, tự-nhiên làm ra hợp lẽ. Đến bực đó, tựa hồ trong tâm-thân có cái tia sang thần-linh nó đưa đường chỉ néo sang-suốt khỏe-khoắn, không có gì trở-ngại dơ-bẩn được nữa. Cái thần-quang đó, tức là hạo-khí, là tuệ-giác hoặc là tinh-thần vậy.

Cũng do Vũ-trụ Cảm-tình, cho nên Chân-Nhân nhất-diện tu-thân dưỡng tính cho mình đã đành, nhất-diện lại hết sức hô-hào cổ-vũ cho thiên-hạ được như mình, – nghĩa là cầu cho thiên-hạ sinh-hoạt một cách hợp lẽ Trời. Hoặc cải-chính cái đã có rồi cho hợp thời, hoặc trừ-khử cái đã hỏng-nát đi cho đúng phép, hoặc trước-thơ lập-ngôn để truyền-bá tư-tưởng, hoặc kiến-pháp lập công, để cho thiên-hạ noi theo, cúc-cung tận-tụy cho lẽ Trời, đến khi tắt nghỉ về Tạo-Hóa mới thôi.

Trở lại sống hòa làm một cùng lẽ Trời, – chẳng phải làm cho ta mất cái quan-niệm thiên-hình vạn-trạng của Vũ-trụ. Trái lại, ta kiêm được vừa cái quan-niệm duy-nhứt, vừa cái quan-niệm thiên-hình của vạn-vật. Kẻ đã giải-thoát rồi, chẳng những thấy Vạn-vật là Một cùng mình mà thôi, họ lại thấy đặng cái chỗ yếu-lý vì sao vạn-vật khác nhau, – nghĩa là cái chỗ phân-biệt của mỗi người mỗi vật, một cách rất thâm-viển.

Thấy đặng, vừa cái chỗ thiên-hình, vừa cái lẽ duy-nhứt hai lẽ cực-đoan của Chân-lý, mà tinh-thần ta đặng minh-mẫn trung-lập giữa hai quan-niệm ấy luôn-luôn, ấy là cái triệu-chứng rằng sự giả-thoát của ta càn rồi vậy.

Làm được hai cử-chỉ và hành-động ấy cũng như hai bản-năng riêng của ta: Lý và Tình.

Lý, để xem-xét, quan-sát về mặt hình-thể phân-biệt của mọi vật (Thuộc về quan-niệm thiên-hình vạn-trạng, thường chuyên về sự phân-tích).

Tình, để bao quát và qui hợp Vạn-vật làm một về mình. (Thuộc về quan-niệm Duy-nhứt của Vạn-vật, thường hay chuyên về sự tổng-quát).

Hai bản-năng ấy dung-hòa, bồi-bổ nhau, làm thành cái hành-động hoàn-toàn. Nếu thiếu một tư-chất ấy hoặc hai tư-chất ấy lại công-phẫn nhau nơi lòng, đó là ta tạo cái hành-động bất túc, bất toàn vậy.

Người mẹ kia, thương con rất nồng-nàn, có thể dám thí-thân vì con; nhưng nếu lòng thương ấy chỉ có muốn đam về cho mình mà thôi, đến nước, ép-buộc nó giống theo sự thương của mình, và quên-lững (hoặc không biết), đến cái "thiên-tính tự-do", tức là không biết kính cái "đặc-tính tự-nhiên" của mỗi đứa con, thì trong hành-vi ấy ta chỉ vì thấy đặng có một mặt Duy-Nhứt mà không thấy đặng về mặt sai-biệt thiên-hình của Vạn-vật.

Nếu ta muốn đạt-suốt cái lý của mọi vật, tức phải làm cho Trực-Giác hiển-lộ ra; mà muốn cho Trực-Giác hiển-lộ ra, thì tưởng cho không có phương-pháp nào hay hơn là kiêm được Lý và Tình nơi lòng, một cách điều-hòa đầy-đủ.

Lý và Tình, Tâm và Trí phân ra mà nói, chỉ là dụng phương-pháp phân-tích để suy-luận. Lúc hỗn-độn nó vẫn là Một, đến lúc bị phá ra, thành Tâm và Trí; đến lúc hiệp nhứt lại nó là Chân-tính. Chân-tính là một "vật không thể phân-tách", như "nước" là do "dưỡng-khí" và "khinh-khí" hợp thành. "Dưỡng-khí", là "dưỡng-khí", mà "khinh-khí" là "khinh-khí" lúc chưa hợp thành "nước". Lúc hóa-chuyển ra "nước" rồi, thì "khinh-khí" không còn là "khinh-khí" nữa mà "dưỡng-khí" cũng không còn là "dưỡng-khí" nữa. Chỉ có "nước" mà thôi. Chân-Tính như "nước", Tâm và Trí như "dưỡng-khí" và "khinh-khí" vậy. Cho nên, Chân-Nhân tức là người đã sống trong cái sống viên-mãn của Chân-Tính rồi. không còn có thấy có Tâm, cũng không còn thấy có Trí nữa. Hành-động thi-vi ra, trong đã có hàm Tâm và Trí một cách rất đầy-đủ.

Cho nên Trang-Tử có nói: "Tri vong thị phi, Tâm chi thích giả; Thỉ hồ thích nhi vị thường bất thích, hội chi thích giả". Chân-Nhân, giải-thoát rồi, đứng ngoài Tâm và Trí, hành-vi vẫn tự-nhiên, không miễn-cưỡng, không do-dự gì cả! Chân-Nhân còn hàm dưỡng Tâm và Trí như đã nói trước kia mới chỉ là chân-nhân vừa mới nhận-chân cái "Một" của Tâm và Trí, nhưng chưa hóa-chuyển Tâm-Trí đặng...

Cho nên chỉ có kẻ chưa sống đặng trong Chân-Tính mới còn thấy có Tâm, có Trí phân-biệt nhau, và lo lấy Tâm làm chủ Trí, hoặc lo dưỡng Trí để tu Tâm, hoặc bày ra những quan-niệm rất phiền phức về Tâm-Trí làm cho con người càng rối lòng không biết làm sao mà thoát-ly cho đặng.

Sống đặng trong Chân-Tính, mới có thể gọi là sống một cách hoàn-toàn đầy-đủ... Bấy giờ Tâm và Trí đều được hóa-chuyển rồi, ta chỉ thấy có cái "Sống" mà thôi vậy...

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com