Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

XVI - XXIII

XVI

TA phải lấy cái chi làm cái mẫu của Tận-Thiện?

Muốn hiểu cái chỗ toàn-thiện của Vạn-vật trong những loại đơn-sơ như kim-thạch, thảo-mộc thú-cầm... ta cần phải có những kẻ lịch-duyệt chuyên-môn thay, nghĩa là kẻ hiểu biết đặng cái chỗ Toàn-thiện của Vàng, có thể không rõ được cái chỗ Toàn-thiện của ngọc-bích, hoặc cái chỗ Toàn-thiện của con người... Những kẻ chuyên môn về mọi đều ấy thật là rất ít. Trái lại, về phần con người thì lại hiếm kẻ tự xưng là lịch-lãm chuyên-môn. Họ cho rằng cái chỗ toàn-thiện của con người, dễ nhìn biết lắm. Ta lấy chi làm bằng-cớ để minh-chứng lẽ ấy? Đối với những loài đơn-sơ trong Vạn-Vật, ta còn không thể hiểu được cái chỗ toàn-thiên thay, huống chi trong những chỗ toàn-thiện của người, nghĩa là trong những chỗ phiền-phức và siêu-việt của tinh-thần thiên biến vạn-hóa thì ta làm thế nào hiểu thấu cho được. Loài người trong thế-gian không khác nào loài hoa trong vườn-huê. Tuy gọi là hoa, nhưng cũng có nhiều thứ, chỗ toàn-thiện của giống nầy không phải chỗ toàn-thiện của giống kia. Loài người cũng một thế.

Kẻ theo cơ-đốc-giáo thì lấy đức Jesus làm cái mẫu cho sự Tận-Thiện Tận-mỹ. Quan-niệm ấy không do nơi sự thật của sự vật, – mà lại do nơi Tôn-Giáo bày ra mà thôi.

Ta có thể tưởng-tượng một đấng Toàn-thiện mà đấng ấy không một mảy giống với cái Toàn-thiện của đức Jesus, cũng như ta có thể thấy đặng cái chỗ toàn-thiện của hoa lan nó không giống với cái chỗ Toàn-thiện của hoa hường chút nào vậy...

Con người, phần nhiều, vì không hiểu cái lý ấy, nên hay dụng-tâm hạn định cho vầy là Nhân, kia là Nghĩa, vầy là Hiếu, kia là Đề. Chỗ mà ta cho là Nhân, là Nghĩa, người ta sẽ cho là còn dã-man hay quái-dị cũng không chừng... Ấy là đều ta nên chú-ý, chớ quá dụng tư-tâm mà hạn định cái chỗ toàn-thiện toàn-mỹ của con người.

XVII

KHÔNG phải ai ai cũng đều thấy đặng cái đẹp, cái toàn-mỹ của Vũ-Trụ vạn-vật.

Tại sao con người khó thấy đặng sự Hoàn-Toàn của Tạo-Hóa? Phải chăng tại con người phần-đông ai ai cũng mắc phải cái bệnh "lo đời" mà ít có ai biết "lo cho mình", lo cho mình đến chỗ thật biết thật hiểu?

Kìa trước một cảnh vật tốt tươi, sườn núi xanh om cây cỏ, nhà họa-sỹ chép miệng khen: " Chà! cảnh đẹp là thế nào, thật là một bức tranh tuyệt mỹ của thiên-nhiên". Nhà tư-tưởng khen: "Cảnh tịch-mịch thanh-u, ước chi ta đặng ở chỗ nầy để trầm tư một tưởng". Nhà buôn bán cũng khen: " Cỏ mọc xanh-um, đồng rộng mênh mông, ước chi ta mua bò nuôi đây, ít năm lợi vô không biết đâu mà kể".

Cảnh có một, mà chỗ thấy của mỗi người mỗi khác. Phải chăng cảnh vật kia là thể ví như cái đài-gương, mỗi người xem vào đều thấy cái bóng mình trong đấy.

Thế thì hoàn-cảnh chung quanh ta, không có cái giá thật của nó, mà nó có cái giá-trị hoàn-toàn hay bất toàn, cũng tại nơi cái người của ta toàn hay chưa toàn mà thôi! Muốn có cái phán-đoán chánh-đáng, trước hết cần phải lo cho cái người của ta chánh đáng đã.

Tại sao nhân loại lại có kẻ thì xem đời là bề khổ là một trường tranh-đấu, bồng-bộc sự danh, lợi, thị, phi, sôi-nổi sự bất-công bất-nghĩa?... Phải chăng là tại nơi ta chưa giải-quyết đặng vấn-đề tranh-đấu danh-lợi mới có biến-sanh những sự phán-đoán như thế?

Còn sao cũng lại có kẻ không thấy đời là khổ, đầy dẫy sự bất công bất chánh, hèn hạ xấu xa, trái lại họ cho rằng vạn-vật nhân-loại tranh nhau là vì hễ còn sống trong cái sống-tư, còn "lo-tư riêng", thì sự giết hại lẫn nhau là một lẽ tự-nhiên không sao tránh khỏi, còn những việc quấy, phải, nhục, vinh là những đều vọng ảo mê-lầm? Bởi họ đã giải-quyết đặng nơi họ những sự mâu-thuẫn vì tranh chấp của lòng, nên mới có đặng cái tâm-lý thản-nhiên điềm-mặc như thế.

Còn thấy đời loạn khổ, nên mong đi trị-loạn diệt-khổ là tự mình hãy còn loạn khổ, thì làm thế nào trị loạn diệt khổ cho đặng. Đã vậy còn trở lại trách-móc kẻ không đi phổ-độ cứu khổ cho quần-sinh như mình kia, là ích kỷ, mê-muội, nghĩ cũng đáng thương.

Phải chăng chỉ có kẻ tự-kiêu mới thấy người là kiêu-thái. Kẻ thật thường tưởng ai cũng thật, người gian thường tưởng ai cũng gian. Thật vậy kẻ kiêu-thái là kẻ không chịu ai trên mình, nên thường hay nghi cho kẻ khác muốn lấn mình. Bất kỳ ai làm gì, nói gì, họ cũng nghi là muốn phạm đến danh-giá họ, như anh mất búa trong bài ngụ-ngôn của Huệ-Tử. Bởi họ không muốn thấy ai hơn họ, nên họ thích kẻ khiêm-tốn nhu-mì, thường lại ưa tán-dương cái đức-tánh ấy. Kẻ ưa người khiêm-tốn ghét kẻ kiêu-xấc, phải chăng kẻ ấy là người kiêu-xấc hơn ai? Ôi! Mình còn là người mù mong-mỏi lo đi trị bệnh cho người mù... Nhân-loại ngày nay hãy còn rất đông những con người vô-tâm như thế.

Còn thấy đời là khổ, là tự mình còn khổ...

Còn thấy đời là bất-toàn, là tự mình còn bất-toàn...

Cũng một việc xảy ra, mà nay thấy khổ mai thấy không. Đó là tại sự phán đoán của mình.

Cũng một việc xảy ra, mà nay thấy dở mai thấy hay, tại đâu? Cũng là tại sự phán đoán của mình cả.

Cổ-nhân có câu: "Tạo-vật không khác nào một cái gương soi: cái mặt lừa mà ngắm vào, thì đừng trông trong đấy hiện ra cái hình của người tiên-nữ". Thế thì lo cho mình đừng có cái mặt lừa, hay lo cho cái gương đừng phản-hiện cái mặt lừa. Lo cho đời là chánh đáng hay lo cho mình là chánh đáng.

Kẻ còn thấy sự đời rời-rạt, còn phân biệt phải, quấy, tốt, xấu, sang, hèn là kẻ còn sống trong cảnh "bị phá", chưa đạt đến cái "Sống-Một"... Phải biết xem trùm vạn-vật, lấy toàn thể sự vật mà xem, mới trông thấy đặng cái đẹp của Vũ-Trụ vạn-vật.

Trong một bức tranh, nếu lấy riêng ra từng nét mực mà luận, thì có nét thanh, có nét thô, có màu tươi, có màu sậm... Rồi thì mỗi người lại tùy theo sở-thích mà định-phân tốt xấu, dở hay, bấy giờ mới có nảy sanh ra sự tranh giành hơn kém. Kẻ cho màu xanh là đẹp, người cho màu đỏ là xinh, rồi ấu-đả nhau, giết hại nhau... ai cũng muốn giư phần phải cho mình, ai cũng muốn tự giữ lấy độc-quyền chân-lý.

Trái lại, nếu ta đứng xa mà xem trùm, ta bấy giờ không còn thấy nét nào thô, nét nào tinh, mầu nào xấu, mầu nào tốt nữa cả, mà cả thảy sự tinh-thô, xấu tốt đều công-cộng làm thành một bức tranh tuyệt-mỹ... "Nhìn xem muôn vật, hãy đứng chỗ cho thật cao, cho thật xa, đặng xem trùm lấy... Ta sẽ thấy thảy-thảy như hòa làm một cùng nhau, đừng cho còn thấy chỗ rời-rạt... vụng-vặt. Bấy giờ ta mới thấy đặng cái khéo, cái hay của tạo-hóa".

XVIII

HÃY làm cho kẻ khác những đều ta muốn cho kẻ khác làm cho ta. Chớ làm cho kẻ khác những đều ta không muốn cho kẻ khác làm cho ta.

Chưa ắc!

Cái đều ta muốn kẻ khác làm cho ta, chưa ắc là đều kẻ khác cũng muốn cho ta làm cho họ.

Cái đều ta không muốn kẻ khác làm cho ta, chưa ắc là đều kẻ khác cũng không muốn cho ta làm cho họ.

Lấy ta làm cái mực để lo lòng người, là lầm.

XIX

CHIẾC đò qua song, bị phải chiếc thuyền không, trôi dụng. Dầu người có hẹp lòng đến đâu, cũng không giận. Nếu có người trên thuyền, thị đà thấy chủ đò giận-giũi, phùng trợn. La-lối một lần mà bên thuyền chẳng ai nghe, tất la lối đến hai lần. Hai lần mà cũng chẳng ai nghe, tất la-lối đến ba lần, rồi buông lời chửi mắng.

Trước không giận mà nay lại giận.

Trước không mà nay có.

Tại sao?

Tại ta tưởng có người cố-tâm làm hại ta, nên ta giận.

Đi đường nếu ta gặp phải người say đạp ta, ta không giận. Trái lại, nếu người ấy tỉnh mà ta biết họ cố ý làm cho ta đau ta sẽ nỗi cơn giận-giũi liền.

Tại sao trước không giận mà sau lại giận? Tại ta tưởng họ cố-tâm làm hại ta, nên ta giận.

Nhưng xét kỷ ra, ở đời ai là người thật hữu-tâm trong các hành-vi mình, ai là người tự-do trong các hành-vi mình? Những kẻ làm hại ta, luôn luôn là kẻ vô-tâm ám-muội cả... U-ơ về Lợi Hại, mờ-mệt về Phải Quấy, con người phần đông hành động như trong cơn mê-mộng...

Nếu gặp phải ai đụng chạm đến ta, thì hãy nghĩ ngay cho họ như "chiếc thuyền không" hay "người say rượu" là hay.

Nói cho lột lý mà nghe, nếu bảo con người là một vật ăn-chiệu rất mật-thiết với Vũ-Trụ Vạn-vật, thì mỗi hành-vi của ta hằng ngày không có hành-vi nào là hành-vi của ta cả.

Thế thì ta cũng là "chiếc thuyền không" mà người cũng là "chiếc đò không", thảy đều vô-tâm hành-động dướ quyền chỉ-huy của một lẽ xa-xăm huyền-bí đâu đâu... như tinh-tú hằng hà bao-la vạn-tượng...

XX

ANH thầy thuốc gian-xảo dầu gặp than-chủ không bệnh cũng thêu-dệt cho đặng rằng có bệnh, mà bệnh nguy kịch lắm kia. Nhưng không sao cả! Bao giờ hễ có chứng quỉ thì có thuốc tiên. Anh nhờ cái mánh-khóe ấy mà đời sống anh rất dẽ chịu hả-hê.

Cũng thói lợi-dụng cái "Sợ" của người mà tôn-giáo ngày một bành-trướng thêm ra. "Nhác" trước, rồi "đổ" sau, nhờ cái mánh-khóe ấy tôn-giáo ngày nay mới có thế-lực to-lớn như ta đã thấy. Cái lòng "lo sợ" của con người về những lẽ huyền-bí là cái di-truyền của ông cha ta lúc còn bán-khai, sống trong cảnh ngu-dại, hãi-hùng giữa những lực-lượng ghớm ghê của tạo-hóa mà ta không hiểu cái lý do là sao cả!

Nay con người đến buổi văn-minh cực-điểm rồi, cớ sao cưa chịu giải thoát lấy cái "di-truyền-tính" ấy, cam chịu sống trong cái tâm-lý ươn-hèn nô-lệ mãi như thế?

Ta thử tưởng-tượng con người bán khai cổ-lổ, gặp cục đá cũng lượm về thờ, bất kỳ là cái chi mà họ thấy lạ và nghi sợ có hại cho họ tức thời họ đam về tôn-thần-thánh, với con người văn-minh hiện-thời, ngày tối quì lạy một cái lẽ Huyền-bí mà họ không hiểu là gì cả, hai hạng người ấy, có khác nhau về mặt hiểu biết chăng? Không thể gọi đó là Văn-Minh Tấn-Bộ đặng!

XXI

CON người sở dĩ cao siêu hơn vạn-vật, là nhờ trừ mình ra, không ai giải thoát cho mình đặng cả.

Ta đâu phải anh em gì của ngươi, đừng bao giờ ỷ lại vào ta mà làm chi.

Kìa như lửa có bao giờ sợ rơm chăng?

Bão tố có biết thương hại gì đến cây cối chăng?

Hễ mạnh thì sống mà yếu thì chết. Người ta ỷ mạnh mà hiếp ngươi, là tại ngươi yếu nên mới bị hiếp.

Người ta sở dĩ cao trọng hơn ngươi, là tại ngươi cứ mãi quì mọp trước mặt họ. Ngươi hãy đứng thẳng lên thử nào!

Người ta lợi-dụng bóc-lột ngươi, là tại ngươi ngu-dại để cho họ lợi-dụng bóc-lột.

Đừng có đổ thừa ai cả mà phải biết rằng muôn sự không hay đến cho ta, đều tại ta cả. Nếu ta không ngu mà để cho người lợi-dụng thì hạng người lợi dụng lấy gì mà có.

Nếu ta là đấng Tạo-Hóa, ta không bao giờ chịu để cho con người quì-lụy trước mặt ta, ta sẽ bảo họ đứng thẳng lên cả, ngó ngay vào mặt ta. Không có cái lý gì bắt buộc chúng phải tự hạ trước mặt ta cả, bởi chính ta tạo chúng ra như thế. Không lẽ ta đây là đấng Hoàn-toàn lại sanh ra những giống hèn-hạ nô-lệ như thế đặng.

Con người sao sợ ông Trời của mình tạo ra?

Vậy chớ không phải quan-niệm về Thượng-Đế sở dĩ có, là nhờ con người tạo ra sao?

XXII

TẠI sao người ta phần đông hay " lo cho đời " mà ít ai để ý " lo cho mình "?

Lo sửa đời dạy người phải chăng là một phương pháp khiến người ta để cho ta "yên".

Dạy người cho biết Lễ, Nghĩa chẳng qua để họ đừng giựt bát cơm ta. "Nghĩa dả lợi giả" có gì đâu là cao thượng?

Trong khoản talo cho đời để cho ta yên, đành là ta chưa yên, nhưng giá ta đã hóa chuyển đặng tâm-tánh xã-hội chung quanh ta cho họ yên cả đặng rồi, ta có chắc ta sẽ được yên chăng vậy?

Xưa kia, có một ông thầy tu, từ bỏ cả sự sản, chỉ giữ lại cho mình có hai chân mà thôi. Ngày kia cùng một ông vua ngồi dưới cội cây cách xa đều vua vài ba trăm thước, bàn luận đạo đức. Bỗng cái đền nguy nga tráng lệ kia phát cháy một cách dữ dội. Ông vua vẫn điềm mặc tự nhiên, bình tĩnh đàm luận như thường, chỉ có ông thầy tu thì tâm trí rối loạn, cặp mắt ngó chừng mãi chỗ lửa cháy. Vì sao? Vì hồi sớm ông có phơi cái chăn của ông gần đấy.

Nào phải tại hoàn cảnh làm cho ta rối loạn đâu. Ông vua kia, sống trong chỗ giàu sang, dẫy đầy của cải nhưng tấm lòng ông, ông đã lo cho nó "yên" rồi, không cho nó bận mắc vào đâu cả. Vì thế, ông vẫn thản nhiên, ngoại cuộc đảo điên không làm cho lòng ông xao xiếng nỗi. Còn ông thầy tu, vì đã sợ cái ngoài, nó không để cho ông "yên" nên ông đã lo dứt bỏ nó, thế sao vì có một cái chăn mà nó không để cho ông yên? Cũng tại ông chỉ "lo cái ngoài" mà quên "lo cái trong" của ông trước

Tại mình định cho nó có một cái giá, mà ngoại vật mới làm chủ mình đặng. Hễ bao giờ mình ham muốn một vật gì, tức khắc nó làm chủ mình rồi vậy.

"Bất quí nan đắc chi hóa, sử dân bất vi đạo". Không quí của khó đặng, đó là làm cho dân không trộm cướp.

Sự đời không khác nào cuộc chơi con trẻ. Có đứa nọ có một món chơi lạ, đem khoe với mấy đứa kia. Mấy đứa kia trầm trồ khen ngợi, van lơn nó cho chơi chung. Bấy giờ nó sẽ làm bộ nầy kia, ôm ẵm vật ấy như một vật quí vô giá. Nếu mấy đứa kia cứ mãi nài-nỉ khẩn-cầu, nó lại sẽ càng ra dáng điệu kiêu-xấc khinh-thị đám kia.

Giá mấy đứa kia đừng cho vật ấy là quí nữa, bỏ lảng ra tìm vật khác mà chơi, thì đứa nhỏ nọ sẽ đi kiếm lại mấy đứa kia năn-nỉ thỉnh-cầu là khác, mà vật ấy đối với nó bây giờ không còn giá trị gì nữa cả.

Định cho vật nầy là quí, vật kia là khinh, đó là ta đã gieo vào xã-hội cái mầm loạn-ly tranh đấu rồi vậy.

Ta chớ bao giờ vô-tâm để cho bọn khôn-xảo kia họ định giá sự vật để lợi-dụng lòng háo ky nông-nổi của ta.

XXIII

CỘNG-SẢN chủ-nghĩa là cái phản-động cố-nhiên của Tư-Bản chủ-nghĩa.

Kẻ có tiền-bạc của cải họ đã hết sức tàn-nhẫn vô-đạo, lẽ cố-nhiên những người bị đau-khổ dưới cái ách khốn-nạn ấy phải tầm con đường giải-thoát của họ.

Thế là một chế-độ mới sẽ thay thế vào chế độ cũ. Dầu ta có muốn hay không muốn, ta cũng phải buộc mình tuân theo.

Có khác nào một đoàn chiên con, chúng là bị lôi-cuống theo sự "không thâu-trử" cũng như hiện thời chúng ta bị lôi-cuống theo sự "phải thâu-trử" ...

Chế-độ Tư-Bản, buộc ta phải "lo tư riêng" còn chế độ Cộng-Sản, buộc ta phải "không lo tư riêng"...

Bao giờ ta hãy còn bị "bắt buộc" thì ta chỉ là một tên tôi mọi mãi cho chế-độ mà thôi.

Làm phải mà vì bị bắt buộc phải làm, với làm quấy vì bị bắt buộc phải làm, người có đầu-óc tự-do và biết trọng nhân-cách không bao giờ chịu làm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com