Chương 14
Millard thả rơi cái túi xuống. Sức lực đã quay trở lại với cậu ta, cùng với nó là sự tin tưởng. "Tớ thừa nhận là tớ đã ít nhiều hạ thấp những nguy hiểm trong các Vòng Trừng Phạt. Nhưng tớ chưa bao giờ nghĩ chúng ta thực sự phải đi vào trong đó! Bất chấp những lời thông báo ảm đạm của con chó khó chịu đó về tình hình tại London, tớ đã tin chắc chúng ta sẽ tìm thấy ít nhất một Vòng Thời Gian chưa bị tấn công ở đây, với Chủ Vòng vẫn vòn tồn tại và có thể trông cậy vào. Và theo tất cả những gì chúng ta biết, thì vẫn còn khả năng đó! Làm sao chúng ta có thể đoan chắc tất cả họ đã bị bắt cóc? Chúng ta đã tận mắt nhìn thấy các Vòng Thời Gian bị tấn công của họ chưa? Sẽ thế nào nếu điện thoại của tất cả các Chủ Vòng chỉ đơn giản là bị... cắt đường dây?""Tất cả họ sao?" Enoch chế giễu.
Thậm chí cả Olive, Olive luôn luôn lạc quan, cũng bắt đầu khi nghe tới đó.
"Vậy cậu đề xuất như thế nào, Millard?" Emma nói. "Rằng chúng ta đi xem qua lần lượt các Vòng Thời Gian tại London và hi vọng tìm thấy ai đó vẫn ở nhà chăng? Và cậu nói sao về khả năng những kẻ biến chất, những kẻ đang săn lùng chúng ta, sẽ để mặc các Vòng Thời Gian đó không canh gác?"
"Tớ nghĩ chúng ta sẽ có cơ hội sống sót qua đêm nay hơn nếu chúng ta dành nó vài việc chơi trò roulette Nga." Enoch nói.
"Tất cả những gì tớ muốn nói." Millard nói. "Là chúng ta không có bằng chứng nào... "
"Cậu muốn nói bằng chứng nào nueax?" Emma hỏi. "Những vũng máu chăng? Một đống lông vũ của các Chủ Vòng bị vặt ra chăng? Cô Avocet đã nói với chúng ta là cuộc tấn công của những kẻ tha hóa bắt đầu ở đây nhiều tuần trước. Cô Wren rõ ràng tin rằng tất cả các Chủ Vòng tại London đã bị bắt cóc - liệu cậu có biết rõ hơn cô Wren, một Chủ Vòng hay không? Và giờ chúng ta ở đây, trong khi không Vòng Thời Gian nào trả lời điện thoại gọi tới. Thế nên làm ơn nói cho tớ biết tại sao đi từ Vòng này qua Vòng khác có thể là gì ngoài sự lãng phí thời gian nguy hiểm theo kiểu tự sát đây. "
"Đợi một chút nào - đúng rồi!" Millard reo lên. "Thế còn cô Wren thì sao?"
"Bà ấy thì sao cơ?" Emma hỏi lại.
"Chẳng lẽ cậu không nhớ con chó nói gì với bọn mình à? Coi Wren tới London mấy hôm trước khi bà nghe nói chị em Chủ Vòng của mình đã bị bắt cóc."
"Thế thì sao?"
"Nếu bà ấy vẫn còn ỏe đây thì sao?"
"Thì đến giờ này nhiều khả năng bà ấy cũng bị bắt cóc rồi!" Enoch nói.
"Thế nếu chưa thì sao?" Giọng Millard tràn ngập hy vọng.
"Bà ấy có thể giúp cô Peregrine - và như vậy chúng ta sẽ không phải mon men tới gần các Vòng Trừng Phạt nữa."
"Và theo cậu chúng ta làm thế nào tìm được bà ấy đây?" Enoch la kên lanh lảnh. "Đứng trên các nóc nhà gọi tên bà ấy ầm lên chắc? Đây không phải là Cairnholm; đây là một thành phố với hàng triệu người!"
"Những con bồ câu của bà ấy. " Millard nói.
"Nhắc lại xem nào?"
"Chính lũ bồ câu đặc biệt của cô Wren đã báo cho bà biết các Chủ Vòng đã bị bắt đi đâu. Nếu chúng biết nơi tất cả các Chủ Vòng bị đưa tới, vậy hẳn chúng phải biết cô Wren đang ở đâu. Nói cho cùng, chúng thuộc về bà ấy cơ mà."
"Ái chà!" Enoch nói. "Thứ duy nhất hay gặp hơn các quý bà trung niên mặt mũi bình thường ở đây là nhứng bầy bồ câu. Vậy cậu muốn đi khắp London để tìm chính xác một bầy nào đó sao?"
"Nghe có vẻ hơi điên rồ." Emma nói. "Xin lỗi, Mill, nhưng tớ không thấy cách đó có thể thành công."
Thế thì may cho các cậu là tớ đã dành thời gian trên tàu vào tìm hiểu thay vì tán dóc. Ai đưa cho tớ quyển những chuyện kể nào!"Bronwyn lấy cuốn sách từ trong rương ra và đưa nó cho Millard. Cậu ta hồ hởi đón lấy, lật giở từng trang. "Có rất nhiều câu trả lời có thrẻ tìm thấy trong này." Cậu ta nói. "Chỉ cần các cậu biết tìm cái gì." Cậu ta dừng lại ở một trang rồi gõ ngón tay lên đầu trang sách. "Ai da!" Cậu ta reo lên, xoay cuốn sách lại để chỉ cho chúng tôi thấy thứ mình vừa tìm được.
Tiêu đề câu chuyện là "Những con bồ câu ở Nhà thờ Thánh Paul."
"Chúa ban phước cho tớ." Bronwyn nói. "Có lẽ nào đó chính là những con bồ câu chúng ta đang nói tới?"
"Nếu chúng được nhắc tới trong Những truyện kể, gần như chắc chắn chúng là những con bồ câu đặc biệt." Millard nói. "Và liệu có thể có bao nhiêu con bồ câu đặc biệt ở đây?"
Olive vỗ tay reo lên. "Millard, cậu giỏi quá!"
"Xin cảm ơn, phải, tớ biết mà."
"Đợi đã, tớ không hiểu." Tôi nói. "Nhà thờ Thánh Paul là gì vậy?"
"Đến tớ cũng biết." Olive nói. "Nhà thờ lớn. " Rồi coi bé đi tới cuỗi con hẻm, đưa tay chỉ lên một mái vòm lớn nhô cao lên ngoài xa.
"Đó là giáo đường lớn và tráng lệ nhất ở London." Millard nói. "Và nếu tóe đoán không sai, đó cũng là nơi bầy bồ câu của cô Wren cư ngụ."
"Hãy hi vọng là chúng có nhà. "Emma nói. "Và chúng có tin tốt cho chúng ta. Gần đây chúng ta đã quá thiếu thứ đó rồi."
* * * Trong khi chúng tôi đi vòng vèo qua một mê cung những đường phố hẹp về phía Nhà thờ Lớn, một sự im lặng ủ ê bao trùm lên chúng tôi. Suốt hồi lâu không ai nói gì, chỉ còn tiếng giày chúng tôi giẫm lên vỉa hè và những âm nhạc của đường phố: máy bay, tiếng xe cộ đi lại ầm ì không ngớt, những tiếng còi vang lên lối tiếp ngau trên đủ cung bậc xung quanh.
Càng đu xa nhà ga, chúng tôi càng thấy nhiều bằng chứng về những trận bom đã giội xuống London. Mặt tiền các tòa nhà bị mảnh bom phá lỗ chỗ. Những khung kính cửa sổ vỡ tan tành. Những đường phố lấp lánh rải đầy mảnh kính vỡ. Bầu trời lấm chấm những khí cầu nhỏ mà bạc căng phồng được buộc xuống đất bằng những sợi cáp dài. "Khí cầu phòng thủ." Emma nói khi cô thấy tôi nghển cỏi nhìn về phía một quả. "Máy bay ném om Đức chạm phải các sợi cáp trong đêm và rơi xuống."
Rồi chúng tôi bước tới trước một cảnh hủy diệt kỳ lạ đến mức tôi phải dừng lại và há hốc miệng nhìn - không phải vì một sở thích ngắm nghía quái gở nào đó, mà vì bộ óc của tôi không tài nào hiểu nổi nếu không xem xét kỹ hơn. Một hố bom mở ra toang hoác suốt bề rộng của con phố như một cái miệng khủng khiếp với hai hàm răng là vỉa hè vỡ nát. Ở một bên rìa, vụ nổ đã xé toang bức tường mặt tiền của một tòa nhà song lại để gần bên trong gần như còn nguyên vẹn. Trông như một ngôi nhà búp bê, tất cả các căn phòng bên trong đều mở toang ra ngoài phố: những bức ảnh gia đình bị hất nghiêng trong một lối đu song vẫn treo trên móc; một cuộn giấy vệ sinh bị bật tung ra và gặp một cơn gió nhẹ bay lẻn lất phất trong không khí như một lá cờ trắng dài.
"Có phải họ quên không xây xong nó không?" Olive hỏi.
"Không phải, ngốc ạ." Enoch nói. "Nó bị trúng bom."
Trong giây lát trông Olive như thể sắp khóc, nhưng rồi khuôn mặt cô bé trở nên đầy phẫn nộ, cô liền giơ nắm tay lên trời và la lớn. "Hitler xấu xa! Chấm dứt cuộc chiến tranh ghê tởm này và đi cả đi!"
Bronwyn vỗ lên cánh tay cô bé. "Suỵt. Hắn không nghe thấy được cậu đâu, cô bé."
"Thật không công bằng." Olive nói. "Tớ chán máy bay, bom và chiến tranh lắm rồi!"
"Ai chả thế." Enoch nói. "Thậm chí cả tớ."
Thế rồi tôi nghe thấy Horace hét toáng lên, tôi liền quay ngoắt lại và thấy cậu ta chỉ tay vào thứ gì đó trên đường. Tôi chạy lại xem là gì, rồi tôi cũng thấy và đứng khựng lại, cứng đờ, trong đầu thầm la lên Chạy mau! nhưng đôi chân tôi nhất định không nghe theo.
Đó là một đống đầu người xếp thành hình kim tự tháp. Chúng cháy đen, toàn những hốc, miệng há hốc, mắt bị hun nóng nhắm chặt, chảy ra và đọng lại thành giọt như một con quái vật nhiều đầu ghê rợn nào đó. Thé rồi Emna tới xem, thảng thốt kêu lên và quay mặt đi; Bronwyn tới và bắt đầu nức nở; Hugh nôn khan rồi đưa tay lên che mắt; và cuối cùng đến lượt Enoch, cậu ta có vẻ chẳng chút chấn động, bình thản dùng giày đá đá vào một trong những cái đầu và chỉ ra rằng chúng chỉ là ma nơ canh làm bằng sáp đã bị bắn ra từ cửa kính trưng bày của một cửa hiệu tóc giả bị trúng bom. Tất cả chúng tôi đều cảm thấy có chút ngượng ngùng nhưng không hiểu sao vẫn kinh hoàng như trước, vì dù những cái đầu này không phải thật, chúng cũng đại diện cho thứ tương tự đang bị vùi lấp trong đống đổ nát quanh chúng tôi.
"Đi thôi." Emma nói. "Nơi này chỉ là một nấm mồ."
Chúng tôi đi tiếp. Tôi cố dán mắt xuống đất, nhưng không thể nào làm ngơ được trước tất cả những thứ khủng khiếp chúng tôi đi ngang qua. Một đống đỏ nát nham nhở cuồn cuộn khói, người lính cứu hỏa duy nhất được phái tới dập nó buông thõng hai tay thua cuộc, người đầy vết bỏng rộp, mệt mỏi, vòi nước cạn khô. Ấy thế nhưng anh ta vẫn đứng quan sát nó, như thể khi không còn nước, giờ đây công việc của anh ta là làm nhân chứng.
Một đứa trẻ ngồi trong xe nôi bị bỏ một mình trên phố đang khóc thét.
Bronwyn không kìm được lòng, bèn đi chậm lại. "Chúng ta không thể giúp họ bằng cách nào đó sao?"
"Sẽ chẳng có gù khác biệt cả." Millard nói. "Những người này thuộc về quá khứ, và không thể thay đổi được quá khứ."
Bronwyn buồn bã gật đầu. Cô biết điều đó đúng nhưng cần phải nghe ai đó nói ra. Chúng tôi gần ngư không thuộc về nơi này, và cũng bất lực như những hồn ma.
Một đám mây tro vần vũ cuộn lên, che khuất những người lính cứu f đứa bé. Chúng tôi đi tiếp, bột bê tông nát vụn bám lên quần áo chúng tôi, còn mặt chúng tôi thì trắng bệch như xương.
* * *Chúng tôi hối hả băng qua các khối nhà đồ sộ nhang hết mức có thể, rồi ngỡ ngàng khi các con phố sống lại quanh mình. Chỉ cách địa ngục có vài bước chân, người ta đang hối hả đi tới chỗ làm việc, sải bước trên vỉa hè, sống trong những tòa nhà vẫn có điện và còn đủ cửa sổ, tường. Rồi chúng tôi rẽ vào một góc phố và mái vòm Nhà thờ Lớn hiện ra, kiêu hãnh, đồ sộ bất chấp những vệt đá nhuốm đen vì khói và vài vòm cuốn đổ sụp. Như linh hồn của chính thành phố, chỉ vài quả bom thì chẳng thể đánh sập được Nhà thờ Thánh Paul. Cuộc săn tìm của chúng tôi bắt đầu từ một quảng trường gần Nhà thờ Lớn, nơi những người già ngồi trên các băng ghế đang chi bồ câu ăn. Thoạt đầu thật hỗn loạn: chúng tôi ùa tới, nháo nhào vồ tóm trong khi lũ bồ câu bay vụt lên. Những người già bất bình cằn nhằn, và chúng tôi rút lui để chờ lũ chim quay lại. Chúng cuối cùng cũng quay trở lại, vì bồ câu không phải loài vật khôn ngoan nhất trên trái đất này, đến khi đó tất cả chúng tôi thay nhau làm ra vẻ thản nhiên đi qua giữa bầy của chúng, tìm cách bất ngờ bắt lấy chúng, đưa tay xuống chộp. Tôi nghĩ Olive, vốn nhỏ người và nhanh nhẹn, hay Hugh, nhờ mối liên hệ đặc biệt của cậu với một loài sinh vật có cánh khác, có thể sẽ may mắn ít nhiều, nhưng cả hai đều một phen ê chề. Millard cũng chẳng may mắn hơn, mà đấy là lũ chim còn không thể trông thấy cậu ta. Đến khi tới lượt tôi, hẳn lũ bồ câu đã phát chán với việc chúng tôi quậy quả chúng, vì ngay khoảng khắc tôi bước chân vào quảng trường, tất cả chúng cùng vụt bay lên và đồng thời trút xuống một trận mưa bom chất thải khiến tôi phải nhào tới một vòi nước để gội cả đầu.
Cuối cùng, chính Horace là người bắt được một con chim. Cậu ta ngồi xuống cạnh những người già, rắc hạt cho tới khi lũ chim lượn tới quanh mình. Rồi từ từ cúi người ra trước, cậu ta vươn hai cánh tay ra bình tĩnh hết mức có thể và chộp lấy hai chân của một con chim.
"Bắt được mày rồi." Cậu ta reo lên.
Con chim đập cánh và cố thoát đi, nhưng Horace giữ thật chặt.
Cậu ta mang con chim lại chỗ chúng tôi. "Làm sao chúng ta biết được nó có đặc biệt hay không?" Cậu ta nói, lật ngửa con chim lên để kiểm tra phần bụng xem có tấm thẻ nào không.
"Mang nó tới chỗ cô Peregrine xem. " Emma nói. "Cô sẽ biết."
Thế là chúng tôi mở chiếc rương của Bronwyn ra, thả con bồ câu vào trong với cô Peregrine, rồi đóng nắp lại. Con bồ câu kêu rít lên như thể nó đang bị xé thành từng mảnh.
Tôi nhăn mặt và lớn tiếng. "Bình tĩnh nào, cô P!"
Khi Bronwyn mở nắp rương, một đấm lông bồ câu bay phất phơ lên không, nhưng con bồ câu thì chẳng thấy đâu nữa.
"Ôi không, cô ấy đã ăn thịt nó!" Bronwyn la lên.
"Không đâu." Emma nói. "Hãy nhìn xuống phía dưới cô ấy."
Cô Peregrine đứng dậy bước sang một bên, và bên dưới bà ấy là con bồ câu, vẫn còn sống nhưng đờ đẫn.
"Thế nào?" Enoch hỏi. "Có phải là một con chim của cô Wren không?"
Cô Peregrine đang dùng mỏ thúc vào con chim và nó bay vụt đi. Sau đó bà nhảy ra khỏi rương, tập tễnh nhảy vào quảng trường, và bằng một tiếng kêu thật to xua nốt những con bồ câu còn lại dạt cả đi. Thông điệp của bà đã rõ: không chỉ con bồ câu mà Horace bắt được không đặc biệt, mà những con còn lại cũng thế. Chúng tôi cần tiếp tục tìm kiếm.
Cô Peregrine tập tễnh đi về phía Nhà thờ Lớn và nóng nảy đập cánh. Chúng tôi bắt kịp bà khi các bậc thềm Nhà thờ. Tòa nhà vươn lên sừng sững trên đầu chúng tôi, các tháp chuông cao vút kề hai bên mái vòm khổng lồ. cả một đạo quân các thiên thần bị ám đen muội khói dương mắt nhìn xuống chúng tôi từ trên những cái bệ bằng cẩm thạch.
" làm thế nào chúng ta kiểm tra được hết cả chỗ này chứ?" Tôi hỏi thành tiếng.
"Từng phòng một." Emma nói.
một tiếng động lạ lùng làm chúng tôi sức lại trước cửa. Nghe như tiếng còi chống trộm của xe hơi ngoài xa, âm thanh lên cao rồi chấm xuống thành từng đợt dài, chậm rãi. Nhưng tất nhiên không thể có cái còi chống trộm của xe hơi nào vào năm 1940. Đó là còi báo động phòng không.
Horace cau có. " Bọn Đức đang tới!" Cậu ta kêu lên. " Cái chết từ trên trời."
"Chúng ta không biết nó có nghĩa là gì." Emma nói. " có thể là báo động nhầm, hay một cuộc diễn tập."
Nhưng các con phố và quảng trường đã nhanh chóng vắng tanh: những người già đang gấp báo của họ lại và rời khỏi các băng ghế.
"Có vẻ họ không nghĩ đó là một cuộc diễn tập." Horace nói.
"Từ khi nào chúng ta lại bắt đầu sợ mấy quả bom vậy?" Enoch nói. " hãy thôi nói như một bà già người thường đi."
" Tớ có cần nhắc để cậu nhớ hay không đây?" Millard nói. "Rằng đây không phải là thứ bom chúng ta vẫn quen. Không như những quả bom rơi xuống Cairnholm, chúng ta sẽ không biết chúng rơi xuống đâu!"
"Càng thêm lý do để tìm thứ chúng ta tới tìm nhanh lên nào!" Emma nói, và cô dẫn chúng tôi vào trong.
* * *Không gian bên trong Nhà thờ Lớn thật đồ sộ - có vẻ như còn rộng lớn hơn bên ngoài tới mức phi lý - và cho dù nó đã bị hư hại vài tín đồ bạo gan vẫn quỳ gối rác rải đâu đó âm thầm cầu nguyện. Bàn thờ bị chôn vùi dưới một đống đổ nát. Tại vị trí 1 quả bom xuyên qua mái, Ánh Mặt Trời rọi xuống thành từng chùm rộng. Một người lính đơn độc ngồi trên một trụ cột bị đổ, ngước mắt chăm chú nhìn lên trời qua mái nhà bị thủng.
Chúng tôi tha thẩn bước đi, những mảnh bê tông và ngói vỡ kêu rào rạo dưới chân chúng tôi.
"Tớ chẳng trông thấy gì cả." Horace than vãn. "Trong này có đủ chỗ trốn cho cả mười nghìn con bồ câu!"
" Đừng nhìn!" Hugh nói. " Hãy lắng nghe!"
Chúng tôi dừng lại, găng tay da để nghe những tiếng cu cu quen thuộc của bồ câu. Song chỉ có tiếng rên rỉ không ngừng của quầy báo động phòng không, và dưới âm thanh đó là một chuỗi tiếng răng rắc trầm đục như sấm rền. Tôi tự nhủ cần giữ bình tĩnh song tim tôi vẫn thình như đánh trống.
Bom đang rơi xuống.
"Chúng ta cần đi thôi" Tôi nói, cơn hoảng hốt làm giọng tôi nghẹn lại. " Chắc phải có hầm trú ẩn gần đây. Một nơi an toàn để chúng ta ẩn náu."
"Nhưng chúng ta đã gần tới đích rồi!" Bronwyn nói. "Không thể bỏ cuộc lúc này được!"
Một tiếng răng rắc sụp đổ nữa vang lên, lần này ở gần hơn, và những đứa trẻ khác cũng bắt đầu cảm thấy bất an.
"Có thể Jacob có lý." Horace nói. "Chúng ta hãy tìm một nơi an toàn để trú ẩn cho tới khi trận ném bom kết thúc. Sau đó chúng ta sẽ tìm kiếm thêm."
"Chẳng có nơi nào thực sự an toàn cả." Enoch nói. "Những quả bom đó thậm chí có thể xuyên qua những căn hầm ở dưới sâu.""Chúng không thể xuyên qua một Vòng Thời Gian Emma nói. "Và nếu có một chuyện kể về nhà thờ lớn này, rất có thể ở đây có lối vào một Vòng Thời Gian."
"Có thể." Millard nói. "Có thể. Có thể. Đưa tớ sách để tớ tìm xem."
Bronwyn mở rương và đưa cho Millard cuốn sách.
"Để tớ xem nào." Cậu ta nói, giở các tràn ra cho tới khi đến "Nhừng con bồ câu ở Nhà thờ Thánh Paul."
Bom đang rơi xuống và chúng ta lại đọc truyện. Tôi thầm nghĩ. Mình đã bước chân vào vương quốc của sự điên rồ mất rồi.
"Nghe cho kĩ này!" Millard nói. "Nếu có lối vào một Vòng Thời Gian gần đây, câu chuyện có thể sẽ cho chúng ta biết cách tìm ra nó. May mà câu chuyện này cũng ngắn."
Một quả bom nữa rơi xuống bên ngoài. Sàn nhà rung chuyển và vôi vữa rơi như mưa từ trên trần xuống. Tôi nghiến chặt hai hàm răng và cố tập trung vào nhịp thở của mình.
Không chút hốt hoảng, Millard hắng giọng. "Những con bồ câu ở Nhà thờ Thánh Paul!" Cậu ta bắt đầu đọc với giọng to, vang.
"Chúng ta biết tren truyện rồi!" Enoch nói.
"Làm ơn đọc nhanh hơn đi!" Bronwyn giục.
"Nếu các cậu không thôi ngắt lời tớ, chúng ta sẽ ở đây cả đêm đầy." Millard nói, rồi cậu ta đọc tiếp.
"Ngày xửa ngày xưa vào thời của những người đặc biệt, rất lâu trước khi có những tòa tháp, gác chuông hay bất cứ công trình cao nào tại thành phố London, có một bầy bồ câu nảy ra trong đầu ý muốn có một nơi cao, đẹp để trú ngụ, xa phía trên sự ồn ào náo động của xã hội loài người. Chúng cũng biết cần xây nơi đó như thế nào, vì bồ câu là các nhà xây dựng tự nhiên, và thông minh hơn nhiều so với chúng ta nghĩ. Nhưng cư dân tại London xa xưa không quan tâm đến việc xây dựng những công trình cao, vì vậy một đêm nọ những con bồ câu chui vào buồng ngủ của một trong những người cần cù nhất chúng có thể tìm được và thì thầm vào tai ông ta bản thiết kế một tòa tháp huy hoàng.
"Vào buổi sáng, người đàn ông thức giấc trong tâm trạng cực kỳ phấn khích. Ông ta đã mơ - hoặc nghĩ là vậy - về một nhà thờ nguy nga tráng lệ với đỉnh chóp đồ sộ vươn cao sẽ mọc lên từ quả đồi cao nhất thành phố. Vài năm sau, với cái giá khổng lồ đối với con người, công trình được xây dựng. Đó là một tòa tháp vô cùng đồ sộ, có tất cả các kiểu ngóc ngách, lỗ hốc nơi lũ bồ câu có thể sinh sống, và chúng rất hài lòng với bản thân.
"Thế rồi tới một ngày người Viking cướp phá thành phố và đốt tòa tháp tới tận nền, thế là lũ bồ câu lại phải tìm một kiến trúc sư khác, thì thầm vào tai người đó, rồi rất kiên nhẫn chờ đợi một ngọn tháp nhà thờ mới được xây lên - lần này còn cao và đồ sộ hơn bất cứ ngọn tháp đầu tiên. Và tòa tháp được xây lên, rất cao và đồ sộ. Và sau đó cũng bị đốt trụi.
"Mọi thứ diễn ra như thế suốt hàng trăm năm, các tòa tháp bị đốt và lũ bồ câu thì thầm những thiết kế cho các tòa tháp còn đồ sộ hơn, cao hơn cho các thế hệ kiến trúc sư tìm thấy cảm hứng trong đêm kế tiếp nhau. Cho dù các kiến trúc sư này chẳng bao giờ nhận ra món nợ của họ với những con chim, họ vẫn đối xử với chúng rất tử tế, cho phép chúng đậu xuống bất cứ chỗ nào chúng thích, trong các gian giáo đường và các tháp chuông, như những vật lấy khước và bảo trợ cho nhà thờ đúng với vai trò thực của chúng.""Những cái này chẳng có ích lợi gì cả." Enoch nói. "Tìm đến phần có lối vào Vòng đi."
"Tớ đang đọc tới chỗ tớ đọc tới!" Millard cấm cẳn.
"Cuối cùng, sau khi rất nhiều tòa tháp đến rồi đi, bản thiết kế của bầy bồ câu trở nên tham vọng tới mức phải mất rất nhiều thời gian để tìm ra một người đủ thông minh để thực hiện. Khi cuối cùng chúng cũng tìm được, nhưng người này cự lại, tin rằng ngọn đồi bị nguyền rủa gì đã có quá nhiều nhà thờ bị đốt trụi ở đó trong quá khứ. Dù ông ý cố xua ý tưởng này ra khỏi đầu, bầy bồ câu vẫn liên tục trở lại, hết đêm này qua đêm khác, để thì thầm nó vào tai ông ta. Song ông ta vẫn không chịu hành động. Vậy là lũ chim tìm đến ông ta vào ban ngày, điều chúng chưa từng làm trước đó, và nói với người đàn ông bằng thứ ngôn ngữ lạ lùng rộn tiếng cười của chúng rằng ông ta là người duy nhất có khả năng xây dựng tòa tháp của chúng, và chỉ đơn giản là ông ta phải làm điều đó. Nhưng người đàn ông từ chối và xua lũ chim ra khỏi nhà mình, hét lên. "Xùy, xéo đi, lũ chim bẩn thỉu!"
"Lũ bồ câu, bị sỉ nhục và đầy hiềm thù, ám ảnh người đàn ông cho tới lúc ông ta hầu như hóa điên - bám theo ông ta tới bất cứ đâu, kéo quần áo, giật tóc ông ta, làm bẩn đồ ăn của ông ta bằng lông đuôi của chúng, gõ vào cửa sổ nhà ông ta vào ban đêm để ông ta không ngủ nổi - cho tới một ngày ông ta phải quỳ gối xuống và la lên 'Ôi các ngài bồ câu! Tôi sẽ xây bất cứ cái gì các ngài yêu cầu, miễn là các ngài canh chừng nó và giữ gìn để nó không cháy trụi'
"Lũ bồ câu băn khoăn suy nghĩ về chuyện này. Trao đổi với nhau, chúng đi tới kết luận chúng đã có thể là những người bảo vệ tốt hơn cho các tòa tháp trong quá khứ nếu chúng không hào hứng với việc xây tháp thái quá tới vậy, và thề sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ các tòa tháp trong tương lai. Vậy là người đàn ông xây công trình, một nhà thờ lớn đồ sộ nguy nga với hai tòa tháp và một mái vòm. Công trình thật tráng lệ, và cả người lẫn bồ câu đều hài lòng với những gì họ tạo ra tới mức trở thành những người bạn chí thân; người đàn ông không bao giờ đi đâu trong suốt phần đời còn lại của mình mà không có một con bồ câu ở kề bên để tư vấn cho ông. Thậm chí khi ông qua đời lúc đã rất già và hạnh phúc, bầy chim vẫn thỉnh thoảng tới thăm ông ở khu đất bên dưới. Và tới tận ngày nay, bạn vẫn sẽ tìm thấy nhà thờ lớn họ xây dựng tọa lạc trên quả đồi cao nhất London, những con bồ câu vẫn trông coi công trình." Millard gập sách lại. "Hết."
Emma thốt lên tuyệt vọng. "Phải rồi, nhưng trông coi từ đâu mới được chứ?"
"Trong hoàn cảnh hiện tại của chúng ta." Enoch nói. "Nó cũng vô tích sự chẳng kém gì một câu chuyện về lũ mèo trên Mặt Trăng."
"Tớ chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả." Bronwyn nói. "Có ai hiểu không?"
Tôi gần như có thể - cảm thấy gần chạm tới gì đó trong câu nhắc tới "khu đất bên dưới" - nhưng tất cả những gì tôi có thể nghĩ là: lũ bồ câu đang ở dưới địa ngục sao?
Thế rồi một quả bom nữa rơi xuống, làm rung chuyển cả công trình, và từ trên cao đột nhiên vang lên tiếng đập cánh phành phạch. Chúng tôi nhìn lên và thấy ba con bồ câu hoảng hốt bay vụt ra từ nơi ẩn náu nào đó trên các xà mái. Cô Peregrine kêu lên đầy phấn khích - như thể muốn nói: Là chúng đấy! - Bronwyn nâng bà lên, rồi tất cả chúng tôi cùng ùa theo mấy con chim. Chúng bay xuống dọc theo chiều dài giáo đường chính, rồi nhặt gấp, biến mất qua một khung cửa. Chúng tôi tới chỗ khung cửa đó muộn hơn vài giây. Tôi nhẹ nhõm khi thấy nó không mở ra ngoài, nếu vậy chúng tôi sẽ không bao giờ có hy vọng bắt được mấy con chim, và ra một giếng cầu thang, dẫn xuống những bậc thang xoáy trôn ốc.
"Ái chà!" Enoch thốt lên, vỗ võ hai tay mập mạp ngắn ngủi. "Giờ chúng đã tự rúc vào bẫy - tự nhốt mình dưới tầng hầm!"
Chúng tôi hối hả lao xuống cầu thang. Dưới chân cầu thang là một căn phòng rộng sáng lờ mờ, tường và sàn đều bằng đá. Căn phòng lạnh lẽo, ẩm thấp và gần như tối om vì điện đã bị cắt, vì thế Emma thắp lử trên bàn tay cô và đưa ra chiếu xung quanh, cho tới khi có thể thấy rõ thực trạng của nơi này. Dưới chân chúng tôi trải ra trên khắp mặt sàn giữa các bức tường là những tấm bia cẩm thạch có khắc chữ. Tấm bia dưới chân tôi khắc:
GIÁM NGỤC ELDRIDGE THORNBRUSH, MẤT NĂM 1721
"Đây không phải là tầng hầm." Emma nói. "Đây là một hầm mộ."
Một cơn ớn lạnh lan ra khắp người tôi, tôi bèn bước lại gần ánh sáng và hơi ấm từ ngọn lửa của Emma.
"Ý cậu là có những người được chôn dưới sàn à?" Olive hỏi, giọng run rẩy.
"Thế thì sao?" Enoch nói. "Chúng ta hãy đi bắt mấy con bồ câu mắc dich đó trước khi một trong những quả bom chôn vùi chúng ta dưới sàn."
Emma quay một vòng, hướng ánh sáng chiếu lên các bức tường. "Chúng nhất định phải ở đâu đó dưới này. Không còn lối thoát nài ngoài cầu thang đó."
Thế rồi chúng tôi nghe thấy tiếng đập cánh. Tôi cứng người lại. Emma làm gọn lửa cháy sáng hơn và hướng nó về phía tiếng động. Ánh sáng chập chờn cô tạo ra hắt xuống một ngôi mộ nắp phẳng hô lên khỏi mặt sàn chừng một mét. Giữa ngôi mộ và tường là một khoảng trống mà chúng tôi không thể thấy được phía sau từ chỗ chúng tôi đang đứng; một nơi ẩn náu lý tưởng cho một con chim.
Emma đưa một ngón tay len môi ra hiệu im lặng rồi ra dấu bảo chúng tôi đi theo. Chúng tôi bò qua căn phòng. Đến gần ngôi mộ, chúng tôi tản rộng ra, vây lấy nó từ ba phía.
Sẵn sàng chưa? Emma mấp máy môi.
Những người còn lại gật đầu. Tôi giơ ngón cái lên. Emma rón rén bước tới ngó vào đằng sau ngôi mộ - và mặt cô ỉu xìu. "Chẳng có gì cả!" Cô nói, thất vọng giậm chân xuống sàn. Hãy vào webtruyenonline.com để đọc truyện nhanh hơn!
"Tớ không hiểu!" Enoch nói. "Lúc nãy chúng còn ở đây mà!"
Tất cả chúng tôi cùng bước tới xen. Rồi Millard nói. "Emma! Làm ơn chiếu sáng lên mặt mộ nào!"
Cô làm theo, và Millard đọc to những gì được khắc trên đó lên thành tiến:
NƠI ĐÂY AN NGHỈ NGÀI CHRISTOPHER WREN, NGƯỜI XÂY DỰNG NHÀ THỜ LỚN NÀY
"Wren!" Emma thốt lên. "Một trùng hợp lạ lùng làm sao!"
"Tớ không nghĩ đây là trùng hợp ngẫu nhiên." Millard nói. "Ông ta nhất định có liên quan tới cô Wren. Có thể là bố cô ấy!"
"Rất thú vị!" Enoch nói. "Nhưng nó có thể giúp chúng ta tìm ra bà ấy hay lũ bồ câu của bà ấy thế nào đây?"
"Đó chính là điều tớ đang muốn lý giải." Millard lẩm nhẩm một mình, đi đi lại lại một chút và nhắc lại một câu trong truyện: "Bầy chim vẫn thỉnh thoảng tới thăm ông ở khu đất bên dưới."
Thế rồi tôi nghĩ tôi nghe thấy một con bồ câu kêu cu cu. "Suỵt!" Tôi nói, và ra hiệu bảo mọi người lắng nghe. Âm thanh đó lại vang lên vài giây sau, từ góc phía sau mộ. Tôi đi vòng tới đó và quỳ xuống, và đúng lúc ấy tôi để ý thấy một cái lỗ nhỏ trên sàn dưới chân mộ, chỉ to cỡ lọt nắm tay - đủ lớn để một con chim chui vừa.
"Lại đây!" Tôi nói.
"À, ngạc nhiên thật!" Emma thốt lên, đưa ngọn lửa của cô tới phía trên cái lỗ. "Có thể là khu đất bên dưới chăng?"
"Nhưng cái lỗ bé quá." Olive nói. "Làm sao chúng ta có thể lôi lũ chim ra khỏi đó được?"
"Chúng ta có thể đợi chúng chui ra." Horace nói, rồi một quả bom rơi xuống rất gần, đến mức làm mắt tôi hoa lên mờ tịt, hai hàm răng va lập cập.
"Không cần phải thế!" Millard nói." Bronwyn, cậu có thể làm ơn mở mộ của ngài Wren ra được không?"
"Không!" Olive kêu lên. "Tớ không muốn thấy bộ xương mục của ông ấy!"
"Đừng lo, cô bé yêu quý." Bronwyn nói. "Millard biết cậu ấy đang làm gì." Cô đặt hai bàn tay lên rìa nắp mộ và bắt đầu đẩy, và tấm nắp trượt mở ra theo tiếng kèn kẹt chậm rãi.
Mùi bốc lê không phải thứ tôi lường đến - không phải của cái chết, mà là hơi mốc và đất lâu năm. Chúng tôi xúm lại xung quanh và nhìn vào trong.
"À, ngạc nhiên thật!" Emma nói.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com