Chương 15
Nơi đáng lẽ phải là một cỗ quan tài lại có một cái thang dẫn xuống bóng tối. Chúng tôi ngó vào trong ngôi mộ vừa mở.
"Không có chuyện tớ trèo xuống dưới đó đâu nhé!" Horace nói. Nhưng rồi ba cú bom cứ làm rung chuyển tòa nhà, làm các mảnh bê tông rơi như mưa xuống đầu chúng tôi, và đột nhiên Horace leo qua bên tôi, chộp lấy cái thang. "Xin lỗi, làm ơn tránh đường cho tớ, người mặc bảnh nhất đi đầu tiên!"
Emma tóm lấy tay áo cậu ta. "Tớ có ánh sáng, thế nên tớ sẽ đi đầu tiên. Rồi Jacob sẽ theo sau, phòng khi có... những thứ đó thì ở dưới kia."
Tôi nở nụ cười yếu ớt, chỉ nguyên ý nghĩ đó đã làm hai đầu gối tôi mềm nhũn.
Enoch nói. "Ý cậu là những thứ khác ngoài chuột cống, vi khuẩn tả và tất cả những thứ điên rồ vẫn hay tồn tại dưới các hầm mộ hả?"
"Có gì dưới đó cũng chẳng quan trọng." Millard ảm đạm nói. "Chúng ta sẽ phải đối diện với nó, vậy thôi."
"Được lắm." Enoch nói. "Nhưng tốt hơn cô Wren cũng nên có dưới đó, vì vết chuột cống cắn không khỏi nhanh đâu."
"Những vết hồn rỗng cắn thậm chí còn khó lành hơn." Emma nói, rồi cô đặt chân lên thang.
"Cẩn thận." Tôi nói. "Tớ sẽ ở ngay trên cậu."
Cô chào tôi bằng hai bàn tay bốc cháy của mình. "Thêm một lần xuống hố nữa nào." Cô nói, và bắt đầu leo xuống.
Sau đó đến lượt tôi.
"Các cậu đã bao giờ leo xuống một lòng mộ mở toang giữa một trận oanh tạc. " Tôi nói. "Và chỉ ước mình ở yên trên giường chưa?"
Enoch đá vào giầy tôi. "Thôi nhùng nhằng đi."
Tôi bám vào gờ mộ và đặt chân lên thang.
Và trong chốc lát thoáng nghĩ tới tất cả những điều vui vẻ, nhàm chán có thể tôi đã thực hiện trong mùa hè của mình nếu cuộc đời tôi diễn ra khác đi. Trại tennis. Tập thuyền buồm. Những cái giá bày hàng. Thế rồi, nhờ một nỗ lực ý chí khổng lồ, tôi buộc mình leo xuống.
Chiếc thang dẫn xuống một đường hầm. Đường hầm cụt ở một đầu, còn ở hướng đối diện chạy hun hút vào bóng tối. Không khí lạnh lẽo, ngột ngạt với một thứ mùi lạ lùng, giống như mùi quần áo bị bỏ mặc cho mục nát trong một tầng hầm ngập nước. Mặt đá thô ráp của bờ tường đọng những giọt hơi ẩm có nguồn gốc bí hiểm chảy dài xuống.
Trong lúc Emma và tôi đợi tất cả mọi người leo xuống, hơi lạnh dần dà len lỏi ngấm vào tôi. Những người khác cũng cảm thấy điều đó. Khi Bronwyn xuống tới nơi, cô mở cái rương của mình và phân phát những chiếc áo len làm từ lông những con cừu đặc biệt chúng tôi đã được tặng tại trại động vật. Tôi xỏ một chiếc qua đầu. Cái áo ôm trùm lấy tôi như một cái bao tải, hai ống tay áo dài quá các ngón tay tôi, còn gấu áo thì lửng lơ trùm xuống gần đầu gối, song ít nhất nó cũng ấm.
Giờ thì cái rương của Bronwyn đã rỗng không, và cô bỏ lại nó. Cô Peregrine tiếp tục hành trình bên trong áo khoác của cô gái, trên thực tế bà đã biến nó trở thành tổ của mình. Millard nhất quyết đòi mang quyển Những truyện kể trong tay, bất chấp sự nặng nề, cồng kềnh của nó, vì cậu ta có thể sẽ cần tham khảo tới cuốn sách bất cứ lúc nào, Millard nói vậy. Song tôi nghĩ cuốn sách đã trở thành tấm lá chắn an toàn cho cậu ta, và cậu ta nghĩ về nó như một cuốn sách kì bí mà chỉ mình cậu ta đọc được. Chúng tôi là một nhóm thật lạ lùng.
Tôi bước lên trước để cảm nhận xem trong bóng tối có hồn rỗng hay không. Lần này, tôi có một cảm giác đau thắt ở bụng thật mới mẻ, dù rất nhẹ, như thể một con hồn rỗng đã có mặt ở đây rồi rời khỏi, và tôi đang cản giác thấy dư vị của nó. Song tôi không muốn đả động gì tới cảm giác này; chẳng có lý do gì để làm tất cả mọi người lo lắng không cần thiết.
Chúng tôi bước đi. Tiếng bước chân chúng tôi giẫm lên những viên gạch ướt vọng lại vô tận về hai đầu đường hầm. Chẳng có cách nào để lẩn trốn bất cứ thứ gì đang chờ đợi chúng tôi.
Thỉnh thoảng, từ phía trước, chúng tôi lại nghe thấy một tiếng đập cánh hay tiếng kêu của bồ câu, và chúng tôi rảo chân nhanh lên một chút. Tôi có cảm giác thật bất an là chúng tôi đang bị dẫn tới một bất ngờ khủng khiếp nào đó. Gắn trên các bức tường là những tấm bia đá như những tấm bia chúng tôi đã thấy trong hầm mộ, nhưng xa xưa hơn, chữ khắc bên trên hầu như đã mờ hẳn. Rồi chúng tôi đi ngang qua một chức quan tài không huyệt mộ, được đặt trên sàn - rồi cả một đống những chiếc quan tài như thế được xếp chồng lên nhau tựa vào một bức tường như những chiếc thùng đựng đồ chuyển nhà bỏ đi.
"Chỗ này là do thế nào vậy?" Hugh hỏi.
"Quá tải nghĩa địa." Enoch nói. "Khi người ta cần chỗ cho những khách hàng mới, họ đào những vị khách hàng cũ lên rồi nhét bọn họ xuống dưới này."
"Một lối vào Vòng Thời Gian mới kinh khủng làm sao." Tôi nói. "Thử hình dung đến việc phải đi qua chỗ này mỗi khi cậu muốn vào hay ra mà xem."
"Cũng chẳng khác mấy so với đường hầm trong mộ đá của chúng ta." Millard nói.
"Những lối vào Vòng đáng sợ có mục đích - những người bình thường có xu hướng tránh xa chúng, vậy là những người đặc biệt chúng ta có được những thứ cho riêng mình.
Thật hợp lý. Thật khôn ngoan. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là: Có những người chết ở khắp nơi và tất cả họ đã mục nát, xương xẩu và đã chết, và ôi Chúa ơi...
"Ái chà." Emma thốt lên, và cô đột ngột dừng lại, khiến tôi đâm sầm vào cô và những người khác dồn đống lại sau lưng tôi.
Cô giơ ngọn lửa của mình chiếu sang một bên, để lộ ra một khung cửa vòm trên tường. Cánh cửa hơi hé mở, nhưng qua kẽ hở chỉ có thể thấy toàn bóng tối.
Chúng tôi lắng nghe. Suốt một hồi lâu không có âm thanh nào ngoài hơi thở của chúng tôi và tiếng nước nhỏ giọt ngoài xa. Thế rồi chúng tôi nghe thấy một tiếng động, nhưng không phải là loại chúng tôi trông đợi - không phải tiếng đập cánh hay tiếng cào cào bàn chân của một con chim - mà là âm thanh của con người.
Ai đó đang khóc, rất khẽ.
"Xin chào?" Emma gọi. "Ai ở đó vậy?"
"Làm ơn đừng làm đau tôi." Một giọng nói vọng ra. Hay đó là hai giọng nói nhỉ?"
Emma làm ngọn lửa cháy sáng hơn. Bronwyn dò dẫm bước tới trước lấy bàn chân đạp vào cử. Cánh cử mở vào một căn phòng nhỏ toàn xương là xương. Xương đùi, xương cẳng chân, xương sọ - những phần cơ thể bị đào từ dưới mộ lên của hàng trăm người, lổn nhổn chồng chất.
Tôi loạng choạng lùi lại, xây xẩm mặt mày vì sốc.
"Xin chào!" Emma i. "Ai nói đấy? Ra mặt đi nào!"
Thpạt đầu, tôi không thể nhìn thấy gì đó ngoài những đống hài cốt, nhưng rồi tôi nghe thấy một tiếng sụt sịt và đưa mắt nhìn theo hướng âm thanh lên đỉnh đống xương, có hai cặp mắt đang chớp chóe nhìn vào chúng tôi từ tròn bóng tối âm u ỏe phía trong gian phòng.
"Không có ai ở đây cả." Một giọng nói nhẽ cất lên.
"Đi đi." Giọng nói thứ hai vang lên. "Chúng tôi chết rồi."
"Không, các cậu chưa chết." Enoch nói. "Và tôi phải biết chứ!"
"Ra khỏi đó đi.' Emma dịu dàng nói. "Chúng tôi sẽ không làm hại các bạn đâu."
Cả hai giọng nói đồng thời lên tiếng. "Hứa nhé?"
Những cái xương bắt đầu chuyển động. Một cái xương sọ tách rời ra khỏi đống hài cốt và rơi cạch xuống sàn, lăn đi dừng lại dưới chân chúng tôi, hai hốc mắt ngước nhìn chúng tôi chằm chằm.
Xin chào, tương lai, tôi thầm nghĩ.
Thế tồi hai cậu bé loay hoay lổm ngổm bò trên đống xương ra vùng ánh sáng. Làn da họ nhợt nhạt như người chết, và họ nhìn chúng tôi với đôi mắt quầng đen đảo qua đảo lại đến chóng mặt trong hốc mắt.
"Tôi là Emma, đây là Jacob, và đây là các bạn của chúng tôi." Emma nói. "Chúng tôi là những người đặc biệt và sẽ không làm hại các cậu."
Hai cậu bé bò rạp xuống như những con vật hoảng loạn, không nói gì, mắt đảo liên tục, dường như nhìn khắp nơi nhưng lại chẳng nhìn đâu cả.
"Có gì không ổn với họ vậy?" Olive thì thào.
Bronwyn suỵt cô bé. "Đừng thô lỗ."
"Các cậu có thể cho chúng tôi biết tên được không?" Emma hỏi, giọng cô thật dịu dàng ngọt ngào.
"Tớ là Joel và Peter." Cậu bé lớn hơn nói.
"Cậu là ai?" Emma hỏi lại. "Joel hay Peter?"
"Tớ là Peter và Joel." Cậu bé nhỏ hơn nói.
"Bọn này không có thời gian đùa đâu." Enoch nói. "Có con chim nào ở đây với các cậu không? Các cậu có thấy con chim nào bay qua đây không?"
"Lũ bồ câu thích ẩn nấp." Cậu bé lớn hơn nói.
"Trên tầng áp mái." Cậu bé nhỏ hơn thêm vào.
"Tầng áp mái nào?" Emma hỏi. "Ở đâu?"
"Trong nhà chúng tôi. " Cả hai cậu bé đồng thanh nói, và cùng đưa cánh tay lên chỉ xuống lối đi tối om. Họ có vẻ luôn phối hợp với nhau khi nói, và nếu một câu dài hơn vài ba từ, một người sẽ bắt đầu còn người kia kết thúc, và giữa hai người không hề có khoảng gián đoạn nào có thể phát hiện được. Tôi cũng nhận thấy bất cứ khi nào một người nói còn người kia không nói, người không nói sẽ cử động miệng đúng theo những từ người kia nói với sự đồng bộ hoàn hảo - như thế họa cùng chia sẻ một bộ óc. "Các cậu có thể làm ơn chỉ đường cho chúng tôi tới nhà các cậu được không?" Emma hỏi. " xem chúng tôi đến chỗ tầng áp mái của các cậu ấy?"
Joel - và - Peter lắc đầu và lại rút lui vào trong bóng tối.
"Có chuyện gì vậy?" Bronwyn hỏi. "Sao các cậu lại không muốn đi?"
"Chết chóc và máu!" Một cậu bé kêu lên.
"Máu và gào thét!" Cậu kia kêu lên.
"Gào thét và máu và những cái bóng biết cắn!" Cả hai cùng kêu lên.
"Hoan hô!" Horace thốt lên rồi quay ngoắt lại. "Tớ sẽ gặp lại tất cả mọi người trên hâm mộ. Hy vọng là tớ không bị dẹp lép vì một quả bom!"
Emma chộp lấy tay áo Horace. "Ồ không, cậu không thể đi đâu hết! Cậu là người duy nhất trong chúng ta đã bắt được một trong những con bồ câu đáng nguyền rủa ấy."
" Cậu không nghe họ nói à?" Horace nói. " Cái Vòng đó đầy ắp những cái bóng biết cắn - chỉ có thể là một thứ. Hồn rỗng!"
"Nó đã từng đầy ắp chúng." Tôi nói. "Nhưng có thể là từ nhiều ngày trước rồi."
"Lần cuối cùng các cậu ở trong nhà của mình là từ khi nào?" Emma hỏi hai cậu bé.
Vòng Thời Gian của họ đã bị tấn công, họ giải thích theo cách lạnh lùng và ngắt quãng của mình, nhưng hai người họ đã chạy thoát được vào các hầm mộ và ẩn náu giữa những đống hài cốt. Họ không thể nói được trong bao lâu rồi. Hai ngày chăng? Hay ba ngày? Họ đã mất hết khái niệm về thời gian trong bóng tối dưới này.
" Ôi hai cậu bé khốn khổ!" Bronwyn nói. "Các cậu đã phải chịu đựng những nỗi kinh hoàng khủng khiếp biết chừng nào!"
"Các cậu không thể ở đây mãi được." Emma nói. "Các cậu sẽ già đi nếu không tìm tới được một Vòng Thời Gian khác. Chúng tớ có thể giúp các cậu - nhưng trước hết chúng ta phải bắt được một con bồ câu đã."
Hai cậu bé nhìn vào đôi mắt đào loạn của nhau và có vẻ đang trao đổi mà không nói tao lấy một lời. Họ đồng thanh nói. "Theo chúng tớ."
Họ trượt từ trên đống xương xuống và bắt đầu đi xuống đường hầm.
Chúng tôi theo sau. Tôi không thể rời mắt khỏi họ: họa lạ lùng một cách đáng kinh ngạc. Hai cậu bé luôn nắm lấy tay nhau, và cứ đi vài bước, họ lại phát ra những âm thanh lọc tọc thật lớn bằng lưỡi của mình.
"Họ làm gì vậy?" Tôi thì thầm.
"Tớ nghĩ đó là cách họ nhìn." Millard nói. "Cũng giống như cách những con dơi nhìn trong bóng tối. Âm thanh họ phát ra sẽ phản xạ lên các vật thể rồi trở lại chỗ họ, tạo ra một bức tranh trong đầu họ."
" Chúng tôi là những người định vị bằng tiếng vang." Joel - và Peter nói.
Có vẻ như họ cũng rất thính tai.
Lối đi rẽ nhánh, rồi lại rẽ nhánh lần nữa. Đến một chỗ tôi đột nhiên cảm thấy áp lực trong tai mình và phải nuốt nước bọt để giải tỏa nó. Đó là lúc tôi biết chúng tôi đã rời khỏi năm 1940 và bước vào một Vòng Thời Gian. Cuối cùng chúng tôi đến đầu tận cùng, một bức tường chắn ngang với những bậc đặt chân theo phương thẳng đứng đục vào trong tường. Joel - và Peter đứng dưới chân tường và chỉ lên một chấm ánh sáng ban ngày nhỏ xíu phía trên đầu. "Nhà của chúng tôi..." Cậu bé lớn hơn nói.
"Ở trên kia." Cậu bé nhỏ hơn nói.
Và khi nói xong, họ lại rút lui vào trong bóng tối.
* * *
Các bậc đặt chân đều bám đầy rêu trơn tuột rất khó leo, và tôi buộc phải leo thật chậm nếu không sẽ có nguy cơ bị ngã. Chúng tôi leo lên bức tường để tới một khung cửa tròn vừa người chui lọt trên trần, ở đó chỉ có một tia sáng chiếu xuống. Tôi luồn tay vào khe trống và đẩy qua bên, cánh cửa trượt mở ra như một cửa sập máy ảnh, để lộ một đường ống tròn xây bằng gạch vươn cao lên khoảng sáu đến chín mét tới một mảng trời hình tròn. Tôi đang ở dưới đáy giả của một cái giếng giả.
Tôi nâng mình chui vào lòng giếng rồi keo lên. Đến nửa chừng tôi phải dừng lại nghỉ ngơi, tựa lưng vào phía đối diện của lòng giếng. Khi cảm giác bỏng rát trong các bó cơ đã dịu xuống, tôi leo nốt phần còn lại của quãng đường, trèo lên khỏi miệng giếng và đáp xuống một đám cỏ.
Tôi đang ở trong sân một ngôi nhà trông có vẻ xập xệ. Bầu trời tuyền một sắc vàng bệnh tật, nhưng không hề có khói bốc lên, cũng chẳng có tiếng động cơ nào. Chúng tôi đang ở vào một thời kì xa xưa hơn, trước chiến tranh - thậm chí là trước khi xuất hiện xe hơi. Không khí lạnh buốt, và những bông tuyết la đà rơi xuống rồi tan ra dưới đất.
Emma là người tiếp theo leo lên khỏi giếng, rồi đến Horace. Emma đã quyết định chỉ ba chúng tôi đi thám hiểm ngôi nhà. Chúng tôi không biết sẽ tìm thấy điều gì trên này, và nếu cần khẩn trương rời đi, tốt nhất nên là một nhóm nhỏ có thể di chuyển nhanh. Không ai bên dưới tranh cãi; những lời Joel - và - Peter cảnh báo về máu và những bóng ma đã làm họ sợ chết khiếp. Chỉ có Horace cảm thấy không vui, cứ lẩm bẩm một mình mã là cậu ta ước gì chưa bao giờ vồ được con bồ câu đó ngòi quảng trường.
Bronwyn từ bên dưới vẫy tay với chúng tôi rồi đóng cái nắp tròn dưới đáy giếng lại. Mặt trên cái nắp được sơn để trông giống như mặt nước - thứ nước đen sậm, bẩn thỉu bạn sẽ không bao giờ muốn thả xô múc nước ăn uống. Thật thông minh.
Ba chúng tôi xúm lại sát nhau và nhìn quanh. Khoảng sân và ngôi nhà đã tàn tạ thê thảm vù bị bỏ bẵng lâu ngày. Cỏ mọc quanh giếng đã bị giẫm rạp xuống, nhưng ở những chỗ khác cỏ đã mọc thành từng khóm còn cao hơn cả một số khung cửa sổ dưới tầng trệt. Một cái chuồng chó mục nát đã đổ sụp một phần nằm ở một góc, còn gần đó là một giàn dây phơi đôt sập xuống đang dần bị các bụi cây dại nuốt chửng.
Chúng tôi đứng đó chờ đợi, nghe ngóng động tĩnh của những con bồ câu. Từ phía bên kia các bức tường của ngôi nhà, tôi có thể nghe thấy tiếng móng ngựa gõ xuống mặt đường. Không, chắc chắn đây không thể là London khoảng năm 1940.
Thế rồi ở một ô cửa sổ trên lầu, tôi nghe thấy tiếng rem nhúc nhích.
"Ở trên kia!" Tôi khẽ thì thầm, chỉ tay về hướng đó. Truy cập fanpage https://www.face book.com/webtruyen onlinecom/ để tham gia các event hấp dẫn.
Tôi không biết liệu một con chim hay một người đã làm điều đó, nhưng cũng đáng để kiểm tra. Took bắt đầu hướng tới một cánh cửa ra vào dẫn vào ngôi nhà, đang ra hiệu bảo những người còn lại đi tiếp thì vấp phải gì đó. Một thân hình nằm dưới đất, có một tấm vải đen che kín từ đầu tới tận mắt cá chân. Một đôi giày sờn rách thò ra ở cuối tấm vải, mũi giày chĩa lên trời. Có một tấm thẻ màu trắng gài vào một vết nứt trên đế giày, trên đó có những dòng chữ viết bằng nét nắn nót:Ông A.F.CrumbleyVốn người Tỉnh NgoàiThà già trước tuổi còn hơn bị bắt sống Xin đề nghị để thi thể của mình được thả xuống sông TThames.
"Gã khốn khổ đen đủi." Horace thì thầm. "Ông ta từ nông thôn tới đây, có lẽ sau khi Vòng Thời Gian của chính ông ta bị tấn công - chỉ để rồi bắt gặp cảnh Vòng Thời Gian ông ta chạy trốn tới cũng bị tấn công luôn."
"Nhưng tại sao họ lại để ông Crumbley khốn khổ nằm phơi ra như thế này?" Emma thì thào.
"Vì họ đã phải vội vã rời đi." Tôi nói.
Emma cúi xuống, đưa tay tới mép tấm vải phủ lên ông Crumbley. Tôi không muốn nhìn nhưng không thể đừng được, và tôi hơi quay mặt đi chỗ khác, song rồi lại ngó lại qua các khe ngón tay. Tôi những tưởng sẽ thấy một cái xác tàn tạ, nhưng ông Crumbley trông nguyên vẹn một cách hoàn hảo và trẻ trung đến mức đáng kinh ngạc, có lẽ chỉ khoảng bốn mươi hay năm mươi tuổi, mái tóc đen chỉ mới ngả xám quanh thái dương. Mắt ông ta nhắm nghiền, bình yên, như thể ông ta chỉ đang ngủ. Có thể nào ông ta đã thực sự già đi, giống như quả táo héo quắt tôi cầm theo từ Vòng Thời Gian của cô Peregrine?
"Này, ông chết rồi hay đang ngủ vậy?" Emma hỏi. Cô dùng ủng đá nhẹ vào tai người đàn ông, và cả trên đầu ông ta sụt xuống vụn ra thành bụi.
Emma thảng thốt há hốc miệng và buông tấm vải xuống. Crumbley đã trở thành một cái khối khô khốc mang hình dạng của ông ta, dễ nát vụn đến mức một cơn gió mạnh cũng có thể thổi ông ta tan biến.
Chúng tôi để ông Crumbley khốn khổ đang vỡ vụn lại đằng sau và đi tới chỗ cửa ra vào. Tôi cầm lấy tay nắm cửa rồi xoay. Cánh cửa mở ra, và chúng tôi bước vào một phòng giặt. Có những món đồ trông có vẻ vừa mới giặt để trong một cái hòm mây, một bảng giặt treo gọn gàng phía trên một cái chậu. Nơi này bị bỏ hoang chưa lâu lắm.
Cảm Giác ở đây vẫn còn mạnh, song chỉ là dư vị. Chúng tôi mở một cánh cửa khác và bước vào một phòng khách. Ngực tôi thắt lại. Ở đây có bằng chứng rõ ràng của một cuộc ẩu đả: đồ đạc bị lật nhào, vỡ nát, tranh ảnh bị hất rơi ra khỏi mặt lò sưởi, những mảnh giấy dán tường bị xé bung ra thành từng dải.
Thế rồi Horace lẩm bẩm. "Ôi không." Và tôi nhìn theo ánh mắt cậu ta hướng lên phía trên, tới một vết sẫm làm đổi màu một mảng trần gần như hình tròn. Có điều gì đó khủng khiếp đã xảy ra trên lầu.
Emma nhắm nghiền mắt lại. "Chỉ nghe thôi." Cô nói. "Lắng nghe mấy con chim và đừng nghĩ về điều gì khác cả"
Chúng tôi nhắm mắt lại và lắng nghe. Một phút trôi qua. Rồi cuối cùng một tiếng cu cu mơ hồ của một con chim bồ câu. Tôi mở mắt ra để xem âm thanh đó từ đâu tới. Cầu thang.
Chúng tôi nhẹ nhàng leo lên cầu thang, cố không làm vang lên những tiếng cọt kẹt dưới chân mình. Tôi có thể cảm thấy tiếng tim đập thình thịch trào lên cổ họng, ở thái dương. Tôi có thể chịu đựng được những cái xác cũ kĩ mục nát. Nhưng tôi không dám chắc liệu mình có chịu được một cảnh tàn sát hay không.
Lối đi trên lầu ngổn ngang những mảnh vỡ. Một cánh cửa, bị rứt khỏi bản lề, nằm gãy vụn. Phía trong khung cửa vỡ là một đống rương hòm và tủ bị đổ lổng chổng; một nỗ lực chặn cửa bất thành.
Trong căn phòng tiếp theo, tấm thảm trắng thấm đầy máu - máu đã thấm qua sàn ngầm xuống tận trần nhà bên dưới. Nhưng chủ nhân của chỗ máu đổ ra ở đó đã biến mất từ lâu.
Cánh cửa cuối cùng trên lối đi không có dấu vết bị vũ lực tác động. Tôi cảnh giác đẩy cửa ra. Đôi mắt tôi lướt qua quanh phòng: có một tủ quần áo, một tủ ngăn kéo với những bức tượng người nhỏ được bày cẩn thận trên nóc, rèm cửa viền đăng ten phất phơ ở một ô cửa sổ. Thảm trải sàn sạch sẽ. Mọi thứ đều không bị xáo trộn.
Thế rồi đôi mắt tôi nhìn về phía chiếc giường cùng những thứ nằm trên đó, và tôi loạng choạng lùi lại từ người vào khung cửa. Nằm dưới những tấm chăn trắng là hai người đàn ông, có vẻ đang ngủ - và giữa họ là hai bộ xương người.
"Bị già đi." Horace nói, hai bàn tay run rẩy đưa lên cổ. "Hai người trong số họ già đi nhah hơn đáng kể so với những người khác."
Những người đàn ông trông có vẻ đang ngủ cũng đã chết như ông Crumbley dưới sân, Horace nói, và nếu chúng tôi chạm vào họ, họ cũng sẽ vụn nát ra tương tự.
"Họ đã từ bỏ." Emma thì thầm. "Họ đã phát chán với việc chạy trốn và họ bỏ cuộc." Coi nhìn họ với thái độ thương hại pha lẫn ghê tởm.
Cô nghĩ họ yếu đuối và hèn nhát - nghĩ rằng họ đã chọn cách dễ dàng. Song tôi không đừng được thầm nghĩ lựu có phải những người đặc biệt này chỉ đơn giản là biết nhiều hơn chúng tôi về những gì đám xác sống đã làm với những người bị chúng bắt. Rất có thể nếu biết chúng tôi cũng đã lựa chọn cái chết.
Chúng tôi dạt ra ngoài lối đi. Tôi cảm thấy chóng mặt, buồn nôn, và tôi muốn ra khỏi ngôi nhà này - song chúng tôi chưa thể rời đi được. Vẫn còn một cầu thang cuối cùng cần leo lên.
Ở trên đầu cầu thang, chúng tôi tìm thấy một chiếu nghỉ bị hư hại ám khói. tôi hình dung ra những người đặc biệt chống đỡ một cuộc tấn công đầu tiên vào ngôi nhà này đã tập trung tại đây để làm nơi chống cự cuối cùng. Có thể họ đã tìm cách dùng lửa để chống lại những kẻ biến chất - hoặc có thể chính chúng đã tính cách dùng khói hun họ. Dù là thế nào đi nữa, có vẻ như ngôi nhà thiếu chút nữa là bị đốt trụi.
Chui qua một khung cửa thấp, chúng tôi bước vào tầng áp mái chật chội có tường dốc thoai thoải. Mọi thứ đều đã cháy đen lửa đã tạo ra những lỗ thủng toang hoác trên mái nhà. Emma thúc Horace. "Chúng ở đâu đó quanh đây." Cô khẽ nói. "Hãy sử dụng phép màu của cậu đi, chàng bắt chim."
Horace nhón chân bước tới giữa phòng và réo rắt gọi. "Ở đđâââyyy, bồ câu, bồ câu, bồ câu... "
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com