Chương 23
Tôi lặng lẽ bước qua các hành lang. Tôi đứng bên ngoài phòng họp của các Chủ Vòng một lúc, lắng nghe những giọng nói rì rầm vọng ra qua cánh cửa, song tôi không bước vào. Tôi ghé đầu nhìn vào phòng điều trị và thấy bà y tá đang ngủ gật trên một chiếc ghế đẩu giữa mấy người đặc biệt chỉ còn một linh hồn. Tôi hé mở cánh cửa phòng cô Wren và thấy bà đang ngồi đu đưa ru cô Peregrine trong lòng, nhẹ nhàng đưa các ngón tay vuốt ve bộ lông con chim. Tôi không nói gì với bất cứ ai.
Lang thang qua những hành lang vắng tanh và những phòng làm việc bị phá tanh bành, tôi cố hình dung xem ở nhà sẽ thế nào, nếu tôi lựa chọn quay trở lại sau tất cả chuyện này. Tôi sẽ nói gì với bố mẹ. Nhiều khả năng là không gì hết. Dù thế nào họ cũng sẽ chẳng bao giờ tin tôi. Tôi chắc sẽ nói tôi đã hóa điên, viết cho bố một lá thư đầy ắp những chuyện điên rồ, rồi lên một chiếc thuyền vào bờ và bỏ chạy. Họ sẽ gọi đó là một phản ứng do stress. Rồi quy nó cho một chứng rối loạn tưởng tượng nào đó để rồi thay đổi tiến trình trị liệu của tôi theo đúng hướng này. Trách cứ bác sĩ Golan vì đã đề xuất cho tôi đi tới Wales. Bác sĩ Golan, kẻ họ sẽ chẳng bao giờ nghe nói tới nữa. Bố mẹ tôi chắc sẽ nói hắn đã rời thị trấn, vì hắn là một kẻ dối trá, một gã lang băm đáng lẽ chúng tôi không bao giờ nên tin tưởng. Và tôi sẽ trở lại là thằng bé Jacob tôi nghiệp bị sang chấn tâm lý, một đứa trẻ con nhà giàu tâm thần không ổn định.
Nghe có vẻ giống một án tù. Dẫu vậy, nếu lý do quan trọng nhất để tôi nán lại trong thế giới đặc biệt lại không còn muốn tôi nữa, thì tôi không thể hạ mình lẽo đẽo bám lấy cô được. Tôi có sự tự tôn của bản thân.
Tôi có thể ở lại Florida trong bao lâu, khi giờ tôi đã nếm qua mùi vị cuộc sống đặc biệt này? Tôi không còn bình thường như trước nữa – hay đúng hơn là giờ tôi đã biết tôi chưa bao giờ bình thường. Tôi đã thay đổi. Và ít nhất điều đó cũng cho tôi chút hy vọng: rằng ngay cả trong hoàn cảnh bình thường, tôi vẫn có thể tìm ra cách để sống một cuộc sống phi thường.
Phải, tốt nhất nên ra đi. Thực sự là thế. Nếu thế giới này đang chết dần và chẳng thể làm gì cho nó nữa, thế thì còn gì cho tôi ở đây nữa? Chạy và trốn cho tới khi không còn lại nơi nào an toàn để đi, không còn Vòng Thời Gian nào để duy trì tuổi trẻ nhân tạo của các bạn tôi. Chứng kiến họ chết. Đỡ lấy Emma khi cô gục xuống và vỡ nát trên tay tôi.
Điều đó sẽ giết tôi còn nhanh hơn bất cứ con hồn rỗng nào có thể.
Vậy thì được rồi, tôi sẽ đi. Cứu vãn những gì còn lại từ cuộc đời cũ của tôi. Tạm biệt, những người đặc biệt. Tạm biệt, thế giới đặc biệt.
Thế là tốt nhất.
Tôi lang thang cho đến khi tới một nơi các căn phòng chỉ đóng băng một nửa, khối băng đã dâng lên tới nửa chiều cao trần nhà như nước tràn vào một con tàu đắm rồi sau đó dừng lại, để các mặt bàn và chụp đèn nhô lên như những tay bơi đang ngập ngừng. Bên ngoài các khung cửa sổ đóng băng, mặt trời đang lặn xuống. Những cái bóng đổ dài theo các bức tường và nhân lên nhiều lần trong các giếng cầu thang, và khi ánh sáng tắt dần, chúng trở nên xanh hơn, nhuộm mọi thứ quanh tôi thành màu xanh đại dương sâu thẳm. Tôi chợt nghĩ đây nhiều khả năng là buổi tối cuối cùng của tôi trong thế giới người đặc biệt. Buổi tối cuối cùng của tôi với những người bạn tốt nhất tôi từng có. Buổi tối cuối cùng của tôi với Emma.
Tại sao tôi lại trải qua nó một mình như thế này? Vì tôi buồn, và Emma đã làm tổn thương lòng kiêu hãnh của tôi, và tôi cần dằn dỗi.
Đủ rồi.
Đúng lúc quay người để rời khỏi phòng, tôi cảm thấy nó: cảm giác quặn thắt quen thuộc trong bụng.
Một con hồn rỗng.
Tôi dừng lại, chờ đợi thêm một cơn đau nữa. Tôi cần thêm thông tin. Cường độ của cơn đau tương ứng với độ gần của con hồn rỗng, và tần suất những cơn đau xuất hiện tỷ lệ với sức mạnh của hắn. Khi hai con hồn rỗng mạnh mẽ truy đuổi chúng tôi, Cảm Giác là một cơn đau quằn quại không gián đoạn, nhưng lúc này phải một hồi lâu trôi qua tôi mới cảm thấy một cơn đau nữa – phải gần một phút – và khi nó xuất hiện, cảm giác đau thật mơ hồ, đến mức tôi thậm chí còn không chắc mình đã cảm thấy nó.
Tôi chậm chạp bò ra khỏi phòng, đi xuống hành lang. Khi đi qua khung cửa kế tiếp, tôi cảm thấy cơn đau thứ ba: lúc này mạnh hơn một chút, nhưng vẫn chỉ như một tiếng thì thầm.
Tôi thử mở cánh cửa ra thật thận trọng và khẽ, nhưng nó bị đóng băng chặt cứng. Tôi phải giật mạnh cánh cửa, sau đó rung lắc, rồi đá vào nó, cuối cùng cánh cửa cũng mở tung ra, để lộ khung cửa và một căn phòng đóng băng tới tận ngang ngực. Tôi thận trọng tới gần khối băng và nhìn qua, và thậm chí cả trong ánh sáng yếu ớt, tôi cũng thấy ngay một con hồn rỗng. Nó đang nằm phục dưới sàn, hai con mắt đen như mực bị bọc kín trong băng. Chỉ còn nửa trên cái đầu của nó nhô lên khỏi băng; phần còn lại của con quái vật, những phần nguy hiểm, cái miệng há ngoác và tất cả răng cũng như lưỡi của nó đều bị giữ lại dưới mặt băng.
Con quái vật chỉ còn sống thoi thóp, tim nó chậm lại tới mức gần như ngừng, đập chừng một lần mỗi phút. Với mỗi nhịp đập yếu ớt tôi lại cảm thấy một cơn đau nhói.
Tôi đứng ngoài cửa phòng và nhìn nó chằm chằm, kinh ngạc và ghê tởm. Nó bất tỉnh, bất động, hoàn toàn có thể tấn công. Thật dễ dàng leo lên mặt băng và đâm mũi một trụ băng vào đầu con hồn rỗng – và nếu ai đó khác biết nó ở đây, tôi tin chắc họ sẽ làm như thế. Nhưng có điều gì đó chặn tôi lại. Sinh vật này giờ đây không còn là mối đe dọa cho bất cứ ai nữa. Tất cả các hồn rỗng tôi từng tiếp xúc đều để lại một dấu ấn trên tôi. Tôi nhìn thấy khuôn mặt thối rữa của chúng trong những giấc mơ của mình. Không mấy chốc nữa tôi sẽ về nhà, nơi tôi sẽ không còn là Jacob kẻ giết hồn rỗng nữa. Tôi không muốn mang theo cả gã này với mình. Đây không còn là chuyện của tôi nữa.
Tôi lùi ra khỏi phòng và đóng cửa lại.
*** Khi tôi quay trở lại phòng họp, trời đã gần tốt mịt bên ngoài, và căn phòng tối om. Cô Wren không cho phép thắp những ngọn đèn khí ga lên vì sợ ánh đèn bị trông thấy từ dưới đường, tất cả mọi người bèn xúm lại quanh mấy cây nến tại chiếc bàn lớn hình bầu dục, một số ngồi trên ghế, số khác ngồi gác tréo chân ngay trên bàn, rì rầm trò chuyện khe khẽ và chăm chú nhìn xuống cái gì đó. Khi các cánh cửa nặng nề kêu lên ken két, tất cả quay sang nhìn tôi.
“Cô Wren?” Bronwyn lên tiếng đầy hy vọng, thẳng người lên trên ghế và nheo mắt.
“Chỉ là Jacob thôi,” một bóng đen khác nói.
Sau một dàn đồng ca những tiếng thở dài thất vọng, Bronwyn nói, “À, chào Jacob,” rồi chuyển sự chú ý trở lại bàn.
Trong khi bước về phía họ, tôi trao đổi ánh mắt với Emma. Theo dõi ánh mắt cô, tôi thấy điều gì đó non nớt, lộ liễu – tôi hình dung rằng đó là nỗi sợ rằng quả thực tôi đã quyết định làm điều cô thúc giục tôi làm. Sau đó, ánh mắt cô đờ dại đi, và cô lại nhìn xuống.
Tôi phần nào hy vọng Emma đã thấy thương tôi và nói trước với những người khác rằng tôi chuẩn bị rời đi rồi. Nhưng hiển nhiên là cô đã không nói – tôi vẫn chưa nói gì với cô. Dẫu vậy, dường như cô biết, chỉ từ việc quan sát khuôn mặt tôi khi tôi đi vào phòng.
Rõ ràng những người khác không biết gì. Họ đã quá quen thuộc với sự hiện diện của tôi, thậm chí họ đã quên rằng điều đó đang bị xem xét. Tôi lấy hết can đảm và yêu cầu mọi người chú ý.
“Đợi một chút,” một giọng nói có khẩu âm nặng trịch vang lên, trong ánh nến tôi nhìn thấy cô gái điều khiển trăn và con trăn của cô đang nhìn tôi. “Cậu này vừa nói rất nhiều điều vớ vẩn về nơi tôi từ đó tới.” Cô này quay sang chiếc ghế duy nhất cạnh bàn còn trống và nói, “Chúng tôi gọi nơi đó là Simhaladvipa – nhà của sư tử.”
Từ chiếc ghế trống, Millard đáp, “Tớ xin lỗi, nhưng trong đó viết rõ ràng trên giấy trắng mực đen: Vùng đất Serendip. Các chuyên gia vẽ bản đồ đặc biệt tạo ra thứ này không phải loại người đi bịa chuyện!”
Sau đó, tôi lại gần hơn thì thấy họ đang trao đổi về cái gì. Đó là một tấm Bản đồ Các Ngày, cho dù là một phiên bản lớn hơn nhiều so với tấm bản đồ chúng tôi đã mất ngoài biển. Tấm bản đồ này phủ kín cả chiều ngang mặt bàn và dày như một viên gạch để dựng đứng. “Tôi biết quê nhà của mình, và tên nơi đó là Simhaladvipa!” cô gái thôi miên trăn khăng khăng, và con trăn tháo mình ra khỏi cổ cô, lao vút đi qua bàn và đập mũi vào Bản đồ, chỉ vào một hòn đảo hình giọt nước ở ngoài khơi Ấn Độ. Tuy nhiên, trên tấm bản đồ này Ấn Độ được gọi là Malabar, và hòn đảo, mà tôi biết là Sri Lanka, được viết đè lên một dòng chữ đề Vùng Đất Serendip.
“Tranh luận chỉ vô ích,” Millard nói. “Có những nơi nhiều tên như thể lấy tên từng người dân để đặt cho nó vậy. Giờ hãy làm ơn bảo con trăn của cậu lui ra, nếu không nó sẽ làm nhàu trang giấy mất.”
Cô gái thôi miên trăn đằng hắng rồi lẩm bẩm gì đó, và con trăn thu mình về trở lại quấn quanh cổ cô. Từ đầu đến cuối, tôi không thể đừng nhìn chăm chăm vào cuốn sách. Tập sách chúng tôi để mất cũng đã rất ấn tượng, cho dù tôi mới thấy nó khi giở ra có một lần vào ban đêm, trong ánh lửa màu cam nhảy múa khi ngôi nhà dành cho những đứa trẻ đặc biệt đang bốc cháy. Tập bản đồ này có kích cỡ khác hẳn. Không chỉ lớn hơn nhiều, tập sách này còn được trang trí cầu kỳ đến mức khiến tập sách kia trông chẳng khác gì một tập giấy vệ sinh bọc bìa da. Những tấm bản đồ đầy màu sắc được vẽ trên các trang của tập sách, làm từ một thứ vật liệu nào đó bền hơn giấy, có lẽ là da dê, và rìa được thếp vàng. Những hình minh họa sinh động, các ghi chú và những cụm văn bản giải thích chen kín các rìa trang. Millard để ý thấy tôi nhìn tập bản đồ đầy ngưỡng mộ liền nói, “Thật kinh ngạc phải không nào? Có lẽ ngoại trừ Lộ Luật Người Đặc Biệt, thì ấn bản này của Bản đồ là tập sách đẹp nhất trong cả thế giới đặc biệt. Cả một đội các chuyên gia vẽ bản đồ, họa sĩ và thợ đóng sách đã dành ra cả cuộc đời để tạo nên nó, và người ta kể đích thân Perplexus Anomalous đã vẽ một số trong các bản đồ. Tớ vẫn muốn tận mắt nhìn thấy nó từ khi còn bé tẹo. Ồ, tớ vui lắm!”
“Đây quả là một kiệt tác,” tôi nói, và đúng là vậy.
Thay vì làm hỏng niềm vui của Millard với tuyên bố buồn của mình, tôi quyết định có thể đợi thêm chút nữa. Tôi sẽ không đi đâu hết ít nhất cho tới khi trời sáng, và tôi muốn tận hưởng thêm vài phút nữa bên các bạn tôi mà không bị những điều ảm đạm hơn đè nặng. Tôi rón rén ngồi xuống cạnh Millard và đưa các ngón tay trượt dưới trang sách, có khổ lớn tới mức cần đến cả hai bàn tay tôi cũng như hai bàn tay của cậu ta để lật trang.
Chúng tôi cúi xuống Bản đồ. Tôi bị nó thu hút – nhất là những phần xa xôi và ít được biết đến. Tất nhiên, châu u và số lượng lớn Vòng Thời Gian ở đây được xác định chu đáo, nhưng càng cách xa, thông tin càng trở nên thưa thớt. Từng mảng lớn ở châu Phi chỉ đơn giản là trống trơn. Vùng đất chưa được biết tới. Tương tự là Siberia, cho dù bản đồ Các Ngày có tên riêng dành cho vùng Viễn Đông nước Nga: Vùng Rộng Lớn Cô Độc Xa Xăm.
“Có các Vòng Thời Gian ở những vùng này không?” Olive hỏi, chỉ tay vào một khoảng trống trải rộng trên phần lớn Trung Quốc. “Ở đó cũng có những người đặc biệt như chúng ta chứ?”
“Chắc chắn là có,” Millard nói. “Thuộc tính đặc biệt do gene quyết định chứ không phải địa lý. Nhưng chỉ có điều là phần lớn của thế giới đặc biệt còn chưa được khám phá.”
“Tại sao lại chưa?”
“Tớ đoán vì chúng ta quá bận rộn với việc sinh tồn.”
Tôi chợt nghĩ việc sống còn đã loại trừ rất nhiều thứ, trong đó khám phá và yêu không phải là ngoại lệ.
Chúng tôi lật thêm các trang, tìm kiếm những vùng trắng. Có rất nhiều, và tất cả đều có những cái tên lạ lùng. Vương Quốc Than Khóc Của Cát. Vùng Đất Được Tạo Ra Trong Cơn Giận. Một Nơi Cao Đầy Sao. Tôi đọc thầm những cái tên này, đánh giá sự hợp lý của chúng.
Tại các vùng rìa lẩn khuất những nơi đáng sợ Bản đồ gọi là các vùng Hoang Vu. Cực Bắc Scandinavia là vùng Hoang Vu Băng Giá. Trung bộ Borneo: vùng Hoang Vu Ngột Ngạt. Phần lớn bán đảo Ả Rập: vùng Hoang Vu Tàn Nhẫn. Có những nơi chẳng hề được thể hiện. New Zealand. Hawaii. Floria, chỉ đơn thuần là một cái bướu nhỏ xíu chưa nhô hẳn ra khỏi bàn chân nước Mỹ, gần như không thể nhìn thấy.
Nhìn vào Bản đồ Các Ngày, thậm chí cả những nơi nghe có vẻ cấm đặt chân đến cũng thổi bùng lên trong tôi một mong ước lạ lùng. Nó làm tôi nhớ lại những buổi chiều cách đây đã lâu trải qua bên ông nội nghiên cứu những tấm bản đồ lịch sử trên tạp chí Địa lý Quốc gia – những tấm bản đồ được vẽ từ rất lâu trước khi xuất hiện máy bay và vệ tinh nhân tạo, khi các camera phân giải cao chưa thể nhìn tới tận từng ngóc ngách của thế giới. Khi hình dạng của những đường bờ biển ngày nay thật quen thuộc vẫn chỉ là phỏng đoán. Khi độ sâu và kích thước của những vùng biển băng giá và những khu rừng rậm rạp được tập hợp lại từ những lời đồn đại, các truyền thuyết và những chuyến lang thang nhớn nhác của các đoàn thám hiểm đã mất đến nửa số thành viên trong quá trình khám phá chúng.Trong khi Millard lang thang theo lịch sử của Bản đồ, tôi dùng ngón tay lần theo một sa mạc rộng mênh mông không đường đi ở châu Á. Nơi Tạo Vật Có Cánh Không Kết Thúc Chuyến Bay Của Nó. Tại đây còn cả một thế giới còn cần khám phá, và tôi mới chỉ bới qua loa trên bề mặt của nó. Ý nghĩ này làm tôi tràn đầy nuối tiếc – nhưng cũng có cả một cảm giác nhẹ nhõm đáng hổ thẹn. Nói cho cùng, tôi sẽ lại được thấy nhà mình, và bố mẹ mình. Và có thể sự thôi thúc khám phá chỉ vì để khám phá xưa kia đúng là thật trẻ con. Có sự lãng mạn trong cái chưa biết, nhưng một khi nơi nào đó đã được khám phá, ghi chép lại và đưa lên bản đồ, nó bị thu lại, chỉ còn là một hiện thực phủ bụi trong một cuốn sách, mất đi sự bí hiểm. Thế nên có lẽ tốt hơn nên để lại một số vùng trắng trên bản đồ. Hãy để thế giới giữ lại một phần phép mầu của mình, thay vì ép buộc nó tiết lộ ra đến bí mật cuối cùng.
Có thể thỉnh thoảng phải băn khoăn tự hỏi lại tốt hơn.
Và tôi nói với họ. Đợi thêm nữa cũng chẳng ích gì. “Tớ sắp rời khỏi đây,” tôi nói. “Khi tất cả chuyện này kết thúc, tớ sẽ quay về nhà.”
Có một khoảnh khắc im lặng vì sốc. Cuối cùng Emma cũng bắt gặp ánh mắt tôi, và tôi có thể thấy đôi mắt cô ướt nhòa.
Rồi Bronwyn đứng dậy khỏi bàn và đưa hai cánh tay ôm chầm lấy tôi. “Người anh em,” cô nói. “Chúng tớ sẽ nhớ cậu lắm.”
“Tớ cũng sẽ nhớ các cậu,” tôi nói. “Nhiều hơn những gì tớ có thể nói.”
“Nhưng tại sao?” Olive nói, lơ lửng bay lên ngang tầm mắt tôi. “Có phải tớ khó chịu quá không?”
Tôi đưa bàn tay đặt lên đầu cô bé và đẩy cô xuống sàn trở lại. “Không, không, không có gì liên quan tới cậu cả,” tôi nói. “Cậu rất tuyệt, Olive.”
Emma bước tới. “Jacob tới đây để giúp chúng ta,” cô nói. “Nhưng cậu ấy phải quay trở lại cuộc sống cũ của mình, nó vẫn luôn ở đó chờ cậu ấy.”
Những đứa trẻ có vẻ hiểu. Không có sự tức giận. Phần lớn họ dường như thực sự mừng cho tôi.
Cô Wren ló đầu vào phòng để cập nhật nhanh tình hình cho chúng tôi – mọi thứ diễn ra rất tuyệt, bà nói. Cô Peregrine đang bình phục. Đến sáng bà sẽ sẵn sàng. Rồi cô Wren lại lui ra.
“Ơn Chúa,” Horace nói.
“Cảm ơn các loài chim,” Hugh nói.
“Cảm ơn Chúa và các loài chim,” Bronwyn nói. “Tất cả những con chim trên tất cả những cái cây trong tất cả các khu rừng.”
“Cảm ơn cả Jacob nữa,” Millard nói. “Chúng ta không bao giờ có thể làm được đến chừng này nếu không có cậu ấy.”
“Thậm chí chúng ta còn chẳng thể rời nổi khỏi hòn đảo,” Bronwyn nói. “Cậu đã làm rất nhiều cho chúng tớ, Jacob.”
Tất cả họ đều tới và ôm hôn tôi, tất cả, từng người một. Rồi họ rời đi, chỉ còn lại Emma, và cô ôm hôn tôi cuối cùng – một cái ôm hôn thật dài, vừa ngọt ngào vừa cay đắng thật giống với lời tạm biệt.
“Yêu cầu cậu rời đi là điều khó khăn nhất tớ từng phải làm,” cô nói. “Tớ rất vui vì cậu đã tới. Tớ không nghĩ tớ sẽ có đủ sức mạnh để yêu cầu thêm nữa.” “Tớ ghét chuyện này,” tôi nói. “Tớ ước gì có một thế giới mà chúng ta có thể bình yên ở bên nhau.”
“Tớ biết,” cô nói. “Tớ biết, tớ biết.”
“Tớ ước…” tôi bắt đầu nói.
“Đừng nói nữa,” cô nói. Bạn đang đọc truyện tại WebTru yen Online . com
Nhưng tôi vẫn nói. “Tớ ước gì cậu có thể về nhà cùng tớ.”
Cô nhìn đi chỗ khác. “Cậu biết chuyện gì sẽ xảy ra với tớ nếu tớ làm điều đó mà.”
"Tớ biết.”
Emma không thích những cuộc chia tay kéo dài. Tôi có thể cảm thấy cô đang cố gồng mình lên, cố đè nén nỗi đau trong lòng. “Vậy nhé,” cô nói với giọng công việc. “Lên kế hoạch chút. Khi cô Peregrine trở lại hình người, cô sẽ dẫn cậu trở lại chỗ lễ hội, xuống đường hầm, và khi cậu đi qua phòng thay đồ, cậu sẽ trở lại hiện tại. Cậu nghĩ mình có thể xoay xở được từ đó chứ?”
“Tớ nghĩ là được,” tôi nói. “Tớ sẽ gọi cho bố mẹ tớ. Hoặc tới một đồn cảnh sát, hay làm gì đó. Tớ tin chắc đến giờ này hẳn đã có thông báo tìm kiếm dán ảnh của tớ tại tất cả các đồn cảnh sát Anh rồi, tớ hiểu bố tớ lắm.” Tôi cười khẽ, vì nếu không làm thế có khi tôi đã bắt đầu khóc.
“Thế thì ổn,” cô nói.
“Thế là ổn,” tôi nói.
Chúng tôi nhìn nhau, chưa hoàn toàn sẵn sàng chia tay, nhưng không biết chắc phải làm gì khác. Bản năng thôi thúc tôi hôn cô, nhưng tôi kìm mình. Chuyện này không còn được phép nữa.
“Cậu đi đi,” cô nói. “Nếu cậu không bao giờ nghe nói gì về bọn tớ nữa, thì một ngày nào đó cậu sẽ có thể kể lại câu chuyện của chúng ta. Cậu có thể kể cho các con cậu về chúng ta. Hay các cháu cậu. Và chúng tớ sẽ không hoàn toàn bị quên lãng.”
Lúc ấy tôi biết rằng, từ giờ trở đi, mỗi lời trao đổi giữa chúng tôi sẽ gây đau khổ, sẽ thấm đẫm và mang dấu ấn nỗi đau của khoảnh khắc này, và tôi cần rút lui ngay bây giờ hoặc nó sẽ không bao giờ dừng lại. Vậy là tôi buồn bã gật đầu, ôm hôn cô thêm lần nữa, rồi rút lui vào một góc để ngủ, vì tôi rất, rất mệt.
Sau một hồi, những người khác lôi đệm và chăn vào trong phòng, xếp thành một chỗ ngủ quanh tôi, và chúng tôi xúm lại sát nhau để lấy hơi ấm chống lại cái lạnh đang ngấm dần. Nhưng trong khi những người khác bắt đầu nằm xuống, tôi nhận ra mình không tài nào ngủ được, dù đã rất kiệt quệ, và tôi đứng dậy đi đi lại lại trong phòng một hồi, quan sát những đứa trẻ từ ngoài xa.
Tôi cảm thấy rất nhiều điều từ khi cuộc hành trình của chúng tôi bắt đầu – vui, sợ, hy vọng, kinh hoàng – nhưng cho tới nay, tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn. Bronwyn đã gọi tôi là người anh em, nhưng nghe cách gọi ấy không còn ổn nữa. Khá lắm tôi cũng chỉ là một người anh em họ đời thứ hai so với họ. Emma nói đúng: tôi không bao giờ có thể hiểu. Họ đã quá già, đã chứng kiến quá nhiều. Còn tôi tới từ một thế giới khác. Giờ đã đến lúc trở về.
*** Cuối cùng, tôi ngủ thiếp đi trong tiếng băng kêu răng rắc, nứt lách cách ở các tầng nhà bên dưới chúng tôi và tầng áp mái phía trên. Ngôi nhà sống dậy trong những tiếng động này. Đêm hôm đó, đêm của những giấc mơ lạ lùng, gấp gáp.
Tôi lại về nhà, làm tất cả những điều tôi từng làm. Ăn ngấu nghiến một chiếc hamburger đồ ăn nhanh – to, nâu, béo ngậy. Ngồi cạnh lái xe trong chiếc Crown Vic của Ricky, chiếc radio lọc xọc mở thật to. Tại cửa hàng tạp hóa cùng bố mẹ tôi, lao xuống những dãy giá bày hàng dài chiếu sáng quá chói chang, và Emma ở đó, đang làm mát hai bàn tay trong nước đá ở quầy bán cá, nước tan ra chảy khắp nơi. Cô không nhận ra tôi.
Rồi tôi đang ở trung tâm trò chơi, nơi tôi tổ chức sinh nhật lần thứ mười hai, bắn một khẩu súng nhựa. Các thân người nổ tung, những quả bóng đựng đầy máu.
Jacob cậu ở đâu.
Rồi đến trường. Thầy giáo đang viết trên bảng, nhưng các chữ cái chẳng tạo nên ý nghĩa nào. Rồi tất cả cùng đứng bật dậy, hối hả lao ra ngoài. Có gì đó không ổn. Một tiếng động chói tai vang lên rồi lắng xuống. Tất cả mọi người đứng im, đầu ngẩng lên trời.
Không kích.
Jacob Jacob cậu ở đâu.
Một bàn tay đặt lên vai tôi. Một ông già. Một người không có mắt. Tới để lấy cắp mắt của tôi. Không phải một người – một thứ - một con quái vật.
Giờ là chạy. Đuổi theo con chó già của tôi. Nhiều năm trước nó đã vùng khỏi tôi, chạy đi khi dây dắt vẫn buộc cổ và làm sợi dây quấn quanh một cành cây trong lúc cố đuổi theo một con sóc lên cây. Và tự làm mình chết ngạt. Chúng tôi mất hai tuần lang thang khắp khu vực lân cận gọi tên nó. Và tìm thấy con chó sau ba tuần. Snuffles già khốn khổ.
Lúc này tiếng còi vang lên điếc tai. Tôi chạy và một chiếc xe lao tới bên cạnh, đón tôi lên. Bố mẹ tôi ở trong xe, mặc đồ nghiêm chỉnh. Họ không nhìn tôi. Các cửa xe khóa lại. Chúng tôi lao đi và bên ngoài nóng đến ngột thở, nhưng máy sưởi lại được bật và các cửa xe đóng kín, radio thì mở to nhưng toàn chỉnh vào đoạn nhiễu giữa các đài phát.
Mẹ, chúng ta đi đâu đây.
Bà không trả lời.
Bố, sao chúng ta lại dừng ở đây.
Rồi chúng tôi ra ngoài, đi bộ, và tôi lại thở được. Một nơi đầy màu xanh. Có mùi cỏ mới cắt. Những người mặc đồ đen tụ tập lại quanh một cái hố trên mặt đất.
Một chiếc quan tài để mở trên một cái bệ. Tôi nhìn vào trong. Nó trống rỗng, chỉ có một vết ố nhớt như dầu chầm chậm lan rộng ra dưới đáy. Làm đen kịt nền xa tanh trắng. Nhanh lên, đóng nắp lại! Hắc ín đen ngòm sủi bọt trào ra từ các đường rãnh và khe nứt rồi nhỏ giọt xuống cỏ và chìm vào trong đất.
Jacob con đâu rồi, nói gì đi chứ.
Trên bia ghi: ABRAHAM ERZA PORTMAN. Tôi vấp chân ngã nhào vào huyệt mộ mở toang của ông, bóng tối cuộn lên nuốt chửng lấy tôi, và tôi cứ rơi mãi vào một nơi không đáy, và rồi tôi ở đâu đó dưới lòng đất, một mình, đang lang thang qua hàng nghìn đường hầm kết nối đan vào nhau, và tôi cứ lang thang, xung quanh thật lạnh, lạnh đến nỗi tôi sợ da mình sẽ đông cứng và xương tôi sẽ gãy rời, khắp nơi đều có những con mắt vàng khè quan sát tôi từ trong bóng tối. Tôi đi theo giọng nói của ông. Yakob, lại đây. Đừng sợ. Đường hầm dốc lên trên và ở phía cuối có ánh sáng, và một người đàn ông trẻ đang đứng trước miệng đường hầm, bình thản đọc sách. Trông anh ta cũng giống tôi, hay gần như giống tôi, và có thể anh ta chính là tôi, tôi thầm nghĩ, nhưng sau đó anh ta lên tiếng, và đó là giọng của ông nội tôi. Ông có thứ này muốn chỉ cho cháu.
Trong giây lát tôi bật dậy bừng tỉnh trong bóng tối và biết mình đang mơ, nhưng tôi không biết mình đang ở đâu, chỉ là tôi không còn ở trên giường nữa, cũng không ở trong phòng họp với những người khác. Tôi đã đi tới một nơi khác, và căn phòng tôi đang ở chỉ toàn một màu đen, phía dưới tôi là băng, và bụng tôi đau thắt lại…
Jacob lại đây cháu đâu rồi.
Một giọng nói từ bên ngoài, phía cuối hành lang – giọng người thật, không phải từ một giấc mơ.
Và rồi tôi lại ở trong mơ, ngay bên ngoài những dây chắn của một võ đài quyền Anh, và trên võ đài, trong ánh sáng và khói mờ, ông nội tôi đang đối đầu với một con hồn rỗng.
Họ đi vòng quanh nhau. Ông nội tôi trẻ trung và nhanh nhẹn trên đôi chân mình, cởi trần, một bàn tay cầm dao. Con hồn rỗng còng xuống và vặn vẹo, những cái lưỡi của nó vung vẩy trong không khí, quai hàm há ra nhểu những giọt đen sì xuống đệm võ đài. Nó vung một cái lưỡi ra và ông nội tôi nhanh nhẹn tránh khỏi.
Đừng chống lại cơn đau, đó là chìa khóa, ông nội tôi nói. Nó đang nói với cháu một điều. Hãy chào đón nó, để nó nói với cháu. Cơn đau nói: Xin chào, tôi chẳng là ai khác ngoài cậu; tôi thuộc về hồn rỗng, nhưng tôi cũng là cậu.
Con hồn rỗng lại vung lưỡi quất ông. Ông nội tôi đã tính trước, chuẩn bị để đón nhận cú đòn. Sau đó, con hồn rỗng tấn công lần thứ ba, và ông nội tôi lao tới với con dao của mình, thế là đoạn đầu cái lưỡi đen sì của con hồn rỗng rơi xuống thảm võ đài, bị cắt đứt lìa và quằn quại vặn vẹo.
Chúng là những sinh vật ngu ngốc. Rất dễ khống chế. Hãy nói với chúng, Yakob. Và ông nội tôi bắt đầu nói, nhưng không phải bằng tiếng Anh, cũng không phải tiếng Ba Lan hay bất cứ ngôn ngữ nào tôi từng nghe thấy ngoài những giấc mơ của mình. Nghe như tiếng ga xì xì từ yết hầu, những âm thanh được tạo thành từ cái gì đó khác chứ không phải cổ họng hay khuôn miệng.
Và con quái vật không đi lại nữa, chỉ lắc lư ở nơi nó đứng, có vẻ như bị thôi miên. Vẫn tiếp tục nói thứ tiếng vô nghĩa kinh khủng của mình, ông nội tôi hạ dao xuống và rón rén lại gần nó. Ông tới càng gần, con quái vật càng trở nên ngoan ngoãn hơn, cuối cùng nó quỳ phục xuống thảm. Tôi tưởng nó sắp sửa nhắm mắt lại và ngủ thiếp đi thì bất thình lình nó thoát khỏi phép thôi miên mà ông nội tôi đã áp lên nó, đoạn lao tới bằng tất cả những cái lưỡi của mình, đánh gục ông tôi. Thấy ông ngã xuống, tôi liền nhấc những sợi dây thừng chăng quanh võ đài lên và lao về phía ông, và con hồn rỗng tránh ra xa. Ông nội tôi đang nằm ngửa trên thảm, còn tôi quỳ gối xuống cạnh ông, bàn tay tôi đặt lên khuôn mặt ông, còn ông đang thì thầm gì đó với tôi, máu trào ra sủi bọt trên môi ông, tôi bèn cúi xuống sát hơn để nghe ông nói. Cháu hơn ông, Yakob, ông nói. Cháu còn hơn ông ngày xưa. Tôi có thể cảm thấy tim ông đập chậm lại. Và bằng cách nào đó, lắng nghe nó cho tới khi trọn một giây trôi qua giữa các nhịp đập. Rồi mười giây. Rồi…
Jacob cậu ở đâu.
Tôi lại giật mình bừng tỉnh. Lần này có ánh sáng trong phòng. Sáng rồi, chỉ mới hừng đông. Tôi đang quỳ gối trên mặt băng của căn phòng bị băng phủ kín một nửa, và bàn tay tôi không phải đang áp lên khuôn mặt ông nội mà đặt trên đỉnh đầu con hồn rỗng bị mắc kẹt, với bộ óc bò sát chậm chạp của nó. Đôi mắt nó mở to và nhìn tôi, tôi nhìn thẳng lại vào đôi mắt này. Tao thấy mày.
“Jacob! Cậu đang làm gì thế? Tớ đã tìm cậu khắp nơi!”
Đó là Emma, cô hối hả gọi vào từ ngoài hành lang. “Cậu đang làm gì thế?” cô lại hỏi. Cô không thể thấy con hồn rỗng. Không hề biết nó ở trong này.
Tôi nhấc bàn tay lên khỏi đầu nó, trượt lùi ra xa. “Tớ không biết,” tôi nói. “Tớ nghĩ mình đang mộng du.”
“Không quan trọng,” cô nói. “Lại đây nhanh lên, cô Peregrine sắp biến hình!”
***
Chen chúc trong căn phòng nhỏ là tất cả những đứa trẻ và cả những nhân vật kinh dị trong màn trình diễn phụ, tất cả đều tái nhợt và hồi hộp, áp vào tường hay phủ phục dưới sàn nhà thành một vòng rộng bao quanh hai Chủ Vòng Thời Gian, hệt như những kẻ tham dự một trận chọi gà bất hợp pháp. Emma và tôi lách vào giữa họ và thu mình vào một góc, dán mắt vào cảnh tượng sắp diễn ra. Căn phòng là một đống lộn xộn: chiếc ghế bập bênh cô Wren đã ngồi cả đêm cùng cô Peregrine giờ bị lật nghiêng sang một bên, cái bàn bày đầy những lọ và cốc có mỏ bị đẩy vào tường không chút khách khí. Althea đứng trên mặt bàn, cầm khư khư một cái lưới được buộc vào cây sào, sẵn sàng sử dụng nó.
Giữa sàn nhà là cô Wren và cô Peregrine. Cô Wren đang quỳ gối, giữ chặt cô Peregrine xuống ván sàn, hai bàn tay bà đều đi găng dày của người dạy chim ưng, người vã mồ hôi, hát khẽ bằng Cổ Ngữ Đặc Biệt, trong khi cô Peregrine kêu quang quác và cố chồm lên. Nhưng cho dù cô Peregrine có vùng lên mạnh đến cỡ nào, cô Wren cũng không buông ra.
Đến một lúc nào đó trong đêm, thông điệp nhẹ nhàng của cô Wren đã trở nên giống như một màn vật biểu diễn giữa các loài khác nhau kết hợp với lễ trừ tà. Nửa chim của cô Peregrine đã chiếm ưu thế mạnh mẽ trong bản thể của bà tới mức nó từ chối bị đuổi đi trong hòa bình. Cả hai Chủ Vòng đều đã phải chịu những vết thương nhẹ: lông của cô Peregrine rụng khắp nơi, còn cô Wren bị một vết cào chạy dọc xuống một bên mặt. Đó là một cảnh thật đáng ngại, và nhiều đứa trẻ đã há hốc miệng vì sốc khi chứng kiến. Với đôi mắt hoang dại và hung dữ, con chim cô Wren đang ấn chặt xuống sàn là một tạo vật chúng tôi gần như không nhận ra nổi. Có vẻ thật khó tin là chuyện khôi phục lại cô Peregrine trọn vẹn như trước đây lại có thể xuất phát từ màn trình diễn bạo lực này, nhưng Althea vẫn luôn mỉm cười nhìn chúng tôi, dành cho chúng tôi những cái gật đầu động viên như thể nói: Gần được rồi, chỉ cần ghì chặt xuống sàn thêm một chút nữa thôi!
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com