1: Văn gia đại tang
Tang sự Văn gia, người đưa kẻ tiễn, kẻ khóc người thương, đều đủ cả. Ngay cả trời cao cũng đượm vẻ sầu thảm, lặng lẽ rơi từng hạt mưa bụi mỏng manh suốt một ngày, tiếc thay cho kẻ thiện lương nhưng yểu mệnh. Không ào ạt, không sấm giông, chỉ có cơn mưa âm thầm giăng khắp mái hiên, phủ trắng cả quãng sân, nhẹ tênh đến mức người ta quên mất đang ướt áo, nhưng lại tê tái thấu tim gan.
Lạ thay, giữa bao tiếng khóc than, kẻ bi ai nhất lại chẳng hề nhỏ một giọt lệ. Văn phu nhân - người từng kề cận sớm khuya bên Văn lão gia - suốt tang lễ chỉ giữ nguyên gương mặt ảm đạm, như thể nỗi ưu sầu tích tụ bao ngày giờ chỉ còn đọng lại trong sắc mặt nhợt nhạt, đôi mắt mệt mỏi.
Người đời nhìn vào, kẻ mỉa mai là vô tâm, người thương xót lại nói:
" Văn phu nhân hẳn đã đau đến hóa đá, nước mắt khô cạn từ lâu rồi."
Oái oăm thay, hôm nay vốn là ngày lành tháng tốt. Năm năm trước, cũng chính ngày này, Văn phủ từng giăng đèn kết hoa, pháo nổ vang trời, tân lang tân nương chắp tay bái đường thành thân, bốn bề vui mừng như hội. Nào ngờ năm năm sau, vẫn ngày ấy, người đã hóa hư vô, kẻ ở lại đầu phủ khăn tang, bái biệt phu quân.
Ai cũng thở dài xót xa. Văn lão gia tuổi đời còn xanh, mệnh lại bạc đến vậy, bỏ lại sau lưng một vị thê tử vừa tròn đôi mươi, tóc chưa kịp điểm sương đã phải chịu cảnh phòng the lạnh lẽo sớm hôm.
Có người lẩm bẩm:
" Nếu linh hồn Văn lão gia còn nơi quanh quẩn, liệu có thắt lòng nhìn thê tử ôm lấy di ảnh mình, quỳ chết lặng bên linh cữu như tượng đá? Tình thâm nghĩa nặng đến thế, hỏi trời có xót chăng?"
Văn phu nhân vẫn điềm nhiên như buổi đầu, giữ lấy dáng vẻ âm trầm cố hữu. Khách phúng viếng lần lượt tới dâng lời chia ưu cũng chỉ cúi đầu tạ lễ, chẳng thốt nửa lời.
Có kẻ khẽ than:
" Âu cũng là mệnh trời, phu nhân chớ quá đau lòng mà tổn hao sinh khí."
Lời vừa dứt, liền một tiếng thở dài như có như không. Lúc ấy, mấy ai chân thành, mấy ai giả ý, chỉ cần đứng trước linh cữu, nhìn ánh mắt bọn họ một lượt là rõ - dẫu che đậy khéo đến đâu, tâm cơ vẫn thấp thoáng hiện lên trong tia nhìn dao động.
Văn phu nhân vẫn thủ lễ phép tắc, nghiêng mình đáp lễ từng người phúng viếng. Lễ nghi chu toàn để người đời không chê trách, ấy vậy mà lại hóa thành vẻ nhu nhược, khiến bóng hình cô độc chính mình lọt thỏm giữa đại trạch Văn gia - nơi mà bản thân mang danh Văn phu nhân nhưng không có lấy một tấc đất để trụ vững.
Cảnh mèo khóc chuột, người trong cuộc tất hiểu. Nhưng đã khoác lên mình tang phục, đã đứng trước linh cữu người quá cố thì sao có thể cất lời vạch trần? Chỉ còn cách nhắm mắt làm ngơ, gom hết thật giả trong thiên hạ quy về một chữ - " người qua đường ".
Thường nhật, Văn phu nhân vốn trầm mặc, lời ít hơn vàng, ngay cả nụ cười, kẻ hữu duyên thấy được cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Nay gặp đại tang, sắc diện càng thêm tịch mịch, mơ hồ như màn sương sớm, khó đoán tâm ý bên trong.
Mọi người rỉ tai nhau, lời nói vô thưởng vô phạt mà như kim châm vào tim:
" Sau lớp vỏ lễ nghi kia, hóa ra nhân tâm cũng chẳng đủ đầy. Một lần kết tóc, một đời phu thê, vậy mà rơi đôi giọt lệ, cũng khó nhọc sao?"
Ít ai hiểu, phu nhân là thực vô tình, hay đau khổ đến mức không thể rơi thành lệ nữa. Có chăng, từ thuở ban đầu, tình vốn chẳng vương, lòng chẳng đặng...
Đặt đóa cúc trắng đầu tiên vào trong linh cữu, đầu ngón tay quyến luyến hơi ấm vốn không còn của người đã khuất. Thôi Hựu Tề cúi đầu, để lộ chiếc gáy trắng tái, gầy guộc đến mức tưởng chừng khẽ chạm đã có thể gãy đôi. Dưới mái tóc búi thấp cài trâm ngọc, làn da nhợt nhạt ẩn hiện qua lớp tang phục trắng phau, càng lộ vẻ héo hon, ảm đạm như cành hoa sắp tàn.
Một hạt châu thủy rơi xuống làn da trắng bệnh của tử thi, cổ họng Hựu Tề nghèn nghẹn, ngăn mình bật ra cái tên " A Tuấn à..." đầy đau xót.
Khách viếng tang đứng từ xa lặng nhìn, chẳng ai nói lớn, nhưng ánh mắt đã thay cho lời: với dáng vẻ này, e rằng chưa qua hết tuần trăng, Văn phủ lại thêm cái tang sự khác.
Gia nhân quỳ rạp dưới chân linh cửu, khóc than bi thiết, oán trách ông trời, lão gia là một bậc nhân đức, cớ sao lại yểu mệnh?
Song, giữa khung cảnh não nề ấy lại lặng lẽ vọng ra lời oán trách:
" Do phu nhân đầu độc mà chết..."
" Bát tự nghịch mệnh... cố chấp làm chi..."
Một dòng lệ chua xót tràn khỏi khóe mi, lăn dài nơi gò má tái nhợt. Trong lòng Hựu Tề dâng tràn uất nghẹn, nhưng cổ họng như bị khóa chặt, chẳng thốt ra được nửa lời. Khóc cho người đã khuất, cũng là khóc vì thương hại phận mình. Lời thị phi oan nghiệt kia há lại không giày xéo tâm can?
Từ khi bước chân vào Văn gia, Hựu Tề chưa từng làm hại một ai, vậy mà thế nhân tàn nhẫn đem y ra trước mũi giáo. Bao nhiêu oán hận, bất bình... chỉ cần gán hết lên đầu y, trong mắt bàn dân thiên hạ, y sinh ra đã là kẻ tội đồ, trời không dung, đất chẳng tha.
Chỉ vì y là con tốt thí trong ván cờ quyền thế.
Mấy tháng trước, khi mời đại phu trong trấn về bắt mạch cho Văn lão gia, vị ấy khẽ cau mày hồi lâu, đoạn buông tiếng thở dài, lắc đầu chép miệng:
- Thứ cho tại hạ tài hèn sức mọn, bệnh này... vô phương cứu vãn. Bệnh thật lạ.
Nói rồi, lão thu dọn hòm thuốc, cất bước ra về. Hựu Tề lặng lẽ đặt vào tay lão một túi bạc, song lão chỉ khẽ xua tay, cúi mình cáo từ.
Từ ấy, khi Hựu Tề ngồi bên án thuốc, chậm rãi sắc từng thang cho lão gia, sau lưng liền râm ran những tiếng thì thầm chẳng mấy thiện ý. Kẻ hầu trong nhà phủ nhìn vị phu nhân chẳng khác gì bù nhìn không bằng nửa con mắt.
May thay, Thôi gia tuy đã suy, vẫn còn sót chút thanh danh năm cũ, nếu không, e rằng giá trị của y... chẳng biết có được sánh với cầm thú hay không.
Bọn họ ngoài mặt làm như không nghe, không nói, song từng ánh nhìn, từng cử chỉ đều ẩn chứa sự khước từ, như thể chẳng muốn họ " Văn " đặt chúng với tên Hựu Tề. Gia quyến Văn gia coi y là cái gai trong mắt, mỗi khi đối diện, khóe môi họ khẽ nhếch lên, lộ ra nụ cười khinh bạc:
- Quả là tướng khắt phu... cưới về, lợi lộc chưa thấy đâu, đã thấy dòng họ này tuyệt tự tuyệt tôn.
Sau hôn lễ tưởng chừng trọn vẹn, niềm vui chẳng tày gang. Từ ngày y bước chân qua chính môn Văn gia, Văn Huyền Tuấn chẳng bao lâu sau liền đổ bệnh.
Ban đầu chỉ là ho khan dai dẳng, rồi về sau cả vườn cúc sau nhà cũng vắng bóng hắn ghé thăm, lặng lẽ héo khô như thể lá thư báo tử đã cắm sẵn nơi ngưỡng cửa.
Chập tối, những vị khách không mời lại đậu trên tường rào. Qua ô cửa sổ, chúng nhìn lão gia đang thở từng hơi yếu ớt bằng đôi mắt đỏ ngầu, rồi ngẩng đầu kêu bảy tiếng.
Nhân gian bảo: " Quạ đến nhà, ắt có điềm gỡ.", dù gia nhân dùng chổi đuổi đánh thế nào, hôm sau chúng vẫn quay lại, quẩn quanh chẳng dứt.
Da dẻ tái nhợt, đau nhức xương khớp, thân nhiệt thất thường, thể trạng suy nhược... Văn lão gia liên tục đổ bệnh, thuốc sắc hết than này đến than khác vẫn không thuyên giảm. Y dần nhốt mình trong phòng, từ chối gặp bất kỳ ai trừ Hựu Tề.
Bát thuốc đen ngòm tỏa ra mùi thảo dược thanh tao mà lòng Hựu Tề lại nặng như đá. Thấy gói thuốc trên kệ sắp hết, y định sáng hôm sau lên huyện mua thêm, dẫu thừa biết thuốc có uống bao nhiêu, tiền có tốn bấy nhiêu thì bệnh vẫn không qua khỏi, người cũng chẳng giữ được.
Nhìn lão gia suy kiệt, tuổi thọ chẳng tính bằng năm tháng mà tính bằng từng bát thuốc cạn dần. Hắn vẫn gắng uống thật nhiều, như mong thời gian mình còn tại thế có thể nối dài thêm chút ít.
Nhưng ngoài kia, người ta đã bắt đầu thì thầm: rằng từ khi Thôi Hựu Tề về Văn gia, mệnh số đã ứng, một trong hai phải chết.
Người người lần lượt thắp hương cho Văn lão gia, mong hắn sớm an nghỉ.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com