CHƯƠNG MƯỜI TÁM
Ruth đang ở trong căn buồng gác xép thuê ở First Avenue khi nghe ông bố nhắc tới cái hố trước là mỏ than bị sụt. Cô nàng vừa quấn sợi dây điện thoại màu đen vừa trả lời ngắn gọn những gì cần nói. Bà cụ chủ nhà nhận điện thoại hay nghe lỏm nên cô nàng không muốn nói nhiều. Lát nữa, cô nàng sẽ ra máy công cộng gọi về nhà bằng phương thức người nghe trả lệ phí, và thu xếp để về thăm nhà.
Cô nàng đã dự kiến sẽ làm một cuộc hành hương đến tận chỗ hố sụt nọ trước khi các hãng xây cất cho lấp đi. Cô nàng không hề kể cho ai chuyện cô nàng bị lôi cuốn ám ảnh bởi những nơi chốn như hố sụt nọ, loại bí mật mà cô nàng giữ cho riêng mình, như chuyện tôi bị giết rồi hai đứa tình cờ chạm nhau ở bãi đậu xe của trường. Đây là loại truyện cô nàng không hở môi kể cho ai biết ở New York, nơi cô nàng thấy bao người khác bên quầy rượu kể lể trong cơn say đủ mọi chuyện, đem người thân và những chấn thương tinh thần ra rêu rao, chỉ để được đãi một bữa nhậu túy lúy hay cảm giác được nhiều người ái mộ. Cô nàng thấy đây là loại chuyện không thể đem lan truyền từ người này sang người khác, tương tự các món được ngụy trang thành gói quà chuyền tay một vòng trong bữa liên hoan. Nhờ nhật ký và những bài thơ của mình cô nàng luôn giữ cho mình không đi chệch quy tắc đạo đức. “Hãy nhìn vào lòng mình, soi rọi tâm tư của chính mình,” cô nàng luôn thì thào tự nhắc nhở mỗi khi có nhu cầu cần thiết phải nói lên điều gì, rồi cuối cùng chọn giải pháp đi dạo thật xa xuyên dọc thành phố, nhưng thay vì thấy cảnh tượng bên đường, trước mắt cô nàng lại hiện ra cánh đồng ngô nhà Stolfuz hay cảnh ông bố mắt dán vào những món đồ cổ ông kịp thu nhặt lại ở các ngôi nhà bị phá sập. Thành phố New York là cả một tấm phông màn tuyệt vời những lúc cô nàng suy tưởng nghiền ngẫm. Tuy cô nàng nện gót bước đi một cách quả quyết, xông xáo đi không từ một ngả đường hay ngóc nghách nào nhưng thành phố này thực ra không tác động gì mấy lên cuộc sống nội tâm của cô nàng.
Bây giờ trông cô nàng không còn vẻ bị ám ảnh như hồi ở trường trung học, song nếu ai nhìn sâu vào đáy mắt cô nàng sẽ thấy tiềm ẩn một nguồn sinh lực khó trấn áp, sắp sửa bùng lên, thường gây cho họ cảm giác bực dọc bất an. Trông cô nàng lúc nào cũng như đang chờ một sự kiện gi đó sắp xảy ra, hay ngóng đợi một người nào mãi chưa thấy đến. Toàn thân cô nàng cứ chúi về phía trước trong tư thế tìm tòi dò hỏi, và mặc dù ở quán rượu cô nàng làm việc nhiều người khen tóc hay đôi bàn tay cô nàng đẹp hoặc, một đôi lần khá hiếm hoi có mấy khách hàng quen thấy Ruth từ phía sau quầy bước ra khen cô nàng có cặp đùi đẹp, song không nghe ai bình phẩm gì về đôi mắt cô nàng cả.
Cô nàng thoăn thoắt thay quần áo, xỏ đôi tất dài rồi chiếc váy ngắn, đi ủng, tròng chiếc áo thun ngắn tay, từ đầu đến chân chỉ tuyền một màu đen, áo vấy nhiều vết ố vì cô nàng mặc suốt ngày kể cả lúc làm việc. Những vết ố này ra nắng mới thấy được thành thử chỉ khi Ruth đứng uống cà phê ngoài đường, nhìn xuống người mới phát hiện những vệt hoen do thấm Vodka hay Whisky dây ra. Rượu làm màu đen của vải sẫm màu thêm. Điều này làm cô nàng buồn cười, cô nàng ghi vào nhật ký: “Vải cũng như con người ta, đều bị rượu làm hoen ố cả.”
Một khi ra khỏi nhà, trên đường ghé quán cà phê ở First Avenue cô nàng thì thầm trò chuyện với những con chó cảnh béo núp thuộc giống Chihuahua và Pomerania nằm trên lòng mấy bà người Ukraina ngồi trên bệ cửa. Ruth thích loài chó con hung hăng này, mỗi khi cô nàng đi sát tới là rộ lên sủa om tỏi.
Cô nàng đi tiếp, sải bước không ngừng nghỉ, mỗi bước gây cảm giác đau nhói dội lên từ mặt đất truyền sang gót bàn chân vừa đặt xuống. Không ai vẫy chào cô nàng ngoài những người trông lôi thôi nhếch nhác. Cô nàng nghĩ ra trò chơi là thử xem đi suốt dọc bao nhiêu đường phố mà không phải dừng chân chờ xe cộ ngừng lại. Cô nàng không chậm bước nhường ai hết, đi sấn vào giữa làm dạt ra hai bên đám sinh viên NYU(1) hay mấy bà già đẩy xe đem đồ đi giặt, như thể có luồng gió quạt ra từ bên phải và bên trái người cô nàng vậy. Cô nàng thích tưởng tượng rằng hễ cô nàng đi qua chỗ nào mọi người đều ngoái lại nhìn, tuy cô nàng biết thừa rằng ở đây mình hoàn toàn vô danh. Trừ lúc làm việc ở tiệm, còn thì không ai biết vào những giờ khác cô nàng đang ở đâu, và không có ai mong ngóng cô nàng ở nhà cả. Đó là sự vô danh toàn hảo.
Cô nàng không biết rằng Samuel đã hỏi cưới em gái tôi, và trừ khi tin đến tai cô nàng do Ray tiết lộ, người duy nhất cô nàng còn giữ liên lạc sau thời trung học, còn thì cô nàng không tài nào biết được. Hồi còn học ở Fairfax cô nàng có nghe kể mẹ tôi đã ra đi. Hồi ấy cả trường lại có dịp xì xào và Ruth đã chứng kiến em gái tôi phải đối phó với lời đồn đại như thế nào. Thỉnh thoảng hai đứa gặp nhau ở hành lang, Ruth tìm cách nói vài lời khích lệ an ủi, cô nàng phải khéo léo lựa lời để không gây thêm khó khăn cho Lindsey nếu có ai thấy em trò chuyện với cô nàng. Ruth biết mình bị cả trường xem là lập dị bất thường, và cái đêm cùng ngủ lại ở trại năng khiếu quả đúng như cô nàng đã cảm nhận - một giấc mơ trong đó những nhân tố được tự do quần tụ, tìm đến nhau không cần lý đến những quy định quái gở của nhà trường.
Nhưng Ray khác hẳn.Với cô nàng thì những nụ hôn và những trò ôm ấp vuốt ve cả hai làm trước kia là những thứ được cất vào lồng kính, những kỷ niệm được cô nàng gìn giữ. Lần nào về thăm bố mẹ cô nàng cũng đều gặp Ray và biết ngay rằng Ray là người mình muốn cùng đi đến cái hố đất sụt kia. Anh chàng chắc sẽ hoan hỉ được dứt ra vài hôm, tạm ngưng chuyện miệt mài học gạo và, nếu cô nàng may mắn thì sẽ được nghe anh chàng trình bày, như vẫn quen làm, về một quá trình nào đó trong y học mà anh chàng mới nghiên cứu. Cách Ray diễn tả những sự kiện này làm cho cô nàng tưởng chính mình đang cảm thấy như thế thật - chứ không phải chỉ thử tưởng tượng. Anh chàng gợi cho cô nàng hình dung ra mọi thứ, chỉ với vài câu chữ xác đáng, và chính anh chàng cũng không ý thức là mình có tài năng đó.
Lúc đi dọc First Avenue ngược lên hướng bắc, cô nàng có thể chỉ từng nơi mình đã dừng chân, tin chắc tìm đến đúng chỗ trước kia có người đàn bà hay cô gái nào đó bị giết hại. Cuối ngày cô nàng lên danh sách những người ấy trong nhật ký, nhưng thường cô nàng để quá nhiều công sức vào những chuyện có thể đã xảy ra trong lối vào ngõ tối tăm này hoặc con phố hẹp kia, nên không chú ý đến những vụ đơn giản, hiển nhiên hơn mà cô nàng biết được khi đọc tin trên báo về một người mới chết, hoặc khi cô nàng đến thăm nơi từng là chỗ vùi thân một người đàn bà nào đó.
Ruth không biết rằng trên thiên đường cô nàng đã trở thành một nhân vật tiếng tăm lừng lẫy. Tôi kể cho mọi người nghe về cô nàng, về những chuyện cô nàng làm, rằng bất cứ đâu trong thành phố cô nàng đều tìm ra những giây phút tĩnh mịch rồi ghi vào nhật ký những lời cầu nguyện ngắn ngủi của riêng cô nàng. Chuyện này lan truyền thật nhanh khiến các bà các cô xếp hàng dài để hỏi xem cô nàng có tìm ra nơi họ bị giết hay không. Cô nàng có nhiều người hâm mộ trên thiên đường, tuy có thể cô nàng sẽ thất vọng nếu biết khi họ tụ tập lại thì giống một nhóm thanh thiếu niên đang chúi mũi đọc tap chí thiếu niên Teenbeat hơn là hình dung của Ruth về những tiếng rì rầm ai oán soạn riêng để hòa ca với dàn trống trên thiên đường.
Tôi là người chỉ đi theo và quan sát nên, không như dàn đồng ca, tôi thấy đây là những giây phút gây sầu thảm và làm bàng hoàng. Ruth thoắt thấy một hình ảnh nào đó sau này sẽ khắc sâu vào ký ức cô nàng. Đôi khi chỉ là những khoảnh khắc như ánh chớp lóe lên - tiếng người trượt lăn xuống cầu thang, tiếng gào thét, tiếng người xô xát, đôi bàn tay đang xiết cổ - hoặc đôi khi trong tâm trí cô nàng như có cả một cuốn phim được quay lại, lâu vừa đúng bằng khoảng thời gian cô gái hay bà nọ hấp hối trước khi tắt thở.
Không ai trên đường phố chú ý đến cô gái mặc đồ đen đứng lại giữa dòng người trên phố. Với bộ y phục đội lốt sinh viên bộ môn nghệ thuật, cô nàng có thể đi cùng khắp khu Manhattan và nếu chưa hòa hẳn vào dòng người thì cô nàng cũng dễ được xếp loại và do đó không ai để ý. Trong suốt thời gian đó, cô nàng đang thực hiện một công tác, đối với chúng tôi rất quan trọng, mà phần lớn người dưới trần do quá kinh hãi đã gạt ra khỏi đầu óc không dám nghĩ đến.
Hôm sau ngày lễ tốt nghiệp của Lindsey và Samuel, tôi theo cô nàng cùng đi dạo. Khi cô nàng tới Central Park(2) của thành phố thì đã xế trưa nhưng vẫn còn đông người qua lại. Nhiều đôi trai gái ngồi chơi trên bãi cỏ xén phẳng Sheep Meadow. Ruth lom lom nhìn họ. Tia nhìn soi mói làm họ mất hứng thú hưởng một buổi trưa nắng ấm, và khi những cậu trai trẻ bắt gặp ánh mắt cô nàng họ bất giác nhắm mắt lại hay nhìn sang hướng khác.
Cô nàng đi ngang đi dọc khắp công viên. Có những chốn ai cũng rõ, như lối đi dạo, cô nàng có thể chọn đến đó tìm tài liệu về diễn tiến những vụ án ở đấy mà không cần phải rời khỏi lùm cây, nhưng cô nàng ưa chọn những chỗ mọi người thường xem là an toàn hơn: mặt hồ lóng lánh mát lạnh có đàn vịt nằm ở góc nhộn nhịp phía đông nam công viên, hay cái hồ nhân tạo êm ả nơi các vị cao niên lái những chiếc thuyền buồm chạm trổ thật đẹp.
Cô nàng ngồi xuống một chiếc ghế dài trên một lối dẫn vào vườn Bách thú của Central Park, nhìn sang bên kia lối đi trải sỏi, nơi có mấy đứa bé với các cô giữ trẻ và dăm ba người lớn ngồi đọc sách trong bóng dâm hay dưới nắng. Đi bộ lâu thấm mệt, song cô nàng vẫn móc túi lấy quyển nhật ký. Cô nàng mở quyển sổ đặt lên lòng, cầm cây bút như thể đó là thứ giúp trí óc vận động. Cách tốt nhất là đăm đăm nhìn ra đâu xa, làm ra vẻ đang bận tâm bận trí lắm. Bằng không, những người đàn ông lạ hay lân la tới tìm cách bắt chuyện. Quyển nhật ký là vật thiết thân vô cùng quan trọng của Ruth. Nó ghi giữ mọi chuyện.
Phía bên kia, ngang chỗ cô nàng ngồi có một bé gái lẫm chẫm bước ra ngoài tấm chăn, trên đó cô giữ trẻ đang nằm ngủ. Bé đi về hướng những bụi cây trồng thành hàng thấp viền quanh một triền đồi dốc, tiếp sau đó là hàng rào ngăn công viên với Fifth Avenue. Khi Ruth vừa định bước vào thế giới loài người, nơi cuộc sống của người này người kia bắt buộc phải va chạm vào nhau, bằng cách gọi cô giữ trẻ thì một sợi dây mỏng manh, mà Ruth không thấy được, đã báo động cho cô giữ trẻ thức giấc. Cô lập tức ngồi bật dậy, quát gọi, bảo bé quay về ngay.
Những lúc như thế này Ruth thấy nơi những cô bé đã lớn lên rồi già đi một thứ mẫu tự viết bằng mật mã bí ẩn đối với hầu hết những cô bé không có diễm phúc đó. Cuộc đời của họ không hiểu sao có những mối liên hệ chồng chéo khó gỡ với cuộc đời những cô gái bị ám hại. Đúng lúc cô giữ trẻ thu dọn mọi thứ vào túi, cuộn chăn lại chuẩn bị cho công việc tiếp theo trong ngày thì Ruth trông thấy nó - một bé gái vào một hôm nào đó lạc trong bụi rậm rồi mất tích luôn.
Mớ quần áo cho Ruth thấy chuyện xảy ra không lâu, song cô nàng chỉ biết đến thế thôi. Ngoài không có gì hết: không có cô giữ trẻ hay bà mẹ nào, chuyện xảy ra vào ban đêm hay ban ngày, chỉ biết có một bé gái mất tích.
Tôi ngồi lại với Ruth. Cô nàng ghi vào quyển nhật ký mở sẵn: “Lúc mấy giờ? Bé gái ở C.P(3). Đi về hướng các bụi cây. Cổ áo đăng-ten trắng, kiểu cọ.” Cô nàng gập nhật ký lại cho vào túi xách. Cách đấy không xa có một chỗ cho cô nàng tìm an ủi: chuồng chim cánh cụt trong Vườn Thú.
Chúng tôi ở bên nhau trong suốt buổi trưa hôm ấy, Ruth ngồi trên ghế lót thảm kê dài dọc theo chuồng chim, bộ quần áo tuyền một màu đen nên nếu ai khác trong phòng nhìn thì chỉ thấy gương mặt và hai bàn tay cô nàng. Lũ chim cánh cụt đi lắc lư, kêu quang quác rồi lặn xuống nước; chúng trượt trên vách đá trông lóng ngóng vụng về một cách dễ thương. Nhưng dưới nước chúng di chuyển hệt như những khối cơ bắp khoác áo đuôi tôm. Lũ trẻ hò la, gí sát mặt vào kính. Ruth đếm người sống như đếm người chết. Trong khuôn viên chật chội của chuồng chim cánh cụt, tiếng hò la của bọn trẻ vang dội trùm lấp cho phép cô nàng khỏi phải nghe thứ tiếng gào thét kia trong một khoảnh khắc.
Cuối tuần ấy em trai tôi vẫn dậy sớm như mọi ngày. Em đang học lớp bảy, tự mua bữa ăn trưa trong trường. Em tham gia nhóm Luyện tập Tranh luận và, tương tự như Ruth trước kia, cu cậu là người cuối cùng hoặc áp chót được tuyển vào đội thể dục. Em không phải con người ham thể thao như Lindsey. Thay vào đó em hay làm những việc mà bà ngoại Lynn gọi là “nhằm gây ấn tượng”. Cô giáo em mến nhất đúng ra không thật là cô giáo, mà là thủ thư của thư viện nhà trường, một bà cao lớn ốm yếu tóc xoăn hay uống trà đựng trong bình thủy và kể rằng hồi trẻ bà sống bên Anh. Sau đó em nói pha giọng Anh mất vài tháng và tỏ vẻ chú tâm khi cùng em gái tôi ngồi xem vở kịch “Những kiệt tác sân khấu.”
Năm ấy, khi em hỏi có được sử dụng mảnh vườn ngày trước mẹ vun bón không thì bố bảo: “Được chứ, Buck, cho con tha hồ tung hoành.”
Thế là em ra tay. Em làm quần quật phờ phạc cả người, tối nào không ngủ được em lật cuốn danh mục cũ các hàng mẫu của công ty Burpee và đọc hết loạt loại sách về làm vườn thư viện trường có sẵn. Khi bà ngoại tôi gợi ý nên trồng xen vài luống mùi tây với húng quế, còn anh Hal đề nghị “vài loại rau cải nhất thiết phải có” như cà, dưa tây, dưa chuột, cà rốt và đậu thì em trai tôi thấy cả hai người đều có lý.
Em không vừa lòng với những gì đọc được trong sách. Em chẳng thấy có lý do nào để phải trồng hoa, cà chua và rau thơm tách riêng mỗi thứ một góc. Với chiếc thuổng em soi đất rải hạt dần dà kín cả mặt vườn, mỗi ngày em xin bố tôi mua thêm hạt giống mang về, hoặc em tháp tùng bà ngoại Lynn tới siêu thị, phần thưởng cho công em sốt sắng khuân đồ là được ghé lại một vườn cây để mua một chậu hoa nhỏ. Bây giờ em chỉ còn việc chờ cho cà chua ra trái, cúc xanh, hoa dã yên, hoa păng-xê và đủ loại hoa xô đỏ nở rộ. Em biến pháo đài thành kho chứa dụng cụ làm vườn và phụ tùng linh tinh.
Nhưng bà ngoại tôi biết phải chờ đến thời điểm em nghiệm ra rằng tất cả mọi loại cây không thể mọc lên cùng một lúc được, một số hạt giống không thể đâm chồi được vào một thời điểm nào đấy, rằng những dây leo mịn lông tơ của giàn dưa chuột không lớn lên được vì bị khối dễ ngầm của cà rốt và khoai tây mọc lan tràn cản trở, rằng ngò tây có thể bị đám cỏ dại lì lợm hơn lấn át, lại còn sâu bọ nhấm nát những cánh hoa non yếu. Nhưng bà kiên nhẫn chờ. Bà không tin có thể dùng lời nói để thuyết phục. Chẳng cứu vãn được gì. Ở tuổi bảy mươi bà dần chỉ còn tin vào sức thuyết phục của thời gian.
Buckley đang lôi một thùng quần áo lấy từ dưới hầm vào bếp thì bố tôi từ trên lầu đi xuống để uống cà phê.
“Này, tìm ra món gì thế, anh nông dân Buck?” bố tôi hỏi. Buổi sáng tinh thần ông bao giờ cũng phấn chấn.
“Con định cắm cọc buộc cây cà chua,” em tôi đáp.
“Đã đâm chồi rồi à?”
Bố tôi đứng trong bếp, choàng chiếc áo khoác xanh, đi chân đất. Bố rót cà phê từ máy pha sáng sáng bà ngoại Lynn vẫn đặt, uống từng ngụm, đưa mắt nhìn con trai.
“Con vừa mới thấy,” em trai tôi hớn hở đáp. “Chúng trồi lên khum khum như mấy ngón tay.”
Mãi đến lúc ông đứng bên quầy bếp lặp lại cách em tả cây này với bà ngoại Lynn, bố tôi mới nhìn qua khung cửa sổ trông ra vườn, thấy em trai tôi lôi từ thùng ra những thứ gì. Đó là quần áo của tôi. Mớ quần áo mà Lindsey đã lục tìm xem em dùng lại được thứ nào.Mớ quần áo mà bà ngoại tôi, khi vào ở trong phòng tôi , đã đợi bố tôi đi làm rồi mới đem đóng thùng. Bà chỉ dán lên thùng một mẩu nhỏ ghi GIỮ LẠI rồi đem xuống hầm.
Bố tôi đặt tách cà phê xuống. Bố ra chỗ hàng hiên có che lưới muỗi gọi Buckley.
“Gì thế, bố?”, nghe giọng bố tôi gọi em đã thấy có gì lạ.
“Đây là quần áo chị Susie,” bố tôi nói với giọng điềm tĩnh khi ra chỗ em đứng.
Buckley nhìn cái áo bằng vải màu sẫm kẻ ô của tôi mà em đang cầm trong tay.
Bố tôi bước lại, cầm lấy cái áo trên tay em trai tôi rồi, không nói năng gì, ông thu nhặt mớ còn lại Buckley để xếp lớp trên bãi cỏ. Lúc ông câm nín quay đi định đi vào nhà, thở một cách khó khăn, tay ôm mớ quần áo của tôi thì lửa bùng lên.
Tôi là người duy nhất thấy sắc mặt em biến đổi. Chỗ sát vành tai, trên gò má và ở cằm em ửng màu cam, hơi đỏ.
“Tại sao con không được lấy dùng?” em hỏi.
Câu hỏi như một quả đấm giáng vào lưng bố tôi.
“Tại sao con không được lấy những quần áo đó để cột cây cà chua?”
Bố tôi xoay người lại. Bố thấy con trai bố đứng đó, sau lưng em là khoảng đất được xới gọn ghẽ với những mầm non nhỏ xíu chớm nhú. “Sao con lại có thể hỏi bố câu đó được?”
“Bố phải chọn lựa. Như thế là không công bằng,” em trai tôi nói.
“Buck, con nói gì thế?” Bố tôi ghì chặt áo quần tôi vào ngực.
Tôi thấy Buckley tóe lửa, sáng loà. Sau lưng em là vầng nắng lóa của bờ giậu cúc vàng, đã cao gấp đôi so với ngày tôi mất.
“Con chán lắm rồi!” Buckley gào lên. “Bố của Keesha cũng chết mà nó vẫn bình thường có sao đâu!”
“Keesha là bạn cùng trường con à?”
“Vâng!”
Bố tôi lạnh cả người. Ông cảm thấy những hạt sương đọng trên mắt cá chân và hai bàn chân trần, cảm nhận mặt đất dưới chân ông lạnh toát và ướt át hình như đang rung chuyển.
“Bố đâu có biết. Mất hồi nào?”
“Đâu phải chuyện đó, bố à! Bố chẳng hiểu gì cả.” Buckley xoay người rồi lấy chân giẫm nát mấy chồi cà chua non nớt.
“Buck, ngừng ngay!” bố tôi kêu lên.
Em trai tôi quay lại.
“Bố chẳng hiểu gì hết,” em nói.
“Bố rất tiếc,” bố tôi nói. “Đây là áo quần của chị Susie, bố chỉ…Có thể làm thế vô nghĩa thật, nhưng đó là của chị con…những thứ chị con từng mặc.”
“Bố đã lấy mất chiếc giày, phải không?” Buckley hỏi. Em đã nín khóc.
“Lấy cái gì?”
“Bố đã lấy mất chiếc giày. Bố vào phòng con lấy chiếc giày đi.”
“Buckley, bố chẳng hiểu con nói gì.”
“Con đem cất chiếc giày lấy trong hộp trò chơi Monopoly, sau nó biến đâu mất. Bố lấy đi rồi. Bố làm như chị con là của riêng bố!”
“Giải nghĩa cho bố hiểu con muốn nói gì. Chuyện này có dính dáng gì đến ông bố cô bạn Keesha của con?”
“Bố bỏ mấy thứ đó xuống đi đã.”
Bố tôi thận trọng đặt chúng xuống đất.
“Con không nói về chuyện ông bố Keesha đâu.”
“Vậy thì về chuyện gì.” Bố tôi tỉnh hẳn ra. Ông trở lại giường bệnh, nơi ông hồi tình khỏi giấc ngủ hôn mê gây ra do thuốc giảm đau sau lần giải phẫu đầu gối, thấy thằng con năm tuổi ngồi bên cạnh, chờ ông chớp mắt để kêu: “Ú oà, bố!”
“Chị con chết rồi mà.”
Câu nói cứ làm ông đau đớn mãi. “Bố biết.”
“Nhưng bố không làm như thế. Bố Keesha mất lúc nó lên sáu. Keesha bảo nó chẳng mấy khi nghĩ đến ông ấy nữa.”
“Rồi sẽ có lúc thôi,” bố tôi nói.
“Thế còn tụi con?”
“Con nói ai?”
“Hai đứa con, bố ơi. Con và chị Lindsey. Mẹ bỏ đi chỉ vì mẹ hết chịu nổi”
“Bình tĩnh nào, Buck,” bố tôi nói. Ông sẵn sàng để nghe thêm nhưng khí trong phổi của ông bốc hơi dồn sang lồng ngực. Rồi ông nghe có tiếng nói khẽ vẳng bên tai: buông ra đi, buông đi, thả ra. “Cái gì?” bố tôi hỏi.
“Con có nói gì đâu.”
Buông ra đi, buông đi, thả ra.
“Bố xin lỗi nhé,” bố tôi nói. “Bố thấy trong người không được khoẻ.” Hai bàn chân ông giẫm trên mặt cỏ ướt sương giờ cóng không chịu nổi. Ông thấy lồng ngực như lõm sâu vào, tiếng ruồi bọ vo ve bay quanh một cái hố mới đào. Trong lòng hố có tiếng vang dội lại làm ù tai ông. Buông ra đi.
Hai đầu gối bố tôi khuỵu xuống. Cánh tay thõng hờ xuống như khi bị gây mê. Ông cảm thấy như có kim châm suốt dọc cánh tay. Em trai tôi chạy bổ lại.
“Bố sao vậy?”
“Con!” Giọng ông run rẩy, ông quờ quạng nắm tay em.
“Con đi gọi bà ngoại.” Buckley chạy đi.
Bố tôi lả người nằm xuống đất, mặt nghiêng về phía mớ áo quần của tôi, ông thều thào: “Bố mẹ không chọn con cái bao giờ. Bố thương đều cả ba đứa các con mà.”
Tối hôm ấy bố tôi nằm trong nhà thương, người đầy dây ống nối với các màn hình phát ra tiếng píp píp hoặc kêu ro ro. Tôi có thời gian để một mình quanh quẩn bên chân và cột xương sống của bố, để vỗ về và dẫn bố đi. Nhưng biết đi đâu?
Chiếc đồng hồ trên đầu giường cứ mỗi phút lại kêu tích tắc. Tôi nhớ đến trò chơi mà Lindsey và tôi vẫn chơi trong vườn: “Bố yêu ta, bố không yêu ta,” vừa nói vừa ngắt một cánh hoa(4) cúc. Tôi nghe tiếng đồng hồ, rập cùng nhịp ngắt mỗi cánh hoa, ném tung qua tung lại cho tôi hai điều mơ ước lớn nhất của riêng tôi: Bố chết vì con/ đừng chết vì con/ bố chết vì con/ đừng chết vì con.” Tôi như cứ muốn dày vò quả ti đang thoi thóp của bố. Nếu bố chết, tôi sẽ có bố bên mình mãi mãi. Ước mơ như thế có gì là sai quấy không?
Ở nhà, Buckley nằm trong bóng tối, trùm chăn kín tận cằm. Em không được phép vào phòng cấp cứu, nơi Lindsey chở em đến, sau khi chạy theo xe cứu thương hụ còi chở bố tôi. Em trai tôi cảm thấy một gánh nặng kinh khủng đè trên em qua sự im lặng của Lindsey. Em gái tôi hỏi đi hỏi lại hai câu này: “Em với bố nói chuyện gì? Sao bố lại xúc động đến thế?”
Nỗi lo sợ lớn nhất của em là người em yêu quý nhất trên đời lại ra đi. Em thương Lindsey và bà ngoại Lynn, thương Samuel và anh Hal, nhưng bố là người khiến em bước rón rén, em, cậu con trai sáng và tối nào cũng trông chừng bố, như thể nếu không thường xuyên cảnh giác em sẽ mất bố ngay.
Hai chúng tôi - đứa con quá cố và đứa con còn sống - đứng hai bên giường bệnh của bố và cùng mong muốn một điều: được có bố ở bên mình mãi mãi. Làm vừa lòng cả hai đứa chúng tôi là một điều bất khả đối với ông.
Với Buckley, chỉ có hai lần trong đời em là bố tôi hụt không có mặt lúc em đi ngủ. Một lần vào buổi tối lúc ông chạy ra cánh đồng ngô lùng tìm tên Harvey, và lần này nữa là hai, ông nằm lại để bệnh viện theo dõi đề phòng trường hợp bị nhồi máu cơ tim lần nữa.
Buckley biết mình quá tuổi cần bố, song tôi thông cảm với em. Hôn hít và chúc con cái một giấc ngủ ngon là việc ông là việc ông là xuất sắc hơn bất cứ ai khác. Lúc ông đứng ở chân giường, sau khi đã thả mành mành xuống rồi lấy tay vuốt để kiểm xem lá mành đã nằm xuôi xuống cả chưa - không lá nào được phép lật ngược để ánh nắng chiếu vào cậu con trai cưng trước khi ông vào đánh thức em - thì tay chân em trai tôi thường nổi da gà. Cứ nghĩ đến trò chơi sắp tới là đủ thấy mê tơi.
“Buck, sẵn sàng chưa?” bố tôi hỏi, lúc thì Buckley đáp: “Sẵn sằng”, lúc lại hô: “Cất cánh”, nhưng khi nào em phấp phỏng, bồn chồn mong cho xong thì em đáp gọn lỏn: “Rồi!” Bố tôi sẽ túm tấm khăn đắp bằng vải bông mỏng, cẩn thận lấy ngón tay cái và ngón trỏ giữ lấy hai góc. Rôi bố tôi sẽ hất mạnh lên, khiến tấm khăn màu xanh nhạt(nếu là của Buckley) hoặc màu tím hoa oải hương(nếu là của tôi) phồng lên như chiếc dù, rồi nhẹ nhàng hạ xuống, phủ lên những chỗ da phơi ra: đầu gối, cánh tay, hai gò má và cằm. Không khí và tấm chăn trùm lên em một lúc, em thấy được tự do vô hạn đồng thời lại được che chở ấp ủ. Cảm giác tuyệt vời khiến em trở nên yếu mềm run rẩy, chỉ dám mong là nếu mở lời nài nỉ ông sẽ chiều em làm lại lần nữa. Không khí và chăn, không khí và chăn - cột chống giữ vững mối quan hệ không diễn đạt bằng lời giữa một cậu bé con và một người đàn ông bị tổn thương.
Đem hôm đó em nằm, đầu đặt trên gối, cuộn tròn, tư thế như khi ở trong bào thai. Em không nghĩ tới chuyện tự buông mành mành, ngoài kia ánh đèn hàng xóm điểm những đốm sáng trên sườn đồi. Từ đầu này em đăm đăm nhìn những cánh cửa chớp của chiếc tủ áo, lắp sâu vào mặt tường đối diện, ngày còn nhỏ em vẫn tưởng tượng bọn phù thuỷ gian ác nhốt trong đó sẽ tìm cách thoát ra để nhập bọn với lũ rồng dưới gầm giường. Bây giờ em không còn sợ những chuyện như thế nữa.
“Chị Susie ơi, xin đừng để bố chết,” em thì thầm. “Em cần bố lắm.”
Giã từ cậu em trai, tôi đi ngang qua tòa vọng lâu, bước tiếp dưới hàng đèn giăng giăng như chùm dâu, đi một quãng nữa thì đến chỗ có nhiều lối đi lát gạch rẽ ra nhiều hướng.
Tôi đi đến cuối đoạn đường lát gạch, sau đó là quãng đường lót đá tảng, rồi chỉ còn đường mòn lổn nhổn đá sắc cạnh, cuối cùng quanh tôi chỉ còn là vùng đất bị xới tung trải mênh mông nhiều dặm dài. Tôi đứng đấy. Tôi sống ở thiên đường đã khá lâu nên hiểu là mình sắp được biết một điều bí ẩn nào đó. Lúc nắng tắt và bầu trời tối dần chuyển sang màu xanh xẫm dịu dàng như buổi tối ngày tôi chết, tôi chợt thấy có bóng người thấp thoáng, còn khá xa nên lúc đầu tôi không nhận ra là đàn ông hay đàn bà, trẻ con hay người lớn. Nhưng khi ánh trăng soi tỏ bóng người ấy, tôi ngờ ngợ nhận ra đó là ai, tâm thần hoảng loạn, tôi thở như hụt hơi, hộc tốc chạy lại gần để nhận dạng. Phải bố tôi đó không? Phải chăng điều lâu nay tôi hằng ao ước một cách vô vọng đã thành sự thực?
“Susie ơi”, người đó nói lúc tôi chạy trờ tới và đứng lại cách chỗ ông ta đứng vài bước. Ông ta dang hai tay đón tôi.
“Cháu nhớ ra chưa?”, người ấy hỏi.
Tôi thấy mình đột nhiên bé lại, ở tuổi lên sáu, đang ở trong phòng sinh hoạt gia đình ở bang Illinois. Bây giờ, tôi cũng làm y như hồi ấy, tôi đứng giẫm lên hai bàn chân ông.
“Ông nội ơi,” tôi gọi.
Không có ai khác ngoài hai ông cháu trên thiên đường, người tôi lại nhẹ bẫng cứ lướt nhẹ nhàng như hồi mới lên sáu, còn ông lúc đó năm mươi sáu tuổi, ngày bố tôi đưa chúng tôi về thăm. Hai ông cháu khiêu vũ thật chậm theo một bài hát cứ làm ông mủi lòng hoài hồi còn ở dương thế.
“Cháu nhớ ra không?”, ông hỏi.
“Barber(5)!”
“Tấu khúc cho vĩ cầm,” ông nói.
Trong khi hai ông cháu khiêu vũ và lượn vòng - không bước kiểu giật nhịp rắc rối làm trẹo chân như ở trần thế - điều tôi nhớ lại là có lần thấy ông rơi lệ khi nghe bản nhạc này, nên hỏi ông nguyên do.
“Đôi khi mình khóc, Susie à, dẫu rằng người mình yêu thương đã ra đi từ lâu lắm rồi.” Rồi ông ôm tôi vào lòng, chỉ một thoáng ngắn ngủi thôi, thế rồi tôi chạy ra chơi đùa tiếp với Lindsey trên bãi đất hình như là khu vườn thênh thang của ông nội.
Hai ông cháu không nói năng gì thêm trong đêm hôm đó mà chỉ khiêu vũ hàng giờ liền trong ánh sáng xanh biếc không rõ vào ban ngày hay ban đêm ấy. Tôi biết trong lúc hai ông cháu đang nhảy thì dưới trần và trên thiên đường đang xảy ra chuyện gì đấy. Một hiện tượng trôi trượt. Một chuyển động đang chậm đột ngột tăng gia tốc như chúng tôi được học trong giờ khoa học tự nhiên năm nào. Chấn động địa chấn ư, chuyện không thể có được, hay hiện tượng không gian và thời gian nổ tung tách rời khỏi nhau. Tôi nép vào ngực ông, hít ngửi thứ mùi đặc biệt của người già, tương tự mùi của bố tôi cộng thêm mùi băng phiến, mùi máu chốn trần ai, khung trời trên thiên đường. Qủa quất vàng, con chồn hôi, thuốc lá loại hảo hạng.
Khi dứt tiếng nhạc thì tưởng như cả một khoảng thời gian vô tận đã trôi qua từ khi hai ông cháu bắt đầu khiêu vũ. Ông nội tôi lùi lại một bước, vùng ánh sáng sau lưng ông chuyển sang màu vàng.
“Ông đi đây,” ông nói.
“Ông đi đâu cơ?”, tôi hỏi.
“Đừng lo, bé yêu. Cháu luôn ở bên ông.”
Ông quay người bước đi, biến mất thật nhanh trong bụi vũ trụ và vô vàn đốm sáng. Cõi vô biên.
(Hết chương 18)
_____________________
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
Sáng hôm ấy, khi đến hãng rượu vang Krusoe mẹ tôi thấy có mẩu giấy nhắn tin ghi tháu bằng thứ tiếng Anh chệch choạc mà tay quản đốc để lại cho bà. Chữ cấp cứu viết khá rõ, thế là bà bỏ nghi thức mỗi sáng sớm pha cà phê uống, đứng nhìn ra hàng dãy cây nho, cành lá leo quanh những cây cọc hình chữ thập vững chãi sơn màu trắng. Bà mở cửa vào phòng dành làm nơi mời khách thử rượu. Không bật đèn trần, bà cũng xác định được chỗ để cái máy điện thoại sau quầy rượu bằng gỗ, bà quay số Pennsylvania. Không ai nhấc máy.
Bà mới gọi tổng đài Pennsylvania, hỏi số điện thoại của Tiến sỹ Akhil Singh.
“Đúng thế,” bà Ruana nói, “Cháu Ray với tôi có thấy xe cứu thương chạy qua nhà cách đây vài tiếng đồng hồ. Hẳn là mọi người đang ở cả trong bệnh viện.”
“Ai bệnh vậy chị?”
“Chắc là bà cụ đấy?”
Nhưng qua lời nhắn bà biết chính bà ngoại đã gọi điện đến đây. Chỉ có thể là một trong hai đứa nhỏ hoặc là Jack. Bà cảm tạ bà Rauna rồi gác máy. Bà lôi chiếc điện thoại màu đỏ nặng chịch từ ngăn dưới đất đặt lên mặt quầy rượu. Xấp giấy nhiều màu để phân phát cho khách, chặn dưới máy điện thoại - “Màu vàng chanh = Sâm banh từ nho Young Chardonnay, Màu vàng rơm =rượu từ nho Sauvignon Blanc…” - rơi tung tóe quanh chân bà. Từ khi nhận việc làm ở đây bao giờ bà cũng đến sớm, lúc này bà mới thấy biết ơn là nhờ thế mà được việc. Sau đó, bà moi óc cố nhớ lại tên các bệnh viện địa phương, bà gọi đến mọi chỗ bà từng cuống quít đưa con đến khi chúng lên cơn sốt không rõ nguyên do, hay trượt ngã không rõ có bị gãy xương hay không. Lúc gọi đến bệnh viện nơi tôi từng đưa Buckley đến thì bà được trả lời: “Có một ông Jack Salmon được đưa vào cấp cứu, hiện vẫn còn nằm lại đây.”
“Bà cho tôi biết có chuyện gì xảy ra được không ạ?”
“Bà quan hệ thế nào với ông Salmon?”
Bà nói một câu đã nhiều năm nay không nói: “Tôi là vợ ông ấy.”
“Ông nhà bị nhồi máu cơ tim.”
Bà gác máy rồi ngồi bệt xuống tấm thảm làm bằng hợp chất cao-su và vỏ bần, trái bên phía nhân viên hãng rượu đứng tiếp khách. Bà ngồi mãi ở đấy cho tới lúc tay trưởng ca tới và bà lặp đi lặp lại những chữ bà thấy lạ tai: chồng, cơn nhồi máu cơ tim.
Mãi một lúc sau, khi ngước mắt nhìn lên, bà thấy mình đang ngồi trong chiếc xe giao hàng của viên quản đốc, và người đàn ông trầm lặng hiếm khi rời trang trại nho này đang lái xe như bay trực chỉ sân bay quốc tế San Francisco.
Bà mua vé lấy chuyến bay trước tiên đi Chicago, từ đó đổi sang tuyến khác đưa bà đến Philadelphia. Khi may bay cất cánh, lên cao dần, nhìn ra chỉ còn thấy mây trời, bà nghe loáng thoáng tiếng chuông hiệu nhắc nhở phi hành đoàn thi hành hay chuẩn bị gì đó, nghe tiếng xe đưa nước giải khát đẩy qua kêu lanh canh, nhưng bà không thấy những người đồng hành mà lại thấy vòm cửa bằng đá mát lạnh ở nhà máy rượu vang, phía sau vòm cửa có để một lô thùng chứa rượu bằng gỗ sồi còn rỗng, và thay vì nhìn thấy những người đàn ông ngồi đó tránh nắng bà tưởng như thấy bố tôi, tay cầm cái tách sứ sứt quai hiệu Wedgwood đưa cho bà.
Lúc xuống máy bay ở Chicago, phải đợi ở đó hai tiếng đồng hồ, thì bà đã kịp định thần lại, tìm mua bàn chải đánh răng, bao thuốc lá và quay số điện thoại bệnh viện, lần này bà yêu cầu nói chuyện với bà ngoại Lynn.
“Mẹ à,” mẹ tôi nói. “Con hiện ở Chicago, sắp đến nhà rồi.”
“Lạy Chúa, Abigail ơi,” bà ngoại nói. “Mẹ gọi đến hãng Krusoe lần nữa, họ bảo con đang trên đường ra sân bay.”
“Nhà con ra sao hở mẹ?”
“Anh ấy bảo muốn gặp con.”
“Lũ trẻ đang ở đó phải không ạ?”
“Ừ. Cả Samuel nữa. Mẹ định hôm nay gọi kể cho con biết chuyện Samuel hỏi cưới Lindsey đấy.”
“Thế thì tuyệt quá,” mẹ tôi nói.
“Abigail này.”
“Sao mẹ?” Bà nghe bà ngoại ngần ngừ, một điều hiếm thấy.
“Jack còn bảo muốn thấy Susie nữa.”
Vừa bước ra khỏi sân bay ở O’Hare bà châm ngay một điếu thuốc. Một đám học sinh vai đeo túi du lịch nhỏ, tay xách hộp đựng nhạc cụ bên hông có dán bản màu vàng chói lũ lượt xô đẩy nhau đi vượt qua bà. Trên bảng tên là hàng chữ QUÊ NHÀ CỦA NHỮNG NGƯỜI ÁI QUỐC(1).
Khí hậu ở thành phố Chicago oi bức và ẩm ướt, khói xả ra từ số lượng xe, nhiều đến nỗi phải đậu thành hai dãy, làm bầu không khí vốn nặng nề khó thở ngày càng thêm độc hại.
Bà hút tàn điếu thuốc trong thời gian kỷ lục rồi châm tiếp điếu thứ hai, một cánh tay ép ngang ngực, tay kia duỗi ra theo mỗi đợt phả khói. Bà khoác trên người bộ đồng phục của hãng: quần jeans tuy bạc màu nhưng giặt sạch, áo thun ngắn tay màu cam nhạt thêu hàng chữ HÃNG RƯỢU VANG KRUSOE phía trên túi áo. Nước da bà giờ ngăm ngăm đậm hơn xưa khiến màu xanh nhạt của mắt bà do tương phản trông như xanh sẫm hơn. Bà cũng đã quen cột tóc kiểu đuôi ngựa để trễ xuống gáy. Tôi thấy cả vài lượt tóc màu muối lẫn tiêu bên vành tai và thái dương bà.
Bà giữ chặt hai chiếc đồng hồ cát(2) và tự hỏi tại sao lại có thể như thế được. Phần thời gian bà giành được cho riêng mình sẽ bị giới hạn, như do định luật về trọng lực, khi những mối dây liên hệ gia đình kéo bà trở lại. Giờ đây chúng đang kéo bà - bằng cả hai tay. Cuộc hôn nhân. Cơn nhồi máu cơ tim.
Vẫn đứng bên ngoài khuôn viên phi trường, bà thò tay vào túi sau quần jeans tìm chiếc ví loại đàn ông bà quen mang từ khi vào làm ở Krusoe, tiện hơn là cứ phải tìm chỗ cất xách tay dưới quầy rượu. Bà ném điếu thuốc xuống làn đường dành cho xe taxi đậu rồi quay vào tìm chỗ ngồi lên bệ một ụ bê-tông chứa đất, trong đó cỏ dại mọc đầy quanh một cây con èo uột vì khói xe.
Trong ví bà có nhiều tấm ảnh ngày nào bà cũng lấy ra nhìn. Nhưng có một tấm bà lật úp, nhét vào ngăn để thẻ tín dụng. Đó la bức ảnh lưu giữ trong thùng tang vật ở đồn cảnh sát, cũng chính là ảnh Ray kẹp trong quyển thơ Ấn Độ của bà mẹ cậu. Đó là tấm ảnh để dán sổ lưu niệm lớp tôi, đã từng được đưa lên báo, in trên cáo thị của cảnh sát và bỏ vào hộp thư mọi nhà.
Sau tám năm mà ngay cả với mẹ tôi, tấm ảnh vẫn giống loại chân dung mà đi đâu cũng thấy của một nhân vật lừng danh nào đấy. Bà phải đương đầu với cảm tưởng này quá nhiều lần, nên tôi bị nhét gọn chôn luôn trong đó. Chẳng có tấm ảnh nào mà hai gò má hồng rựng, mắt tôi xanh biếc như trên tấm ảnh này.
Bà rút tấm ảnh ra, lật mặt lên giữ trong lòng bàn tay hơi khum lại. Bà vẫn nhớ mãi hàm răng tôi - nhỏ và tròn, bờ răng nhấp nhô như răng cưa làm bà hân hoan, ngạc nhiên vì thấy tôi lớn lên. Tôi đã hứa với bà lần chụp ảnh năm ấy sẽ nhe răng cười rõ tươi, song đứng trước ông thợ ảnh tôi lại ngượng đến nỗi nhếch mép cười cũng không nổi.
Bà nghe tiếng loa thông báo về chuyến bay chuyển tiếp của mình. Bà đứng lên. Nhìn quanh, bà thấy cái cây non còi cọc. Bà đặt tấm chân dung chụp cho sổ lưu niệm lớp tôi tựa vào đấy rồi hấp tấp đi qua mấy lớp cửa tự động.
Trên chuyến bay về Philadelphia, bà ngồi một mình ở ghế giữa hàng ghế ba chỗ. Tự động bà nghĩ ngay rằng nếu mình là một bà mẹ đi du lịch thì hai ghế kia sẽ có người ngồi. Một ghế cho Lindsey. Một cho Buckley. Tuy theo định nghĩa bà là một bà mẹ, nhưng một lúc nào đấy bà đã thôi không còn là người mẹ nữa rồi. Bà không thể đòi có quyền và đặc ân ấy sau hơn nửa thập kỷ không có mặt trong cuộc đời của những đứa con. Giờ đây bà hiểu rằng làm mẹ là một thiên chức mà biết bao cô gái mong ước. Nhưng mẹ tôi chưa hề có ước mơ đó, và bà bị trừng phạt một cách kinh hoàng nhất, không tưởng tượng nổi, vì đã không hề mong muốn có tôi.
Tôi nhìn bà đang ngồi trong máy bay và tôi gửi vào đám mây lời cầu xin cho bà được giải thoát. Người bà càng lúc càng trĩu xuống vì lo sợ những gì sắp đến, song trong cảm giác nặng nề ấy cũng có gì đó làm nhẹ lòng. Cô tiếp viên đưa bà chiếc gối nhỏ màu xanh, và bà thiếp đi được một lúc.
Đến Philadelphia, khi máy bay lăn trên đường băng, bà mới sực nhớ mình đang ở đâu và bây giờ là năm nào. Bà hấp tấp điểm qua những gì sẽ nói khi gặp lại các con mình, bà mẹ và Jack. Cuối cùng khi những câu dự kiến kia run rẩy ngưng đọng lại, bà đành bỏ cuộc, chỉ tập trung vào việc ra khỏi máy bay.
Bà gần như không nhìn ra đứa con ruột thịt đang đứng chờ cuối lối đi dài. Trong những năm tháng vừa qua, vóc người Lindsey trông xương xương, thanh mảnh, không còn tí nào nét bụ bẫm thời bé. Cạnh em gái tôi là một cậu trông như anh trai song sinh. Cao lớn hơn, gân guốc hơn một chút. Samuel. Bà chú mục nhìn hai cô cậu, và hai người cũng chăm chăm nhìn lại, nên thoạt đầu bà không chú ý đến cậu trai đẫy đà ngồi tránh sang một bên, trên tay vịn của một trong những chiếc ghế đặt thành dãy trong phòng đợi.
Rồi, khi dợm bước về phía chúng - trong mấy giây phút đầu bà cảm tưởng chúng bất động, cứng đờ như thể bị giam trong một khối chất keo đặc sệt, và chỉ khi bà cất bước chúng mới thoát ra được - thì bà nhìn thấy Buckley.
Bà đặt chân bước xuống lối đi trải thảm. Bên tai bà văng vẳng những tiếng loa thông báo trong phi trường, mắt bà thấy các hành khách khác đang chào hỏi nhau, rảo bước vượt qua bà. Khi nhìn ra Buckley thì bà như bước vào một phi thuyền bay ngược thời gian. Năm 1944 ở Camp Winnekukka. Hồi đó bà mười hai tuổi, má phính, cặp đùi mập tròn - những gì các con gái bà may mắn tránh được thì cậu con trai phải hứng cả. Bà đã vắng mặt quá nhiều năm tháng, quãng thời gian mất mát quá dài không bao giờ bà có thể cứu vãn được.
Nếu bà cũng đếm, như tôi đang làm, thì hẳn bà biết rằng với bảy mươi ba bước chân bà đã hoàn tất một việc mà suốt gần bảy năm qua bà quá sợ mình sẽ không làm nổi.
Em gái tôi là người lên tiếng trước nhất.
“Mẹ”, nó gọi.
Mẹ tôi nhìn Lindsey và thoắt một cái, từ cô bé đơn độc ở Camp Winnekukka bà vọt qua ba mươi tám năm.
“Lindsey”, mẹ tôi nói.
Lindsey đăm đăm nhìn bà. Buckley giờ đã đứng lên, nhưng mới đầu em nhìn xuống đôi giày rồi ngoái đầu qua cửa kính chỗ có những chiếc máy bay đang đậu, nhả hành khách vào những đường ống gấp khúc như đàn phong cầm.
“Bố ra sao hả con?”, bà hỏi.
Em gái tôi thốt ra được tiếng mẹ rồi đứng như đóng băng. Chữ mẹ gây cho em cảm giác nếm phải xà phòng hay một vị lạ nào đó.
“Cháu thấy sức khỏe của bác trai không được khả quan lắm,” Samuel nói. Đó là câu nói dài nhất từ nãy đến giờ, và mẹ tôi thấy vô cùng cảm kích.
“Buckley đấy à!” bà gọi, nét mặt vẫn thường, không đổi. Bà vẫn là con người của ngày xưa - dù con người đó thế nào đi nữa.
Em quay đầu hướng về phía bà, trông như đang quay bệ chĩa nòng súng nhắm. “Buck”, em sửa lại.
“À, Buck”, bà khẽ lặp lại rồi cúi đầu nhìn đôi bàn tay mình.
Linsey suýt buột miệng hỏi. Nhẫn cưới của mẹ đâu rồi?
“Ta đi chứ?” Samuel hỏi.
Cả bốn người bước vào con đường hầm dài trải thảm dẫn từ cửa máy bay của bà đến khu trung tâm phi trường. Họ đang bước tới chỗ nhận hành lý ở tầng dưới thì mẹ tôi nói: “Mẹ không mang theo hành lý.”
Mọi người dừng lại, lúng túng. Samuel tìm biển chỉ đường, hướng mọi người quay lại nhà để xe.
“Mẹ ơi”, em gái tôi cố bắt chuyện.
“Ngày đó mẹ nói dối con đấy,” mẹ tôi nói ngay trước khi Lindsey kịp nghĩ nên nói gì thêm. Ánh mắt hai mẹ con gặp nhau và trong sợi dây nóng bỏng bắt từ người nọ qua người kia tôi thề là đã nhìn thấy điều đó, tương tự một con chuột bị rắn nuốt chửng nhưng chưa tiêu hóa làm bụng rắn gồ lên: đó là điều bí mật về ông Len.
“Ta lấy thang máy trở lên,” Samuel nói, “sau đó cứ đi theo lối chính dẫn qua hầm để xe.”
Samuel gọi Buckley đang tách ra hướng theo một toán sĩ quan an ninh phi trường. Những bộ đồng phục vẫn chưa mất đi sức hẫn dẫn đối với em.
Xe đã ra đến xa lộ khi Lindsey là người lên tiếng tiếp theo: “Họ sẽ không để cho Buckley vào phòng bố vì em chưa đủ tuổi.”
Mẹ tôi quay người nhìn ra hàng ghế sau. “Mẹ sẽ thử, xem có làm gì được không,” bà nói, nhìn Buckley nhoẻn miệng cười lần đầu tiên.
“Cóc cần”, em trai tôi lẩm bẩm trong miệng, không buồn nhìn lên.
Người mẹ tôi đông cứng lại. Chiếc xe nổ tung. Chất chứa oán hận và sự căng thẳng - một dòng thác cuồn cuộn máu phải bơi qua.
“Buck”, bà kịp nhớ ra tên tắt của nó, “ngước mặt lên nhìn mẹ xem?”
Mắt em tôi bắn tia nhìn sang hàng ghế trước, để cơn thịnh nộ xoáy sâu vào lòng bà.
Cuối cùng bà xoay người lại nhìn ra phía trước. Samuel, Lindsey và em trai tôi nghe từ chỗ bà ngồi những âm thanh mà bà cố đè nén không để bật ra: tiếng thút thít và tiếng nấc nghẹn. Nhưng không có lượng nước mắt nào đủ để lay chuyển Buckley. Nó đã tích trữ - ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, năm này qua năm khác - một kho ngầm tràn đầy căm hận. Ở một góc mãi cuối căm hầm có một cậu bé bốn tuổi đang ngồi với trái tim cứ chớp lóe lên từng chặp. Tim hóa thành đá. Tim hóa thành đá.
“Lát nữa thấy bác Salmon rồi cả nhà chắc chắn sẽ yên lòng thôi,” Samuel lên tiếng rồi nhổn tới bật đài phát thanh vì chính anh chàng cũng không chịu nổi bầu không khí trong xe.
Bệnh viện chính là nơi tám năm trước bà đã đến vào lúc nửa đêm khuya khoắt. Lần này là ở tầng khác, tường sơn màu khác, nhưng khi bước dọc hành lang bà cảm thấy chuyện cũ - những gì bà đã làm ở đây - vẫn giam hãm bủa vây bà. Toàn thân ông Len dấn tới, đẩy lưng bà ép vào bức tường trát vữa nham nháp. Mọi tế bào thân thể bà muốn vùng bỏ chạy - bay về California, trở về với cuộc sống lặng lẽ của bà, làm lụng vất vả giữa những người xa lạ. Trốn trong những hốc cây và những cánh hoa nhiệt đới, ẩn mình an toàn giữa bao thứ cây cỏ lạ lẫm và người dân tứ xứ.
Xương mắt cá chân và đôi giày thắt dây của bà ngoại mà bà nhìn thấy từ lúc còn đi ngoài hành lang đưa bà trở về với thực tại. Một trong những điều đơn giản bà đã đánh mất trong thời gian bỏ đi thật xa, chẳng hạn về điều bình thường như đôi bàn chân của bà ngoại - tuy còn vẻ vững chãi nhưng trông khôi hài quá - đôi bàn chân bảy mươi tuổi đời trong đôi giày trông tức cười và thiếu thoải mái.
Nhưng khi bà bước vào phòng thì mọi người kia - cậu con trai, cô con gái, hay bà mẹ của bà - đều như không có đó nữa.
Mắt bố tôi khép lờ đờ, nhưng nghe tiếng chân bà bước vào ông nhướn mắt, làn mi giật nhẹ. Ống tiếp thuốc và dây nhợ vương lòng thòng hai bên cổ tay và vai. Đầu ông trên chiếc gối nhỏ vuông vắn trông monh manh yếu ớt.
Bà nắm tay ông, lặng lẽ khóc, nước mắt rơi lã chã.
“Em đấy ư, đôi mắt đại dương,” bố nói.
Bà gật đầu. Người đàn ông suy sụp, thua cuộc này - chồng bà đây.
“Cô nàng tôi yêu đây rồi,” bố hắt ra nặng nhọc.
“Jack ơi.”
“Em thấy đó, để em chịu về lại anh đã phải ra nông nỗi này đây.”
“Có đáng không anh?” bà cười buồn, hỏi.
“Rồi thì ta sẽ biết thôi,” bố đáp.
Được thấy bố mẹ ở bên nhau, với tôi, cũng giống như biết điều mình tin là mong manh viển vông, thế mà rồi lại thành hiện thực.
Bố tôi nhìn thấy vài tia hi vọng yếu ớt, tương tự mấy vết có màu trong mắt mẹ tôi - những thứ ông bám víu vào. Ông gom chúng chung vào với những mảnh gỗ và tấm ván vỡ vụn còn sót lại từ một chiếc tàu và phải một khối gì đấy to hơn nên chìm lỉm, cách đây đã lâu rồi. Giờ ông chỉ còn trong tay những mảnh vỡ vụn và mẫu mã tự tạo lấy. Ông gượng giơ tay định sờ vào má bà nhưng cánh tay ông lả xuống. Bà cúi xuống áp má vào lòng bàn tay ông.
Bà ngoại tôi biết cách đi giày cao gót mà không gây tiếng động. Bà nhón gót lên, bước bằng đầu ngón chân ra khỏi phòng. Khi bà bước lại như bình thường và ra tới gần khu tiếp khách thì gặp cô y tá mang mẩu tin gửi ông Jack Salmon ở phòng 582. Bà chưa gặp mặt bao giờ, nhưng biết tên ông ta. “Len Fenerman, sẽ ghé thăm nay mai. Chúc ông bình phục.” Bà gấp gọn mẩu giấy. Trước khi gặp Lindsey và Buckley đã theo gót Samuel ra khu tiếp khách, bà bật nắp khóa chiếc xách tay, nhét mẩu giấy vào giữa hộp phấn và chiếc lược.
(Hết chương 19)
____________________
Chương hai mươi
Tối hôm ấy, lúc tên Harvey đến chỗ cái lán lợp tôn ở bang Connecticut thì trời sắp đổ mưa. Cách đây nhiều năm rồi, trong cái lán này hắn đã giết một cô gái chạy bàn rồi đi mua vài chiếc quần mới bằng mớ tiền hoa hồng móc được từ túi tạp dề của cô. Từ đó đến nay hẳn thi thể cô đã bị phân hủy hết rồi, và quả như thế thật, khi hắn chạy xe đến gần khu đất ấy thì không thấy phả lên mùi hôi thối nào. Nhưng cửa lán mở toang, đứng ngoài nhìn vào hắn thấy ngay là đất đã bị đào xới lên. Hắn hít vào một hơi rồi dò dẫm bước đến gần.
Hắn ngủ thiếp đi ngay bên cạnh ngôi mộ trống hoác của cô gái.
Vào một lúc nào đấy, tôi bắt đầu lên danh sách tên những người còn sống cho riêng mình, để tạo đối xứng với danh sách người chết. Tôi nhận ra rằng ông Len Fenerman cũng làm y như vậy. Ngoài giờ trực, ông ghi tên các cô gái, các bà lớn tuổi và mọi phụ nữ ở giữa hai nhóm tuổi này, xem đó là một trong những việc giúp mình có sức làm việc tiếp. Như cô gái ở khu thương xá với cặp đùi thuôn trắng nhợt, quá dài cho chiếc áo nay quá trẻ con cũn cỡn, khi mường tượng cô có nguy cơ mang họa vào thân, cả ông Len lẫn tôi đều thấy tim thót đau. Các bà lớn tuổi, lập dị đi bằng khung có bánh xe lăn, cứ một mực đòi nhuộm tóc với những màu giả tạo không giống màu tóc ngày học còn trẻ. Những bà mẹ một mình nuôi con, tuổi ngoài ba mươi, mải dong xe lùng sục khắp siêu thị, không để mắt trông chừng lũ con cứ lôi những bao kẹo từ trên quầy xuống. Hễ trông thấy họ, tôi lại nhẩm đếm. Những người đàn bà còn sống, đang hít thở không khí. Thỉnh thoảng tôi nhìn ra những người mang thương tích - đàn bà bị chồng đánh đập, bị kẻ lạ hãm hiếp, những bé gái bị cha ruột cưỡng dâm – và mong mỏi có cách nào can thiệp cứu vớt.
Ông Len ngày nào cũng gặp những người đàn bà mang đầy thương tích này. Họ là những người thường trực tìm đến sở cảnh sát, nhưng ngay cả khi đi đâu xe ngoài phạm vi ông có quyền xử lý, ông vẫn cảm thấy và nhận ran gay khi họ tới gần. Bà vợ tay chủ cửa hàng dụng cụ câu tuy mặt mũi không có vết bầm những lúc nào người cũng co rút như một con chó và luôn miệng thì thào xin lỗi. Cô gái đứng đường ông thường thấy đi đi lại lại mỗi bận ông chạy xe lên mạn bắc thăm mấy cô em. Năm tháng qua đi, cô càng ngày càng gầy, lớp mỡ ở gò má đã tan đi, ưu tư đè nặng làm mắt cô trông tuyệt vọng, trũng sâu xuống sau làn da vàng vọt. Hễ thấy vắng cô ông đâm lo. Đến khi cô xuất hiện, ông hoàn hồn nhưng lại thấy não lòng.
Một thời gian dài ông không có gì để ghi tiếp vào tập hồ sơ vụ của tôi, nhưng mấy tháng sau này có vài dữ kiện mới được ghi thêm vào sổ tang vật: tên một người nữa có thể đã là nạn nhân, bà Sophie Cichetti, tên anh con trai và một biệt hiệu của George Harvey. Có cả món ông đang cầm trong tay: viên đá hộ mệnh Pennsylvania của tôi. Ông bỏ nó vào bao tang vật, lấy mấy ngón tây mân mê các thứ, và một lần nữa, lại tìm thấy mấy chữ cái hoa viết tắt tên của tôi. Viên đá đã được kiểm nghiệm xem từ đó có thể truy ra manh mối nào nữa không nhưng ngoài chuyện nó được tìm thấy ở chỗ một cô gái khác bị giết ra, không thấy thêm dấu vết nào dù soi dưới kính hiển vi.
Ngay sau khi xác định được là viên đá thuộc về tôi, ông đã muốn trao lại cho bố tôi. Làm thế là vi phạm quy định, nhưng ông đã không tìm ra thi thể đứa con gái để giao trả cho gia đình tôi, chỉ có một mỗi quyển sách học vấy bấn, vào trang sách môn sinh vật học của tôi kèm bức thư tỏ tình của một cậu trai. Một vỏ chai Coca. Cái mũ đính chuông của tôi. Ông đã ghi vào danh sách và giữ lại những thứ này. Nhưng với viên đá này thì khác, ông định sẽ trao trả.
Một cô y tá, đi lại với ông trong suốt những năm mẹ tôi ra, gọi điện báo cho ông khi thấy có tên Jack Salmon trong danh sách những bệnh nhân mới nhập viện. Ông Len quyết định sẽ vào nhà thương thăm và cầm theo viên đá. Trong thâm tâm ông thấy viên đá như một thứ bùa hộ mênh biết đâu có tác dụng giúp bố tôi chóng bình phục.
Nhìn ông tôi không khỏi nghĩ tói những thùng chứa chất thải độc hại, càng ngày càng nhiều, chất ở khu đất phía sau tiệm sửa mô-tô của anh Hal, nơi cỏ rậm đầy hai bên đường ray xe lửa, che đậy việc những hang xưởng ở quanh đó thỉnh thoảng đem vứt bậy bạ đoi ba thùng. Những chuyện đó được ém nhẹm, những lô thùng đó bắt đầu rò rỉ. Trong những năm sau khi mẹ tôi bỏ đi, tôi thấy ông Len đáng thương nhưng cũng đáng nể. Ông lần theo những tang vật cụ thể để qua đó cố nắm bắt những điều không thể lĩnh hội bằng lý trí được. Về mặt này tôi nhìn nhận, ông cũng giống như tôi.
Trước cửa nhà thương có một cô bé đứng bán những bó hoa thủy tiên nho nhỏ, các cánh hoa màu xanh được bó lại, thắt nơ màu tím hoa oải hương. Tôi nhìn mẹ tôi lúc bà hỏi mua toàn bộ lô hoa của cô.
Cô y tá Eliot đã thấy mẹ tôi tôi tám năm về trước, nay vẫn nhận ra khi bà ôm mớ hoa từ đầu kia của hành lang lại, sốt sắng đòi phụ một tay. Cô lấy thêm vài lọ hoa để trong phòng chứa dụng cụ rồi cùng mẹ tôi đổ nước, cắm hoa trưng bày khắp phòng trong lúc bố tôi còn thiếp ngủ. Cô Eliot thầm nghĩ nếu đem sự mất mát thất bại ra để đo đạc nhan sắc của người đàn bà thì xem ra sau khi mất mát mẹ tôi trong lại còn kiều diễm hơn xưa.
Lindsey, Samuel và bà ngoại Lynn đã đưa Buckley về nhà từ lúc trời mới sập tối. Mẹ tôi thấy lòng mình chưa sẵn sàng để nhìn lại ngôi nhà. Bà để hết tâm trí vào bố tôi. Mọi chuyện khác tính sau, từ ngôi nhà cũng âm thầm trách bà quay đi, đến cậu con trai và cô con gái. Bà cần ăn gì đó lót dạ, cần thời gian để suy ngẫm. Thay vì vào quầy ăn tự phục vụ của nhà thương - ở đó đèn đóm sang trưng buộc bà cứ phải liên tưởng đến cố gắng của nhà thương nhằm giữ cho người ta tỉnh táo để đón nhận những tin xấu khác nữa – cà phê nhạt thếch, ghế cứng ngồi ê lưng, thang máy tầng nào cũng ngừng – bà rời tòa nhà ra cổng bước lên lối đi thoải mái.
Trời đã tối và trên bãi đậu xe, nơi nửa khuya hôm đó bà lái xe đến trong chiếc áo ngủ phong phanh, chỉ còn đậu đây đó dăm ba chiếc. Bà túm hai vạt chiếc áo len bà ngoại đưa cho kéo sát vào người.
Bà băng ngang qua bãi đậu xe, nhìn vào những chiếc xe tối om kia tìm những dấu hiệu để phỏng đoán về những người đang trong nhà thương. Trong một chiếc xe nọ băng nhạc nằm bừa bộn trên ghế cạnh người lái, trong một chiếc xe khác bà thấy thấp thoáng một chiếc ghế nịt cho trẻ em trông kềnh càng. Tìm xem có những thứ gì trong mấy chiếc xe này tự nhiên trở thành một trò chơi cho bà. Một cách để bà không cảm thấy cô đơn và xa lạ, như thể bà là đứa bé chơi trò dò xét lục lọi nhà các bạn bè của bố mẹ. Điệp viên Abigail báo cáo ban chỉ huy: tôi thấy một con chó bông lông xù, tôi thấy một quả bóng, tôi thấy một người đàn bà! Bà ta đấy, một người lạ đang ngồi sau tay lái. Bà ta không biết mẹ tôi đang nhìn mình. Thấy mặt bà ta rồi, mẹ tôi liền chăm chú quay nhìn những ngọn đèn sang trưng trong quá ăn cũ kỹ nọ, mục tiêu của bà ta. Bà không cần quay nhìn cũng biết người đàn bà kia đang làm gì. Bà ấy đang chuẩn bị để sẵn sàng đi vào trong đó. Bà biết nét mặt đó nói lên điều gì. Đó là nét mặt của kẻ không mong gì hơn là được sống ở bất cứ nơi đâu miễn không phải nơi mình đang sống.
Bà đứng trên vạt cỏ giữa bệnh viện và lối riêng vào phòng cấp cứu, thấy thèm một điếu thuốc. Sáng nay bà không kịp đặt câu hỏi nào. Jack bị nhồi máu cơ tim, bà phải về nhà ngay. Nhưng bây giờ, đứng ở đây bà không biết mình nên làm gì nữa. Bà sẽ còn phải chờ ở đây bao lâu, sẽ còn xảy ra những chuyện gì trước khi bà ra đi lần nữa? Bà nghe phía sau, trên bãi xe, tiến mở rồi đóng cửa xe – người đàn bà kia đi vào trong bệnh viện.
Bà cảm nhận cái quán ăn như một nơi chốn mơ hồ mờ ảo. Bà ngồi một một mình một góc, gọi một món – thịt gà tẩm bột chiên - hình như ở California không thấy ở đâu bán.
Bà đang ngẫm nghĩ thì thấy người đàn ông ngồi ngay góc đối diện đưa mắt tình tứ nhìn bà, bà để ý ngay từng chi tiết diện mạo của y. Bà làm một cách tự động, thế nhưng suốt thời gian ở miền Tây nước Mỹ bà không hề có phản ứng tương tự. Sau ngày tôi bị giết và bà vẫn còn ở Pennsylvania, hễ thấy một người đàn ông có thái độ lạ, khả nghi, lập tức đầu óc bà tự động làm công việc phân tích đó. Phản xạ chớp nhoáng – phải nhìn nhận nỗi sợ cũng có mặt thực dụng thật - khiến không kịp tự bảo mình đừng nên suy đoán như thế. Món ăn được bưng ra, gà chiên và nước trà, bà để hết tâm trí vào món ăn, vào lớp bột chiên lộm cộm bọc miếng thịt dai và thứ nước trà pha từ lâu mang vị sắt của bình trà. Bà nghĩ chắc sẽ không ở lại nhà lâu hơn vài ngày. Nhìn đâu bà cũng thấy tôi, nhìn sang góc đối diện bà thấy người đàn ông, nghĩ biết đâu hắn chính là kẻ đã giết tôi.
Bà ăn cho xong bữa, trả tiền và rời khỏi quán, mắt không ngước nhìn cao quá tầm thắt lưng. Cái chuông treo ở cửa ra vào gõ kính coong vang trên đầu làm bà giật thót người, tim như nhảy dựng trong lồng ngực.
Bà đi trở lại lộ trình cũ, băng qua đường cao tốc, nhưng thấy mình hụt hơi khi đi ngang bãi đậu xe. Chiếc xe của người đàn bà lo âu khắc khoải vẫn còn đó.
Trong tiền sảnh, nơi ít có ai dừng chân, bà quyết định ngồi xuống, chờ đến khi nhịp thở bình thường trở lại.
Bà sẽ ngồi bên chồng vài tiếng đồng hồ, và khi ông thức giấc, bà sẽ nói lời giã biệt. quyết định rồi bà thấy như có luồng khí mát thổi qua bản thân. Cảm giác như đột nhiên trút bỏ được gánh nặng trách nhiệm. tấm vé đưa bà đến một nơi xa xôi.
Lúc ấy đã khuya, sau mười giờ tối, bà lấy thang máy lên tầng năm, hành lang chỉ để đèn mờ. Bà đi ngang qua phòng trực, hai cô y tá ngồi sau cửa kính đang chuyện trò khe khẽ. Bà nghe được qua thanh điệu trầm bổng nỗi thú vị của họ khi kháo nhau về đủ loại tin đồn, âm thanh của kiểu thân mật thổ lộ những điều riêng tư thầm kín. Thế rồi, đúng lúc một cô y tá không nén được phá lên cười khanh khách, mẹ tôi mở cửa phòng bố tôi nằm, để cửa tự sập lại.
Đơn độc.
Khi cánh cửa sập lại thì trong phòng không khí như bị hút mất, chỉ còn khoảng chân không. Tôi cảm thấy ở đây không có chỗ cho mình, tôi cũng nên rời phòng này. Nhưng tôi như bị chôn chân tại chỗ.
Nhìn ông thiếp ngủ trong đêm, trong ánh tù mù của ngọn đèn huỳnh quang công suất thấp gắn phía sau đầu giường, bà hồi tưởng lại lúc mình đứng cũng trong nhà thương này, rồi sau đó đi những bước đầu đưa bà rời xa ông.
Khi bà cầm lấy tay ông, tôi nhớ đến cảnh cùng ngồi với em gái tôi dưới bức phù điêu treo ở hành lang trên lầu. Tôi đóng vai chàng hiệp sĩ quá cố lên thiên đường với con chó trung thành, còn em đóng vai vị hôn thê tính khí sôi nổi. “Sao lại buộc tôi phải chịu cầm tù nốt quãng đời còn lại với một người đàn ông thi thể đông cứng thế kia?” Đó là câu nói Lindsey ưa thích nhất.
Mẹ tôi ngồi một lúc lâu, ấp bàn tay ông trong hai bàn tay mình. Bà thầm nghĩ giá nằm cạnh ông trên tấm khăn giường tinh tươm kia hẳn tuyệt vời lắm. Và biết là không thể làm vậy được.
Bà cúi người gần lại. khuất đâu dưới mùi thuốc tẩy trùng và mùi cồn, bà vẫn ngửi được thứ mùi của cỏ từ làn da ông. Ngày ra đi, bà gói theo chiếc áo của bố tôi mà bà thích nhất, thỉnh thoảng bà lấy ra khoác lên người chỉ để có chút hơi hướng của ông. Bà không bao giờ mặc đi ra ngoài, nên vải vẫn giữ được mùi ông lâu. Bà nhớ lại một đêm nọ, khi nhớ ông quay quắt, bà lấy áo bọc gối rồi ôm mà ngủ như thể mình vẫn là một nữ sinh trung học.
Qua cửa sổ đóng kín, bà vẫn nghe tiếng xe cộ rì rầm vẳng đến từ phía xa lộ, bệnh viện giờ này đã đóng hẳn cổng. chỉ còn tiếng đế giày cao su của các cô y tá trực đêm khi họ đi ngoài hành lang ngang qua cửa phòng.
Mùa đông vừa rồi, có lần bà nói với một cô cùng bà rót vang cho khách thử vào những ngày thứ Bảy, rằng trong quan hệ nam nữ bao giờ cũng có một người mạnh hơn người kia. “Song không có nghĩa kẻ yếu hơn không yêu thương người mạnh hơn mình đâu nhé,” bà biện hộ. Cô kia ngẩn ra nhìn bà. Nhưng với mẹ tôi thì điều quan trọng là khi nói thế bà chợt tự xem mình chính là kẻ yếu. Khám phá ra điều này khiến bà choáng váng cả người. Chẳng phải suốt bao nhiêu năm qua bà hoàn toàn nghĩ ngược lại như thế hay sao?
Bà kéo ghế lại thật gần chỗ ngang đầu ông, áp má vào mép gối để nhìn ông thở, nhìn mắt ông khẽ giật dưới mí khi đang nằm mơ. Sao lại có chuyện ta yêu say đắm một người nào đó, nhưng lại không chịu tự thú nhận với chính mình, rồi ngày lại ngày bừng mắt thức dậy ở một nơi xa nhà vạn dặm? Bà đã đặt cả rừng biển quảng cáo và biết bao đường xe ở khoảng giữa hai người, quăng đầy chướng ngại vật chắn đường những nơi vừa đi qua, bẻ gãy kính chiếu hậu và tưởng bằng cách đó đã làm ông biến mất, đã tẩy xóa cuộc sống chung của hai người và cả con cái được rồi ư?
Điều đó quá đơn giản, khi bà lặng nhìn ông và hơi thở đều đặn của ông làm bà dịu lòng lại, đến nỗi mới đầu bà không nhận thấy chuyện gì đang xảy ra. Bà hình dung lại từng căn phòng trong ngôi nhà của chúng tôi và số lượng thời giờ bà trải qua khi sống trong đó, lượng thời gian mà bà đã bỏ nhiều công sức để xóa khỏi ký ức. tương tự các thức quả ta đã bỏ lọ ngâm rồi quên bẵng đi, đến lúc quay về hình như vị ngọt ngào của nó càng tinh khiết hơn. Trên giá sách kia là dấu vết những cuộc hẹn hò và những trò vụng dại thời họ mới si mê nhau, dải băng nối kết hình thành từ mơ mộng, gốc rễ bền chắc từ đó một gia đinh nẩy mầm đơm hoa. Chứng cớ nhiển nhiên đầu tiên của thời đó là tôi.
Bà nhận ra có một nếp nhăn mới trên mặt bố tôi. Bà thấy ưa mảng tóc bạc hai bên thái dương ông.
Quá nửa đêm một lúc bà thiếp đi dù cố chong mắt thức, cố ghi nhớ lại toàn bộ những gì bà thấy khi ngắm nhìn gương mặt kia, để khi ông thức giấc bà có thể từ giã ông.
Khi bà khép mắt lại và cả hai ngủ thiếp êm đềm bên nhau, tôi thì thầm với bố mẹ:
Này là sỏi đá, này là mẩu xương;
Này là tuyết, còn đây sương giá;
Này là hạt mầm, hạt đậu, còn đây nòng nọc.
Lối mòn và cành nhánh, bao nhiêu là nụ hôn,
Mọi người đều rõ Susie nhớ ai…
Gần hai giờ sáng, trời đổ mưa, mưa rơi xuống nhà thương, xuống ngôi nhà cũ của tôi và cả trên thiên đường nữa. Mưa rơi cả trên mái tôn chiếc lán nơi tên Harvey nằm ngủ. khi mưa gõ những chiếc búa tí hon phía trên đầu hắn thì hắn đang mơ. Hắn không mơ thấy cô gái mà hài cốt đã được đào lên hiện đang được kiểm nghiệm, mà mơ thấy Lindsey Salmon, mơ tới hàng số 5! 5! 5! nhảy bừa vào bụi hương mộc. Giấc mơ trở lại như điềm báo mỗi khi hắm cảm thấy bị đe dọa. kể từ giây phút ánh dạ quang trên chiếc áo cầu thủ của em chớp lóe sáng, cuộc sống của hắn cũng bắt đầu chao đảo.
Lúc gần bốn giờ sáng tôi thấy mắt bố tôi mở hé, thấy ông cảm nhận được hơi thở ấm áp của mẹ tôi phả lên má trước cả khi hiểu ra bà đang nằm ngủ kề bên. Cả hai bố con đều ước rằng ông ôm lấy bà, nhưng ông yếu quá. Còn một cách khác, và ông đã chọn cách này. Ông sẽ kể cho bà những điều ông cảm nhận sau cái chết của tôi, những điều ông thường hay nghĩ tới mà ngoài tôi ra không ai biết
Nhưng ông không muốn làm bà thức giấc. Bệnh viện hoàn toàn yên ắng, trừ tiếng mưa rơi. Ông cảm thấy mưa cứ theo đuổi mình, cả bóng đêm vào hơi ấm nữa, ông nghĩ tới cảnh Lindsey và Samuel đứng trước cửa nhà, ướt lướt thướt nhưng tươi cười, sau cuộc chạy bộ đường trường chỉ để ông yên bụng. ông hay bắt gặp mình đang lẩm nhẩm để tự nhắc phải tập trung đầu óc: Lindsey. Lindsey. Lindsey. Buckley. Buckley. Buckley.
Nhìn màn mưa bên ngoài cửa sổ bị ánh đèn trên bãi đậu xe rọi thành các quầng tròn, ông hồi tưởng lại những cuộn phim đã xem thời trẻ - mưa Holywoood. Ông nhắm mắt lại, cảm nhận hơi thở vỗ về của bà phả vào má, lắng nghe tiếng mưa rơi nhè nhẹ trên bệ cửa sổ bằng kim loại, rồi ông nghe tiếng chim hót – những con chim nhỏ kêu chiêm chiếp, nhưng ông không nhìn thấy chúng. Chợt nghĩ, sát bên cửa sổ biết đâu có một tổ chim, lũ chim non thức dậy trong mưa thấy chim mẹ đi mất, ông muốn ra cứu chúng. Ông cảm thấy những ngón tay buông thõng của bà, khi thiếp ngủ bà buông bàn tay ông ra. Bà đang ở đây và lần này, không cần biết đến bao chuyện đã xảy ra, ông sẽ để bà được sống trung thực con người mình.
Lúc ấy tôi lẻn vào trong phòng đứng với mẹ và bố tôi. Tôi hiện diện nhưng với tư cách một người trưởng thành, sự kiện trước nay chưa hề có. Tôi luôn có mặt bên bố mẹ, nhưng chưa từng đứng ngay bên cạnh.
Trong bóng tối tôi thu người cho nhỏ đi mà chẳng rõ có ai thấy mình không. Suốt tám năm rưỡi qua ngày nào tôi cũng rời xa ông vài giờ, như tôi đã rời xa mẹ, Ruth hay Ray, rời xa em trai, em gái rôi, và tất nhiên cả tên Harvey, còn ông – đến nay tôi mới biết – chưa bao giờ rời xa tôi. Tấm lòng tha thiết của ông đối với tôi khiến tôi luôn hiểu rằng: mình được thương yêu. Trong vầng sáng ấm áp của tình thương ông dành cho, tôi vẫn mãi là Susie Salmon, một cô bé với cả tương lai phía trước.
“Anh nghĩ nếu nín thinh thì sẽ nghe được tiếng em,” ông thì thầm. “Nếu anh lặng yên thì biết đâu em sẽ quay về.”
“Jack đó ư?”, mẹ tôi nói khi bừng tỉnh dậy. “Em thiếp đi lúc nào không biết.”
“Có em bên cạnh thật tuyệt vời,” ông nói.
Mẹ tôi nhìn ông. Mọi thứ tháo mở, bật tung ra hết. “Anh có cách nào vậy?”, bà hỏi.
“Đâu có gì khác để lựa chọn, hở Abbie,” ông nói. “Anh biết làm gì khác hơn?”
“Ra đi, làm lại từ đầu,” bà bảo.
“Thế kết quả ra sao?”
Cả hai lặng thinh. Tôi chìa tay ra rồi tan biến, mất hút.
“Sao em không nằm xuống đây?” ông hỏi. “Mình còn ít phút với nhau trước khi các viên chức mẫn cán đến xua em đi khỏi đây.”
Bà ngồi yên.
“Họ tử tế với em lắm,” bà nói. “Cô y tá Eliot phụ em đổ nước cắm hoa lúc anh còn ngủ.”
Ông nhìn quanh, nhận ra đó là loại hoa nào. “Thủy tiên”, ông nói.
“Hoa Susie ưa đấy.”
Bố tôi nhoẻn miệng cười thật tươi. “Em thấy chưa,” ông nói. “Chỉ cần thế. Em sống bằng cách chấp nhận, bằng việc tặng con một bông hoa.”
“Sống vậy buồn quá,” mẹ tôi nói.
“Buồn thật”, ông đáp, “nhưng phải vậy thôi.”
Mẹ tôi phải khéo léo mới nằm nghiêng trên mép giường bệnh được. Họ tìm được thế nằm duỗi dài bên nhau, nhìn vào mắt nhau.
“Em thấy sao khi gặp lại Buckley và Lindsey?”
“Thật quá khó cho em,” bà đáp.
Họ im lặng một lúc rồi ông siết tay bà.
“Trông em có đổi khác đấy,” ông nói.
“Anh muốn nói là em già đi chứ gì?”
Tôi nhìn ông nâng một lọn tóc của bà quấn vào vành tai. “Suốt thời gian em đi vắng anh lại phải lòng em lần nữa đấy,” ông nói.
Tôi ước gì được ở vào cương vị của bà. Tình yêu của ông đối với mẹ tôi không chỉ dành cho con người bà trong quá khứ hay một con người bất biến. Đó là thương yêu mọi mặt – cả tính cách mỏng manh yếu đuối, và quyết định trốn chạy của bà, yêu vì bà có mặt ở đây đúng vào lúc này, trước khi mặt trời mọc và nhân viên bệnh viện vào đây. Đó là cử chỉ lấy mấy ngón tay vuốt tóc bà, và biết bây giờ ông có thể phóng xuống đáy thẳm đôi mắt đại dương của bà không chút lo âu.
Mẹ tôi không mở miệng nói nổi câu: “Em yêu anh.”
“Em sẽ ở lại chứ?”, ông hỏi.
“Một thời gian ngắn.”
Ít ra cũng được thế.
“Được”, ông nói. “Thế em trả lời sao khi mấy người ở California hỏi thăm về gia cảnh?”
“Miệng thì trả lời là có hai đứa con. Nhưng trong thâm tâm em vẫn nói là ba đứa. Lúc nào em cũng thấy phải xin lỗi nó về chuyện đó.”
“Em có nhắc đến chồng không?” ông hỏi.
Bà nhìn ông: “Không.”
“Chết thật!”, ông nói.
“Jack, em trở về đây không phải để giả cách này nọ,” bà đáp.
“Thế em quay về vì sao nào?”
“Mẹ gọi cho em. Bà bảo anh bị nhồi máu cơ tim, em mới liên tưởng đến bố của anh.”
“Em sợ anh chết mất chứ gì?”
“Đúng thế.”
“Hồi nãy em ngủ,” ông nói. “Nên không trông thấy nó.”
“Thấy ai?”
“Có người vào phòng này rồi lại đi ra. Anh tin rằng đó là Susie.”
“Jack?”, bà hỏi lại, nhưng thực sự không hoảng sợ lắm.
“Đừng bảo rằng em không trông thấy con.”
Bà không phản bác nữa.
“Em nhìn đâu cũng thấy nó,” bà nói, thở ra nhẹ nhõm. “Tận bên California chỗ nào cũng có nó. Lúc thì trên xe buýt, lúc đứng trước trường học, khi em lái xe qua. Có khi em thấy mái tóc nó, nhưng nhìn lại thì khuôn mặt không khớp. Hoặc em thấy hình dạng nó hay tướng nó đi đứng. Em thấy những cô chị lớn hơn nó một chút với những em trai nhỏ hay hai bé gái trong như chị em, rồi em tưởng tượng tất cả những gì Lindsey bị lấy mất khỏi cuộc đời của nó: mối quan hệ với chị cả mà nó và Buckley không được phép có nữa, thế rồi ý nghĩ đó lại làm em choáng váng, bởi em cũng bỏ đi mất. Những chuyện này sẽ đè nặng lên anh, và cả lên mẹ em nữa.”
“Bà cụ thật tuyệt vời,” ông nói, “một tảng đá. Tuy xốp như bọt biển, nhưng là cả một tảng đá.”
“Em cũng thấy thế.”
“Vậy nếu anh kể rằng cách đây mười phút Susie có mặt trong căn phòng này thì em sẽ nói gì nào?”
“Em sẽ bảo chắc anh loạn trí mất rồi và cũng có thể anh nói đúng.”
Bố tôi hơi rướn lên, đưa ngón tay lần lên sống mũi bà rồi đặt lên môi bà. Lúc ấy môi bà khẽ hé mở.
“Em phải cúi xuống thôi,” ông nói. “Anh vẫn là bệnh nhân mà.”
Rồi tôi nhìn bố mẹ hôn nhau. Họ vẫn mở mắt trong khi hôn, và mẹ tôi là người đầu tiên khóc, nước mắt bà tuôn rơi lã chã trên má bố tôi mãi, cho đến lúc ông cũng khóc theo.
Hết chương 20
---------------------------------
Chương hai mươi mốt
Tôi rời chỗ bố mẹ ở bệnh viện, tìm đến với Ray Singh. Năm xưa anh chàng và tôi vừa tròn mười bốn tuổi. Giờ đây tôi nhìn anh chàng gối đầu trên gối, tóc đen trên nền màu vàng, da ngăm đen trên khăn trải giường màu vàng. Tôi vẫn yêu anh chàng như thưở nào. Tôi đếm những sợi lông mi ở mỗi bên mắt đang nhắm nghiền kia. Anh chàng là người suýt-thành, người lẽ-ra-thuộc-về tôi, và tôi chẳng muốn rời xa anh chàng cũng như không muốn xa gia đình mình.
Lúc nằm trên giàn giáo chống chếnh ở hậu trường sân khấu, bên dưới có Ruth đang đứng, Ray Singh nhích lại gần đến nỗi hơi thở của anh chàng quyện vào hơi thở tôi. Tôi ngửi thấy mùi đinh hương trộn mùi quế mà tôi hình dung mỗi sáng anh chàng rắc lên món bỏng ngũ cốc, ngoài ra còn có thứ mùi đậm đà, mùi của một cơ thể đang sát lại gần tôi, và sâu thẳm trong cơ thể ấy có những bộ phận điều hành bởi những hóa chất hoàn toàn khác với tôi.
Từ lúc biết chuyện ấy rồi sẽ đến, cho đến lúc nó xảy ra thực sự, tôi luôn đề phòng tránh cảnh một thân một mình gặp Ray Singh, dù trong hay ngoài khuôn viên nhà trường. Tôi hồi hộp sợ chính điều mà mình mong mỏi nhất: một nụ hôn của anh chàng. Tôi sợ rằng một nụ hôn không đem lại cảm giác như tôi vẫn nghe kể hay đọc trong các tạp chí Tuổi mười bảy, Thế giới hoa lệ, và Thời trang. Tôi sợ rằng mình quá vụng về - rằng với nụ hôn đầu tiên mình chẳng tỏ tình được mà còn làm người kia cảm thấy bị hắt hủi. Thế là tôi cứ tiếp tục sưu tầm các mẩu chuyện về đề tài cái hôn.
“Nụ hôn đầu tiên là giây phút định mệnh gõ cửa đấy, cháu ạ,” có lần bà ngoại Lynn nói thế qua máy điện thoại. Tôi cầm ống nghe trong lúc chờ bố đi gọi mẹ. “Lại chân nam đá chân chiêu rồi,” tôi nghe tiếng bố nói trong bếp.
“Giá được tái diễn màn này, bà sẽ chuẩn bị tô môi sẵn trước đó bằng loại son nào thật kỳ diệu, Hỏa và Băng chẳng hạn, nhưng hồi đó hãng Revlon chưa chế ra thứ son môi này. Bà để lại dấu ấn của mình trên người đàn ông như thế đấy.”
“Mẹ đấy à?” mẹ tôi nói xen vào từ máy phụ gắn trong phòng ngủ.
“Hai bà cháu đang nói về chuyện hôn, Abigail ạ.”
“Mẹ uống mấy ly rồi?”
“Nghe này, Susie,” bà ngoại Lynn nói, “nếu lúc hôn cháu thấy như thể mình là quả chanh thì cháu sẽ tiết ra nước chanh.”
“Sẽ cảm thấy thế nào hở bà?”
“Lại vẫn chuyện hôn với hít,” mẹ tôi nói. “Thôi để hai bà cháu tiếp tục vậy.” Trước đó tôi cứ theo hỏi bố rồi mẹ về chuyện hôn này để xem mỗi người kể khác nhau ra sao. Cảnh tôi còn ghi nhớ là hình ảnh bố mẹ tôi sau làn khói thuốc mù mịt – môi họ chỉ chạm phớt vào nhau sau màn khói ấy.
Một lúc sau bà ngoại Lynn thì thào: “Susie, cháu vẫn nghe bà chứ?”
“Vâng.”
Bà lại im lặng một lúc khá lâu. “Hồi đó bà mới bằng tuổi cháu, và người đầu tiên hôn bà là một người đàn ông. Bố một cô bạn của bà.”
“Sao bà lại làm thế!”, tôi kêu lên, choáng cả người.
“Cháu sẽ không đem bà ra bêu riếu đấy chứ?”
“Không đâu.”
“Tuyệt lắm cháu ạ,” bà ngoại Lynn nói. “Ông ấy đúng là biết cách hôn. Bọn con trai mà hôn thì bà chán chịu không nổi. Bà áp tay lên ngực chúng đẩy ra. Ông McGahern biết cách phải hôn bằng môi như thế nào.”
“Rồi sao nữa hở bà?”
“Quả là lạc thú ở đời,” bà nói. “Bà biết làm thế là bậy, nhưng thật là tuyệt vời – ít ra là cho bà. Bà chưa hề hỏi xem ông ta cảm thấy thế nào, nhưng sau lần ấy bà chẳng bao giờ gặp riêng ông ta nữa.”
“Thế sau đó bà có muốn hôn lại như vậy nữa không?”
“Có chứ. Bà vẫn tìm hòa xem có cảm giác thấy lại như lần đầu nữa không.”
“Thế còn ông ngoại?”
“Ông chẳng giỏi môn đó đâu,” bà nói. Tôi nghe tiếng đá cục kêu lanh canh ở đầu kia. “Bà không quên nổi ông McGhern, dẫu chỉ là chuyện thoáng qua thôi. Có cậu nào muốn hôn cháu à?”
Cả bố lẫn mẹ tôi đều không hỏi tôi chuyện nào. Bây giờ tôi mới rõ, ngày đó hai người biết cả rồi, và nhìn nhau tủm tỉm cười khi kể lại cho nhau nghe.
Tôi nuốt như nghẹn bên đầu dây của tôi. “Có.”
“Tên gì?”
“Ray Singh”
“Cháu có thích cậu ta không?”
“Có”
“Thế thì vấn đề nằm ở đâu?”
“Cháu sợ mình không biết cách.”
“Susie à!”
“Sao ạ?”
“Thích thì cứ làm, cháu ạ.”
Nhưng trưa hôm ấy đứng bên chiếc tủ của mình, nghe Ray gọi tên – lần này từ đằng sau chứ không phải từ trên cao - tôi chưa kịp cảm thấy ham thích gì. Bảo rằng không thích cũng không đúng hẳn. Không phải là những trạng thái rõ ràng, hễ không đen thì trắng, mà tôi từng biết qua. Tôi cảm thấy, nếu cần dùng chữ để tả thì xao xuyến. Không phải động từ mà là tính từ chỉ trạng thái. Sung sướng + Lo âu hồi hộp = Xao xuyến.
“Ray”, tôi chưa kịp nói thành lời thì Ray đã cuối xuống hôn lên đôi môi tôi vừa chớm hé. Tuy tôi đã linh cảm từ nhiều tuần nay là chuyện này sẽ đến nhưng vì xảy ra quá đột ngột, nên tôi chẳng thấy thỏa lòng. Tôi mỏi mòn mong ngóng được hôn Ray Singh lần nữa.
Buổi sáng hôm sau ông Connors cắt từ tờ báo ra một bản tin giữ lại để đưa cho Ruth. Bài báo cóa hình vẽ chi tiết khu hố sụt Flanagan và thông tin về phương án san lấp trong thời gian sắp tới vào đúng thời điểm Ruth thay quần áo chuẩn bị lên đường thì ông ghi thêm cho cô nàng lời chú giải: “Đó là loại hố nguy hiểm chết người. Sẽ có ngày một người bất cẩn chạy qua lọt xuống tiêu cả người lẫn xe cho mà xem.”
“Bố tớ bảo đây là hồi chuông báo tử của ông,” Ruth vừa nói với Ray vừa hươ mảnh giấy báo, lúc chui vào chiếc xe Chevy xanh của Ray đậu ở đầu ngõ vào nhà. “Nghe bảo rằng khu nhà của tớ xe bị mất nước khi chia lô lại. Bạn nghe này. Trong bài báo này họ có bốn khu mà, vuông vức như hình khối mình tập vẽ hồi mới học hội họa, đọc để biết họ định san lấp cái hố bằng cách nào.”
“Ruth, tớ rất vui được gặp lại bạn,” Ray nói, vừa cho xe chạy lùi ra ngõ vừa đưa mắt nhìn dây an toàn, ra hiệu khi thấy Ruth chưa gài.
“Xin lỗi, Ruth nói. “Chào bạn”
“Bài báo nói gì?” Ray nói.
“Hôm nay đẹp trời, thời tiết tuyện vời.”
“Thôi thôi. Đủ rồi. Kể xem bài báo nói gì.”
Cứ bẵng đi vài tháng mới gặp lại nhau, lần nào Ray cũng phải nhớ rằng cô bạn mình luôn hăng say sôi nổi và hiếu kỳ ham tìm hiểu đủ chuyện – hai đức tính làm họ thấy hợp nhau và muốn duy trì quan hệ bạn bè.
“Ba bức đầu vẽ cùng một hình, chỉ khác ở chỗ các mũi tên chỉ vào những điểm khác nhau, có ghi chú “lớp đất trên cùng”, “tầng đá vôi nứt rạn” và “đá phân hủy”. Bức cuối cùng mang hàng chữ lớn “Cách san lấp”, bên dưới viết: “Đổ bê-tông xuống họng hố, trét vữa kín các khe hở.”
“Gọi là họng hố à?” Ray hỏi.
“Tớ biết”, Ruth đáp. “Trang kia còn vẽ thêm một mũi tên nữa, như thể đây là một dự án to tát đến nỗi họ phải tạm dừng một giây để độc giả có thì giờ hiểu được khái niệm, xong mới chú them: ‘Sau đó đổ rác xuống lấp hố cho bằng.’ ”
Ray bật cười.
“Như một quy trình trong y học,” Ruth nói. “Phải dùng đến phẫu thuật phức tạp để vá víu sửa sang hành tinh này.”
“Tớ đang nghĩ hang hố sâu dưới lòng đất thường làm người ta ghê sợ vô cớ.”
“Đã hẳn”, Ruth nói. “Hang hố có họng để nuốt, Chúa ạ! Vậy mình đến tận nơi xem sao.”
Suốt một quãng độ một dặm dọc con đường này có dựng nhiều bản thông báo sẽ có những khu nhà nào sắp xây lên. Ray rẽ trái, chạy vào những khu xây quay lại thành hình vòng cung mặt đường mới được lát đá, cây cối ở đây đã bị đốn sạch, cứ một quãng ngắn lại có lá cờ đuôi nheo vàng hay đỏ phất phới, treo ở đầu những chiếc cọc chăng dây theo cao ngang thắt lưng.
Hai người đang yên trí là không có ai khác ngoài mình lần dò khám phá đường sá của một vùng đất không người cư ngụ thì chợt nhìn thấy Joe Ellis đang đi phía trước.
Ruth với Ray đều không vẫy, mà Joe cũng chẳng làm cử chỉ gì cho thấy nhìn ra họ.
“Mẹ tớ bảo cậu ta vẫn sống với bố mẹ và không tìm được việc làm”
“Cậu ta làm gì cho hết ngày nhỉ?” Ray hỏi.
“Tập diễn những vai kinh dị, tớ đoán thế.”
“Cậu ta không bao giờ vượt nổi chuyện này,” Ray hỏi, còn Ruth chăm chú dõi mắt nhìn những lô đất trống nối nhau hết dãy này đến dãy khác, cho tới lúc Ray quay xe ra lại trục lộ chính, băng qua đường ray xe lửa, theo đường số 30 đến chỗ hố sụt.
Ruth để thong tay bên ngoài cửa xe để cảm nhận làn không khí ấm buổi ban mai sau cơn mưa. Tuy Ray từng bị buộc tội là có thể dính dáng đến chuyện tôi mất tích, song anh chàng hiểu rằng cảnh sát phải làm nhiệm vụ của họ thôi. Nhưng Joe Ellis thì không hề sống bình thường lại được do việc bị buộc tội đã giết lũ chó mèo mà thực ra tên Harvey mới là thủ phạm. Cậu ta cứ đi lang thang, tránh gặp hàng xóm láng giềng và mong muốn được lũ chó mèo quấn quít trìu mến mình hầu tìm an ủi. Tôi lạ thấy điều bi thảm nhất là lũ vật này đánh hơi được tâm tư day dứt khổ đau nơi Joe – một khuyết tật bẩm sinh – nên cứ lảng ra xa.
Trên đường số 30, gần Eels Rod Pike, một phố nhỏ nơi Ray và Ruth sắp đi qua, tôi thấy ông Len ra khỏi một căn hộ nằm bên trên tiệm hớt tóc của Joe. Ông xách ra xe loại túi khoác vai của sinh viên, trong nhét khá nhiều thức. Ba-lô này là quà tặng của chủ căn hộ, một phụ nữ trẻ. Một hôm cô ta mời ông cùng đi uống cà phê khi gặp ông ở buổi họp tại trụ sở cảnh sát trong chương trình khoa tội phạm học ở Trường cao đẳng West Chester. Ba-lô chứa đủ thứ - vài món ông định đưa cho bố tôi xem, vài thứ khác mà các bậc cha mẹ không nên nhìn thấy. Trong đó có ảnh chụp hầm mộ và những thi thể tìm được ra – xác nào cũng còn đủ hay khuỷa tay.
Khi ông gọi điện vào nhà thương, y tá cho biết hiện ông Salmon có vợ và gia đình tới thăm. Giờ đây ông có cảm tưởng tội lỗi mình nặng trĩu thêm lúc lái xe vào bãi đậu của bệnh viện, ông ngồi thừ ở đấy một lúc, trong cái nóng đổ lửa do ánh nắng chiếu qua lớp kính chắn làm tăng nhiệt độ trong xe.
Tôi nhìn ông Len loay hoay sắp xếp câu cú cho những điều ông thấy cần nói. Ông chỉ nghĩ ra một giả thiết duy nhất – sau gần bảy năm trời, và từ cuối năm 1975 không mấy khi liên lạc lại – rằng điều bố mẹ tôi chờ đợi nhất là thấy thi thể tôi, hay tin bắt được tên Harvey. Vậy mà ông chỉ mang cho bố mẹ tôi có mỗi viên đá hộ mệnh.
Ông vớ chiếc ba-lô, khóa cửa xe, đi qua chỗ cô gái bán hoa với những bó thuỷ tiên mới mang trở ra. Ông biết số phòng của bố tôi nên không cần mất công hỏi ở phòng y tá trực tầng năm mà chỉ gõ nhẹ cửa phòng đang mở rôi bước vào.
Mẹ tôi đang đứng xoay lưng về phía ông. Khi bà quay lại tôi cũng thấy được rằng sự hiện diện của bà làm ông choáng váng. Bà đang nắm tay bố tôi. Tôi chợt cảm thấy mình lẻ loi cô độc khôn xiết.
Mẹ tôi hơi chống chếnh khi bắt gặp ánh mắt ông Len, nhưng rồi bà tìm ngay được cách chào hỏi xởi lởi.
“Hễ thấy ông là mọi chuyện thành tuyệt diệu, đúng không?”, bà bông lơn.
“Chào anh Len,” bố tôi gượng nói. “Abbi, em cho giường lên cao một chút nhé.”
“Chào ông Salmon, hiện ông thấy trong người ra sao?”
Len hỏi trong lúc mẹ tôi bấm mũi tên chỉ hướng nâng lên ở giường.
“Cứ gọi tôi là Jack đi,” bố tôi yêu cầu.
“Để ông bà không phải hi vọng hão,” Len nói, “chúng tôi chưa bắt được hắn.”
Bố tôi thất vọng thấy rõ.
Mẹ tôi chêm lại mấy cái gối để bố tôi tựa lưng và gáy. “Vậy ông đến đây có việc gì?”
“Chúng tôi tìm được một món đồ của Susie,” Len đáp.
Ông nói một câu gần như không chệch một chữ so với câu ông nói lần mang chiếc mũ đính chuông lại nhà tôi. Câu này lại văng vẳng trong tai bà.
Tối hôm trước, mới đầu mẹ tôi ngắm bố tôi đang ngủ, rồi sau đó bố tôi thức dậy thấy đầu bà kề bên gối, cả hai đều cố gặt ra khỏi ký ức cái đêm đầu tiên tuyết rơi, trời mưa, rơi cả mưa đá nữa ấy, quên cảnh hai người ôm lấu nhau, và không ai dám nói ra điều mình mong mỏi nhất. Tối hôm qua chính bố tôi là người rốt cuộc nói ra: “Con mình chẳng bao giờ về lại nữa đâu.” Một sự thật rõ ràng và đơn giản mà mọi người từng quen biết tôi đều chấp nhận rồi. Nhưng chính ông phải nói ra được, và bà cần nghe câu đó từ cửa miệng ông.
“Đó là viên đá móc ở vòng tay của Susie,” ông Len nói, “viên đá hình bang Pensylvania, có khắc chữ tắt tên cháu.”
“Chính tội chọn mua cho cháu,” bố tôi nói. “Ở trạm xe Đường Mười ba, hôm tôi lái xe vào phố. Họ dựng quầy bày bán, có người đàn ông mang kính bảo hiểm lo việc khắc tên, không tính thêm tiền. anh cũng mua cho Lindsey một cái. Em nhớ chứ, Abigail?”
“Em nhớ”, mẹ tôi đáp.
“Chúng tôi tìm thấy nó gần một ngôi mộ ở bang Connecticut.”
Bố mẹ tôi đột nhiên như chết sững một lúc – tựa những con vật lọt vào trong một tảng băng đá, hai mắt đông cứng cứ mở to khẩn khoản xin ai đó đang bước đi trên băng giải cứu hộ, xin ông bà làm ơn làm phước.
“Không phải mộ Susie đâu,” ông Len nói, vội vàng lấp khoảng trống. “Điều này chỉ có nghĩa là tên Harvey dính dáng tới cả những vụ án mạng khác nữa ở Delaware và Connecticut. Viên đá của Susie chúng tôi tìm thấy gần một ngôi mộ nằm ngoài thị trấn Hartford.”
Bố mẹ tôi nhìn ông Len loay hoay mở khóa kéo chiếc ba lô. Khóa bị kẹt. mẹ tôi nhẹ vuốt tóc bố tôi ra phía sau và tìm gặp ánh mắt của ông. Song tâm trí bố tôi lại tập trung vào triển vọng ông Len vừa cho thấy – việc lục lại hồ sơ vụ án của tôi. Còn mẹ tôi, mới cảm thấy vững chân trên một nền đất không chuồi trượt đi mãi, không được để lộ ra là bà không hề muốn mọi chuyện lại bắt đầu lần nữa. nghe đến cái tên Goerge Harvey là bà câm bặt. Bà chưa hề suy nghĩ xem mình nên nói gì về hắn. đối với mẹ tôi, việc để cuộc sống của bà dính dáng lằng nhằng mãi với việc có bắt được và trừng phạt hắn hay không, mang ý nghĩa là chọn sống mãi với kẻ thủ, thay vì lo học cách làm sao sống tiếp trong một thế giới vắng bóng tôi.
Ông Len lôi ra một cái túi ni-lông trong khổ to có khóa kéo. Ở góc dưới bố mẹ tôi trông thấy ánh vàng lóng lánh. Len trao túi cho mẹ tôi, bà cầm túi giơ trước mắt, tay hơi dang ra không muốn để gần mình.
“Anh không cần các móng này nữa à, Len?” bố tôi hỏi.
“Chúng tôi đã kiểm tra xét nghiệm kỹ,” Len đáp. “Đã lập hồ sơ tìm thấy ở đâu và chụp ảnh nào cần giữ. Có thể một lúc nào đấy tôi cần lại, nhưng cho tới lúc đó ông bà cứ giữ lấy.”
“Em mở ra đi, Abbie,” bố tôi nói.
Tôi nhìn mẹ cầm cái túi đã mở, nghiêng người xuống đưa bố. “Món này là của anh, Jack ạ,” mẹ mói. “Món quà anh tặng con ngày đó.”
Khi bố cho tay vào túi, bàn tay ông run run, một giây sau ông cảm thấy bằng đầu ngón tay các cạnh sắc nhọn của viên đá. Cách ông lôi nó ra khỏi túi làm tôi nhớ tới trò chơi Thao tác với Lindsey, khi chúng tôi còn bé. Nếu tay ông chạm phải hai bên thành bao ni-lông thì chuông báo động sẽ réo lên và ông phải trả tiền phạt.
“Sao ông biết chắc rằng chính hắn đã giết những cô gáo khác?”, mẹ hỏi, mắt đăm đăm nhìn mảnh vàn bé tí óng ánh trong bàn tay bố.
“Trên đời chẳng có gì là chắc chắn cả,” Len đáp.
Tiếng vọng kia lại dội vào tai mẹ lần nữa. Len có sẵn một số câu nói hay dùng. Đó cũng là câu bố tôi mượn lại để vỗ về vợ con. Đó là một câu nói tàn nhẫn, vì nó khiến người ta hy vọng hão.
“Tôi thấy tốt nhất ông nên rời khỏi đây ngay,” mẹ nói.
“Ơ hay, Abigail ?” bố ngạc nhiên hỏi.
“Tôi không muốn nghe thêm gì nữa.”
“Tôi rất cảm kích vì có được viên đá này, anh Len ạ,” bố tôi nói.
Ông Len giơ tay như muốn nhấc mũ chào bố tôi rồi quay đi. Ông có quan hệ yêu đượng với mẹ tôi trước khi bà bỏ đi, theo kiểu lấy ái ân để tìm quên lãng. Đó là loại quan hệ ông có ngày một nhiều hơn trong những căn buồng phía trên hiệu cắt tóc nọ.
Tôi lên đường trực chỉ hướng nam định tìm Ruth và Ray, nhưng lại gặp tên Harvey. Hắn lái chiếc xe màu cam, chắp vá từ nhiều mảnh khác nhau của cùng một kiểu xe và cùng một thương hiệu, khiến nó giống như nhân vật ma quái trong truyện Frankenstein gắn trên bốn bánh xe. Mui máy xe được cột chằng bằng một sợi dây cao su, nhưng cứ bật lên bật xuống mỗi khi ngược gió.
Cái xe không chịu chạy nhỉnh hơn tốc độ tối thiểu, tuy hắn đã ra sức đạp lút ga. Sau đó hắn lăn ra ngủ bên ngôi mộ đào lên để trống, và trong giấc ngủ hắn mơ thấy hàng con số 5! 5! 5! nên sáng tỉnh mơ thức dậy hắn lái xe đi Pensylvania ngay.
Những nét tạo nên con người Harvey mờ nhạt một cách lạ lùng. Bao năm qua hắn gạt được khỏi tâm trí mọi hồi tưởng về những người phụ nữ chết dưới tay hắn, nhưng giờ đây, hết người này đến người khác, họ trở lại ám ảnh hắn.
Cô gái trở thành nạn nhân đầu tiên của hắn hoàn toàn do ngẫu nhiên. Hắn như lên cơn rồ, không tự kiềm chế được, hoặc cũng có thể sau này hắn thêu dệt viện cớ như thế. Sau đó cô bỏ không trở lại trường trung học nơi cả hhai theo hoc, nhưng điều này hình như chẳng làm hắn thắc mắc gì lắm. Thời kỳ đó hắn dời chỗ ở xoành xoạch nên hắn đoán cô ta cũng làm thế. Có lúc hắn ân hận về vụ cưỡng hiếp cô bạn học này mà không bị tố giác, nhưng không hề xem đó là chuyện sẽ theo đuổi hắn hoặc cô ta mãi. Như thể buổi trưa hôm đó có một ngoại lực nào ấn hai thân thể va chạm vào nhau. Sau đó chỉ thoảng một giây cô nhìn trừng trừng trừng vô hồn. Hố mắt sâu thẳm không đáy. Rồi cô mặc lại chiếc quần lót rách tả tơi, giắt vào cạp váy cho khỏi tuột. Cả hai lặng thinh và cô bỏ đi. Hắn lấy con dao bỏ túi rạch lên mu bàn tay. Lỡ bố hắn hỏi về vết máu thì hắn có sẵn câu giải thích hợp lý. “Đây này”, hắn sẽ chỉ vào chỗ đó trên bàn tay nói, “Con bị thương”.
Nhưng bố hắn không hỏi, cũng chắng có ai khác tới tìm hắn. Không có ông bố hay người anh em trai, hoặc viên cảnh sát nào đến cả.
Thế rồi, điều tôi nhìn thấu được là Harvey cảm thấy cô gái nọ ngồi bên cạnh mình. Cô ta qua đời vài năm sau vụ đó, nguyên do là vì người anh hút thuốc rồi ngủ quên. Cô ta ngồi ghế phía trước. Tôi tự hỏi còn cần phải bao nhiêu năm nữa hắn mới hồi tưởng về tôi.
Dấu hiệu thay đổi duy nhất kể từ ngày tên Harvey chở tôi đến vứt ở chỗ gia đình Flanagan là những vật chắn đường hình tháp màu cam đặt quanh khu đất. Ngoài ra rõ rệt nhất là việc cái hố sụt nay rộng hẳn ra. Góc ngôi nhà về hướng đông nam nghiêng chếch xuống và hàng hiên phía trước bị lún xuống đất.
Ray thận trọng đậu xe ở lề bên kia của đường Flat, quãng có cây lá mọc um tùm. Tuy vậy, phía xe bên chỗ Ruth vẫn cạ phải lề đường. “Gia đình Flanagan giờ ra sao nhỉ?”. Ray hỏi khi hai người xuống xe.
“Bố tớ bảo rằng cái hãng mua khu đất này đã đền bù một số tiền và họ dọn đi rồi.”
“Ở đây cứ như có ma ám ý, Ruth nhỉ,” Ray nói.
Hai người băng qua con đường vắng người. Trên cao bầu trời xanh nhạt điểm vài đám mây màu khói. Đứng từ dâu nhìn ra họ thấy được cả mặt sau tiệm sửa xe mô-tô của anh Hal phía bên kia đường ray xe lửa.
“Chẳng hiểu Hal Hecker có còn là chủ tiệm không nữa?”, Ruth nói. “Thời mới lớn tớ mê mẩn chàng ta lắm đấy.”
Rồi hai người đi vòng về hướng khu đất. Không ai nói gì. Ruth bước vòng như theo những đường xoáy cứ nhỏ dần lại quanh một trung điểm là cái hố và và vòng bờ vực không có cái gì đánh dấu rõ. Ruth đi trước dẫn đường, Ray theo sau. Nhìn từ xa thì hố trông không có gì nguy hiểm – giống một bãi bùn rộng ngày càng khô hạn nước. Quanh hố đây đó có những mảng cỏ dại mọc um tùm và nếu đến gần nhìn kỹ hơn ta thấy hình như đó không phải là đất nữa, mà là một thứ thịt màu ca-cao nâu nhạt, mềm và mặt lồi lên, hút tất cả mọt thứ gì đặt trên bề mặt nó xuống đáy.
“Sao bạn dám chắc nó sẽ không nuốt chửng bọn mình?”, Ray hỏi.
“Tại mình không đủ nặng,” Ruth đáp.
“Phải dừng bước ngay nếu thấy đất lún xuống.”
Nhìn hai người tôi nhớ lại lúc nắm tay Buckley hôm mấy bố con tôi đem tủ lạnh đi vứt. Trong lúc bố tôi trò chuyện với ông Flanagan thì Buckley và tôi lần mò tới chỗ dốc dài xuống và đất mềm mềm, nói có trời chứng, lúc ấy tôi cảm thấy đất dưới chân mình hơi thụt xuống. Cảm giác đó giống như khi đang đi trong nghĩa trang nhà thờ, bỗng dưng hụt hẫng, chân đạp phải ngách hang bọn chuột chũi khoét giữa các mộ bia.
Cuối cùng thì chính vì nhớ lại về lũ chuột chũi này – hình ảnh thấy trong sách về một loài vật mù lào, luôn sục mũi đánh hơi, giành ăn với nhau – nên tôi thấy là bị chôn dưới lòng đất trong một két sắt nặng trịch còn hơn. Ít ra két sắt còn cản được chuột chũi.
Lúc Ruth nhón chân đi tới chỗ cô nàng cho là bờ vực thì tôi nhớ lại tiếng cười giòn giã của bố tôi vào cái ngày xa xưa ấy. Trên đường về nhà tôi đã nghĩ ra một câu chuyện cho em trai tôi: rằng dưới cái hố sụt đó có cả một ngôi làng mà không ai biết và dân làng đón nhận những máy móc gia dụng này như quà tặng từ thiên đàng mặt đất. “Khi vớ được tủ lạnh của nhà ta,” tôi kể thế, “họ sẽ ca ngợi chúng ta, vì họ là một tộc ít người tí hon rất thích lắp ráp các thứ lại như cũ.” Tiếng bố cười vang trong xe.
“Ruthie này”, Ray nói, “tới gần thế đủ rồi.”
Các ngón chân của Ruth nằm trên chỗ đất mềm, chỉ gót chân còn đặt trên chỗ đất cứng, nhìn cô nàng tôi có cảm tưởng cô nàng sắp duỗi thẳng các ngón tay, dang hai tay lên cao rồi phóng xuống sâu đến tận bên cạnh tôi. Nhưng Ray đã tiến sát tới sau lưng cô nàng.
“Có vẻ như cuống họng trái đất đang ở vậy.” cậu nói.
Cả ba chúng tôi chăm chú nhìn góc của một khối bằng kim loại đang trồi lên.
“Máy Maytag đời 69, nổi danh một thời,” Ray nói.
Nhưng đó không phải là máy giặt hay két sắt, mà là một cái bếp ga cũ rích màu đỏ đang xê dịch chầm chậm.
“Bạn có bao giờ nghĩ xem xác của Susie Salmon bị vùi ở đâu không?”, Ruth hỏi.
Tôi thật muốn chui ra khỏi chỗ bụi cây rậm phủ một phần chiếc xe màu xanh đá băng của hai người, băng qua đường, nhảy xuống đáy vực kia rồi ngoi lên, vỗ nhẹ vai cô nàng mà nói: “Tớ đây! Bạn đoán ra rồi! Trúng phóc! Bóng vào lưới rồi!”
“Chưa”, Ray đáp. “Chuyện đó tớ phải nhường cho bạn thôi.”
“Mọi thứ ở đây giờ thay đổi hết. Lần nào tớ về thăm nhà cũng thấy có cái gì đó vừa biến mất đi, khiến vùng này khác mọi nơi trên đất nước này,” Ruth nói.
“Bạn có muốn vào trong ngôi nhà này không?”, Ray hỏi, nhưng tâm trí đang bận nghĩ đến tôi. Nhớ lại ở tuổi mười ba anh chàng đã si mê tôi như thế nào. Anh chàng thấy rôi đằng trước, trên đường đi học về. Nhớ lại một lô chi tiết vụn vặt: cái váy kẻ ô lùng thùng của tôi, chiếc áo vét đính lông con Holiday, cách chúng tôi đi về nhà, mái tóc nâu màu lông chuột của tôi phản chiếu nắng trưa, những đốm sáng chờn vờn nhảy nhót khi hai chúng tôi nối bước nhau. Thế rồi, ít hôm sau đó, trong giờ xã hội học, anh chàng đứng lên cầm nhầm bài luận văn về Jane Eyre mà đọc, thay vì bài về cuộc chiến tranh năm 1812, tôi nhìn anh chàng bằng ánh mắt mà anh chàng thấy là đầy cảm tình.
Ray đi về phía tòa nhà nay mai sẽ bị phá sập, những nắm đấm cửa và vòi nước nào trong nhà còn dùng được thì ông Connors đá tháo mang đi vào một buổi tối nọ. Ruth đứng lại trên bờ vực. Lúc Ray đã vào trong nhà rồi thì sự việc mới xảy ra. Cô nàng thấy tôi, rõ như ban ngày, đang đứng ngay bên cạnh cô nàng, nhìn xuống chỗ tên Harvey đã quẳng xác tôi.
“Susie”, Ruth càng cảm thấy rõ rệt hơn sự hiện diện của tôi, khi gọi tên tôi.
Nhưng tôi lặng thinh.
“Tớ đã làm thơ về bạn,” Ruth lên tiếng để bằng cách đó giữ tôi ở lại bên cô nàng. Điều cô nàng ao ước được một lần trong đời cuối cùng đang diễn ra. “Bạn không có ước nguyện gì nữa ư, Susie?”, cô nàng hỏi.
Thế rồi tôi biến mất.
Ruth đứng đó, choáng váng chờ đợi trong ánh sáng xám nhạt của mặt trời Pensylvania. Câu hỏi của cô nàng cứ văng vẳng bên tai tôi: “Bạn không có ước nguyện gì nữa ư?”
Tiệm sửa xe của anh Hal bên kia đường ray hôm nay đóng cửa. Anh nghỉ làm, đưa Samuel và Buckley cùng đi xem triển lãm xe mô-tô ở Radnor. Tôi thấy hai tay Buckley vuốt ve cái vè hình vành cung bánh trước của một chiếc xe máy mini. Sắp đến sinh nhật nó rồi. Anh Hal và Samuel chăm chú nhìn nó. Anh Hal định tặng em trai tôi chiếc kèn xăcxô antô cũ của Samuel, nhung bà ngoại Lynn xen vào ngay. “Nó đang có nhu cầu phang nện lên các thứ, cháu ạ,” bà nói. “Ba cái thứ mỏng mảnh phải cất đi.” Thế là anh Hal và Samuel chung tiền mua lại một dàn chiêng trống cũ cho em trai tôi.
Bà ngoại Lynn đến khu thương xá tìm máy bộ y phục giản dị mà lịch sự để thuyết phục mẹ tôi mặc. Với những ngón tay thoăn thoắt sau nhiều năm quen làm như thế, bà lôi cái áo màu xanh dương từ dây móc treo toàn quần áo màu đen. Tôi nhìn cả sắc mặt người đàn bà đứng cạnh bà ngoại chuyển sang màu xanh vì tiếc rẻ.
Ở nhà thương mẹ tôi đang đọc to cho bố nghe tờ Bản tin ban chiều của hôm trước, còn bố nhìn đôi môi bà mấy máy chứ tai không chú ý nghe. Ông chỉ mong được hôn bà.
Còn Lindsey.
Tôi thấy tên Harvey rẽ vào khu nhà cũ của tôi ngay giữa ban ngày ban mặt, không lo sẽ có ai nhận diện vì hắn tin tưởng mình có khả năng không để ai thấy – ngay ở đây, trong khu láng giềng nơi nhiều người từng tuyên bố sẽ không bao giờ quên được mặt hắn, rằng họ luôn thấy hắn có vẻ gì khắc lạ, họ đã ngờ ngay từ đầu rằng người vợ quá cố mà hắn nhắc đến bằng mấy tên khác nhau chính là một trong những nạn nhân của hắn.
Lindsey đang ở nhà một mình.
Tên Harvey lái xe chạy ngang qua nhà bé Nate trong phần nối dài của khu gia cư này. Mẹ của Nate đang ngắt tỉa nhưng bông hoa héo ở các luống hoa hình bầu dục ở vườn trước. Bà ngẩng lên nhìn xe chạy qua. Bà thấy một chiếc xe lạ, lắp ráp từ nhiều mảnh, nghĩ là xe của bạn học một trong những cô cậu sinh viên nào đấy về nhà nghỉ hè. Bà không nhìn thấy tên Harvey ngồi ở ghế lái. Hắn rẽ trái vào con đường ngay mạn dưới, đường này vòng lại khu hắn ở ngày xưa. Con Holiday ư ử dưới chân tôi, vẫn thứ tiếng rên rỉ yếu ớt mỗi khi chúng tôi đưa nó đi bác sĩ thú y.
Bà Ruana Singh đang ngồi quay lưng ra không thấy hắn. Tôi nhìn qua cửa cổ phòng ăn thấy bà trong đó, đang xếp chồng sách mới theo thứ tự chữ cái rồi sắp ngay ngắn lên giá. Trẻ con đang chơi đu, đi cà kheo, hoặc đuổi nhau bằng súng phun nước trong vườn sau nhà. Một khu dân cư đầy những kẻ có thể trở thành nạn nhân của hắn.
Hắn đánh một vòng ở cuối con đường nhà chúng tôi rồi chạy qua cái công viên nhỏ đối diện nhà gia đình Gilbert. Họ đang ở nhà. Bà Gilbert giờ đã già yếu. rồi hắn thấy ngôi nhà xưa, không sơn màu xanh lá cây nữa, tuy với tôi và gia đình đó vẫn cứ là “ngôi nhà màu lục”. Người chủ mới đã sơn màu tím hoa cà ngả sắc hoa oải hương, xây một bể bơi và ngay bên cạnh, gần cửa sổ tầng hầm, một tòa vọng lâu bằng gỗ cây củ tùng, quanh có dây thường xuân leo rủ lòng thong, đồ chơi trẻ con treo lủng lẳng. những luống hoa trước nhà đã được thay băng đá lát để lối đi được rộng rãi, còn hiên trước được lắp kính chịu lạnh, sau lớp kính hắn thấy trang trí như phòng làm việc. Hắn nghe tiếng cười của các bé gái ngoài vườn, thấy một bà đội mũ che nắng cầm kéo tỉa cây bước ra cửa trước. Bà nhìn chằm chặp người đàn ông trong chiếc xe màu cam, thấy co giật trong bụng – cảm giác bụng rỗng mà nôn nao buồn nôn. Bà quay phắt vào nhà, đứng cửa cửa sổ tiếp tục theo dõi hắn. Chờ xem có gì xảy ra.
Hắn lái tiếp ngang qua mấy nhà nữa.
Em tôi đang có đó, đứa em gái yêu dấu của tôi. Hắn nhìn qua cửa sổ tầng trên thấy nó. Nó đã cắt tóc ngắn và mấy năm qua càng lớn càng thon thả, nhưng đúng là cô bé đó, đang ngồi bên bảng vẽ dung làm bàn viết, đọc một quyển sách về tâm lý.
Đúng lúc ấy tôi thấy tất cả đi thành một đám đông lũ lượt đổ về.
Trong lúc hắn nhìn từng khung cửa sổ nhà cũ của tôi và tự hỏi các người khác trong nhà tôi đang ở đâu – bố tôi có còn phải đi tập tễnh không – thì tôi thấy những gì còn sót của lũ thú vật và đoàn người toàn đàn bà con gái đi ra khỏi ngôi nhà cũ của tên Harvey. Tất cả nhốn nháo chen nhau đi tới cùng một lúc. Hắn nhìn em gái tôi mà nhớ tới mấy tấm khăn trải giường hắn phủ lên những chiếc cọc lều hợp hôn. Ngày ấy, hắn đã nhìn thẳng vào mắt bố tôi khi ông thốt ra tên tôi. Còn con chó – luôn sủa om đằng trước nhà hắn – chắc đã chết rồi.
Lindsey đi đi lại lại sau khung cửa sổ. Tôi quan sát hắn đang theo dõi em tôi. Nó đứng lên, đi vòng, tiến về cuối phòng chỗ kệ sách cao sát trần. Lindsey với tay lôi xuống một quyển sách. Khi em trở lại bàn và mắt hắn dán lên khuôn mặt em thì hắn chợt thấy trong kính chiếu hậu một chiếc xe tuần tra sơn đen trắng đang từ từ tiến lại gần.
Hắn biết có chạy cũng không thoát nổi. Hắn ngồi yên trong xe, chuẩn bị mấy nét của bộ mặt hắn luôn trưng ra trước nhân viên công lực hàng chục năn nay – bộ mặt một kẻ lễ phép làm người ta thương hại hoặc khinh bỉ nhưng không bao giờ buộc lỗi. Trong lúc viên cảnh sát chạy xe lại cạnh xe hắn, mấy người đàn bà len qua cửa sổ xe, còn lũ mèo nằm cuộn mình quanh chân hắn.
“Ông lạc đường à?”, viên cảnh sát trẻ hỏi khu ngừng xe cạnh chiếc xe màu cam.
“Trước kia tôi cư ngụ tại đây,” tên Harvey đáp. Tôi giật nẩy người. Hắn chọn cách khai hết sự thật.
“Có người gọi báo cho chúng tôi về một chiếc xe khả nghi.”
“Tôi nhận ra người ta đang xây mới trên khu này, ngày xưa là cánh đồng ngô,” tên Harvey nói. Thế là tôi biết rằng một phần thi thể của mình nhập đoàn với đám người và thú vật kia, lả tả rơi rụng, những mẩu mảnh nào hắn muốn giữ lại cho riêng mình thì rơi như mưa vào lòng xe hắn.
“Họ xây trường học lớn thêm ra.”
“Tôi thấy vùng này trông phồn thịnh hơn,” hắn nói với vẻ luyến tiếc.
“Có lẽ ông nên rời khu này chạy tiếp đi,” viên cảnh sát nói. Ông thấy tội cho tên Harvey phải lái chiếc xe lắp ráp nhiều mảnh, song tôi để ý thấy ông ta có ghi số xe.
“Tôi đâu có ý làm ai lo lắng sợ hãi đâu.”
Tên Harvey là một tay lõi đời, nhưng lúc đó tôi không hề quan tâm. Sau mỗi đoạn đường hắn vượt qua, tôi lại tập trung vào Lindsey đang đọc sách ở nhà, vào những dữ liệu từ những trang sách ấy thâm nhập và bộ não của em, vào chuyện em thông minh và đa tài đến mức nào. Ở đại học Temple em đã quyết định sẽ trở thành bác sĩ chuyên khoa. Rồi tôi nghĩ tới cái hỗn hợp không khí ở khoảnh vườn trước nhà chúng tôi, ánh sáng ban ngày, một bà mẹ có tật buồn nôn và một viên cảnh sát – bao nhiêu là cơ may hội tụ bảo đảm an toàn cho em gái tôi đến bây giờ. Mỗi ngày vẫn là một dấu chấm hỏi.
Ruth không kể cho Ray chuyện vừa xảy ra. Cô này tự hứa sẽ ghi vào nhật ký. Khi cả hai băng qua đường để ra xe, Ray thấy có thứ gì màu tim tím trong bụi cây nằm ở lưng chừng gò đất lẫn rác mà nhóm thợ xây cất nào đó trút xuống đấy.
“Cây nhạn lai hồng,” anh chàng nói với Ruth. “Tớ ra hái một ít mang về cho bà cụ.”
“Ý hay đấy, bạn cứ làm, mình đợi đây,” Ruth đáp.
Ray chui vào bụi cây quan sát phía tay lái của xe rồi lên đồi đi về phía bụi hoa nhạn lai hồng, còn Ruth đang đứng chỗ đỗ xe. Lúc nào tâm trí Ray không bận bịu về tôi nữa. anh chàng đang nghĩ đến nụ cười của bà mẹ. Cách chắc chắn nhất khiến bà nhoẻn miệng cười là tìm các loại hoa dại như vậy mang về nhà, xem bà ép hoa, việc đầu tiên là trải từng cánh hoa đặt nằm cho phẳng giữa các trang từ điển hoặc sách tra cứu. Ray leo lên đỉnh ụ đất rồi đi khuất xuống phía bên kia hi vọng tìm ra thêm nhiều hoa nữa.
Đúng lúc ấy tôi mới cảm thấy đau nhói dọc theo cột xương sống khi bóng dáng anh chàng chợt khuất sau ụ đất. Tôi nghe tiếng con Holiday, nỗi hoảng sợ của nó nằm thật sâu trong cuống họng, và nhận ra nó rên ư ử không phải vì lo cho Lindsey. Tên Harvey vừa lái đến đỉnh Eels Rod Pike, nhìn thấy cái hố sụt và những ụ hình tháp dùng chắn đường sơn màu cam cùng màu xe hắn. Hắn từng vứt một thi thể xuống đó. Hắn nghĩ đến viên đá hộ mệnh màu hổ phách của mẹ hắn, nhớ khi bà ta trao cho hắn viên đá vẫn còn ấm.
Ruth nhìn những người đàn bà bị lèn đầy xe, áo đỏ như máu, cô nàng tiền về phía họ. Chính trên con đường này, nơi vùi xác tôi, tên Harvey lại chạy xe ngang qua chỗ Ruth đứng. Cô nàng chỉ nhìn thấy đám đàn bà con gái. Thế rồi: blackout (1).
Đó là giây phút tôi rơi xuống cõi trần.
Het 21
--------------------------------
Chương hai mươi hai
Ruth khụy xuống lòng đường ngất đi. Lúc đó tôi còn tỉnh táo để biết. Còn chuyện tên Harvey đến đây mà không ai theo dõi, lưu tâm hay tra hỏi, nên dong xe đi thoát - thì tôi không được biết.
Người tôi chao đảo không gượng lại được, tôi mất thăng bằng. Tôi ngã nhào qua cửa vọng lâu đang mở ngỏ, trượt suốt cả bãi cỏ vượt qua những lằn ranh nằm ngoài cùng của thiên đường tôi từng sống bao nhiêu năm nay.
Tôi nghe tiếng Ray hét lên trong không trung phía trên tôi, tiếng anh chàng la hoảng đánh một vòng cung như cầu vồng. “Ruth, không sao chứ?” rồi anh chàng đưa tay ôm lấy cô nàng.
“Ruth ơi, Ruth”, anh chàng la lên. “Có chuyện gì vậy?”
Tôi ở trong đôi mắt Ruth và đang ngước nhìn lên. Tôi cảm thấy bờ lưng cô nàng áp sát mặt đường, những vết trầy trụa dưới lớp áo quần cô nàng do bị những viên đá sắc cạnh cứa vào da thịt. Tôi cảm nhận bằng mọi giác quan – hơi ẩm mặt trời, mùi nhựa đường – nhưng tôi không cảm thấy Ruth đâu.
Tôi nghe tiếng sôi lục bục từ trong phổi Ruth, cảm thấy bao tử cô nàng đang trộn trạo, nhưng biết trong phổi cô nàng vẫn còn khí trời. Thế rồi một sức ép làm cơ thể căng ra. Cơ thể của cô nàng. Ray cúi nhìn tôi, đôi mắt anh chàng – màu xám, co giật, láo liên nhìn suốt dọc hai bên đường xe mong có ai đến giúp một tay mà mãi không thấy. Trước đó anh chàng không nhìn thấy chiếc xe của tên Harvey, nhưng đã chui ra được khỏi lùm cây, vẻ mặt hân hoan, tay cầm bó hoa dại sẽ đem về tặng me, rồi bỗi nhìn thấy Ruth nằm sõng soài trên mặt đường.
Từ bên trong, Ruth đang cố đẩy lớp da của mình để thoát ra ngoài. Cô nàng đang vùng vẫy hết cách để rời bỏ trong khi tôi đã ở bên trong cô nàng, phải giằng co với cô nàng để len vào. Tôi muốn níu cô nàng lại, muốn đạt điều bất khả thi thuộc quyền đấng Tạo hóa, nhưng cô nàng nhất định thoát ra. Không có gì và không có ai níu giữ cô nàng được. Bay bổng. Tôi nhìn xuống như vẫn làm bao năm trên thiên đường, nhưng lần này tôi chỉ thấy một vệt mờ nhạt bên cạnh mình. Nỗi khoái cảm và cơn thịnh nộ đang lớn dần lên.
“Ruth ơi”, Ray gọi. “Bạn có nghe mình nói không, Ruth?”
Ngay trước lúc Ruth nhắm mắt lại, mọi ánh sáng tắt ngấm và thế giới xáo tung cả, tôi nhìn sâu vào đôi mắt xám của Ray Singh, nhìn làn da nâu ngăm ngăm của anh chàng, nhìn đôi môi đã từng hôn tôi. Rồi, như một bàn tay thoát khỏi còng, Ruth bay lướt ngang qua anh chàng.
Đôi mắt Ray mời tôi đi tới, cùng lúc đó việc đứng ngoài mục kích của tôi giờ nhường cho nỗi niềm khát vọng đáng thương: một lần nữa được làm người bằng xương bằng thịt ở dương thế. Tôi không phải đứng nhìn từ trên cao nữa mà được là người trong cuộc - điều tuyệt diệu nhất trên đời.
Đâu đó trong Cõi Lưng Chừng xanh thẳm tôi có nhìn thấy Ruth – cô nàng chạm phớt người tôi khi tôi rơi xuống dương thế. Nhưng cô nàng không phải là cái bóng của một hình nhân, không phải một hồn ma. Cô nàng là một cô gái khôn ngoan, phá bỏ mọi ràng buộc.
Và tôi đang ở trong cơ thể cô nàng.
Tôi nghe có tiếng ai gọi tên mình từ trên thiên đường. Đó là tiếng Franny. Bà đang chạy về hướng tòa vọng lâu, miệng gọi tên tôi. Con Holiday sủa to đến nỗi âm thanh vang ngược lại , quay lòng vòng ở đáy cuống họng. Rồi bỗng dưng Franny với Holiday cùng biến mất, tất cả lại im ắng. Tôi cảm thấy có gì đấy níu giữ tôi lại trên mặt đất, và có một bàn tay trong tay tôi. Hai tai tôi như biển cả, trong đó những gì tôi biết, những giọng nói, gương mặt, những sự kiện bắt đầu chìm xuống đáy. Kể từ khi tôi qua đời, đây là lần đầu tiên tôi lại mở mắt ra, thấy một đôi mắt màu xám đang nhìn mình. Dần dần khi nhận ra sức nặng tuyệt vời đang đè lên mình là trọng lượng một thân người, tôi mới nằm yên.
Tôi cố hé môi để nói.
“Đừng”, Ray nói. “Có chuyện gì vậy?”
Mình chết rồi, tôi muốn kể với anh chàng như vậy. Làm cách nào nói được câu này nhỉ: “Mình qua đời rồi, bây giờ lại trở về thế giới người sống”?
Ray quỳ xuống. Hoa anh chàng hái cho bà Ruana nằm vương vãi quanh chỗ anh chàng và trên người tôi. Tôi nhìn ra vòng sáng hình bầu dục của chúng in trên áo quần màu sẫm của Ruth. Thế rồi Ray áp tai lên ngực tôi nghe nhịp thở. Anh chàng đặt một ngón tay lên phía trong cổ tay để bắt mạch.
“Bạn bị ngất à?”, chẩn xong anh chàng hỏi.
Tôi gật đầu. Tôi biết mình có ân huệ được về lại cõi trần này nhung không phải để ở mãi mãi, rằng mong ước của Ruth giới hạn trong một quãng thời gian nhất định.
“Chắc không sao đâu,” tôi thử lên tiếng nhưng giọng tôi quá yếu, xa xôi khiến Ray không nghe rõ. Tôi cố mở căng mắt, nhìn dán vào mắt anh chàng. Có gì đấy hối thúc tôi bay lên. Tôi tưởng mình đang bay lên trời, đang trở về rồi chứ, nhưng hóa ra tôi chỉ gượng đứng lên thôi.
“Ruth à”, Ray nói. “Nếu bạn thấy còn yếu thì cứ nằm yên. Mình bế bạn ra xe.”
Tôi rạng rỡ, mỉm nụ cười cả nghìn watt với anh chàng. “Mình khỏe mà”, tôi nói.
Anh chàng chăm chú nhìn tôi, lưỡng lự buông cánh tay tôi ra, nhưng vẫn giữ chặt bàn tay kia. Anh chàng cùng đứng lên một lượt với tôi và những bông hoa dại rơi lả tả xuống. Trên thiên đường, đám phụ nữ cũng đang tung những cánh hoa hồng khi trông thấy Ruth Connors.
Tôi nhìn khuôn mặt khôi ngô của anh chàng đang rạng lên với nụ cười xem nét kinh ngạc. “Vậy là bạn bình thường lại rồi,” anh chàng nói. Với vẻ cẩn trọng, anh chàng kề mặt thật gần, đủ gần để có thể hôn tôi được, nhưng anh chàng bảo là đang kiểm tra xem hai đồng tử mắt tôi có mở to như nhau không.
Tôi cảm thấy được toàn sức nặng của cơ thể Ruth, cả cảm giác tuyệt vời khi cả hai vú và cặp đùi đung đưa nhún nhảy, nhưng đồng thời cả ý thức phải nhận một trách nhiệm nặng nề. Tôi là một linh hồn trở lại trần thế. AWOL (1), chuyển rời thiên đường tạm vắng ít lâu, tôi lại được tặng một món quà. Tôi lấy hết sức bình sinh, cố gượng đứng thẳng người lên.
“Ruth à?”
Tôi cố làm quen với cái tên này. “Sao cơ?”, tôi đáp.
“Bạn đổi khác rồi,” anh chàng nói. “Có gì đổi khác trước.”
Chúng tôi đứng gần như ngay giữa đường, song đây là khoảnh khoắc của tôi. Tôi rất muốn kể cho anh chàng biết, nhưng kể gì đây? Chẳng lẽ nói: “Mình là Susie đây, mình chỉ được phép có một thời gian ngắn ngủi.” Tôi sợ không dám nói.
Thế nên tôi bảo: “Hôn mình đi.”
“Sao cơ?”
“Bạn không thích à?” Tôi đưa hai tay lên sờ mặt anh chàng, cảm thấy mấy sợi râu lởm chởm tám năm trước chưa có.
“Chuyện gì xảy ra với bạn thế?”, anh chàng sửng sốt hỏi.
“Thỉnh thoảng có những con mèo rơi từ cửa sổ tầng lầu thứ mười xuống đất mà chẳng hề hấn gì. Người ta tin là thật vì thấy đăng lên báo.”
Ray nhìn tôi đăm đăm, vẻ hoang mang. Anh chàng cúi xuống, môi chúng tôi chạm nhau, âu yếm dịu dàng. Tôi cảm thấy đôi môi giá lạnh của anh chàng cả ở nơi sâu thẳm tận cùng cơ thể mình. Thêm một cái hôn nữa, gói hàng quý giá, món quà tôi lén đánh cắp được. Mắt anh chàng gần sát đến nỗi tôi nhìn thấy cả những đường vân xanh trong con ngươi màu xám.
Tôi nắm lấy tay anh chàng, hai chúng tôi im lặng quay ra xe. Tôi để ý thấy anh chàng chậm bước lại, kéo cánh tay tôi ra phía sau trong lúc vẫn nắm tay, nhìn toàn vóc người Ruth để xem cô nàng bước đi có vững chãi chưa.
Anh chàng mở cửa bên, tôi ngồi vào ghế, đặt chân lên sàn xe lót thảm. Vòng sang bên kia, cúi người chui vào xe, anh chàng còn chằm chặp nhìn tôi lần nữa.
“Có gì không ổn sao?’
Anh chàng lại hôn nhẹ lên môi tôi. Đó là điều tôi ao ước bầy lâu nay. Thời gian trôi chậm lại và tôi tận hưởng nó. Môi anh chàng chạm môi tôi, những cọng râu lún phún cạ nhẹ, âm thanh của nụ hôn – tiếng mút ngắn khi môi chúng tôi áp chặt vào nhau, rồi rứt ra đứt đoạn đột ngột. Âm thanh này vang vọng suốt con đường hầm hun hút của nỗi cô đơn khi tôi nhìn bao người trần thế vuốt ve âu yếm nhau. Tôi chưa bao giờ được ve vuốt như thế. Tôi đã phải chịu đau đớn vì những bàn tay không hề biết đến dịu dàng. Nhưng sau khi tôi chết, mặt trăng rọi một luồng ánh sáng xoáy và chớp chớp lên tận thiên đường của tôi – đó là nụ hôn của Ray Singh. Hình như Ruth cũng biết điều này.
Đầu tôi lại lùng bùng khi nghĩ đến việc tôi đang ẩn náu trong cơ thể Ruth – rằng Ray hôn tôi hay khi chúng tôi nắm tay nhau thì nỗi khao khát là của riêng tôi, chứ không phải của Ruth, rằng chính tôi chiếm cứ toàn bộ thịt, da của Ruth. Tôi trông thấy Holly. Cô nàng ngửa cổ cười ngặt nghẽo, rồi tôi nghe tiếng con Holiday sủa ai oán, vì tôi trở về nơi ngày xưa tôi từng sống với nó.
“Bạn định đi đâu đấy?” Ray hỏi.
Đây là một câu hỏi bao hàm đủ ý, muốn trả lời cũng vô vàn cách. Tôi biết mình không muốn truy đuổi tên Harvey. Tôi nhìn Ray và biết lý do vì sao mình đang ở đây. Để giành lấy một mảnh thiên đường mà tôi chưa từng được hưởng.
“Đến tiệm sửa xe mô-tô của Hal Heckler,” tôi nói, giọng chắc nịch.
“Sao cơ?”
“Bạn hỏi thì mình trả lời đấy,” tôi nói.
“Ruth ơi?”
“Sao?”
“Tớ hôn bạn lần nữa được không?”
“Được”, tôi đáp, mặt đỏ ửng lên.
Trong lúc chờ nóng máy xe anh chàng chồm người sang phía tôi, rồi môi chúng tôi lại chạm nhau, có Ruth đang đứng kia, thuyết giảng cho những ông già đội mũ bê-rê, mặc áo cổ lọ đen đang giơ bật lửa lên cao huơ qua huơ lại, hô tên cô nàng nhịp nhàng như ca hát.
Ray ngồi thẳng người lại, nhìn tôi hỏi: “Có chuyện gì thế.”
“Khi bạn hôn, mình nhìn thấy thiên đường,” tôi đáp.
“Thế thiên đường trông ra sao?”
“Mỗi người thấy một khác.”
“Tớ muốn biết rõ chi tiết,” anh chàng mỉm cười nói. “Cụ thể.”
“Làm tình với mình đi,” tôi đáp, “rồi mình sẽ kể cho nghe.”
“Bạn là ai?”, anh chàng hỏi, nhưng tôi biết là chính anh chàng cũng không rõ mình hỏi gì.
“Máy nóng rồi đấy,” tôi nói.
Tay anh chàng chụp lấy cần số mạ kền bóng loáng cạnh tay lái, rồi chúng tôi, một trai một gái, lái đi – bình thường như chuyện thấy hàng ngày. Nắng chiếu vào tầm mica vỡ trên mặt đường cũ vá víu khi anh chàng cho xe quay đầu lại.
Chúng tôi lái xuống cuối đường Flat rồi tôi chỉ vào con đường đất phía bên kia mỏm Eels Rod Pike dẫn đến chỗ từ đó chúng tôi có thể băng qua đường xe lửa.
“Chẳng bao lâu nữa mọi thứ ở đây sẽ thay đổi hết,” Ray nói trong lúc phóng xe qua bãi đá dăm để chạy vào con đường đất. Đường ray xe lửa một hướng đi về thành phố Harrisburg, hướng kia dẫn đến Philadenphia, suốt dọc đường có những tòa nhà đang bị phá sập, nhiều gia đình gốc gác ở đây lâu đời dọn đi, các chủ hãng kỹ nghệ từ nơi khác lại đổ đến.
“Bạn có định ở lại vùng này sau khi học xong không?”, tôi hỏi.
“Chẳng ai ở lại cả, bạn biết mà,” Ray đáp.
Tôi gần như lóa mắt trước khả năng đó; trước ý nghĩ rằng giả thử vẫn còn sống ở dương thể tôi có thể rời nơi này, tìm đến nơi khác, đi bất cứ nơi nào tôi thích. Rồi tôi tự hỏi liệu trên thiên đường có giống như dưới trần thế này không. Phải chăng điều tôi thấy mình chưa có là thú viễn du, chỉ có đươc khi ta buông ra, không bám víu níu giữ gì nữa.
Chúng tôi chạy vào dải đất hẹp đã giải tỏa nằm dọc hai bên tiệm của anh Hal. Ray dừng xe lại, kéo phanh tay.
“Sao lại đến đây?”
“Bạn nên nhớ bọn mình đang thám hiểm mà.” Tôi dẫn anh chàng ra sau tiệm rồi với tay lên khung cửa cho tới lúc mò thấy chìa khóa giấu ở đấy.
“Làm sao bạn biết được vậy?”
“Mình đã thấy hàng trăm người giấu chìa khóa rồi,” tôi đáp. “Đâu phải là thiên tài mới đoán được.”
Bên trong mọi thứ vẫn y nguyên như trong ký ức tôi, không khí vẫn nặng mùi dầu nhớt.
“Mình phải đi tắm đây,” tôi nói. “Sao bạn không thoải mái như đang ở nhà của mình?”
Tôi đi ngang qua giường, kéo dây bật đèn – mọi ngọn đèn trắng tí hon trên đầu giường anh Hal liền ngời sáng, ánh sáng duy nhất ở đây, không kể luồng ánh sáng đục chiếu qua cửa sổ con ở tường sau.
“Bạn đi đâu đấy?”, Ray hỏi. “Làm sao bạn biết chỗ này?”
Giọng anh chàng thảng thốt, nghe có nỗi hốt hoảng mới đây chưa có.
“Ray ơi, chịu khó chờ một lát,” tôi đáp. “Rồi mình sẽ nói cho nghe.”
Tôi vào nhà căn buồng tắm nhỏ, cố ý để hé cửa. Lúc cởi hết quần áo của Ruth và chờ cho nước đủ độ nóng, tôi hy vọng Ruth thấy được tôi, thấy cơ thể của cô nàng, như tôi cũng đang ngắm, một thần hình hoàn mỹ đầy sức sống.
Buồng tắm có ẩm và có mùi mốc, bồn tắm loang lổ sau nhiều năm chỉ xả nước xuống ống thoát còn thì không làm gì khác. Tôi bước vào bồn tắm cũ kỹ có chân hình móng, đứng dưới vòi nước. dù đã vặn mức nóng tối đa, tôi vẫn cảm thấy lạnh. Tôi gọi tên Ray, bảo anh chàng cứ bước vào buồng tắm.
“Tớ thấy bạn sau màn tắm mà,” anh chàng nói, quay nhìn chỗ khác.
“Có sao đâu,” tôi nói. “Mình thích thế. Cởi đồ ra rồi vào đây với mình đi”.
“Susie”, anh chàng nói, “bạn biết mình không làm thế được.”
Tim tôi ngừng đập. “Bạn vừa nói gì?”, tôi hỏi. Tôi căng mắt nhìn mắt Ray qua lớp ni lông màu trắng trong anh Hal dùng làm màn tắm: một vóc dáng sẫm màu với hàng trăm chấm sáng viền quanh.
“Tớ nói rằng tới không làm thế được.”
“Bạn vừa gọi mình là Susie.”
Yên ắng hẳn, mãi một lúc sau anh chàng mới kéo màn tắm ra, thận trọng chỉ nhìn vào mặt tôi.
“Susie phải không?”
“Vào đây với mình,” tôi nói, mắt rưng rưng. “Vào đây với mình đi.”
Tôi nhắm mắt lại, chờ đợi. Tôi cúi đầu hứng nước tỏa xuống, cảm thấy sức nóng của nước bắn như kim châm khắp trên má, gáy, ngực bụng và vùng bẹn của tôi. Rồi tôi nghe tiếng anh chàng mò mẫm cởi quần áo, tiếng khóa thắt lưng rơi xuống sàn xi măng lạnh, tiếng tiền xu rơi khỏi túi quần của anh chàng.
Dự cảm về hạnh phúc của tôi lúc này cũng giống như ngày xưa còn bé thỉnh thoảng tôi vẫn có, khi nằm trên ghế sau, nhắm nghiền mắt trong lúc bố mẹ lái xe; tin chắc rằng khi xe ngừng chạy là về đến nơi, rằng bố mẹ sẽ nhấc mình lên bế vào nhà. Đó là dự cảm nảy sinh từ lòng tin tưởng tuyệt đối.
Ray kéo màn che ra. Tôi quay lại đối mặt với anh chàng và mở mắt ra. Cảm giác bắp thịt chỗ mé đùi non co giật làm tôi đê mê.
“Em sẵn sàng rồi,” tôi nói.
Anh chàng khoan thai bước vào bồn. Mới đầu anh chàng không đụng vào tôi, nhưng rồi anh chàng lần tay theo một vết sẹo trông như một dải ruy-băng.
“Ruth bị thương trong trận đấu bóng chuyền năm 1975,” tôi nói rồi lại run rẩy.
“Bạn không phải Ruth,” anh chàng nói, vẻ mặt sửng sốt.
Tôi nắm bàn tay đã lần tới cuối vết sẹo, đặt nó dưới ngực trái của tôi.
“Em vẫn theo dõi cả hai người từ nhiều năm nay,” tôi nói. “Em muốn anh yêu em đi.”
Đôi môi anh chàng hé ra định nói, nhưng cái điều đang nằm trên đầu lưỡi kia quái lạ quá nên không thốt ra được. Ngón cái anh chàng mân mê núm vú của tôi, còn tôi kéo đầu anh chàng sát người. Chúng tôi hôn nhau. Nước từ vòi tỏa xuống hay cơ thể chúng tôi làm ướt đám lông lưa thưa trên ngực và bụng anh chàng. Tôi hôn anh chàng, vì tôi muốn thấy Ruth lẫn Holly, và tôi rất muốn biết họ có thấy tôi không. Dưới nước vòi hoa sen tôi được khóc thỏa thuê và Ray hôn những giọt lệ đó nhưng sẽ chẳng bao giờ hiểu vì sao nước mắt tôi tuôn tràn.
Tôi vuốt ve, sờ nắn từng chỗ trên người anh chàng Tôi bọc lòng bàn tay quanh khuỷa tay anh chàng. Tôi lấy mấy ngón tay tôi chải lông mu anh chàng. Tôi nắm lấy bộ phận mà xưa kia tên Harvey đã ấn vào trong người tôi. Đầu óc tôi nghĩ chữ dịu dàng, nhưng tôi bật miệng nói chữ đàn ông.
“Ray à?’
“Mình không không biết ngọi bạn bằng tên gì.”
“Susie.”
Tôi đặt mấy ngón tay lên môi để anh chàng thôi không hỏi nữa. “Anh còn nhớ tờ thư viết cho em không? Có còn nhớ tự xưng là gã người Moor không?”
Trong một khoảnh khắc cả hai chúng tôi đứng yên, tôi nhìn những giọt nước đọng trên vai anh chàng một thoáng rồi lăn xuống dưới.
Không nói thêm một lời, anh chàng nhấc bổng tôi lên, còn tôi kẹp hai chân vòng qua người anh chàng. Anh chàng dịch người ra xa vòi nước để tựa vào thành bồn tắm. Khi anh chàng đã thâm nhập vào trong người tôi, tôi ghì lấy khuôn mặt anh chàng, hôn bằng hết sức lực mình có.
Sau một phút dài, anh chàng rút ra. “Kể anh nghe ở trên đó ra sao.”
“Đôi khi cũng giống như ở trường trung học,” tôi nói, chưa lấy lại hơi thở. “Em chưa bao giờ đến tận đấy, nhưng ở thiên đường của mình thì em tha hồ đốt pháo bông trong các lớp học hay chạy dọc hành lang tha hồ la hét. Nhưng không phải lúc nào cũng thế. Có lúc trong giống như ở Nova Scotia hay Tangiers hoặc Tây Tạng. Thiên đường giống như mọi thứ mình hằng mơ được thấy.”
“Ruth cũng đang ở đó sao?”
“Cô nàng đang tập diễn thuyết, nhưng sẽ lại về đây.”
“Thế em có thấy được chính mình ở trên đó không?”
“Hiện em đang ở đây mà,” tôi đáp.
“Nhưng em lại sắp đi mất rồi.”
Tôi không muốn nói dối. Tôi cúi đầu. “Đúng thế đấy, Ray ạ.”
Thế rồi chúng tôi lại làm tình, trong bồn tắm rồi trong phòng ngủ, dưới ánh đèn sáng hay ngôi sao giả. Những lúc anh chàng nghỉ lấy sức, tôi hôn dọc cột sống, từng múi cơ bắp, từng nốt ruồi, từng vệt bớt của anh chàng.
“Thôi đừng đi nữa,” anh chàng nói, rồi đôi mắt, hai viên ngọc sáng ấy, nhắm lại, và tôi lắng nghe hơi thở nhẹ khi anh chàng chìm vào giấc ngủ.
“Tên em là Susie,” tôi thì thầm, “họ là Salmon, nghĩa là cá hồi.” Tôi tựa đầu lên ngực anh chàng rồi thiếp đi.
Khi tôi mở mắt, cửa sổ phía đối diện ửng màu đỏ sẫm, tôi hiểu mình không còn nhiều thì giờ nữa. ngoài kia, thế giới mà tôi quan sát bấy lâu nay đang sống và thở trên mặt đất nơi tôi hiện đang có mặt. song tôi biết mình sẽ không đi ra thế giới đó. Tôi đã chọn dành hết khoảng thời gian đó cho tình yêu – để rơi vào trạng thái mê đắm yếu đuối không cách gì cứu độ, trạng thái mà tôi không thể cảm nhận ở thế giới bên kia – tình cảm bất lực của con người, mặt tối và sáng của số phận nhân sinh – tìm đường đi tới bằng cảm giác khi dò dẫm lần theo góc tường và vươn tay tìm đến ánh sáng – tất cả nhằm mục đích tìm ra con đường trong một môi trường chưa hề biết.
Cơ thể Ruth suy nhược dần. Tôi tựa đầu lên cánh tay ngắm Ray trong giấc ngủ. Tôi biết mình sắp phải đi.
Một lúc sau, khi Ray mở mắt, tôi nhìn anh, lấy ngón tay lần theo khuôn mặt anh chàng.
“Anh có bao giờ nghĩ về người chết chưa hở Ray?”
Anh chàng chớp mắt nhìn tôi.
“Anh học ngành y mà!”
“Không phải chuyện tử thi, bệnh tật hay nội tạng hư hoại, ý em muốn nói về những điều Ruth hay nhắc đến. em muốn nói về bọn em cơ.”
“Thỉnh thoảng anh có nghĩ tới thật,” anh chàng nói. “Anh vẫn luôn thắc mấc đấy chứ.”
“Bọn em vẫn ở đây, anh biết không,” tôi đáp. “Từng ngày. Anh có thể chuyện trò hay nghĩ đến chúng em. Đâu nhất thiết cứ phải cảm thấy buồn rầu hay sợ sệt.”
“Anh vuốt ve em lần nữa nhé?” Anh chàng duỗi chân đẩy tấm khăn trải giường để ngồi lên.
Ngay lúc ấy tôi nhìn phía chân giường của anh Hal có khối gì trông như mây mù đứng bất động. Tôi cố tự thuyết phục rằng ánh sáng, khối bụi mà tia nắng rọi qua, lại đánh lừa mắt mình. Thế nhưng, khi Ray đưa tay sờ vào người, tôi chẳng cảm thấy gì.
Ray cúi sát xuống hôn nhẹ lên vai tôi. Tôi không cảm thấy gì hết. Tôi lấy tay tự cấu vào người dưới chăn. Vẫn chẳng cảm thấy gì. Khối mây mù ở chân giường dần dần hiện hình rõ nét. Lúc Ray ra khỏi giường, đứng lên thì tôi thấy trong phòng đầy nghẹt người, đàn ông lẫn đàn bà.
“Ray ơi”, tôi kịp gọi trước khi anh chàng vào phòng tắm. Tôi thật muốn nói “em sẽ nhớ anh mãi” hay “ở lại đây đi” hay “cảm ơn anh”.
“Gì cơ.”
“Anh nhớ đọc nhật ký của Ruth nhé.”
“Nhất định anh sẽ đọc,” anh chàng đáp.
Tôi nhìn xuyên qua những bóng dáng tụ tập ở cuối giường, thấy anh chàng đang mỉm cười với tôi. Thấy vóc dáng dong dỏng thân yêu của anh chàng quay đi, bước đến bậc cửa. một kỷ niệm mong manh, bất chợt.
Lúc hơi nước từ trong phòng tắm bắt đầu tỏa ra, tôi lần dò đến chỗ chiếc bàn loại nhỏ dành cho trẻ em, nơi anh Hal nhét mớ hóa đơn và giấy tờ sổ sách. Tôi lại ngẫm nghĩ về Ruth, về việc chính tôi không thể thấy trước chuyện này – rằng một sự kỳ diệu mà Ruth vẫn mơ tưởng đến từ buổi hai đứa gặp nhau ở bãi đậu xe lại có thể thành hiện thực. Tôi nhận ra là dù ở thiên đường hay ở dưới trần thế tôi luôn muốn đánh đổi mọi thứ cho kỳ vọng của mình. Mơ sẽ thành nhà nhiếp ảnh thú rừng, mơ giật giải Oscar ở trường cao đẳng, mơ được hôn Ray một lần nữa. hãy xây mộng đi, rồi chờ xem chuyện gì sẽ đến!
Tôi chợt thấy có cái máy điện thoại, thế là nhấc ống nghe lên. Không kịp nghĩ ngợi gì, tôi quay số ở nhà, như khi cầm ổ khóa lên để quay đĩa số thì tự nhiên biết ngay mã số nào.
Chuông reo tới lần thứ ba mới có người nhấc máy.
“Alô?”
“Em đấy à, Buckley,” tôi nói.
“Ai đấy?”
“Chị Susie đây.”
“Ai đấy?”
“Susie, em cưng, chị cả của em đây mà.”
“Tôi chẳng nghe thấy gì hết,” nó nói.
Tôi trân trối nhìn máy điện thoại cả phút, rồi chợt ý thức họ đang có đó. Giờ đây căn phòng đầy những vong linh thầm lặng. Có cả người lớn lẫn trẻ em. “Các vị là ai? Từ đâu đến đây?” tôi hỏi, nhưng tiếng tôi nói không biến thành âm thanh gì cả. mãi đến lúc đó tôi mới kịp nhìn thấy. Tôi đang ngồi đấy nhìn những người kia, còn Ruth nằm, người vắt ngang mặt bàn viết.
“Ném cho anh xin cái khăn đi,” Ray vặn tắt nước rồi gọi vọng ra. Không nghe tôi trả lời, anh chàng bèn kéo tấm màn che. Tôi nghe tiếng anh chàng bước ra khỏi bồn tắm, bước qua cửa. Thấy Ruth nằm anh chàng chạy vội lại. Anh chàng chạm nhẹ lên vai Ruth, cô nàng mở mắt ra, còn mơ mơ màng màng. Hai người nhìn nhau. Cô nàng không cần phải nói gì. Anh chàng biết ngay rằng tôi đã ra đi.
Tôi nhớ có lần đi xe lửa với bố mẹ, Lindsey và Buckley, tôi ngồi ghế ngược hướng, lúc đó xe chạy vào đường hầm tối om. Cảm giác cũng giống như bây giờ khi tôi rời cõi trần lần thứ hai. Trạm cuối dù sao cũng đã định sẵn, còn phong cảnh dọc đường đã nhiều lần thấy qua. Song lần này tôi đi có bạn đồng hành, chứ không phải bị lôi đi, và tôi biết là cả đoàn chúng tôi lên đường bắt đầu một chuyến viễn du để đến một nơi xa xăm.
Rời cõi trần lần thứ hai quả có dễ dàng hơn lúc quay trở lại trước đó. Tôi còn kịp nhìn thấy hai người bạn cũ của mình ôm nhau, không nói một câu, trong căn buồng sau tiệm sửa mô-tô của anh Hal, chưa thể nói thành lời về những gì xảy đến với mình. Ruth mệt nhiều nhưng chưa bao giờ thấy mình hân hoan sung sướng đến thế. Về phần Ray, những gì anh chàng mới trải nghiệm và những khả năng sẽ phát sinh từ kinh nghiệm đó bây giờ bắt đầu thấm vào tâm khảm anh.
Het 22
----------------------------------
Chương Hai mươi ba
Sáng hôm sau mùi bánh nướng của bà mẹ bốc lên theo cầu thang len vào phòng Ray, nơi anh và Ruth nằm ngủ. Sau một đêm thế giới của họ thay đổi hẳn. Chuyện đơn giản thế thôi.
Trước khi rời tiệm sửa xe của Hal, Ray và Ruth cẩn thận xóa mọi dấu vết cho thấy họ đã ở đó, xong hai người lái xe về nhà Ray, dọc đường không ai nói năng gì. Khuya hôm ấy, nhìn thấy hai người còn nguyên quần áo nằm ôm nhau ngủ, bà Ruana thấy vui bụng rằng rốt cuộc Ray cũng có được một cô bạn gái, dù cô ta hơi khác người thật.
Quãng ba giờ sáng Ray chợt thức giấc. Anh ngồi dậy ngắm Ruth, nhìn cặp đùi thuôn dài, tấm thân tuyệt mỹ mình đã yêu thương gần gụi, và chợt cảm thấy một luồng hơi nóng lan khắp người. Anh vừa định đưa tay vuốt ve cô nàng thì chợt có vệt sáng rọi lên sàn nhà, đó là ánh trăng chiếu qua khung cửa sổ nơi bao năm qua tôi vẫn đứng nhìn vào ngắm anh ngồi học. Anh đưa mắt dõi theo vệt sáng, thấy túi xách của Ruth để trên sàn nhà.
Khẽ khàng để không làm cô nàng thức giấc, anh rời giường đi ra chỗ cái túi. Trong đó có quyển nhật ký của cô nàng. Anh lấy ra đọc.
“Phần ngọn mấy sợi lông vũ thì rỗng, dưới gốc có vệt máu. Tôi cầm mấy mẩu xương đưa lên cao, mong sao chúng cũng bắt ánh sáng như những mảnh thuỷ tinh vỡ… tuy nhiên tôi vẫn tìm cách sắp xếp, gắn các mẩu xương ấy lại, để những cô gái bị giết đó được sống lại lần nữa.”
Anh lật sang trang sau:
“Trạm Penn, dãy nhà vệ sinh, dấu vết cuộc vật lộn kéo đến tận bồn rửa. Một người đàn bà lớn tuổi.
Chuyện trong gia đình. Đại lộ C. chồng và vợ.
Trên mái nhà ở đường Mott, một thiếu nữ, bị bắn.
Vào giờ nào? Bé gái trong C.P (1) bước lẫm chẫm đến bụi cây. Cổ áo trắng viền đăng-ten, đẹp mắt.”
Anh chàng thấy người lạnh cóng nhưng vẫn đọc tiếp, chỉ ngẩng lên khi nghe Ruth cựa mình.
“Mình còn nhiều chuyện để kể cho bạn lắm,” cô nàng nói.
Cô y tá Eliot đỡ bố tôi ngồi lên xe đẩy trong khi mẹ và em gái tôi lo gom góp các cành thủy tiên để mang về nhà.
“Cô Eliot ơi” bố nói. “Tôi sẽ không quên lòng tử tế của cô, nhưng hy vọng không phải sớm tái ngộ với cô đâu nhé.”
“Tôi cũng mong thế,” cô đáp. Cô nhìn mọi người mong gia đình tôi đứng tề tựu đủ mặt. “Buckley à, mẹ và chị đều tay bưng tay xách cả rồi. chỉ còn cháu thôi.”
“Con đẩy xe cẩn thận nhé, Buck,” bố tôi nói.
Tôi nhìn theo bốn người dọc hành lang rat hang máy. Buck và bố tôi đi trước, còn Lindsey và mẹ tôi theo sau, tay ôm những nhánh thủy tiên ướt còn nhỏ nước.
Đứng trong buồng thang máy, Lindsey nhìn đăm đăm vào cuống hoa màu vàng tươi. Em nhớ lại, Samuel và anh Hal có thấy hoa thủy tiên ở cánh đồng ngô buổi chiều ngày giỗ đầu của tôi. Đến nay họ vẫn không biết ai đã đem hoa đến đặt ở đấy. Em gái tôi hết nhìn hoa lại nhìn sang mẹ. Em cảm thấy người cậu em tì sát vào mình, còn bố tôi, ngồi trong chiếc xe đẩy bóng loáng của nhà thương, trông có vẻ mệt nhưng hoan hỉ vì được về nhà. Khi họ xuống đến tiền sảnh và cửa thang máy được mở ra thì tôi biết rằng định mệnh đã an bài cho họ, cả bốn người, để mãi mãi ở bên nhau.
Bà Ruana gọt táo hết quả này đến quả khác, bàn tay ướt nhũn, sưng tấy lên, vừa làm bà vừa lặp đi lặp lại trong đầu từ ngữ mà bao năm qua bà tránh nghĩ tới: ly dị. Chính tư thế nằm ôm quấn lấy nhau của Ray và Ruth đã gợi điều gì đó trong tâm tưởng và cuối cùng giải thoát bà khỏi mọi bó buộc. Bà không nhớ lần chót cùng vào giường với chồng là lúc nào nữa. Ông vào phòng ngủ êm ru như một bóng ma, khẽ khàng len vào trong chăn cũng như một bóng ma, đến nỗi khăn trải giường cũng không thấy nhàu mấy. Ông không xấu xa tệ bạc như kiểu ta vẫn thấy chiếu trên truyền hình hay tả trên báo. Sự nhẫn tâm nằm ở tình trạng khiếm diện của ông. Kể cả khi đến bữa ông ngồi vào bàn, ăn món bà nấu, ông có mặt ở đó thật nhưng tâm trí thì ở mãi đâu đâu.
Bà nghe có tiếng nước chảy trong phòng tắm trên lầu, đợi một lúc đến khi bà nghĩ là đủ lâu rồi bà mới gọi vọng lên bảo hai người xuống. Sáng sớm hôm đó mẹ tôi gọi điện tới cảm ơn bà đã cho biết tin nhà lần từ mẹ tôi gọi điện từ California về, bà Ruana liền nảy ra ý định nướng bánh táo mang đến biếu.
Trao cho Ruth và Ray mỗi người một ly cà phê xong bà Ruana mới bảo rằng không còn sớm sủa gì lắm, rằng bà muốn Ray cùng đi với bà đến nhà gia đình Salmon, bà định chỉ ghé để ổ bánh ở bậc cửa rồi đi ngay.
“Ô, cứ như trẻ con ấy,” Ruth buộc miệng.
Bà Ruana nhìn cô nàng chòng chọc.
“Mẹ thứ lỗi,” Ray nói. “Hôm qua chúng con gặp chuyện căng thẳng quá.” Song anh chàng tự hỏi, nếu đem ra kể hết bà mẹ có tin nổi không đây.
Bà Ruana đi ra quầy bếp, bưng một trong hai ổ bánh nóng hổi vừa nướng xong ra bàn. Mùi thơm lựng theo hơi nóng nghi ngút bốc lên từ cách lỗ hõm trên mặt bánh. “Ăn điểm tâm nhé?”, bà hỏi.
“Bác là bà tiên thật!”, Ruth nói.
Bà Ruana mỉm cười.
“Ăn cho thỏa thích đi rồi thay quần áo để còn đi với tôi chứ.”
Ruth nhìn Ray nói: “Mình có việc phải đi đằng này đã, nhưng sau đó sẽ ghé qua.”
Anh Hal khuân bộ trống đến cho em trai tôi. Anh và bà ngoại đã hội ý với nhau trước đó. Tuy còn mấy tuần nữa Buckley mới đầy mười ba tuổi nhưng lúc này nó rất cần có món quà kia. Samuel không tháp tùng Lindsey và Buckley đi đón bố mẹ tôi trong nhà thương. Với bố mẹ thì việc trở về nhà có nghĩa gấp đôi. Mẹ tôi đã ở bên bố tôi suốt bốn mươi tám tiếng đồng hồ, trong quãng thời gian đó thế giới đã thay đổi không chỉ với hai người mà cả với những người káhc nữa, và, bây giờ tôi cũng thấy thế, sẽ cứ chuyển biến liên tục. Không có cách gì làm ngừng lại được.
“Bà biết là sáng sớm thì chưa nên khai mạc,” bà ngoại Lynn nói, “nhưng các cậu thích loại độc dược nào đây?”
“Cháu tưởng mình chuẩn bị sẵn sâm banh rồi,” Samuel nói.
“Thứ đó uống sau,” bà nói. “Bây giờ bà mời rượu khai vị.”
“Cháu xin kiếu,” Samuel nói. “Lát nữa có Lindsey cháu sẽ uống luôn.”
“Còn cháu Hal?”
“Cháu còn phải chỉ cho em Buck cách đánh trống.”
Bà ngoại Lynn kịp giữ miệng, không buông lời bình phẩm việc các đại danh thủ nhạc Jazz đột nhiên chê rượu một cách đáng ngờ. “Thế lấy ba cốc nước đã nhé?”
Bà ngoại tôi quay vào bếp lấy thức uống. Lúc qua đời rồi tôi mới biết thương yêu bà sâu đậm, hơn hẳn thời gian còn sống. Tôi ước giá nói được với bà điều này lúc bà đứng trong bếp nhà bà, quyết định bỏ rượu, song giờ đây tôi hiểu rằng tật uống rượu cũng là phần tạo nên con người bà ngoại tôi. Nếu sau này điều tệ hại nhất người ta nghĩ về bà là đã giúp đỡ con cháu trong tình trạng nát rượu, thì với tôi đó lại là điều tôi ghi nhớ mãi.
Bà lấy nước đá từ tủ đông, cho vào bồn đập ầm ầm. Bảy viên nước đá cho mỗi cái cốc vại. Bà mở vòi cho nước chảy đến khi lạnh buốt. Abigail con bà sắp trở về nhà. Cô nàng Abigail kỳ quặc, đứa con gái bà yêu thương.
Nhưng khi ngước lên nhìn ra cửa sổ, bà thề có trời chứng giám là thấy rõ ràng có một cô bé gái mặc một bộ quần áo thời bà còn trẻ, ngồi bên ngoài pháo đài chứa dụng cụ làm vườn của Buckley, đăm đăm nhìn bà. Thoáng cái cô biến đâu mất. Bà cố gạt bỏ cảnh tượng đã thấy. Hôm đó bà còn bận bịu bao nhiêu là việc. Bà sẽ không kể cho ai nghe cả.
Khi chiếc xe của bố rẽ vào ngõ, tôi bắt đầu suy ngẫm phải chăng đó là điều tôi mong đợi, mong đợi gia đình tôi trở về - không phải là về với tôi, mà là về với nhau, còn tôi đã đi khỏi rồi.
Trong ánh nắng xế trưa trông vóc người bố tôi như nhỏ hơn, gầy đi, nhưng mắt của ông lộ vẻ sáng khoái sau bao năm mới lấy lại.
Về phần mẹ tôi, bà càng lúc càng nghĩ mình đủ sức vượt khó khăn để trở về nhà cũ.
Cả bốn người cùng bước xuống xe một lúc. Buckley từ hàng ghế sau bước tới trước để đỡ bố tôi tuy có lẽ bố tôi không cần lắm, cũng có thể để che chở bố trước mẹ tôi. Lindsey đứng phía bên kia đầu máy xe nhìn cậu em – kiểu kiểm tra thường lệ của em vẫn vận động tự hành. Em cảm thấy mình có trách nhiệm, em trai và cả bố tôi cũng đều cảm thấy có trách nhiệm với nhau. Rồi em quay sang, thấy mẹ đang nhìn mình, gương mặt bà phản chiếu màu vàng hoa thủy tiên rạng rỡ lên.
“Gì vậy mẹ?”
“Con trông giống bà nội như tạc,” mẹ tôi nói.
“Mẹ phụ con lấy hành lý với,” em gái tôi nói.
Hai mẹ con vòng ra phía thùng xe, còn em trai tôi dìu bố theo lối cửa vào cửa chính.
Lindsey đứng yên, nhìn đăm đăm vào góc tôi thùng xe. Em chỉ cần được rõ một điều.
“Mẹ sẽ còn làm bố đau khổ nữa không đấy?”
“Mẹ sẽ làm tất cả để bố không phải sầu não nữa,” mẹ tôi đáp, “nhưng lần này mẹ không hứa.” Bà đợi cho đến lúc Lindsey ngước lên, nhìn bà bằng đôi mắt đầy thách thức, như mắt một đứa trẻ đã lớn vọt lên, chạy nước rút từ cái ngày cảnh sát đến báo tin là mái nhiều đến ướt cả đất, rằng con gái bà / chị của cháu / con của ông bà đã chết.
“Chuyện gì mẹ làm con đều rõ cả.”
“Mẹ cũng biết thế.”
Em gái tôi nhấc chiếc túi ra.
Hai mẹ con nghe như có tiếng kêu: Buckley chạy ra hàng hiên trước nhà. “Chị Lindsey ơi,” em gọi, quên vẻ nghiêm nghị thường lệ, vóc người đẫy đà của em thoắt nhanh nhẹn hẳn. “Chị vào mà xem quà anh Hal đem cho em này.”
Em gõ beng beng, đập bùm bùm, đánh cheng cheng, không ngừng tay. Sau năm phút nghe tiếng chiêng trống anh Hal là người duy nhất còn tươi cười. Mọi người khác đều mường tượng được tương lai, sẽ rất ồn ào náo động.
“Bà nghĩ đã đến lúc hướng dẫn em cách sử dụng bộ cọ rồi đấy,” bà ngoại Lynn nói. Anh Hal tuân lời bà.
Mẹ tôi trao bó thủy tiên cho bà ngoại Lynn rồi đi ngay lên lầu, viện cớ vào phòng vệ sinh. Ai cũng biết bà định đi đâu: vào căn phòng cũ của tôi.
Mẹ đứng ở ngưỡng cửa, đơn độc, như thể đang đứng bên bờ Thái Bình Dương. Căn phòng vẫn sơn màu tím hoa oải hương. Bàn ghế trong phòng vẫn để nguyên chỗ cũ, chỉ thêm chiếc ghế bành chỉnh được lưng tựa của bà ngoại tôi.
“Mẹ thương con quá, Susie ơi,” mẹ nói.
Tôi nghe bố tôi nói câu này không biết bao nhiêu lần rồi, nên bây giờ tôi bị chấn động. Chính tôi cũng không ý thức rằng mình luôn mong mỏi chờ đợi câu đó từ miệng mẹ tôi. Bà cần phải có thời gian để nghiệm ra rằng tình mẫu tử không hủy diệt con người mình, và – bây giờ tôi mới biết - tôi đã cho bà quãng thời gian đó, tôi cho được vì thời gian thì tôi thừa thãi.
Bà chợt thấy một bức ảnh đặt trên chiếc tủ cũ của tôi, được bà ngoại Lynn lồng trong khung màu vàng. Đó làm tấm ảnh đầu tiên tôi chụp bà – chân dung không ai biết được của bà Abigail đang tô son môi, lúc cả nhà chưa ai thức giấc. Susie Salmon, nữ nhiếp ảnh viên chụp thú rừng, đã thu được hình ảnh một người đàn bà đang đăm đăm nhìn qua sân cỏ mù sương vùng ngoại ô này của bà.
Bà vào phòng tắm, vặn vòi xả nước chảy ào ào, xổ lô khăn tắm ra xem. Bà biết ngay người mua những chiếc khăn này là bà ngoại: màu kem, khăn lông ai lại đi lựa màu này – kiểu chữ cái thêu lồng – tức cười thật, bà thầm nghĩ. Nhưng, ngay lập tức, bà tự cười nhạo mình. Bà bắt đầu tự hỏi không hiểu cách bà giải quyết, đi đến đâu đốt sạch dấu vết mình đến đấy, rốt cuộc đã giúp gì cho bà trong bao nhiêu năm. Mẹ của bà dù nát rượu nhưng yêu thương con cháu, là chỗ dựa vững chắc tuy bà ham mấy thứ phù phiếm. lúc nào mới đúng lúc cần thôi không níu giữ không chỉ người chết mà cả kẻ đang sống nữa – học cách chấp nhận?
Lúc đó tôi không có mặt trong phòng tắm, ẩn trong bồn tắm hay vòi nước; tôi cũng không trụ trên tấm gương treo cao hơn đầu bà, hay thu nhỏ người đứng trên đầu mỗi sợi bàn chải đánh răng của Lindsey hay Buckley. Bằng cách nào đó, mà tôi không lý giải nổi – mọi người có vẻ sung sướng hân hoan thì phải? Bố mẹ tôi tái hợp và sẽ ở bên nhau mãi mãi chăng? Buckley bắt đầu nói ra được về những gì dằn vặt em chưa đây? Trái tim của bố tôi sẽ lành lặn hẳn chứ? Tôi sẽ thôi không mong mỏi thấy người thân, không đòi hỏi họ tưởng nhớ mình mãi. Nói vậy thôi chứ tôi vẫn tiếp tục thương nhớ. Và mọi người sẽ nghĩ đến tôi. Mãi mãi.
Dưới nhà, anh Hal giữ cổ tay chỉ cho Buckley cầm que cọ. “Chỉ cần quẹt phớt lên trên chiếc trống con thôi.” Buckley làm theo rồi nhìn Lindsey đang ngồi trên trường kỷ đối diện.
“Buck cừ thật!” em gái tôi khen.
“Nghe như tiếng con rắn chuông.”
Anh Hal hài lòng. “Đúng thế”, anh nói, viễn tượng về một ban nhạc Jazz, vĩ đại nhất từ xưa đến nay bắt đầu nhảy nhót trong đầu óc anh.
Mẹ tôi trở xuống dưới nhà. Khi bước vào phòng bà đưa mắt nhìn bố trước tiên. Bà ngầm tỏ cho ông thấy bà vẫn bình thường, bà vẫn đang hít không khí vào phổi, rằng núi cao nhưng bà vượt được.
“Này, tất cả nghe đây!”, bà ngoại gọi từ nhà bếp. “Samuel có đôi điều muốn nói, vậy ngồi cả xuống đi!”
Mọi người bật cười và chưa ai kịp rút vào cái vỏ bọc khép kín của mình – cuộc hội ngộ đông đủ là điều tuy ai cũng mong ước, nhưng vẫn đòi hỏi nhiều cố gắng – thì Samuel cùng bà ngoại Lynn bước vào phòng. Bà bưng một khay đầy loại sâm banh cao nghệu chờ được rót đầy. Cậu liếc mắt nhìn Lindsey.
“Bà ngoại Lynn sẽ rót rượu giúp cháu,” cậu nói.
“Việc đó bà thạo lắm mà,” mẹ nói.
“Abigail?”, bà ngoại gọi.
“Sao ạ?”
“Được gặp con mẹ cũng rất vui.”
“Samuel, cháu nói đi,” bố nói.
“Cháu muốn nói rằng cháu rất sung sướng được có mặt ở đây với cả nhà.”
Nhưng anh Hal biết tính cậu em. “Nói vậy đâu đã xong, chú mới dạo đầu thôi. Buck đâu, quẹt vài tiếng cọ xem.” Lần này anh Hal để Buckley chơi một mình, thế là Buckley đệm nhịp cho Samuel nói.
“Cháu xin tỏ lòng mừng thấy bác gái về lại, bác trai cũng được về nhà, và cháu có vinh dự được hỏi cưới cô nàng con gái xinh đẹp của hai bác.”
“Nghe được quá chứ, được lắm!” bố tôi nói.
Mẹ tôi đứng lên giữ khay cho bà ngoại, hai người đi một vòng đưa ly cho từng người.
Nhìn người thân nhấm nháp sâm banh, tôi ngẫm nghĩ về cuộc đời họ, bị xô đẩy tới trước hay dạt ngược ra sau từ ngày tôi qua đời, rồi nhìn Samuel lấy hết can đảm hôn Lindsey giữa phòng trước mặt mọi người thân, tôi cảm thấy mình được nhấc bổng khỏi nơi ấy.
Đây là nắm xương tàn thân yêu của tôi, đã hình thành quanh sự kiện tôi vắng mặt: những mối liên hệ - đôi khi ngẫu nhiên có được, đôi khi đòi hỏi nhiều công sức, nhưng tất cả đều tuyệt vời – đã kết với nhau sau khi tôi khuất bóng. Thế là từ nay tôi bắt đầu nhìn mọi chuyện theo một cách mới cho phép tôi hiểu được cái thế giới trong đó không có mình nữa. Mọi sự kiện mà cái chết của tôi gây ra chẳng qua là chỉ là những mảnh xương của một cơ thể được gom góp đầy đủ vào một thời điểm chưa dự kiến được trong tương lai. Cái giá để tôi thấy được hình hài nhiệm màu đó chính là cuộc đời ngày trước của tôi.
Bố tôi nhìn cô con gái đang đứng trước mặt. Đứa con gái trong bóng tối đã biến mất hẳn.
Được anh Hal hứa sẽ dạy em đánh trống sau bữa ăn tối, Buckley mới chịu buông dùi vào que cọ, bảy người nối đuôi nhau vòng qua bếp để vào phòng ăn, nơi Samuel và bà ngoại Lynn đã soạn sẵn các khay đẹp nhất để bầy món ziti(2) nhãn hiệu Stouffer và bánh pho-mát ngọt hiệu Sara Lee – đều là món làm sẵn đông lạnh.
“Có ai ngoài cửa,” anh Hal nói khi thấy một người đàn ông qua cửa sổ. “Ray Singh kìa!”
“Mời cậu ấy vào đi,” mẹ tôi bảo.
“Cậu ấy quay ra rồi.”
Mọi người, trừ bố tôi và bà ngoại ngồi lại trong phòng ăn, ùa ra để bắt kịp anh chàng.
“Ray ơi!”, anh Hal mở cửa gọi, suýt giẫm phải cái bánh. “Đợi tí!”
Ray quay lại. Bà mẹ ngồi trong xe, máy vẫn để nổ.
“Tôi với bà cụ không muốn làm rộn gia đình,” Ray nói với anh Hal. Trong khi đó thì Lindsey,Samuel , Buckley và một bà mà anh chàng nhận ra là bà Salmon đang đứng chật cả ở hàng hiên.
“Phải bà Ruana đó không?”, mẹ tôi hỏi. “Cháu mời bà vào nhà đi.”
“Thưa phải, cảm ơn bác,” Ray đáp nhưng vẫn đứng đó không bước lại gần. Susie có đang chứng kiến cảnh này không nhỉ? Anh chàng tự hỏi.
Lindsey và Samuel tiến ra, bước về phía anh chàng.
Lúc đó mẹ tôi đã đi ra từ lối chính ra chỗ xe đậu, tựa vào cửa xe trò chuyện với bà Ruana.
Ray liếc nhìn, thấy bà mẹ mở cửa xe để đi vào nhà. “Cho hai mẹ con thì món gì cũng được trừ bánh táo,” bà vừa đi vừa nói với mẹ tôi.
“Tiến sĩ Singh bận công việc ạ?”, mẹ tôi hỏi.
“Như mọi khi thôi,” bà Ruana đáp. Bà nhìn theo, thấy Ray cùng với Lindsey và Samuel bước vào nhà. “Chị có định ghé chơi hút với tôi thứ thuốc lá nặng mùi đó nữa không?”
“Hẹn thế nhé,” mẹ tôi đáp.
“Chào Ray, ngồi xuống đi cháu,” bố tôi nói khi nhìn thấy anh chàng xuyên qua phòng sinh hoạt bước vào. Bố đặt biệt ưu ái cậu trai trẻ đã đem lòng yêu con gái ông, nhưng Buckley đã sà ngay vào chiếm chiếc ghế bên cạnh bố.
Lindsey và Samuel khiêng hai chiếc ghế từ phòng sinh hoạt sang đặt cạnh tủ bát đĩa. Bà Ruana ngồi giữa bà ngoại Lynn và mẹ tôi, còn anh Hal ngồi một mình cuối bàn.
Lúc ấy tôi mới nghiệm ra rằng họ chẳng biết lúc nào tôi biến đi, cũng không biết thỉnh thoảng tôi lẩn quẩn mãi trong một căn phòng nào đấy. Buckley đã từng trò chuyện với tôi, và tôi có đối đáp với em. Ngay cả khi tôi không nghĩ là có trò chuyện với em, thì thực sự là tôi có trò chuyện. Tôi hiển hiện theo đúng cách họ mong mỏi được thấy lại tôi.
Cô nàng lại ra đó nữa, đơn độc bước ra giữa cánh đồng ngô, trong khi mọi người khác mà tôi hằng lưu tâm đang ngồi quây quần trong một căn phòng. Cô nàng sẽ luông cảm thấy có tôi bên cạnh và tưởng nhớ tới tôi. Tôi thấy trước điều đó, nhưng tôi không thể làm gì hơn được. Trước kia Ruth là một cô gái bị ám ảnh, giờ đây cô nàng trở thành một người đàn bà bị ám ảnh. Trước kia do tình cờ đưa đẩy, còn bây giờ là hoàn toàn tự ý. Tất cả, chuyện về cuộc đời cũng như về cái chết của tôi, trở thành chuyện của cô nàng nếu cô nàng quyết định đem ra kể, dù mỗi lần chỉ kể cho một người duy nhất.
***
Bà Ruana ngồi chơi được một lúc khá lâu thì Samuel kể về ngôi nhà xây kiểu gô-tích phục hưng mà cậu đã phát hiện ở quãng cây cối rậm rạp trên đường số 30. Khi cậu kể chi tiết cho mẹ tôi nghe về ngôi nhà, tả lại giây phút cậu ấy thấy phải ngỏ lời cầu hôn với Lindsey và muốn sống với em trong ngôi nhà đó, Ray buột miệng hỏi: “Có phải ngôi nhà có lỗ thủng lớn trên trần căn phòng phía sau, và phía trên cánh cửa vào nhà có những cửa sổ trông rất đặc biệt không?”
“Phải rồi”, Samuel nói, và khi thấy bố tôi có vẻ lo lắng, cậu tiếp: “Nhưng sửa chữa được, bác Salmon ạ. Cháu bảo đảm.”
“Ông bố của Ruth là chủ ngôi nhà đó,” Ray nói.
Mọi người im lặng một lúc, rồi Ray nói tiếp:
“Ông ấy vay tiền mua lại những ngôi nhà cũ nào chưa phải phá sập. Ông ấy muống trùng tu lại.”
“Chúa ơi”, Samuel thốt lên.
Thế là tôi ra đi.
Hết chương 23
------------------------
Hài cốt
Bạn không hay biết là người quá cố ra đi, một khi họ đã quyết định rời bạn mãi mãi. Bạn không nhất thiết phải biết điều đó. Nhiều lắm thì bạn chỉ cảm thấy họ còn đó qua tiếng rủ rỉ hay tiếng thì thầm càng lúc càng nhỏ dần ấy. Tôi thì ví nó với người đàn bà ngồi ở hàng ghế cuối trong giảng đường hay rạp hát mà chẳng ai để ý, cho đến một lúc nào đó bà ta lẻn ra ngoài. Lúc ấy chỉ những ai ngồi gần cửa, như bà ngoại Lynn, mới nhận ra, với những người kia thì chỉ như có một làn gió thoảng, không rõ từ đâu đến, trong một căn phòng đóng kín cửa.
Mãi nhiều năm sau đó bà ngoại Lynn mới qua đời, nhưng ở đây thì tôi chưa thấy bà lần nào. Tôi mường tượng bà đang nhậu một chầu trên thiên đường của bà, uống rượu bạc hà với Tennessee Williams và Dean Martin (1) trên thiên đường của bà. Lúc nào thích bà sẽ đến đây, tôi tin thế.
Nếu phải nói thật thì quả tình thỉnh thoảng tôi vẫn lẻn trở về xem gia đình mình ra sao. Tôi không làm sao khác được, và người thân thỉnh thoảng cũng nhớ đến tôi. Họ cũng thế, không làm sao khác được.
Sau lễ cưới, Lindsey và Samuel ngồi uống sâm banh với nhau trong ngôi nhà còn tuềnh toàng trên con lộ 30. Cành lá của hàng cây cao chõ qua cả khung cửa sổ trên lầu, còn hai người ngồi ngay bên dưới, thấy rõ sẽ phải chặt bỏ ngay mấy cành đó. Bố của Ruth hứa sẽ bán ngôi nhà cho hai đứa nếu Samuel thuận làm nhân viên đầu tiên trong hang trùng tu nhà cửa của ông ta. Quãng cuối mùa hè năm ấy, Samuel và Buckley hợp lực, ông Connors làm xong khâu khai quang khu đất, đặt ở đó một căn nhà lưu động - ban ngày là văn phòng làm việc của ông, ban đêm thành phòng học cho Lindsey.
Thời gian đầu khá nhọc nhằn, vì thiếu điện nước, muốn tắm phải về nhà bố mẹ hai bên, nhưng Lindsey lo vùi đầu vào việc học, còn Samuel bận lùng các loại nắm đấm cửa và chao đèn thích hợp với kiểu kiến trúc thời đó. Mọi người đều ngạc nhiên khi được Lindsey báo tin rằng mình có thai.
“Em chỉ tưởng chị béo ra thôi,” Buckley nói, cười mỉm.
“Em tưởng ai cũng giống mình cả đấy,” Lindsey bảo.
Bố tôi đã mơ đến ngày ông lại sẽ truyền dạy cho một đứa bé nữa nỗi đam mê làm những con tàu thả vào chai lọ. Ông biết lúc đó niềm vui sẽ luôn đi kèm với nỗi buồn; rằng hoài niệm về tôi sẽ cứ vang vọng mãi.
Tôi xin kể cho bạn rằng biết rằng ở đây cảnh đẹp, rằng tôi, và cả bạn một ngày nào đó, không còn phải lo sợ gặp hiểm nguy gì nữa. nhưng ở thiên đường này làm gì có vấn đền an toàn, hay thực tại đầy chông gai. Ở đây chúng tôi vui chơi thỏa thích.
Chúng tôi làm toàn chuyện khiến người ở trần thế kinh ngạc hoặc cảm kích biết ơn, chẳng hạn một năm nọ cho mảnh vườn của Buckley, trồng lung tung đủ loại cây, nở rộ hoa một lúc. Tôi làm thế là vì mẹ tôi, bà quyết định ở lại và phải chăm chút mảnh vườn. Bà nhìn từng cánh hoa, cành cây hay ngọn cỏ bà ngẩn ngơ. Từ khi về bà hay ngạc nhiên lắm – trước những khúc quanh ngoắt ngoéo mà cuộc đời an bài.
Bố mẹ tôi đem hết đồ dùng của tôi bà của Bà ngoại Lynn tặng cho các hội từ thiện.
Hai ông bà chia sẻ tâm tư khi khi cảm thấy có tôi đâu đây. Chung sống ở bên nhau, hồi tưởng và nhắc nhở về người đã khuất trở thành một phần hoàn toàn bình thường trong cuộc sống của họ. Mỗi khi Buckley đập trống, tôi cũng lắng tai nghe em.
Ray nay là bác sĩ Singh, “bác sĩ chính danh trong toàn gia tộc,” như bà Ruana nói. Và anh chàng càng có dịp trải nghiệm những khoảnh khắc khiến anh phải tin là có thực. Dù quanh mình toàn những nhà phẫu thuật và khoa học gia nghiêm túc, có thẩm quyền trên thế giới trong đó trắng đen rạch ròi, anh vẫn tin là còn có những thứ khác nữa: rằng những người xa lạ thỉnh thoảng hiện ra vẫy gọi người đang hấp hối không phát xuất từ trí tưởng tượng do họ bị chứng đột quỵ, rằng anh chàng có gọi Ruth bằng tên tôi, và chuyện ân ái với tôi hoàn toàn có thực.
Khi nào hoài nghi, anh chàng gọi điện thoại cho Ruth. Ruth đã nâng cấp chỗ ở, bỏ góc buồng xép, dọn đến một căn hộ riêng, chỉ nhỉnh hơn chút ít, ở khu Lower East Side. Ruth, kẻ luông tìm cách ghi chép về những người cô nàng đã gặp và những gì cô nàng trải nghiệm. Ruth, kẻ mong mỏi mọi người tin vào những gì cô nàng biết là có thực: rằng người chết quả tình có trò chuyện với chúng ta, rằng trong khoảng không giữa những người đang sống luôn dập dìu những linh hồn bay lượn cười đùa với chúng ta. Họ là dưỡng khí ta vẫn hít thở.
Lúc này tôi đang ở tại nơi tôi gọi là Đại thiên đường, vì đó là nơi đáp ứng mọi ước vọng dù bình dị, nhỏ nhặt hay cao xa nhất của tôi. Chữ ông nội dùng là nguồn an ủi.
Cho nên ở đó ê hề bánh gọt, đầy rẫy gối nệm đủ màu, thế nhưng dưới tấm chăn muôn mảnh chắp lại rất bắt mắt kia có những chỗ như căn phòng yên ắng nọ, nơi bạn có thể vào ngồi với một người nào đấy, chỉ nắm tay nhau, không cần nói gì cả. không kể lể dài dòng. Không trách cứ than van. Nơi bạn có thể tiếp thụ mọi cảm giác trên từng làn da thứ thiệt, thời gian không hạn định. Đại thiên đường này quy tụ cả những chiếc đinh tán, những sợi lông tơ mềm trên cành lá non, những chuyến ngồi xe chạy tuột đường băng uốn hình số tám, những viên bi rơi ra, lơ lửng giữa trời rồi đưa bạn đến một nơi chốn nào đấy mà khi ở thiên đường bé nhỏ của mình bạn có nằm mơ cũng không hình dung ra nổi.
***
Một trưa nọ tôi đứng cùng ông nội, lướt mắt nhìn khắp chốn trên mặt đất. Hai ông cháu ngắm lũ chim chuyền từ ngọn nọ sang ngọn kia của những cây tùng cao nhất của vùng Maine, chia sẻ cảm giác khi chúng đáp xuống, đập cánh bay lên, rồi lại đáp xuống. Sau cùng chúng tôi dừng ở thành phố Manchester, vào quán ăn bình dân dù ông tôi vẫn còn nhớ từ thời ông ngược xuôi kiếm sống suốt mạn bờ biển phía Đông. Sau hai mươi năm quán ấy trong tồi tàn xập xệ hẳn, thấy thế chúng tôi bỏ đi. Vừa quay ra tôi chợt nhìn thấy tên Harvey: hắn đang từ trên chiếc xe buýt của hãng Greyhound bước xuống.
Hắn vào quán, tới quầy gọi một ly cà phê. Ai không biết nhìn hắn chỉ thấy một người bình thường, chính hắn cũng cố tạo vẻ đó, trừ chỗ quanh hai mắt, nhưng bây giờ hắn không mang loại kính áp tròng nữa và chẳng ai rỗi hơi nhìn qua lớp mắt kính dày cộm của hắn.
Lúc bà hầu bàn đưa hắn ly cà phê nóng bỏng bằng chất dẻo màu trắng, hắn nghe tiếng leng keng của cái chuông treo phía trên cánh cửa sau lưng vào cảm thấy có luồng gió lạnh lùa vào.
Cách chỗ hắn vài hàng ghế có một cô gái ngồi đấy cũng đã mấy tiếng đồng hồ, nghe máy Walkman, miệng lẩm nhẩm hát theo. Hắn ngồi ở quầy chờ đến lúc cô gái rời nhà vệ sinh thì theo gót cô ra ngoài.
Tôi thấy hắn bám theo cô trên sân phủ tuyết lầy bên hông quá, ra sau bến xe buýt, nơi cô tìm được một chỗ khuất gió để hút thuốc. Lúc cô đang đứng đó thì hắn mon men lại gần. Cô chẳng hề hoảng hốt. Lại một lão ăn mặc lôi thôi lếch thếch, trông mà chán.
Hắn thầm tính. Trời lạnh, tuyết đổ. Vực sâu, dốc đứng nằm ngay trước mặt. Bên kia vực là rừng cây hoang vu. Hắn lân la bắt chuyện.
“Đi đường xa nhỉ!”
Mới đầu cô nhìn hắn, như không tin rằng hắn nói với mình.
“Hừm”, cô ậm ừ.
Lúc ấy tôi mới nhận ra một dãy, dài và chi chít, ngay trên đầu họ. Băng nhũ.
Cô gái lấy gót giày dụi tắt điều thuốc, quay người định đi.
“Đồ bợm già,” cô nói, rồi rảo bước bỏ đi.
Trong chốc lát một thanh băng nhũ rơi xuống. Khối đá lạnh và nặng làm tên Harvey mất thăng bằng sẩy chân, trượt luôn xuống vực. Phải đến vài tuần sau tuyết dưới vực mới tan dần để lộ xác hẳn ra.
Nhưng bây giờ tôi xin kể cho các bạn nghe về một người đặc biệt:
Lindsey khoanh một thửa trên sân đất để làm vườn. Tôi nhìn em nhổ cỏ dại mọc ở những luống dài đầy hoa. Mấy ngón tay của em co lại trong găng khi nghĩ đến những bệnh nhân ngày ngày đến phòng khám: làm cách nào giúp họ giải mã được những lá bài mà cuộc đời phân chia cho họ, có cách nào làm giảm được những cơn đau của họ?
Tôi nhớ lại rằng những điều đơn giản nhất lại là những điều mà bộ não tôi cho là xuất chúng của em không nắm bắt được. Phải suy nghĩ lung lắm em mới hiểu ra rằng tôi luôn xung phong tỉa cỏ sát chân hàng rào, vì như thế tôi làm vườn mà vẫn chơi được với con Holiday. Em sực nhớ tới con Holiday, còn tôi dõi theo những ý nghĩ của em. Ít năm nữa, khi nhà cửa tươm tất, rào giậu xong xuôi, là đến lúc tìm cho con bé con một chú chó. Rồi em nghĩ đến chuyện hiện giờ có loại máy xén tỉa hàng rào, từ cột này đến cột kia chỉ vài phút – ngày trước chúng tôi vừa làm vừa càu nhàu, mất hàng giờ mới xong.
Lúc đó Samuel từ trong nhà đi ra chỗ Lindsey, kia kìa nó nằm trong tay cậu, bé con bụ bẫm dễ thương của tôi, chào đời mười nằm sau khi tôi sống tròn mười bốn năm trên quả đất này. Tên cháu là Abigail Suzanne. Tôi gọi là Susie-bé. Samuel đặt Susie nằm trên vuông chăn trải cạnh luống hoa. Còn Lindsey, em gái tôi, giữ mãi hình ảnh tôi trong ký ức, đó mới đúng là chỗ dành riêng cho tôi.
***
Trong một ngôi nhà nhỏ cách đó năm dặm có người đàn ông đưa cho vợ xem chiếc vòng tay dính bùn của tôi.
“Em xem này, anh tìm thấy nó ở khu công nhiệp cũ,” anh ta nói. “Một cậu thợ xây bảo là họ đang cho xe san bằng toàn khu đó. Họ sợ vẫn còn nhiều hố sụt giống cái hố từng nuốt chửng cả cái ô-tô nọ.”
Cô vợ vặn vòi rót nước vào ly, còn anh chồng tẩn mẩn lấy ngón tay xoay chiếc xe đạp bé xíu, chiếc giày ba-lê, lẵng hoa và chiếc đê khâu. Lúc cô đặt ly nước xuống, anh chồng chìa chiếc vòng.
“Cô bé có chiếc vòng này giờ chắc lớn lắm rồi,” cô vợ nói.
Gần đúng.
Nhưng không đúng hẳn.
Tôi chúc tất cả các bạn tiếp tục sống lâu, hạnh phúc.
------------------------ HẾT
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com