Chương 13b - Em trai tôi.
Cha tôi phân biệt rõ giữa một vận động viên và một gã đồ tể. Gã đồ tể bắn cho vui. Khi tôi bắn hạ một người Anh, niềm đam mê săn bắn của tôi chỉ được thỏa mãn trong mười lăm phút. Vì vậy, tôi không thể bắn hạ hai người liên tiếp. Nếu một người trong số họ bị hạ, tôi cảm thấy hoàn toàn mãn nguyện. Mãi về sau tôi mới vượt qua được bản năng của mình và trở thành một tên đồ tể.
Em trai tôi thì khác. Tôi có dịp quan sát em ấy khi em bắn hạ đối thủ thứ tư và thứ năm. Chúng tôi đang tấn công theo đội hình phi đội. Tôi bắt đầu cuộc chiến. Tôi đã hạ gục đối thủ rất nhanh. Khi nhìn quanh, tôi thấy em tôi đang lao tới một chiếc máy bay Anh đang bốc cháy và nổ tung. Bên cạnh nó là một người Anh khác. Em trai tôi, mặc dù bám theo chiếc số một, đã ngay lập tức chĩa súng máy vào chiếc số hai, mặc dù đối thủ đầu tiên của em ấy vẫn còn trên không và chưa ngã xuống. Nạn nhân thứ hai của nó cũng ngã xuống sau một cuộc vật lộn ngắn ngủi.
Khi chúng tôi gặp nhau ở nhà, em ấy hỏi tôi một cách tự hào: "Anh đã bắn hạ được bao nhiêu người rồi?" Tôi khiêm tốn đáp: "Một." Em quay lưng lại với tôi và nói: "Em đã bắn hạ được hai người." Sau đó, tôi cử em ấy đi điều tra. Em sẽ tìm ra tên của các nạn nhân, v.v. Em ấy trở về vào cuối buổi chiều, chỉ tìm thấy một người Anh.
Em ấy đã tìm một cách cẩu thả, như thường thấy ở những tay đồ tể như thế. Mãi đến hôm sau tôi mới nhận được báo cáo về vị trí nơi người thứ hai rơi xuống. Tất cả chúng tôi đều đã thấy hắn bị hạ.
Tôi bắn một con bò rừng
Khi đến thăm Trụ sở, tôi đã gặp Hoàng tử von Pless. Ngài cho phép tôi bắn một con bò rừng bison trên điền trang của ngài. Bò rừng bison đã tuyệt chủng. Trên toàn thế giới chỉ có hai nơi có thể tìm thấy bò rừng bison. Đó là điền trang Pless và điền trang Bialowicz của cựu Sa hoàng. Rừng Bialowicz, tất nhiên, đã bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Nhiều con bò rừng bison tuyệt đẹp lẽ ra phải bị Sa hoàng hoặc một vị vua nào đó bắn chết thì đã bị lính ngự lâm Đức ăn thịt.
Nhờ lòng tốt của Hoàng tử, tôi được phép săn một loài động vật quý hiếm như vậy. Chỉ vài thập kỷ nữa thôi, sẽ chẳng còn con nào sót lại. Tôi đến Pless vào chiều ngày 26 tháng 5 và phải rời khỏi nhà ga ngay tối hôm đó nếu muốn săn một con bò đực.
Chúng tôi lái xe dọc theo con đường nổi tiếng, xuyên qua khu bảo tồn Hoàng tử rộng lớn, nơi nhiều vị vua đã từng lui tới. Sau khoảng một giờ, chúng tôi xuống xe và phải đi bộ nửa tiếng mới đến được trường quay. Tài xế đã được bố trí sẵn vị trí. Họ nhận được tín hiệu và bắt đầu lái xe.
Tôi đứng trên một chỗ cao, theo lời người quản lý thì đó là vị trí mà Đức Vua đã từng chiếm giữ, từ đó ngài đã bắn hạ nhiều con bò rừng. Chúng tôi chờ đợi khá lâu. Bỗng nhiên tôi nhìn thấy giữa những thân cây một con quái vật đen khổng lồ đang lăn lóc tiến về phía tôi. Tôi nhận ra nó trước cả người kiểm lâm. Tôi chuẩn bị bắn và phải nói rằng tôi cảm thấy hơi sốt ruột.
Đó là một con bò đực hùng mạnh. Khi nó ở khoảng cách hai trăm thước, vẫn còn một chút hy vọng cho nó. Tôi nghĩ khoảng cách đó quá xa để bắn. Tất nhiên tôi có thể trúng con quái vật đó vì không thể nào bỏ lỡ một con thú lớn như vậy. Tuy nhiên, sẽ rất khó chịu nếu phải đi tìm nó sau khi bắn. Hơn nữa, nếu tôi bắn hụt thì thật nực cười, nên tôi quyết định đợi nó đến gần hơn.
Có lẽ nó đã để ý đến những người lái xe vì đột nhiên nó ngoặt lại và lao tới tôi theo một góc xiên sắc bén với tốc độ mà tôi thấy thật khó tin. Đó là vị trí không thuận lợi để bắn, và chỉ trong giây lát nó đã biến mất sau một nhóm cây to khỏe. Tôi nghe thấy tiếng nó thở phì phì và giậm chân. Tôi mất dấu nó. Tôi không biết liệu nó có ngửi thấy tôi hay không. Dù sao thì nó đã biến mất. Tôi nhìn thoáng thấy nó lần nữa từ xa, rồi nó khuất bóng hẳn.
Tôi không biết liệu đó là vì hình dáng khác lạ của con vật hay là điều gì khác ảnh hưởng đến tôi. Dù sao, ngay khoảnh khắc con bò đến gần, tôi cảm nhận được cảm giác giống hệt như lúc tôi ngồi trên máy bay và nhận thấy một người Anh ở khoảng cách xa đến mức tôi phải bay khoảng năm phút để đến gần anh ta. Điểm khác duy nhất là người Anh sẽ tự vệ. Có thể tôi đã có những cảm xúc khác nếu đứng trên mặt bằng phẳng chứ không phải ở chỗ cao như vậy.
Chẳng bao lâu sau, một con bò rừng thứ hai tiến tới gần. Nó cũng là một con vật to lớn. Nó giúp tôi dễ dàng hơn trong việc nhắm bắn. Khi khoảng cách còn tám mươi thước, tôi đã nổ súng vào nó nhưng đã bỏ lỡ cơ hội bắn trúng vai nó. Một tháng trước, Hindenburg đã nói với tôi khi bàn về những con bò rừng: "Cậu phải mang theo nhiều viên đạn. Tôi đã phải dùng đến nửa tá viên cho một con như vậy vì nó không dễ chết. Trái tim nó nằm rất sâu nên thường người ta bắn trượt." Điều đó quả thật đúng. Mặc dù tôi biết chính xác vị trí trái tim của con bò rừng, tôi vẫn bắn trượt. Tôi bắn thêm phát thứ hai và thứ ba. Sau phát bắn thứ ba trúng mục tiêu, con bò đực dừng lại cách tôi khoảng năm mươi thước.
Năm phút sau con thú đã chết. Cuộc săn bắn đã kết thúc. Cả ba viên đạn đều trúng ngay trên tim nó. Chúng tôi lái xe đi qua, vượt qua căn nhà săn bắn tuyệt đẹp của Hoàng tử, xuyên qua khu rừng nơi khách của Hoàng tử Pless hàng năm tới săn hươu và các loài thú khác. Sau đó, chúng tôi tham quan bên trong ngôi nhà ở Promnitz. Nó nằm trên một mũi đất nhô ra. Từ đây có thể nhìn ngắm cảnh đẹp, và trong bán kính ba dặm xung quanh không có bóng người. Khi đến thăm điền trang của Hoàng tử Pless, người ta không còn cảm giác đây là một khu bảo tồn thông thường nữa, bởi vì khu bảo tồn này rộng tới một triệu mẫu Anh. Ở đó có những con hươu đực lộng lẫy mà chưa ai từng nhìn thấy. Không một người quản lý rừng nào biết đến chúng. Thỉnh thoảng chúng mới bị bắn hạ. Người ta có thể đi bộ cả tuần liền mà không gặp con bò rừng nào. Vào một số thời điểm trong năm, việc tìm thấy một con là điều không thể. Chúng thích sự yên tĩnh và có thể ẩn mình trong những khu rừng rộng lớn và rậm rạp. Chúng tôi đã thấy nhiều con hươu đẹp.
Sau khoảng hai giờ, chúng tôi đến Pless, ngay trước khi trời tối.
Phi công bộ binh, phi công pháo binh và máy bay trinh sát
Nếu tôi không trở thành một tay săn chuyên nghiệp, có lẽ tôi đã làm phi công bộ binh. Dù sao thì, chắc hẳn đó là một cảm giác rất thỏa mãn khi có thể hỗ trợ cho những binh lính đang làm nhiệm vụ khó khăn nhất. Phi công bộ binh có thể giúp đỡ rất nhiều cho người lính bộ binh. Vì lý do đó, nhiệm vụ của họ rất đáng trân trọng. Trong trận chiến Arras, tôi đã quan sát nhiều người lính tuyệt vời này. Họ bay trong mọi điều kiện thời tiết và mọi lúc, ở độ cao thấp trên đầu địch và cố gắng làm cầu nối liên lạc với những người lính đang bị vây hãm. Tôi hiểu rằng người ta có thể chiến đấu nhiệt tình khi được giao nhiệm vụ như vậy. Tôi cá rằng nhiều phi công đã hô vang "Hurrah!" khi sau một cuộc tấn công, họ thấy quân địch phải rút lui hoặc khi những người lính bộ binh của ta nhảy khỏi chiến hào và chiến đấu tay đôi với kẻ thù. Nhiều lần, sau các chuyến truy kích, tôi đã bắn hết đạn còn lại về phía chiến hào của địch. Dù có thể hiệu quả thực tế không lớn, nhưng việc đó cũng ảnh hưởng đến tinh thần đối phương.
Tôi cũng từng là phi công pháo binh. Thời của tôi, việc điều chỉnh hỏa lực pháo binh bằng vô tuyến điện tín là một điều mới mẻ. Để làm tốt công việc này, phi công cần có tài năng đặc biệt. Tôi không thể làm công việc này lâu vì tôi thích chiến đấu hơn. Có thể các sĩ quan pháo binh là những phi công pháo binh giỏi nhất vì họ có kiến thức cần thiết về binh chủng mà họ phục vụ. Tôi đã tham gia nhiều chuyến do thám bằng máy bay, đặc biệt ở Nga trong cuộc chiến cơ động. Lúc đó tôi lại đóng vai kỵ binh, chỉ khác là tôi cưỡi một con Pegasus làm bằng thép. Những ngày tôi ở bên bạn Holck giữa quân Nga là những ngày tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi.
Ở mặt trận phía Tây, mắt của phi công do thám nhìn thấy những điều rất khác so với những gì kỵ binh quen thuộc. Những làng mạc, thị trấn, đường sắt và đường bộ có vẻ như chết chóc và không có sức sống. Tuy nhiên, có một luồng giao thông khổng lồ diễn ra liên tục, nhưng được giấu rất khéo trước mắt những người bay trên không. Chỉ những đôi mắt được luyện tập tuyệt vời, quan sát tỉ mỉ mới có thể thấy điều gì đó rõ ràng khi bay ở độ cao lớn và tốc độ kinh khủng. Tôi có mắt tốt nhưng tôi vẫn nghi ngờ liệu có ai có thể nhìn rõ điều gì cụ thể khi nhìn xuống một con đường từ độ cao 15.000 feet. Vì mắt không phải là công cụ quan sát hoàn hảo nên người ta dùng máy ảnh. Mọi thứ quan trọng phải được chụp ảnh. Ngoài ra, còn phải chụp những thứ được giao nhiệm vụ. Nếu về nhà mà phim bị lỗi thì cả chuyến bay coi như vô ích.
Nhiều khi phi công do thám bị cuốn vào các trận đánh. Tuy nhiên, nhiệm vụ của họ quan trọng hơn việc đánh nhau. Thường thì một tấm phim chụp được còn quý giá hơn việc bắn hạ một phi đội. Vì thế, người phi công nhiếp ảnh thường không nên tham gia chiến đấu. Ngày nay, việc do thám hiệu quả ở mặt trận phía Tây rất khó khăn.
Những chiếc phi cơ Đức
Trong suốt cuộc chiến, các loại máy bay của Đức đã trải qua nhiều thay đổi lớn. Điều này có lẽ ai cũng biết. Có sự khác biệt khổng lồ giữa một chiếc máy bay khổng lồ và một chiếc máy bay săn đuổi.
Máy bay truy kích nhỏ, nhanh, và linh hoạt trong việc quay đầu. Nó không chở gì ngoài phi công, súng máy và đạn. Còn máy bay chiến hạm là một con quái vật. Nhiệm vụ duy nhất của nó là chở càng nhiều trọng tải càng tốt, điều này có thể thực hiện được nhờ diện tích cánh khổng lồ của nó. Thật đáng chú ý khi nhìn vào chiếc chiến hạm bay Anh đã hạ cánh nhẹ nhàng ở phía Đức trong mặt trận. Máy bay khổng lồ có thể mang một trọng lượng không tưởng. Nó dễ dàng bay đi kéo theo ba đến năm tấn. Bình xăng của nó to như những toa tàu hỏa. Khi ở trong một con quái vật như vậy, người ta không còn cảm giác mình đang bay nữa. Mà giống như đang lái xe. Khi lái một chiếc máy bay khổng lồ, việc điều khiển không còn dựa vào bản năng nữa mà dựa vào các thiết bị kỹ thuật mang theo.
Một chiếc máy bay khổng lồ có hàng ngàn mã lực. Tôi không biết chính xác bao nhiêu, nhưng là rất nhiều. Mã lực càng lớn càng tốt. Có thể một ngày nào đó, cả một sư đoàn sẽ được vận chuyển trong một chiếc máy bay như vậy. Trong thân máy bay, người ta có thể đi bộ. Ở một góc có một thứ không thể tả được. Nó chứa một thiết bị vô tuyến điện thoại không dây, qua đó người ta có thể nói chuyện với những người dưới mặt đất. Ở góc khác là những chiếc xúc xích gan hấp dẫn nhất mà bạn có thể tưởng tượng — đó chính là những quả bom nổi tiếng khiến người dân dưới đất khiếp sợ. Ở mỗi góc đều có một khẩu súng. Toàn bộ chiếc máy bay giống như một pháo đài bay, với những thanh giằng và giá đỡ trông như những hành lang vòm. Tôi chưa bao giờ cảm thấy hào hứng với những con tàu khổng lồ này. Tôi thấy chúng kinh khủng, không công bằng trong thể thao, nhàm chán và vụng về. Tôi thích một chiếc máy bay kiểu "le petit rouge" hơn.
Khi bạn ở trên một chiếc máy bay săn đuổi nhỏ, thì bạn có bay ngửa, bay lên hay xuống, đứng bằng đầu hay thế nào cũng chẳng quan trọng. Bạn có thể biểu diễn mọi mánh khóe bạn muốn, vì trong máy bay kiểu đó bạn có thể bay như một con chim. Điểm khác biệt duy nhất là bạn không bay bằng cánh như chim bồ câu biển. Thứ này sau cùng chỉ là một chiếc máy bay động cơ. Tôi nghĩ một ngày nào đó, chúng ta sẽ có thể mua một bộ đồ bay với giá nửa đồng xu. Bạn mặc vào nó. Ở một đầu có một động cơ nhỏ và một cánh quạt nhỏ. Bạn nhét tay vào cánh và chân vào đuôi. Rồi bạn nhảy vài lần để cất cánh và bay lên không trung như một con chim.
Bạn thân mến, tôi nghe tiếng bạn cười câu chuyện của tôi rồi đấy. Nhưng chúng ta chưa biết liệu con cháu mình có cười khi nghe chuyện đó không. Ai cũng sẽ cười cách đây năm mươi năm nếu có ai đó nói về việc bay trên bầu trời Berlin.
Tôi còn nhớ cảm giác khi vào năm 1910, Zeppelin lần đầu tiên đến Berlin gây ra bao sự kinh ngạc. Giờ đây không một người Berlin nào nhìn lên trời khi có một chiếc khí cầu đi qua nữa.
Ngoài những máy bay khổng lồ và máy bay săn đuổi nhỏ, còn có vô số loại máy bay khác với đủ mọi kích cỡ. Sự sáng tạo vẫn chưa dừng lại. Ai mà biết được một năm tới chúng ta sẽ dùng loại máy bay nào để xâm nhập bầu khí quyển chứ?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com