Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Lối Dẫn Lên Thiên Đường

Suốt cả cuộc đời, bà Foster mang trong mình một chứng bệnh tâm lý vô cùng đặc biệt: bà rất sợ sự chậm trễ. Việc bị trễ chuyến tàu, máy bay, xe lửa, hay thậm chí là đoạn mở đầu của một vở kịch gì đó chắc chắn sẽ khiến bà cực kỳ sốc. Xét về khía cạnh khác, bà không hề là một người phụ nữ yếu mềm, dễ bị tổn thương, nhưng chỉ cần nghĩ đến việc đi trễ vào những lúc như thế này có thể khiến bà cảm thấy cực kỳ khó chịu và co giật một chút. Thực chất, việc co giật này chẳng có gì ghê gớm lắm đâu – chỉ là cơ trong góc mắt trái của bà bị co giật một chút thôi, cứ như là nháy mắt ấy – nhưng chỉ có điều là việc này sẽ không dừng lại cho tới khoảng một tiếng sau khi bà đã bắt được chuyến tàu, máy bay, xe lửa hay cái gì đó.

Thật là lạ lùng khi có người lại có thể biến sự e ngại về việc lỡ chuyến tàu trở thành nỗi ám ảnh của riêng mình. Bởi vậy, mỗi khi có dịp đi xe lửa, ít nhất nửa tiếng trước khi thực sự bắt đầu rời khỏi nhà, bà Foster luôn sửa soạn rất nhanh, bà chộp lấy một chiếc nón, một chiếc áo khoác và một đôi găng tay, và vội vàng bước ra khỏi thang máy trong tư thế sẵn sàng để đi. Bà đứng ngồi không yên và luôn "bay nhảy" từ phòng này sang phòng khác cho đến khi chồng bà, người mà có lẽ đã biết bà bị như thế này lâu rồi, cuối cùng rời khỏi phòng và nói với giọng thật thô rằng họ nên đi ngay bây giờ.

Ông Foster có quyền cảm thấy khó chịu bởi chứng bệnh này của bà, nhưng việc ông bắt bà phải khổ sở chờ đợi mình là điều không thể chấp nhận được. Lưu ý, tôi chỉ nói vậy thôi, chứ tôi thực sự không rõ ông có làm việc đó hay không. Nhưng mà cứ mỗi lần họ đi đâu đó, ông ta luôn canh thời gian chính xác để rời khỏi nhà – mà nếu như trễ một hay hai phút là hiểu rồi đó – thật khó có thể tin được ông ta không hề tận dụng những cơ hội này để "tra tấn" người đàn bà đáng thương kia. Còn một điều nữa mà có lẽ ông đã biết rồi – đó là bà không bao giờ dám hối thúc ông để đi đúng giờ (cái này đều là nhờ sự "huấn luyện" của ông hết đó). Ông ta biết rằng mình có thể khiến vợ mình trở nên bấn loạn tinh thần nếu như cứ bắt bà chờ quá lâu. Nhưng điều đặc biệt là vào mấy dịp đi chơi gần đây, ông ta có vẻ như muốn lỡ chuyến tàu thật để hành hạ, tra tấn tinh thần bà một cách không thương tiếc.

Cứ cho là ông chồng vô tội đi. Bà Foster đã luôn là một người vợ tốt bụng, ngọt ngào và đảm đang, thế thì làm sao ông ta lại có thể nhẫn tâm hãm hại bà được. Đã hơn ba mươi năm qua, bà luôn sống chung thủy với ông và không một ai có thể chối cãi điều này hết, thế thì việc gì mà phải đối xử tệ bạc một người vợ tốt như vậy? Mặc dù đã mấy năm trời rồi, bà đã cố gắng không để bản thân tin rằng ông có ý đồ hãm hại mình, nhưng dạo gần đây, bà bắt đầu nghi ngờ về điều này.

Ông Eugene Foster, gần bảy mươi tuổi, sống cùng với vợ mình trong một ngôi nhà sáu tầng nằm trên đường East Sixty-second, và họ có tới bốn người hầu. Không khí trong căn nhà luôn ảm đạm và hiếm khi nào có khách ghé chơi. Nhưng vào buổi sáng đặc biệt này của tháng một, ngôi nhà trở nên sống động và nhộn nhịp hơn bao giờ hết. Một người giúp việc phân phát những chiếc tấm phủ chống bụi cho từng phòng, trong khi người còn lại phủ chúng lên đồ nội thất. Người quản gia xách những chiếc vali xuống và đặt chúng trong sảnh chính. Còn người đầu bếp thì cứ liên tục hối hả chạy từ chỗ nhà bếp tới chỗ người quản gia để nói vài đôi lời. Và bà Foster, mặc một chiếc áo khoác được làm từ lông thú và đội một chiếc nón màu đen, "bay" miết từ phòng này sang phòng khác và giả bộ giám sát những hoạt động này. Thực chất lúc đó, trong đầu bà chẳng nghĩ cái gì hết ngoại trừ việc bà sẽ bị lỡ chuyến bay nếu như ông chồng không chịu bước ra khỏi phòng làm việc ngay bây giờ và lo đi sửa soạn.

"Mấy giờ rồi hả, Walker?" bà hỏi trong lúc đi ngang qua anh ta.

"Bây giờ là chín giờ mười, thưa bà."

"Thế xe tới chưa?"

"Dạ rồi, thưa bà, nó đang đợi ở phía ngoài đó. Để tôi đi bỏ mấy cái vali vô xe cho ông bà nhé."

"Từ đây chạy ra sân bay Idlewild mất cả tiếng đồng hồ," bà nói. "Chuyến bay của tôi khởi hành lúc mười một giờ. Tôi cần phải có mặt ở sân bay trước đó một tiếng để còn làm thủ tục. Trời ơi, tôi lo tôi sẽ bị trễ quá. Trời ơi."

"Tôi nghĩ bà còn nhiều thời gian lắm, thưa bà," người quản gia nói một cách tử tế. "Tôi đã báo với ông chủ là bà phải rời khỏi nhà lúc chín giờ mười lăm rồi. Bà cứ yên tâm đi nhé, còn tới năm phút lận mà."

"Ừ, tôi biết, tôi biết rồi, Walker. Anh lo đi làm nhiệm vụ của mình ngay đi. Đừng có đứng đó mà nói hoài."

Bà Foster sốt ruột đi qua đi lại trong sảnh, và khi người quản gia quay lại, bà lại hỏi giờ. Bà luôn nhắc trong đầu mình rằng chuyến bay này là chuyến bay duy nhất bà tuyệt đối không được lỡ. Bà đã cất công nài nỉ, xin xỏ dữ lắm ông chồng mới cho đi. Nếu như bà bị lỡ, ông ta có thể bắt bà hủy bỏ toàn bộ chuyến đi. Và rắc rối là ông ta lại muốn tới sân bay để tiễn bà đi, vậy mới chết chứ.

"Ôi trời đất ơi, chết tôi rồi," bà lo lắng nói, "Chuyến bay của tôi... Tôi trễ rồi. Tôi biết, tôi biết, tôi biết tôi trễ lắm rồi." Miếng cơ trong góc mắt trái của bà bắt đầu co giật. Nước mắt sắp sửa tuôn ra.

"Walker, mấy giờ rồi?"

"Chín giờ mười tám, thưa bà."

"Tôi biết ngay mà! Tôi trễ lắm rồi!" bà thốt lên. "Trời ơi, giá như ổng chịu rời khỏi phòng ngay bây giờ thì hay biết mấy!"

Chuyến đi này vô cùng quan trọng đối với bà Foster. Bà dự định bay một mình tới Paris để thăm cô con gái duy nhất của mình. Cô ta kết hôn và sống chung với một người đàn ông đến từ Pháp. Nhưng bà Foster lại chẳng thèm quan tâm đến người đàn ông đó một tí nào cả, bà chỉ muốn được nhìn thấy cô con gái bé bỏng và ba đứa cháu ngoại của mình bằng xương bằng thịt chứ không phải qua những bức ảnh thường xuyên được gởi cho bà. Chúng đều là những đứa trẻ tuyệt vời và đáng yêu. Và cứ mỗi lần một bức ảnh mới được gởi đến, bà luôn giữ nó bên mình, ngồi yên một chỗ, ngắm những khuôn mặt bé xíu trong bức hình để coi coi tụi nhỏ có điểm gì giống với ông bà chúng. Dần dần, bà nhận ra rằng bà không hề muốn dành cả cuộc đời của mình sống ở một nơi mà bà không thể nào được ở bên cạnh để chăm sóc, dẫn chúng đi chơi, mua bánh kẹo cho chúng, và nhìn chúng lớn dần lên. Đương nhiên là bà biết rằng việc có những ý nghĩ này trong đầu khi chồng mình vẫn còn sống thật là sai trái và có phần phản bội. Bà còn biết rằng mặc dù ông không còn hoạt động kinh doanh gì nữa, nhưng ông sẽ không bao giờ chịu rời khỏi New York và chuyển đến Paris để sống. Việc ông ta cho phép bà một mình bay sang Paris và ở đó sáu tuần cùng với con cháu đã là một phép màu. Nhưng than ôi, bà chỉ ước gì mình được ở Paris mãi mãi, và được ở bên cạnh chúng!

"Walker, mấy giờ rồi?"

"Chín giờ hăm hai, thưa bà."

Vừa dứt lời, một cánh cửa chợt mở ra và ông Foster bước vào sảnh. Ông ta đứng ngay đó một lúc và nhìn chăm chú vào vợ mình, và bà nhìn lại ông – nhìn lại một quý ông với bộ râu "khủng" và thân hình nhỏ bé trong một bộ trang phục vô cùng tươm tất, ông ta chẳng khác gì so với Andrew Carnegie (một nhà tư bản công nghiệp).

"Chà," ông nói. "Chúng ta nên đi ngay thôi nếu bà không muốn bị lỡ chuyến bay này."

"Ôi, thế thì tốt quá, mình ơi – tốt quá! Tất cả mọi thứ đều đã sẵn sàng. Xe nó đang đợi ở ngoài đấy ạ."

"Được rồi," ông nói rồi khẽ nghiêng đầu nhìn bà. Và với cái cách nắm chặt hai bàn tay lại để trước ngực và nghiêng đầu sang một bên khiến ông trông như một con sóc vậy – một con sóc thông minh và lanh lợi trong công viên.

"Áo khoác của mình đây. Mặc đi, mình."

"Bà đợi tôi ở đây một chút nhé," ông nói. "Tôi cần phải đi rửa tay cái đã."

Bà đợi ông ta, còn người quản gia thì đứng kế bên bà, tay cầm chiếc nón và chiếc áo khoác.

"Walker, tôi lo quá. Anh có nghĩ tôi sẽ bị trễ chuyến bay không?"

"Không đâu, thưa bà," người quản gia trả lời. "Tôi nghĩ bà sẽ tới đó kịp thôi."

Sau đó, ông Foster quay trở lại, và người quản gia giúp ông mặc chiếc áo khoác. Còn bà Foster thì lật đật chạy ra ngoài và bước vào chiếc Cadillac cho thuê. Ông theo sau bà, nhưng chậm rãi bước xuống từng bậc thềm, và sau khi đã đi được nửa số bậc, ông dừng lại, ngước mặt nhìn lên bầu trời và hít một hơi thật sâu.

"Chà, trời hôm nay sao mà sương mù dữ thế này," ông nói sau khi đã ngồi yên trong xe (kế bên vợ mình). "Ở sân bay, thời tiết còn tệ hơn thế này nữa. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu chuyến bay của bà bị người ta hủy."

"Đừng có trù ẻo như thế, mình."

Cả hai người, không ai nói với ai một lời nào cho đến khi chiếc xe đã băng qua con sông tới Long Island.

"Tôi đã đi nói chuyện với mấy người giúp việc hết rồi," ông Foster nói. "Họ sẽ được nghỉ làm bắt đầu từ ngày hôm nay. Tôi đã trả họ nửa số lương và nói với Walker rằng tôi sẽ gửi cho ảnh một bức điện tín khi tôi với bà cần mấy người đó trở lại."

"Vâng," bà nói. "Ảnh có nói cho em nghe rồi."

"Tôi sẽ chuyển vô ở câu lạc bộ tối nay."

"Vâng. Em sẽ viết thư cho mình thường xuyên."

"Thỉnh thoảng, tôi sẽ ghé nhà để coi mọi thứ có ổn không, hoặc có thư từ gì không."

"Nhưng mình ơi, việc cho Walker ở lại để trông nhà không phải là tốt sao?" Bà hỏi nhẹ nhàng.

"Vớ vẩn. Việc đó không nhất thiết đâu. Nếu như Walker ở lại thì tôi sẽ phải trả đủ số lương cho anh ta đấy."

"Ồ," bà nói. "Phải rồi ha."

"Hơn nữa, bà sẽ không bao giờ biết người lạ sẽ làm gì trong nhà khi chúng ta đi vắng đâu," ông Foster nói trong lúc lấy ra một điếu xì gà, cắt đi phần đít của điếu, rồi châm lửa với một chiếc hộp quẹt màu vàng.

Bà ngồi im trong chiếc xe, những ngón tay bà đan xen với nhau trên đùi.

"Mình có định viết thư gì cho em không?" bà hỏi.

"Tôi cũng chưa biết nữa," ông trả lời. "Để coi mai mốt có chuyện gì đặc biệt không thì tôi mới viết thư cho bà."

"Vâng, nếu vậy thì mình đừng có bận tâm viết gì cho em hết nhé."

Chiếc xe di chuyển với tốc độ cao trên đường Queens Boulevard, và khi họ vừa tới khu đất nơi Idlewild được xây, sương mù trở nên dày đặc hơn, buộc chiếc xe phải giảm tốc độ.

"Ôi trời ơi!" bà Foster thốt lên. "Em thế nào em cũng sẽ bị trễ cho mà coi. Mấy giờ rồi hả, mình?"

"Bà có thôi léo nhéo bên tai tôi được không?" ông chồng nổi cáu. "Dẹp hết đi. Với cái thời tiết như thế này thì ai mà dám lái máy bay chở khách kia chứ. Tôi đảm bảo chuyến bay của bà đã bị hủy từ lâu rồi. Tôi chả hiểu tại sao bà lại đòi đi nữa."

Bà chợt phát hiện giọng nói của ông có gì đó thay đổi bất thường nhưng lại không chắc chắn. Bà quay mặt về phía chồng mình và nhìn ông. Việc nhận ra những cảm xúc thông qua biểu hiện trên gương mặt bị che đi bởi mái tóc của ông thực sự rất khó. Đôi môi là thứ duy nhất có thể nói lên được cảm xúc của ông rõ ràng. Và bà đã luôn ước ao được nhìn thấy đôi môi đó nhưng lại không thể. Còn đôi mắt của ông thì không bao giờ bộc lộ bất kỳ cảm xúc nào cả trừ khi ngọn lửa của sự giận dữ trong tim ông bùng cháy lên dữ dội.

"Và đương nhiên," ông ta tiếp tục nói, "cho dù nếu như chuyến bay của bà không hề bị hủy đi chăng nữa, thì tôi cá chắc chắn bà cũng sẽ bị lỡ thôi. Vậy tại sao bà lại không chịu từ bỏ ý định tới Paris ngay đi và trở về nhà với tôi?"

Bà quay mặt sang chỗ khác và nhìn lớp sương mù huyền ảo qua tấm kiếng. Có vẻ như chiếc xe càng tiến về phía trước, lớp sương mù trở nên dày hơn, và bà không thể thấy cái gì hết ngoại trừ mép đường và một phần của vỉa hè. Bà biết rằng ông ta vẫn còn nhìn mình. Bà liếc sang nhìn ông và trở nên hoang mang khi nhận ra ông ta đang nhìn chằm chằm vào góc mắt trái nơi mà bà có thể cảm nhận được miếng cơ đang co giật dữ dội.

"Sao? Bà có chịu không?" ông hỏi.

"Chịu gì?"

"Chấp nhận bị trễ chuyến bay và quay về nhà với tôi. Xe nó không thể nào chạy nhanh dưới thời tiết như vầy đâu."

Sau đó, ông không nói gì thêm với bà nữa. Chiếc xe cứ thế từ từ chạy. Phía trước mặt người tài xế chợt xuất hiện một cây cột đèn, và chính ánh sáng của nó giúp anh ta có thể nhìn thấy đường mà tiếp tục lái. Những cây cột đèn có màu sắc khác nhau (trắng, vàng) lần lượt xuất hiện trong lớp sương mù.

Đột nhiên, chiếc xe dừng lại.

"Thấy chưa!" ông Foster thốt lên. "Tôi biết ngay thế nào cũng bị kẹt xe mà."

"Không phải đâu, thưa ông," người tài xế quay đầu lại và nói. "Chúng ta tới sân bay rồi ạ."

Bà Foster nhảy ra khỏi xe và tức tốc chạy vô nhà ga sân bay mà không nói một lời nào cả. Bên trong có cả hàng ngàn người khách, chủ yếu họ tập trung ở quầy bán vé. Bà cố gắng chen qua khỏi đám đông để gặp và nói chuyện với nhân viên bán vé.

"Vâng," cậu ta nói. "Rất tiếc chuyến bay của bà tạm thời bị hoãn. Xin bà vui lòng ngồi đợi ở bên trong. Một khi thời tiết trở nên khá hơn, chúng tôi sẽ cho bay ngay nhé."

Bà quay trở lại chiếc xe và kể cho chồng mình nghe về chuyện này. "Mình về đi nhé," bà nói. "Đừng đợi em đi làm gì."

"Miễn sao cậu tài xế có thể chở tôi về là được rồi," ông nói. "Cậu chở tôi về ngay bây giờ được chứ?"

"Dạ được, thưa ông," anh ta nói.

"Hành lý lấy ra hết chưa?"

"Dạ rồi ạ."

"Bái bai mình nhé," bà Foster nói. Bà dựa vào chiếc xe và hôn vào đôi má thô ráp của ông.

"Ừ, bai bà," ông trả lời. "Đi chơi vui vẻ nhé."

Họ rời đi, để bà Foster lại một mình.

Nửa ngày còn lại hệt như một cơn ác mộng. Bà phải ngồi suốt một thời gian dài trên một băng ghế đặt ở gần quầy bán vé, và cứ mỗi ba mươi phút trôi qua, bà lại tới quầy và hỏi nhân viên liệu tình hình đã thay đổi hay chưa. Và bà luôn nhận được câu trả lời rằng bà phải tiếp tục chờ đợi bởi vì lớp sương mù có thể tan đi vào bất cứ lúc nào, nhưng đời nào mà nó tan đi dễ thế. Sau sáu giờ chiều, những chiếc loa phát thanh đồng loạt thông báo chuyến bay của bà bị hoãn cho tới mười một giờ sáng mai.

Bà không biết phải làm gì hay phải phản ứng ra sao sau khi nghe thông báo đó. Mệt mỏi rã rời, bà tiếp tục ngồi đợi trong vòng nửa tiếng nữa và suy nghĩ mình nên ngủ chỗ nào. Bà không hề muốn rời khỏi sân bay và cũng không hề muốn gặp chồng mình bởi vì bà sợ ông ta sẽ ngăn không cho bà bay tới Pháp nữa. Bà chỉ muốn ngồi yên trên băng ghế và chờ đợi cả đêm. Nếu được như vậy thì tốt quá, nhưng giờ bà đã mệt quá rồi; bà sớm nhận ra việc ngồi chờ tại sân bay cả đêm không hề thích hợp cho những người tuổi già, sức yếu như bà. Cuối cùng thế là bà đành phải gọi điện về nhà.

Ông Foster đang sửa soạn, chuẩn bị rời khỏi nhà để đi tới câu lạc bộ thì nghe tiếng điện thoại reo. Ông bắt máy và nghe vợ kể hết sự tình, bà hỏi ông liệu những người giúp việc có còn ở đó không.

"Họ đi hết trơn rồi," ông nói.

"Nếu vậy thì chắc em phải tìm một chỗ nào đó tại sân bay để ngủ thôi. Mình khỏi lo cho em nhé."

"Sao bà ngu dữ vậy," ông nói. "Bà có nguyên căn nhà to đùng mà không có ai ở hết nè. Lo mà về ôm gối ngủ đi."

"Nhưng ở trỏng đâu còn ai nữa đâu, mình."

"Yên tâm, tôi sẽ ở nhà với bà, được chứ?"

"Nhưng mà trong nhà đâu còn đồ ăn nữa đâu, mình."

"Vậy thì bà lo kiếm cái gì để ăn trước đi rồi hẳn về nhà. Đừng có ngồi đó mà lải nhải hoài. Đúng là cái thứ đàn bà, làm cái gì cũng phải cằn nhằn, léo nhéo hết. Bực cả mình."

"Vâng," bà nói. "Em xin lỗi vì đã khiến mình lo lắng nha. Thôi được rồi, em sẽ mua một ổ bánh mì ở đây rồi tự bắt xe về nhà."

Ở phía bên ngoài, lớp sương mù đã tan đi được một chút, nhưng nó vẫn khiến cho chiếc taxi chạy chậm lại, và cho tới tận nửa đêm, bà mới về tới nhà.

Chồng bà bước ra khỏi phòng làm việc khi ông nghe thấy tiếng bước chân của bà. "Sao," ông đứng kế bên cạnh cánh cửa phòng làm việc và mỉa mai, "Bà thấy chuyến đi Paris như thế nào?"

"Thôi đi, mình. Chuyến bay của em khởi hành vào sáng mai, lúc mười một giờ," bà trả lời. "Người ta đã xác nhận thông tin đó rồi."

"Không có đâu. Chỉ khi nào trời hết sương mù rồi thì họ mới cho bay."

"Mình cứ yên tâm đi. Trời bắt đầu có gió nên sương mù sẽ sớm tan đi thôi."

"Trông bà có vẻ mệt đấy," ông nói. "Tôi cá là bà đã có một ngày vô cùng tồi tệ."

"Vâng, ngồi đợi ở sân bay là một việc quá sức đối với em. Em cần phải đi ngủ ngay bây giờ."

"Tôi đã thuê một chiếc xe hơi cho ngày mai rồi đó," ông nói. "Chín giờ nó ghé."

"Ôi, cám ơn mình nhiều lắm. Em chỉ hy vọng là ngày mai mình sẽ không cất công ra tới tận sân bay để tiễn em đi nữa."

"Ồ, không đâu," ông nói một cách chậm rãi. "Tôi sẽ không ra sân bay để tiễn bà đi nữa đâu, mà tôi sẽ đi ké xe của bà tới câu lạc bộ đấy nhé."

Bà tròn xoe mắt nhìn chồng mình và có cảm giác như ông ta đang đứng rất rất xa mình. Bà không thể tin được những gì ông ta vừa mới nói với mình và cũng không thể hiểu nổi ông ta đang nghĩ cái gì trong đầu.

"Câu lạc bộ đó nằm ở trung tâm thành phố," bà nói. "Chứ nó có nằm trên đường đi tới sân bay đâu, mình."

"Nhưng bà có cả khối thời gian kia mà. Lo gì. Bộ bà không muốn tôi đi cùng với bà sao?"

"Ô, đương nhiên là em muốn chứ."

"Thế thì tốt. Thôi, bà đi ngủ đi. Hẹn bà vào sáng mai, lúc chín giờ."

Thang máy dừng ở tầng số ba, cửa mở ra, bà bước vào phòng ngủ của mình, leo lên giường và ngủ ngay tức khắc vì quá mệt mỏi.

Sáng hôm sau, bà dậy rất sớm. Và chỉ mới có tám giờ rưỡi thôi mà bà đã sửa soạn xong hết trơn rồi. Bà bước ra khỏi thang máy trong tư thế sẵn sàng để rời khỏi nhà.

Ít phút sau chín giờ đúng, chồng của bà xuất hiện. "Bà có pha cà phê cho tôi uống không?" ông hỏi.

"Không, mình ơi. Em tưởng ở câu lạc bộ, người ta sẽ cho mình ăn một bữa điểm tâm tuyệt vời chứ. À mà thôi, xe tới rồi. Nó đang đợi mình ở ngoài đấy. Đi thôi nào."

Hai vợ chồng già đứng tại sảnh chính – dường như giờ đây, ngày nào họ cũng gặp nhau tại nơi đây hết – bà vợ đội một chiếc nón và bận một chiếc áo ấm, còn ông chồng thì bận một chiếc áo khoác Edwardian sang trọng.

"Ủa, hành lý của bà đâu?"

"Em để ở sân bay hết rồi, mình."

"Ừ nhỉ," ông nói. "Đương nhiên bà để chúng ở sân bay hết rồi. À quên, tôi đi ké xe của bà tới câu lạc bộ đấy, cho nên chúng ta nên đi ngay thôi kẻo trễ."

"Ôi, thế thì tốt quá!" bà thốt lên. "Chúng ta đi thôi nào."

"Khoan đã, tôi cần đi lấy một vài điếu xì gà cho tôi. Bà cứ ra xe trước đi, tôi sẽ ra sau."

Bà vội vã bước ra khỏi nhà và tiến tới chỗ người tài xế đang đứng. Thấy bà xuất hiện, anh ta liền mở cửa xe cho bà vô.

"Mấy giờ rồi hả, cậu tài xế?" bà hỏi.

"Khoảng chín giờ mười lăm, thưa bà."

Năm phút sau, ông Foster bước ra khỏi nhà, và cẩn thận từ từ bước xuống từng bậc thềm. Bà Foster quan sát chồng mình, và có cảm giác đôi chân của ông ta y hệt như là đôi chân của một con dê vậy. Cũng giống như ngày hôm qua, ông dừng bước sau khi đã đi được nửa số bậc thềm, và tranh thủ ngắm nhìn bầu trời và hít thở không khí trong lành. Sương mù vẫn chưa tan, nhưng những tia nắng sáng chóa lóa của mặt trời sẽ nhanh chóng làm nó tan đi hết thôi.

"Lần này, có thể bà sẽ hên lắm đấy," ông nói trong lúc ổn định chỗ ngồi.

"Làm ơn lẹ lên đi, cậu tài xế ơi," bà nói với anh ta. "Đừng có bận tâm về cái tấm thảm đấy nữa. Tôi sẽ cho người giải quyết nó. Còn giờ thì mau mau chở chúng tôi đi đi. Tôi trễ quá rồi."

Anh ta bước vào chiếc xe, ngồi xuống chỗ của mình, và khởi động nó.

"Đợi đã!" ông bất chợt la lên. "Cậu làm ơn đợi tôi một chút."

"Gì vậy, mình?" Bà nhìn chồng mình đang lật đật tìm thứ gì đó trong những chiếc túi áo.

"Tôi có một món quà nhỏ tôi muốn bà đưa cho con Ellen dùm tôi," ông trả lời. "Giờ thì nó ở đâu rồi ta? Tôi nhớ tôi có cầm nó trong tay lúc bước xuống lầu kia mà."

"Em có thấy mình cầm cái gì đâu. Mà quà đó là quà gì vậy?"

"À, chỉ là một cái hộp nhỏ được quấn trong giấy gói quà ấy mà. Tôi quên đưa nó cho bà hồi hôm qua. Và tôi không muốn để quên nó hôm nay."

"Một cái hộp nhỏ!" bà thốt lên. "Em có thấy cái hộp nhỏ nào đâu!" Bà bắt đầu điên cuồng lục tung cả chiếc xe để tìm cho ra chiếc hộp.

Chồng bà vẫn tiếp tục tìm nó trong những chiếc túi được may trên chiếc áo khoác. Sau đó, ông mở toàn bộ cúc áo và sờ phía bên trong của chiếc áo khoác. "Thôi chết rồi," ông nói. "Có lẽ tôi đã để nó ở trong phòng ngủ của tôi. Bà ngồi đây đợi tôi chút nhé."

"Đừng đi mà mình, em xin mình đấy!" bà la lên. "Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa đâu! Kệ nó đi, mình! Mình có thể gởi nó qua bưu điện được mà. Dù sao đi nữa nó cũng chỉ là một chiếc lược vớ vẩn thôi, mình bận tâm đến để làm cái gì. Mình lúc nào cũng tặng cho con bé ba cái thứ đồ quỷ này hết."

"Tặng mấy cái lược đó thì có chết ai đâu. Làm gì mà bà la lối om sòm thế hả?" ông nổi sùng.

"Em xin lỗi. Nhưng mà..."

"Ngồi đợi ở đó đi!" ông ra lệnh. "Tôi cần phải đi lấy cái hộp ngay bây giờ. Tôi quyết định rồi."

"Nhanh lên nha, mình! Em xin mình đấy!"

Bà ngồi im và đợi chờ.

"Cậu tài xế, mấy giờ rồi?"

Người tài xế nhìn chiếc đồng hồ mà mình đang đeo và nói: "Gần chín rưỡi rồi, thưa bà."

"Liệu chúng ta có thể tới sân bay kịp trong vòng một tiếng không?"

"Được chứ ạ."

Bỗng nhiên, bà Foster thấy có một thứ gì đó màu trắng bị kẹt trong khe ghế của ông. Bà lấy nó ra, và nghĩ rằng có ai đó cố tình nhét nó vào trong đó thật sâu.

"Nó đây rồi!" bà la lên. "Tôi tìm thấy nó rồi! Thì ra nó ở dưới đây. Thôi chết rồi, ổng vẫn còn đang đi tìm nó ở trong nhà! Cậu kia, cậu làm ơn chạy vào trong, kêu ổng xuống đây dùm tôi, có được không?"

Người tài xế không quan tâm đến chuyện này cho lắm, nhưng anh ta vẫn sẽ làm theo lời yêu cầu của bà. Anh ta bước ra khỏi xe, vội vàng chạy tới cánh cửa sau mấy bậc thềm. Sau đó, anh ta xoay người và trở lại chiếc xe. "Cửa khóa rồi," anh ta nói. "Bà có chìa khóa không?"

"Có – đợi tôi một chút." Bà bắt đầu lục tung giỏ mình ra để tìm chiếc chìa khóa. Sự lo lắng và hoảng loạn được thể hiện qua những cử chỉ, khuôn mặt và đôi môi của bà.

"Đây rồi! À, thôi khỏi, tôi sẽ tự vào trong đó, như vậy sẽ nhanh hơn. Tôi biết ổng đang ở đâu trong nhà."

Bà giữ chiếc chìa khóa trong tay, nhảy ra khỏi xe và bay lên bậc thềm tới cánh cửa. Bà đút chiếc chìa khóa vào lỗ khóa và chuẩn bị vặn – nhưng rồi chợt dừng lại. Đầu bà ngẩng lên, và bà đứng ngay đó trong trạng thái bất động y như bị trời trồng, cả người bà dường như đang bị một thế lực vô hình nào đó ngăn cản, không cho bà vặn chiếc chìa khóa và bước vô nhà. Bà đợi – năm, sáu, bảy, tám, chín, mười giây. Và cái cách bà đứng ngay đó (đầu ngẩng cao và cả người bị đông cứng) cho thấy rằng dường như bà đang lắng nghe sự lặp đi lặp lại của một thứ âm thanh phát ra từ một nơi nào đó rất xa trong ngôi nhà.

Vâng, đúng vậy – rõ ràng là bà đang lắng nghe thứ âm thanh đó, tất cả những cử chỉ của bà đều nói lên như thế. Bà đưa từ từ một trong hai lỗ tai của mình lại gần và áp sát vào cánh cửa. Một vài giây trôi qua, bà vẫn giữ nguyên tư thế đó: đầu ngẩng cao, tai áp sát vào cửa, những ngón tay ôm lấy chiếc chìa khóa. Bà đã sẵn sàng để vặn nó và bước vào trong nhưng lại không muốn làm vậy, thay vào đó, bà cố gắng lắng nghe và phân tích những âm thanh yếu ớt phát ra từ một nơi ở tuốt bên trong ngôi nhà.

Rồi sau đó, hồn bà cuối cùng đã có thể trở về thân xác. Bà ngay lập tức rút chìa khóa ra khỏi lỗ khóa và bay xuống bậc thềm.

"Trễ quá rồi!" bà nói với người tài xế. "Tôi không thể nào đợi ông ấy lâu hơn được nữa. Đi đi, tài xế! Nhanh lên, nếu không tôi sẽ bị trễ chuyến bay mất!"

Người tài xế, người đã quan sát bà từ nãy đến giờ, nhận thấy gương mặt của bà trở nên tái nhợt và toàn bộ những cử chỉ và cảm xúc của bà đã hoàn toàn bị thay đổi. Sự ngây ngô và ngốc nghếch của bà giờ đây đã không còn nữa, mà thay vào đó là sự cứng rắn và lanh trí. Đôi môi bà co và mỏng lại, không còn giãn ra như trước nữa; đôi mắt bà trở nên sáng rực; và giọng nói của bà trở nên hùng hổ hơn.

"Cho xe chạy đi, tài xế, nhanh lên!"

"Ơ, thế ông không đi cùng với bà nữa à?" anh ta ngạc nhiên hỏi.

"Đương nhiên là không rồi! Cậu làm ơn cho xe chạy ngay bây giờ đi. Sẽ không có chuyện gì xảy ra đâu. Ổng sẽ hiểu, thông cảm cho tôi và sẽ tự đi taxi tới câu lạc bộ. Còn giờ thì cậu cho xe chạy nhanh đi! Đừng có ngồi đó mà nói hoài. Tôi cần phải đến sân bay càng sớm càng tốt!"

Nhờ sự thúc giục của bà Foster mà người tài xế cho chiếc xe chạy với tốc độ cao suốt quãng đường dài. Cuối cùng, bà lên được máy bay của mình và vẫn còn dư tới tám phút. Và chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, bà có thể nhìn thấy Đại Tây Dương bao la. Cảm giác của bà bây giờ là vô cùng thoải mái và dễ chịu, bà tựa lưng vào chiếc ghế êm ái của mình, lắng nghe tiếng ù ù phát ra từ động cơ máy bay, và nghĩ đến Paris. Những cảm giác mới lạ vẫn còn đây với bà. Bà cảm thấy mình khỏe như trâu và trẻ ra một cách phi thường, và đồng thời cảm thấy hơi ngạc nhiên khi mình lại có thể tới sân bay đúng giờ như vậy. New York từ từ biến mất, sự bình yên ôm lấy bà. Cuối cùng cũng đã tới Paris, bà Foster chưa bao giờ cảm thấy khỏe, thoải mái và dễ chịu như lúc này hết.

Con cháu đầy đủ, gia đình đoàn tụ, thật là hạnh phúc. Bà có cơ hội gặp những đứa cháu của mình bằng xương bằng thịt. Ôi, so với những bức ảnh thì ở ngoài đời chúng đẹp hơn nhiều. Và cứ mỗi ngày, bà dắt chúng đi dạo vòng vòng, làm bánh cho chúng ăn, mua cho chúng thật nhiều quà, và hằng đêm kể chuyện cho chúng nghe.

Thứ ba hàng tuần, bà luôn viết thư cho chồng kể về những chuyện đã xảy ra trong tuần vừa rồi hoặc kể về những chuyện tầm phào một cách nhí nhảnh. Và lúc nào cũng vậy, ở cuối lá thư bà không bao giờ quên ghi dòng chữ "Nhớ là phải ăn uống đầy đủ và thường xuyên nha, mình. Em lo cho mình lắm đó."

Sáu tuần trôi qua thật nhanh, tất cả mọi người đều buồn vì bà phải trở về Mỹ, trở về với chồng bà, nhưng bà thì không, và điều đó thật là kỳ lạ. Những câu nói của bà và cách bà hôn từng người và chào tạm biệt có chứa một điều gì đó rất là bí ẩn, rằng bà sẽ còn trở lại Paris dài dài trong tương lai.

Để làm tròn bổn phận của một người vợ mẫu mực, bà không muốn níu kéo thời gian ở đây. Một khi sáu tuần ở Paris vừa kết thúc, bà tức tốc bay thẳng về New York.

Tới Idlewild, bà Foster ngạc nhiên khi thấy không có một chiếc xe nào được cử tới để chở bà về cả. Có lẽ bà cảm thấy hơi tủi thân một chút ngay lúc đó. Nhưng thực tế, bà cảm thấy vô cùng thoải mái và yên bình. Đầu óc bà vô cùng minh mẫn và bà không hề cho quá nhiều tiền tip cho phu khuân vác, người đã bỏ đống vali vào chiếc taxi dùm bà.

New York lạnh hơn nhiều so với Paris, và ở đây, đi đâu cũng thấy tuyết. Tuyết ở khắp mọi nơi, từ dưới đường cho tới trên cây. Chiếc taxi dừng ở ngay phía trước ngôi nhà trên đường Sixty-second, và bà Foster nhờ người tài xế xách đống vali này lên bậc thềm và để chúng trước cửa nhà. Xong xuôi, bà trả tiền cho anh ta rồi nhấn chuông. Bà đứng đợi, và không thấy ai ra mở cửa cho mình hết. Để đảm bảo có người nghe được tiếng chuông, bà nhấn thêm một lần nữa. Tiếng chuông reng lên từ phía nhà bếp (ở tuốt bên trong căn nhà), và dường như chỉ có một mình bà có thể nghe được tiếng chuông đó thôi. Chờ hoài, chờ mãi vẫn không thấy ai ra mở cửa cả.

Vì thế cho nên, bà tự lấy chìa khóa của mình ra và mở cửa cho mình.

Thứ đầu tiên mà bà nhìn thấy khi vừa bước vào là hàng chục cái lá thư nằm la liệt trên sàn nhà (chúng rớt xuống dưới đó sau khi được người đưa thư bỏ vào khe nhỏ trên cánh cửa). Bóng tối và sự lạnh lẽo thống trị toàn bộ nơi đây. Một tấm phủ chống bụi vẫn còn được phủ lên chiếc đồng hồ tủ. Ngoài bóng tối và sự lạnh lẽo ra, không khí nơi đây vô cùng ngột ngạt. Bà chợt ngửi thấy một mùi gì đó nghe rất ư là khó chịu phảng phất gần đây, và cảm thấy vô cùng tò mò vì bà chưa bao giờ ngửi thấy nó bao giờ cả.

Từ phía bên đây, bà bước qua phía bên kia của sảnh, quẹo trái rồi biến mất. Có vẻ như bà đang cố gắng tìm hiểu chuyện gì đó hoặc đang cố gắng lý giải tất cả những thắc mắc trong đầu mình. Khuôn mặt của bà thể hiện sự hài lòng và thỏa mãn khi bà quay trở lại.

Bà dừng lại, đứng bất động giữa sảnh chính và tự hỏi mình nên làm gì tiếp theo. Rồi bỗng nhiên, bà xoay người, đi thẳng vào phòng làm việc của chồng mình, và tìm thấy một cuốn danh bạ điện thoại ở trên bàn. Bà mở nó ra, nhanh chóng tra cứu, nhấc điện thoại lên rồi xoay số.

"A-lô," bà nói. "Đây là nhà Foster, địa chỉ số chín đường East Sixty-second... Vâng, đúng rồi, thang máy nhà tôi bị trục trặc. Dựa vào bảng hiển thị số tầng, tôi đoán hình như nó bị kẹt giữa tầng ba và tầng bốn hay sao ấy. Anh làm ơn cử ai đó tới đây để sửa nó giúp tôi ngay bây giờ, có được không? Tôi có việc cần phải lên lầu mà chân tôi yếu quá, không thể đi nổi... Sao? Tới ngay bây giờ à? Ôi, thế thì tốt quá rồi. Cảm ơn anh nhiều nhé. Ô-kê, bái bai."

Bà cúp máy, kéo ghế ra, và ngồi đợi người ta đến sửa thang máy.

HẾT


BONUS CONTENT: Dưới đây là video mô phỏng lại toàn bộ câu chuyện.

https://youtu.be/MBleSqrQtmc

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com