Thiên Hạ Kiêu Hùng 19
Thiên Hạ Kiêu Hùng
Tác giả: Cao Nguyệt
Thể loại: Lịch Sử Quân Sự
Nhóm dịch: Quan Trường
Nguồn dịch: Mê Truyện
Ebook by: Kiếm Giới
Creator by: Thủy Hỏa Thần
-------o0o-------
Chương 901 : Con người hào phóng (1+2)
Chưởng quầy do dự một chút lại nói:
- Y nói muốn cùng chúng ta thương lượng một việc kinh doanh lớn, cần đông chủ mới làm được.
- Kinh doanh lớn.
Bùi U có chút hứng thú hỏi:
- Y có nói là kinh doanh gì không?
- Y không chịu nói, nhất định phải gặp mặt đông chủ để nói chuyện. Y nói ngày kia lại đến.
- Hừ!
Bùi U hừ lạnh một tiếng nói:
- Đã như vậy, ngày kia lại bàn.
La Sĩ Tín do thị vệ dẫn đường, đi vào Tử Vi Các, thẳng đến trước quan phòng của Dương Nguyên Khánh, thì thấy Bùi Thanh Tùng vừa lúc đi ra.
Dương Nguyên Khánh rất nhiều lần xuất chinh đều mang theo Bùi Thanh Tùng, La Sĩ Tín đã rất quen thuộc với y. La Sĩ Tín chắp tay cười nói:
- Bùi tham quân, điện hạ có ở đây không
- Có, La tướng quân chờ một chút, ta vào bẩm báo.
Bùi Thanh Tùng xoay người vào nhà, một lát đi ra cười nói:
- La Tướng quân, điện hạ mời ngài đi vào.
La Sĩ Tín sửa sang lại áo mũ, mới đẩy cửa vào phòng.
Trong phòng, Dương Nguyên Khánh đang ngồi ở trước bàn, cẩn thận nhìn tiền vàng và tiền bạc mới đúc. Kỳ thực, tiền vàng cũng không nhiều, chủ yếu là dùng để ban thưởng. Bình thường thì cất đi, không để lưu thông ở thị trường. Nhưng tiền bạc lại tương đối nhiều, rất có thể trở thành một loại tiền mới.
Trên thực tế, ở thời Tùy Đường, bởi vì số lượng vàng bạc ít, mà không thể đủ để đúc thành tiền. Tuy cũng đúc tiền vàng và tiền bạc, nhưng đây chỉ là một loại tài bảo, mà không phải là tiền. Thời Tùy Đường thực tế dùng chính là tiền đồng và vải vóc.
Nhưng từ khi quặng bạc được khai thác với quy mô lớn. Số lượng bạc trắng tăng lên, việc đúc tiền trở nên khả thi. Cho dù bây giờ mới chỉ là bắt đầu, nhưng đến khi tiền bạc được chấp nhận. Như vậy việc tìm kiếm mỏ bạc sẽ được triều đình coi trọng hơn.
Mỏ bạc lớn thực sự không phải là ở quận Hội Ninh, mà là ở Tây Vực. Một ngày nào đó, vương triều của hắn sẽ vì muốn tìm mỏ bạc, mà tiến quân về hướng tây.
Lúc này, La Sĩ Tín đi đến, khom người thi lễ nói:
- Tham kiến tổng quản!
Dương Nguyên Khánh buông tiền bạc xuống, cười tủm tỉm hỏi:
- Nghe nói ngươi muốn thành hôn, ta chúc mừng ngươi!
La Sĩ Tín hơi ngượng ngùng gãi đầu, lấy ra một thiệp mời, hai tay trình lên nói:
- Đây là thiệp mời tiệc cưới, mong rằng tổng quản có thể đến tham dự.
- Hôn lễ của ngươi, đương nhiên ta sẽ có mặt.
Dương Nguyên Khánh cười ha hả nhận lấy thiệp mời, lại hỏi y:
- Hôn lễ được chuẩn bị như thế nào rồi?
- Đã chuẩn bị xong! Nghe phụ thân của thần nói, các lễ nghi đều đã sắp đặt xong. Tiệc rượu thì do Trình Giảo Kim phụ trách, quán rượu cũng do huynh ấy tìm. Phủ của Tần đại ca tạm thời coi là nhà gái. Đến lúc đó thì tới Tần phủ đón dâu.
Dương Nguyên Khánh khẽ cau mày nói:
- Tần Quỳnh làm việc rất điềm đạm, chắc chắn, có thể tin được. Nhưng Trình Giảo Kim tên kia làm việc khiến người khó có thể tin cậy. Kiểu gì cũng phải gây ra phiền toái. Tốt nhất, ngươi nên kiểm tra lại một chút, đảm bảo chắc chắn không xảy ra đường rẽ gì.
La Sĩ Tín cũng không quá tin tưởng Trình Giảo Kim. Dương Nguyên Khánh vừa dặn, y liền lo lắng, gật đầu nói:
- Thần trở về sẽ nói với phụ thân, nhờ phụ thân quan tâm một chút.
Dương Nguyên Khánh ngẫm nghĩ một chút lại nói:
- Ngoài ra, ngươi còn phải đi quận Tề, nói cho Đậu Kiến Đức một tiếng. Tuy rằng quân đội của hai chúng ta là đối địch. Nhưng y lại là bề trên duy nhất của Tuyến Nương. Tuyến Nương được y nuôi lớn, về lễ tiết, ngươi cần phải thông báo cho y một tiếng. Đòng thời bảo Tuyến Nương viết một phong thư. Như vậy mới hợp lẽ thường tình của người đời.
Cho dù việc này La Sĩ Tín rất không tình nguyện, nhưng y vẫn gật đầu đáp ứng.
Sáng sớm, Trình Giảo Kim lại lần nữa đến quán rượu Nguyên An. Trong lòng y có chút lo lắng. Ngày mai đã là ngày mừng của La Sĩ Tín. Tiệc cưới không thể trì hoàn thêm nữa, e là sẽ hỏng đại sự.
Y đi vào cửa chính của quán rượu. Chưởng quầy liền tươi cười đón chào:
- Quân gia, thực sự là khéo! Tối hôm qua, đông chủ của nhà ta đã quay trở lại.
Trình Giảo Kim ngẩn ra:
- Ngươi biết ta là quân nhân?
Y đang mặc một bộ áo dài, đầu đội khăn, ăn mặc giống như một thương nhân. Nhìn kiểu gì cũng không giống người trong quân đội, không biết chưởng quầy sao có thể nhìn ra.
Chưởng quầy bật cười nói:
- Cả người quân gia đều toát ra khí vũ hiên ngang cường tráng, làm sao có thể không đoán ra. Hơn nữa, bình thường lúc quân gia dùng cơm, thường nói tới chuyện đã từng đánh với Lý Huyền Bá. Búa của ngài bị đại chùy của Lý Huyền Bá đánh cho cong. Cuối cùng do ngựa chiến chịu hết nổi, mà bị Lý Huyền Bá đánh một chùy làm nội thương đấy thôi ạ? Đây không phải khí khái của quân nhân thì là gì?
Trình Giảo Kim cười đắc ý:
- Nói không sai. Dẫn ta đi gặp đông chủ của nhà ngươi!
- Quân gia mời đi theo ta.
Chưởng quầy dẫn theo Trình Giảo Kim lên tầng năm, đẩy cửa đi vào một căn phòng nói:
- Quân gia, mời vào!
Trình Giảo Kim vừa khẩn trương vừa hưng phấn đi vào. Vào phòng, y liếc một cái đã thấy Bùi U đứng ở trước cửa sổ. Bùi U đang mặc một bộ quần áo gấm màu vàng, có thêu hoa điểu, búi tóc được buộc lên, có gắn đồ trang sức đẹp đẽ. Nàng lần này ăn mặc chau chút hơn lần trước gặp ở Thanh Hà rất nhiều.
Lần trước thấy nàng là eo thô như thùng nước, hiện giờ nhờ ăn mặc vào trông gọn gàng hẳn lên. Lần trước, nàng hai tay chống nạnh, lông mày dựng lên, như Mẫu Dạ Xoa sống lại, hiện giờ nhờ ăn mặc, mà trở nên nhã nhặn lịch sự. Lông mày trang điểm đẹp đẽ, giống như Quan Âm tái thế.
Trình Giảo Kim chỉ cảm thấy miệngđắng lưỡi khô, cứng họng, nói không được một lời. Chỉ biết đứng ở cửa, nhếch miệng cười ngây ngô. Trong nháy mắt khi Bùi U xoay người, hàn khí trong mắt biến mất, biến thành vẻ tươi cười rạng rỡ như hoa. Nàng hướng y thi lễ nói:
- Lần trước ở huyện Thanh Hà, ta có chút vô lễ với Trình gia. Mong Trình gia đại nhân đại lượng, không để bụng với tiểu nữ tử.
Trình Giảo Kim gãi gãi sau gáy, ngây ngô cười nói:
- Đó là không đánh nhau thì không quen nhau. Ta sao có thể tính toán chi ly với U Nương.
Bùi U cực kỳ chán ghét người khác gọi nàng là U Nương. Nhưng thấy Trình Giảo Kim có việc kinh doanh lớn cần thương lượng, nàng liền không có trở mặt phát tác. Nàng thản nhiên cười, khoát tay nói:
- Mời Trình gia ngồi!
Trình Giảo Kim ngồi xuống, cách một cái bàn. Bùi U cũng ngồi xuống đối diện. Không ngờ vị chưởng quầy kia lại đi tới ngồi cạnh Bùi U. Trình Giảo Kim trợn mắt nhìn. Người này thực không biết lễ phép. Y vội ho khan một tiếng nói:
- Chưởng quầy cứ việc làm công việc của mình đi!
- Ha hả! Không vội không vội, bây giờ còn sớm, chắc chưa đã có khách đến ăn.
Chưởng quầy mở tờ giấy ra, cầm bút, chuẩn bị ghi lại việc kinh doanh giữa bọn họ.
Trình Giảo Kim bất đắc dĩ, chỉ có thể thầm mắng một tiếng. Chắp tay nói:
- Là như thế này, một người bạn của ta sắp thành hôn, ủy thác cho ta xử lý tiệc rượu. Ta quyết định đặt một trăm bàn tiệc rượu ở quán rượu này.
Nói xong, Trình Giảo Kim dương dương đắc ý, muốn nhìn một chút phản ứng của Bùi U. Bùi U nghe nói là làm tiệc rượu có đến trăm bàn, lông mi khẽ động, ý cười dào dạt.
- Trình gia muốn bao hết tiểu điếm sao?
- Không! Chỉ phiền các vị mang bàn ghế cùng rượu và thức ăn tới thôi.
- Không có vấn đề, chúng ta có thể chuẩn bị. Không biết khi nào thì tiệc rượu bắt đầu?
- Vào…Trưa mai.
- Ngày mai?
Bùi U kinh hãi thét lên. Nàng và chưởng quầy ngơ ngác nhìn nhau. Điều này sao có thể, một ngày chuẩn bị một trăm bàn tiệc rượu. Mua nguyên liệu cùng nấu ăn đã không còn kịp.
- Vì sao Trình gia không nói sớm vài ngày?
Bùi U có chút oán giận nói:
- Lần trước ta không ở đây, ngài có thể nói cho chưởng quầy. Hiện tại bảo ta làm sao làm kịp? Ai!
Bùi U thở dài:
- Trình gia, thực sự xin lỗi. Cuộc làm ăn này, chúng ta không thể tiếp nhận được.
- Đừng! Đừng! Đừng.
Trình Giảo Kim nóng nảy, cuống quít xua tay nói:
- Ngàn vạn lần đừng cự tuyệt. Chúng ta có thể thương lượng về giá cả. Các ngươi nhất định phải giúp ta việc này.
Bùi U đảo mắt, nếu có thể thương lượng giá cả, thì việc này có hy vọng. Nàng cười cười:
- Nếu rất vội, ta chỉ thể tăng giá mua thịt cùng rau củ. Còn phải đi mượn thêm đầu bếp bên ngoài. Nhân sự cùng bàn ghế cũng phải mượn thêm. Cho nên giá cả hơi cao, không biết Trình gia có thể đảm đương nổi không?
Dù sao tiền là tiền của La Sĩ Tín, Trình Giảo Kim không có chút nào đau lòng. Chỉ cần lấy được niềm vui của Bùi U, dùng thêm nhiều tiền hơn nữa, y cũng không quan tâm.
- Tiền không là vấn đề. Chỉ cần trưa mai có thể đúng giờ mở yến tiệc là được.
- Được rồi! Ta nói cho Trình gia. Một bàn tiệc rượu tốt nhất cần phải tám mươi xâu tiền. Nhưng Trình gia thúc dục quá nhanh, chúng ta phải dùng thêm tiền mua nguyên liệu nấu ăn, mời thêm nhân thủ. Cho nên một bàn là tám mươi xâu tiền. Đồng ý chứ?
- Không có vấn đề, tám mươi xâu thì tám mươi xâu!
Bùi U thấy y đáp ứng sảng khoái như vậy, lai nói tiếp:
- Nhưng tám mươi xâu tiền này không bao gồm tiền thưởng. Hiện tại, rượu gạo không có, chỉ có thể chuẩn bị rượu nho tốt nhất. Mỗi bàn còn phải cộng thêm mười xâu tiền. Còn có nhân lực, bàn ghế, bát đũa, rượu, thức ăn và việc vận chuyển. Cần phải có một chút phí khen thưởng linh tinh. Cộng tất cả vào là…
Trình Giảo Kim nghe nhức cả đầu, không kiên nhẫn khoát tay chặn lại nói:
- Nàng cứ nói ra giá đi, rốt cuộc là bao nhiêu tiền một bàn?
Bùi U híp mắt, giảo hoạt nói:
- Được rồi! Vì các ngươi là thủ hạ của Sở Vương, ta liền đưa ra giá là một trăm xâu một bàn.
Vị chưởng quầy ngồi ở bên kinh hãi suýt nữa ngã xuống. Một bàn tiệc rượu tốt nhất chỉ mới ba mươi xâu tiền. Vậy mà lại tính toán với vị quân gia này gấp ba lần. Thực sự là coi tiền như rác!
Bọn họ lại không biết, Trình Giảo Kim là dùng tiền của người khác nên mới khẳng khái hào phóng như vậy. Nếu là bản thân y bỏ tiền, thì mười xâu tiền còn đắt.
Trình Giảo Kim lấy 50 lượng bạc từ trong lòng ra, vỗ mạnh trên bàn, khí phách nói:
- Quyết định như vậy đi, đây là 50 lượng tiền đặt cọc, lấy trước đi!
Bùi U mặt mày hớn hở nói:
- Ta lấy tiền đặt cọc, đương nhiên phải viết biên lai. Như vậy đi! Chúng ta ký kết khế ước, đảm bảo đôi bên đều hài lòng, miễn cho việc lầm lỡ hôn sự.
Trình Giảo Kim đi rồi, Bùi U nhẹ nhàng thổi khô nét mực trên khế ước, vẻ mặt đắc ý. Vị chưởng quầy thì cận thẩn nói:
- Đông chủ, vị quân gia này giống như có bệnh.
Chưởng quầy chỉ vào đầu mình, Bùi U khinh thường cười lạnh nói:
- Y đúng là bị bệnh.
- Nhưng ngày mai sẽ phải chuẩn bị một trăm bàn a! Chúng ta thực sự không làm kịp.
- Hừ! Ai nói để cho chúng ta làm.. Ngươi đi tìm mấy quán rượu, cứ ra giá ba mươi xâu một bàn. Làm đủ một trăm bàn thì đưa tới cho bọn họ.
Chưởng quầy đảo tròng mắt nói:
- Đông chủ, kỳ thực cũng không cần phải ba mươi xâu. Chỉ cần hai mươi lăm xâu là đủ rồi.
Bùi U lắc lắc đầu:
- Hai mươi lăm xâu tiền, làm sẽ bị thiếu. Như vậy không tốt lắm. Cứ dựa theo giá ba mươi xâu tiền, bảo bọn hắn làm đầy đủ một chút. Hương vị phải tốt, rượu cũng phải ủ đúng thời gian. Đây chính là môn bài của chúng ta.
- Ta đã hiểu, ta sẽ đi tìm người ngay.
…
Mỗi khi gặp việc vui, một gia đình bình thường phải ăn uống tiệc tùng ba ngày ba đêm. Nhưng trong khoảng thời gian này, triều đình khởi xướng tiết kiệm. Cho nên, tiệc rượu ba ngày đổi thành một ngày. Từ giữa trưa bắt đầu ăn, ăn đến tối thì chấm dứt.
La phủ đã sớm giăng đèn kết hoa, treo chữ Hỷ màu đỏ. Cả phủ đều tràn ngập trong không khí vui mừng. Trời vừa mới sáng, quán rượu liền đem tới một trăm bàn ghế tới. Trong viện ngoài viện đều bày đặt đầy cả bàn ghế.
Tiệc cưới thực hiện Hợp Chiếu chế. Rượu và thức ăn đặt trên bàn, xung quanh bàn là ghế ngồi. Trong mâm còn đặt đầy các loại điểm tâm như dưa, trái cây, hạt thông, mật đường. Khách nhân tùy ý mà ngồi, không có quy củ gì. Tuy nhiên, theo Hợp Chiếu chế của Tùy Đường, nam nữ phải ngồi đối diện, nam nhân ngồi một bên, nữ nhân ngồi một bên.
Còn vị trí rất lộng lẫy được bố trí ngay đầu tiên thì không có người ngồi. Đây là chỗ ngồi của Sở Vương cùng Vương phi. Chỗ đó có người đặc biệt canh chừng, không cho phép người ngoài đi vào.
Sáng sớm, khách nhân lục tục tới. Có tướng quân cưỡi ngựa, có người là ngồi xe ngựa hoặc xe bò, những vị phu nhân tướng quân trang điểm xinh đẹp. Khách nhân của La Sĩ Tín chủ yếu là người trong quân đội. Quân chính của Đại Tùy được phân chia rất rõ ràng, là hai hệ thống hoàn toàn khác nhau. Quân không quản chính, chính không quản quân. Ngoại trừ Binh bộ, Binh bộ là một cây cầu giữa quân và chính.
Trước cửa lớn, La phụ mặc một bộ áo bào màu đỏ thẫm, đầu đội mũ sa, vẻ mặt hồng hào đứng đó chào đón khách khứa. Đứng bên cạnh là Ngưu Tiến Đạt và Giả Nhuận Phủ cũng kiêm việc tiếp khách cùng điều khiển chương trình.
- Chúc mừng bá phụ có được con dâu. Lúc Sĩ Tín động phòng là lúc bá phụ sớm ôm cháu.
Khách khứa liên tục chúc mừng, La phụ cười như hoa, liên tục khách sáo nói:
- Cùng vui cùng vui, mau mời vào phủ.
- Hôm nay chậm trễ không chu toàn, mong mọi người thông cảm.
Từng đợt, từng đợt khách nhân nối đuôi nhau mà tới. Đến giữa trưa, đã có hơn một nghìn khách khứa tới. Rượu và thức ăn đã bưng lên đầy đủ. Số lượng vừa vặn, hương vị cũng tốt, khiến mọi người khen không dứt miệng. La phụ cũng cảm thấy có mặt mũi, thầm khen Trình Giảo Kim làm tốt.
Lúc này, một người tôi tớ lặng lẽ đi đến, kéo áo La phụ, nói nhỏ vào tai La phụ mấy câu. La phụ nhướn mày, dặn dò vài câu, liền đi theo tôi tớ vào trong phủ.
Trong một gian phòng, Trình Giảo Kim đang nhăn nhó ngồi một bên. Chưởng quầy của quán rượu thì đầy vẻ mỉm cười, còn đông chủ Bùi U thì ngồi bên kia.
- Tiệc cưới có vấn đề gì không?
La phụ vội vàng đi vào nhà hỏi.
Bùi U uống trà không nói, chưởng quầy đứng lên thi lễ, cười tủm tỉm nói:
- Rượu và thức ăn mang lên hơn nửa. Đông chủ của chúng ta chỉ bảo, có thể trước tính tiền hay không. Tiểu điếm lợi nhuận nhỏ, thực sự không thể trả trước hết được.
La phụ gật đầu. Đây là chuyện bình thường. Sau khi mang thức ăn lên là lúc tính tiền. Ông ta không có dị nghị gì, liền hỏi:
- Tổng cộng là bao nhiêu tiền?
- Tổng cộng là mười ngàn xâu tiền, trừ đi năm trăm xâu tiền đặt cọc, còn lại là chín ngàn năm trăm xâu. Dùng vàng bạc thay thế cũng có thể.
- Bao nhiêu?
La phụ thất thanh hỏi. Mấy ngày nay ông ta có chút bận bịu, không có thời gian hỏi về vấn đề giá cả. Nghe tới giá mười nghìn xâu tiền, ông ta cả kinh đến trợn mắt há mồm.
- Lão gia, một trăm xâu một bàn, tổng cộng mười ngàn xâu.
Ngây người sau một lúc lâu, La phụ liền tranh thủ kéo Trình Giảo Kim qua một bên, sốt ruột thấp giọng nói:
- Có lầm hay không. Một trăm xâu tiền một bàn, đến quán rượu Tam Tấn cũng chỉ mất có ba mươi xâu một bàn.
Trước đó La phụ đã hỏi giá cả của quán rượu Tam Tấn nên biết qua giá thị trường. Nghe thấy là một trăm xâu tiền một bàn, ông ta lập tực nóng nảy.
Vẻ mặt Trình Giảo Kim tràn đầy vẻ khổ sở. Lúc đàm giá, y đáp ứng rất sảng khoái. Nhưng làm thế nào để giải thích với La gia, lại là một vấn đề. Y hướng đôi mắt trông mong về phía Bùi U. Bùi U đang cúi đầu uống trà, không thèm nhìn y một cái.
Bất đắc dĩ, y chỉ phải thấp giọng nói nhỏ với La phụ:
- Đây là bởi vì quán rượu có liên quan với Sở Vương. Dù sao cũng phải để ý tới mặt mũi của Sở Vương. Cho nên cháu không có mặc cả.
Lời giải thích của Trình Giảo Kim thực sự sơ hở khắp phía. Nếu như là cửa hàng của Sở Vương, thì phải rẻ một chút mới đúng. Nào có chuyện hét giá cao như ăn thịt người nhà vậy chứ.
Tuy dựa vào gia sản của La Sĩ Tín, số tiền ấy vốn không có gì là lớn. Nhưng La phụ là một người tiết kiệm. Hơn nữa số tiền này là do đứa con vào sinh ra tử mới kiếm được. Ông ta không muốn coi tiền như rác.
Trình Giảo Kim nói không thông, La phụ liền hướng Bùi U thi lễ:
- Vị đông chủ này, giá tiền có thể thương lượng. Nhưng một trăm xâu một bàn thực sự quá đắt. Có thể giảm xuống một chút được không?
Bùi U không chút hoang mang lấy ra khế ước, mở ra nói:
- Ta cũng không phải là người không biết phải trái. Nhưng giấy trắng mực đen đã viết rõ ràng. Nếu La bá phụ không đồng ý trả số nợ của Trình Giảo Kim, thì chi phí của bữa tiệc này, một xu ta cũng không cần. Ta sẽ đi tìm Dương Nguyên Khánh, xem ngài nói như thế nào.
Bùi U đứng lên nói:
- Chưởng quầy, chúng ta đi!
Chưởng quầy đi theo Bùi U ra ngoài. La phụ thở dài, cái này gọi là đạo đối nhân xử thế. Nếu đã thuê người làm, lại không trả tiền, chỉ sợ không chỉ đắc tội người, mà còn bị hủy hoại thanh danh. Nói cho cùng, trách nhiệm là của mình. Là do mình nhờ Trình Giảo Kim hỗ trợ. Quan trọng hơn, đây là hôn sự của đứa con. Vì mấy nghìn xâu mà cãi nhau, La gia sẽ bị mất hết mặt mũi.
La phụ chỉ phải gọi lại bọn họ nói:
- Hai vị xin dừng bước!
Bùi U đứng lại, lạnh lùng nói:
- Ta chỉ muốn hỏi lại, các vị có trả khoản tiền này không?
La phụ quay đầu lại nhìn thoáng qua Trình Giảo Kim, lập tức sửng sốt, Trình Giảo Kim đã biến mất dạng. Tên trời đánh này, chẳng biết đã chuồn mất từ khi nào.
Vạn bất đắc dĩ, La phụ chỉ phải nén căm tức trong lòng nói:
- Được rồi! Ta sẽ trả số tiền này.
….
Bữa cơm ăn đến lúc hoàng hôn, Dương Nguyên Khánh còn không có xuất hiện. La phụ hơi nóng nảy, Sở Vương là vị khách nhân quan trọng nhất. Nếu hắn không đến, danh vọng của La gia sẽ bị hạ thấp. Ông ta vội vàng tìn Ngưu Tiến Đình, thấp giọng nói:
- Tiến Đình, ngươi đi đến phủ Sở Vương nhìn một cái. Xem Sở Vương đã xuất phát hay chưa.
Vừa dứt lời, chỉ nghe thấy tiếng của Giả Nhuận Phủ ở cửa lớn hét to:
- Sở Vương điện hạ cùng Vương phi giá lâm!
Toàn bộ khách nhân trong phủ lập tức an tĩnh. Mọi người đều đứng lên. Chỉ thấy có hơn mười thị vệ tiến lên phía trước, phía sau là Dương Nguyên Khánh mặc áo bào tím, đầu đội mũ ô lung, chậm rãi đi đến.
Đi bên cạnh là Sở Vương phi nghi thái đường đường. Nàng mặc một bộ quần áo mộc mạc, váy dài màu vàng, trên mặt có bôi lớp phấn mỏng, tóc được búi gọn gàng, nhưng trên búi tóc không có gắn nhiều trang sức quý giá gì. Chỉ có một cây trâm bằng ngọc bích. Nàng trang điểm tuy mộc mạc, nhưng khí chất thong dong và nụ cười nhẹ nhàng vẫn khiến các vị khách ở đây lâm vào khuynh đảo.
La phụ cuống quít chạy ra đón chào, thi lễ thật sâu nói:
- Hoan nghênh sở Vương điện hạ và Vương phi đại giá quang lâm hôn lễ của khuyển tử. Cả La phụ đều hết sức vinh hạnh.
Dương Nguyên Khánh ôm quyền trả lễ, áy náy nói:
- Vốn định đến sớm một chút. Nhưng hội nghị ở Tử Vi Các vừa mới chấm dứt nên mới đến chậm. Mong a thúc thứ lỗi!
Chương 902 : Khách đến từ Tây Vực
La phụ nghe thấy hắn gọi mình là a thúc, trong lòng liền kích động, vội vàng khoát tay nói:
- Điện hạ và Vương phi theo ta nhập tịch!
Lúc này, các vị quan quân ngồi ở đây đều ôm quyền thi lễ:
- Tham kiến tổng quản!
Dương Nguyên Khánh hướng mọi người khoát tay nói:
- Hôm nay là hôn lễ của La tướng quân, không cần phải nhiều lễ tiết, mọi người cứ thoải mái ăn uống nói chuyện.
Dương Nguyên Khánh và Bùi Mẫn Thu ngồi xuống chủ vị. Vài người thị nữ đứng ở phía sau Bùi Mẫn Thu. Chỗ chủ vị chỉ có hai người bọn họ.
- Sĩ Tín đâu rồi, đi đón dâu rồi à?
Dương Nguyên Khánh cười tủm tỉm hỏi.
- Đã đi, đến tối mới có thể trở về.
La phụ nói tiếp:
- Điện hạ bận rộn việc quốc sự, thực không dám làm trễ nại. Điện hạ không cần chờ đón dâu, chỉ cần điện hạ đến, đó chính cho La gia mặt mũi.
Theo như lẽ thường, một kẻ bề trên như Dương Nguyên Khánh mà tham dự hôn lễ. Chỉ cần ngồi tạm một lá coi như đã mang lại thể diện lớn cho gia chủ rồi. Cho dù là hôn lễ là của sư đệ La Sĩ Tín, cũng không có khả năng ngồi cả buổi.
- Ta vừa mới tới sao có thể rời đi luôn. A thúc cứ việc đi tiếp đón khách nhân, ta ngồi đây là được rồi.
La phụ cũng không dám ngồi chung với Dương Nguyên Khánh, chỉ phải thi lễ lùi xuống. Lúc này, Bùi Mẫn Thu vừa liếc mắt một cái liền nhìn thấy Bùi U, có chút bất ngờ, vội vàng hướng Bùi U ngoắc tay:
- Bùi tỷ!
Bùi U đã thu xong tiền, có chút vui mừng. Nàng đang dặn dò bọn tiểu nhị cẩn thận hầu hạ. Chợt nghe thấy thanh âm của Bùi Mẫn Thu, nàng quay đầu nhìn lại. Thấy là Bùi Mẫn Thu, thì rất mừng rỡ, bước nhanh đến phía trước. Một người nữ thị vệ ngăn cản lại nàng.
Bùi Mẫn Thu cười giải thích nói:
- Không sao, đây là đường tỷ của ta, để cho tỷ ấy vào đi.
Một câu ‘Đây là đường tỷ của ta’ của Bùi Mẫn Thu khiến La phụ đứng cách đó không xa nhẹ nhàng thở ra. Đúng là Trình Giảo Kim nói không sai. Nếu là đường tỷ của Vương phi, một trăm xâu một bàn kia, cũng không phải là lỗ vốn. Bằng không ăn phải thiệt thòi lớn như vậy, trong lòng ông ta cũng có chút sợ.
Lúc này, phía sau dường như có người kéo áo ông ta. La phụ quay đầu lại, hóa ra là Trình Giảo Kim. Không biết y đã đứng phía sau mình bao lâu. La phụ nghĩ tới y vừa mới rồi chạy trốn, tức giận trong lòng lại dâng lên. Đang muốn mắng y, Trình Giảo Kim lại chỉ vào Bùi U đang ngồi ở chủ vị, thấp giọng nói:
- A thúc, cháu nói không sai chứ!
- Không sai cái đầu ngươi!
La phụ gõ lên đầu y một cái, thởi phì phò nói:
- Nhờ ngươi làm ít chuyện, ngươi lại tiêu tốn mất của ta bảy nghìn xâu tiền. Qua lần này, lần sau ta cũng không tin ngươi nữa.
Trình Giảo Kim vội vàng chắp tay nói:
- A thúc, lần này là lỗi của cháu. Bị tổn thất bảy ngàn xâu tiền, cháu xin nguyện gánh một nửa. Mong a thúc thứ lỗi.
La phụ thấy y thái độ thành khẩn, trong lòng liền tha thứ cho y, thở dài nói:
- Lần này coi như bỏ qua. Dù sao ngươi cũng không phải là tiền vứt đi. Tiền của chúng ta là do Sở Vương ban cho, giờ trả lại cho đường tỷ của Vương phi, cũng không coi là lỗ vốn. Chuyện này đến đây là chấm dứt, không cần nhắc lại.
Trong lòng Trình Giảo Kim hổ thẹn. Y nghĩ đến một lúc nào đó, có thể trả lại ân tình này cho La Sĩ Tín.
Bên trong chủ vị, Bùi U nhíu mày nói với Bùi Mẫn Thu:
- Sau muội chỉ mặc váy bằng đay tới. Đây chính là hôn lễ, mặc váy bằng đay, thực sự là khó coi.
Bùi Mẫn Thu bất đắc dĩ thở dài:
- Vậy thì tỷ nên hỏi người ngồi bên cạnh kia. Muội đã bảo hôm này là ngày vui mừng, nên cho La Sĩ Tín chút mặt mũi. Chàng lại nói ăn mặc giản dị một chút, có thể dạy luôn bọn họ cách tiết kiệm. Nhưng muội cảm thấy điều này thực làm khó các vị nữ quyến. Tỷ nói có đúng hay không?
Trước mặt Bùi U, Bùi Mẫn Thu nói chuyện thoải mái như còn hồi thiếu nữ. Nàng vứt hết vẻ rụt rè của Vương phi, nói ra hết oán giận với Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh chỉ phải ngồi ở một bên giả vờ câm điếc, coi như không nghe thấy gì.
Bùi Mẫn Thu lại hỏi:
- Tỷ cũng tới tham dự hôn lễ à. Con của tỷ đâu? Sao không dẫn tới đây.
Bùi U tự giễu cười:
- Loại hôn lễ của đại tướng quân này, ta một vị tiểu thương sao có thể được mời đến. Rượu và thức ăn mà các ngươi đang ăn, chính là do ta chuẩn bị.
Dương Nguyên Khánh nghe thấy vậy, liền nhớ tới những lời của La Sĩ Tín nói qua. Tiệc rượu hôm nay là do Trình Giảo Kim đặt. Trong lòng hắn lập tức minh bạch, tên tiểu tử Trình Giảo Kim này hẳn là muốn lấy lòng Bùi U. Hắn cười, thăm dò hỏi:
- Chắc hôm nay U tỷ kiếm được một món hời lớn đi!
- Kiếm lớn thì chưa nói tới. Nhưng tên thủ hạ xấu xí của Sở vương làm việc thực sự sảng khoái. Giúp ta kiếm được một món lợi nhỏ.
Nói đến đây, Bùi U bỗng nhiên cảnh giác nói với Dương Nguyên Khánh:
- Ta nói trước, lần này sắp đặt tiệc rượu đều có khế ước. Chủ nhà cũng đã đồng ý trả nợ. Sở vương chớ có nhiều chuyện, khiến ta kinh doanh lỗ vốn, như vậy ta không làm nữa!
Dương Nguyên Khánh cười cười, không nói thêm gì nữa. Hắn phỏng chừng Trình Giảo Kim bị lừa một số tiền. Tuy nhiên song phương đã thanh toán tiền, vậy thì hắn liền mặc kệ.
Lúc này, Dương Nguy dáng người cao béo bước nhanh tới, hướng Bùi Mẫn Thu thi lễ, rồi ngồi xổm xuống phía trước Dương Nguyên Khánh, thấp giọng nói:
- Tổng quản, có một việc quan trọng.
- Chuyện gi?
Dương Ngụy nói nhỏ vào tai của Dương Nguyên Khánh mấy câu. Dương Nguyên Khánh gật đầu, quay đầu nói với thê tử:
- Ta đi một chút sẽ quay lại.
Bùi Mẫn Thu tự nhiên cười nói:
- Phu quân cứ tùy ý, ở đây đã có U tủy bồi chuyện với thiếp.
Dương Nguyên Khánh đứng dậy, đi theo Dương Nguy đến đông viện của La phủ. Hơn mười người thị vệ cũng đi theo sau bọn họ. Đông viện là phòng khách, gần như không có người, cũng không có bày tiệc rượu. Bọn họ đi vào một căn phòng. Chỉ thấy trong phòng đứng một người, mắt xanh mũi cao, đầu đội nón mái hiên. Đúng là vị lão hữu Khang Ba Tư đã lâu không thấy.
- Lão Khang!
Dương Nguyên Khánh mừng rỡ, hô lên.
Khang Ba Tư tháo mũ xuống, khom người thi lễ, cười tủm tỉm nói:
- Thương nhân Túc Đặc Khang Ba Tư, tham kiến sở Vương điện hạ.
Dương Nguyên Khánh thấy trong phòng còn có người ngoài, liền nhịn kích động trong lòng, cười hỏi:
- Nghe nói lão về Túc Đặc rồi. Chuyến đi này chính là ba năm. Ở quê chắc buôn bán không tồi chứ.
- Quả thật không tệ. Phát triển rất nhanh chóng. Ta đã đi đến đế quốc La Mã, mang theo tơ lụa và đồ sứ Đông Phương. Những thứ này rất được vương công quý tộc ở nơi đó hoan nghênh. Ta còn được Hoàng đế ở đó ban một chức quan.
Đế quốc La Mã hay còn gọi là đế quốc Chiêm Đình. Ở triều Tùy, thì gọi là Đế quốc Đại Tần. Dương Nguyên Khánh cười hỏi:
- Nơi lão đến có phải là thành Rome hay không?
- Không ngờ Sở Vương lại biết nơi đấy.
Khang Ba Tư khen một tiếng, quay đầu giới thiệu cho Dương Nguyên Khánh hai người tùy tùng. Lúc vào cửa, Dương Nguyên Khánh đã chú ý tới hai người bọn họ. Bọn họ có đôi mắt màu xanh đậm, tóc nâu, chóp mũi rất lớn. Là điển hình của người phương Tây. Bọn họ chắc không phả là người Túc Đặc, hẳn là người Rome.
- Sở Vương điện hạ, hai người này là tử tù mà ta cứu được ở thành Rome. Bây giờ coi như là nô lệ của ta. Bọn họ vốn là thợ thủ công trong quân đội, nên có chút bản lĩnh. Ta đặc biệt mang bọn họ tới Đại Tùy, hy vọng có thể hữu dụng với điện hạ.
Hai người liền vội vàng tiến lên, tay đè ở trước ngực, hướng Dương Nguyên Khánh thi lễ. Dương Nguyên Khánh thấy tuổi bọn họ không còn nhỏ. Một người đã hơn bốn mươi tuổi, một người gần năm mươi tuổi. Tuy trải qua nhiều ngày đi đường gió thổi, khiến cho da bọn họ biến thành màu đen. Nhưng vẫn có thể nhận ra loại bệnh trạng trên mặt họ, đó là do lâu ngày bị nhốt ở trong tù mới có.
- Có thể cho ta chỗ tốt gì?
Dương Nguyên Khánh tò mò hỏi.
Khang Ba Tư khẽ mỉm cười, lấy một cái chai từ trong túi. Lại lấy ra một cái bát nhỏ, đổ một ít chất lỏng từ trong bình vào bát rồi đưa cho Dương Nguyên Khánh, cười nói:
- Điện hạ nhìn kỹ xem, có gì khác biệt?
Dương Nguyên Khánh nhận lấy chén nhỏ, bên trong chứa một chất lỏng có chút giống rượu nho, màu nâu nhạt, trong veo, tỏa ra một mùi vị nồng đậm.
- Là dầu hỏa?
Dương Nguyên Khánh lập tức nhận ra mùi vị này.
Nhưng cũng không phải là loại mùi khó chịu như dầu hỏa, hơn nữa cũng không đặc sệt và có màu đen nước đường như dầu hỏa bình thường. Loại chất lỏng này có vẻ giống rượu hơn. Tuy rằng loại chất lỏng này không giống với xăng ở tương lai, nhưng so với dầu hỏa thì đúng là tốt hơn nhiều.
- Điện hạ, đây chính là do hai người bọn họ luyện chế ra. Nguyên liệu cũng là dầu hỏa như quân Tùy, nhưng loại này nhẹ hơn dầu hỏa, nhiệt độ cũng cao hơn, khả năng thiêu đốt rất mạnh, là loại dầu hỏa được sử dụng phổ biến trong quân La Mã.
Khang Ba Tư châm lửa vào một tờ giấy, sau đó ném vào bên trong chén nhỏ. Một tiếng “Oanh!” vang lên, trong chén nhỏ bốc lên một ngọn lửa hừng hực, hoàn toàn không giống với loại dầu hỏa tạo ra khói đặc cuồn cuộn của quân Tùy. Dương Nguy đứng bên cạnh nhìn đến trợn mắt há mồm.
Khang Ba Tư đắc ý giới thiệu:
- Đây là dầu hỏa mà hai người luyện chế ở Khang Quốc, sức thiêu đốt rất mãnh liệt.
Dương Nguyên Khánh chăm chú nhìn ngọn lửa đang bốc cháy hừng hực trong cái chén nhỏ chứa dầu hỏa mà không nói được lời nào.
Chương 903 : Đạo cao một trượng
Hiện tại trong quân Tùy, dầu hỏa sau khi được lấy ra từ các giếng đào, trải qua một giai đoạn lắng đọng đơn giản là trực tiếp được đưa vào sử dụng, gần như vẫn còn là loại dầu mỏ nguyên sinh, khói đặc quá lớn, hiệu suất thiêu đốt cũng không cao, thậm chí còn có trường hợp hỏa tiễn bắn trúng vẫn không cháy.
Một mặt là do phẩm chất dầu hỏa do quận Diên An sản xuất không tốt lắm, quá đậm đặc. Mặt khác, nguyên nhân cũng là do dầu hỏa không được trải qua giai đoạn tinh luyện. Vấn đề này vẫn luôn khiến quân Tùy phải đau đầu.
Mà kể từ khi quân Đường khai thác dầu hỏa ở Ba Thục, rõ ràng là phẩm chất dầu hỏa vượt trội hơn của quân Tùy, hiệu suất thiêu đốt cũng lớn hơn. Lần trước, lúc đổ bộ ở Minh Tân, quân Đường dùng dầu hỏa phong tỏa mặt sông, khí thế thiêu đốt quả thật khiến người ta phải rung động, dầu hỏa của quân Tùy không thể so sánh được.
Đạo cao một thước, ma cao một trượng. Quân Đường đi sau nhưng đến trước, ở phương diện vận dụng dầu hỏa đã vượt trội hơn quân Tùy, thậm chí là bọn chúng còn phát minh là súng phóng hỏa.
Trên thực tế, súng phóng hỏa của quân Đường chính là lợi dụng nguyên lý châm đồng tích áp, dùng hòm gỗ ép dầu hỏa bắn ra, nguyên lý rất đơn giản. Nhưng vì dầu hỏa của quân Tùy rất đặc, dễ dàng đọng lại ở miệng lỗ, khiến cho không thể sử dụng lại súng phóng hỏa này.
Khang Ba Tư mang đến kỹ thuật luyện chế dầu hỏa này thật không thể nghi ngờ, chính là đưa than trong tuyết, đến rất đúng lúc. Dương Nguyên Khánh mừng rỡ. Lúc này, tâm trí của hắn đã không còn đặt ở hôn lễ của La Sĩ Tín nữa rồi. Hắn phải lập tức đến Quân Khí Giám.
Dương Nguyên Khánh phân phó với Dương Nguy vài câu sau đó quay lại tiệc cưới. Hắn trở lại vị trí của mình, thấp giọng nói với Bùi Mẫn Thu:
- Ta muốn về cung Tấn Dương, tất cả cùng về.
Bùi Mẫn Thu hơi sửng sốt, vừa tới lại muốn đi sao? Lúc này, La phụ vội vàng tiến lên, khom người thi lễ nói:
- Sĩ Tín, Tần phủ phái người đến thông báo, tân nương phải trang điểm một lần nữa, chỉ sợ trở về thì đã muộn. Điện hạ đi lưu tùy ý, Sĩ Tín cảm tạ Điện hạ đã tới tham gia hôn lễ.
Tin này tới thật đúng lúc, Dương Nguyên Khánh khẽ cười nói:
- Vậy được rồi! Ở cung Tấn Dương còn có việc quan trọng cần ta xử lý, ta cáo từ trước.
- Đã như vậy, mời Điện hạ theo ty chức.
Dương Nguyên Khánh và Bùi Mẫn Thu không ra từ cửa chính, sẽ làm kinh động nhiều người. Hai người bọn họ được thị vệ bảo hộ, theo La phụ lặng lẽ rời đi từ cửa sau.
Tiệc cưới vẫn náo nhiệt như trước, uống rượu chém gió, một cảnh ồn ào náo nhiệt, cũng không có ai để ý là Sở Vương đã rời đi.
…
Cung Tấn Dương, Quân Khí Giám. Hơn chục quan viên của Quân Khí Giám đều vội vã chạy về công sở. Quân Khí Giám Lệnh Hàn Quân, Thiếu giám Trương Lôi cũng đều chạy tới.
Lúc này, sắc trời đã tối, màn đêm bao phủ phòng thí nghiệm của Quân Khí Giám. Dương Nguy dẫn theo Khang Ba Tư và hai gã thợ thủ công từ Đông La Mã cũng đã tới, bọn họ mang theo hơn mười bình dầu hỏa đã luyện chế.
Mấy tên lính đem dầu hỏa đổ vào một chảo sắt, đến nửa già chảo thì dừng lại, đặt ở khoảng cách hơn trăm bước. Bên cạnh là một chảo sắt khác cũng chứa nửa già dầu hỏa.
Hai gã thần tiễn thủ đứng trên đài cao, tay cầm cung tên, cùng đợi lệnh của Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh cũng đứng ngoài trăm bước, chăm chú nhìn vào hai cái chảo sắt đặt trong bóng đêm. Bên cạnh mỗi chảo sắt cắm một cây đuốc, ánh lửa phần phật chiếu sáng hai miệng chảo.
Cảnh tượng này từng được diễn luyện qua không chỉ một lần. Hỏa tiễn bắn vào dầu hỏa trong chảo. Nếu dầu hỏa rất ít, chỉ khoảng hai tấc, không cần bao phủ ngọn lửa ở đầu hỏa tiễn, như vậy là có thể bốc cháy.
Nhưng nếu độ dày của dầu hỏa vượt quá ba tấc, dầu hỏa đặc sệt bao phủ đầu hỏa tiễn, vậy thì rất khó bốc cháy. Hôm nay thì sao? Độ dày của dầu hỏa trong hai chảo sắt đếu hơn bốn tấc.
Trong lòng mỗi người đều vô cùng khẩn trương nhưng tràn đầy chờ mong. Một gã Giáo úy chạy tới trước mặt Dương Nguyên Khánh, quỳ một gối bẩm báo:
- Tất cả đã chuẩn bị xong, mời Tổng quản hạ lệnh.
Dương Nguyên Khánh gật đầu:
- Có thể bắn tên!
Giáo úy đứng lên, giơ cao cờ lệnh, quát lớn:
- Chuẩn bị bắn tên!
Hai gã lính cầm đuốc châm lửa vào đầu tên của hai gã tiễn thủ. Mũi tên bốc cháy hừng hực.
Tiễn thủ chậm rãi kéo cung. Dây cung buông ra, hai cây hỏa tiễn bay lên trời, hai ngọn lửa vẽ ra hai đường cong trên không trung, rơi chính xác vào trong chảo dầu. Tốc độ của tên quá nhanh, ngọn lửa trên mũi tên trong nháy mắt đã cắm sâu vào trong chảo dầu. “Xuy!” một tiếng, ngọn lửa bị dập tắt. Chảo dầu ở bên trái không có ngọn lửa bốc lên, giống với các thí nghiệm trước.
Nhưng hỏa tiễn tắt cũng không khiến người ta thất vọng, đều nằm trong dự đoán của mọi người, có thể bốc cháy mới là chuyện lạ.
Lúc này, ánh mắt mọi người đều nhìn vào chảo sắt ở bên phải, đây mới là trọng điểm của tối nay. Người Hồ ở Tây Vực (lúc này mọi người vẫn chưa rõ La Mã là ở đâu, chỉ Dương Nguyên Khánh biết, nên mọi người đều nghĩ người nước ngoài là người Hồ ở Tây Vực – giải thích của BTV) mang đến một loại dầu hỏa mới có tạo ra đột phá hay không?
Hỏa tiễn bắn vào trong chảo sắt, chỉ trong nháy mắt, trong chảo sắt vang lên một tiếng “Oanh!”, sau đó bốc lên một ngọn lửa, lửa đỏ hừng hực thiêu đốt, ngọn lửa đỏ thẫm liếm qua bầu trời đêm, cũng không xuất hiện khói đen cuồn cuộn bốc lên.
Trong trường thí nghiệm lặng ngắt như tờ, không có tiếng hoan hô, trong ánh mắt mỗi người đều chứa đầy sự phức tạp. Dầu hỏa quân Tùy không cháy, nhưng dầu hỏa do người Hồ ở Tây Vực mang đến lại bốc cháy mãnh liệt.
Dương Nguyên Khánh chậm rãi đi đến trước mọi người rồi nói:
- Đã có sở trường, tất có sở đoản. Dầu hỏa của người phương Tây quả thật là lợi hại hơn của chúng ta, điều này chúng ta thừa nhận. Nhưng chúng ta cần phải học tập, phải học được cách luyện chế dầu hỏa của bọn họ. Đây chính là nguyên nhân ta triệu tập mọi người. Tất cả đến nghị sự đường đi!
Mọi người tiến vào nghị sự đường, sau đó đều tự ngồi xuống. Dương Nguyên Khánh tươi cười giới thiệu Khang Ba Tư với mọi người:
- Vị Túc Đặc đại thúc này trước kia cũng là quân Tùy. Khi đó ta là Hỏa Trưởng ở Phong Châu, y là một gã tiểu binh thủ hạ của ta, sau chuyển sang kinh doanh trà rượu. Nữ nhi của y là thê tử của Dương tướng quân. Lần này y theo Túc Đặc trở về, mang theo hai gã người Đại Tần ở phương Tây, trước là thợ thủ công trong quân Đại Tần. Dầu hỏa mà chúng ta thấy hôm nay chính là do hai người đó luyện chế.
Dương Nguyên Khánh hướng Khang Ba Tư vẫy tay. Khang Ba Tư tiến lên, hướng hơn chục quan viên Quân Khí Giám chắp tay chào hỏi, sau đó nói bằng tiếng Hán cực kỳ thuần thục:
- Các vị, tại hạ là Khang Ba Tư, thật ra chỉ là một tiểu Hồ thương, được Sở Vương Điện hạ để ý, cảm thấy vô cùng vinh hạnh. Bởi vì vấn đề ngôn ngữ nên để ta giới thiệu với các vị sơ lược một chút quá trình luyện chế dầu hỏa của người Tây Vực. Khi bọn họ luyện chế, ta cũng có mặt ở đó, nhìn thấy khá rõ ràng.
Y giới thiệu cho mọi người:
- Thật ra luyện chế dầu hỏa rất đơn giản, chia làm bốn bước. Đầu tiên là lắng đọng. Sau khi lấy dầu hỏa trong giếng đào ra, cần đào một cái ao lớn để lắng đọng, trước lắng đọng các tạp chất, cái này giống với phương pháp xử lý mà chúng ta đang áp dụng hiện nay.
Khang Ba Tư uống một ngụm trà, nói tiếp:
- Thứ hai là loại bỏ. Dùng một loại lưới có mắt rất nhỏ để loại bỏ các vật thể có trong dầu đặc. Sau đó là bước thứ ba, cũng là bước quan trọng nhất.
Y giơ lên một tấm hình, trên hình vẽ một cái lọ, trên lọ có một cái ống:
- Đây là một cái hũ sắt, bên trong chứa đầy dầu hỏa, sau đó đốt lửa ở phía dưới. Sau khi dầu hỏa sôi trào sẽ chưng thu được một loại dầu hỏa khá trong, theo cái ống này chảy ra. Thật ra cũng khá giống với chưng rượu. Bước thứ tư giống với bước thứ ba, tiếp tục chưng thêm lần nữa, như vậy là có thể thu được loại dầu hỏa mà mọi người thấy hôm nay.
Nghe Khang Ba Tư giới thiệu, mọi người liên tục gật đầu. Thật ra nói như vậy thì cũng khá đơn giản. Lúc này, Dương Nguyên Khánh lại nói với mọi người:
- Phương pháp luyện chế mọi người cũng đã đại khái nắm được. Nhưng mới chỉ là lý thuyết, mấu chốt là phải làm ra được. Ngày mai bắt đầu, tiến hành thí nghiệm ở quân doanh ngoài thành Tây, đánh chế các loại khí cụ. Trương Thiếu giám ở đâu?
Quân Khí Giám Thiếu giám Trương Lôi lập tức đứng lên, khom người thi lễ nói:
- Điện hạ, Ty chức ở đây!
- Từ nay việc này do ngươi phụ trách. Ta hi vọng trong vòng một tháng có thể nhìn thấy quân Tùy chúng ta luyện chế thành công loại dầu hỏa mới này.
Trương Lôi vội vàng khom người đáp ứng:
- Ty chức tuân mệnh!
…
Đêm đã khuya, mây đen nặng nề che phủ không trung khiến cho trời đêm càng thêm tối đen như mực. Hai gã thợ thủ công La Mã được đưa tới quán trọ Hồng Lư Tự nghỉ ngơi, còn Khang Ba Tư thì theo Dương Nguyên Khánh tới quan phòng trong Tử Vi Các.
Thị vệ đốt ngọn nến trong phòng lên, Khang Ba Tư theo Dương Nguyên Khánh vào phòng, Dương Nguyên Khánh cười nói:
- Tùy ý ngồi đi!
Tuy Khang Ba Tư và Dương Nguyên Khánh là bạn cố tri, nhưng y là một thương nhân cực kỳ khôn khéo, tự nhiên là hiểu được tôn ti. Y biết hiện tại Dương Nguyên Khánh đã là Sở Vương, gần như đứng đầu một quốc gia, y thật sự không thể tùy ý, như vậy sẽ mang đến họa sát thân.
Chương 904 : Tin tức phương Bắc
Y nhất định phải duy trì đầy đủ sự tôn kính. Y biết người phương Đông rất coi trọng lễ nghi. Lễ nghi chính là biểu thị tôn ti, chỉ có tuân theo lễ nghi này, y mới có thể nhận được tôn nghiêm tương ứng.
Y cung kính nói:
- Khang Ba Tư không dám tùy ý!
Dương Nguyên Khánh thấy không có biện pháp, đành phải chính thức mời y ngồi xuống, lại lệnh cho thân binh dâng trà lên. Lúc này mới hỏi:
- Ta muốn biết một chút tình hình của Tây Đột Quyết, ngươi có biết gì không?
- Có biết một chút. Khả hãn Xạ Quỹ của Tây Đột Quyết đúng là một người phi thường, có hùng tài đại lược. Y có thể đem Tây Đột Quyết vốn chia năm xẻ bảy thống nhất một lần nữa, từ phía tây đến gần địa khu Túc Đặc đều bị y khống chế. Ở các quốc gia Túc Đặc này, y thiết lập quan viên thu thuế, thu được khí giới phương Tây võ trang cho quân đội mình, nghe nói có ba trăm ngàn đại quân.
- Tình huống ở phía đông thế nào?
Dương Nguyên Khánh lại hỏi. Hắn rất lo lắng việc Tây Đột Quyết lại khuếch trương về phía đông. Nếu Tây Đột Quyết khuếch trương về phía Đông, tất nhiên là sẽ xâm phạm đến lợi ích của Đại Tùy.
Khang Ba Tư lắc đầu:
- Tình huống phía Đông cũng không lạc quan. Vốn là Thiết Lặc thống lĩnh các bộ phận ở Khế Bật đối kháng với Tây Đột Quyết. Nhưng Khế Bật cũng dần suy yếu rồi, bên trong Thiết Lặc vì tranh giành quyền lãnh đạo mà nội đấu đến mức kịch. Theo cảm giác của cá nhân ta, Tây Đột Quyết rất có thể khuếch trương về phía đông. Điện hạ, thứ cho ta nói thẳng, Tây Đột Quyết xâm lấn quận Y Ngô là việc tất sẽ xảy ra.
Thời gian đã qua giờ Hợi, Khang Ba Tư cũng đã đi nghỉ ngơi rồi, nhưng ngọn đèn trong quan phòng của Dương Nguyên Khánh vẫn sáng ngời. Dương Nguyên Khánh khoanh tay đứng trước cửa sổ, ánh mắt dừng thật lâu trước bầu trời đêm đen kịt.
Trên mặt bàn phía sau hắn đặt một tấu chương đến từ quận Đôn Hoàng. Đây là tấu chương do Tô Định Phương viết cách đây không lâu. Tấu chương kể lại việc Tây Đột Quyết mạnh mẽ quật khởi, Đạt Đầu – cháu Xạ Quỹ thống nhất Tây Đột Quyết, lại bắt đầu tấn công các nước Thiết Lặc.
Trong số ba mươi mấy bộ lạc người Thiết Lặc ở nam bắc Thiên Sơn, đã có gần một nửa bị y chinh phục, trở thành quốc gia phụ thuộc. Tây Đột Quyết đã cho binh xâm lấn quận Y Ngô. Bởi vì xuôi nam xuống Cao Xương, Quy Tư bắt buộc phải qua quận Y Ngô, do đó Tô Định Phương rất lo lắng Tây Đột Quyết sẽ phát động tấn công quận Y Ngô.
Không chỉ mình Tô Định Phương lo lắng, Dương Nguyên Khánh cũng cực kỳ lo lắng. Hôm nay hắn và Khang Ba Tư nói chuyện, chủ yếu là muốn hiểu rõ về Tây Đột Quyết. Lấy tình huống ở phía tây, theo như Khang Ba Tư miêu tả, xem ra Tây Đột Quyết đã ổn định sự thống trị ở phương Tây rồi.
Lúc này, Mohamed (1) vẫn còn đang trên con đường phấn đấu. Đông La Mã sống mơ màng như người say rượu, Tây Đột Quyết hùng mạnh, ở phương Tây không có đối thủ. Nếu tình hình phương tây được ổn định, chắc chắn Tây Đột Quyết sẽ phát động chiến tranh chinh phục phương Đông.
1. Mohamed: Muhammad – Wikipedia tiếng Việt
Đương nhiên, mũi giáo của Tây Đột Quyết cũng không nhất định là nhắm vào triều Tùy, nhiều khả năng là sẽ nhằm vào Đông Đột Quyết, đây cũng là điều mà Dương Nguyên Khánh hi vọng. Nhưng trong quá trình Tây Đột Quyết mở rộng thế lực ở phía đông, nhất định sẽ xảy ra xung đột lợi ích với triều Tùy. Tiêu điểm của lần xung đột này chính là quận Y Ngô.
Mà quận Y Ngô chính là cứ điểm đầu tiên nếu triều Tùy tiến vào Tây Vực, có giá trị chiến lược cực kỳ trọng yếu, điều này khiến cho Dương Nguyên Khánh lâm vào tình cảnh khó xử.
…
Sáng sớm hôm sau, Dương Nguyên Khánh chuẩn bị vào triều như thường lệ. Mấy trăm thị vệ đều ngồi trên lưng ngựa, bảo vệ xe ngựa của Dương Nguyên Khánh từ kiều phủ của Vương phủ đi ra.
Mặc dù vua và người dân trên dưới đều hô hào tiết kiệm, quan viên trong triều dưới sáu mươi tuổi không được ngồi xe ngựa, nhưng xét đến sự an toàn, lệnh cấm này không áp dụng với bảy Tướng quốc Tử Vi Các và Sở Vương Dương Nguyên Khánh.
Tối hôm qua, mãi đến canh hai Dương Nguyên Khánh mới ngủ. Mấy hôm nay giấc ngủ của hắn không được đầy đủ, tinh thần có chút mệt mỏi. Dương Nguyên Khánh tựa vào thành xe, nhắm mắt mơ màng, thân thể khẽ lay động theo nhịp chuyển động của xe ngựa.
Lúc này, từ xa truyền đến tiếng vó ngựa phi gấp. Dương Nguyên Khánh chậm rãi mở mắt, nghe thấy có người hô:
- Khởi bẩm Điện hạ, quận Mã Ấp có ưng tin khẩn cấp.
Dương Nguyên Khánh ngồi thẳng lưng, quận Mã Ấp truyền ưng tin khiến hắn lập tức nghĩ đến Đột Quyết ở phương bắc:
- Đưa ưng tin đến đây!
Một tên thân binh lấy ưng tin đưa cho Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh nhận lấy ưng tin, mở ra đọc một lần. Trên ưng tin viết Khả hãn Đột Quyết Hiệt Lợi đăng vị, phái sứ giả đến thông báo với triều Tùy, hiện tại sứ giả đã đến quận Mã Ấp, được binh lính triều Tùy bảo vệ, đang trên đường đến Thái Nguyên.
Tin này làm cho Dương Nguyên Khánh nảy ra một ý tưởng, lập tức hạ lệnh:
- Nhanh đến cung Tấn Dương!
Không bao lâu sau, xa giá của Dương Nguyên Khánh đã đến cung Tấn Dương, dừng lại trước Tử Vi Các. Dương Nguyên Khánh đi dọc theo hành lang đến lầu ba. Đến bậc cầu thang, hắn lại ra lệnh cho thân vệ ở phía sau:
- Đi mời Đỗ Tướng quốc và Tiểu Thôi Tướng quốc đến đây!
Tiểu Thôi Tướng quốc chính là Thôi Quân Tố, phân biệt với lão tướng Thôi Hoằng Nguyên. Thân binh nhận lệnh chạy như bay còn Dương Nguyên Khánh trực tiếp tiến vào quan phòng của mình. Vừa vào đến phòng, Bùi Thanh Tùng tiến lên giúp Dương Nguyên Khánh cởi bỏ áo ngoài. Dương Nguyên Khánh lại nói với y:
- Đợi lát nữa phái người tìm Lý Tĩnh đến đây cho ta!
- Ty chức đã hiểu!
Bùi Thanh Tùng lui xuống. Mới ra khỏi cửa, y lại quay đầu nói:
- Điện hạ, Đỗ Tướng quốc và Thôi Tướng quốc đã đến.
- Mời bọn họ vào!
Cửa mở, Đỗ Như Hối và Thôi Quân Tố bước vào. Dương Nguyên Khánh xua tay, cười nói:
- Ngồi xuống đi!
Hai người đều không biết đã xảy ra chuyện gì, mới sáng sớm mà Dương Nguyên Khánh đã sai người triệu bọn họ đến, nhất định là có việc đại sự. Đỗ Như Hối nghe nói tối hôm qua ở Quân Khí Giám xảy ra một việc, không biết là có liên quan đến việc Dương Nguyên Khánh tìm hai người mình hay không?
Hai người vừa ngồi xuống, một gã trà đồng dâng trà lên. Dương Nguyên Khánh cũng ngồi xuống, nâng chén uống một ngụm trà nóng, sau đó mới từ từ nói:
- Hôm nay nhận được một tin tức, Khả Hãn Đột Quyết mới đăng cơ là Hiệt Lợi phái sử giả đến Đại Tùy.
Đỗ Như Hối và Thôi Quân Tố nhìn nhau. Thôi Quân Tố là người quản lý sự vụ liên quan đến Đột Quyết, vậy mà Đột Quyết phái sứ giả đến y lại không biết. Trong lòng Thôi Quân Tố có chút kinh ngạc, vội vàng hỏi:
- Sứ giả Đột Quyết đã đến Thái Nguyên sao?
Dương Nguyên Khánh lắc đầu:
Thôi Quân Tố thở phào nhẹ nhõm. Nếu sứ giả Đột Quyết đã tiến vào Thái Nguyên mà y lại không biết, vậy thì y không làm tròn chức trách, có điều, mới tiến vào biên cảnh thì tốt rồi.
Đỗ Như Hối ở bên cạnh lại hỏi:
- Không biết Đột Quyết phải sứ giả đến để làm gì?
Thôi Quân Tố cười cười:
- Hẳn là đến để do xét mà thôi. Năm trước chúng ta và Đột Quyết đã đạt thành hiệp định hòa giải, đồng thời mở ra giao thương giữa hai nước. Lần này Hiệt Lợi đăng cơ, tất nhiên là sẽ phái sứ giả tới thông báo, đồng thời, có lẽ bọn họ còn muốn thu được lợi ích nhiều hơn nữa.
- Vậy bọn họ còn muốn đạt được thêm lợi ích gì nữa?
Đỗ Như Hối lại hỏi.
Thôi Quân Tố không trả lời, hướng mắt nhìn về phía Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh đang khoanh tay đứng trước bản đồ treo trên tường, dừng ở thảo nguyên phương bắc. Một lúc lâu sau, y thản nhiên nói:
- Mục đích của người Đột Quyết rất đơn giản. Trong chính trị, bọn họ muốn đạt được quan hệ bình đẳng với triều Tùy. Còn kinh tế, hẳn là muốn đạt được tài nguyên chiến lược nhiều hơn nữa.
Năm ngoái, quân Tùy và Đột Quyết đã đạt thành hiệp ước hòa giải, trong đó có một điểm, chính là Đột Quyết thừa nhận triều Tùy bây giờ là kế thừa của Đại Tùy (Đại Tùy này là tiếp tục kéo dài từ thời Dương Quảng), điều này có nghĩa là triều Tùy vẫn là mẫu quốc của Đột Quyết.
Vì thế, sau khi Khả Hãn Đột Quyết kế vị, cần nhận được sắc phong của triều Tùy. Nhưng kể từ sau khi bộ phận Đột Quyết Ô Đồ ở phía bắc tiêu vong, một lần nữa, Đột Quyết lại trở lên hùng mạnh. Hơn nữa, Khả Hãn Hiệt Lợi có dã tâm bừng bừng, chưa chắc y đã chấp nhận triều Tùy trở thành mẫu quốc của Đột Quyết.
Lần này Đột Quyết phái sứ giả đến, tất nhiên là tìm kiếm sự độc lập về chính trị. Nếu Đột Quyết thật sự thừa nhận triều Tùy là mẫu quốc, vậy thì Khả Hãn Hiệt Lợi nên tự mình đến yết kiến, nhưng y không tới, thái độ của Đột Quyết cần phải nghiền ngẫm đánh giá rồi.
Mà kể từ sau khi triều Tùy và Đột Quyết thành lập quan hệ mậu dịch giữa hai nước, chỉ cho phép lá trà, mật đường, kẹo, tơ lụa, đồ xứ và vật phẩm xa xỉ xuất khẩu sang Đột Quyết. Sắt thô, khí cụ bằng đồng, lương thực và vật tư chiến lược thì kiên quyết không buôn bán với Đột Quyết, càng không cho phép tư nhân buôn bán với Đột Quyết, nếu để biết được thì chính là tội chết.
Mà Tây Đột Quyết đã khống chế con đường tơ lụa, lại nghiêm cấm thương nhân Túc Đặc tới Đột Quyết. Đoạn thời gian trước, quân Tùy cướp sạch Cao Ly (Triều Tiên), bức bách Quốc vương Cao Ly chấp nhận rất nhiều điều khoản, trong đó có một điều khoản, chính là nghiêm cấm Cao Ly và Đột Quyết tiến hành buôn bán.
Chương 905 : Thử tiền ở chợ Bắc (1+2)
Cứ như vậy, các đường nhỏ để thu thập sắt thô của Đột Quyết đều bị đoạn tuyệt, đương nhiên là bọn họ sẽ tìm cách để triều Tùy xóa bỏ lệnh cấm này.
- Lần này, lúc sứ giả Đột Quyết đến đây, bất kể thế nào, chúng ta cũng quyết không nhả ra bất kỳ một hạn ngạch mậu dịch nào.
Ở điểm này, Dương Nguyên Khánh cũng tuyệt đối nghiêm túc. Hắn biết rõ, nếu hôm nay đưa kim loại cho Đột Quyết, ngày mai Đột Quyết sẽ sử dụng kim loại tạo ra chiến đao giết hại dân Tùy.
- Mặt khác, để tỏ vẻ Đại Tùy chúng dùng nghi lễ ngang nhau, Thôi Tướng quốc có thể đến quận Mã Ấp tiếp đón sứ giả Đột Quyết. Người bọn họ phái tới cũng là Tướng quốc.
- Vi thần đã hiểu, lập tức thi hành.
…
Thôi Quân Tố cáo từ trước để chuẩn bị, Đỗ Như Hối bị giữ lại. Dương Nguyên Khánh uống một ngụm trà, lại cười hỏi:
- Tiền bạc đưa vào thị trường có phản ứng thế nào?
Ba ngày trước, triều đình đưa ba ngàn mai ngân tiền đầu tiên vào thị trường, bởi vì nhẹ hơn nên tương đương với ba mươi tiền, lại không rõ tình huống thế nào nên Dương Nguyên Khánh cực kỳ chú ý.
Một loại tiền có thể thành công hay không, thị trường chính là nơi quyết định tốt nhất. Khả năng lưu thông kim tiền trong thị trường không lớn, số lượng ít. Mà Dương Nguyên Khánh lại chuẩn bị đem một lượng lớn ngân tiền đưa vào thị trường, với sản lượng bạc ngày một tăng, ngân tiền sẽ nhanh chóng có được địa vị ngang với tiền đồng.
Hiện tại mới chỉ bắt đầu thử nghiệm tính hòa nhập, có được thị trường hoan ngênh hay không, rất quan trọng. Tuy Dương Nguyên Khánh biết hiệu quả sẽ không kém, nhưng không nhận được tin tức xác nhận thì hắn vẫn không thấy yên tâm.
Đỗ Như Hối cười ha hả:
- Nói tới chuyện đó thì đúng như dự liệu. Nhưng có điều ngoài dự đoán của mọi người, là do trước đó triều đình đã lộ ra phong thanh, cho nên ngân tiền vừa vào đến cửa hàng lập tức bị đổi hết sạch, hiện tại vẫn chưa có người nào lấy nó đi mua bán, hầu hết đều bị cất giữ. Hai ngày nay, khắp kinh thành đều đang bàn luận việc này. Sắp tới chúng ta tiếp tục đưa vào mười ngàn miếng, theo dõi hiệu quả trên thị trường.
Dương Nguyên Khánh lấy từ trong ngăn kéo ra hơn chục miếng ngân tiền, nhẹ nhàng tung tung trong lòng bàn tay, kêu leng keng, cười nói:
- Đợi đến giữa trưa ta đi thử một chút phản ứng của thị trường.
Đỗ Như Hối cũng mỉm cười:
- Nếu Điện hạ thực sự lấy ngân tiền đưa ra thị trường, ty chức đoán chừng sẽ mang tới một chút phiền toái.
Y cũng không nói là phiền toái gì, đứng dậy cười rồi thi lễ:
- Vi thần cáo từ trước. Bên ngoài có người muốn gặp Điện hạ, đợi đã lâu rồi.
Dương Nguyên Khánh biết người bên ngoài nhất định là Lý Tĩnh. Hắn gật, sau khi Đỗ Như Hối lui ra bèn nói với thân vệ:
- Đưa y vào đi!
Từ sáng đến giờ đã hơn nửa canh giờ rồi mà Dương Nguyên Khánh vẫn không nghỉ ngơi. Chỉ cần còn một việc chưa được xử lý xong, hắn cũng không thể nghỉ ngơi.
Cửa mở, Lý Tĩnh bước nhanh vào. Hiện tại y vẫn đảm nhiệm chức vụ Trưởng sử phủ Sở Vương, quản lý quân đội phủ Sở Vương. Lý Tĩnh phụ trách chính vụ hàng ngày của quân đội, cũng có thể xem là nhân vật số hai trong quân.
Y tiến vào phòng, khom người thi lễ:
- Thần Lý Tĩnh tham kiến Điện hạ!
Từ khi Dương Nguyên Khánh dùng phương pháp biếm truất chính mình, bị miễn chức Thái sư, đại thần trong triều cũng dần thay đổi cách xưng hô với hắn. Rất nhiều đại thần bắt đầu xưng thần, mà quân đội cũng dần dần đổi thành Điện hạ, không còn gọi là Tổng quản, bởi vì chủ yếu là người đảm nhiệm chức tổng quản dần gia tăng, dễ bị lẫn lộn.
- Lý Trưởng sử vất vả rồi, mời ngồi!
Lý Tĩnh ngồi xuống, cũng cười nói:
- Tất cả mọi người đang hỏi khi nào thì đánh Thanh Châu. Đã mấy tháng không đánh giặc rồi, eo của hạ thần cũng có chút đau nhức.
- Đánh Thanh Châu thì phải chờ một chút nữa. Đợi hơn trăm ngàn thanh niên cường tráng thay ta sửa chữa thủy lợi của Hà Bắc đã. Một khi cướp lấy Thanh Châu, khi đó toàn bộ dân đói chạy về nhà, ta đi nơi nào tìm sức lao động?
Lý Tĩnh nhịn không được liền bật cười:
- Nếu Đậu Kiến Đức biết Điện hạ có ý tưởng này, chỉ sợ là giận đến hộc máu.
- Hẳn là y phải cảm thấy may mắn mới đúng. May mắn là mình có thể có được mấy tháng. Nếu ta là y, ta sẽ nghĩ cách nhanh chóng tiêu diệt Lưu Hắc Thát, hướng Từ Châu, phát triển vùng Tứ Châu, có lẽ còn một chút cơ hội như vậy.
Việc Thanh Châu, Dương Nguyên Khánh chỉ nói một vài câu như vậy, sau đó hắn lập tức nói vòng vo, đem câu chuyện trở về. Trầm ngâm một chút, hắn nói với Lý Tĩnh:
- Gọi ngươi đến là muốn nói với ngươi một việc. Ta tính toán để ngươi đảm nhiệm Tổng quản Đại Châu, chủ quản ba quận Nhạn Môn, Mã Ấp và Định Tương.
Việc Dương Nguyên Khánh trực tiếp bổ nhiệm này khiến cho Lý Tĩnh giật mình kinh hãi. Từ Trưởng sử phủ Sở Vương chuyển sang đảm nhiệm Tổng quản Đại Châu, về phẩm giai thì là đi lên, mang hàm tam phẩm. Nhưng nhìn về khía cạnh quyền lực thì là đúng là bị hạ thấp rồi.
Tổng quản Đại Châu chủ quản quân sự ba quận, có thực quyền ở địa phương, còn Trưởng sử phủ Sở Vương chưởng quản chính vụ toàn quân, là nhân vật số hai trong quân đội, quyền thế trong tay rất lớn. Điều đi Đại Châu nhận chức Tổng quản, rõ ràng là quyền lực giảm mất một bậc.
Nhưng Lý Tĩnh giật mình không phải vì việc mình bị điều đi, mà là vì việc đến Đại Châu nhận chức Tổng quản, điều này có nghĩa là phương bắc có khả năng xảy ra chuyện không may.
- Điện hạ, đã xảy ra chuyện gì sao?
- Tạm thời chưa xảy ra chuyện gì xấu. Nhưng Đột Quyết đã dần khôi phục lại sự cường thịnh, sớm muộn cũng sẽ xuôi nam. Ta cần một người đắc lực có thể tạo ra một hàng phòng ngự tường đồng vách sắt ở biên cảnh.
Lý Tĩnh yên lặng gật đầu:
- Thần đã hiểu. Nguyện vì Điện hạ mà ra sức.
Dương Nguyên Khánh trầm tư một lát rồi lại nói:
- Hiện tại quận Mã Ấp và quận Định Tương đều có mười ngàn quân đội, ta có thể cho ngươi thêm mười ngàn quân nữa, nhiều nhất chỉ có hai điều này, nhưng ngươi có thể thực thi chế độ dân đoàn bảo giáp (tổ chức vũ trang địa phương), giấu binh trong dân. Ba quận có hơn hai trăm ngàn nhân khẩu, trong tình thế nguy cấp, tạm thời cũng có thể điều động được mấy chục ngàn quân đội.
- Vi thần hiểu được. Không biết Điện hạ muốn thần nhậm chức vào lúc nào?
- Càng nhanh càng tốt! Lệnh bổ nhiệm của ngươi ngày mai sẽ truyền xuống, nghỉ ngơi hai ngày, sau đó đến quận Mã Ấp nhậm chức.
- Không biết sau khi vi thần đi biên cương nhậm chức, ai sẽ tiếp nhận chức Trưởng sử?
Đây cũng là vấn đề mà Lý Tĩnh rất quan tâm.
- Việc này ta còn chưa nghĩ kỹ. Ta có ý định để Dương Thiện Hội đảm nhiệm, nhưng sẽ dính đến việc thay đổi Tướng quốc, cho nên cũng hơi khó khăn, tạm thời cứ để Tư Mã Diêu làm quyền Trưởng sử đi.
Lý Tĩnh không muốn hỏi nhiều, y đứng lên thi lễ:
- Nếu đã như vậy, vi thần trở về bàn giao, không quấy rầy Điện hạ.
- Đi đi! Ta chờ mong ngươi có thể có biểu hiện xuất sắc.
Lỹ Tĩnh thi lễ, xoay người lui xuống, quan phòng trở nên yên tĩnh. Dương Nguyên Khánh bước tới sau bàn, cầm bút viết một phong thư cho Tô Định Phương. Hắn suy tính một đêm, gây thù bốn phía không phải là thượng sách. Trong tay Tô Định Phương chỉ có mười ngàn quân, hiện tại quân Tùy ở Tây Vực cần chuyển sang phòng ngự.
Nhất định phải dẫn đường để Đông và Tây Đột Quyết sống mái với nhau, lúc đó mới phù hợp với lợi ích căn bản của Đại Tùy… Giữa trưa, Dương Nguyên Khánh có được chút thời gian rảnh rỗi, hắn liền tới chợ Bắc. Năm nay là năm khó khăn, lương thực thiếu thốn, các loại vật tư cung ứng không đầy đủ, nhưng dù sao chợ Bắc cũng là thị trường lớn nhất Đại Tùy, vẫn náo nhiệt dị thường, người đến người đi hối hả.
Dương Nguyên Khánh hóa trang qua loa, đầu đội mũ cuốn vành của người Hồ, dán thêm hai cặp ria mép, hai má thoa phấn vàng, mặc một bộ áo da tay hẹp của người Hồ, nhìn thoáng qua giống với một gã thương nhân chừng bốn mươi tuổi, hơn nữa còn là loại thương nhân thường hay qua lại Tây Vực và Trung Nguyên, quần áo đẹp đẽ quý giá, trong túi có nhiều tiền.
Dương Nguyên Khánh cũng thường xuyên đến chợ Bắc để thị sát. Mỗi lần đến đều ăn mặc thế này, cũng không có ai nhận ra hắn. Xe ngựa dừng ở bên ngoài chợ Bắc, từ nơi này muốn vào chợ Bắc cần phải đi qua một con phố, là phố Bắc Phượng.
Đường phố không dài, chỉ hơn một dặm, nhưng cửa hàng ở hai bên đường phố dày đặc, chủ yếu là tửu quán, nhà trọ và thanh lâu là chính. Tửu quán và nhà trọ thì ở mặt đường, còn thanh lâu thì ẩn trong mấy con hẻm nhỏ, đầu ngõ có vài kỹ nữ trẻ tuổi, ném cặp mắt quyến rũ đầy phong tình về phía những người qua lại con đường này.
Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng, từ từ bước theo đoàn người mà đi, sau lưng hắn, cách khoảng bảy tám bước là hơn chục thân vệ theo sau bảo vệ, ánh mắt đầy cảnh giác đánh giá tình hình bốn phía. Trên thực tế, căn bản là không có người nào có thể nhận ra thương nhân này lại là Dương Nguyên Khánh, người có quyền khuynh thiên hạ.
Dương Nguyên Khánh híp mắt đánh giá cửa hàng ở hai bên đường. Hắn nhớ rõ lần trước đến chợ Bắc là sau khi kết thúc chiến dịch Trung Nguyên ít hôm, hắn đến để giải quyết giá lương thực ở Thái Nguyên. Đến nay đã cách mấy tháng, hắn phát hiện có không ít sự thay đổi.
Quán rượu Nhất Phẩm Cư đã biến mất, trở thành quán rượu Nguyên An, mấy căn phòng cũ nát chạy dọc hai bên đường cũng được sửa chữa đổi mới hoàn toàn, xây thêm tầng hai làm cửa hàng cho thuê. Thái Nguyên vẫn theo quy chế nhà Tùy, ngoại trừ vài tòa phủ đệ đặc thù, bình thường không cho xây dựng cải tạo nhà lầu làm nhà ở. Nhưng chỉ ở chợ Bắc Thái Nguyên là có thể xuất hiện nhà lầu, nơi này là khu buôn bán, tấc đất tấc vàng, chỉ có xây dựng cải tạo nhà lầu mới có thể chứa được nhiều cửa hàng như vậy.
Lúc này, hai nữ tử đứng ở đầu ngõ kiếm khách cho thanh lâu nhìn thấy Dương Nguyên Khánh ăn mặc quý phái, thân hình cao lớn, khí thế hiên ngang thì hai mắt sáng lên, hai nàng tiến tới, một trái một phải ra sức kéo tay hắn mời chào:
- A lang, thế nào mà lâu vậy không đến tìm tiểu muội, chẳng lẽ quên người ta rồi sao?
Giọng nói vừa nhõng nhẽo vừa ỏn ẻn, lôi kéo cánh tay của hắn, móng tay cũng gãi nhẹ vào lòng bàn tay của hắn, câu hồn đoạt phách của nam nhân. Làm sao Dương Nguyên Khánh lại để hai người trong mắt, nhưng hắn cũng không giận, thoát khỏi vòng tay của hai nàng, cười tủm tỉm:
- Ta muốn đi tìm đầu mối kinh doanh, xong việc quay lại tìm các nàng sau.
Nói chuyện làm ăn mà lại mang bộ dáng nhàn nhã như vậy, rõ ràng là tìm cớ từ chối. Hai nữ tử nhất định không buôn tha cho hắn, lại ôm lấy hai cánh tay, đem bộ ngực đầy đặn dán chặt vào cánh tay, thi thoảng còn cọ cọ, mềm mại như sóng biển, giọng nói trở nên đáng thương:
- A lang, chiếu cố chút làm ăn đi. Mùa màng không tốt, tiểu muội không có cơm ăn.
Hai người tỏ vẻ đáng thương đang cầu xin hắn, lúc này, vài tên thân binh vọt lên, một tay đẩy các nàng ra. Một nàng đứng không vững, bị đẩy ngã nhào trên mặt đất, hai nàng lập tức sợ tới xanh mặt.
Các đó không xa là vài tên bảo kê của thanh lâu đang ẩn trong ngõ nhỏ, nhiệm vụ của bọn chúng là chuyên môn đề phòng khách nhân đánh người, nhưng mấy tên bảo kê này không ngốc, hơn chục thân binh của Dương Nguyên Khánh vừa cao vừa khỏe, nhìn qua là biết người có võ nghệ cao cường, hông còn đeo bảo đao, những người này bọn chúng không dây được nên biết điều trốn trong ngõ hẻm, không dám ra.
Dương Nguyên Khánh nhìn thấy tay của một cô gái đập trúng một hòn đá ven đường, còn chảy máu, trong lòng cũng có chút áy náy bèn lấy ra hai miếng ngân tiền ném cho hai nàng:
- Mua chút thuốc băng bó đi!
Ngân tiền rơi trên mặt đất lăn lông lốc mấy vòng, thanh âm phát ra khác với tiền đồng. Hai nữ tử thanh lâu nhặt hai miếng ngân tiền lên, kinh ngạc xem xét cẩn thận. Mặc dù mấy ngày trước, hơn ba ngàn miếng ngân tiền đã được đưa ra thị trường, nhưng bọn họ mang thân phận thanh lâu, tự nhiên là không có khả năng nhìn thấy.
Hai nữ tử thanh lâu chưa từng nhìn thấy loại ngân tiền này, cầm xem một lúc lâu, cũng không nhận ra. Một cô gái hỏi:
- Khách nhân, đây là cái loại tiền gì?
Dương Nguyên Khánh đã bước qua hơn chục bước, nghe nàng này hỏi liền quay đầy lại cười nói:
- Đây là ngân tiền mới phát hành của Đại Tùy, chưa từng nghe qua sao?
Thanh lâu luôn luôn là trung tâm tập hợp và phân tán tin tức, hai nữ tử này vừa nghe khách nhân nói, nói loại ngân tiền này rất đáng giá, một ngân tiền có thể đổi được năm mươi tiền đồng, nhất thời vừa mừng vừa sợ, vội vàng xoay người chạy vào trong hẻm nhỏ.
Lúc này, một gã thương nhân bên cạnh nghe thấy lời nói của Dương Nguyên Khánh, trong lòng y vừa động, lập tức bước tới. Lúc này Dương Nguyên Khánh đã ở xa hơn hai chục bước, thương nhân này chạy vội lên, ngăn Dương Nguyên Khánh lại, chắp tay nói:
- Vị nhân huynh này, có thể dừng bước nói chuyện một chút được không?
Dương Nguyên Khánh nhìn y một cái, thấy bộ dạng của y vừa béo vừa lùn, cặp mắt nhỏ sáng ngời, lộ ra vẻ khôn khéo liền mỉm cười nói:
- Ta có biết ngươi sao?
- Ta có chút việc muốn thương lượng với nhân huynh.
Thương nhân này biết ngân tiền mới đưa ra thị trường liền bị đoạt sạch không còn một mảnh, người bình thường muốn mua cũng không có chỗ để mua, vậy mà không ngờ vị đại gia này lại tùy tiện lấy ra thưởng cho hai kỹ nữ, nhưng lại không giống với những tên phá gia chi tử, vậy chắc chắn là loại người không hiểu giá trị của ngân tiền, loại cơ hội này, thương nhân như y không có khả năng bỏ qua.
Thân binh ở phía sau muốn tiến lên, Dương Nguyên Khánh lại xua tay ngăn bọn chúng lại, tủm tỉm cười với tên thương nhân kia:
- Có chuyện gì không?
Thương nhân kia thấp giọng nói:
- Ta nguyện ý lấy giá cao mua lại ngân tiền của ngươi, có bao nhiêu mua bấy nhiêu.
Dương Nguyên Khánh thấy ở bên cạnh có một quán rượu liền chỉ vào:
- Vào đây nói chuyện đi!
Hắn xoay người bước vào trong quán rượu, gã thương nhân mừng rỡ vội vàng đi theo. Một gã tửu bảo bước tới tiếp đón hai người, đưa tới một cái bàn ở cạnh cửa, hai người vừa ngồi xuống, hơn chục thân binh chia ra đứng ngoài cửa, có hai người đứng sau lưng Dương Nguyên Khánh, tay cầm chuôi đao, ánh mắt lạnh lùng nghiêm nghị nhìn chằm chằm vào gã thương nhân. Nếu y có can đảm dị động, lập tức rút đao chém làm hai mảnh.
Gã thương nhân lại không hề biết mình đang ở trong vòng nguy hiểm, lúc này tâm trí của y đều đặt hết lên ngân tiền. Y biết có người chấp nhận dùng một xâu tiền đổi lấy một miếng ngân tiền. Loại ngân tiền này y cũng thấy qua một lần, hàm lượng bạc rất cao, chế tạo tỷ mỉ, trước đây y chưa từng gặp qua.
Y một lòng muốn kiếm chút ngân tiền, nếu ít thì tự mình cất chứa, nếu nhiều có thể dùng để kiếm lời. Gặp được Dương Nguyên Khánh là người có nhiều ngân tiền, bất kể thế nào y cũng quyết không bỏ qua.
- Vị nhân huynh này, có thể cho ta xem qua ngân tiền vừa nãy được không?
Dương Nguyên Khánh lấy ra một miếng ngân tiền đưa cho gã thương nhân, y cuống quýt cầm lấy, đặt ở lòng bàn tay, chăm chú quan sát:
- Đúng rồi, đúng rồi, chính là nó!
Y thấp giọng nói nhưng ánh mắt lại tỏa sáng.
Y chăm chú nhìn miếng ngân tiền, sau đó lại chuyển hướng sang Dương Nguyên Khánh, ánh mắt đầy nóng bỏng và mong chờ:
- Nhân huynh còn bao nhiêu miếng ngân tiền?
Dương Nguyên Khánh cười nói;
- Ta họ Lý, người quận Hội Ninh, buôn bán ở Thái Nguyên, không biết quý tính của các hạ?
Bình thường gặp mặt, trước tiên là tự giới thiệu, sau đó mới bàn luận việc làm ăn. Chỉ có điều vị thương nhân này quá nóng vội nên đã quên đi lễ nghi tối thiểu. Y lập tức tỉnh ngộ, vội vàng đứng lên khom người thi lễ, sau đó mới ngồi xuống nói:
- Tại hạ họ Vương, người quận Giáng, buôn bán ở chợ Bắc. Cửa hàng gạo Long Hội ở chợ Bắc là do tại hạ mở.
- Hóa ra ngươi chính là Vương Mễ …
Dương Nguyên Khánh cười cười, chắp tay nói:
- Nghe danh đã lâu!
Đương nhiên là Dương Nguyên Khánh biết cửa hàng gạo Long Hội, là cửa hàng gạo lớn thứ hai ở chợ Bắc, nghe nói chủ nhân họ Vương, ba đời đều buôn gạo, mọi người đều gọi là Vương mễ trùng (Vương sâu gạo), một mặt là nói y kinh nghiệm buôn bán gạo của y rất cao, mặt khác cũng để chỉ y là một người khá tham lam.
- Tại hạ chính là Vương mễ trùng, tuy nhiên, tên thật là Vương Sùng Nghĩa, nhũ danh Mễ Lang, nhân huynh cứ gọi ta là Mễ Lang.
Vương Sùng Nghĩa nóng vội hỏi:
- Nhân huynh còn chưa nói cho ta biết, ngươi có bao nhiêu ngân tiền?
Dương Nguyên Khánh lấy từ trong túi ra hai mươi mấy miếng ngân tiền đặt lên bàn:
- Ta tổng cộng chỉ có chừng này, cũng là do người khác tặng cho ta. Ta không rõ, Vương huynh cần chúng làm gì? Theo ta được biết, triều đình sẽ nhanh chóng phát hành số lượng lớn, đến lúc đó ngân tiền sẽ đầy đường cũng không có gì lạ.
- Lời ngươi nói là thật?
- Đương nhiên là thật. Ta có người thân ở trong triều chủ quản việc này. Nhưng miếng ngân tiền này là người đó cho ta, ta lừa ngươi làm gì.
- Hóa ra là như vậy!
Ánh mắt Vương Sùng Nghĩa lộ ra vẻ thất vọng. Nếu thật sự phát hành số lượng lớn, cất chứa những miếng ngân tiền này thật sự không có giá trị gì.
Y không còn thấy hứng thú với những miếng ngân tiền trên bàn nữa, nâng chén trà lên rồi nói:
- Thành thật mà nói, những ngân tiền này triều đình phát hành có vấn đề, ở đây cất giấu lợi ích rất lớn, cho nên đại gia mới cố gắng tìm kiếm kẽ hở của nó.
- Hả? Có vấn đề gì?
Dương Nguyên Khánh cảm thấy hứng thú, vội hỏi…
Vương Sùng Nghĩa uống một ngụm trả, sau đó không chút hoang mang nói:
- Ngân tiền này được định giá là một miếng ngân tiền đổi được ba mươi văn tiền đồng, rõ ràng là dựa theo một lượng bạc đổi mười xâu tiền để tính. Nhưng đây đã là tiêu chuẩn của mười mấy năm trước rồi. Chắc nhân huynh cũng biết một lượng bạc ở chợ đen bây giờ có giá bao nhiêu?
- Ta không biết. Ngươi nói xem?
- Ở Thái Nguyên, một lượng bạc có thể đổi hai mươi xâu tiền, hơn nữa còn là tiền mới của triều Tùy. Ở Trường An, một lượng bạc có thể đổi được ba quan tiền mới, là tiền mới của triều Đường, chính là Khai Nguyên thông bảo. Mà ở Giang Đô, một lượng bạc có thể đổi một trăm xâu tiền Ngụy mục nát. Tuy nhiên không có ai lại dùng bạc đổi tiền Ngụy, mà dùng để mua gạo. Một lượng bạc có thể mua được ba thạch gạo. Ở phía nam, vàng bạc rất có giá, lại tính toán theo tiêu chuẩn, đây quả thực là một cơ hội phát tài.
Lúc này Dương Nguyên Khánh mới biết hóa ra trong việc áp dụng giá cả ngân tiền lại tồn tại lỗ hổng lớn như vậy. Mất nửa ngày, hắn mới nói:
- Ta nghĩ đây là lần đầu tiên nên quan phủ phát hành chút ít chính là để thử nghiệm. Nếu như trên thị trường, bạc quý đồng rẻ, như vậy lần phát hành thứ hai, nhất định sẽ điều chỉnh lại giá cả, chắc có lẽ sẽ không còn là một ngân tiền đổi ba mươi tiền đồng nữa rồi.
Vương Sùng Nghĩa đã không còn hứng thú với ngân tiền trên người Dương Nguyên Khánh, y cũng không muốn lãng phí thời gian, liền đứng dậy chắp tay cáo từ:
- Rất hân hạnh được biết Lý huynh, tại hạ còn có việc, xin đi trước một bước. Nếu như Lý huynh đến tiểu điếm mua gạo, chỉ cần không quá năm thạch, ta có thể tính giá ưu đãi cho huynh, mỗi đấu năm văn tiền, coi như là hôm nay có duyên quen biết.
Chương 906 : Rộng rãi mời khách
Dương Nguyên Khánh nghe giọng y mười phần con buôn, liền gật đầu cười nói:
- Đa tạ Vương huynh, nếu rảnh ta sẽ đến.
Vương Sùng Nghĩa đứng dậy đi rồi, Dương Nguyên Khánh mới rời đi. Lúc này, lại nghe thấy từ ngoài quán rượu truyền đến giọng nói của một cô gái:
- A cô, cơm nước xong chúng ta đi dạo chợ Bắc tiếp đi!
Vài tên thân binh lập tức trốn ra phía sau cửa, sau đó, có hai thiếu nữa từ bên ngoài đi vào. Một người mười bốn mười lăm tuổi, dáng người cao gầy, mỹ mạo diễm lệ, là một thiếu nữ mới trưởng thành.
Mà người kia, mặc dù dáng người cao, khuôn mặt thanh tú nhưng cũng rất gầy. Rõ ràng là một tiểu nha đầu còn nhỏ, cũng chỉ khoảng mười tuổi. Hai người này chính là Công chúa Đan Dương Dương Phương Hinh và trưởng nữ Dương Băng của Dương Nguyên Khánh.
Hôm nay là ngày rằm, dựa theo phong tục, cần phải vào chùa lễ tạ thần phật. Bùi Mẫn Thu và Giang Bội Hoa liền đến Quan Âm đường ở tít phía tây ngoại ô, hướng Bồ Tát lễ tạ. Nhân cơ hội này, hai người mới chạy đến đây.
Đi dạo phố là việc mà các thiếu nữ đều rất thích, từ trước đến nay đều như vậy. Hai người tích lũy tiền bạc, nhân cơ hội này liền đến chợ Bắc mua một vài đồ vật lặt vặt.
Bây giờ là giữa trưa, hai người muốn ăn một chút gì đó nên tiến vào quán rượu. Vừa vào cửa liền nhìn thấy Dương Nguyên Khánh ở trước mặt, Dương Băng liếc nhìn Dương Nguyên Khánh một cái, kéo kéo Dương Phương Hinh nói nhỏ:
- A cô, vóc dáng người này có chút giống cha ta.
Nhóm thân binh của Dương Nguyên Khánh sớm nhìn thấy các nàng nên đã trốn đi, cho nên hai người có nằm mơ cũng không nghĩ ra người đàn ông trung niên trước mặt nhìn có chút quen mắt này lại chính là Dương Nguyên Khánh.
Dương Phương Hinh liếc nhìn Dương Nguyên Khánh, nàng cũng nhận ra là có điểm giống, nhưng mà làm sao có thể là hắn được, liền bĩu môi:
- Đừng nói càn. Làm sao cha ngươi có thể ăn mặc tục tằn như con buôn thế được?
Thính lực của Dương Nguyên Khánh khác hẳn người thường, tuy hai nàng cúi đầu nói nhỏ nhưng hắn đều nghe rõ. Lời của Dương Phương Hinh làm hắn cười khổ một tiếng, sau đó cười nói:
- Xem ra, ta phải mở miệng nói chuyện thì các ngươi mới nhận ra.
- Phụ thân!
Dương Băng nghe thấy giọng nói này, nàng vui mừng, bất ngờ hô lên một tiếng, nhảy tới ôm lấy cánh tay Dương Nguyên Khánh. Bỗng nhiên, nàng lại có chút làm nũng, liền dùng sức lôi kéo cánh tay phụ thân, nũng nịu hỏi han:
- Phụ thân, sao cha lại ở chỗ này?
- Đương nhiên là tới để bắt tiểu quỷ đầu này rồi!
Dương Nguyên Khánh gõ vào đầu của nữ tử đáng yêu này một cái, cười nói:
- Lại gạt nương con vụng trộm trốn đến đây có phải không?
- Không có vụng trộm trốn đi, con đi từ cửa chính ra.
Dương Băng tưởng thật sự là phụ thân đến bắt nàng trở về, trong lòng cảm thấy sợ hãi. Dương Phương Hinh thì biết Dương Nguyên Khánh đến đây không có liên quan gì đến hai người mình, nhưng trong nội tâm cũng rất khẩn trương, cắn môi không biết nên nói cái gì.
Dương Nguyên Khánh như cười như không nhìn nàng, chỉ vào quần áo của mình, hỏi nàng:
- Cách ăn mặc này thật sự rất giống con buôn sao?
Mặt Dương Phương Hinh bỗng đỏ lên, hóa ra hắn nghe được lời mình nói, nàng tiến lên trước, lãnh đạm nói:
- Cho dù là cải trang vi hành thì cũng nên chú ý đến hình thức một chút. Cách ăn mặc này của ngươi so với đám thương nhân hoặc nhà giàu mới nổi thì các khác gì nhau?
‘Hóa ra phụ thân không phải tới bắt ta.’ Dương Băng nghe thấy bốn chữ “cải trang vi hành”, trong lòng lập tức thoải mái.
Nàng đảo mắt, có phụ thân ở đây, tại sao phải tiêu tiền của mình. Tiền của mình vốn rất ít, vốn không đủ để ăn cơm, mua đồ. Nàng liền làm nũng nói:
- Phụ thân, con đói bụng.
- Đi thôi! Lên lầu hai đi.
Dương Nguyên Khánh nắm tay nữ nhi, nháy mắt với Dương Phương Hinh, sau đó đi lên lầu hai. Trong lòng Dương Phương Hinh đập loạn, không ngờ Dương Nguyên Khánh lại nháy mắt với mình, nàng muốn kiêu ngạo một chút, nhưng hai chân lại không tự chủ được mà đi theo.
Ba người ngồi xuống một cái bàn ở gần cửa sổ. Dương Nguyên Khánh ngồi một bên, Dương Băng và Dương Phương Hinh ngồi ở đối diện. Tiểu nhị tiến đến, khom người cười hỏi:
- Ba vị muốn ăn chút gì không?
Dương Nguyên Khánh cười nói với hai nữ nhân:
- Muốn ăn gì thì tự mình gọi đi.
- Ta muốn ăn cá, ta thích nhất là cá chép lớn sông Phần xốt đỏ, còn có cua xốt đường. Giờ là tháng mười, hẳn là có cua rồi.
Tiểu nhi đứng bên cạnh giơ ngón cái lên khen:
- Cô nương quả nhiên là người sành ăn, con cá chép lớn sông Phần này mới được câu lên sáng nay, còn rất tươi. Ngoài ra, hôm qua tiểu điếm mới nhập về một giỏ cua cống phẩm Ngô Trung, trong đó có hai đôi cua Kim Long Phượng, là thứ mà Tiên đế năm xưa thích ăn nhất. Có điều giá cả rất đắt, cô nương cần phải nghĩ cho kỹ.
Dương Nguyên Khánh rất chiều con gái, hắn biết thê tử trong nhà đề xướng tiết kiệm, loại cua tiến vua này chắc chắn là không được ăn, nhân tiện nói:
- Hai đôi cua Kim Long Phượng đều dọn lên đây.
Hắn lại hỏi Dương Phương Hinh:
- Đan Dương muốn ăn chút gì không?
Dương Phương Hinh hé miệng cười nói:
- Ta ăn chút rau quả là được rồi.
Dương Băng cướp lời:
- A cô nói người thích ăn nhất là lưỡi hươu chiên, một lần có thể ăn nhiều nhất là ba cái.
Mặt Dương Phương Hinh đỏ bừng, lặng lẽ bóp cánh tay Dương Băng một cái, thấp giọng trách móc:
- Nha đầu chết tiệt kia, ngươi nói bậy bạ gì đó, ta bảo thích ăn lưỡi hươu bao giờ?
Dương Băng vỗ tay mỉm cười:
- A cô thẹn thùng, hiếm thấy nha!
Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười, nói với tiểu nhị:
- Làm một đĩa rau quý các loại. Ngoài ra, mang lên hai cái lưỡi hươu hoang dã chiên, một phần thịt hươu sấy kho tương, ba phần bánh hồ, một bình rượu nho loại tốt nhất, được chứ?
Cho tới bây giờ, ở Tùy Đường, lưỡi hươu là một món ăn cực kỳ quý báu. Lưỡi hươu này không phải là loại hươu nuôi trong nhà mà là hươu sừng đỏ ở thảo nguyên, đầu lưỡi vừa dài vừa mịn, thường xuyên ăn cỏ non trên thảo nguyên, mùi vị càng giòn.
Loại lưỡi hươu này vốn là cống phẩm của triều đình, dân gian rất ít người biết đến. Sau khi triều Tùy diệt vong mới xuất hiện ở dân gian. Bình thường quán rượu bình thường cũng sẽ không bày ra, giấu ở trong hầm băng, làm món ăn quý của quán.
Tiểu nhị thấy bọn họ gọi cua Kim Long Phượng mà không chút do dự, biết bọn họ là kẻ có tiền. Nhưng lưỡi hươu lại không phải là món ăn bình thường, y có chút do dự, chạy đi tìm chưởng quầy.
Chưởng quầy rất nhanh tiến đến, tủm tỉm cười thi lễ:
- Khách quan, ta muốn nói rõ một chút. Quả thật là tiểu điểm có hai cái lưỡi hươu hoang dã, nhưng thật sự là rất đắt. Một cái ba trăm xâu tiền, hai cái là sáu trăm xâu tiền. Ta xin nhắc lại, hai cái là sáu trăm xâu tiền.
Dương Phương Hinh cuống quít xua tay:
- Không cần! Không cần! Ta không cần lưỡi hươu.
Dương Nguyên Khánh lại thản nhiên cười nói:
- Mười ngàn xâu tiền thì như thế nào? Chẳng phải ta đã gọi rồi sao, còn không mau đi chuẩn bị đồ ăn.
Chưởng quầy nhất thời líu lưỡi. Vì đại gia này không giống người thường! Thậm chí mười ngàn xâu tiền cũng không thèm để ý. Y vỗ vào bả vai tiểu nhị:
- Nếu khách quan đã gọi lưỡi hươu, còn không mau đi làm!
Dương Phương Hinh thấy Dương Nguyên Khánh đối với mình cực kỳ rộng rãi, trong lòng cảm thấy vui mừng, lại thấy ngọt ngào. Dù sao nàng cũng là Công chúa, đối với nàng mà nói, hai cái lưỡi hươu không là gì cả, cũng không phải là rất khó xử.
Dương Băng lại bắt được cơ hội, nàng tỏ vẻ tội nghiệp năn nỉ:
- Phụ thân, có thể cho con một chút tiền lẻ được không. Một tháng con mới được hai xâu tiền, muốn mua chút đồ vật cũng không đủ tiền.
Dương Nguyên Khánh lấy ra hai mươi mấy miếng ngân tiền, vừa cười vừa đưa cho hai nữ nhân:
- Đây là ngân tiền mới phát hành, có thể đổi được mười xâu tiền, hai người cầm đi!
Dương Băng và Dương Phương Hinh đều chưa từng thấy qua ngân tiền, cùng nhau cầm lên, tò mò đánh giá ngân tiền. Lúc này, chưởng quầy tự mình bưng đĩa rau củ quý lên, liếc mắt một cái, nhìn thấy đống ngân tiền trên bàn, ánh mắt sáng lên, vội vàng hỏi:
- Cô nương, chỗ ngân tiền này đổi cho ta đi! Một xâu tiền đổi một miếng.
Có tất cả hai mươi hai miếng ngân tiền, Dương Băng lấy hai miếng, nàng và Dương Phương Hinh mỗi người một miếng, còn lại hai mươi miếng ngân tiền đều đưa cho chưởng quầy, nghiêm trang nói:
- Phụ thân ta nói, có thể đổi được mười xâu tiền. Ta đây cũng không nói nhiều, nếu ngươi muốn đổi, đổi cho ngươi giá mười xâu tiền.
Chưởng quầy ngây ngốc một chút. Y biết tiêu chuẩn là một ngân tiền đổi được ba mươi tiền đồng. Cái giá cô nương này đưa ra có đắt hơn tiêu chuẩn một chút, nhưng cũng không tính là thiệt thòi, thật sự khó có cơ hội này. Y giơ ngón cái lên:
- Cô nương thật sự là người am hiểu!
Y chạy về quầy, lấy ra mười xâu tiền đổi lấy hai mươi miếng ngân tiền. Ông chủ vẫn muốn có ngân tiền mà không được, lần này mình có thể khiến ông chủ vui vẻ rồi. Y nói lời cảm kích rồi lui xuống.
Dương Băng lại vô cùng vui mừng, vậy là hai người có hơn mười xâu tiền, có thể mua được rất nhiều thứ. Dương Phương Hinh lại cảm thấy rất có hứng thú với miếng tiền bạc kia, đặt vào lòng bàn tay nhìn thật kỹ, thật cẩn thận cất vào trong cái túi nhỏ của mình.
Dương Nguyên Khánh nhặt một quả cam lên, vừa bóc vỏ, vười cười với hai người:
- Ăn quả cam trước đi. Đợi lát nữa dùng cơm xong, ta sẽ trở về. Thân binh sẽ để lại bảo vệ hai người. Hai người cũng về sớm một chút, biết không?
- Con biết rồi! Mong phụ thân đừng nói với đại nương và nương.
Dương Băng xoa tay năn nỉ.
Dương Nguyên Khánh cười ha hả:
- Ta sẽ nói là ta dẫn hai người đi. Về phần đại nương ngươi có tin hay không thì không liên quan đến ta đâu đấy.
Chương 907 : Nguy cơ ngân tiền (1+2)
Dương Nguyên Khánh nghe giọng y mười phần con buôn, liền gật đầu cười nói:
- Đa tạ Vương huynh, nếu rảnh ta sẽ đến.
Vương Sùng Nghĩa đứng dậy đi rồi, Dương Nguyên Khánh mới rời đi. Lúc này, lại nghe thấy từ ngoài quán rượu truyền đến giọng nói của một cô gái:
- A cô, cơm nước xong chúng ta đi dạo chợ Bắc tiếp đi!
Vài tên thân binh lập tức trốn ra phía sau cửa, sau đó, có hai thiếu nữa từ bên ngoài đi vào. Một người mười bốn mười lăm tuổi, dáng người cao gầy, mỹ mạo diễm lệ, là một thiếu nữ mới trưởng thành.
Mà người kia, mặc dù dáng người cao, khuôn mặt thanh tú nhưng cũng rất gầy. Rõ ràng là một tiểu nha đầu còn nhỏ, cũng chỉ khoảng mười tuổi. Hai người này chính là Công chúa Đan Dương Dương Phương Hinh và trưởng nữ Dương Băng của Dương Nguyên Khánh.
Hôm nay là ngày rằm, dựa theo phong tục, cần phải vào chùa lễ tạ thần phật. Bùi Mẫn Thu và Giang Bội Hoa liền đến Quan Âm đường ở tít phía tây ngoại ô, hướng Bồ Tát lễ tạ. Nhân cơ hội này, hai người mới chạy đến đây.
Đi dạo phố là việc mà các thiếu nữ đều rất thích, từ trước đến nay đều như vậy. Hai người tích lũy tiền bạc, nhân cơ hội này liền đến chợ Bắc mua một vài đồ vật lặt vặt.
Bây giờ là giữa trưa, hai người muốn ăn một chút gì đó nên tiến vào quán rượu. Vừa vào cửa liền nhìn thấy Dương Nguyên Khánh ở trước mặt, Dương Băng liếc nhìn Dương Nguyên Khánh một cái, kéo kéo Dương Phương Hinh nói nhỏ:
- A cô, vóc dáng người này có chút giống cha ta.
Nhóm thân binh của Dương Nguyên Khánh sớm nhìn thấy các nàng nên đã trốn đi, cho nên hai người có nằm mơ cũng không nghĩ ra người đàn ông trung niên trước mặt nhìn có chút quen mắt này lại chính là Dương Nguyên Khánh.
Dương Phương Hinh liếc nhìn Dương Nguyên Khánh, nàng cũng nhận ra là có điểm giống, nhưng mà làm sao có thể là hắn được, liền bĩu môi:
- Đừng nói càn. Làm sao cha ngươi có thể ăn mặc tục tằn như con buôn thế được?
Thính lực của Dương Nguyên Khánh khác hẳn người thường, tuy hai nàng cúi đầu nói nhỏ nhưng hắn đều nghe rõ. Lời của Dương Phương Hinh làm hắn cười khổ một tiếng, sau đó cười nói:
- Xem ra, ta phải mở miệng nói chuyện thì các ngươi mới nhận ra.
- Phụ thân!
Dương Băng nghe thấy giọng nói này, nàng vui mừng, bất ngờ hô lên một tiếng, nhảy tới ôm lấy cánh tay Dương Nguyên Khánh. Bỗng nhiên, nàng lại có chút làm nũng, liền dùng sức lôi kéo cánh tay phụ thân, nũng nịu hỏi han:
- Phụ thân, sao cha lại ở chỗ này?
- Đương nhiên là tới để bắt tiểu quỷ đầu này rồi!
Dương Nguyên Khánh gõ vào đầu của nữ tử đáng yêu này một cái, cười nói:
- Lại gạt nương con vụng trộm trốn đến đây có phải không?
- Không có vụng trộm trốn đi, con đi từ cửa chính ra.
Dương Băng tưởng thật sự là phụ thân đến bắt nàng trở về, trong lòng cảm thấy sợ hãi. Dương Phương Hinh thì biết Dương Nguyên Khánh đến đây không có liên quan gì đến hai người mình, nhưng trong nội tâm cũng rất khẩn trương, cắn môi không biết nên nói cái gì.
Dương Nguyên Khánh như cười như không nhìn nàng, chỉ vào quần áo của mình, hỏi nàng:
- Cách ăn mặc này thật sự rất giống con buôn sao?
Mặt Dương Phương Hinh bỗng đỏ lên, hóa ra hắn nghe được lời mình nói, nàng tiến lên trước, lãnh đạm nói:
- Cho dù là cải trang vi hành thì cũng nên chú ý đến hình thức một chút. Cách ăn mặc này của ngươi so với đám thương nhân hoặc nhà giàu mới nổi thì các khác gì nhau?
‘Hóa ra phụ thân không phải tới bắt ta.’ Dương Băng nghe thấy bốn chữ “cải trang vi hành”, trong lòng lập tức thoải mái.
Nàng đảo mắt, có phụ thân ở đây, tại sao phải tiêu tiền của mình. Tiền của mình vốn rất ít, vốn không đủ để ăn cơm, mua đồ. Nàng liền làm nũng nói:
- Phụ thân, con đói bụng.
- Đi thôi! Lên lầu hai đi.
Dương Nguyên Khánh nắm tay nữ nhi, nháy mắt với Dương Phương Hinh, sau đó đi lên lầu hai. Trong lòng Dương Phương Hinh đập loạn, không ngờ Dương Nguyên Khánh lại nháy mắt với mình, nàng muốn kiêu ngạo một chút, nhưng hai chân lại không tự chủ được mà đi theo.
Ba người ngồi xuống một cái bàn ở gần cửa sổ. Dương Nguyên Khánh ngồi một bên, Dương Băng và Dương Phương Hinh ngồi ở đối diện. Tiểu nhị tiến đến, khom người cười hỏi:
- Ba vị muốn ăn chút gì không?
Dương Nguyên Khánh cười nói với hai nữ nhân:
- Muốn ăn gì thì tự mình gọi đi.
- Ta muốn ăn cá, ta thích nhất là cá chép lớn sông Phần xốt đỏ, còn có cua xốt đường. Giờ là tháng mười, hẳn là có cua rồi.
Tiểu nhi đứng bên cạnh giơ ngón cái lên khen:
- Cô nương quả nhiên là người sành ăn, con cá chép lớn sông Phần này mới được câu lên sáng nay, còn rất tươi. Ngoài ra, hôm qua tiểu điếm mới nhập về một giỏ cua cống phẩm Ngô Trung, trong đó có hai đôi cua Kim Long Phượng, là thứ mà Tiên đế năm xưa thích ăn nhất. Có điều giá cả rất đắt, cô nương cần phải nghĩ cho kỹ.
Dương Nguyên Khánh rất hiều con gái, hắn biết thê tử trong nhà đề xướng tiết kiệm, loại cua tiến vua này chắc chắn là không được ăn, nhân tiện nói:
- Hai đôi cua Kim Long Phượng đều dọn lên đây.
Hắn lại hỏi Dương Phương Hinh:
- Đan Dương muốn ăn chút gì không?
Dương Phương Hinh hé miệng cười nói:
- Ta ăn chút rau quả là được rồi.
Dương Băng cướp lời:
- A cô nói người thích ăn nhất là lưỡi hươu chiên, một lần có thể ăn nhiều nhất là ba cái.
Mặt Dương Phương Hinh đỏ bừng, lặng lẽ bóp cánh tay Dương Băng một cái, thấp giọng trách móc:
- Nha đầu chết tiệt kia, ngươi nói bậy bạ gì đó, ta bảo thích ăn lưỡi hươu bao giờ?
Dương Băng vỗ tay mỉm cười:
- A cô thẹn thùng, hiếm thấy nha!
Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười, nói với tiểu nhị:
- Làm một đĩa rau quý các loại. Ngoài ra, mang lên hai cái lưỡi hươu hoang dã chiên, một phần thịt hươu sấy kho tương, ba phần bánh hồ, một bình rượu nho loại tốt nhất, được chứ?
Cho tới bây giờ, ở Tùy Đường, lưỡi hươu là một món ăn cực kỳ quý báu. Lưỡi hươu này không phải là loại hươu nuôi trong nhà mà là hươu sừng đỏ ở thảo nguyên, đầu lưỡi vừa dài vừa mịn, thường xuyên ăn cỏ non trên thảo nguyên, mùi vị càng giòn.
Loại lưỡi hươu này vốn là cống phẩm của triều đình, dân gian rất ít người biết đến. Sau khi triều Tùy diệt vong mới xuất hiện ở dân gian. Bình thường quán rượu bình thường cũng sẽ không bày ra, giấu ở trong hầm băng, làm món ăn quý của quán.
Tiểu nhị thấy bọn họ gọi cua Kim Long Phượng mà không chút do dự, biết bọn họ là kẻ có tiền. Nhưng lưỡi hươu lại không phải là món ăn bình thường, y có chút do dự, chạy đi tìm chưởng quầy.
Chưởng quầy rất nhanh tiến đến, tủm tỉm cười thi lễ:
- Khách quan, ta muốn nói rõ một chút. Quả thật là tiểu điểm có hai cái lưỡi hươu hoang dã, nhưng thật sự là rất đắt. Một cái ba trăm xâu tiền, hai cái là sáu trăm xâu tiền. Ta xin nhắc lại, hai cái là sáu trăm xâu tiền.
Dương Phương Hinh cuống quít xua tay:
- Không cần! Không cần! Ta không cần lưỡi hươu.
Dương Nguyên Khánh lại thản nhiên cười nói:
- Mười ngàn xâu tiền thì như thế nào? Chẳng phải ta đã gọi rồi sao, còn không mau đi chuẩn bị đồ ăn.
Chưởng quầy nhất thời líu lưỡi. Vì đại gia này không giống người thường! Thậm chí mười ngàn xâu tiền cũng không thèm để ý. Y vỗ vào bả vai tiểu nhị:
- Nếu khách quan đã gọi lưỡi hươu, còn không mau đi làm!
Dương Phương Hinh thấy Dương Nguyên Khánh đối với mình cực kỳ rộng rãi, trong lòng cảm thấy vui mừng, lại thấy ngọt ngào. Dù sao nàng cũng là Công chúa, đối với nàng mà nói, hai cái lưỡi hươu không là gì cả, cũng không phải là rất khó xử.
Dương Băng lại bắt được cơ hội, nàng tỏ vẻ tội nghiệp năn nỉ:
- Phụ thân, có thể cho con một chút tiền lẻ được không. Một tháng con mới được hai xâu tiền, muốn mua chút đồ vật cũng không đủ tiền.
Dương Nguyên Khánh lấy ra hai mươi mấy miếng ngân tiền, vừa cười vừa đưa cho hai nữ nhân:
- Đây là ngân tiền mới phát hành, có thể đổi được mười xâu tiền, hai người cầm đi!
Dương Băng và Dương Phương Hinh đều chưa từng thấy qua ngân tiền, cùng nhau cầm lên, tò mò đánh giá ngân tiền. Lúc này, chưởng quầy tự mình bưng đĩa rau củ quý lên, liếc mắt một cái, nhìn thấy đống ngân tiền trên bàn, ánh mắt sáng lên, vội vàng hỏi:
- Cô nương, chỗ ngân tiền này đổi cho ta đi! Một xâu tiền đổi một miếng.
Có tất cả hai mươi hai miếng ngân tiền, Dương Băng lấy hai miếng, nàng và Dương Phương Hinh mỗi người một miếng, còn lại hai mươi miếng ngân tiền đều đưa cho chưởng quầy, nghiêm trang nói:
- Phụ thân ta nói, có thể đổi được mười xâu tiền. Ta đây cũng không nói nhiều, nếu ngươi muốn đổi, đổi cho ngươi giá mười xâu tiền.
Chưởng quầy ngây ngốc một chút. Y biết tiêu chuẩn là một ngân tiền đổi được ba mươi tiền đồng. Cái giá cô nương này đưa ra có đắt hơn tiêu chuẩn một chút, nhưng cũng không tính là thiệt thòi, thật sự khó có cơ hội này. Y giơ ngón cái lên:
- Cô nương thật sự là người am hiểu!
Y chạy về quầy, lấy ra mười xâu tiền đổi lấy hai mươi miếng ngân tiền. Ông chủ vẫn muốn có ngân tiền mà không được, lần này mình có thể khiến ông chủ vui vẻ rồi. Y nói lời cảm kích rồi lui xuống.
Dương Băng lại vô cùng vui mừng, vậy là hai người có hơn mười xâu tiền, có thể mua được rất nhiều thứ. Dương Phương Hinh lại cảm thấy rất có hứng thú với miếng tiền bạc kia, đặt vào lòng bàn tay nhìn thật kỹ, thật cẩn thận cất vào trong cái túi nhỏ của mình.
Dương Nguyên Khánh nhặt một quả cam lên, vừa bóc vỏ, vười cười với hai người:
- Ăn quả cam trước đi. Đợi lát nữa dùng cơm xong, ta sẽ trở về. Thân binh sẽ để lại bảo vệ hai người. Hai người cũng về sớm một chút, biết không?
- Con biết rồi! Mong phụ thân đừng nói với đại nương và nương.
Dương Băng xoa tay năn nỉ.
Dương Nguyên Khánh cười ha hả:
- Ta sẽ nói là ta dẫn hai ngLúc này, đồ ăn bắt đầu được bưng lên. Hai đôi cua Kim Long Phượng này thực gia chính là cua đồng loại lớn của hồ Dương Lâm, nửa cân một con, phẩm chất vô cùng tốt, dùng vải bố lau sạch xác cua, sau đó cắt hình long phượng dán lên xác cua, lại dùng dây tơ vàng trói tám cái chân lại, cho nên mới gọi là cua Kim Long Phượng. Bình thường, loại này chỉ dùng làm cống phẩm, nhưng ở loại thành thị lớn như Thái Nguyên thì cũng có, chỉ có điều là giá cả cực đắt.
Cua Kim Long Phượng được bưng lên khiến cho các thực khách xôn xao bình luận. Mà sau khi lưỡi hươu nóng được bưng lên, lập tức làm chấn động cả quán rượu. Vì lễ phép nên không thể tiến đến tận nơi nhìn cho rõ, nhưng khắp nơi đều vang lên tiếng bàn luận. Có người bắt đầu tính toán, bữa cơm này của bọn họ phải hơn ngàn xâu tiền, chắc địa vị cũng không bình thường.
Chủ nhân của quán rượu cũng đã bị kinh động, y từ trên lầu đi xuống, đứng ở bậc cầu thang, liếc mắt nhìn Dương Nguyên Khánh một cái lập tức ngây ngẩn cả người. Dương Nguyên Khánh mang râu giả không tiện ăn cua nên đã tạm thời tháo xuống, ông chủ liếc mắt một cái liền nhận ra, người này… không phải là Sở Vương Dương Nguyên Khánh sao?
Trên đỉnh đầu ông chủ, treo bảng hiệu của quán rượu, bảng hiệu đề bốn chữ lớn “Bát phương tửu quán”.
Cửa Minh Đức thành Trường An, một gã kỵ sĩ áo đen đang lao tới như bay, mắt nhìn thấy cửa thành cũng không có chút ý định giảm tốc độ nào, thậm chí gã kỵ sĩ này còn giục chiến mã tăng tốc. Loại tình huống này chỉ xảy ra khi có khoái báo khẩn cấp ngoài tám trăm dặm. Những người chuyên môn làm nhiệm vụ truyền tin thế này có quần áo rất bắt mắt, còn có thể hô to, “Quân tình khẩn cấp ngoài tám trăm dặm!”
Mà gã kỵ sĩ trước mặt này lại rõ ràng không phải là người như vậy. Binh lính thủ thành giận dữ, gã Giáo úy cầm đầu dẫn theo chục binh lính cầm mâu xông tới:
- Dừng lại!
Gã Giáo úy lớn tiếng rống lên giận dữ.
Kỵ sĩ thoáng giảm tốc độ, cho tay vào ngực lấy ra một tấm lệnh bài, giơ nhoáng lên một cái, hừ lạnh một tiếng:
- Dọa mắt chó của ngươi!
Giáo úy sợ tới mức giật nảy mình, cuống quýt tay chân, sau đó hướng đến chỗ cửa thành hô:
- Tránh ra, để hắn qua!
Bọn lính đều tránh ra, kỵ sĩ lại giục chiến mã tăng tốc, như gió bay chớp giật vọt vào bên trong thành, rất nhanh đã biến mất không thấy bóng dáng. Lúc này, một tên binh lính mới thấp giọng hỏi Giáo úy:
- Đội trưởng, đây là Hoàng thân nào mà kiêu ngạo như vậy?
- Hừ! Hoàng thân thì ta đã không sợ!
Giáo úy cười lạnh một tiếng, nghĩ lại ký hiệu trên tấm lệnh bài bằng đồng kia, y lại không có lo lắng mà chỉ cảm thấy sợ hãi nói:
- Là Đường Phong!
- Đường Phong?
Binh lính bên cạnh sợ tới mức líu hết cả lưỡi. Đây là Tình báo đường vô cùng tàn nhẫn của triều Đường, quyền lực khôn cùng. Chỉ cần một câu nói ngươi là gián điệp triều Tùy là lập tức bắt lại, sau đó chết thế nào cũng không biết, tuyệt đối không được trêu vào!
Kỵ sĩ Đường Phong vọt qua cửa Minh Đức, giục ngựa chạy như bay trên đường Chu Tước, nhằm thẳng hướng phủ Tần Vương mà lao đến…
Ở phủ Tần Vương, Lý Thế Dân đang cùng Chủ mưu sĩ Phòng Huyền Linh và Trưởng sử Trưởng Tôn Thuận Đức thảo luận việc mở rộng Đường Phong. Mấy tháng nay, triều Đường mộ binh ở khắp nơi, chiêu mộ được hơn một trăm ngàn người khiến cho binh lực của triều Đường khôi phục lại con số ba trăm ngàn. Vừa rồi Lý Thân Dân cũng chiêu mộ được tám mươi ngàn người, giao cho đám người Đoạn Hoằng Chí, Ân Khai Sơn, Lưu Hoằng Cơ huấn luyện, đã huấn luyện được hai ba tháng.
Tuy rằng binh lực gia tăng nhưng hai tháng nay, tâm tình của Lý Thế Dân cũng không tốt, nguyên nhân là vì Phụ hoàng nhất định không ch尠thuận đề nghị tấn công Tiêu Tiển của y. Bởi vì Lý Mật phái Đơn Hùng Tín dẫn một trăm ngàn đại quân tiến về phía tây đánh Tiêu Tiển, mà Tiêu Tiển lại liên hợp với Đỗ Phục Uy chống lại quân Ngụy ở quận Cửu Giang.
Lúc này, sau lưng Tiêu Tiển hoàn toàn bỏ trống, hoàn toàn có thể nhân cơ hội này cướp lấy quận Dự Chương và quận Bà Dương. Lý Thế Dân cực lực khuyên bảo Phụ hoàng xuất binh, nhưng Thái tử Lý Kiến Thành lại nói năm nay là năm thiên tai, phải suy nghĩ đến gánh nặng của dân chúng. Tiêu Tiển chỉ là con ba ba trong hũ, sớm muộn gì cũng là vật trong túi, khuyên bảo Phụ hoàng không cần xuất binh, đề phòng quân Tùy xuôi nam.
Cuối cùng quân Lý Mật chưa quen thủy chiến, bị liên quân Tiêu - Đỗ đánh bại, chết mấy chục ngàn người phải lui về Giang Đô, còn Tiêu Tiển lui quân về đóng ở quận Bà Dương và quận Dự Chương, khiến cho cơ hội này cứ thế mất đi. Mà lúc này bọn họ mới nhận được tình báo, hóa ra Dương Nguyên Khánh tấn công Thanh Châu là giả, hắn tự mình dẫn quân đi đánh Triều Tiên, đoạt lấy lương thực và vật tư.
Tin tức này khiến cho Lý Thế Dân cực kỳ phẫn hận nhưng lại không thể làm gì. Phẫn hận cũng vô dụng. Nhưng không ngờ, Thái tử Kiến Thành lại nhân cơ hội này cáo buộc tội trạng của Đường Phong, nói bọn họ không kịp thời do thám, nắm bắt tin tức tình báo Dương Nguyên Khánh thân chinh Triều Tiên, làm chậm trễ quân cơ đại sự, khiến Lý Thế Dân bị Phụ hoàng hung hăng trắch mắng một trận.
Phòng Huyền Linh vuốt râu nói:
- Kỳ thật ta nghĩ Đường Phong ở Thái Nguyên đúng là có chút bất lực. Chủ yếu là không thu mua được quan viên trung tâm, một số tình báo trọng yếu không lấy được. Ta cảm thấy cũng không nhất định phải mở rộng Đường Phong, mà nên phái một người đắc lực hơn đến chủ trì Thái Nguyên. Năng lực của Lý Thủ Trọng vẫn hơi kém một chút.
Trưởng Tôn Vô Kỵ là chủ quản Đường Phong, y là người quen thuộc với tình huống của Đường Phong nhất. Y cũng gật đầu nói:
- Tiên sinh nói rất có đạo lý. Đúng là năng lực của Lý Thủ Trọng hơi yếu một chút, không thể thu mua đến quan viên trung tâm. Lần này có cơ hội Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, không ngờ y lại cứ thể bỏ qua. Ta cũng rất tức giận. Ta đồng ý thay người khác.
Lý Thế Dân trầm tư, thật lâu sau mới nói:
- Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, ít nhất cũng phải mất mấy tháng, hẳn là còn cơ hội. Lý Trọng Thủ ở Thái Nguyên đã lâu, tương đối quen thuộc tình huống. Nếu bây giờ đổi người, đợi sau khi người mới quen với tình huống, chỉ sợ lúc đó đến cơ hội cũng không có. Chúng ta có thể đốc thúc Lý Thủ Trọng không tiếc tiền vốn, lôi kéo quan viên có thực lực của triều Tùy, nắm giữ tin tức nội bộ của triều Tùy. Ta cảm thấy nên cho y một cơ hội.
- Điện hạ nói cũng đúng. Cho y thêm một cơ hội cũng không sao, chỉ có điều hy vọng Lý Thủ Trọng này không phụ sự kỳ vọng của Điện hạ.
Đang thương lượng, ngoài cửa bỗng xuất hiện một gã thị vệ:
- Khởi bẩm Tần Vương Điện hạ, Thái Nguyên Đường Phong có tình báo khẩn cấp!
Vừa nhắc đến Đường Phong, Đường Phong liền tới. Lý Thế Dân gật đầu:
- Cho y vào!
Thị vệ dẫn theo kỵ sĩ áo đen bước nhanh vào trong sảnh. Kỵ sĩ áo đen quỳ một gối, ôm quyền hướng Lý Thế Dân thi lễ:
- Ty chức Cảnh Tung, phụng lệnh Lý Đường chủ truyền tin đến Điện hạ.
Thị vệ bê một cái khay hồng, đem một phong thư và một túi tiền màu đỏ trình lên. Lý Thế Dân liếc qua túi tiền đỏ, nhặt phong thư lên trước. Y rút lá thư bên trong ra, run rẩy mở ra đọc vội một lần.
Trong thư nói triều Tùy phát hành một loại ngân tiền mới, hiện giờ loại tiền này trên thị trường rất nóng, mỗi người sau khi đoạt được đều đem cất giữ, căn bản là không lưu thông loại tiền này trên thị trường. Lý Thủ Trọng suy đoán, đây chỉ là lần thử nghiệm của triều Tùy, chắc chắn sau này sẽ triển khai phát hành quy mô lớn.
Ở cuối thư lại bổ sung một tin tình báo, không lâu trước đó, một đội tàu hơn trăm chiếc kéo đến Thái Nguyên, trên đội tàu chở rất nhiều nén bạc lớn, một khối bạc nén có trọng lượng hơn ba mươi cân.
Tin tình báo này khiến Lý Thế Dân hít vào một ngụm khí lạnh. Triều Tùy lại triển khai phát hành ngân tiền trên quy mô lớn. Y đưa lá thư trong tay cho Phòng Huyền Linh:
- Tiên sinh xem đi! Chỉ sợ không ổn rồi!
Phòng Huyền Linh nhận lấy lá thư, vội vàng đọc qua một lần, chân mày cau lại. Lúc này, ánh mắt Lý Thế Dân dừng lại ở túi tiền đỏ trên cái khay. Y nhặt túi tiền lên, giũ từ trong túi ra một chồng ngân tiền, có khoảng hai chục miếng, kích thước giống với tiền mới của triều Tùy nhưng dày hơn. Đây là loại ngân tiền mới của triều Tùy đang rất được quan tâm trên thị trường sao?
Lý Thế Dân nhặt một miếng ngân tiền lên, cẩn thận dùng ngón trỏ và ngón cái nắm ở bên cạnh miếng tiền, sau đó giơ lên cao, hướng về phía ánh sáng, híp mắt đánh giá miếng ngân tiền này. Gia công kỹ càng tỷ mỉ, bề mặt nhẵn nhụi, ở giữa có lỗ để xỏ dây, mặt trên khắc nổi bốn chữ “Nguyên hòa thông bảo”. Mặt trái là một chữ “ngân”, giống với tiền đồng của triều Tùy. Nhóm tiền đồng thứ hai của triều Tùy khi được đưa ra thị trường, thống nhất đổi thành “Nguyên hòa thông bảo” rồi, không còn gọi là ngũ thù tiền.
Phòng Huyền Linh xem xong thư, lại đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ xem, sau đó nghiêm nghị nói với Lý Thế Dân:
- Điện hạ, chuyện này không phải nhỏ. Nếu triều Tùy có được lượng lớn vàng bạc, lại bắt đầu dùng bạc làm tiền, cái này chắc chắn sẽ đoạt lấy của cải trong thiên hạ. Nếu không thay đổi được chuyện này, chỉ sợ hai ba năm nữa, chắc chắn là Tùy mạnh Đường yếu. Đại Đường nguy rồi!
Lúc này Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng đã đọc xong thư, nhướng mày nói:
- Chúng ta có thể nghiêm cấm sử dụng loại ngân tiền này ở Đại Đường, cũng có thể đoạn tuyệt mậu dịch với triều Tùy, có lẽ có thể tránh được loại nguy cơ này.
- Vô dụng thôi!
Phòng Huyền Linh lắc đầu. Y đem một miếng ngân tiền đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ:
- Loại ngân tiền này vừa nhìn liền biết là vật thượng hạng, chứa chín phần bạc trở lên. Cho dù chúng ta cấm lưu thông ngân tiền, nhưng thương nhân hoàn toàn có thể nung chảy lấy bạc, thậm chí triều Tùy cơ bản cũng không cần sử dụng ngân tiền, trực tiếp sử dụng bạc khối. Nhiều nhất chúng ta cũng chỉ có thể cấm đưa vật tư Quan Trung ra ngoài, hoàn toàn không thể kiềm chế vật tư ở Ba Thục, Kinh Tưởng chảy ra ngoài. Còn có trà gạo, gấm vóc Giang Nam. Nhất định sẽ có một lượng lớn chảy về phía triều Tùy. Trưởng Tôn Trưởng sử, hẳn là ngươi hiểu được điểm này. Loại ngân tiền này sẽ làm cho giá cả hàng hóa của Đại Đường tăng vọt, ca thán khắp nơi. Giống như giá hàng hóa tăng vọt vào đầu năm đó.
Kỳ thật không cần Phòng Huyền Linh phân tích, Lý Thế Dân cũng hiểu được loại ngân tiền này mang đến cho Đại Đường một nguy cơ thế nào. Trong lòng y vô cùng lo lắng, không kìm được cất giọng đầy căm hận:
- Đây là hậu quả của việc Hội Ninh bị thất thủ. Hiện tại có thể thấy, nếu như không ngăn chuyện này lại, Đại Đường sẽ bị hủy trên cái đồng bạc nho nhỏ này.
Phòng Huyền Linh lại chậm rãi nói:
- Điện hạ, vi thần có ba kế sách, có lẽ có thể tránh được mối nguy cơ này.
Lý Thế Dân mừng rỡ, vội vàng nói:
- Tiên sinh mời nói!
- Điện hạ, đầu tiên là phải tính “phá”. Phá hủy ngân tiền của triều Tùy. Chúng ta không ngại sử dụng đồng trắng chế thành ngân tiền của triều Tùy. Vàng thau lẫn lộn, khiến người Tùy không dám tin vào ngân tiền, không dám sử dụng ngân tiền.
Đây là độc kế thứ nhất, nhưng không thể công khai, lại không thể kéo dài, chỉ có thể duy trì hiệu quả nhất thời. Lý Thế Dân trầm ngâm một chút, lại hỏi:
- Kế thứ hai là gì?
- Kế thứ hai chính là “tăng”. Kỳ thật cũng chính là chúng ta lấy bạc trắng làm tiền, đối kháng với ngân tiền của triều Tùy. Đương nhiên, để làm được việc này cần có một lượng lớn bạc trắng, điều này cũng chính là chỗ khó xử của chúng ta.
Lý Thế Dân cười khổ một tiếng. Nếu như có được mỏ bạc thì cũng đã sớm ra tay rồi. Sau khi mỏ bạc ở Hội Ninh bị đoạt mất, bọn họ cũng luôn tìm kiếm mỏ bạc khác, nhưng cũng chỉ tìm được vài cái quặng nhỏ, ngoài ra cũng không có thu hoạch gì. Y thở dài nói:
- Tiên sinh nói kế thứ ba đi!
Ánh mắt Phòng Huyền Linh trở nên lạnh lùng, thản nhiên nói:
- Kế thứ ba chính là “tuyệt”. Nếu kế thứ nhất và kế thứ hai đều không thể thực hiện được, vậy thì chỉ còn cách cuối cùng. Chắc Điện hạ cũng hiểu được ý của ta.
Lý Thế Dân chậm rãi gật đầu:
- Ta hiểu. Bây giờ ta vào cung gặp phụ hoàng. Việc này vô cùng trọng đại, không thể chậm trễ dù là một khắc.
Trong điện Võ Đức cung Thái Cực, Hoàng đế Lý Uyên đang tiếp kiến sứ giả Đột Quyết. Lần này Đột Quyết phái ra hai nhóm sứ giả, một đi Thái Nguyên, một đến Trường An. Hiệt Lợi Khả Hãn là người vô cùng thủ đoạn, y muốn lợi dụng sự tranh đoạt giữa Tùy Đường để tranh thủ lợi ích lớn nhất cho Đột Quyết.
Sứ giả đến Trường An tên là Mặc Diên Trác, y cũng là Thứ Tướng quốc Đột Quyết, phụng lệnh Hiệt Lợi Khả Hãn tới Trường An, hy vọng có thể hoàn thành ba việc, một là kết minh, hai là mậu dịch, ba là kết thân.
Trong Thiên điện của Điện Võ Đức, Lý Uyên ngồi trên long tháp (cái sập), vẻ mặt tươi cười. Sứ giả Đột Quyết thì ngồi ở dưới, vẻ mặt cung kính. Thái tử Lý Kiến Thành và năm Tướng quốc đều ngồi ở phía đối diện.
Kết minh với triều Đường là một sự nhượng bộ của Đột Quyết. Lúc đầu, mối quan hệ của triều Đường và Đột Quyết là triều Đường thần phục Đột Quyết. Mà ý nghĩa của việc kết minh chính là hủy bỏ loại quan hệ thần phục này, địa vị trở thành bình đẳng.
Hiệt Lợi Khả Hãn là một người cực kỳ thiết thực. Y không cần cái loại thần phục không có chút ý nghĩa này, cái y muốn chính là lợi ích thiết thực, triều Đường phải bán sắt thô cho Đột Quyết.
Còn việc kết thân lại là dệt hoa trên gấm, là việc sau khi đạt thành hiệp định kết minh và mậu dịch, là cử động để tăng thêm sự hòa hợp trong quan hệ giữa hai bên. Có điều, Hiệt Lợi Khả Hãn đã cưới ông chúa Hiệt Dát Tư là Khả Đôn, cho nên y chỉ có thể lấy con gái của tôn thất triều Đường là Trắc Phi mà không thể cưới Công chúa.
Nhưng đối với Đại Đường mà nói, kết minh là việc rất quan trọng, là điều kiện để Đại Đường thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của việc thần phục Đột Quyết lúc đầu. Chuyện này đã sớm truyền khắp thiên hạ, vẫn còn bị rất nhiều người lên án. Lần kết minh này rất quan trọng đối với sự nóng lòng gìn giữ hình tượng chính thống của Đại Đường của Lý Uyên.
- Với việc Đại Đường và Đột Quyết kết thành liên minh, trẫm rất cao hứng, cũng đồng ý đem nhi nữ tôn thất gả cho Khả Hãn Đột Quyết làm phi. Về phần mậu dịch, ta cần phải thảo luận lại với các đại thần, sẽ sớm có câu trả lời cho quý sứ.
Tuy rằng Mặc Diên Trác tỏ vẻ rất cung kính, có thể nói Hán ngữ khá lưu loát, nhưng ngữ khí của y lại hết sức kiên quyết:
- Đại Đường Hoàng đế Bệ hạ tôn kính, ta đại biểu Khả Hãn vạn phần cảm kích thành ý của Hoàng đế Bệ hạ. Nhưng ta cũng xin nhắc lại một cách thân mật với Bệ hạ, mậu dịch là điều kiện tiên quyết của việc kết minh và kết thân. Hi vọng Bệ hạ có thể càng thêm coi trọng việc mậu dịch để quan hệ giữa song phương cùng có lợi…
Không có khả năng Lý Uyên lập tức đáp ứng sứ giả Đột Quyết nên sứ giả tạm thời lui ra. Trong điện chỉ còn lại Thái tử Lý Kiến Thành và năm Tướng quốc, bọn họ cần phải thảo luận vấn đề điều kiện mậu dịch với Đột Quyết.
Lý Uyên cũng biết điều kiện của Đột Quyết rất hà khắc. Thứ bọn họ muốn là sắt thô, lương thực và vật tư chiến lược, một khi những thứ này được chuyển đến Đột Quyết, tất nhiên sẽ làm cho thực lực Đột Quyết nhanh chóng trở nên hùng mạnh.
- Trẫm cần phải nói trước một câu, kết minh với Đột Quyết là việc hết sức quan trọng đối với trẫm. Điều này sẽ làm xoay chuyển cục diện bất lợi của Đại Đường với Đột Quyết. Quan trọng hơn là Đột Quyết có thể phối hợp với Đại Đường cùng đối phó với triều Tùy. Cho nên trẫm cần các khanh thảo luận vấn đề mậu dịch, làm thế nào để có được lợi ích lớn nhất mà khiếm khuyết nhỏ nhất.
- Phụ hoàng, xin cho nhi thần được nói trước.
Lý Kiến Thành đứng ra, khom người thi lễ:
- Phụ hoàng, Đột Quyết là loài lang sói, từ xưa đã là đại địch của Trung Nguyên. Nhi thần chỉ có điều lo lắng, một khi Đột Quyết trở nên hùng mạnh, lúc đó chỉ sợ dục vọng không chỉ là một triều Tùy. Một khi thiết kỵ của người Hồ quét qua Trung Nguyên, sẽ làm cho Trung Nguyên rơi vào một hồi đại nạn, một lần nữa mở ra thời đại Ngũ Hồ loạn Hoa . Nếu việc đó xảy ra, vậy thì không phải là việc mà triều Đường chúng ta có khả năng xoay chuyển. Chúng ta sẽ trở thành tội nhân thiên cổ. Nhi thần không tán thành việc mở cửa mậu dịch với Đột Quyết.
. Ngũ Hồ loạn Hoa hay còn gọi là Ngũ Hồ Thập lục quốc là một tập hợp các quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận TQ từ năm 304 đến năm 439 kéo theo sự rút lui của nhà Tấn (265-420) về miền Nam TQ cho đến khi Bắc triều thống nhất toàn bộ phương bắc, mở ra cục diện mới là Nam – Bắc triều.
Ngũ Hồ thập lục quốc – Wikipedia tiếng Việt
Sắc mặt Lý Uyên trầm xuống, cực kỳ không hài lòng nói:
- Vậy khanh tán thành việc triều Đường bị triều Tùy tiêu diệt? Khanh tán thành việc Đại Đường vĩnh viễn phải thần phục Đột Quyết?
Lý Kiến Thành cảm nhận được sự tức giận trong giọng nói của phụ hoàng liền trầm mặc. Lúc này, Bùi Tịch đứng lên nói:
- Bệ hạ, có thể cho hạ thần khuyên một lời không.
- Bùi ái khanh, mời nói!
Bùi Tịch dùng ánh mắt khinh rẻ liếc nhìn Lý Kiến Thành một cái, không chút hoang mang nói:
- Kỳ thật ý kiến của Thái tử Điện hạ là không hợp lý, không hợp thời. Đột Quyết xâm chiếm Trung Nguyên là việc xảy ra không chỉ một hai lần. Bọn họ cũng không giống với thời đại Ngũ Hồ loạn Hoa, chiếm cứ Trung Nguyên. Mỗi lần bọn họ xâm chiếm Trung Nguyên đều là đoạt lấy một ít vật tư và nhân khẩu liền lui về thảo nguyên, sẽ không xâm chiếm thổ địa Trung Nguyên. Mà địch nhân của Đột Quyết là triều Tùy, năm đó trong cuộc chiến Phong Châu, triều Tùy đã khiến cho Đột Quyết tử thương nghiêm trọng. Tùy – Đột đã kết thành thù oán khó có thể hòa giải. Nếu Đột Quyết tấn công triều Tùy, người được lợi chính là chúng ta. Nếu như bọn họ đánh đến lưỡng bại câu thương, người được lợi chính là chúng ta. Triều Tùy suy nhược, Đột Quyết đoạn trảo (mất tay), chúng ta có thể thừa cơ thâu tóm triều Tùy, sau lại thu thập Đột Quyết, Đại Đường có thể xây dựng sự nghiệp hãn thế. Cho nên, cái gọi là mậu dịch, bất quá cũng chỉ là một loại thủ đoạn, mục đích chính là khiến cho Tùy – Đột tranh chấp.
Nói đến đây, Bùi Tịch lại quay đầu hướng Lý Kiến Thành cười nói:
- Thái tử Điện hạ nghĩ đại địch của triều Đường là triều Tùy hay là Đột Quyết?
Lý Kiến Thành hừ mạnh một tiếng:
- Tranh chấp với triều Tùy nói cho cùng cũng chỉ là một cuộc nội chiến. Giúp đỡ Đột Quyết là sỉ nhục dân tộc. Bên nào nặng bên nào nhẹ, Bùi Tướng quốc không hiểu sao?
Lý Kiến Thành cứ liên tục phản đối khiến cho lòng Lý Uyên càng thêm tức giận. Đề nghị của Bùi Tịch đã nói đúng nỗi lòng y rồi, nhưng Lý Kiến Thành lại dùng đại nghĩa để bác bỏ, lại như đạp vào lưng y.
Lý Uyên vừa muốn phát tác tức giận thì Tiêu Vũ dứng dậy cười hòa giải:
- Bệ hạ, thần có một phương án tương đối tốt, có thể vẹn toàn đôi bên.ười đi. Về phần đại nương ngươi có tin hay không thì không liên quan đến ta đâu đấy.
Chương 907 : Nguy cơ ngân tiền (1+2)
Dương Nguyên Khánh nghe giọng y mười phần con buôn, liền gật đầu cười nói:
- Đa tạ Vương huynh, nếu rảnh ta sẽ đến.
Vương Sùng Nghĩa đứng dậy đi rồi, Dương Nguyên Khánh mới rời đi. Lúc này, lại nghe thấy từ ngoài quán rượu truyền đến giọng nói của một cô gái:
- A cô, cơm nước xong chúng ta đi dạo chợ Bắc tiếp đi!
Vài tên thân binh lập tức trốn ra phía sau cửa, sau đó, có hai thiếu nữa từ bên ngoài đi vào. Một người mười bốn mười lăm tuổi, dáng người cao gầy, mỹ mạo diễm lệ, là một thiếu nữ mới trưởng thành.
Mà người kia, mặc dù dáng người cao, khuôn mặt thanh tú nhưng cũng rất gầy. Rõ ràng là một tiểu nha đầu còn nhỏ, cũng chỉ khoảng mười tuổi. Hai người này chính là Công chúa Đan Dương Dương Phương Hinh và trưởng nữ Dương Băng của Dương Nguyên Khánh.
Hôm nay là ngày rằm, dựa theo phong tục, cần phải vào chùa lễ tạ thần phật. Bùi Mẫn Thu và Giang Bội Hoa liền đến Quan Âm đường ở tít phía tây ngoại ô, hướng Bồ Tát lễ tạ. Nhân cơ hội này, hai người mới chạy đến đây.
Đi dạo phố là việc mà các thiếu nữ đều rất thích, từ trước đến nay đều như vậy. Hai người tích lũy tiền bạc, nhân cơ hội này liền đến chợ Bắc mua một vài đồ vật lặt vặt.
Bây giờ là giữa trưa, hai người muốn ăn một chút gì đó nên tiến vào quán rượu. Vừa vào cửa liền nhìn thấy Dương Nguyên Khánh ở trước mặt, Dương Băng liếc nhìn Dương Nguyên Khánh một cái, kéo kéo Dương Phương Hinh nói nhỏ:
- A cô, vóc dáng người này có chút giống cha ta.
Nhóm thân binh của Dương Nguyên Khánh sớm nhìn thấy các nàng nên đã trốn đi, cho nên hai người có nằm mơ cũng không nghĩ ra người đàn ông trung niên trước mặt nhìn có chút quen mắt này lại chính là Dương Nguyên Khánh.
Dương Phương Hinh liếc nhìn Dương Nguyên Khánh, nàng cũng nhận ra là có điểm giống, nhưng mà làm sao có thể là hắn được, liền bĩu môi:
- Đừng nói càn. Làm sao cha ngươi có thể ăn mặc tục tằn như con buôn thế được?
Thính lực của Dương Nguyên Khánh khác hẳn người thường, tuy hai nàng cúi đầu nói nhỏ nhưng hắn đều nghe rõ. Lời của Dương Phương Hinh làm hắn cười khổ một tiếng, sau đó cười nói:
- Xem ra, ta phải mở miệng nói chuyện thì các ngươi mới nhận ra.
- Phụ thân!
Dương Băng nghe thấy giọng nói này, nàng vui mừng, bất ngờ hô lên một tiếng, nhảy tới ôm lấy cánh tay Dương Nguyên Khánh. Bỗng nhiên, nàng lại có chút làm nũng, liền dùng sức lôi kéo cánh tay phụ thân, nũng nịu hỏi han:
- Phụ thân, sao cha lại ở chỗ này?
- Đương nhiên là tới để bắt tiểu quỷ đầu này rồi!
Dương Nguyên Khánh gõ vào đầu của nữ tử đáng yêu này một cái, cười nói:
- Lại gạt nương con vụng trộm trốn đến đây có phải không?
- Không có vụng trộm trốn đi, con đi từ cửa chính ra.
Dương Băng tưởng thật sự là phụ thân đến bắt nàng trở về, trong lòng cảm thấy sợ hãi. Dương Phương Hinh thì biết Dương Nguyên Khánh đến đây không có liên quan gì đến hai người mình, nhưng trong nội tâm cũng rất khẩn trương, cắn môi không biết nên nói cái gì.
Dương Nguyên Khánh như cười như không nhìn nàng, chỉ vào quần áo của mình, hỏi nàng:
- Cách ăn mặc này thật sự rất giống con buôn sao?
Mặt Dương Phương Hinh bỗng đỏ lên, hóa ra hắn nghe được lời mình nói, nàng tiến lên trước, lãnh đạm nói:
- Cho dù là cải trang vi hành thì cũng nên chú ý đến hình thức một chút. Cách ăn mặc này của ngươi so với đám thương nhân hoặc nhà giàu mới nổi thì các khác gì nhau?
‘Hóa ra phụ thân không phải tới bắt ta.’ Dương Băng nghe thấy bốn chữ “cải trang vi hành”, trong lòng lập tức thoải mái.
Nàng đảo mắt, có phụ thân ở đây, tại sao phải tiêu tiền của mình. Tiền của mình vốn rất ít, vốn không đủ để ăn cơm, mua đồ. Nàng liền làm nũng nói:
- Phụ thân, con đói bụng.
- Đi thôi! Lên lầu hai đi.
Dương Nguyên Khánh nắm tay nữ nhi, nháy mắt với Dương Phương Hinh, sau đó đi lên lầu hai. Trong lòng Dương Phương Hinh đập loạn, không ngờ Dương Nguyên Khánh lại nháy mắt với mình, nàng muốn kiêu ngạo một chút, nhưng hai chân lại không tự chủ được mà đi theo.
Ba người ngồi xuống một cái bàn ở gần cửa sổ. Dương Nguyên Khánh ngồi một bên, Dương Băng và Dương Phương Hinh ngồi ở đối diện. Tiểu nhị tiến đến, khom người cười hỏi:
- Ba vị muốn ăn chút gì không?
Dương Nguyên Khánh cười nói với hai nữ nhân:
- Muốn ăn gì thì tự mình gọi đi.
- Ta muốn ăn cá, ta thích nhất là cá chép lớn sông Phần xốt đỏ, còn có cua xốt đường. Giờ là tháng mười, hẳn là có cua rồi.
Tiểu nhi đứng bên cạnh giơ ngón cái lên khen:
- Cô nương quả nhiên là người sành ăn, con cá chép lớn sông Phần này mới được câu lên sáng nay, còn rất tươi. Ngoài ra, hôm qua tiểu điếm mới nhập về một giỏ cua cống phẩm Ngô Trung, trong đó có hai đôi cua Kim Long Phượng, là thứ mà Tiên đế năm xưa thích ăn nhất. Có điều giá cả rất đắt, cô nương cần phải nghĩ cho kỹ.
Dương Nguyên Khánh rất hiều con gái, hắn biết thê tử trong nhà đề xướng tiết kiệm, loại cua tiến vua này chắc chắn là không được ăn, nhân tiện nói:
- Hai đôi cua Kim Long Phượng đều dọn lên đây.
Hắn lại hỏi Dương Phương Hinh:
- Đan Dương muốn ăn chút gì không?
Dương Phương Hinh hé miệng cười nói:
- Ta ăn chút rau quả là được rồi.
Dương Băng cướp lời:
- A cô nói người thích ăn nhất là lưỡi hươu chiên, một lần có thể ăn nhiều nhất là ba cái.
Mặt Dương Phương Hinh đỏ bừng, lặng lẽ bóp cánh tay Dương Băng một cái, thấp giọng trách móc:
- Nha đầu chết tiệt kia, ngươi nói bậy bạ gì đó, ta bảo thích ăn lưỡi hươu bao giờ?
Dương Băng vỗ tay mỉm cười:
- A cô thẹn thùng, hiếm thấy nha!
Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười, nói với tiểu nhị:
- Làm một đĩa rau quý các loại. Ngoài ra, mang lên hai cái lưỡi hươu hoang dã chiên, một phần thịt hươu sấy kho tương, ba phần bánh hồ, một bình rượu nho loại tốt nhất, được chứ?
Cho tới bây giờ, ở Tùy Đường, lưỡi hươu là một món ăn cực kỳ quý báu. Lưỡi hươu này không phải là loại hươu nuôi trong nhà mà là hươu sừng đỏ ở thảo nguyên, đầu lưỡi vừa dài vừa mịn, thường xuyên ăn cỏ non trên thảo nguyên, mùi vị càng giòn.
Loại lưỡi hươu này vốn là cống phẩm của triều đình, dân gian rất ít người biết đến. Sau khi triều Tùy diệt vong mới xuất hiện ở dân gian. Bình thường quán rượu bình thường cũng sẽ không bày ra, giấu ở trong hầm băng, làm món ăn quý của quán.
Tiểu nhị thấy bọn họ gọi cua Kim Long Phượng mà không chút do dự, biết bọn họ là kẻ có tiền. Nhưng lưỡi hươu lại không phải là món ăn bình thường, y có chút do dự, chạy đi tìm chưởng quầy.
Chưởng quầy rất nhanh tiến đến, tủm tỉm cười thi lễ:
- Khách quan, ta muốn nói rõ một chút. Quả thật là tiểu điểm có hai cái lưỡi hươu hoang dã, nhưng thật sự là rất đắt. Một cái ba trăm xâu tiền, hai cái là sáu trăm xâu tiền. Ta xin nhắc lại, hai cái là sáu trăm xâu tiền.
Dương Phương Hinh cuống quít xua tay:
- Không cần! Không cần! Ta không cần lưỡi hươu.
Dương Nguyên Khánh lại thản nhiên cười nói:
- Mười ngàn xâu tiền thì như thế nào? Chẳng phải ta đã gọi rồi sao, còn không mau đi chuẩn bị đồ ăn.
Chưởng quầy nhất thời líu lưỡi. Vì đại gia này không giống người thường! Thậm chí mười ngàn xâu tiền cũng không thèm để ý. Y vỗ vào bả vai tiểu nhị:
- Nếu khách quan đã gọi lưỡi hươu, còn không mau đi làm!
Dương Phương Hinh thấy Dương Nguyên Khánh đối với mình cực kỳ rộng rãi, trong lòng cảm thấy vui mừng, lại thấy ngọt ngào. Dù sao nàng cũng là Công chúa, đối với nàng mà nói, hai cái lưỡi hươu không là gì cả, cũng không phải là rất khó xử.
Dương Băng lại bắt được cơ hội, nàng tỏ vẻ tội nghiệp năn nỉ:
- Phụ thân, có thể cho con một chút tiền lẻ được không. Một tháng con mới được hai xâu tiền, muốn mua chút đồ vật cũng không đủ tiền.
Dương Nguyên Khánh lấy ra hai mươi mấy miếng ngân tiền, vừa cười vừa đưa cho hai nữ nhân:
- Đây là ngân tiền mới phát hành, có thể đổi được mười xâu tiền, hai người cầm đi!
Dương Băng và Dương Phương Hinh đều chưa từng thấy qua ngân tiền, cùng nhau cầm lên, tò mò đánh giá ngân tiền. Lúc này, chưởng quầy tự mình bưng đĩa rau củ quý lên, liếc mắt một cái, nhìn thấy đống ngân tiền trên bàn, ánh mắt sáng lên, vội vàng hỏi:
- Cô nương, chỗ ngân tiền này đổi cho ta đi! Một xâu tiền đổi một miếng.
Có tất cả hai mươi hai miếng ngân tiền, Dương Băng lấy hai miếng, nàng và Dương Phương Hinh mỗi người một miếng, còn lại hai mươi miếng ngân tiền đều đưa cho chưởng quầy, nghiêm trang nói:
- Phụ thân ta nói, có thể đổi được mười xâu tiền. Ta đây cũng không nói nhiều, nếu ngươi muốn đổi, đổi cho ngươi giá mười xâu tiền.
Chưởng quầy ngây ngốc một chút. Y biết tiêu chuẩn là một ngân tiền đổi được ba mươi tiền đồng. Cái giá cô nương này đưa ra có đắt hơn tiêu chuẩn một chút, nhưng cũng không tính là thiệt thòi, thật sự khó có cơ hội này. Y giơ ngón cái lên:
- Cô nương thật sự là người am hiểu!
Y chạy về quầy, lấy ra mười xâu tiền đổi lấy hai mươi miếng ngân tiền. Ông chủ vẫn muốn có ngân tiền mà không được, lần này mình có thể khiến ông chủ vui vẻ rồi. Y nói lời cảm kích rồi lui xuống.
Dương Băng lại vô cùng vui mừng, vậy là hai người có hơn mười xâu tiền, có thể mua được rất nhiều thứ. Dương Phương Hinh lại cảm thấy rất có hứng thú với miếng tiền bạc kia, đặt vào lòng bàn tay nhìn thật kỹ, thật cẩn thận cất vào trong cái túi nhỏ của mình.
Dương Nguyên Khánh nhặt một quả cam lên, vừa bóc vỏ, vười cười với hai người:
- Ăn quả cam trước đi. Đợi lát nữa dùng cơm xong, ta sẽ trở về. Thân binh sẽ để lại bảo vệ hai người. Hai người cũng về sớm một chút, biết không?
- Con biết rồi! Mong phụ thân đừng nói với đại nương và nương.
Dương Băng xoa tay năn nỉ.
Dương Nguyên Khánh cười ha hả:
- Ta sẽ nói là ta dẫn hai ngLúc này, đồ ăn bắt đầu được bưng lên. Hai đôi cua Kim Long Phượng này thực gia chính là cua đồng loại lớn của hồ Dương Lâm, nửa cân một con, phẩm chất vô cùng tốt, dùng vải bố lau sạch xác cua, sau đó cắt hình long phượng dán lên xác cua, lại dùng dây tơ vàng trói tám cái chân lại, cho nên mới gọi là cua Kim Long Phượng. Bình thường, loại này chỉ dùng làm cống phẩm, nhưng ở loại thành thị lớn như Thái Nguyên thì cũng có, chỉ có điều là giá cả cực đắt.
Cua Kim Long Phượng được bưng lên khiến cho các thực khách xôn xao bình luận. Mà sau khi lưỡi hươu nóng được bưng lên, lập tức làm chấn động cả quán rượu. Vì lễ phép nên không thể tiến đến tận nơi nhìn cho rõ, nhưng khắp nơi đều vang lên tiếng bàn luận. Có người bắt đầu tính toán, bữa cơm này của bọn họ phải hơn ngàn xâu tiền, chắc địa vị cũng không bình thường.
Chủ nhân của quán rượu cũng đã bị kinh động, y từ trên lầu đi xuống, đứng ở bậc cầu thang, liếc mắt nhìn Dương Nguyên Khánh một cái lập tức ngây ngẩn cả người. Dương Nguyên Khánh mang râu giả không tiện ăn cua nên đã tạm thời tháo xuống, ông chủ liếc mắt một cái liền nhận ra, người này… không phải là Sở Vương Dương Nguyên Khánh sao?
Trên đỉnh đầu ông chủ, treo bảng hiệu của quán rượu, bảng hiệu đề bốn chữ lớn “Bát phương tửu quán”.
Cửa Minh Đức thành Trường An, một gã kỵ sĩ áo đen đang lao tới như bay, mắt nhìn thấy cửa thành cũng không có chút ý định giảm tốc độ nào, thậm chí gã kỵ sĩ này còn giục chiến mã tăng tốc. Loại tình huống này chỉ xảy ra khi có khoái báo khẩn cấp ngoài tám trăm dặm. Những người chuyên môn làm nhiệm vụ truyền tin thế này có quần áo rất bắt mắt, còn có thể hô to, “Quân tình khẩn cấp ngoài tám trăm dặm!”
Mà gã kỵ sĩ trước mặt này lại rõ ràng không phải là người như vậy. Binh lính thủ thành giận dữ, gã Giáo úy cầm đầu dẫn theo chục binh lính cầm mâu xông tới:
- Dừng lại!
Gã Giáo úy lớn tiếng rống lên giận dữ.
Kỵ sĩ thoáng giảm tốc độ, cho tay vào ngực lấy ra một tấm lệnh bài, giơ nhoáng lên một cái, hừ lạnh một tiếng:
- Dọa mắt chó của ngươi!
Giáo úy sợ tới mức giật nảy mình, cuống quýt tay chân, sau đó hướng đến chỗ cửa thành hô:
- Tránh ra, để hắn qua!
Bọn lính đều tránh ra, kỵ sĩ lại giục chiến mã tăng tốc, như gió bay chớp giật vọt vào bên trong thành, rất nhanh đã biến mất không thấy bóng dáng. Lúc này, một tên binh lính mới thấp giọng hỏi Giáo úy:
- Đội trưởng, đây là Hoàng thân nào mà kiêu ngạo như vậy?
- Hừ! Hoàng thân thì ta đã không sợ!
Giáo úy cười lạnh một tiếng, nghĩ lại ký hiệu trên tấm lệnh bài bằng đồng kia, y lại không có lo lắng mà chỉ cảm thấy sợ hãi nói:
- Là Đường Phong!
- Đường Phong?
Binh lính bên cạnh sợ tới mức líu hết cả lưỡi. Đây là Tình báo đường vô cùng tàn nhẫn của triều Đường, quyền lực khôn cùng. Chỉ cần một câu nói ngươi là gián điệp triều Tùy là lập tức bắt lại, sau đó chết thế nào cũng không biết, tuyệt đối không được trêu vào!
Kỵ sĩ Đường Phong vọt qua cửa Minh Đức, giục ngựa chạy như bay trên đường Chu Tước, nhằm thẳng hướng phủ Tần Vương mà lao đến…
Ở phủ Tần Vương, Lý Thế Dân đang cùng Chủ mưu sĩ Phòng Huyền Linh và Trưởng sử Trưởng Tôn Thuận Đức thảo luận việc mở rộng Đường Phong. Mấy tháng nay, triều Đường mộ binh ở khắp nơi, chiêu mộ được hơn một trăm ngàn người khiến cho binh lực của triều Đường khôi phục lại con số ba trăm ngàn. Vừa rồi Lý Thân Dân cũng chiêu mộ được tám mươi ngàn người, giao cho đám người Đoạn Hoằng Chí, Ân Khai Sơn, Lưu Hoằng Cơ huấn luyện, đã huấn luyện được hai ba tháng.
Tuy rằng binh lực gia tăng nhưng hai tháng nay, tâm tình của Lý Thế Dân cũng không tốt, nguyên nhân là vì Phụ hoàng nhất định không ch尠thuận đề nghị tấn công Tiêu Tiển của y. Bởi vì Lý Mật phái Đơn Hùng Tín dẫn một trăm ngàn đại quân tiến về phía tây đánh Tiêu Tiển, mà Tiêu Tiển lại liên hợp với Đỗ Phục Uy chống lại quân Ngụy ở quận Cửu Giang.
Lúc này, sau lưng Tiêu Tiển hoàn toàn bỏ trống, hoàn toàn có thể nhân cơ hội này cướp lấy quận Dự Chương và quận Bà Dương. Lý Thế Dân cực lực khuyên bảo Phụ hoàng xuất binh, nhưng Thái tử Lý Kiến Thành lại nói năm nay là năm thiên tai, phải suy nghĩ đến gánh nặng của dân chúng. Tiêu Tiển chỉ là con ba ba trong hũ, sớm muộn gì cũng là vật trong túi, khuyên bảo Phụ hoàng không cần xuất binh, đề phòng quân Tùy xuôi nam.
Cuối cùng quân Lý Mật chưa quen thủy chiến, bị liên quân Tiêu - Đỗ đánh bại, chết mấy chục ngàn người phải lui về Giang Đô, còn Tiêu Tiển lui quân về đóng ở quận Bà Dương và quận Dự Chương, khiến cho cơ hội này cứ thế mất đi. Mà lúc này bọn họ mới nhận được tình báo, hóa ra Dương Nguyên Khánh tấn công Thanh Châu là giả, hắn tự mình dẫn quân đi đánh Triều Tiên, đoạt lấy lương thực và vật tư.
Tin tức này khiến cho Lý Thế Dân cực kỳ phẫn hận nhưng lại không thể làm gì. Phẫn hận cũng vô dụng. Nhưng không ngờ, Thái tử Kiến Thành lại nhân cơ hội này cáo buộc tội trạng của Đường Phong, nói bọn họ không kịp thời do thám, nắm bắt tin tức tình báo Dương Nguyên Khánh thân chinh Triều Tiên, làm chậm trễ quân cơ đại sự, khiến Lý Thế Dân bị Phụ hoàng hung hăng trắch mắng một trận.
Phòng Huyền Linh vuốt râu nói:
- Kỳ thật ta nghĩ Đường Phong ở Thái Nguyên đúng là có chút bất lực. Chủ yếu là không thu mua được quan viên trung tâm, một số tình báo trọng yếu không lấy được. Ta cảm thấy cũng không nhất định phải mở rộng Đường Phong, mà nên phái một người đắc lực hơn đến chủ trì Thái Nguyên. Năng lực của Lý Thủ Trọng vẫn hơi kém một chút.
Trưởng Tôn Vô Kỵ là chủ quản Đường Phong, y là người quen thuộc với tình huống của Đường Phong nhất. Y cũng gật đầu nói:
- Tiên sinh nói rất có đạo lý. Đúng là năng lực của Lý Thủ Trọng hơi yếu một chút, không thể thu mua đến quan viên trung tâm. Lần này có cơ hội Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, không ngờ y lại cứ thể bỏ qua. Ta cũng rất tức giận. Ta đồng ý thay người khác.
Lý Thế Dân trầm tư, thật lâu sau mới nói:
- Dương Nguyên Khánh tẩy trừ quan trường Hà Bắc, ít nhất cũng phải mất mấy tháng, hẳn là còn cơ hội. Lý Trọng Thủ ở Thái Nguyên đã lâu, tương đối quen thuộc tình huống. Nếu bây giờ đổi người, đợi sau khi người mới quen với tình huống, chỉ sợ lúc đó đến cơ hội cũng không có. Chúng ta có thể đốc thúc Lý Thủ Trọng không tiếc tiền vốn, lôi kéo quan viên có thực lực của triều Tùy, nắm giữ tin tức nội bộ của triều Tùy. Ta cảm thấy nên cho y một cơ hội.
- Điện hạ nói cũng đúng. Cho y thêm một cơ hội cũng không sao, chỉ có điều hy vọng Lý Thủ Trọng này không phụ sự kỳ vọng của Điện hạ.
Đang thương lượng, ngoài cửa bỗng xuất hiện một gã thị vệ:
- Khởi bẩm Tần Vương Điện hạ, Thái Nguyên Đường Phong có tình báo khẩn cấp!
Vừa nhắc đến Đường Phong, Đường Phong liền tới. Lý Thế Dân gật đầu:
- Cho y vào!
Thị vệ dẫn theo kỵ sĩ áo đen bước nhanh vào trong sảnh. Kỵ sĩ áo đen quỳ một gối, ôm quyền hướng Lý Thế Dân thi lễ:
- Ty chức Cảnh Tung, phụng lệnh Lý Đường chủ truyền tin đến Điện hạ.
Thị vệ bê một cái khay hồng, đem một phong thư và một túi tiền màu đỏ trình lên. Lý Thế Dân liếc qua túi tiền đỏ, nhặt phong thư lên trước. Y rút lá thư bên trong ra, run rẩy mở ra đọc vội một lần.
Trong thư nói triều Tùy phát hành một loại ngân tiền mới, hiện giờ loại tiền này trên thị trường rất nóng, mỗi người sau khi đoạt được đều đem cất giữ, căn bản là không lưu thông loại tiền này trên thị trường. Lý Thủ Trọng suy đoán, đây chỉ là lần thử nghiệm của triều Tùy, chắc chắn sau này sẽ triển khai phát hành quy mô lớn.
Ở cuối thư lại bổ sung một tin tình báo, không lâu trước đó, một đội tàu hơn trăm chiếc kéo đến Thái Nguyên, trên đội tàu chở rất nhiều nén bạc lớn, một khối bạc nén có trọng lượng hơn ba mươi cân.
Tin tình báo này khiến Lý Thế Dân hít vào một ngụm khí lạnh. Triều Tùy lại triển khai phát hành ngân tiền trên quy mô lớn. Y đưa lá thư trong tay cho Phòng Huyền Linh:
- Tiên sinh xem đi! Chỉ sợ không ổn rồi!
Phòng Huyền Linh nhận lấy lá thư, vội vàng đọc qua một lần, chân mày cau lại. Lúc này, ánh mắt Lý Thế Dân dừng lại ở túi tiền đỏ trên cái khay. Y nhặt túi tiền lên, giũ từ trong túi ra một chồng ngân tiền, có khoảng hai chục miếng, kích thước giống với tiền mới của triều Tùy nhưng dày hơn. Đây là loại ngân tiền mới của triều Tùy đang rất được quan tâm trên thị trường sao?
Lý Thế Dân nhặt một miếng ngân tiền lên, cẩn thận dùng ngón trỏ và ngón cái nắm ở bên cạnh miếng tiền, sau đó giơ lên cao, hướng về phía ánh sáng, híp mắt đánh giá miếng ngân tiền này. Gia công kỹ càng tỷ mỉ, bề mặt nhẵn nhụi, ở giữa có lỗ để xỏ dây, mặt trên khắc nổi bốn chữ “Nguyên hòa thông bảo”. Mặt trái là một chữ “ngân”, giống với tiền đồng của triều Tùy. Nhóm tiền đồng thứ hai của triều Tùy khi được đưa ra thị trường, thống nhất đổi thành “Nguyên hòa thông bảo” rồi, không còn gọi là ngũ thù tiền.
Phòng Huyền Linh xem xong thư, lại đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ xem, sau đó nghiêm nghị nói với Lý Thế Dân:
- Điện hạ, chuyện này không phải nhỏ. Nếu triều Tùy có được lượng lớn vàng bạc, lại bắt đầu dùng bạc làm tiền, cái này chắc chắn sẽ đoạt lấy của cải trong thiên hạ. Nếu không thay đổi được chuyện này, chỉ sợ hai ba năm nữa, chắc chắn là Tùy mạnh Đường yếu. Đại Đường nguy rồi!
Lúc này Trưởng Tôn Vô Kỵ cũng đã đọc xong thư, nhướng mày nói:
- Chúng ta có thể nghiêm cấm sử dụng loại ngân tiền này ở Đại Đường, cũng có thể đoạn tuyệt mậu dịch với triều Tùy, có lẽ có thể tránh được loại nguy cơ này.
- Vô dụng thôi!
Phòng Huyền Linh lắc đầu. Y đem một miếng ngân tiền đưa cho Trưởng Tôn Vô Kỵ:
- Loại ngân tiền này vừa nhìn liền biết là vật thượng hạng, chứa chín phần bạc trở lên. Cho dù chúng ta cấm lưu thông ngân tiền, nhưng thương nhân hoàn toàn có thể nung chảy lấy bạc, thậm chí triều Tùy cơ bản cũng không cần sử dụng ngân tiền, trực tiếp sử dụng bạc khối. Nhiều nhất chúng ta cũng chỉ có thể cấm đưa vật tư Quan Trung ra ngoài, hoàn toàn không thể kiềm chế vật tư ở Ba Thục, Kinh Tưởng chảy ra ngoài. Còn có trà gạo, gấm vóc Giang Nam. Nhất định sẽ có một lượng lớn chảy về phía triều Tùy. Trưởng Tôn Trưởng sử, hẳn là ngươi hiểu được điểm này. Loại ngân tiền này sẽ làm cho giá cả hàng hóa của Đại Đường tăng vọt, ca thán khắp nơi. Giống như giá hàng hóa tăng vọt vào đầu năm đó.
Kỳ thật không cần Phòng Huyền Linh phân tích, Lý Thế Dân cũng hiểu được loại ngân tiền này mang đến cho Đại Đường một nguy cơ thế nào. Trong lòng y vô cùng lo lắng, không kìm được cất giọng đầy căm hận:
- Đây là hậu quả của việc Hội Ninh bị thất thủ. Hiện tại có thể thấy, nếu như không ngăn chuyện này lại, Đại Đường sẽ bị hủy trên cái đồng bạc nho nhỏ này.
Phòng Huyền Linh lại chậm rãi nói:
- Điện hạ, vi thần có ba kế sách, có lẽ có thể tránh được mối nguy cơ này.
Lý Thế Dân mừng rỡ, vội vàng nói:
- Tiên sinh mời nói!
- Điện hạ, đầu tiên là phải tính “phá”. Phá hủy ngân tiền của triều Tùy. Chúng ta không ngại sử dụng đồng trắng chế thành ngân tiền của triều Tùy. Vàng thau lẫn lộn, khiến người Tùy không dám tin vào ngân tiền, không dám sử dụng ngân tiền.
Đây là độc kế thứ nhất, nhưng không thể công khai, lại không thể kéo dài, chỉ có thể duy trì hiệu quả nhất thời. Lý Thế Dân trầm ngâm một chút, lại hỏi:
- Kế thứ hai là gì?
- Kế thứ hai chính là “tăng”. Kỳ thật cũng chính là chúng ta lấy bạc trắng làm tiền, đối kháng với ngân tiền của triều Tùy. Đương nhiên, để làm được việc này cần có một lượng lớn bạc trắng, điều này cũng chính là chỗ khó xử của chúng ta.
Lý Thế Dân cười khổ một tiếng. Nếu như có được mỏ bạc thì cũng đã sớm ra tay rồi. Sau khi mỏ bạc ở Hội Ninh bị đoạt mất, bọn họ cũng luôn tìm kiếm mỏ bạc khác, nhưng cũng chỉ tìm được vài cái quặng nhỏ, ngoài ra cũng không có thu hoạch gì. Y thở dài nói:
- Tiên sinh nói kế thứ ba đi!
Ánh mắt Phòng Huyền Linh trở nên lạnh lùng, thản nhiên nói:
- Kế thứ ba chính là “tuyệt”. Nếu kế thứ nhất và kế thứ hai đều không thể thực hiện được, vậy thì chỉ còn cách cuối cùng. Chắc Điện hạ cũng hiểu được ý của ta.
Lý Thế Dân chậm rãi gật đầu:
- Ta hiểu. Bây giờ ta vào cung gặp phụ hoàng. Việc này vô cùng trọng đại, không thể chậm trễ dù là một khắc.
Trong điện Võ Đức cung Thái Cực, Hoàng đế Lý Uyên đang tiếp kiến sứ giả Đột Quyết. Lần này Đột Quyết phái ra hai nhóm sứ giả, một đi Thái Nguyên, một đến Trường An. Hiệt Lợi Khả Hãn là người vô cùng thủ đoạn, y muốn lợi dụng sự tranh đoạt giữa Tùy Đường để tranh thủ lợi ích lớn nhất cho Đột Quyết.
Sứ giả đến Trường An tên là Mặc Diên Trác, y cũng là Thứ Tướng quốc Đột Quyết, phụng lệnh Hiệt Lợi Khả Hãn tới Trường An, hy vọng có thể hoàn thành ba việc, một là kết minh, hai là mậu dịch, ba là kết thân.
Trong Thiên điện của Điện Võ Đức, Lý Uyên ngồi trên long tháp (cái sập), vẻ mặt tươi cười. Sứ giả Đột Quyết thì ngồi ở dưới, vẻ mặt cung kính. Thái tử Lý Kiến Thành và năm Tướng quốc đều ngồi ở phía đối diện.
Kết minh với triều Đường là một sự nhượng bộ của Đột Quyết. Lúc đầu, mối quan hệ của triều Đường và Đột Quyết là triều Đường thần phục Đột Quyết. Mà ý nghĩa của việc kết minh chính là hủy bỏ loại quan hệ thần phục này, địa vị trở thành bình đẳng.
Hiệt Lợi Khả Hãn là một người cực kỳ thiết thực. Y không cần cái loại thần phục không có chút ý nghĩa này, cái y muốn chính là lợi ích thiết thực, triều Đường phải bán sắt thô cho Đột Quyết.
Còn việc kết thân lại là dệt hoa trên gấm, là việc sau khi đạt thành hiệp định kết minh và mậu dịch, là cử động để tăng thêm sự hòa hợp trong quan hệ giữa hai bên. Có điều, Hiệt Lợi Khả Hãn đã cưới ông chúa Hiệt Dát Tư là Khả Đôn, cho nên y chỉ có thể lấy con gái của tôn thất triều Đường là Trắc Phi mà không thể cưới Công chúa.
Nhưng đối với Đại Đường mà nói, kết minh là việc rất quan trọng, là điều kiện để Đại Đường thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của việc thần phục Đột Quyết lúc đầu. Chuyện này đã sớm truyền khắp thiên hạ, vẫn còn bị rất nhiều người lên án. Lần kết minh này rất quan trọng đối với sự nóng lòng gìn giữ hình tượng chính thống của Đại Đường của Lý Uyên.
- Với việc Đại Đường và Đột Quyết kết thành liên minh, trẫm rất cao hứng, cũng đồng ý đem nhi nữ tôn thất gả cho Khả Hãn Đột Quyết làm phi. Về phần mậu dịch, ta cần phải thảo luận lại với các đại thần, sẽ sớm có câu trả lời cho quý sứ.
Tuy rằng Mặc Diên Trác tỏ vẻ rất cung kính, có thể nói Hán ngữ khá lưu loát, nhưng ngữ khí của y lại hết sức kiên quyết:
- Đại Đường Hoàng đế Bệ hạ tôn kính, ta đại biểu Khả Hãn vạn phần cảm kích thành ý của Hoàng đế Bệ hạ. Nhưng ta cũng xin nhắc lại một cách thân mật với Bệ hạ, mậu dịch là điều kiện tiên quyết của việc kết minh và kết thân. Hi vọng Bệ hạ có thể càng thêm coi trọng việc mậu dịch để quan hệ giữa song phương cùng có lợi…
Không có khả năng Lý Uyên lập tức đáp ứng sứ giả Đột Quyết nên sứ giả tạm thời lui ra. Trong điện chỉ còn lại Thái tử Lý Kiến Thành và năm Tướng quốc, bọn họ cần phải thảo luận vấn đề điều kiện mậu dịch với Đột Quyết.
Lý Uyên cũng biết điều kiện của Đột Quyết rất hà khắc. Thứ bọn họ muốn là sắt thô, lương thực và vật tư chiến lược, một khi những thứ này được chuyển đến Đột Quyết, tất nhiên sẽ làm cho thực lực Đột Quyết nhanh chóng trở nên hùng mạnh.
- Trẫm cần phải nói trước một câu, kết minh với Đột Quyết là việc hết sức quan trọng đối với trẫm. Điều này sẽ làm xoay chuyển cục diện bất lợi của Đại Đường với Đột Quyết. Quan trọng hơn là Đột Quyết có thể phối hợp với Đại Đường cùng đối phó với triều Tùy. Cho nên trẫm cần các khanh thảo luận vấn đề mậu dịch, làm thế nào để có được lợi ích lớn nhất mà khiếm khuyết nhỏ nhất.
- Phụ hoàng, xin cho nhi thần được nói trước.
Lý Kiến Thành đứng ra, khom người thi lễ:
- Phụ hoàng, Đột Quyết là loài lang sói, từ xưa đã là đại địch của Trung Nguyên. Nhi thần chỉ có điều lo lắng, một khi Đột Quyết trở nên hùng mạnh, lúc đó chỉ sợ dục vọng không chỉ là một triều Tùy. Một khi thiết kỵ của người Hồ quét qua Trung Nguyên, sẽ làm cho Trung Nguyên rơi vào một hồi đại nạn, một lần nữa mở ra thời đại Ngũ Hồ loạn Hoa . Nếu việc đó xảy ra, vậy thì không phải là việc mà triều Đường chúng ta có khả năng xoay chuyển. Chúng ta sẽ trở thành tội nhân thiên cổ. Nhi thần không tán thành việc mở cửa mậu dịch với Đột Quyết.
. Ngũ Hồ loạn Hoa hay còn gọi là Ngũ Hồ Thập lục quốc là một tập hợp các quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận TQ từ năm 304 đến năm 439 kéo theo sự rút lui của nhà Tấn (265-420) về miền Nam TQ cho đến khi Bắc triều thống nhất toàn bộ phương bắc, mở ra cục diện mới là Nam – Bắc triều.
Ngũ Hồ thập lục quốc – Wikipedia tiếng Việt
Sắc mặt Lý Uyên trầm xuống, cực kỳ không hài lòng nói:
- Vậy khanh tán thành việc triều Đường bị triều Tùy tiêu diệt? Khanh tán thành việc Đại Đường vĩnh viễn phải thần phục Đột Quyết?
Lý Kiến Thành cảm nhận được sự tức giận trong giọng nói của phụ hoàng liền trầm mặc. Lúc này, Bùi Tịch đứng lên nói:
- Bệ hạ, có thể cho hạ thần khuyên một lời không.
- Bùi ái khanh, mời nói!
Bùi Tịch dùng ánh mắt khinh rẻ liếc nhìn Lý Kiến Thành một cái, không chút hoang mang nói:
- Kỳ thật ý kiến của Thái tử Điện hạ là không hợp lý, không hợp thời. Đột Quyết xâm chiếm Trung Nguyên là việc xảy ra không chỉ một hai lần. Bọn họ cũng không giống với thời đại Ngũ Hồ loạn Hoa, chiếm cứ Trung Nguyên. Mỗi lần bọn họ xâm chiếm Trung Nguyên đều là đoạt lấy một ít vật tư và nhân khẩu liền lui về thảo nguyên, sẽ không xâm chiếm thổ địa Trung Nguyên. Mà địch nhân của Đột Quyết là triều Tùy, năm đó trong cuộc chiến Phong Châu, triều Tùy đã khiến cho Đột Quyết tử thương nghiêm trọng. Tùy – Đột đã kết thành thù oán khó có thể hòa giải. Nếu Đột Quyết tấn công triều Tùy, người được lợi chính là chúng ta. Nếu như bọn họ đánh đến lưỡng bại câu thương, người được lợi chính là chúng ta. Triều Tùy suy nhược, Đột Quyết đoạn trảo (mất tay), chúng ta có thể thừa cơ thâu tóm triều Tùy, sau lại thu thập Đột Quyết, Đại Đường có thể xây dựng sự nghiệp hãn thế. Cho nên, cái gọi là mậu dịch, bất quá cũng chỉ là một loại thủ đoạn, mục đích chính là khiến cho Tùy – Đột tranh chấp.
Nói đến đây, Bùi Tịch lại quay đầu hướng Lý Kiến Thành cười nói:
- Thái tử Điện hạ nghĩ đại địch của triều Đường là triều Tùy hay là Đột Quyết?
Lý Kiến Thành hừ mạnh một tiếng:
- Tranh chấp với triều Tùy nói cho cùng cũng chỉ là một cuộc nội chiến. Giúp đỡ Đột Quyết là sỉ nhục dân tộc. Bên nào nặng bên nào nhẹ, Bùi Tướng quốc không hiểu sao?
Lý Kiến Thành cứ liên tục phản đối khiến cho lòng Lý Uyên càng thêm tức giận. Đề nghị của Bùi Tịch đã nói đúng nỗi lòng y rồi, nhưng Lý Kiến Thành lại dùng đại nghĩa để bác bỏ, lại như đạp vào lưng y.
Lý Uyên vừa muốn phát tác tức giận thì Tiêu Vũ dứng dậy cười hòa giải:
- Bệ hạ, thần có một phương án tương đối tốt, có thể vẹn toàn đôi bên.ười đi. Về phần đại nương ngươi có tin hay không thì không liên quan đến ta đâu đấy.
Chương 908 : Khó được nhất trí .
Bốn chữ “Vẹn toàn đôi bên” khiến cho long nhan (mặt rồng) Lý Uyên cực kỳ vui mừng, lập tức gật đầu:
- Tiêu ái khanh, mau nói!
Tiêu Vũ đi lên trước cười nói:
- Thái tử Điện hạ nói không sai, chúng ta kết giao với Đột Quyết có ảnh hưởng đến đại nghĩa dân tộc, phải thật cẩn thận. Mà Bùi Tướng quốc nói cũng có đạo lý, có thể lợi dụng Đột Quyết làm suy yếu triều Tùy, loại bỏ cho chúng ta một kình địch. Vậy phải làm thế nào mới có thể vẹn toàn đôi bên? Thần cho rằng, mấu chốt của chuyện này là vấn đề mậu dịch, chúng ta không ngại đáp ứng Đột Quyết.
Lý Kiến Thành biến sắc, vừa muốn lên tiếng, Tiêu Vũ đã khoát tay chặn y lại:
- Điện hạ đừng nóng vội, nghe thần nói cho hết lời đã.
Lý Kiến Thành đành đem những lời định nói ra nuốt vào trong bụng, nhẫn nhịn. Tiêu Vũ lại ung dung nói:
- Mặc kệ kết minh, kết thân hay là mậu dịch, những vấn đề này đều là những hoạt động ngoại giao của hai nước lúc bình thường, không có chỗ nào để cho người khác lên án cả. Hơn nữa còn có thể loại bỏ một chút ảnh hưởng từ tiếng xấu của triều Đường lúc trước, có thể nói là trăm lợi mà không có hại. Mấu chốt chính là, chúng ta có thể ký tên với Đột Quyết trên hiệp định mậu dịch, nhưng trong hiệp định không cần viết bất cứ cái gì là vật tư, sắt thô. Những loại vật tư này chúng ta có thể đáp ứng miệng.
Lúc này Lý Kiến Thành đã không nhịn được nữa, nhưng y biết là mình không thể lên tiếng, liền liếc nhìn Trần Thúc Đạt một cái.
Trần Thúc Đạt là người kiên định ủng hộ Lý Kiến Thành, y hiểu ý tứ ánh mắt của Thái tử, liền mở miệng nói:
- Những lời này của Tiêu Tướng quốc, vẫn là đồng ý đem sắt thô cho Đột Quyết, chỉ có điều bí mật đưa sang, không cho người khác biết, là ý này sao?
Tiêu Vũ lắc đầu thở dài một tiếng:
- Vì sao Trần Tướng quốc nóng lòng như thế, để cho ta nói hết ý tứ được không?
Rốt cục Lý Uyên cũng tức giận, cực kỳ bất mãn trừng mắt nhìn Lý Kiến Thành, hừ một tiếng thật mạnh:
- Trong lúc Tiêu Tướng quốc đang nói, không cho bất cứ kẻ nào lên tiếng, ai trái lệnh đuổi ra khỏi điện.
Trong Thiện Điện lặng ngắt như tờ, Tiêu Vũ lại tiếp tục nói:
- Trên cơ bản, hầu như chúng ta đã đoạn tuyệt tất cả các con đường mậu dịch với Đột Quyết, chỉ còn lại một con đường ở quận Trương Dịch. Từ Trương Dịch lên phía bắc đến Cư Diện Trạch, sau đó tiến vào cảnh nội Đột Quyết. Thần tính qua, một chuyến đi như vậy có nhanh cũng phải mất hai ba tháng. Một năm cũng chỉ có thể đi được hai ba chuyến mà thôi. Mỗi lần vận chuyển, chúng ta có thể bỏ vào một ít sắt thô, vải vóc và lá trà nhiều lên một chút. Như vậy, lượng sắt thô vận chuyển trong một năm cũng không đáng là bao, không cần phải lo lắng. Nhưng trong một năm này, rất có khả năng đại cuộc sẽ có chuyển biến.
Lúc này, rốt cuộc mọi người cũng hiểu rõ ý tứ của Tiêu Vũ. Lợi dụng đường xá xa xôi và thời gian kéo dài khiến cho lượng sắt thô được vận chuyển trở nên hữu danh vô thực, nhưng triều Đường lại đoạt được những gì mình muốn. Mọi người không dám xen vào nhưng trong lòng đều thầm khen hay, quả nhiên là một kế sách hay.
Lý Uyên cũng rất là tán thành. Y ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi:
- Đột Quyết cũng không phải là một đám đầu heo, bọn họ không chiếm được sắt thô sẽ đồng ý khởi binh phối hợp với chúng ta tấn công triều Tùy sao? Việc này nên làm thế nào cho phải?
Tiêu Vũ khẽ mỉm cười:
- Bệ hạ, ngoại trừ quan phủ mậu dịch, còn có dân gian mậu dịch. Mậu dịch phía triều đình thắt chặt, mậu dịch của dân gian lại buông lỏng. Đột Quyết có thể theo đường mậu dịch trong dân gian kiếm ưu đãi, thanh danh của chúng ta lại không bị ảnh hưởng. Hơn nữa, Hồ thương ở Trương Dịch rất đông, chúng ta không can thiệp vào chuyện Hồ thương đi Đột Quyết buôn bán, như vậy liền vẹn cả đôi đường.
Trong đại điện vang lên tiếng bàn luận xôn xao. Bùi Tịch lại bước ra khỏi hàng nói:
- Bệ hạ, Tiêu Tướng quốc nói rất đúng. Thứ Đột Quyết cần là sắt thô, bọn họ sẽ nghĩ cách để có được nó. Nếu như bọn họ không thể lấy được từ bên ngoài, vậy thì sẽ nghĩ đến việc tinh luyện kim loại của chính mình. Chúng sẽ đoạt lấy thợ thủ công Trung Nguyên, tìm kiếm mỏ quặng ở thảo nguyên. Như vậy, ngược lại còn làm cho bọn chúng hùng mạnh hơn. Chi bằng chúng ta mở ra một lỗ hổng, để cho bọn họ đoạt được sắt thô, khiến cho bọn họ tự đoạn tuyệt trái tim của mình.
Các đại thần khanh một câu, ta một câu, dần đạt được sự nhất trí. Rốt cuộc Lý Uyên cũng gật đầu:
- Trẫm đồng ý phương án của Tiêu ái khanh. Việc này do Tiêu ái khanh toàn quyền phụ trách…
Vừa trở lại ngự thư phòng, Lý Uyên lập tức trách mắng Thái tử Lý Kiến Thành:
- Là kẻ bề trên, đầu tiên là phải suy xét cách giải quyết vấn đề. Khanh một câu không hợp đại nghĩa dân tộc liền hủy bỏ tất cả, vậy lợi ích của bản thân Đại Đường thì phải làm thế nào? Trẫm có thể nhận đại nghĩa dân tộc của khanh, nhưng nhất định khanh phải xuất ra một phương pháp giải quyết vấn đề để thi thố. Nếu không, khanh chỉ là nói suông, không thực tế!
Lý Kiến Thành im lặng không nói gì. Thật ra y muốn nói, cho dù Đại Đường và Đột Quyết không có bất cứ quan hệ nào, Đột Quyết vẫn sẽ tấn công triều Tùy. Vấn đề chỉ là sớm hay muộn mà thôi, Đại Đường không nên có bất cứ một mối quan hệ nào với Đột Quyết. Chỉ có điều, bây giờ mà nói những lời này cũng không có ý nghĩa gì nữa rồi, y đành phải giữ im lặng.
Lý Uyên thấy y không cãi lại, sắc mặt cũng khá hơn một chút:
- Chuyện này trẫm không nói nhiều với khanh nữa. Khanh vẫn nên đem tinh lực đặt trên vấn đề giúp đỡ nạn dân thiên tai đi thôi!
- Dạ! Nhi thần tuân chỉ!
Lúc này, một gã hoạn quan ở cửa bẩm báo:
- Khởi bẩm Bệ hạ, Tần Vương khẩn cấp cầu kiến, nói có tin tình báo quan trọng về triều Tùy.
Lý Uyên ngẩn ra. Lập tức hạ lệnh:
- Tuyên nó vào yết kiến!
Hoạn quan chạy vội đi, Lý Kiến Thành khom người nói:
- Phụ hoàng, nhi thần xin cáo lui.
Lý Uyên lại lắc đầu:
- Không! Khanh ở lại cùng nghe xem chuyện gì!
Lý Kiến Thành thấy vừa rồi tuy bị phụ hoàng trách mắng nhưng trong nội tâm vẫn còn rất tín nhiệm mình, không vì một vấn đề mà có thành kiến với mình, trong lòng thấy cảm động bèn yên lặng đứng một bên.
Lúc này, Lý Thế Dân vội vàng đi vào, quỳ hai gối xuống, cung kính dập đầu với Lý Uyên một cái:
- Nhi thần tham kiến Phụ hoàng. Chúc Phụ hoàng thọ tựa Nam Sơn, thiên thu vĩnh trú!
Lý Thế Dân cung kính khiến Lý Uyên rất thích, y khoát tay chặn lại, cười tủm tỉm nói:
- Hoàng nhi miễn lễ, tìm Phụ hoàng có chuyện gì?
- Tạ ơn phụ hoàng!
Lý Thế Dân đứng lên, khom người nói:
- Hôm nay nhi thần nhận được tin tức từ Đường Phong Thái Nguyên, triều Tùy bắt đầu chế tạo một lượng lớn ngân tiền đưa vào thị trường. Nhi thần hiểu được việc này vô cùng nghiêm trọng, cho nên đặc biệt đến bẩm báo với phụ hoàng.
Nói xong, y quay đầu lại nháy mắt, một gã hoạn quan dùng khay vàng đem tín thư và ngân tiền trình lên. Sắc mặt Lý Uyên trở nên ngưng trọng, y nhặt tín thư lên đọc một lần, sau đó đưa cho Lý Kiến Thành, lại tiện tay cầm hai miếng ngân tiền trong khay vàng lên, đặt trong lòng bàn tay một lúc lâu, trong mắt chậm rãi hiện lên vẻ sợ hãi.
Y quay đầu lại liếc mắt nhìn Lý Kiến Thành. Sắc mặt Lý Kiến Thành cũng vô cùng nghiêm túc. Bọn họ đều là người trị quốc, sao lại không hiểu được tính nghiêm trọng của chuyện này. Nếu những miếng ngân tiền này lọt vào Đại Đường, như vậy hầu hết của cải của Đại Đường sẽ bị triều Tùy đoạt mất. Cho đến lúc này, bọn họ mới ý thức được hậu quả nghiêm trọng của việc mất quận Hội Ninh vào tay quân Tùy.
- Phụ hoàng, hồi đầu năm, triều Tùy dùng Ngũ Thù Tiền mua đi lượng lớn vật tư ở Trường An, khiến cho giá cả hàng hóa tăng vọt, dân chúng ca thán, cũng bởi vì triều Tùy có được lượng lớn tiền đồng. Hiện tại triều Tùy lại có được lượng lớn bạc trắng, thậm chí là hoàng kim, điều này sẽ khiến chúng ta gặp phải nguy cơ lớn.
Lý Kiến Thành nói lời này là vì triều Đường đã có một bài học xương máu. Hồi đầu năm, triều Tùy dùng loại Ngũ Thù Tiền cũ nát mua đi một lượng lớn vật tư, khiến cho hàng hóa của Trường An trở nên thiếu thốn, giá cả tăng vọt. Triều đình phải đem vật tư từ Ba Thục, gần như là lật nghiêng nhà kho chuyển đem vật tư chuyển đến Trường An mới có thể kiềm hãm được giá hàng hóa tăng vọt.
Sau đó triều Đường lại tìm được mỏ đồng ở Ba Thục, thu được một lượng lớn quặng đồng, sau đó mới bắt đầu phát hành khai nguyên thông bảo của triều Đường, vãn hồi hoàn cảnh xấu do tiền tệ gây ra. Hiện tại triều Tùy lại lấy vàng bạc để làm tiền, điều này sẽ khiến cho triều Đường gặp phải nguy cơ còn lớn hơn gấp bội, làm cho Lý Kiến Thành không có cách nào kìm được sự nóng nảy.
Lý Uyên thấy Lý Thế Dân như muốn nói ra suy nghĩ của mình liền hỏi:
- Hoàng nhi có biện pháp nào tốt sao?
- Khởi bẩm Phụ hoàng, hoàng nhi có ba cách. Thứ nhất, chúng ta chế tạo một lượng lớn ngân tiền giả, đưa toàn bộ vào triều Tùy, nhiễu loạn việc phát hành ngân tiền của bọn họ, như vậy chúng ta có thể tranh thủ thêm chút thời gian. Thứ hai chính là chúng ta cũng đẩy mạnh tìm kiếm quặng vàng bạc, cũng phát hành ngân tiền để chống lại triều Tùy cướp đoạt.
Lý Kiến Thành ở bên cạnh nói chen vào:
- Chế tạo ngân tiền giả thì có thể làm được. Chúng ta có thể dùng đồng trắng để làm giả. Nhưng tìm kiếm quặng vàng bạc thì chỉ sợ là không thực tế. Ta có đọc qua nhiều công văn của tiền triều, chỉ có Lĩnh Nam mới có mỏ bạc, quá xa vời. Mà trong cảnh nội triều Đường, chúng ta cũng tìm suốt nửa năm, cũng chỉ phát hiện mỏ đồng, không tìm được lượng lớn quặng vàng bạc.
Lý Uyên trầm ngâm một chút, lại hỏi Lý Thế Dân:
- Kế thứ ba của Hoàng nhi là gì?
Lý Thế Dân khom người nói:
- Nếu hai kế trước đều không được, chúng ta chỉ còn một biện pháp là lấy động để đối phó với nguy cơ.
Sắc mặt y ngưng trọng, gằn từng chữ:
- Chúng ta nhất định phải đoạt lại mỏ bạc ở quận Hội Ninh!
Chương 909 : Điều kiện hà khắc
Ở Thái Nguyên, vương triều Tùy cũng đón tiếp một đoàn sứ giả khác của Đột Quyết. Sứ giả Đột Quyết là Tể tướng Mặc Nhan Hạ Đạt Can, là quyền thần số một dưới trướng Khả Hãn Hiệt Lợi, mà người đi sứ Trường An chỉ là Thứ Tướng, địa vị khá thấp, điều này cũng thể hiện sự coi trọng của Đột Quyết với hai triều Tùy Đường cũng bất đồng. Quan hệ tốt với triều Tùy thì Đột Quyết càng có nhiều lợi ích.
Trong Bán Viên Đường của Tử Vi Các, Dương Nguyên Khánh đang tiếp kiến vị sứ giả đại biểu cho Khả Hãn đến để đẩy mạnh quan hệ thân mật giữa hai nước. Mặc Nhan Hạ Đạt Can ước chừng năm mươi tuổi, dáng người bậc trung, bả vai cực kỳ rộng lớn, trên khuôn mặt to có một chòm râu rất rậm.
- Sở Vương Điện hạ tôn kính, đúng là chúng ta đã từng gặp nhau. Ở ven hồ Cáp Lý, khi đó ta còn có dũng lực, có thể bắn trúng chim điêu đang bay lượn trên đại thảo nguyên, muốn ganh đua tài bắn cung với Điện hạ. Nhưng bây giờ ta già rồi, chỉ có thể ngồi trên nệm da dê, uống chén trà sữa nóng thơm phức mà thôi.
Mặc Nhan Hạ Đạt Can lúc nói chuyện, lời nói vô cùng nhỏ nhẹ, vô cùng hòa ái nhưng trong nụ cười hòa ái ấy lại ẩn giấu một tia lãnh ý khó có thể nắm bắt. Giống như một đóa hoa xinh đẹp lại ẩn chứa một mũi gai nho nhỏ vậy.
Đối phương dùng tiếng Đột Quyết, nhưng Dương Nguyên Khánh lại dùng tiếng Hán, cười nói:
- Tể tướng vẫn có dũng lực như cũ, chỉ là dũng lực của ngươi không dùng trên chiến trường, mà là trên bàn đàm phán. Một câu nói của ngươi có thể chống đỡ được một trăm ngàn đại quân.
- Điện hạ đã đề cao ta rồi.
Mặc Nhan Hạ Đạt Can vẫn dùng tiếng Đột Quyết.
- Ha ha! Sao ta lại đề cao Tể tướng, sự thật là như thế!
Dương Nguyên Khánh dùng tiếng Hán cười nói.
Đây làm một loại đấu tranh không tiếng động. Mặc Nhan Hạ Đạt Can tinh thông tiếng Hán, nhưng y lại dùng tiếng Đột Quyết để nói chuyện. Dương Nguyên Khánh cũng tinh thông tiếng Đột Quyết, nhưng hắn vẫn dùng tiếng Hán. Lựa chọn một loại ngôn ngữ chính là tranh đoạt quyền chủ động.
Kế tiếp, song phương đều rơi vào trầm mặc. Dương Nguyên Khánh mỉm cười uống trà, Mặc Nhan Hạ Đạt Can cũng nâng chén trà lên. Nơi này không có trà sữa nóng thơm phức, chỉ có Lục trà mới sắc, nhẹ nhàng ngân nga, không giống với loại trà nồng liệt ở thảo nguyên.
Trầm mặc thật lâu, rốt cuộc Mặc Nhan Hạ Đạt Can cũng lựa chọn tiếng Hán, y khom người nói:
- Lần này ta đại biểu Khả Hãn đến đây, thứ nhất là đại biểu cho Đột Quyết kính ý với Đại Tùy, thứ hai là muốn thông báo cho Đại Tùy việc Khả Hãn Hiệt Lợi đã đăng vị, rất mong chờ triều Tùy cử người đến chúc mừng, giữ gìn tình hữu nghị vĩnh cửu giữa hai nước chúng ta.
Dương Nguyên Khánh lại thản nhiên nói:
- Năm đó Khả Hãn Khải Dân đăng cơ là tự mình đến Đại Tùy nhận sắc phong của Hoàng đế Bệ hạ Đại Tùy. Khả Hãn Thủy Tất đăng cơ cũng là tự mình đến nhận sắc phong của Hoàng đế Đại Tùy. Khả Hãn Xử La là vì hai nước đánh nhau, nhưng năm trước hai nước đã hòa giải, Đột Quyết thừa nhận chúng ta là kế thừa của triều Tùy. Vậy thì tại sao Khả Hãn Hiệt Lợi lại không nghĩ đến việc đến Đại Tùy nhận sắc phong giống như trước?
Tuy rằng giọng điệu Dương Nguyên Khánh rất bình thản, nhưng lời nói lại hết sức lợi hại, một câu nói đã đâm trúng bản chất. Vì sao Khả Hãn Hiệt Lợi không tiếp thu sắc phong của triều Tùy?
Câu hỏi này vô cùng bén nhọn, khiến cho vẻ mặt Mặc Nhan Hạ Đạt Can có chút xấu hổ. Một lúc lâu sau, y gượng cười hai tiếng rồi nói:
- Đột Quyết chúng ta có câu ngạn ngữ, loại nô lệ có một ngày sẽ thí chủ, chỉ có huynh đệ mới có thể có tình nghĩa vĩnh hằng. Chúng ta nguyện kết làm huynh đệ với Đại Tùy, vĩnh viễn không xâm phạm.
Dương Nguyên Khánh cười ha hả:
- Huynh đệ thảo nguyên cũng chưa chắc đáng tin cậy nha! Năm đó Khả Hãn Xử La giết chết Khả Hãn Thủy Tất, Ô Mộc Trát độc chết Ô Đồ. Ta cũng không có cảm nhận được tình nghĩa huynh đệ thảo nguyên nằm ở chỗ nào?
Nói xong, Dương Nguyên Khánh cười ha hả, đứng lên đi ra ngoài đại sảnh. Hắn chỉ đến nói chuyện hàn huyên một chút. Cụ thể đàm phán thế nào là do Thôi Quan Tố phụ trách. Vẻ mặt của Mặc Nhan Hạ Đạt Can lúc đỏ lúc trắng, giống như một pho tượng đá ngồi im tại chỗ.
Dương Nguyên Khánh trở lại quan phòng của mình, không phải là hắn vô lễ mà là hắn muốn thị uy phủ đầu đám người sứ giả Đột Quyết. Trên bàn của hắn đặt một phong thư mới được chuyển từ Trường An đến, trong thư là tình báo khẩn cấp, trên tình báo nói sứ giả Đột Quyết và triều Đường đã tiến hành hội đàm rồi.
Tuy không biết nội dung hội đàm là gì, nhưng cuối cùng là triều Đường dùng lễ tiết long trọng đưa đám người sứ giả Đột Quyết rời khỏi Trường An, điều này nói rõ triều Đường và Đột Quyết đã hội đàm thành công, cũng có thể là triều Đường đã đáp ứng điều kiện của Đột Quyết rồi.
Bởi vậy có thể thấy được Đột Quyết đang lưỡng lự. Một mặt thân mật với triều Đường, mặt khác lại đàm phán với triều Tùy, lợi dụng Tùy Đường tranh đấu để thu lấy lợi ích lớn nhất. Có lẽ Đột Quyết và triều Đường đã đạt thành cái hiệp nghị nào đó, dù sao triều Đường và Đột Quyết cũng không có thù oán, cũng không có lãnh thổ tiếp giáp với nhau, không có mâu thuẫn lợi ích.
Nhưng triều Tùy có thể sao? Cứ coi như triều Tùy đáp ứng toàn bộ điều kiện của Đột Quyết, Đột Quyết cũng sẽ không xâm lấn triều Tùy sao? Đáp án rõ ràng là không.
Dương Nguyên Khánh và Đột Quyết đã kết giao nhiều năm, đã hoàn toàn thấu hiểu Đột Quyết một cách triệt để. Đây là một dân tộc rất cụ thể, chỉ nhận lợi ích, hơn nữa cực kỳ thù dai. Hơn trăm ngàn oan hồn ở cuộc chiến Phong Châu, người Đột Quyết sẽ tuyệt đối không quên.
Bầy cừu và sói đàm phán, bất kể là đưa cho sói bao nhiêu con dê, cuối cùng bầy cừu cũng sẽ không trốn khỏi vận mệnh bị sói săn bắt. Bất kể triều Tùy đưa cho Đột Quyết bao nhiêu lợi ích, cũng sẽ không ngăn cản được sự thật là Đột Quyết xuôi nam. Đối phó với Đột Quyết chỉ có một biện pháp, phải hoàn toàn tiêu diệt một cách triệt để.
Ở giai đoạn hiện tại, nhất thời triều Tùy còn chưa có năng lực này, chỉ có thể nghĩ ra biện pháp làm chệch hướng Đột Quyết. Mà biện pháp tốt nhất để làm chệch hướng Đột Quyết chính là lợi dụng bộ phận kẻ địch của chúng, trước là đám người Ô Đồ, bây giờ là Đông Đột Quyết.
Dương Nguyên Khánh ngồi trong quan phòng, yên lặng trầm tư suy nghĩ. Lúc này, bên ngoài truyền đến tiếng bước chân:
- Điện hạ, là thần!
Đây là giọng nói của Ngụy Trưng, y là trợ thủ đàm phán của Thôi Quân Tố.
- Vào đi!
Dương Nguyên Khánh biết là y đến thông báo tin tức đàm phán cho hắn.
Ngụy Trưng vội vàng đi vào, sắc mặt ngưng trọng, có thể thấy được là đám phán cũng không thuận lợi.
- Nói đi, Đột Quyết đưa ra điều kiện gì?
Dương Nguyên Khánh lạnh lùng nói.
- Hồi bẩm Điện hạ, Đột Quyết đưa ra ba điều kiện. Đầu tiên là xác lập hai nước không còn quan hệ phụ thuộc mà là hai nước có quan hệ bình đẳng. Thứ hai là buông bỏ toàn bộ hạn chế mậu dịch, không hạn chế thể loại hàng hóa buôn bán, cũng không tiếp tục hạn chế mậu dịch dân gian.
- Thứ ba là gì?
Hai điều kiện trước đều nằm trong dự liệu của Dương Nguyên Khánh. Hắn muốn biết cái điều kiện thứ ba
- Điều kiện thứ ba chính là chúng ta đem tàn dư của đám người Ô Đồ giao cho Đột Quyết.
- Khẩu khí thật lớn!
Dương Nguyên Khánh không kìm nổi sự giận dữ mà cất tiếng cười.
- Vậy bọn chúng có thể đáp ứng triều Tùy điều gì? Đột Quyết có thể cho chúng ta chỗ tốt gì?
- Bọn họ đáp ứng trong hai năm tuyệt đối không xuôi nam xâm phạm triều Tùy!
Cửa phòng truyền đến giọng nói của Thôi Quân Tố. Y đi lên, hướng Dương Nguyên Khánh thi lễ:
- Song phương thật sự khó có thể tiếp tục đàm phán, cho nên tạm thời ngưng đàm phán.
Dương Nguyên Khánh ép mình tỉnh táo lại. Hắn là người đứng đầu Đại Tùy, là người có quyết định cao nhất. Nếu hắn không thể giữ cái đầu bình tĩnh, vậy thì sẽ đưa ra chiến lược, quyết sách sai lầm.
Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi đến bên cửa sổ, đây là cái thói quen của hắn. Mỗi khi tâm tình bực bội, hắn sẽ tiến đến trước cửa sổ, nhìn ra cánh đồng ở xa xa, nhìn những đám mây trắng trên bầu trời xanh, lòng của hắn sẽ dần bình tĩnh lại.
- Còn gì nữa không?
Giọng nói của Dương Nguyên Khánh trở nên bình tĩnh.
Ngụy Trưng và Thôi Quân Tố nhìn nhau, bọn họ đều cảm nhận được Dương Nguyên Khánh đã bình tĩnh, đây là điều mà bọn họ muốn nhìn thấy. Chỉ khi Dương Nguyên Khánh bình tĩnh, hắn mới có thể đưa ra quyết sách có lợi cho Đại Tùy.
Thôi Quân Tố liền vội vàng khom người thi lễ:
- Y nói nếu song phương có thể có chung nhận thức hữu hảo, Khả Hãn của bọn họ nguyện ý lấy con gái quý tộc của triều Tùy làm vợ, trở thành Trắc phi thứ nhất của Đột Quyết.
- Trắc phi thứ nhất?
Dương Nguyên Khánh có chút kỳ quái hỏi:
- Vì sao không phải là Khả Đôn?
- Hồi bẩm Điện hạ, lúc trên ở đường đón tiếp y đến Thái Nguyên, vi thần cũng đã hỏi vấn đề này. Là bởi vì Khả Hãn của bọn họ đã quyết định lấy Công chúa Hiệt Dát Tư, đây là điều kiện để Hiệt Dát Tư ủng hộ Đột Quyết.
Dương Nguyên Khánh trầm mặc không nói. Hắn nghe A Tư Đóa nói qua, lúc trước Ô Đồ có hai ngoại viện lớn, một là bộ lạc Hiệt Dát Tư, một là bộ lạc Đô Ba. Sau khi Ô Đồ chết, hai bộ lạc lớn này đều không thừa nhận Ô Mộc Trát, mới khiến cho Ô Mộc Trát xuất binh mà không được ai giúp, nhanh chóng bị Đột Quyết tiêu diệt.
Khả Hãn Hiệt Lợi muốn cưới Công chúa Hiệt Dát Tư là Khả Đôn, hiển nhiên là phải lôi kéo bộ lạc lớn nhất ở tây bắc. Lúc này, Dương Nguyên Khánh bỗng nhiên có một loại trí nhớ mơ hồ, giống như có liên quan tới Công chúa Hiệt Dát Tư. Dường như hắn đã nghe thấy ai đó đề cập đến Công chúa này, nhưng nhất thời Dương Nguyên Khánh lại không thể nhớ được là đã nghe qua ở đâu.
Chương 910 : Bùi Củ ra kế
Tuy nhiên chuyện trước mắt cần phải giải quyết, Dương Nguyên Khánh chậm rãi nói với Thôi Quân Tố:
- Trước mắt không cần trả lời sứ giả Đột Quyết, ta cũng cần phải suy xét lại rồi mới trả lời bọn họ.
Nửa canh giờ sau, Dương Nguyên Khánh đi tới Bùi phủ. Xe ngựa đi rất chậm, Bùi Thanh Tùng giục ngựa chạy gấp, chạy trước đến Bùi phủ báo tin. Khi xe ngựa của Dương Nguyên Khánh đến Bùi phủ, một đứa cháu quan trọng của Bùi gia là Bùi Diệu đã đợi ở cửa rồi.
Bùi Diệu là cháu trưởng của Bùi Uẩn, phụ thân của y là Bùi Luận hiện đang là Trưởng sử Đông Quận. Bản thân Bùi Diệu từng đảm nhiệm chức Huyện lệnh của triều Tùy, nhưng lúc này cũng không ra làm quan, phụ trách mọi việc lớn nhỏ trong Bùi phủ.
Xe ngựa của Dương Nguyên Khánh chậm rãi dừng lại, y vội vàng chạy ra chào đón, khom người thi lễ:
- Tham kiến Sở Vương Điện hạ!
Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười:
- Gia chủ có ở nhà không?
Bùi Diệu cung kính đáp:
- Gia chủ đang trong thư phòng ở sau Hậu viện. Mời Điện hạ đi theo ta.
Dương Nguyên Khánh gật gật đầu, đi theo Bùi Diệu vào phủ.
Mấy ngày nay, một đám không khí lạnh về tới, khiến thời tiết trở nên lạnh hơn, gió cũng rất to, thế nên Bùi Củ cũng không tiếp tục câu cá mà ở trong thư phòng đọc sách.
Ngay vừa rồi, khi mà Bùi Thanh Tùng gấp gáp trở về cấp báo việc Sở Vương Điện hạ đến bái kiến. Từ trong miệng Bùi Thanh Tùng, Bùi Củ biết hôm nay Tùy - Đột đàm phán, y lập tức hiểu được vì sao Dương Nguyên Khánh lại đến tìm mình. Đoán chừng đàm phán giữa triều Tùy và Đột Quyết có phiền toái gì đó.
Lúc này bên ngoài truyền đến tiếng bước chân, ngay sau đó là đứa cháu Bùi Diệu bước vào bẩm báo:
- Tổ phụ, Sở Vương Điện hạ tới.
- Mời vào!
Cửa mở, Dương Nguyên Khánh bước nhanh đến. Ở Đại Tùy, từ trước tới nay có hai người đảm nhiệm chức vụ đại thần đi sứ Đột Quyết, một người là Trưởng Tôn Thịnh, người còn lại là Bùi Củ.
Tuy rằng bản thân Dương Nguyên Khánh cũng giao tiếp với Đột Quyết khá nhiều, nhưng hắn vẫn luôn tin tưởng ánh mắt của Bùi Củ. Bùi Củ đa mưu túc trí, nhìn vấn đề cực kỳ thấu triệt, hắn rất muốn lắng nghe ý kiến của Bùi Củ.
Dương Nguyên Khánh bước nhanh đi lên trước, khom người thi lễ:
- Tôn tế Nguyên Khánh tham kiến Tổ phụ!
Bùi Củ cười tủm tỉm vuốt râu nói:
- Đến quý phủ của ta không cần khách khí như thế, ngồi đi!
Dương Nguyên Khánh cười rồi ngồi xuống. Một ả thị nữ dâng trà lên. Dương Nguyên Khánh nhận lấy chén trà, hạ thấp người nói:
- Lần trước việc Triều Tiên, nhờ có đề nghị của tổ phụ, cháu mới có thể có được thu hoạch khá phong phú, giải trừ nguy cơ lương thực. Nguyên Khánh vạn phần cảm kích tổ phụ.
- Ha ha! Phải là ta bội phục ngươi mới đúng. Ta chỉ đưa ra cái đề nghị, không thể tưởng tượng được ngươi lại làm thật. Viễn chinh Triều Tiên, rất có quyết đoán! Nguyên Khánh, ngươi chưa từng để ta phải thất vọng.
Bùi Củ cũng không vội đàm về Đột Quyết cùng Dương Nguyên Khánh. Ông ta lấy ra một đồng tiền bạc từ bàn ra, cười hỏi Dương Nguyên Khánh:
- Ta muốn biết, Đại Tùy chuẩn bị phát hành bao nhiêu tiền bạc?
- Đang chuẩn bị phát hành rất nhiều. Dự định trong vòng hai năm có thể phát hành năm triệu đồng.
- Năm triệu? Thực không ít!
Bùi Củ cau mày nói:
- Lần phát hành tiền bạc này có động tĩnh rất là lớn. Cả Thái Nguyên đều đang ồn ào huyên náo. Ngay cả ta vốn là người ít ra khỏi nhà, cũng có nghe nói tới. Ngươi đã từng suy nghĩ qua phản ứng từ Trường An chưa.
Dương Nguyên Khánh nghĩ đến quán rượu Bát Phương, liền cười nói:
- Chắc hẳn vài ngày trước, Trường An đã biết tin này. Cháu có thể suy đoán ra phản ứng của bọn họ.
- Vậy à?
Bùi Củ nhìn chăm chú Dương Nguyên Khánh hỏi:
- Ngươi cho rằng, Lý Uyên có thể chấp nhận tiền bạc mà ngươi phát hành sao?
Dương Nguyên Khánh trầm tư môt lát, chậm rãi nói:
- Cháu đã tăng binh lính ở quận Hội Ninh lên hai mươi nghìn người. Hiện tại, binh lực ở quận Hội Ninh là hai mươi lăm nghìn người. Nếu quận Hội Ninh xảy ra chuyện gì, cháu có thể kịp thời tiếp viện.
Bùi Củ than nhẹ một tiếng nói:
- Nguyên Khánh, không phải ta có ý trách móc. Nhưng ngươi phát hành tiền bạc lần này, có chút không sáng suốt. Hoặc nói thẳng ra là quá nóng vội. Việc phát hành tiền bạc, đã làm phá vỡ sự cân bằng của Tùy Đường vào lúc này. Đường triều sao có thể dễ dàng tha thứ cho ngươi đoạt của cải của bọn họ. Nhẹ thì hai bên lại đàm phán, nhưng nếu nghiêm trọng, thì chiến tranh giữa Tùy Đường lại bùng nổ. Nguyên Khánh, ngươi đã từng nghĩ tới chuẩn bị chiến tranh chưa?
- Cháu đã tính toán tới tình huống xấu nhất. Không sợ xảy ra một trận chiến với Đường triều.
- Vậy còn Đột Quyết? Nếu bọn chúng nhân cơ hội lần này, mở một quy mô lớn từ phía bắc tấn công triều Tùy, ngươi làm thế nào để ứng phó?
Hai mắt sáng ngời của Bùi Củ nhìn chăm chú vào Dương Nguyên Khánh.
Sau một lúc lâu, Dương Nguyên Khánh mới bất đắc dĩ nói:
- Hôm nay cháu đến, chính là muốn cùng tổ phụ đàm về vấn đề Đột Quyết.
Ánh sáng trong mắt Bùi Củ biến mất, mà trở nên bình tĩnh. Bình tĩnh giống như chiếc giếng cổ, không chút gợn sóng. Ông ta thản nhiên nói:
- Được rồi! Phía Đột Quyết có yêu cầu gì?
- Đột Quyết yêu cầu ba điều kiện. Thứ nhất là hai bên bình đẳng, không còn là mối quan hệ nước phụ thộc nữa. Thứ hai là hủy bỏ hết những hạn chế của mậu dịch, thả lỏng việc mậu dịch từ dân gian. Thứ ba là giao tộc Ô Đồ cho b.
- Vậy ngươi đáp ứng không?
Bùi Củ lại tiếp tục hỏi.
Dương Nguyên Khánh lắc đầu nói:
- Ngoại trừ điều kiện thứ nhất cháu có thể đáp ứng. Nhưng hai điều kiện kia, cháu tuyệt đối không thể chấp nhận.
Dừng một chút, Dương Nguyên Khánh lại hỏi:
- Sao tổ phụ không hỏi, Đột Quyết đáp ứng cái gì?
- Bọn chúng có thể đáp ứng cái gì?
Bùi Củ cười lạnh một tiếng:
- Đơn giản chính là đáp ứng ngươi, trong vòng một năm hoặc hai năm, triều Tùy và Đột Quyết ở chung hòa bình, không xâm lấn lẫn nhau. Có phải hay không?
Dương Nguyên Khánh không thể không bội phục cái nhìn sắc bén của Bùi Củ. Một câu là đoán trúng. Hắn yên lặng gật đầu:
- Chính như lời tổ phụ nói, Đột Quyết đưa ra điều kiện này.
Bùi Củ nhắm mắt không nói, mà ngồi xếp bằng trên giường. Thân thể ông ta khô gấy giống như một vị cao tăng đắc đạo đang tu hành. Dương Nguyên Khánh không quấy rầy sự trầm tự của ông ta. Hắn biết Bùi Cũ sẽ có đáp án cho mình.
Trải qua thời gian chừng một nén nhang, Bùi Củ rốt cục mở mắt. Ông ta nhìn thật sâu vào hai mắt của Dương Nguyên Khánh, chậm rãi nói:
- Ta cho ngươi một đề nghị. Phái sứ giả đi tới Trường An, giải thích với Đường triều rằng, nguyên nhân của việc phát hành tiền bac cũng không phải là muốn đoạt lấy của cải của bọn họ. Làm như vậy để trấn an dư luận.
- Sau đó thì sao?
Dương Nguyên Khánh bất động thanh sắc hỏi, không tỏ vẻ thái độ với đề nghị của Bùi Củ.
- Sau đó triệu tập đại quân đóng quân ở phương bắc. Chuẩn bị chống lại sự xâm nhập của Đột Quyết.
- Sao tổ phụ lại có quyết định này?
Dương Nguyên Khánh rốt cục không che dấu được sự kinh ngạc hỏi:
- Chẳng lẽ chúng ta không đồng ý điều kiện của Đột Quyết, bọn chúng sẽ xâm lấn sao?
Bùi Củ lắc đầu nói:
- Cái này không có liên quan gì tới việc bác bỏ điều kiện của bọn chúng. Mặc kệ ngươi có đáp ứng hay không, Đột Quyết tất nhiên sẽ xâm nhập phía nam. Ta phỏng chừng bọn chúng muốn tiêu diệt bộ phận còn lại của tộc Ô Đồ.
- Vậy rốt cuộc bọn chúng có âm mưu gì.
- Bọn chúng muốn tạo uy vọng!
Bùi Củ nhấn mạnh:
- Ngươi hiểu chưa? Là vì tạo uy vọng, tộc Ô Đồ phải bị diệt vong. Bất kỳ một vị quân chủ thảo nguyên nào muốn xưng bá thảo nguyên, đầu tiên phải có uy vọng. Đối với người Hán chúng ta, một vị vua mới đăng cơ thì cần sự ổn định. Nhưng đối với người Đột Quyết lại khác, nếu Hiệt Lợi Khả Hãn không nhanh chóng lập uy, thì y dùng cái gì để thống trị các bộ lạc vốn hay bị chia rẽ của người Đột Quyết. Cho nên chỉ có dùng chiến tranh, mới có thể nhanh chóng ngưng tụ uy danh cho y. Tóm lại, việc Đột Quyết tấn công phía nam có bảy thành sẽ xảy ra. Nguyên Khánh, ngươi nhất định phải trấn an Đường triều. Không thể để rơi vào kết cục hai mặt thụ địch.
Dương Nguyên Khánh cũng nhịn được hừ một tiếng:
- Tổ phụ nghĩ Đường triều có thể chấp nhận trấn an sao? Nếu Đột Quyết công Tùy, bọn họ liệu sẽ án binh bất động? Hay là cử binh giúp ta?
Bùi Củ ngơ ngác nhìn Dương Nguyên Khánh một lúc, mới thở dài nói:
- Nguyên Khánh, kỳ thực lần trước ta đã nói qua. Vấn đề lớn nhất của ngươi chính là mọi việc quá như ý, không gặp phải quá nhiều trắc trở. Cái này khiến tính cách của ngươi trở nên không chịu thua kém. Đại trượng phu nên co được dãn được. Kỳ thực ngươi có thể yếu đuối một chút, tương lai mới không có họa. Bên trong Đường triều cũng có người nhận biết đại nghĩa, sẽ không nhân cơ hội ngoại tộc tấn công triều Tùy mà đâm lén sau lưng. Chỉ cần ngươi yếu thế, cho Đường triều chút mặt mũi. Vậy thì phía đại nghĩa sẽ chiếm thượng phong. Nguyên Khánh, ngươi cứ thử một lần đi.
Dương Nguyên Khánh trầm mặc một lúc lâu, rồi mới đứng lên nói:
- Đa tạ tổ phụ đã nhắc nhớ. Chuyện này để cháu suy nghĩ một chút. Cháu xin cáo từ.
Hắn thi lễ rồi xoay người lui xuống. Bùi Củ nhìn Dương Nguyên Khánh, không khỏi lắc đầu. Ông ta có thể cảm nhận được bản chất lạnh lùng cao ngạo của Bùi Củ nhìn Dương Nguyên Khánh. Bảo hắn yếu thế trước Đường triều, chỉ sợ là làm khó hắn. Trong mắt Bùi Củ tràn đầy vẻ sầu lo.
Một lát, Bùi Diệu đi đến, hướng Bùi Củ thi lễ:
- Tổ phụ, Sở Vương điện hạ đi rồi.
Chương 911 : Chặn giết sứ giả Đột Quyết (1+2)
- Hắn có nói gì không?
- Hồi bẩm tổ phụ, hắn không nói gì, chỉ tỏ vẻ lo lắng. Ngay cả một câu cũng không nói với cháu.
Bùi Củ gật đầu. Tuy Dương Nguyên Khánh cao ngạo, nhưng rất thông mình. Hẳn là hắn đã thấy được thế cục ác liệt hiện tại, mà suy nghĩ cặn kẽ.
Lúc này, Bùi Diệu do dự một chút nói:
- Vì sao tổ phụ không nhắc tới việc quan viên Hà Đông điều tới Hà Bắc làm việc. Chuyện này có thể ảnh hưởng tới lợi ích của Bùi gia.
Việc Bùi Diệu đang hỏi, chính là đề nghị của Tô Uy nói cho Dương Nguyên Khánh, hoán đổi quan viên Hà Bắc và Hà Đông nhằm phá vỡ việc khống chế của quan lại sĩ tộc ở địa phương. Phương án này đã bắt đầu thực thị. Đã có một vị Thái Thú, một vị Trưởng sử và mười vị Huyện lệnh được điều đến Hà Bắc. Những người này đều là thế lực bên ngoài của Bùi gia.
Chuyện này Bùi Củ vẫn không tỏ thái độ gì. Nhưng Bùi Diệu và các tộc nhân khác của Bùi thị đều rất lo lắng, chỉ là tìm không được cơ hội để khuyên bảo. Hôm nay, rốt cuộc Bùi Diệu không kìm nổi, nhắc nhở tổ phụ.
Bùi Củ hung hăng trừng mắt nhìn cháu trai:
- Chuyện này chả nhẽ ta không biết chắc? Cần gì phải ngươi nhắc nhở!
Giọng điệu nghiêm khắc của gia chủ, khiến Bùi Diệu sợ tới run rẩy, vội vàng cúi đầu:
- Cháu không dám!
Y vội vàng lui ra, vừa đến cửa, Bùi Củ bỗng nhớ tới một chuyên, liền gọi y lại:
- Chờ một chút!
- Tổ phụ còn có chuyện gì sao?
Bùi diệu khoanh tay hỏi,
Bùi Củ cực kỳ không vui nói:
- Chính là việc của muội muội ngươi. Nữ nhân của Bùi gia sao có thể bán rượu. Nó không muốn tái giá, ta sẽ không miễn cưỡng. Nhưng nó quyết không thể làm một thương nhân hám lợi. Bùi gia không thể dễ dàng tha thứ việc này!
- Cháu đã rõ, cháu sẽ đi khuyên muội muội.
- Không cần khuyên!
Bùi Củ lên giọng:
- Cảnh cáo nó. Nếu nó không biết hối cải, thì đừng trách ta dùng gia pháp xử lý…
Xe ngựa chậm rãi đi trên đường, Dương Nguyên Khánh ngồi trong xe, hai mắt khép hờ. Trong đầu hắn vẫn đang suy nghĩ tới đề xuất của Bùi Củ. Hướng Đường triều tỏ vẻ yếu thế, trấn an ở Đường triều. Hắn không phủ nhận việc Bùi Củ suy đoán Đột Quyết Khả Hãn muốn tạo uy danh. Khả năng này thực sự là quá cao.
Nhưng sẽ là lúc nào. Bây giờ là giữa tháng mười, gió lạnh đã thổi tới Thái Nguyên. Như vậy, thảo nguyên càng lạnh thấu xương. Mùa đông đã sắp đến, tuyết lớn sẽ bao trùm cả thảo nguyên. Trước đây chưa từng có việc Đột Quyết tấn công phía nam vào mùa đông. Bởi vì do hậu cần của bọn họ không thể cung cấp đủ. Một khi không thể lập tức đánh hạ Trung Nguyên, ngựa chiến của bọn họ chắc chắn sẽ chết đói.
Mùa xuân năm trước, Thủy Tất Khả Hãn đã tấn công Phong Châu, làm cho quân tâm bất ổn. Liệu Hiệt Lợi Khả Hãn sẽ giẫm lên vết xe đổ, đến mùa xuân thì tấn công phía nam sao? Có khả năng này, nhưng không lớn. Hắn Dương Nguyên Khánh không thể đưa ra những quyết sách trọng đại chỉ dựa vào một việc có xác suất xuất hiện nhỏ như vậy.
Mấu chốt là thời gian, chỉ cần có ba bốn tháng, hắn có thể dẫn Tây Đột Quyết tới, khơi mào cuộc chiến Đông Tây Đột Quyết. Như thế, hắn có thể tiêu trừ uy hiếp từ Đột Quyết phương bắc.
Tuy nhiên, vẫn phải trấn an Đường triều. Không thể vì tiền bạc phát hành mà bùng nổ chiến tranh. Ít nhất trong lúc loại bỏ nguy cơ từ Đột Quyết, phải trấn an Đường triều.
Dương Nguyên Khánh đang muốn hạ lệnh trở về Tử Vi Các bỗng nhiên, trong đầu hắn xuất hiện một ý niệm. Hắn nhớ tới vị công chúa Hiệt Dát Tư kia, lập tức cải biến chủ ý ra lệnh:
- Đi vòng về phủ…
A Tư Đóa từ sau khi đến Đại Tùy, vẫn thành thật sống ở trong phủ. Tâm tình của nàng không quá tốt, chủ yếu là vì dưới gối không con. Bất kể là nữ nhân nào, đều muốn có một đứa con để dựa sau này.
Nữ nhân tới một độ tuổi nhất định, đều khát vọng có thể có một đứa con của mình. A Tư Đóa cũng không ngoại lệ. Năm nay nàng đã hai mươi bốn tuổi, mong muốn có con khiến nàng lo lắng.
Bùi Mẫn Thu cũng lý giải tâm tình của nàng, nên thường xuyên khuyên trượng phụ để ý tới nàng. Nhưng trong bụng của A Tư Đóa vẫn không thấy động tĩnh khiến A Tư Đóa có chút tuyệt vọng. Nàng không muốn giống như Uất Trì, quy y Phật giáo, tìm sự yên lặng trong lòng mà muốn chuẩn bị tìm một đứa con nuôi.
A Tư Đóa có quan hệ rất tốt với Uất Trì và Giang Bội Hoa. Giữa trưa, nàng mới từ chỗ Uất Trì trở về. Vừa mới đi tới cửa sân, bỗng nhiên nghe thấy tiếng người gọi nàng:
- Đóa nhi!
Nàng có chút vui mừng bất ngờ. Người gọi nàng là Đóa nhi, chỉ có một người là Dương Nguyên Khánh. Nàng vừa quay đầu lại, quả nhiền là Dương Nguyên Khánh đang bước nhanh tới.
A Tư Đóa mừng rỡ, nhảy lên trước kéo tay của Dương Nguyên Khánh:
- Sao phu quân lại tới đây?
Mặt của nàng bỗng nhiên đỏ lên. Chẳng lẽ trượng phu muốn ban ngày làm chuyện đấy? Như vậy sao được.
Dương Nguyên Khánh nhưng không có suy nghĩ nhiều như vậy. Hắn kéo tay nàng qua một bên, thấp giọng hỏi:
- Ta nhớ tới nàng đã nói qua việc của công chúa Hiệt Dát Tư. Nàng nói lại cho ta một lần nữa.
- Phu quân hỏi cái này làm gì?
A Tư Đóa ghen tuông vểnh môi hỏi. Trong lòng nàng có chút thất vọng. Hóa ra là hắn chỉ quan tâm tới công chúa Hiệt Dát Tư, mà không phải mình, một công chúa Đột Quyết. Chẳng nhẽ hắn muốn cưới công chúa Hiệt Dát Tư sao?
- Sự tình rất quan trọng. Nàng mau nói cho ta biết!
A Tư Đóa nghe thấy là việc quan trọng, ghen tuông trong lòng liền biến mất, ngưng thần suy nghĩ một chút nói:
- Hiệt Dát Tư tổng cộng có ba vị công chúa. Hai vị trước đã xuất giá. Còn một vị tiểu công chúa gọi là Cống Lạp. Tướng mạo xinh đẹp như hoa, chỉ kém thiếp một tuổi. Thưở nhỏ nàng ta đã được hứa hôn cho Ba Vương Tử Mặc Kham Đa. Thiếp cảm thấy bọn họ hẳn là đã lập gia đình.
Dương Nguyên Khánh chính là muốn nghe tin tức này. Trong đầu hắn có một ý tưởng can đảm, khiến hắn hưng phấn không thôi. Hắn nhéo nhéo khuôn mặt của A Tư Đóa, cười nói:
- Buổi tổi ta sẽ khao nàng, ta đi trước đây.
Nói xong, Dương Nguyên Khánh xoay người bước nhanh rời đi. A Tư Đóa nhìn bóng lưng cao lớn của hắn dần đi xa. Nghĩ tới buổi tối hắn sẽ khao mình, xuân ý trong lòng lập tức dạt dào…
Ở biên giới dài dằng dặc giữa Đột Quyết và Trung Nguyên, gần như đại bộ phận đều là lãnh thổ của triều Tùy. Từ Liêu Đông tới Phong Châu, kéo dài mấy trăm dặm. Mà biên giới giữa Đường triều và Đột Quyết chỉ có vùng Hà Tây, dài mấy trăm dặm. Đại bộ phận ở đó là sa mạc, hầu như không có người sinh sống.
Chỉ có bắc đạo Trương Dịch là thương đạo duy nhất để Đường triều tiến vào Đột Quyết. Bắc đạo Trương Dịch còn tên gọi là thương đạo Cư Diên. Dọc theo Trương Dịch Hà Bắc đi lên mấy trăm dặm là đến Cư Diên Trạch. Cư Diên Trạch là biên giới phía bắc của Đường triều. Qua Cư Diên Trạch là tới địa giới của Đột Quyết. Mênh mông là thảo nguyên, không nhìn tới bến.
Thương đạo Cư Diên đã có lịch sử mấy trăm năm. Từ thời nhà Hán, các thương nhân vùng Tiểu Á đã bôn ba ngàn dặm đi tới Cư Diên Trạch. Lại theo Trương Dịch Hà Nam đi vào hành lang Hà Tây. Bọn họ thu mua tơ lụa và đồ sứ của Trung Nguyên ở quận Trương Dịch, sau đó lại vận chuyển về phương Tây xa xôi để thu những món tiền kếch sù.
Mà Đại Đường và Đột Quyết lui tới, cũng là đi bắc đạo Trương Dịch. Bởi vì quận Hội Ninh đã bị triều Tùy chiếm lĩnh, cho nên sứ giả Đột Quyết từ Trường An trở về Đột Quyết, cũng chỉ có thể đi quận Kim Thanh qua Hoàng Hà. Sau đó tiến vào hành lang Hà Tây, men theo bắc đạo Trương Dịch trở về thảo nguyên.
Quận Kim Thành chính là vùng Lan Châu sau này. Ở thời kỳ Tùy Đường, nơi đây có khí hậu ấm áp, lượng mưa đầy đủ, thảm thực vật tươi tốt, đất đai phì nhiêu, nhân khẩu dày đặc. Từ thời Hán tới nay, nơi đây đã là vùng đất giàu có và đông đúc. Nhưng nhân khẩu của quận Kim Thành tập trung chủ yếu ở đông Hoàng Hà. Mà ở tây Hoàng Hà, do núi non trập trùng, đất trồng trọt rất ít, phần lớn là sa mạc và cỏ. Nên ở đây tập trung chủ yếu là dân tộc du mục.
Trưa hôm nay, một đội ky binh gồm ba trăm người từ phương bắc đi tới. Đoàn người lao nhanh như điện. Nhưng vẫn có thể thấy rõ ràng là trang phục của kỵ binh Tùy. Mặc dù khôi giáp của bọn họ về cơ bản là giống với quân Đường, nhưng mũ giáp mà quân Tùy đội lại có màu đỏ của lửa. Đây là khác biệt lớn nhất giữa hai quân.
Sự khác biệt tiếp theo là hai cánh tay của quân Tùy có đeo vòng màu đỏ của lửa. Cuối cùng là chiến kỳ. Chiến kỳ của quân Tùy có thiêu một con xích ưng rất nổi bật, khác với màu cờ xen lẫn màu trắng hồng của quân Đường.
Tuy nhiên, đây là địa giới của Đường triều, nên đội quân Tùy này không có lộ ra chiến kỳ của bọn họ. Đoàn kỵ binh lao nhanh giữa thảo nguyên rộng lớn chạy về hướng nam. Dẫn đầu là một vị lão tướng tuổi gần bốn mươi. Ông ta là Á Tướng Mã Thiệu.
Mã Thiệu từ lúc hai mươi tuổi đã đi theo Dương Nguyên Khánh làm chức Hỏa Trưởng. Quê quán của ông ta chính là quận Trương Dịch. Trong dòng máu của ông ta, có một nửa là huyết thống người Hồ. Phụ thân của ông ta vốn là một võ sư người Hán. Vì nhỡ tay đánh bị thương một người, nên bỏ chạy tới quận Trương Dịch.
Về sau sinh sống ở quận Trương Dịch, cưới một vị nữ tử người Khương làm vợ, sinh ra Mã Thiệu. Mã Thiệu từ tám tuổi đã bắt đầu học võ. Mười hai tuổi liền đi theo phụ thân buôn ba ở hành lang Hà Tây, làm hộ vệ cho các thương nhân. Mười tám tuổi thì nhập ngũ. Năm Khai Hoàng thứ mười chín, Mã Thiệu đã hai mươi tuổi, đầu quân vào Dương Nguyên Khánh, trở thành nhóm thủ hạ đầu tiên của hắn.
Nhoáng cái đã gần hai mươi năm trôi qua. Mã Thiệu từ một tên tiểu binh dần dần đã trở thành Á Tướng, quan chức phong tới Hữu Đồn Vệ tướng quân, tước là huyện hầu Trương Dịch. Ông ta rất trung thành và tận tâm đối với Dương Nguyên Khánh.
Mã Thiệu vốn là phụ trách trị an của kinh thành. Nhưng sau triều Tùy chiếm được quận Hội Ninh, ông ta liền chuyển công tác thành tổng quản Hội Châu, dẫn theo năm nghìn quân đóng ở quận Hội Ninh, có nhiệm vụ là bảo vệ sự an toàn của mỏ bạc. Dương Nguyên Khánh vì tín nhiệm ông ta, mới giao phó trọng trách quan trọng như vậy.
Ước chừng vào mười ngày trước, Dương Nguyên Khánh ra lệnh cho Bùi Hành Nghiễm dẫn theo hai mươi nghìn quân tới tiếp viện cho quận Hội Ninh. Bởi vì Bùi Hành Nghiễm là tướng quân, bất kể là chức quan hay tước vị đều cao hơn Mã Thiệu một bậc, bởi vậy Mã Thiệu liền tạm thời trở thành phó tướng bắc quân. Lại vào ba ngày trước, Dương Nguyên Khánh phát tới mệnh lệnh, ra lệnh cho bọn họ chặn giết sứ giả Đột Quyết tới Đường triều. Mã Thiệu liền chủ động xin đi giết giặc, đảm đương nhiệm vụ lần này.
Võ nghệ của Mã Thiệu cũng không cao lắm, có thể cầm được một thanh Đại Khảm Đao nặng sáu mươi cân, nhưng đao pháp lại không tinh. Chủ yếu ông ta có kinh nghiệm phong phú, bản thân lại đã từng làm thám báo. Trải qua hai mươi năm kiếp sống quân lữ, kinh nghiệm của ông ta cực kỳ lão luyện.
Lần này mang theo ba trăm kỵ binh, đều là tinh nhuệ nhất trong hai mươi lăm nghìn quân. Mỗi người đều thành thạo việc bắn cung cưỡi ngựa, võ nghệ lại cao cường. Ngoại trừ chủ tướng Mã Thiệu, còn có hai vị thiên tướng tuổi còn trẻ. Một vị là Tiêu Diên Niên, mười bảy tuổi. Một vị là Tần Hoài Ngọc mười lăm tuổi.
Tiêu Diên Niên là con trai của Vũ Văn Thành Đô, đã được nói từ trước. Mà Tần Hoài Ngọc là đứa con cả của Tần Quỳnh. Trên thực tế, Tần Hoài Ngọc còn có hai vị huynh trưởng nhưng mười năm trước đã bị bệnh qua đời. Cho nên Tần Hoài Ngọc trở thành con cả. Y còn có hai vị tỷ tỷ, một vị đệ đệ. Hai tỷ tỷ đều đã xuất giá.
Dung mạo của Tần Hoài Ngọc rất giống Tần Quỳnh. Mắt hổ mũi cao, đôi tai rất lớn, nhưng lông mày lại thanh tú hơn Tần Quỳnh. Làn da của y rất trắng, cao tầm sáu thước hai tấc, vai rộng eo nhỏ, tư thế oai hùng.
Tần Hoài Ngọc là người văn võ song toàn. Năm tuổi luyện võ, mười tuổi đọc sách. Hai năm trước cũng vào cung cùng Dương Hựu đọc sách, đồng thời là thị vệ cho Dương Hựu. Ba tháng trước Tần Hoài Ngọc đủ mười lăm tuổi. Tần Quỳnh chính thức đồng ý y nhập ngũ, đi theo Bùi Hành Nghiễm xuất chinh quận Hội Ninh.
Tần Hoài Ngọc cũng sử dụng một cây mã giáo, phía sau là đoạt mệnh giản. Y đã học được chân truyền từ phụ thân Tần Quỳnh và sư phụ Bùi Hành Nghiễm, cho nên võ nghệ cực kỳ cao cường, được coi là người nổi bật trong số những vị tướng trẻ của Đại Tùy. Tuy Tần Hoài Ngọc chỉ có mười lăm tuổi nhưng tính cách đã rất trầm ổn, làm người chính trực, có phần bóng dáng của phụ thân.
Tiêu Diên Niên là đầu năm nhập ngũ. Y đã trải qua vài lần đại chiến, kinh nghiệm phong phú hơn nhiều lắm so với Tần Hoài Ngọc mới lần đầu xuất chinh. Bất quá y làm người khá kiêu ngạo, không nguyện ý hướng Tần Hoài Ngọc truyền thụ kinh nghiệm gì. Trên cơ bản, đều là do Mã Thiệu dạy Tần Hoài Ngọc một ít kinh nghiệm thám báo.
Mã Thiệu là người trầm mặc ít nói, nhưng tâm địa vô cùng tốt. Ông ta luôn ở mấu chốt chỉ điểm cho Tần Hoài Ngọc, để cho y tự mình suy nghĩ.
Mã Thiệu dùng ngón tay chỉ về hướng một rừng cây phía trước nói:
- Đến rừng cây kia nghỉ ngơi một chút.
Tiêu Diên Niên không nói một lời, nhưng Tần Hoài Ngọc lại tò mò hỏi:
- Mã thúc, vừa rồi chúng ta có đi qua một cánh rừng, hơn nữa lại dựa vào quan đạo, rất tiện cho việc tra xét tình huống. Vì sao không nghỉ ngơi ở bên kia?
- Những nơi dựa vào quan đạo rất dễ bị quân trinh sát của Đường phát hiện ra. Việc tra xét tình báo là chuyện của đội thám báo, chúng ta chỉ cần nghỉ ngơi thôi.
Mã Thiệu đơn giản giải thích, rồi phóng ngựa chạy tới khu rừng cách đó hai dặm. Tần Hoài Ngọc suy nghĩ một chút mới bừng tỉnh đại ngộ. Nếu bị trinh sát của quân Đường phát hiện, bọn họ sẽ thông báo cho sứ giả Đột Quyết. Vậy thì nhiệm vụ lần này của bọn họ coi như thất bại.
Lúc này, Tiêu Diên Niên phóng ngựa vượt qua y. Lòng tranh cường háo thắng lập tức khơi dậy trong lòng Tần Hoài Ngọc. Y cũng giục ngựa chạy nhanh. Ngựa chiến của y chính là do Dương Nguyên Khánh tặng. Đây là một con ngựa Đại Uyên, thể trạng cao lớn, tứ chi cường kiện. Rất nhanh đã vượt qua được Tiêu Diên Niên.
Tiêu Diên Niên cắn môi dưới, mãnh liệt quất ngựa chiến. Hai người đấu ngay ngắt, so tài chạy tới rừng cây, khiến cho bụi đất trên đường bay lên cuồn cuộn. Mã Thiệu nhìn bóng dáng của bọn hắn, không khỏi lắc đầu mỉm cười. Tuổi trẻ vẫn là tốt hơn!
Hai người gần như là đồng thời tới rừng cây. Bọn họ liếc nhau, hiểu ý mỉm cười. Lúc này ba trăm kỵ binh mới lục đục chạy tới. Mọi người vào rừng cây, đều tìm chỗ để nghỉ ngơi. Bọn họ lấy ra túi nước cho ngựa uống. Lại lấy ra hồ bánh gói trong lá sen, ăn rất ngon lành.
Mã Thiệu tìm tới một tảng đá lớn, mở ra bản đồ, cẩn thận quan sát đường đi ngõ tắt trên bản đồ. Ông ta rất tinh tường đối với địa thế vùng này. Ông ta biết sứ giả Đột Quyết muốn đi vào hành lang Hà Tây, tất nhiên sẽ đi qua con đường này.
Lúc đi nửa đường, bọn họ đã nhận được tin tức. Buổi sáng ngày hôm qua, sứ giả Đột Quyết đã đi qua Hoàng Hà. Như vậy trải qua một ngày một đêm liên tục chạy, hẳn là sắp tới vùng này rồi.
Mã Thiệu nhắm mắt trầm tư, lúc này Tiêu Diên Niên đi lên trước, ngồi xổm nhìn bản đồ hỏi:
- Sứ giả Đột Quyết có thể phái đội quân dò đường hay không?
Câu hỏi này hỏi đúng trọng tâm. Sứ giả Đột Quyết tổng cộng có mười tám người. Nhưng có hơn một trăm quân Đường hộ tống. Tới gần giữa trưa, khẳng định sẽ có đội quân đi phía trước dò đường. Mà nhiệm vụ của bọn họ chính là muốn tiêu diệt toàn bộ đám người, đồng thời hủy thây diệt tích. Cho nên đội quân dò đường không thể bỏ qua.
Mã Thiệu trầm ngâm một chút nhân tiện nói:
- Phía tây nam hai mươi dặm có một con sông nhỏ. Ở đó chắc có thể phát hiện ra tung tích của bọn hắn. Chúng ta sẽ chia làm hai đường, ta cho ngươi hai mươi người, phụ trách việc xử lý đội quân dò đường. Còn lại thì do ta phụ trách.
Tần Hoài Ngọc có lẽ còn có thể cò kè mặc cả, nhưng Tiêu Diên Niên sẽ không. Y biết đây là mệnh lệnh, y nhất định phải chấp hành. Tiêu Diên Niên lập tức đứng lên ôm quyền nói:
- Ty chức tuân mệnh!
Tiêu Diên Niên trở mình lên ngựa, dẫn theo hai mươi kỵ binh chạy như bay. Tần Hoài Ngọc khó hiểu, chạy lên trước hỏi:
- Mã thúc, Tiêu đại ca muốn đi nơi nào?
Mã Thiệu vỗ vỗ bờ vai của y, trầm giọng nói:
- Nếu là quân nhân, nên xưng ta là tướng qxưng y là Tiêu Giáo Úy. Nhớ kỹ đấy!
Mặt của Tần Hoài Ngọc trở nên đỏ, liền vội vàng khom người nói:
- Ty chức nhớ kỹ.
Mã Thiệu nhìn thoáng qua đám binh sĩ còn đang liều mạng uống nước ăn lương khô, liền thâm ý nói với Tần Hoài Ngọc:
- Ngươi nên học tập các huynh đệ, nắm chặt thời gian ăn cơm trưa. Một lát sau chúng ta sẽ xuất phát…
Ở quan đạo cách đó hai mươi dặm, năm người kỵ binh quân Đường đang chạy vội. Bọn họ chính là quân dò đường cho sứ giả Đột Quyết. Tới gần giữa trưa, bọn họ cần phải tìm một chỗ để cho đoàn sứ giả nghỉ ngơi. Vùng này vừa lúc kẹp giữa hai ngọn núi lớn, hai bên là rừng rậm. Bọn họ cần phải tìm một dòng sông nhỏ hoặc con suối.
Bọn họ lại chạy được ba dặm đường, đã nhìn thấy khe núi. Một tên binh lính chỉ phía trước hô to:
- Có một con sông nhỏ!
Phía trước quả nhiên có một con sông nhỏ. Bọn họ chạy lên trước. Chỉ thấy con sông rộng chừng bốn năm trượng. Lòng sông rất cạn, nước sông chỉ tới mắt cá chân. Dòng nước chảy xiết, từng bọt nước màu trắng bắn lên, lạnh lẽo mà trong suốt.
Bọn họ lại nhìn kỹ bốn phía. Chỉ thấy cách đó không xa là một rừng cây phong. Lá cây đỏ bừng, khiến cả khu rừng giống như bị lửa thiêu, xinh đẹp dị thường. Đây là nơi phù hợp để nghỉ ngơi.
Năm tên kỵ binh Đường mừng rỡ, liền quay đầu ngựa lại chạy về thông báo. Bọn họ vừa mới chạy tới thung lũng, đột nhiên, nghe thấy tiếng dây cung vang lên. Hai mươi mũi tên từ hai bên phóng tới. Bốn người quân Đường kêu thảm một tiếng, rơi xuống ngựa.
Còn một người thì sợ đến hồn phi phách tán, điều khiển ngựa chạy đi hướng khác để trốn. Nhưng mới trốn được hai mươi bước, một mũi tên đã vù vù phóng tới, bắn trúng gáy của y. Người kỵ binh Đường hai tay ôm cổ họng, trợn mắt rơi xuống ngựa. Tiêu Diên Niên để cung tên xuống, lạnh lùng lầm bầm nói:
- Ngươi sao có thể tránh nổi mũi tên của ta…
Đoàn sứ giả Đột Quyết tổng cộng có mười tám người. Người đứng đầu là phó tướng Mặc Diên Trác. Sau khi Dương Nguyên Khánh suy nghĩ cặn kẽ, hắn quyết định diệt trừ đoàn sứ giả này. Đây thật ra là một sự mạo hiểm chính trị rất lớn. Sớm muộn gì người Đột Quyết cũng sẽ biết là quân Tùy hạ thủ. Đây chính là cái cớ tối nhất để người Đột Quyết tấn công quân Tùy. Điểm này, trong lòng Dương Nguyên Khánh biết rõ.
Nhưng bất cứ chuyện gì, đều có cái lợi cái hại của nó. Mấu chốt là cái lợi lớn, hay cái hại lớn. Chỉ cần có 51% cái lợi, thì lợi đã lớn hơn hại, có thể xem xét chấp hành. Trừ khử đội sứ đoàn Đột Quyết, trong thời gian ngắn, là có lợi cho triều Tùy. Cùng lúc nó có thể tạo ra sự ngờ vực vô căn cứ giữa Đột Quyết và Đường triều. Phá hư sự kết minh cùng tấn công Tùy giữa hai nước.
Chương 912 : Chiến lược thoái binh
Về phương diện khác, chuyện này có thể kéo dài thời gian. Khoảng cách giữa Trường An và Đột Quyết quá xa xôi. Việc qua lại phải mất thời gian cả tháng. Ít nhất phải chạy qua chạy lại hai lần mới có thể cởi bỏ hiểu lầm, vạch trần chân tướng. Như vậy thì đã qua mất nửa năm. Đây sẽ là khoảng thời gian cực kỳ quý báu với triều Tùy. Cho nên Dương Nguyên Khánh thà rằng cho Đột Quyết có cái cớ tấn công, cũng muốn chiếm lấy tiên cơ trước, giành được thời gian.
Lúc này đội sứ giả Đột Quyết còn cách hơn mười dặm với tốc độ không nhanh không chậm. Sau khi rời khỏi Trường An, bọn họ đã đi được mười ngày. Một đường cực kỳ thuận lợi, các quan phủ ven đường đều có tiếp đãi chu đáo, rượu ngon, thức ăn ngon. Khiến bọn họ khắc sâu cảm nhận được sự hàm nghĩa tôn quý khách nhân.
Tuy nhiên, sau khi vượt qua Hoàng Hà, bọn họ cần hai ngày rong ruổi trên đoạn đường hoang vắng, mới có thể đến thành Lương Châu của quận Võ Uy, nơi có mật độ dân cư dày đặc. Từ khi qua Hoàng Hà, trên đường dần thưa thớt người. Ngẩng đầu là núi cao, trời quang. Cúi đầu là sa mạc, thảo nguyên. Lúc đầu cảm giác có chút khoáng đạt. Nhưng càng đi lâu, càng cảm thấy cực kỳ nhàm chán.
Đoàn người buồn bực không nói chuyện, chậm rãi đi trên quan đạo. Mặc Diên Trác thường xuyên ngẩng đầu quan sát phong cảnh hai bên. Y có chút đói bụng, nghĩ muốn tìm một chỗ để ăn trưa. Nhưng khu vực quanh đây gần như không có con sông, suối nước nào.
- Đại tướng!
Một người tùy tùng dùng tiếng Đột Quyết nói:
- Vùng này hình như trước đây chúng ta đã đi qua. Tại hạ nhớ ra phía trước có một thung lũng. Ra khỏi thung lũng là có một nhánh sông, nước sông rất trong lành.
Lời này liền nhắc nhở Mặc Diên Trác. Y cũng nhớ ra, gần đây quả thật có một nhánh sông, nước sông rất cạn nhưng trong veo. Y vén mảnh vải nhìn về phía bắc quan đạo. Khe núi đã ở cách đó không xa. Mặc Diên Trác liền lập tức hạ lệnh nói:
- Tăng tốc độ!
Đội ngũ đi nhanh hơn. Một lát liền đã tới cửa khe núi. Bọn họ cũng không có nghi ngờ gì. Dù sao đây là cảnh nội của Đại Đường. Mười ngày đi đường thuận lợi, đã làm tê đi sự cảnh giác của bọn họ. Bọn họ đã sớm quên mất nguy hiểm.
Đội ngũ trực tiếp đi vào cửa khe núi. Khi bọn họ đi vào thung lũng không lâu, ở một cây đại thụ cách đó mười bước, lộ ra khuôn mặt của Tần Hoài Ngọc. Y phụng mệnh dẫn theo năm mươi kỵ binh chặn lại đường lui của quân địch. Tần Hoài Ngọc có chút căng thẳng. Đây là lần đầu tiên y chủ quản một đội quân, cho dù chỉ có năm mươi người.
Một Lữ soái chừng ba mươi mấy tuổi đứng ở bên canh. Y đánh giặc đã được 4, 5 năm rồi, kinh nghiệm phong phú. Y cảm thấy được sự căng thẳng của Tần Hoài Ngọc. Liền cười nói:
- Tiểu tướng quân không cần căng thẳng. Đối phương chỉ có hơn một trăm người. Có thể chạy trốn cũng chỉ ít người thôi. Thậm chí không cần tiểu tướng quân hành động, các huynh đệ ở đây cũng sẽ giải quyết xong.
Tần Hoài Ngọc đứng thẳng eo. Y muốn đánh một trận chiến cho ra hồn, không thể uất ức như vậy được:
- Ta không căng thẳng, ngược lại rất chờ mong.
Lữ soái cười cười, lại nói khẽ với y:
- Bọn họ đã qua, chuẩn bị thả gỗ!
Mấy cây đại thụ đã bị chặt đứt, chỉ cần ra lệnh, bọn lính sẽ đem cây gỗ dời lên quan đạo. Tinh thần của Tần Hoài Ngọc rung lên. Y vừa muốn hạ lệnh, lữ soái đã ngăn lại:
- Chờ thêm một chút! Chờ bọn họ đi xa.
Tần Hoài Ngọc khắc chế kích động trong lòng, chờ đợi thời cơ tiến đến…
Loại khe núi đi qua quan đạo này ở quận Kim Thành là chuyện thường thấy. Khe núi dài chừng ba bốn dặm, hai bên là rừng cây rậm rạp. Bởi vì con đường này cũng không phải là con đường tơ lụa, con đường tơ lụa là phải đi quận Hội Ninh. Cho nên quan đạo khá vắng vẻ.
Đoàn người liên tục quan sát bốn phía. Gió đầu mùa đông có chút hiu quạnh. Lá cây phần lớn đã rụng hết. Những lá cây còn lại hầu hết là lá đỏ. Sắc màu sặc sỡ, tầng tầng lớp lớp như bị nhuộm màu, đẹp không sao kể xiết.
Nhưng mọi người cũng không có tâm tư thưởng thức cảnh đẹp. Một loại điềm xấu không biết từ đâu xuất hiện trong lòng mọi người. Người đứng đầu nhóm quân Đường hộ vệ đoàn sứ giả Đột Quyết là Giáo Úy họ Lưu. Y càng nghĩ càng càng thấy không bình thường, liền giục ngựa chạy lên phía trước. Chắp tay hướng Mặc Diên Trác nói:
- Chúng ta có năm người đi trước dò đường. Theo lý mà nói, hẳn là bọn họ sẽ phát hiện con sông rồi trở về thông báo. Nhưng hiện tại cách con sông không đến hai dặm, lại không thấy bóng dáng của bọn họ, cái này có chút kỳ quái!
Mặc Diên Trác nhướn mày hỏi:
- Nhỡ đâu bọn họ đang ở bờ sông chờ chúng ta?
- Không có khả năng! Dù bất kể thế nào, cũng nên có ba người đợi, hai người trở về. Không thể nào mà năm người đều ở lại bờ sông.
Mặc Diên Trác cũng hiểu lời này có đạo lý. Trong lòng y có chút bất an, quay đầu nhìn xung quanh. Đúng lúc này, một tiếng “vù” vang lên từ trong rừng cây. Một mũi tên nhanh như điện chỰ bắn tới. Mặc Diên Trác trốn tránh không kịp. Phốc một tiếng, mũi tên đã bắn trúng cổ họng của y. Mặc Diên Trác kêu thảm một tiếng rồi ngã xuống ngựa.
Mũi tên đó là tín hiệu, hai bên quan đạo lập tức xuất hiện loạn tiễn cùng phát. Lực của mũi tên rất mạnh mẽ. Liên tục bắn về phía tùy tùng Đột Quyết và quân Đường hộ vệ. Trên quan đạo lập tức vang lên tiếng kêu thảm thiết. Vòng thứ nhất hơn hai trăm mũi tên đã khiến năm mươi người ngã xuống ngựa. Nhóm quân Đường và tùy tùng Đột Quyết lập tức loạn thành một đoàn. Bọn họ sợ tới hồn bay phách lạc. Mười mấy tên kỵ binh thì thúc ngựa chạy trốn.
Lúc này, đợt tên bắn thứ hai lại tới. Mũi tên tinh chuẩn mà mạnh mẽ. Lại có ba mươi người ngã xuống ngựa. Hai đợt tên qua đi, trên quan đạo đã có hơn phân nửa người chết. Người và ngựa chết nằm đầy trên đất. Còn lại hơn bốn mươi người hướng bốn phía chạy trốn.
Quân Tùy không có bắn ra vòng thứ ba. Chỉ thấy tiếng kêu rung trời, Mã Thiệu suất lĩnh hơn hai trăm kỵ binh Tùy từ trong rừng cây lao ra. Hơn mười kỵ binh Đường hoảng hốt chạy bừa, ý đồ trốn lên núi, vừa lúc gặp phải kỵ binh Tùy lao ra, liền bị trường mâu đâm ngã xuống đất.
Nhiệm vụ của quân Tùy không chỉ có bắn phục kích đội ngũ ngày. Mà còn không để cho bọn hắn trốn thoát một ai. Quân Tùy vung một tấm lưới lớn lên để chặn lại. Rồi dùng tiễn bắn về phía quân Đường chạy trốn. Bọn họ không chấp nhận đầu hàng, tất cả địch nhân đều phải chết…
Tần Hoài Ngọc đã dẫn người dùng cây cối phá hỏng đường lui của thung lũng. Y lưu lại mười tên lính phòng thủ cửa thung lũng. Còn mình thì dẫn theo bốn mươi kỵ binh từ phía sau bọc đánh. Những điều này đều là do y học được từ trong binh thư. Không thể xuất hết binh ra đánh, cần phải lưu một ít phòng thủ nơi hiểm yếu.
Tần Hoài Ngọc gương mẫu đi đầu, dẫn theo bọn lính tìm tòi. Lúc này, chỉ nghe thấy phía đối diện vang lên tiếng vó ngựa. Một gã tùy tùng Đột Quyết đang cưỡi ngựa chạy như bay về phía bên này. Trên người y có cắm hai mũi tên, cả người đẫm máu. Phía sau là năm sáu tên binh lính Tùy đuổi theo.
Tần Hoài Ngọc hét lớn một tiếng, phóng ngựa xông lên. Dùng cây giáo mạnh mẽ đâm về phía đối phương. Nhưng mắt thấy ngọn giáo sắp đâm vào, thì hai mắt của y lại nhắm lại. Đây là lần đầu tiên y giết người. Y không thể đối mặt với thời khắc đầy máu tanh này được. Ngọn giáo đâm xuyên qua ngực người Đột Quyết. Tùy tùng Đột Quyết liền bị mất mạng, máu tươi vung tới trước mặt của Tần Hoài Ngọc. Y ngơ ngác nhìn thi thể người tùy tùng Đột Quyết một lúc lâu….
Quận Y Ngô, đang có một nhánh quân gồm một trăm nghìn người rút lui về hướng đông. Trong đội ngũ có bảy phần là người Hán. Những người Hán này phần lớn là những người mất đất đai, vào năm Đại Nghiệp từ Trung Nguyên di cư tới quận Y Ngô. Cũng có những kẻ phạm tội ở Trung Nguyên, cả nhà bị đày lưu vong tới Y Ngô. Cũng không thiếu người Ô Tôn bị người Đột Quyết chinh phục. Bọn họ cũng là cả nhà dời về phía nam, nhân số lên tới mấy chục nghìn.
Bọn họ vốn sống cuộc sống mới yên bình ở quận Y Ngô. Nhưng lúc này, bọn họ không thể không vứt bỏ nhà mới, rút lui về quận Đôn Hoàng. Dương Nguyên Khánh ra lệnh, tạm thời buông tha quận Y Ngô, dời về Đôn Hoàng. Đây là một chiến lược rút lui, Tây Đột Quyết đang đóng một trăm nghìn quân ở phía tây quận Y Ngô, giống như một con hổ rình mồi vậy.
Quận Y Ngô còn được gọi là Tây Vực Thập Tự Đạo. Hướng đông đi qua Tinh Tinh Hạp có thể vào hành lang Hà Tây. Hướng đông bắc đi qua Chiết La Mạn sơn, là tới đại thảo nguyên Mạc Bắc. Hướng nam trải qua Y Ngô đạo là tiến vào phía nam Thiên Sơn. Cho nên nơi này có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng.
Nhưng vì để sống mái với Tây Đột Quyết, quân Tùy quyết định tạm thời buông tha quận Y Ngô. Đợi sau khi thiên hạ thống nhất thì lại đoạt lại Y Ngô.
Các nam nhân vội vàng kéo xe ngựa, chở người già, trẻ nhỏ và các loại vật phẩm chậm rãi đi trên đường lớn về phía đông. Nữ nhân thì ngồi trên lưng ngựa, theo sát người nhà. Mọi người không ngừng quay đầu lại nhìn về phía tây, trong ánh mắt tràn đầy lưu luyến.
Ở cách đó, sáu ngàn kỵ binh Tùy bảo vệ một trăm nghìn người rút về phía đông. Bọn họ chia thành các đội trăm người, mặc giáp mang nón trụ, tay cầm trường mâu chiến đao, ánh mắt liên tục cảnh giác. Trên một gò đất nhỏ, Tô Định Phương cùng hơn mười thân binh, ánh mắt phức tạp nhìn xuống dưới đội ngũ trùng trùng điệp điệp kia.
Chương 913 : Lui lại một bước
Buông tha quận Y Ngô là mệnh lệnh của Dương Nguyên Khánh, do y đến chấp hành. Trong lòng Tô Định Phương vạn phần không muốn. Với y mà nói, chưa chiến đã lui, đã coilà thất bại. Mặc kệ là nguyên nhân gì, đối mặt với đại quân một trăm nghìn người của Tây Đột Quyết như hổ rình mồi, bọn họ không có nghênh chiến, mà là rút lui.
Việc rút lui này khiến Tô Định Phương cảm thấy nhục nhã. Y chỉ đành trầm mặc. Lúc này, có binh lính cưỡi ngựa từ phía tây chạy tới báo:
- Tướng quân, Vương Thái Thú đã tới!
Một lát sau, có mấy con ngựa chiến xông lên gò đất nhỏ. Người cầm đầu là một vị chừng ba mươi tuổi, làn da ngăm đen, bộ dáng hào hoa phong nhã. Y chính là Thái Thú quận Y Ngô, Vương Hàm Đan. Y vốn là Huyện lệnh huyện Đôn Hoàng. Năm trước được thăng làm Thái Thú quận Y Ngô.
- Tô tướng quân, mọi người đi chậm như vậy, có thể bị quân Đột Quyết truy kích hay không?
Vương Thái Thú lộ vẻ lo lắng hỏi.
Tô Định Phương lắc đầu nói:
- Xạ Quỹ tạm thời không có tính toán muốn khai chiến cùng chúng ta. Chúng ta chủ động rút lui, y không có lý do gì gây gổ. Dù sao địch nhân lớn nhất của y là Đông Đột Quyết. Nói không chừng còn có thể cùng chúng ta hợp tác, cùng đối phó với Mạc Bắc Đột Quyết.
- Tô tướng quân cảm thấy chúng ta có khả năng hợp tác với Tây Đột Quyết hay sao?
Vương Thái Thú lại hỏi.
Tô Định Phương nở nụ cười thản nhiên nói:
- Điện hạ đã nói cho ta biết. Ít nhất trong mắt của Tây Đột Quyết, chúng ta cùng bọn họ không có sự xung đột về lợi ích. Mà Mạc Bắc Đột Quyết là địch nhân của song phương. Cho nên chúng ta còn có cơi hội hợp tác. Từ thời Đạt Đầu, giấc mộng trở về Mạc Bắc, chính là điều người Tây Đột Quyết muốn nhất. Đã qua vài chục năm, giấc mộng về cố hương của bọn họ vẫn không có thay đổi. Mà triều Tùy chúng ta sẽ không chiếm Mạc Bắc. Đây là cơ sở để song phương hợp tác.
Nói tới đây, ánh mắt của Tô Định Phương lại nhìn về hướng đông, có chút suy nghĩ nói:
- Ta phỏng chừng điện hạ đã phái sứ giả đến Tây Đột quyết rồi…
- Tướng quốc, đã tới Trường An rồi!
Một người tùy tùng chỉ về một tòa tường thành nguy nga ở xa la lớn.
Dương Sư Đạo dùng tấm vải che bớt ánh mặt trời chói chang, nheo mắt nhìn về hướng tây. Chỉ thấy một toàn tường thành đen nhánh còn cách đây vài dặm.
- Trở lại rồi!
Dương Sư Đạo thở dài một tiếng. Ông ta không biết mình đã rời Trường An được bao lâu rồi, mười năm hay là tám năm?
Nhìn toà thành trì ông ta đã sinh ra và lớn lên, trong lòng Dương Sư Đạo cảm thấy cảm khái vô hạn. Khi nào thì quân Tùy có thể đánh hạ Trường An?
Lần này, Dương Sư Đạo phụng mệnh đi sứ Trường An, chính là vì trấn an Đường triều. Hướng bọn họ giải thích việc triều Tùy phát hành tiền bạc sẽ không ảnh hưởng tới lợi ích của Đường triều.
Trên người ông ta có mang theo bức thư do Dương Nguyên Khánh viết gửi cho Lý Uyên. Trong thư hứa hẹn nghiêm cấm tiền bạc chảy về phía Đường triều.
Đây làm một sự nhượng bộ của Dương Nguyên Khánh, hoặc cũng có thể gọi là yếu thế. Kỳ thật thái độ thế nào cũng không trọng yếu, trọng yếu là phải ổn định Đường triều.
Nhất định phải trước khi giải quyết nguy cơ từ Đột Quyết, tránh việc giao chiến với Đường triều. Tiền bạc sẽ trở thành ngòi nổ chiến tranh giữa Tùy Đường. Cho nên nhiệm vụ đi sứ lần này của Dương Sư Đạo, chính là dập tắt ngòi nổ.
Mọi người tiếp tục đi tới, cách cửa Xuân Minh của Trương An càng ngày càng gần. Lúc này, một đội kỵ binh từ trong thành lao nhanh ra.
Cầm đầu đội ngũ là một vị quan viên gần bốn mươi tuổi, tai to mặt lớn, ánh mắt trầm tĩnh, có một bộ râu dài dưới hàm, khí độ bất phàm. Ông ta chính là Lễ Bộ Thượng Thư của Đường triều, Dương Cung Nhân, cũng là đại ca của Dương Sư Đạo.
Ông ta phụng chỉ của Lý Uyên đi tới trước đón tiếp Dương Sư Đạo. Đi bên cạnh ông ta còn có một người mũi ưng mắt nhỏ, có vẻ gian trá. Y là Nội Sử Thị Lang của Đường triều, Phong Đức Di.
Phong Đức Di là chủ động mong được đi đón sứ giả Tùy. Thực ra, việc y đi cùng là có thâm y. Lý Uyên không phải quá tin tưởng Dương Cung Nhân.
- Đại ca!
Dương Sư Đạo nhìn thấy Dương Cung Nhân, liền vui mừng bất ngờ, hô to một tiếng, giục ngựa chạy tới đón chào.
Dương Cung Nhân nhìn thấy huynh đệ, trên khuôn mặt nghiêm túc xuất hiện nụ cười. Trong lòng ông ta dâng lên một cỗ thân tình khó có thể nói được. Hai người bọn họ chảy chung một dòng máu, nên có một sự ăn ý mà người khác không có.
- Tam đệ. Một đường khổ cực.
Cho dù trong lòng có một cỗ kích động muốn ôm người đệ đệ nhưng Dương Cung Nhân vẫn khắc chế lại. Ông ta biết Phong Đức Di ngay tại phía sau.
Người này là một tiểu nhân. Y sẽ đem quá trình mình gặp mặt tam đệ nói tỉ mỉ cho Thánh Thượng. Dương Cung Nhân cũng hiểu tâm tư của Lý Uyên. Ông ta không muốn có phiền toái không cần thiết cho nên chỉ chắp tay, thản nhiên cười.
Ánh mắt của Dương Sư Đạo lướt qua vai của huynh trưởng, thấy khuôn mặt gian trá của Phong Đức Di đang tươi cười. Ông ta đã minh bạch nỗi khổ trong lòng huynh trưởng. Ông ta cũng khắc chế kích động, chắp tay cười nói:
- Đại ca có chút béo.
- Đó là đương nhiên, sống an nhàn sung sướng đã lâu. Không còn như ngày xưa, cưỡi ngựa bắn cung, xuống nông thôn hỏi thăm dân tình cho nên có chút mập.
Dương Cung Nhân vẫn giữ vẻ tươi cười, lại nhìn phó sứ Trương Lượng. Ông ta không biết người này, liền cười hỏi:
- ị này chính là?
- Đây là phó sứ của đệ. Trương tham quân, đảm nhiệm Ký Thất Tham Quân cho Sở Vương.
Dương Sư Đạo cười giới thiệu.
Dương Cung Nhân lập tức kính nể, vội vàng thi lễ:
- Hóa ra là Trương tham quân, nghe đại danh đã lâu!
Trương Lượng không ngờ ông ta lại biết mình, trong lòng có chút đắc ý vội vàng thi lễ thực sâu nói:
- Trượng Lượng chỉ đảm nhiệm chức quan nhỏ, không dám thụ lễ của Thượng Thư. Nghe qua Thượng Thư là người văn võ song toàn, là nho tướng khó có đương thời. Xin nhận một lễ này của Trương Lượng.
Dương Cung Nhân là con cả của Dương Hùng, không chỉ học thức uyên bác, hơn nữa còn đọc thuộc lòng binh thư. Lúc tuổi còn trẻ, một cây lượng ngân thương nổi danh một thời ở Trường An. Hơn nữa ông ta còn là một vị mỹ nam tử nổi danh. Cho nên được xưng là ‘Ngân thương tiểu lang quân’. Là tình nhân trong mộng của vô số thiếu nữ.
Sau Dương Cung Nhân lại đảm nhiệm Thái Thú Trương Dịch, chiến tích lớn lao, lại được điều vào triều đảm nhiệm Hộ Bộ Thị Lang. Khi Dương Huyền Cảm tạo phản, Dương Quảng điều động tứ lộ đại quân tiêu diệt Dương Huyền Cảm. Lộ thứ nhất do Vũ Văn Thuật chỉ huy, lộ thứ hai do Khuất Đột Thông chỉ huy, lộ thứ ba do Lai Hộ Nhi chỉ huy, lộ thứ tư chính là Dương Cung Nhân
Trước đây ông ta còn chỉ huy quân Tùy công phạt dân tộc Thổ Dục Hồn, thắng nhiều bại ít. Nên được vinh dự là nho tướng, cực kỳ nổi danh ở Đại Tùy.
Dương Cung Nhân thấy Trương Lượng cung kính, không khỏi vuốt râu cười:
- Không lãng phí thời gian nữa, chúng ta tiến vao Trường An đi…
Trong ngự thư phòng, điện Võ Đức, Lý Uyên khuôn mặt âm trầm, không nói một lời. Y đang nghe Phong Đức Di thuật lại sự tình. Y chỉ quan tâm hai chuyện, một là mục đích của sứ Tùy đến lần này, đây là quốc sự.
Hai là, y muốn biết thái độ của Dương Cung Nhân với Dương Sư Đạo. Đây cũng là một loại tâm tư khó có thể nói hết.
Cho dù từ trước, quan hệ cá nhân giữa Lý Uyên và Dương Cung Nhân vô cùng tốt, có thể nói không có gì giấu nhau. Nhưng lúc đó hai bên là bình đẳng kết giao. Mà bây giờ, Lý Uyên biến thành quân chủ, tâm tính của y cũng tự nhiên phát sinh biến hóa.
Vì giao tình của quá khứ, nên y rất trọng dụng Dương Cung Nhân, thậm chí còn bổ nhiệm ông ta làm Lễ Bộ Thượng Thư. Nhưng về phương diện khác, Lý Uyên lại có một chút e dè với Dương Cung Nhân, thủy chung không chịu để cho ông ta nhập tướng (làm Tể tướng). Hơn nữa, Lý Uyên biết rõ Dương Cung Nhân cũng giỏi về chiến tranh, văn võ toàn tài nên càng kiên quyết không cho ông ta mang binh.
Nói cho cùng, chính là bởi vì đệ đệ của Dương Cung Nhân, Dương Sư Đạo là Tể tướng của triều Tùy. Hơn nữa ông ta còn có một người muội muội, chính là Trắc phi của Dương Nguyên Khánh. Nghĩ tới hai ngươi kia, trong lòng Lý Uyên như bị kim đâm.
Ở mặt ngoài Lý Uyên là người quan dung. Y luôn tận sức biểu hiện mình là một vị đế vương có sự khoan dung, đại lượng.
Nhưng trên thực tế, Lý Uyên là người không cho phép một nửa hạt cát trong mắt, lòng dạ cực kỳ hẹp hòi. Những lúc không người, y sẽ toát ra vẻ u ám trong nội tâm. Giống như lần này, y khiến Dương Cung Nhân đi tiếp đãi Dương Sư Đạo.
- Bọn họ biểu hiện như thế nào?
Lý Uyên lãnh đạm hỏi.
- Bệ hạ, có thể dùng hai chữ ‘Tinh tế’ để hình dung cuộc gặp mặt hôm nay giữa bọn họ.
Phong Đức Di cung kính đứng ở trước án. Y là người cực kỳ giỏi nắm bắt tâm tư của Lý Uyên. Việc y am hiểu nhất, chính là suy đoán được đế tâm.
Trước kia y lấy lòng Dương Quảng, hiện tại y lại lấy lòng Lý Uyên. Bởi vì thời gian y đến Đường triều cũng không dài nhưng vẫn được coi là tâm phúc của Lý Uyên. Lý Uyên tính nhiệm y còn hơn cả Bùi Tịch.
Phong Đức Di là kẻ hai mặt. Một mặt, vì muốn lưu lại được lui, nên âm thầm đầu hàng Dương Nguyên Khánh. Ở một số việc mấu chốt, y sẽ trợ giúp triều Tùy.
Còn mặt khác, vì biểu hiện sự trung tâm với Đường triều, cho nên y cũng không chịu tận tâm với Dương Nguyên Khánh. Y cứ lắc lư ở hai bên, nhằm dành được lợi ích tốt nhất.
Chương 914 : Kế sách của Trưởng Tôn (1+2)
Lính gác lại thì thầm nói:
- Nàng ta còn nói cả danh tính nữa.
Trình Giảo Kim tức không thể kìm được nữa quát:
- Mả cha nhà ngươi, làm ta nghĩ mãi không ra.
- Nàng ta nói...nàng ta tên là U gì Nương ấy.
- U Nương?
Ánh mắt của Trình Giảo Kim bỗng nhiên trợn lên, hai chân nhảy dựng lên, bạt một bạt vào mặt tên lính kia quát:
- Thằng chết tiệt này!
Hắn chạy như bay về phía cổng trại, quan quân luyện tập ở phía sau đều bàn tán xôn xao.
- Trình tướng quân làm sao vậy, hình như có kẻ đòi nợ đến nhà vậy?
- Không thể nào! Nghe đồn đó là phụ nữ. Chắc là ông ta ở ngoài lén lút qua lại với cô ả nào rồi.
- Phì! Vợ lão hung dữ như thế, lão ta dám ngoại tình sao... Trình Giảo Kim chạy bán sống bán chết ra cổng, chỉ thấy ở bên đường cách cổng trại vài trăm bước có một cỗ xe kéo dừng ở đó.
Bên cạnh xe có một người phụ nữ mặc một chiếc váy màu tím, đầu đội một chiếc mũ màu trắng, thân hình đầy đặn, đúng là Bùi U rồi.
Trình Giảo Kim chạy một mạch năm trăm bước tới, không đỏ mặt, tim cũng không đập loạn lên, mặt anh ta lập tức đỏ bừng lên, dường như máu toàn thân dốc hết lên đầu, trống ngực đập thình thịch, hai chân chết đứng một chỗ, khó khắn lắm mới lê bước tiến gần tới.
Anh ta dường như vừa phải vượt qua vạn dặm trường chinh, vất vả lắm mới tới trước mặt của Bùi U, chỉ cảm thấy miệng đắng lưỡi khô, lắp ba lắp bắp hỏi:
- U Nương…có chuyện gì vậy?
Bùi U nhấc chiếc mũ vải cười nói rất tự nhiên. Mặc dù điệu cười này không chút tư tình lả lơi gì, nhưng lại làm cho Trình Giảo Kim say mê tới điên đảo, anh ta lùi lại phía sau hai bước, gần như muốn té xỉu xuống đất.
Phần lớn phụ nữ đều thích những người đàn ông cung phụng tôn thờ mình, Bùi U cũng không ngoại lệ. Mặc dù cô ta không thích bộ dạng của kẻ trước mặt, nhưng bộ dạng thất thần chết mê chết mệt của Trình Giảo Kim khiến cô ta tìm được một tia hy vọng, cô ta cười duyên một cái rồi hỏi:
- Trình tướng quân, chàng không có chuyện gì chứ!
Trình giảo Kim hít một hơi dài, lấy lại bình tĩnh nói:
- U Nương, nàng nói đi, tìm ta có việc gì vậy?
- Trời ơi!
Bùi U cúi đầu thở dài, vẻ mặt đáng thương khổ sở nói:
- Có người ức hiếp ta, cũng không có vị quân tử nào giúp ta, đành chỉ biết cầu cứu Trình tướng quân thôi.
Trình Giảo Kim lập tức trừng mắt lên hỏi:
- Ai là người ức hiếp nàng, hãy nói cho ta nghe biết!
- Là người cùng nghề với ta, người đời thường nói người cùng nghề là oan gia của nhau. Quán rượu của ta đang làm ăn rất tốt, có mấy tửu lầu vì thế đem lòng ganh ghét, bọn họ hợp tác với nhau đuổi ta ra khỏi Thái Nguyên. Bọn họ còn phái người đến uy hiếp ta, sau giờ ngọ hôm nay nếu ta vẫn chưa đóng cửa tiệm, thì bọn họ sẽ đến đập phá quán rượu, nghe nói bọn họ còn thuê cả đám giang hồ đến. Trình tướng quân, ta rất sợ.
Vừa nói, nước mắt Bùi U lăn dài trên má.
Trình Giảo Kim tuy rằng bị Bùi U làm cho mê muội, nhưng anh ta vẫn không đến nỗi hồ đồ đến mức tối thiểu nhất mà không suy xét gì. Người đứng đằng sau Bùi U là ai, tên này chắc không có mắt rồi, mà dám ức hiếp nàng ta?
- U Nương, nàng có thể tìm tới Vương Phi, cho dù Vương Phi không tới. Vương Phi cũng sẽ phái người dẫn mấy cận vệ mang theo đao tới, như vậy cũng làm bất cứ kẻ nào cũng phải khiếp sợ.
- Ôi! Vương Phi là ai, làm sao có thể giúp ta được, đánh với mấy tên đầu gấu giang hồ ấy chỉ sợ làm ảnh hưởng tới danh tiếng của Vương Phi.
Nói đến đây, Bùi U lại thở dài một tiếng:
- Nếu Trình tướng quân cảm thấy khó khăn, ta cũng không miễn cưỡng, chỉ cảm thấy thương cho cảnh cô nhi quả phụ, không có chỗ nương tựa. Xem ra chỉ có thể thu dọn đồ đạc mà rời đi thôi.
Cô ta hít thật sâu, lên xe ngựa muốn đi, Trình Giảo Kim cảm thấy như có máu nóng trong người sôi sục, dâng trào mạnh mẽ, lên tới cả chóp đầu anh ta.
Hắn lớn tiếng nói:
- Nếu Bùi U đã coi trọng ta như vậy, có khó đến mấy ta nhất định cũng sẽ giúp. Chiều mai phải không, ta sẽ dẫn người đến bảo vệ cửa hàng cho nàng!
Bùi U mừng rỡ, kéo màn che lên cười nói:
- Chàng phải đến sớm một chút, ta mời chàng ăn cơm!
Bùi U tươi cười như hoa, vẫy tay tạm biệt anh ta, rồi thúc xe chạy đi. Trình Giảo Kim trông theo bóng cô khuất xa, lòng anh ta dường như bồng bềnh trong mây mù.
Bỗng nhiên anh ta tự cắn ngón tay mình, có cảm giác đau, đây là thật, không phải là mơ. Trình Giảo Kim như mở cờ trong bụng, Bùi U không ngờ lại đến tìm mình…. Bùi U ngồi trong xe, trong lòng rất đắc ý, chính cô cũng không ngờ vẻ mặt này lại có thể làm say đắm anh ta như vậy. Cô ta có một sức truyền đạt đến ma lực, dung mạo cũng vô cũng quyến rũ, nhưng cứ nghĩ đến chuyện sắp xảy ra vào buổi chiều, cô ta lại vô cùng phẫn nộ.
Thực ra cô cũng không hoàn toàn lừa Trình Giảo Kim, buổi trưa trước sau gì cũng có một đám người đến đập phá tửu lầu của cô. Tuy nhiên không phải là người trong nghề, càng không phải là bọn du côn giang hồ, mà là Bùi gia. Bùi gia đã ba lần cảnh cáo cô phải đóng cửa tiệm, nếu không chuyển nhượng cửa hàng, sẽ không cho phép cô làm bà chủ nữa.
Nhưng Bùi U hết lần này đến lần khác đều phớt lờ, cô ba lần cãi nhau ầm ĩ với huynh trưởng của Bùi gia, thậm chí thà rằng bị Bùi gia trừ tịch. Chạng vạng ngày hôm qua, Bùi Diệu đến cảnh cáo cô ta lần cuối cùng, nếu buổi trưa ngày mai cô không đóng cửa tửu quán thì Bùi gia sẽ thẳng tay đập phá quán rượu của cô.
Tối hậu thư của Bùi gia cuối cùng cũng khiến Bùi U đứng ngồi không yên, đầu tiên nàng tới tìm Bùi Mẫn Thu, nhưng vẻ mặt gượng gạo đau khổ của Bùi Mẫn Thu không biết làm sao khiến cô bỏ ý định sử dụng quyền lực trong đầu.
Cô cũng hiểu được nỗi khó xử của Bùi Mẫn Thu, từ hôm nay về sau người dám chống lại gia tộc, ngoại trừ Bùi Mẫn Thu, e rằng chỉ có một mình cô.
Vạn bất đắc dĩ, cô mới nhờ tới Trình Giảo Kim, vốn chỉ định thử một lần, nhưng không ngờ Trình Giảo Kim lại đồng ý, khiến trong lòng cô có một chút cảm kích. Cô nghĩ tới sau khi chuyện này kết thúc, cô muốn đem số tiền thu được nhiều lần trước về La gia.
Ánh mắt của Bùi U dần dần trở lên kiên cường hơn, cô thà rằng không làm người của Bùi gia, chứ quyết không bỏ quán rượu của mình, tuyệt đối không… Chưa tới trưa, Trình Giảo Kim đã dẫn ba mươi thuộc hạ thân tín đến Nguyên An tửu quán. Trình Giảo Kim lợi dụng đủ các quy tắc trong quân đội, như vậy nếu điều động vượt quá năm trăm người nhất định phải có lệnh bài của Sở Vương. Dưới năm trăm người, trên trăm người, thì phải được lệnh của tướng quân, dưới một trăm người thì Á tướng có thể điều động.
Trình Giảo Kim là Á tướng, anh ta có quyền điều động dưới trăm người, nhưng quy định này thực ra chỉ áp dụng đối với th, nói cách khác nghĩa là tướng quân được phép có dưới năm trăm thân binh, Á tướng được phép điều động dưới một trăm thân binh.
Ba mươi tên lính thân tín này đã đi theo Trình Giảo Kim nhiều năm, kì thực họ đều là thân binh của anh ta, chỉ là trời sinh Trình Giảo Kim vốn đã lười nhác, không muốn những thân binh này ảnh hưởng tới cuộc sống riêng tư của anh ta.
Cho nên không cần dẫn theo bọn họ về phủ, chỉ khi có chiến tranh mới cho bọn họ đi theo bên mình, hôm nay dẫn bọn họ đến tửu quán lầu ăn uống cũng là lần đầu tiên.
Bùi U nhìn thấy Trình Giảo Kim dẫn người đến trợ giúp, cô ta vui mừng khôn xiết, vội vàng bảo bọn tiểu nhị mở yến tiệc bày rượu tiếp đón, tại đại sảnh chính ba bàn rượu đã được bày lên, cô ta đích thân mang rượu, bưng thức ăn cho binh lính.
- U Nương, nàng cứ yên tâm! Sau này có việc gì, cứ nói một tiếng, lão Trình ta lập tức phái người đến giúp nàng.
Mấy chén rượu uống vào bụng, Trình Giảo Kim như can đảm hẳn lên, không những nói năng lưu loát mà trong lời nói cũng rất thâm sâu. Bùi U là gì của anh ta, thậm chí cũng bạo miệng hơn, không biết vợ anh ta nghe được sẽ có suy nghĩ gì?
Bùi U là bà chủ quán rượu, cũng hiểu nhiều biết nhiều, kiểu nói tán tỉnh bay bướm của Trình Giảo Kim cô cũng nghe nhiều, cô mỉm cười nói:
- Nếu nương tử của Trình gia tới làm khó cho tiểu nữ, thì tiểu nữ biết làm sao?
Bọn lính đồng loạt cười phá lên, Trình Giảo Kim phấn khởi lạ thường, mượn rượu mà hô lớn:
- Vậy ta sẽ bỏ mụ ta, tới rước U Nương về.
- Nhé! Các ngươi có ai biết Trình gia sống ở đâu không? Nhanh dìu tướng quân về, đừng để ngài ấy say gục dưới bàn rượu.
Trong tửu quán lại rộ lên một tràng cười lớn, đúng lúc đó, chưởng quầy từ lầu hai chạy xuống, vẻ mặt căng thẳng nói:
- Đông chủ, bọn họ đến rồi!
Mặt Bùi U biến sắc, bước nhanh tới cửa, nhìn ra phía bên ngoài quán, cô chỉ nhìn thấy huynh trưởng của cô Bùi Diệu cưỡi ngựa, đằng sau dẫn theo hai mươi gia đinh của Bùi gia. Người nào cũng đều cầm một chiếc gậy gỗ, sát khí đằng đằng.
Bùi U bước nhanh tới, vung đôi dày sang hai bên, đứng chân trần trên mặt đất, hai ta chống nạnh, cao giọng nói:
- Trên trời dưới đất, nội trong ba trượng của tửu quán này là địa bàn của ta, các ngươi phải cho ta chỗ đứng chứ!
Bùi Diệu nhau mày, không ngờ lại học phong cách của bọn sơn tặc, cởi giày đứng chân trần, không còn thể thống gì nữa, gã cố nuốt cục giận xuống kiên nhẫn nói:
- Đại muội, ta đã cảnh báo muội ba lần, gia chủ cũng đã tức giận. Muội nếu không bỏ cửa tiệm, thì hậu quả nhận được là rất lớn.
Chương 916 : Thu được tiền giả
Bùi U cười một tiếng:
- Bổn đường Nhị Thúc có thể đi Giang Nam buôn bán, Dao tam gia kinh doanh ở Trường An, sao huynh không quản anh ta, sao không nói bọn họ kinh doanh làm nhục gia phong. Chẳng qua cửa tiệm của ta không chia cho Bùi gia chén canh nào, ta nói thật cho huynh biết, ta tuyệt đối không bỏ rơi cửa hàng của ta. Bùi gia nếu cho rằng vì ta mà mất mặt, muốn trừ tịch ta cũng tốt thôi, ta cũng không thèm chấp. Nhưng hôm nay các ngươi dám cả gan động vào của hàng của ta thì ta sẽ cho các ngươi xem!
Lúc này mọi người xung quanh đến xem ngày một đông, đây là nơi ồn ào náo nhiệt ở Bắc thành, người qua đường rất nhiều, vì vậy trong chốc lát có hàng trăm ngươi vây quanh, to mò náo nhiệt đến xem. Có rất nhiều người đang chạy về phía này xem.
Bùi Diệu cuối cùng không thể nhịn được nữa, gã gầm lên một tiếng:
- Ra tay cho ta…
Trình Giảo Kim núp ở phía sau cửa, anh ta nhìn thấy rõ bọn người đến đây đập phá, những gia đinh khác anh ta không rõ, nhưng anh ta lại nhận ra Bùi Diệu.
Trình Giảo Kim trời sinh cho hai đôi mắt tinh nhanh. Năm đó anh ta cùng với Dương Nguyên Khánh đến Bùi phủ dự tiệc, Bùi Diệu là một trong những người ngồi cùng bàn với anh ta. Mặc dù thời gian trôi đi cũng đã được mười mấy năm rồi, nhưng dù chỉ còn một mắt anh ta cũng nhận ra được. Hơn nữa Bùi Diệu lại gọi Bùi U là đại muội nữa!
Trình Giảo Kim lúc này mới hiểu được, anh ta giúp Bùi U, không phải là vì bọn du côn đến gây chuyện, mà là gia đinh của Bùi gia, bây giờ phải làm thế nào? Giúp hay là không giúp, nếu giúp thì có nghĩa là anh ta sẽ đắc tội với Bùi gia, làm không tốt còn bị quân pháp trừng phạt, còn nếu không giúp, thì lại để Bùi U đơn phương độc chiến.
Trình Giảo Kim đảo mắt một lượt, đắc tội với Bùi gia e rằng khó lòng tránh khỏi, nhưng muốn tránh bị trừng phạt của quân pháp, anh ta vẫn còn một cách. Trình Giảo Kim vẫy tay ra hiệu gọi ba mươi tên thuộc hạ đến trước mặt, anh ta dặn dò bọn họ mấy câu, bọn lính gật đầu lia lịa, sau đó Trình Giảo Kim nhảy ra ngoài bằng lối cửa sổ.
Bên ngoài cửa, Bùi U rút ra một cây đao lớn, lớn tiếng quát to:
- Các ngươi ai dám tiến lại gần, ta sẽ giết chết người đó!
Đám gia đinh Bùi gia đều dừng bước, không dám xông lên phía trước, Bùi Diệu phẫn nộ, chỉ roi ngựa vào phía tửu quán:
- Không cần để ý đến cô ta, đập vỡ tửu quán cho ta.
Thực ra Bùi Diệu cũng không có cách nào khác, Bùi U dù sao cũng là tiểu muội thân thiết của gã, nhưng năm lần bảy lượt gã khuyên bảo cũng vô ích, gia chủ đã nổi giận.
Nếu hôm nay gã không xử lý xong việc này, thì gã cũng bị gia pháp trừng trị. Gã thấy bọn gia đinh còn chần chừ không dám tiến lên, vội thúc ngựa lên phía trước, giơ roi vụt thật mạnh về phía bọn gia đinh, quát lớn:
- Xông lên cho ta!
Bọn gia đinh bị bức bất đắc dĩ phải xông lên, đành phải vượt qua Bùi U xông vào tửu lầu quán. Bùi U xông lên trước, chém tới tấp về phía một gã gia đinh:
- Các ngươi tiến đến sẽ nhận lấy cái chết!
Năm đó cô ở huyện Thanh Hà một mình ra sức chèo chống tửu lầu quán, chưa bao giờ có du côn đến đòi tiền gây chuyện. Với dáng vẻ hung hãn, cô ta cầm đao liều mạng với bọn chúng, cuối cùng cũng bao toàn được số tài sản ít ỏi. Hôm nay mẹ của cô lại muốn đến phá quán rượu của cô, càng thêm bi phẫn, nên cô cũng liều một phen.
Nhưng gia đinh Bùi phủ đều được rèn luyện võ công, mà Bùi U dù sao cũng là nữ giới, lúc này mấy tên gia đinh nhất loạt dùng gậy gỗ đỡ đao của cô.
“leng keng!”
Đao của cô bị hất tung ra, một cây gậy khác đánh vào đầu gối của Bùi U, Bùi U lảo đảo một vòng rồi ngã xuống đất. Mọi người xung quanh đến xem hò reo náo nhiệt, có người còn lớn tiếng chửi:
- Đánh đàn bà con gái thì còn gì là nam nhi đại trượng phu nữa!
Bùi Diệu cũng không cố giải thích, hô to một tiếng:
- Xông vào cho ta, đập vỡ hết!
Hai mươi mấy đinh gia xông vào tửu lầu quán. Đúng lúc đó, từ bên trong quán xông ra mấy chục tên lính, họ vơ lấy cái bàn và cây đinh ba trong phòng bếp, hung hãn như lang sói đánh túi bụi vào đám gia đinh.
Những binh lính này không chỉ có võ nghệ cao cường, mà cũng trải qua vô số lần nguy hiểm trong các trận chiến. Càng ngày càng hung hãn hơn, bọn họ phối hợp rất ăn ý với nhau, tên gia đinh nào tiến vào đều bị đánh cho tơi tả, còn xông vào đám gia đinh chém như chém quân địch.
Bọn lính hung hãn vô cùng, đánh cho bọn gia đinh đầu rơi máu chảy, kêu cha kêu mẹ thảm thiết. Mọi người xung quanh trầm trồ khen ngợi, Trình Giảo Kim nấp vào một góc, cũng mặt mày hớn hở vỗ tay khen ngợi.
Không khác gì như anh ta gặp lửa, anh ta làm ra vẻ từ xa chạy tới, miệng thở hồng hộc, hét lớn:
- Dừng tay lại, tất cả dừng t lại!
Bọn lính dừng chém giết, đám gia đinh cũng hết kêu la, chạy ra xa, mấy tên gia đinh rên rỉ lăn lộn trên mặt đất, Trình Giảo Kim tiến lên phía trước, tát mạnh vào một tên lính, rồi lại lên tiếng mắng mấy người lính còn lại:
- Ai cho phép các ngươi đánh lộn trên đường vậy?
Một tên lính nói:
- Tướng quân, chúng tôi đang ăn cơm trong quán rượu này, thì thấy một lũ vô lại xông vào ức hiếp cướp bóc khách trong quán. Chúng tôi không chịu nổi mới ra tay trừng phạt chúng một chút, chúng tôi cũng đã đi báo quan phủ, quan phủ có lẽ cũng sẽ đến đây ngay.
Khuôn mặt Trình Giảo Kim lúc này mới giãn ra, anh ta cố ý làm bộ như không biết Bùi Diệu, chỉ vào đám gia đinh mắng:
- Dưới quyền của hoàng thượng, bọn lưu manh đầu gấu các ngươi sao dám cả gan ức hiếp dân nữ, cướp đoạt tài sản của dân chúng, như này thử hỏi còn vương pháp nữa không?
Anh ta quát một tiếng ra lệnh:
- Đem hết bọn chúng lên quan phủ!
Trình Giảo Kim cực kì gian xảo, đánh nhau trên đường là vi phạm quân pháp, nhưng cùng hợp tác với bên quan phủ để bảo vệ tài sản của nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh cũng chính là lập công. Quan trọng là phải lôi kéo quan phủ địa phương vào chuyện này, như vậy tính chất của vụ việc sẽ thay đổi, cho nên nếu có đắc tội với Bùi gia, thì phải giả ngu đến cùng.
Bọn lính đều xông lên phía trước, dùng dây thừng trói bọn gia đinh lại. Lúc này, trong lòng Bùi Diệu tự than thở một mình. Gã không ngờ rằng Bùi U lại đi tìm sự giúp đỡ, hơn nữa lại sắp xảy ra chuyện lớn, một khi quan phủ đã nhúng tay vào lại thêm phiền toái.
Gã liền vội vàng tiến tới chắp tay nói:
- Trình tướng quân, đây chỉ là hiểu nhầm!
Trình Giảo Kim liếc mặt nhìn gã, lạnh lùng nói:
- Người ở đâu đến?
- Tại hạ là Bùi Diệu, là con cháu của Bùi gia, đây không phải là phường vô lại chuyên đi gây chuyện, mà chỉ là tranh chấp trong Bùi gia. Những người này đều là gia đinh của Bùi gia, khẩn cầu Trình tướng quân thả bọn họ ra.
- Không thể thả!
Bùi U khập khễnh đi tới, đầu nàng quay cuồng, chiếc váy dài cũng bị xé rách, vừa rồi dường như bị mấy gậy đánh vào gãy chân, nàng cảm thấy chân mình đau đớn khó chịu vô cùng, nàng căm hận nói:
- Tôi có cái gì mà phải tranh chấp với Bùi gia, tôi không phải là người nhà của Bùi gia. Bùi gia các ngươi cậy thế cướp đoạt tài sản của muôn dân, nhất định phải bắt bọn chúng lên quan!
Bùi U nói to với mọi người xung quanh:
- Bà con cô bác đã nhìn thấy chưa, đây chính là điều được gọi là danh gia vọng tộc, chính là gia tộc Bùi Thị. Thấy cửa hàng của tiểu nữ ăn ra làm nên, bọn họ nảy sinh lòng tham, muốn cưỡng ép đuổi tiểu nữ đi, thử hỏi như vậy thiên hạ này còn vương pháp không?
Mọi người dân trong thành bắc đều ùn ùn kéo đến xem, mọi người cùng nhau hét to:
- Bùi gia cậy thế hiếp người, Bùi gia cướp đoạt của cải của dân!
Tiếng hô mỗi lúc một lớn, chất chứa biết bao oán giận.
Mô hôi chảy đầm đìa trên trán Bùi Diệu, gã chỉ muốn ra đòn giải quyết nhanh gọn, đóng cửa tiệm đập phá xong rồi lại đi, chứ không ngờ rằng Bùi U lại tìm được cứu viện, khiến bọn gã không vào được trong quán.
Gã bỗng nhiên nhận ra sai sót trong kế hoạch của mình, phải là nửa đêm mới đúng, ban ngày sẽ khiến nhiều người đến xem, điều này sẽ ảnh hưởng tới danh dự của Bùi gia. Gã muốn giải thích, nhưng giọng gã quá nhỏ, đã bị tiếng gầm thét của cả biển người kia áp đảo.
Lúc này, huyện lệnh huyện Tấn Ddẫn theo hai mươi mấy tên nha dịch kịp thời tới nơi. Y nhận ra Bùi Diệu, cũng biết hoàn cảnh của Bùi U, gặp phải tình thế này, trong lòng y cũng hiểu được nửa phần. Việc này khiến y phải đau đầu rồi, không biết phải làm thế nào, nếu không quản thì mũ quan trên đầu y khó mà bảo toàn được. Còn nếu nhúng tay vào, thì chỉ sợ lại đắc tội với Bùi gia.
Nhưng tiếng phản đối của dân chúng sôi sục, nếu không nhúng tay vào e là những gia đinh này sẽ bị dân chúng tức giận đến nỗi đánh cho chết mất, không biết làm thế nào, y phải thét lên ra lệnh:
- Đem tất cả về nha huyện để xử lý!
Bùi U ngang ngạnh, tiến lên quỳ xuống nói:
- Thanh thiên đại lão gia, dân nữ muốn tố cáo Bùi gia ỷ thế hiếp người, cướp đoạt của cải của dân chúng, cúi mong huyện lệnh đại gia làm chủ cho dân nữ…
Chuyện ồn ào huyên náo ở Nguyên An tửu lầu rốt cục cũng khiến cho Bùi gia khó có thể giải quyết ổn thỏa. Bùi gia buộc phải làm giấy cam kết cam đoan không can thiệp vào cửa hàng của Bùi U nữa. Bùi U cũng rút đơn kiện về, nhưng Bùi gia lập tức khai trừ Bùi U ra khỏi gia tộc, không nhận cô là chi nữ của Bùi gia.
Chương 917 : Tình hình nghiêm trọng (1+2)
Về phần Trình Giảo Kim không bị trách phạt, cũng không được khen ngợi, dường như chuyện này không liên quan gì tới anh ta.
Chu huyện lệnh rất cẩn thận, trong lúc mang phạm nhân đi, không đem binh lính đến huyện nha, coi bọn họ chỉ như người qua đường thấy chuyện bất bình nên giúp đỡ, trong báo cáo cũng không nhắc đến Trình Giảo Kim và binh sĩ của anh ta, trong lòng anh ta biết chắc, không thể dính dáng tới quân đội.
Nhưng chuyện này lại mang tới cho An Nguyên quán một kết cục không tưởng được. Danh tiếng của quán vì thế mà có tên tuổi lớn. Khách hàng kéo đến đông nghìn nghịt, giành hết khách ở các quán rượu của Bùi gia. Giúp cho An Nguyên quán kinh doanh ngày càng hưng thịnh.
Phòng trên lầu năm của tửu quán, Bùi U đang vén váy lên, cẩn thận xoa rượu thuốc lên chỗ vết thương trên đùi, mặc dù bị đau đã một ngày rồi, nhưng trên đùi vẫn thấy hơi tê tê. Lạighĩ đến số tiền bồi thường thuốcen là ba nghìn xâu tiền của Bùi gia, trong lòng cô ta lại cảm thấy sảng khoái vô cùng.
Lúc này đột nhiên có tiếng gõ cửa “cốc! cốc!” ngay sau đó nghe thấy tiếng gọi của chủ quầy:
- Đông chủ, có chuyện gấp!
Giọng y có vẻ rất lo lắng.
Bùi U hoảng sợ, cuống quýt buông váy xuống, sửa sang lại áo quần, rồi mới bước đến mở cửa, chỉ thấy trưởng quầy bưng một cái mâm, trong mâm có rất nhiều tiền, Bùi U nhướn mày:
- Sao lại thế này?
- Đông chủ, chúng ta thu được tiền giả.
Quầy trưởng gần như khóc ra thành tiếng.
Bùi U trong lòng kinh ngạc, vội mở cửa, nhận lấy chiếc mâm. Cô quay vào phòng, rồi đi tới mở cửa sổ, những tia nắng sáng chói ùa vào trong phòng, chiếu lên cái khay đặt trên bàn, ánh sáng trắng trắng phản chiếu từ số tiền trong khay khiến cô chói mắt.
Bùi U cầm mấy nén bạc lên, giơ về phía ánh sáng ngắm nghía kĩ lưỡng, thật là quá tinh xảo, chẳng khác gì với mẫu tiền mà nhà nước ban hành, kích thước, hoa văn, và chữ viết đều giống nhau y hệt.
Bỗng nhiên cô cảm thấy có điều gì đó không đúng, vội bước đến chiếc tủ treo, thò tay vào bên trong cầm ra mấy nén bạc. Chạm vào món tiền này, lập tức xác nhận rõ cảm nhận của cô, số tiền mà trưởng quầy cầm khá quan trọng, trọng lượng của năm miếng tiền tương đương với mười miếng tiền của triều đình phát hành.
- Đông chủ!
Quầy trưởng vẻ mặt đưa đám nói:
- Số tiền giả này chỉ có thể dùng để đánh thành đồng trắng thôi. Hôm nay khách quá nhiều, chúng tôi không chú ý hết được, số tiền giả nhận được tổng cộng là năm mươi mấy miếng tiền.
Cũng được, tổn hại tính ra cũng không lỮ, Bùi U an ủi y:
- Chuyện này không phải do ngươi, cũng không phải là lỗi của bọn tiểu nhị, nhưng phải cẩn thận một chút. Ai dám sử dụng tiền giả, phải lập tức bắt gã lại, đi đi!
- Đa tạ Đông chủ!
Trưởng quầy lau mồ hôi trên trán, quay người bước đi. Bùi U ngẫm nghĩ một chút, cô lập tức đem số ngân bạc giả cất vào một cái túi gấm, mặc thêm một chiếc áo ngắn, chải lại đầu tóc gọn gàng, mở cửa đi xuống lầu, đến lầu một, cô nói với tiểu nhị:
- Chuẩn bị cho ta một cỗ xe ngựa, ta muốn tới Tấn Dương cung…
Trời cũng đã sắp chạng vạng, thời gian bãi triều trong cung Tấn Dương cũng đã qua, nhưng Dương Nguyên Khánh vẫn còn ở Tấn Dương cung chưa đi. Bình thường hắn đến tận tối mịt mới quay về phủ, hơn nữa trong khoảng thời gian này, sự yên lặng ẩn chứa những nguy cơ đang từng bước tới gần với Đại Tùy.
Hắn phát hiện mình còn xem thường quyết tâm dùng quân lập uy của Hiệt Lợi Khả Cát. Hôm qua hắn nhận được thư cầu cứu của bộ lạc Ô Đồ Dư sinh sống tại ven hồ Ô Khất Bạc. Đội kị binh Đột Quyết bắt đầu xuất hiện quầy rầy bộ lạc Ô Đồ Dư, bọn chúng giết hại các đàn ông, cướp đoạt phụ nữ, và tài sản. Đã có hơn một trăm hộ dân chăn nuôi nằm rải rác ở Đột Quyết bị cướp bóc, giết hại.
Mặc dù chỉ là một tiểu đội kị binh Đột Quyết nhỏ bé, nhưng theo kinh nghiệm tích lũy, sau lưng đội kị binh này ắt phải có đội kị binh Đột quyết lớn mạnh hỗ trợ ở phía sau. Hơn nữa hôm nay, thời tiết có chút khác thường, đã vào tháng mười một rồi, trên thảo nguyên tuyết vẫn chưa rơi, cực kì giống với mùa đông năm Đại Nghiệp thứ sáu. Năm đó suốt cả mùa hạ và mùa thu trung nguyên hạn hán triền miên, còn mùa đông trên thảo nguyên cũng không có tuyết rơi, lẽ nào năm nay cũng như vậy sao?
Dương Nguyên Khánh trong lòng tràn đầy lo lắng, nếu mùa đông năm nay trên thảo nguyên không có tuyết rơi, thì thế cục này thật là nguy hiểm.
Đúng lúc này, ngoài cửa có tiếng của Bùi Thanh Tùng:
- Điện hạ! Ngoài cửa có binh lính báo lại, Đông chủ của tửu quán An Nguyên, Bùi U cầu kiến, nói có việc quan trọng muốn bẩm báo…
Dương Nguyên Khánh nghe nói Bùi U tới, hắn cười rồi nói:
- Cho thị vệ dẫn cô tới đây!
Dừng một chút, Dương Nguyên Khánh lại dặn dò:
- Không được đi cửa chính, dẫn cô ta qua cửa phụ lên lầu.
Đây không phải vì sợ có người nhìn thấy, mà bởi vì Tử Vi các là nơi xử lý quân cơ, thông thường sẽ không cho phép những người bình thường vào trong. Giống như Bùi U là một thương nhân không có chức phẩm vị tước gì, cho nên không chỉ có Tử Vi các mà ngay cả cung Tấn Vương cũng không thể dễ dàng cho vào. Hôm nay vì đã bãi triều, hơn nữa cũng chỉ là một lần ngoại lê, nên cũng không sao cả.
Chỉ có điều Dương Nguyên Khánh phải suy xét đến thể diện của mấy tướng quốc, nếu Bùi U đi cửa chính, các tướng quốc phát hiện ra bọn họ sẽ rất khó chịu, vì vậy chỉ có thể qua cửa phụ mà thôi.
Không bao lâu, hai thị vệ đã dẫn Bùi U đến quan phòng của Dương Nguyên Khánh, Bùi Thanh Tùng tiến vào bẩm báo:
- Điện hạ, cô ta đển rồi!
- Cho cô ta vào đi!
Cửa mở, Bùi Thanh Tùng đưa Bùi U vào trong phòng, sau đó anh ta cẩn trọng đóng cửa lại, trong lòng Dương Nguyên Khánh khẽ lắc đầu:
- Trong đầu Bùi Thanh Tùng này nghĩ đi đâu vậy?
Bùi U có chút vội vã, mặc dù cô rất mực thích Dương Nguyên Khánh, nhưng trong lòng cô hiểu rõ. Dương Nguyên Khánh không để ý đến cô, dáng mình không đẹp, dung mạo lại càng không, với thân phận của một cô nhi quả phụ, nên cũng chẳng dám nghĩ xa xôi, nhưng muốn hắn chiếu cố đến việc buôn bán của mình, cũng là có thể.
Bùi U tự biết rõ mình, từ sau khi chồng cô qua đời, cô xem nhẹ chuyện tình yêu nam nữ, một lòng một dạ chú tâm đến việc kinh doanh kiếm tiền. Theo cô, nếu không thể dựa vào người đàn ông nào, thì chỉ có thể dựa vào đồng tiền mà thôi, cho nên Bùi gia muốn đập phá cửa hàng của cô, cũng chính là chặn luôn đường sống của cô. Vì vậy cô thà chết chứ quyết không để cho Bùi gia đạt được mục đích.
Cô tiến lên trước, vái một lễ thật sâu nói:
- Dân nữ Bùi U bái kiến Sở Vương Điện Hạ!
Dương Nguyên Khánh chỉ coi Bùi U la chị vợ của hắn, đương nhiên không có ý nghĩ gì khác. Hôm qua hắn cũng nghe nói chuyện xảy ra ở An Nguyên tửu lầu, hắn cũng không cảm thấy ngạc nhiên lắm, hắn biết Bùi gia sẽ không dễ gì để cho Bùi U trở thành thương nhân bán rượu. Sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ xảy ra mâu thuẫn, hoặc là Bùi U đóng cửa tiệm rồi tái giá, hoặc là thủ tiết không đi bước nữa, hoặc cũng có thể bị Bùi gia trục xuất ra khỏi gia tộc, đoạn tuyệt quan hệ.
Kết quả cuối cùng vẫn là ân đoạn nghĩa tuyệt. Dương Nguyên Khánh cũng có chút khâm phục dũng khí của Bùi U, cô khiến cho hắn nghĩ tới một thời đã qua của mình. Năm đó chẳng phải hắn cũng bị trục xuất khỏi Dương gia sao?
Vừa khâm phục, lại vừa thông cảm, nhưng trong chuyện này, hắn chỉ có thể giả câm giả điếc, giả bộ cái gì cũng không biết, cũng không có can hệ gì tới hắn. Thanh quan khó đoạn việc nhà, hắn cũng không muốn vì chuyện này mà chọc tức Bùi gia.
Cũng may sự việc đã giải quyết xong, Dương Nguyên Khánh cũng không nhắc lại chuyện này nữa, tươi cười nói:
- U đại tỷ tìm ta có việc gì vậy?
Tiếng U đại tỷ này khiến cho trong lòng Bùi U thêm phần ấm áp. Dương Nguyên Khánh không phải vì mình bị trục xuất khỏi Bùi gia mà có phần biệt đãi. Hắn đối xử với mình vẫn như xưa, nhưng Bùi U cũng là người thông minh, cô biết Dương Nguyên Khánh sẽ khó xử trong chuyện của mình, cho nên cô cũng không đề cập tới chuyện hôm qua, cô lấy túi gấm ra vứt “rầm” một cái, rồi dốc toàn bộ số ngân lượng ra.
- Điện hạ, người tự xem đi! Tất cả đây đều là bạc giả, năm mươi mấy nén này đều thu được ở quán rượu của chúng tôi.
Nét tươi cười của Dương Nguyên Khánh vụt biến mất, mặt hắn nhăn lại, hắn đi tới phía trước, nhặt một nén bạc trên bàn lên. Bùi U phải so sánh mới phát hiện ra sự khác nhau, còn Dương Nguyên Khánh vừa cầm vào liền biết đó là tiền giả, nặng hơn rất nhiều, đây nhất định làm bằng đồng trắng rồi.
Dương Nguyên Khánh cầm chặt nén bạc trong lòng bàn tay, tỉ mỉ quan sát nén bạc giả này, kĩ thuật chế tác rất điêu luyện, từng chút từng chút một không thua gì số ngân lượng mà bọn họ tạo ra. Thậm chí ngay cả chi tiết ở các viền mép cũng giống nhau như đúc.
Dương Nguyên Khánh hít một hơi thật sâu, năm đó xét xử mấy vụ án đúc tiền giả, hắn cũng có một chút kinh nghiệm. Bình thường tiền giả đúc trong dân hầu hết đều khá thô ráp, ngay cả phường đúc có thực lực vô cùng mạnh cũng không thể đúc giống như mẫu tiền thật. Làm được tinh xảo tỉ mỉ như thế này, thì chỉ có khuôn mẫu của nhà nước mới có thể làm được.
Hơn nữa trong nửa tháng ngắn ngủi mới hoàn thành khuôn, việc đúc tiền giả rồi lưu hành trên thị trường tuyệt đối không thể là người trong dân làm ra. Thậm chí ngay cả Lý Mật, Vương Thế Sung cũng không thể làm được, trong đầu Dương Nguyên Khánh nảy ra một suy nghĩ, đây có lẽ là tiền giả do nhà Đường phát hành.
Hắn ngay tức khắc nói:
- Nhanh chóng cho truyền Ngụy Bí tới gặp ta!
Bùi U thấy sắc mặt của Dương Nguyên Khánh nhăn lại, biết chuyện này khá nghiêm trọng, cô cũng không dám nói nhiều, liền đứng dậy cáo từ. Dương Nguyên Khánh cũng không giữ, lệnh cho thị vệ hộ tống cô ra khỏi cung.
Việc xuất hiện hiện tượng tiền giả đối với Dương Nguyên Khánh mà nói, thực sự rất nghiêm trọng. Mặc dù số tiền giả này được đúc từ đồng trắng, có thể dựa vào trọng lượng để phân biệt, nhưng đối với tiền bạc phải đoán xem nó là thật hay giả, tiền như vậy còn có ai dám nhận nữa?
Điều này sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến giá trị của tiền bạc, khiến cho việc phát hành tiền bạc bị thất bại, hậu quả này bất luận như thế nào đối với Dương Nguyên Khánh cũng không chấp nhận được. Mặc dù hắn đã làm tốt công tác chuẩn bị khi tiền giả xuất hiện, nhưng vụ tiền giả lần này không giống như bình thường.
Quan trọng hơn là số tiền giả này rất có thể do nhà Đường tạo ra, một khi đã xác định do triều Đường gây lên, thì đây không đơn giản chỉ là một chút tiền giả nhằm làm rối loạn thị trường.
Bọn họ sẽ tổ chức đúc tiền giả với quy mô lớn, điều này không chỉ tổn hại nghiêm trọng đến lợi ích của triều Tùy. Mà khi tiền giả xuất hiện với số lượng lớn trong nội cảnh nhà Đường, khiến cho người dân Đường không tiếp nhận số tiền giả của triều Tùy.
Biện pháp này là biện pháp lấy tiền giả đuổi tiền thật đi, cuối cùng sẽ dẫn đến thất bại của triều Tùy trong chính sách phát hành tiền, thậm chí sẽ làm cho tài sản của triều Tùy sẽ chảy vào tài sản của triều Đường.
Dương Nguyên Khánh lúc này mới phát hiện kế hoạch dùng bạc trắng để cướp đoạt của cải triều Đường của hắn tồn tại những lỗ hổng lớn, hơn nữa lỗ hổng này đã bị triều Đường tìm thấy.
Việc này khiến Dương Nguyên Khánh nếm trải cảm giác đau buồn khi thất bại. Hắn hao tổn tâm sức để vạch ra kế hoạch này, nhưng cuối cùng lại phát hiện ra kế hoạch này có chỗ không thể thực hiện được, và đã bị đối phương dễ dàng phá hủy.
Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng, trầm tư tìm biện pháp đối phó, tuy nhiên việc này hoàn toàn chưa đến mức tuyệt vọng, vẫn còn có cách có thể cứu vãn tình hình.
Tiền bạc sở dĩ rất dễ bị lật đổ, là bởi vì giá trị của chúng tương đối thấp, lưu thông tương đối phổ biến, ngay cả người nông dân bán rau, đến đại thẩm mua gạo đều phải sử dụng chúng. Bọn họ không nhất thiết phải phân biệt rõ ràng, nếu mỗi nén bạc đều phân biệt như vậy, vậy một triệu, rồi mấy tỉ nén phải làm thế nào?
Chí phí để nhận biết tiền giả quá cao, sẽ gây cho mọi người một cảm giác mất niềm tin nghiêm trọng, cho nên cuối cùng bỏ sử dụng tiền, nhưng nếu dùng ngân lượng thì không như thế.
Mỗi ngân lượng là mười lượng, hai mươi lượng, năm mươi lượng, số lượng ít, giá trị cao, hầu hết đều qua tay thương nhân. Bọn họ có thể dễ dàng phân biệt được, cho dù triều Đường làm giả cũng khó có hiệu quả, bởi vì những người qua tay đều là thương nhân chuyên nghiệp, gần như không có ai dùng tiền giả để giao dịch.
Làm như vậy, tiện cho thương nhân mang theo, đồng thời cũng có thể đᴠđược mục đích vét sạch của cải của nhà Đường. Nghĩ đến đây, mối ưu trong lòng phiền Dương Nguyên Khánh như được trút xuống, tiền chưa phát hành với số lượng lớn, bây giờ dừng lại vẫn còn kịp, chỉ cần đem bọn chúng nấu lên là được, tổn thất cũng không lớn lắm.
Lúc này thị vệ ở bên ngoài bẩm báo:
- Khởi bẩm Điện Hạ, Ngụy tướng quân cầu kiến!
- Cho vào!
Cửa mở, nội vệ tướng quân Ngụy Bí vội vàng đi vào, quỳ một gối, chắp hai tay lên cao thi lễ:
- Ty chức Ngụy Bí tham kiến Điện Hạ!
Dương Nguyên Khánh đập thật mạnh xuống bàn, giận dữ nói:
- Trong dân đã xuất hiện tiền giả, ngươi vì sao không báo cáo chuyện này?
Ngụy Bí kinh ngạc, vội vàng trình báo:
- Đến đêm hôm qua, trên thị trường vẫn chưa có hiện tượng này xảy ra, ty chức ngày nào cũng xem báo cáo, cũng không thấy có hiện tượng này xảy ra.
Dương Nguyên Khánh hất “rầm” một cái, năm mươi mấy nén bạc rơi xuống đất, bắn tung tóe khắp nơi. Dương Nguyên Khánh chỉ tay vào số ngân lượng nằm lăn lóc dưới đất, quát mắng:
- Ngươi mở mắt to mà nhìn, đây là cái gì?
Ngụy Bí nhặt lên mấy nén bạc giả, ngay lập tức đổ mồ hôi lạnh, y đã quá quen thuộc với số tiền vừa mới phát hành, cầm chúng trong tay, y biết luôn đó là tiền giả, trong lòng y thấp thỏm lo âu.
Y vội vàng cúi đầu nói:
- Ty chức cũng lo lắng có tiền giả xuất hiện, đặc biệt phái ra ba mươi huynh đệ, ngày nào cũng giám sát vấn đề tiền bạc trên thị trường, và đều phải báo cáo lại cho thần. Mới hết ngày hôm qua thôi, ty chức quả thật không nhận được báo cáo nào viết có xuất hiện tiền giả, tuyệt đối không dám giấu diếm Điện Hạ.
Dương Nguyên Khánh trong lòng thầm nghĩ “lẽ nào tiền giả hôm nay mới xuất hiện sao?”
- Vậy báo cáo của hôm nay đâu?
Dương Nguyên Khánh hỏi.
- Ty chức vẫn chưa xem đến, chắc cũng đã được đưa tới công sở rồi.
- Lập tức phái người đến lấy.
Ngụy Bí cuống quít lui xuống, chạy xuống Tử Vi các, tìm thuộc hạ tâm phúc cùng đi với y, dặn dò gã vài câu, tên thuộc hạ lập tức chạy như bay đi. Ngụy Bí cũng không dám lên lầu, chỉ đứng ở dưới lầu lo lắng chờ đợi.
Khoảng nửa canh giờ sau, thuộc hạ của y mới mang tập báo cáo tới, mồ hôi nhễ nhại:
- Tướng quân lấy được rồi!
Ngụy Bí cầm lấy tập báo cáo, luống cuống tay chân mở ra, đây thực sự là báo cáo nội vệ của ngày hôm nay, tin tức gì cũng có, sau đó nội vệ cứ cách ba ngày lại sắp xếp biên tập thành một bản báo cáo chính thức, trình lên Dương Nguyên Khánh.
Ngụy Bí mượn ánh đèn leo lét từ phía cửa lớn, lật một phát bốn năm trang, tinh thần y đột nhiên bị chấn động, xoay người chạy thẳng lên lầu.
- Điện Hạ, hôm nay trên báo cáo có nói đến.
Ngụy Bí bước vào quan phòng, vội vàng bẩm báo.
Dương Nguyên Khánh đang đứng khoanh tay trước cửa sổ, nhìn về phía bầu trời đen kịt, sau một lúc lâu, hắn lạnh lùng nói:
- Trên báo cáo nói như thế nào?
- Khởi bẩm Điện hạ, trên báo cáo nói, buổi trưa hôm nay, ở thành bắc có xuất hiện tiền giả, là do đồng trắng đúc thành, có người phát hiện ra, và cũng đã đi báo quan rồi.
Hắn im lặng một lát, rồi lại hỏi:
- Tại tửu quán Bát Phương có động tĩnh gì không?
Nội vệ luôn giám sát quán rượu Bát Phương của Đường Phong, thậm chí còn có người trà trộn vào đó làm tiểu nhị, nếu do nhà Đường gây nên, thì cũng phải có chút quan hệ với tửu quán Bát Phương. Ngụy Bí tiếp tục báo cáo, trong này có báo cáo liên quan tới tửu quán Bát Phương.
- Điện Hạ, đông chủ của tửu lầu quán Bát Phương Lý Thủ Trọng hôm nay không tới, còn mấy người tiểu nhị cũng xin nghỉ bệnh.
Dương Nguyên Khánh hừ một tiếng:
- Ta nghi ngờ số tiền giả này là của nhà Đường, Bát Phương cũng không nằm ngoài diện tình nghi, hãy bắt đầu điều tra từ Bát Phương.
- Có thể là như vậy, triều Đường sẽ biết Bát Phương bị lộ, chúng ta chỉ có thể phá hủy nó, Điện Hạ, có lẽ không phải do nhà Đường làm, có thể điều tra Bát Phương cuối cùng không?
- Không được!
Dương Nguyên Khánh kiên quyết cự tuyệt đề nghị cảu Ngụy Bí:
- Ta cho ngươi thời hạn trong một đêm, ngày mai ta không muốn nghe thấy thông tin trên thị trường còn lưu hành tiền giả. Chuyện tiền giả rất quan trọng, Bát Phương tồn tại hay không ta không quan tâm, nhưng phải trực tiếp điều tra từ nhà Đường.
Ngụy Bí không dám cự tuyệt lần nữa, y đành phải khom lưng tiếp chỉ:
- Ty chức tuân lệnh...
Vào khoảng giờ hợi, vị khách cuối cùng tại quán Bát Phương ở thành bắc cũng đã ra về, quán bắt đầu dọn dẹp đóng cửa nghỉ bán. Lúc này cũng là lúc tiếng chuông báo đóng cổng thành Thái Nguyên vang lên, sau một hồi chuông vang lên liên tục, cổng thành cũng từ từ đóng lại.
Cơ cấu của thành Thái Nguyên không giống với Lạc Dương Trường An, không phân chia thành từng xóm, cho nên không phải đóng cổng làng, cho dù là canh ba, cũng có thể tự do đi lại trong thành.
Tuy nhiên thông thường vào giờ hợi, người trên đường cũng thưa thớt dần, hơn nữa cũng đang vào mùa đông, gió thổi xào xạc, đường lớn đêm đông lại càng trống trải không người.
Bát Phương tửu quán nằm đối diện với An Nguyên tửu quán, hai quán rượu này cách nhau chừng sáu mươi bước, lúc này An Nguyên tửu quán cũng đã đóng cửa.
Nhưng trong quán lại chật ních quân nội vệ mặc áo giáp, đội nón, có chừng hơn ba trăm người, bọn họ đang chờ đợi một tín hiệu quan trọng. Một khi tín hiệu này phát ra, bọn họ lập tức xông vào Bát Phương quán để bắt giữ người.
Trước cửa sổ tầng hai của An Nguyên tửu quán, Ngụy Bí mặc áo giáp, đầu đội ngân khôi, ánh mắt lạnh lùng âm thầm quan sát Bát Phương lầu. Ánh mắt của y có chút mông lung, đây là lần đầu tiên y không chắc khi xuất kích, y cũng không thể xác định rõ tiền giả có phải do nhà Đường không.
Hơn nữa cứ cho là nhà Đường làm, nhưng đông chủ của Bát Phương quán Lý Trọng Thủ không hề có mặt trong quán, động tới tửu quán khéo là rút dây động rừng, như vậy tiền giả có thể bị chuyển đi?
Ngụy Bí không dám chắc điều gì.
Nhưng y không có sự lựa chọn nào khác, y không biết Lý Trọng Thủ đang ở đâu, chỉ có đập đổ Bát Phương quán may ra mới có được tin tức của Lý Trọng Thủ. Sau khi bắt được Lý Trọng Thủ, mới có thể tìm được manh mối về số tiền giả kia. Trừ cách đó ra, y không còn cách nào khác, Dương Nguyên Khánh chỉ cho y thời hạn là một đêm, sau khi trời sáng y nhất định phải khống chế được toàn bộ số tiền giả.
Ngụy Bí có thể hiểu được nỗi lo lắng của Dương Nguyên Khánh. Hôm nay là ngày đầu tiên tiền giả phát tán, số lượng không lớn, nhưng cứ tiếp tục như vậy, rất có thể khiến Thái Nguyên rơi vào khủng hoảng.
Chương 918 : Xuất kích suốt đêm
Ở lầu bốn, trưởng quầy và ba tên tiểu nhị phụ trách trông coi cửa hàng đang ngồi trong một gian phòng nhỏ. Trong lòng vô cùng sợ hãi, ở thành Thái Nguyên người khiến người khác sợ nhất là quân nội vệ.
Có một câu tục ngữ khá phổ biến đó là “Thà rằng bị diêm vương bắt, còn hơn phải đi cùng thị vệ”. Điều này cho thấy quân thị vệ đáng sợ như thế nào.
Mà lúc này, trong quán rượu của bọn họ lại có mấy trăm lính thị vệ. Nếu tin An Nguyên quán qua lại với đại nội thị vệ, thì sau này còn ai dám đến cửa hàng của bọn họ ăn uống nữa?
Trưởng quầy ngồi chồm hổm trong một góc, chắp tay cầu nguyện, cầu mong cho các thị vệ mau chóng rời khỏi đây.
Bùi U lúc này đang ở trong phòng, cô đứng trước cửa sổ, không chút căng thẳng gì, ánh mắt cô cũng mông lung quan sát Bát Phương, nhưng trong đầu lại suy nghĩ tới một vấn đề khác, có thể nắm lấy Bát Phương làm cửa hàng thứ hai không đây.
Vừa nãy cô nghe trộm thấy binh lính bảo nhau rằng, Bát Phương hình như là mật thám của quân Đường, như vậy nếu bắt được nội thám triều Đường, thì quán rượu này sẽ bị quan phủ tịch thu. Sau đó sẽ bán ra, mặt tiền của Bát Phương quán đẹp hơn rất nhiều so với An Nguyên quán. Đây là cơ hội làm ăn khó tìm.
Đương nhiên cô biết điều này cũng rất khó, nếu theo năng lực tài chính hiện nay của cô thì khó có thể mua được. Trước kia khi mua An Nguyên quán đã phải mất tổng cộng là năm mươi nghìn xâu tiền rồi, cô bây giờ chỉ có mười nghìn xâu tiền. Ngoài ra còn có bốn mươi nghìn xâu tiền của Bùi Thu Mẫn cho.
Thực ra trên danh nghĩa nói cho cô mượn, nhưng trên thực tế không có ý đòi cô trả lại, mà nuốn tặng cho cô, là bởi vì cô còn trẻ lại là quả phụ, vợ chồng hắn muốn giúp đỡ cô. Cô đã nợ họ món ân tình lớn này, cô lại không chút ý tứ gì lại đến mở miệng nhờ Mẫn Thu sao.
Nhưng nếu có thể nắm được Bát Phương, cô sẽ có hai cửa hàng kinh doanh đồng thời, đều dùng biển hiệu An Nguyên, như vậy số tiền cô kiếm được sẽ vượt xa số tiền kinh doanh của hai nhà trước đó. An Nguyên quán chắc chắn sẽ trở thành thương hiệu quán ăn nổi tiếng nhất Thái Nguyên.
Bùi U thở dài, kinh doanh có mấy tháng mà thu được ngoài ý muốn, trong tay cô mới tích lũy được mười bốn nghìn xâu tiền, còn Bát Phương ít nhất cũng được bán với sáu mươi nghìn xâu tiền, đây dù sao cũng chỉ là một hình thức bán đổ bán tháo của quan phủ.
Nếu bình thường bán ra, ít nhất cũng bán được năm mươi nghìn xâu tiền trở lên. Đối diện cô chỉ có quán Vương Tứ Lang ba lầu mới chuyển nhượng, tân đông chủ đã phải mất một trăm hai mươi nghìn xâu tiền.
- Làm sao bây giờ?
Bùi U nghĩ mãi không ra…
Lúc này, tình hình bên phía Bát Phương cũng đã có động tĩnh, lầu hai của tửu quán tối đen như mực đột nhiên thấy sáng đèn, đây chính là tín hiệu phát ra tử nội ứng trà trộn vào đây làm tiểu nhị.
Con mắt của Ngụy Bí híp lại, gã lập tức hạ lệnh:
- Xuất kích!
Cửa lớn của An Nguyên quán mở ra, ba trăm nội thị vệ từ trong quán rượu lao nhanh ra ngoài, tiến thẳng về phía Bát Phương quán.
Nội thị vệ vừa đi hết, Bùi U như gió lao vút xuống lầu “Cạch!” một tiếng đóng chặt cửa lại, cô quyết không để ai thấy nội thị vệ đi ra từ quán của cô.
Ba trăm nội thị vệ trong nháy mắt đã bao vây Bát Phương lầu, hai thị vệ phi một cước đá văng cửa chính, hơn trăm người lần lượt tiến vào.
Đại sảnh trước đó tối đen như mực đã được thắp sáng cả lên, mấy tên lính túm lấy hai tên tiểu nhị đang nấp dưới gầm bàn. Hai tên tiểu nhị hồn bay phách lạc, cả người run lẩy bẩy, rối rít quỳ lạy xin tha mạng.
Bọn lính không thích nghe tiếng cầu xin leo léo của bọn chúng, liền dùng cán dao đánh cho chúng ngất đi. Một tên tiểu nhị khác được bọn họ dẫn đến trước mặt Ngụy Bí, gã chính là nội ứng vừa phát tín hiệu.
- Tướng quân, Lý Thủ Trọng đã quay trở lại, đang ở lầu bốn bàn họp với mấy người.
Nội ứng nói khẽ với Ngụy Bí.
Ngụy Bí mừng rỡ, Lý Thủ Trọng cuối cùng cũng đã ở đây, lần này thật sự trời đã giúp y rồi, hắn lập tức hạ lệnh:
- Bắt hết những người trong quán, không để ai trốn thoát!
Mười mấy tên binh sĩ cường tráng hùng hổ cầm hoành đao, men theo cầu thang chạy lên lầu bốn.
Bát Phương tửu là căn cứ điểm của Đường Phong ở Thái Nguyên, lần này bọn họ có nhiệm vụ đưa tiền giả vào trong Thái Nguyên, vì vậy đương nhiên phải giao việc này cho Đường Phong rồi. Lý Thủ Trọng đang ở lầu bốn cùng với hơn mười người chủ chốt trong hội, bàn bạc cách ngày mai đưa một số lượng lớn tiền giả vào thị trường.
Hôm nay bọn họ chỉ phát tán thử một chút tiền giả để thám thính, trong đó có An Nguyên quán đối diện. An Nguyên quán nhờ ảnh hưởng từ tranh chấp với Bùi gia, mà hôm nay làm ăn khá nhộn nhịp.
Hai tên thuộc hạ nhân tiện đi uống rượu đã tiêu hết năm mươi mấy nén bạc, đương nhiên An Nguyên quán chỉ là một trong những số đó. Số tiền giả phát tán ở khắp Thái Nguyên, tổng số hôm nay lên tới một nghìn nén bạc.
Chỉ có điều Lý Thủ Trọng nằm mơ cũng không nghĩ ra, hôm nay bọn họ tiêu thụ tiền giả ở An Nguyên quán, ngẫu nhiên tạo nên mầm họa cho bọn họ đêm nay.
Bọn họ bàn bạc trong một căn phòng rộng rãi thoáng mát, rèm buông che kín các cửa sổ, khiến cho không một tia sáng nào lọt được ra ngoài, bọn họ đang phân chia số tiền giả của ngày mai.
Bỗng nhiên một tiếng vang lớn “Rầm!” từ lầu một truyền đến, đây là tiếng đạp cửa của lính nội thị vệ, âm thanh này trong đêm tối càng nghe rõ hơn.
Trong phòng bỗng nhiên yên lặng hẳn, các thành viên Đường Phong trong phòng họp ngơ ngác nhìn nhau, không biết có chuyện gì xảy ra? Đúng lúc này, từ lầu ba vọng lên một tiếng kêu thảm thiết “A!”. Đây là tiếng kêu của người đứng gác trước khi chết.
Trong phòng ngay tức khắc náo loạn cả lên, Lý Thủ Trọng nhảy dựng lên, đầu tiên gã chạy ra ngoài cửa. Vừa mới xông ra đã quay lại hô to:
- Phải nghĩ cách xông ra báo tin!
Gã rút dao ra xung phong xông ra khỏi cửa phòng, gã phải phi tang căn phòng nhỏ ở lầu năm nơi cất giữ những tin tức tình báo quan trọng. Gã vừa lên tới tầng năm, hàng chục thị vệ liền xông tới, đúng lúc đó chạm trán các thành viên hội Đường Phong đang chạy ra ngoài.
Thị vệ đúng lúc bắn tên tới, hàng chục mũi tên dày đặc bắn về phía hội viên Đường Phong cách đó mấy chục bước, chỉ nghe thấy tiếng kêu thảm thiết, có tới bảy tám người bị bắn ngã.
Những người còn lại lui hết vào trong phòng. Dùng bàn chặn cửa lại, ai nấy đều rút dao, dưới sự uy hiếp của tử thần, khuôn mặt bọn họ đều biến sắc, ai ai cũng mang một bộ mặt dữ tợn đáng sợ.
Lý Thủ Trọng chạy lảo đảo lên lầu năm. Nơi đây của gã có thể trở thành đầu não của Đường Phong ở Thái Nguyên, không phải vì gã có năng lực cao, mà là gã có kinh nghiệm lâu đời. Cha mẹ gã là gia nô trong cung Đại Đường, vừa sinh ra, gã đã là người của gia tộc họ Lý.
Mười lăm tuổi gã trở thành một cậu bé chăn ngựa, dắt ngựa cho Lý Uyên khi còn trẻ. Ba mươi tuổi, Lý Thủ Trọng là người đứng đầu gia đinh trong phủ Lý Uyên. Khi ba mươi lăm tuổi chủ nhân Lý Uyên trở thành người trông giữ Thái Nguyên, thành lập lên tổ chức tình báo, Lý Thủ Trọng được bổ nhiệm làm người đứng đầu tổ chức tình báo này, và chịu sự quản thúc của Lý Kiến Thành.
Chính vì năng lực của gã không có, cho nên mặc dù kinh nghiệm của gã rất điêu luyện, nhưng vẫn không thăng được chức nào. Chủ nhân làm hoàng đế, nhưng gã chỉ có thể làm thủ lĩnh của Đường Phong ở Thái Nguyên mà thôi, và chịu sự lãnh đạo của trưởng tôn Vô Kị, cũng bởi vì lòng trung thành của gã nên mới có được chức vụ quan trọng này.
Cũng chính vì năng lực của gã không có, cho nên đã khiến Đường Phong trúng kế phản gián của quân Tùy, khiến cho huynh đệ của Lưu Văn Tĩnh bị giết chết, là ngòi nổ lật ngửa anh em nhà họ Lý.
Cũng vì khả năng bất lực của gã, mà Đường Phong không thu được tin tức gì của triều Tùy, triều Đường không biết Dương Nguyên Khánh đi Triều Tiên, nên đã bỏ lỡ cơ hội nghìn năm đánh phá Triều Tiên.
Đường Phong nhiều lần mắc sai lầm đã khiến Lý Uyên nổi giận, mắng Lý Thế D một trận. Lý Thế Dân cũng đã nghĩ đến nước đổi người, chỉ có điều bây giờ chưa có cơ hội, sợ rằng đổi người sẽ ảnh hưởng tới việc phát hành tiền giả, cho nên Lý Thế Dân tạm thời nhẫn nhịn. Nhưng thị vệ triều Tùy lúc này lại có công giúp Đường triều thay đổi nhân sự rồi
Một căn phòng nhỏ bé chất chứa rất nhiều đồ lộn xộn, Lý Thủ Trọng dùng bả vai đẩy một chiếc cửa nhỏ trên tường, căn phòng đựng đồ này thì ra lại cất giấu một gian phòng bí mật khác.
Gian phòng này là gian phòng bí mật cất giữ tin tức tình báo của Đường Phong, bốn phía xung quanh không có cửa sổ, có ba kệ sách dựa vào ba bức tường, mặt trên bày la liệt các báo cáo mật thu thập từ mấy năm trước.
Trong góc phòng có một hòm gỗ bọc sắt bên ngoài, bên trong có mười nghìn miếng bạc giả từ Trường An đưa tới, đã phát tán được một nghìn miếng bạc. Nhưng lúc này Lý Thủ Trọng không quan tâm đến số tiền giả đó, cái gã muốn tìm là một cái hộp sắt.
Trong phòng tối đen như mực, dưới lầu tiếng kêu la thảm thiết không ngớt khiến gã càng thêm hoảng loạn, gã sờ soạng khắp các kệ, nhưng thế nào mà lại không tìm thấy chiếc hộp ấy.
Gã luống cuống đến nỗi mồ hôi nhễ nhại trên đầu, trong lòng lớn tiếng chửi, cuối cùng gã cũng tìm thấy cái hộp sắt, ai dè gã cầm không chắc chiếc hộp, để chiếc hộp rơi xuống đất, văn thư bên trong rơi lả tả ra.
Chương 919 : Nhượng bộ lớn nhất
Lý Thủ Trọng chửi ầm lên:
- Con mẹ nhà nó, càng loạn càng xảy ra chuyện!
Gã lấy hai viên đá đánh lửa từ trong lòng ra, đánh “Tanh Tách” vào nhau, đánh được hai lần thì một tia lửa tóe ra, ngọn lửa bùng lên rất nhanh bén vào các công văn trên nền nhà.
Những giấy tờ này đều là những công văn cực kì quan trọng, gồm có danh sách quan viên triều Tùy mà gã mua chuộc được, danh sách những điểm tình báo khắp nơi của nhà Tùy, và cả danh sách của hơn một trăm thành viên Đường Phong ở Thái Nguyên. Những thứ này bất kể như thế nào cũng không thể rơi vào tay quân Tùy.
Tay gã run rẩy vừa đốt được một phần danh sách, thì “phụt” một đôi ủng da xuất hiện trước mắt gã, giẫm một phát dập tắt luôn ngọn lửa, khung cảnh trước mắt lập tức biến thành một màn đêm đen kịt.
Một thanh đao lạnh băng đặt lên cổ gã, trong bóng tối Ngụy Bí cười lạnh một tiếng, tia hy vọng trong lòng Lý Thủ Trọng cũng vụt tắt theo chiều dài bất tận của màn đêm.
Đã trôi qua giờ hợi, đêm càng về khuya, trong cung Tấn Dương lúc này hoàn toàn yên tĩnh, cửa cung cũng đã đóng chặt, chỉ có vài đội binh lính tuần tra thỉnh thoảng tuần tra khắp nơi cạnh Tỉnh đài.
Kiến trúc của các Tỉnh đài là một màu tối đen như mực, vô cùng tĩnh lặng nhưng lúc này tầng ba của Tử Vi Các vẫn còn sáng đèn. Nơi đó chính là quan phòng của Sở Vương. Điều này chứng tỏ Sở Vương vẫn còn đang ở bên trong Tử Vi Các.
Việc này khiến đám thị vệ tuần tra càng không dám lơ là, hơn ba trăm người tập trung bảo vệ xung quanh Tử Vi Các. Trong trí nhớ của bọn họ, Sở Vương điện hạ chưa từng thức khuya đến như vậy, không lẽ hôm nay đã xảy ra chuyện gì sao?
Hôm nay, Dương Nguyên Khánh quả thật có chút nặng nề. Lúc trước, Bùi Củ nói với hắn rằng điểm yếu lớn nhất chính là tuyến phòng ngự quá dài, phía đông bắt đầu từ Liêu Đông, kéo dài tới tận phía tây Hạ Lan Sơn, trên thực tế thì còn vượt qua cả Hạ Lan Sơn mà kéo dài xa tới tận hành lang Hà Tây, Đôn Hoàng, Y Ngô. Bên đó cũng là địa bàn của hắn.
Hôm nay, hắn mới cảm nhận sâu sắc thâm ý trong lời nói của Bùi Củ. Đó là một khi kỵ binh Đột Quyết trên thảo nguyên ngày càng lớn mạnh thì biên giới rộng lớn của hắn sẽ biến thành một gánh nặng thật lớn. Người Đột Quyết, với sự linh hoạt và cơ động của quân đội có thể tấn công Liêu Đông, có thể tấn công U Châu, có thể tấn công Nhạn Đại, có thể tấn công Phong Châu, thậm chí còn có thể vượt qua Tham Mạn Sơn để tấn công Đôn Hoàng và Y Ngô nữa.
Phải phòng ngự trên một đường biên giới dài dằng dặc như vậy, tối thiểu phải có một đội quân khoảng ba trăm ngàn người, nhưng hắn hiện tại không cách nào có thể lấy ra một đội quân ba trăm ngàn người như thế để phòng ngự biên cương, ngay cả một trăm ngàn cũng không thể lấy ở đâu ra được.
Từ xưa đến nay, dân tộc du mục phương bắc vẫn là kẻ thù số một của dân tộc làm nghề nông tại Trung Nguyên. Từ thời đại Tây Chu diệt quốc cho đến khi người Mãn Thanh tiến vào thì bóng dáng của dân tộc du mục trên cả vùng đất Trung Nguyên này cũng chưa từng biến mất.
Bất kể nơi nào mà gót sắt của dân tộc du mục đi qua, giết chóc cướp bóc,người dân bị diệt sạch, mấy ngàn năm văn minh lịch sử đời Hán, trên thực tế chỉ là chống chọi lại với sự xâm lược của dân tộc du mục phương bắc mà thôi.
Nhưng trong thời kỳ văn minh đời Hán cũng không hoàn toàn chỉ toàn là phòng ngự. Đời Tần, Lưỡng Hán, Tào Ngụy, Tùy Đường, Minh, cũng có thể thấy được nhiều lần phòng ngự phản công trên diện rộng. Vậy thì Dương Nguyên Khánh thì sao?
Từ sâu xa mà nói, triều đại của hắn và triều Đường là giống nhau, cũng đều là kế thừa di sản của triều Tùy. Đời Tùy có binh hùng tướng mạnh, dùng sách lược lung lạc và đe dọa để thuần phục những con sói của thảo nguyên.
Nhưng ngay cả Tùy triều cũng không thể diệt trừ tận gốc Đột Quyết, nhưng sau khi triều đại này suy sụp, Đột Quyết – Khải Dân Bộ do một tay Tùy triều bồi dưỡng lập tức đã lộ ra răng nanh dữ tợn, tấn công về phía những người đã từng là chủ nhân của bọn chúng. Điều này có thể chứng minh rằng thủ đoạn lung lạc dụ dỗ đã thất bại, chứng tỏ triều Tùy đã không nhìn thấu được lang tính trong xương tủy của người Đột Quyết.
Dương Nguyên Khánh hắn quyết không thể lại giẫm lên vết xe đổ khi xưa. Dù Dương Nguyên Khánh đã xây dựng chiến lược đối phó với người Đột Quyết về lâu về dài, nhưng nguy cơ lúc này phải giải quyết ra sao? Hắn có thể làm giống như ở Phong Châu, dùng quân đội cả nước đi đối phó với Đột Quết, nhưng triều Đường thì phải làm sao bây giờ?
Dương Nguyên Khánh thở dài. Hắn cũng không khỏi cảm thấy mình may mắn đã quyết định ngay lúc đó, để Đậu Kiến Đức ở lại Thanh Châu, nếu không thì bây giờ hắn ở phía đông phải đối mặt với Lý Ngụy, ở phía tây giao tranh với Lý Đường, sau lưng còn có một đám lang sói Đột Quyết, ba mặt đều là kẻ địch thì triều Tùy thật sự nguy to rồi.
Bây giờ chí ít thì hắn cũng không cần phải lo lắng ở phía đông. Đã có Đậu Kiến Đức thay hắn ngăn cản Lý Mật, hắn bây giờ chỉ cần quan tâm đến triều Đường và Đột Quyết mà thôi.
Điều mà hắn lo lắng nhất hiện nay chính là hai mặt đều là địch. Đột Quyết và triều Đường đồng thời phát động tấn công. Nhưng sau khi hắn thành công phục kích sứ thần của Đột Quyết thì khả năng triều Đường triều Đột Quyết hợp mưu tập kích Tùy triều khó có thể xảy ra.
Nhưng nếu hắn và triều Đường khai chiến, Đột Quyết có nhân cơ hội tấn công quận Mã Ấp hay không? Hoặc là hắn và Đột Quyết khai chiến, triều Đường có nhân cơ hội tấn công quan nội hay không?
Cả hai trường hợp hoàn toàn đều có thể xảy ra. Thậm chí có đến chín phần chắc chắn. Nếu như vậy thì hắn làm thế nào ứng phó đây?
Trong khoảng thời gian này, Dương Nguyên Khánh luôn suy xét về vấn đề này. Hắn vốn cho rằng sau khi mùa đông đến là có thể giải quyết nguy cơ từ Đột Quyết nhưng ông trời lại dường như muốn đối nghịch với hắn. Ngày mai là vào tháng mười một rồi, vậy mà thảo nguyên vẫn không có tuyết rơi. Nếu như không có tuyết lớn ngăn cản, kỵ binh Đột Quyết chắc chắn sẽ xuất hiện tại phía bắc hồ Phục Khất.
Hiện tại, Dương Nguyên Khánh đã không còn lựa chọn nào khác. Thám báo của kỵ binh Đột Quyết đã thỉnh thoảng đột phá biên giới phía bắc, tiến vào bên trong biên giới triều Tùy tấn công Ô Đồ Dư bộ. Nguy cơ chiến tranh đã gần kề, hắn nhất định phải ổn định được Đường triều trước rồi sau đó mới có thể tập trung binh lực đối phó với Đột Quyết. Sau khi đánh bại Đột Quyết mới có thể quay đầu lại xử lý triều Đường.
Lúc này, trong đêm đen mơ hồ truyền đến tiếng chiến mã hí vang. Đây là từ bên ngoài cửa lớn cung Tấn Dương truyền đến, có thể nghe được rõ ràng trong sự tĩnh mịch của ban đêm. Ngay lập tức cửa nhỏ cung Tấn Dương mở ra một khe nhỏ. Dưới ánh đèn le lói, ba bóng người theo thị vệ tiến vào cung.
Tinh thần Dương Nguyên Khánh khẽ chấn động. Hắn thấy rất rõ ràng bóng dáng người đi đầu chính là Ngụy Bí. Lúc này vừa mới qua hơn một canh giờ, không lẽ anh ta đã giải quyết xong vấn đề rồi sao?
Người tới ngày càng gần, quả nhiên là Ngụy Bí, hai tùy tùng phía sau mang theo một cái rương. Dương Nguyên Khánh hài lòng mỉm cười. Mặc dù tên Ngụy Bí này khả năng dự đoán hơi kém, nhưng năng lực giải quyết vấn đề quả thật rất tốt. Vốn hắn còn định đổiNgụy Bíđi nhưng bây giờ Dương Nguyên Khánh tạm thời bỏ qua ý nghĩ này.
Không lâu sau khi Ngụy Bí vào Tử Vi Các, bước chân của anh ta đã xuất hiện ngoài cửa. Bùi Thanh Tùng lập tức bẩm báo nói:
- Điện hạ, Ngụy tướng quân đến rồi!
- Cho vào!
Dương Nguyên Khánh xoay người, cánh cửa mở ra, Ngụy Bí bước nhanh vào quan phòng, vẻ mặt của anh ta rất hưng phấn. Ở phía sau lưng Ngụy Bí, hai gã thị vệ mang tới một cái rương bằng sắt, anh ta quỳ xuống bằng một gối, cao giọng nói:
- Khởi bẩm điện hạ, ty chức không làm nhục sứ mệnh!
- Ngụy tướng quân đã cực khổ rồi!
Dương Nguyên Khánh trấn an anh ta bằng một câu khen ngợi, lại tiếp tục bước tới phía trước rương sắt, dùng mũi giày đá đá vào nó làm nó phát ra những tiếng vang trầm đục:
- Đây chính là bạc giả sao?
Dương Nguyên Khánh cười hỏi.
Ngụy Bí cuống quýt mở rương ra, bên trong quả nhiên toàn là bạc giả sáng bóng. Dương Nguyên Khánh giơ tay bốc một nắm, bạc giả từ khe hở trên tay hắn chảy xuống, rơi trên đống bạc bên dưới phát ra những tiếng đinh đang, hắn chỉ vào cái rương hỏi tiếp:
- Tổng cộng có bao nhiêu?
- Khởi bẩm điện hạ, tổng cộng hẳn là có khoảng mười ngàn miếng nhưng hôm nay bọn họ đã dùng mất một ngàn miếng, hiện tại trong rương còn có khoảng chín ngàn.
Dương Nguyên Khánh gật gật đầu.
- Ngày mai các ngươi nghĩ cách đem một ngàn miếng bạc giả đã dùng thu hồi lại, cố gắng thu hồi lại hết cho ta.
- Ty chức đã hiểu!
Ngụy Bí nhận một chồng công văn từ tay của một tên thị vệ rồi dùng hai tay dâng lên cho Dương Nguyên Khánh.
- Đây là một số công văn quan trọng lục soát tìm thấy từ bên trong quán rượu Bát Phương. Mời điện hạ xem qua.
Dương Nguyên Khánh tiếp nhận công văn rồi lật ra xem. Trong đó có ghi chép việc đút lót của Đường Phong, các cứ điểm trong Tùy triều của Đường Phong, danh sách những nhân viên nòng cốt chủ yếu của Đường Phong.
Vẻ mặt của Dương Nguyên Khánh vẫn không đổi khi lật xem bản ghi chép đút lót này. Trong đó có tên của hai mươi ba viên quan lại, cao nhất là quan lục phẩm. Xem ra tên Lý Trọng Thủ này quả nhiên là một kẻ vô dụng.
Ngụy Bí khom người nói:
- Ty chức dự định sẽ ra tay ngay trong đêm nay, trong một đêm bắt hết toàn bộ đám người này.
Chương 920 : Tối hậu thư
Dương Nguyên Khánh chỉ tay vào danh sách hai mười ba tên quan Tùy triều nhận hối lộ nói:
- Những tên quan này tạm thời đừng đụng tới!
- Vâng! Ty chức đã nhớ kỹ.
Dương Nguyên Khánh lại lấy ra danh sách thành viên của Đường Phong. Sau một hồi trầm tư, hắn tiện tay đưa lại cho Bùi Thanh Tùng.
- Sao chép lại một bản!
Bùi Thanh Tùng tiếp nhận danh sách, bước nhanh ra ngoài. Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi đilại lại trong phòng, trong lòng suy nghĩ nên xử trí thế nào đối với việc này. Tiêu diệt Thái Nguyên – Đường Phong, triều Đường tất nhiên vẫn có thể phái người mới đến, phải nghĩ cách lưu lại một đầu mối mới được.
Nghĩ vậy, hắn lại quay sang hỏi Ngụy Bí:
- Nói lại cho t biết chuyện đã xảy ra thế nào.
Ngụy Bí liền đem đầu đuôi ngọn ngành quá trình bọn anh ta tiêu diệt quán rượu Bát Phương thuật lại một cách tỉ mỉ cho Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khanh sau khi trầm tư một lúc lâu mới nói:
- Những thành viên khác của Đường Phong cũng đừng bắt nữa. Hãygiết Lý Trọng Thủ và những tên khác rồi sau đó đem về tạo ra một số chứng cớ giả, sáng sớm ngày mai thiêu hủy tầng năm quán rượu đó rồi điều động một lượng lớn quân nội vệ bao vây xung quanh nó, sau đó đem thi thể của đám người Lý Trọng Thủ ra, làm to lên, gây sự chú ý của nhiều người. Ngươi hiểu ý của ta chứ?
Ngụy Bí hơi suy tư một chút , bỗng nhiên hiểu ra.
- Ý điện hạ có phải là muốn những thành viên khác của Đường Phong nghĩ rằng Lý Trọng Thủ không bán đứng bọn chúng. Tất cả danh sách đều đã bị thiêu hủy rồi cho nên triều Đường còn có thể giữ lại một hai người chủ chốt. Điều này giúp chúng ta nắm được đằng chuôi của bọn chúng.
Dương Nguyên Khánh gật đầu cười:
- Chính là ý này. Các ngươi cứ vậy mà làm!
- Xin Điện hạ yên tâm, ty chức sẽ xử lý tốt mọi việc.
Thật ra, Dương Nguyên Khánh chỉ cần làm ra một cái chỉ dẫn có tính phương hướng, mọi thứ đều sẽ được nội vệ quân xử lý tốt. Những thứ này không cần Dương Nguyên Khánh phải quan tâm thì Ngụy Bí cũng biết nên làm như thế nào rồi. Anh ta cúi chào, đang định lui ra thì Dương Nguyên Khánh bỗng nhiên gọi anh ta lại:
- Chờ một chút!
Ngụy Bí dừng bước, xoay người hành lễ:
- Xin điện hạ chỉ thị!
Dương Nguyên Khánh trâm tư một lát rồi mới chậm rãi nói:
- Dùng chim ưng truyền tin tức cho Tình Báo Đường ở Trường An, bảo bọn họ nghĩ cách chuyển lời tới Dương Sư Đạo, nói rằng triều Tùy có thành ý rất lớn, xử lý triệt để việc phát hành bạc giả, đồng thời đóng cửa mỏ bạc ở quận Hội Ninh.
Ngụy Bí toàn thân chấn động. Anh ta không hiểu Dương Nguyên Khánh tại sao lại nhượng bộ lớn như vậy với triều Đường. Có cần phải tỏ ra yếu thế với triều Đường như vậy hay không? Nhưng anh ta không dám hỏi nhiều, chỉ khom người thi lễ rồi chậm rãi lui xuống.
Lúc này, Bùi Thanh Tùng đi đến, đem bản sao chép danh sách đưa cho Dương Nguyên Khánh xem. Sau khi đặt nó lên bàn, Dương Nguyên Khánh liền viết ngay một thủ lệnh, ra lệnh cho mỏ bạc ở Hội Ninh lập tức đóng cửa, tất cả thợ mỏ tạm thời rút lui đến đại doanh ở núi Xích Thiết.
Hắn đưa thủ lệnh cho Bùi Thanh Tùng rồi nói:
- Dùng chim ưng truyền tin cho Bùi Hành Nghiễm…
Tảng sáng ngày hôm sau, tầng năm quán rượu Bát Phương bỗng nhiên phát hỏa, khói đen cuồn cuộn bốc lên không trung. Lúc này, cửa chính thành bắc vừa mới mở ra, quán rượu Bát Phương bốc cháy lập tức đã làm kinh động đến những cửa hàng và quán rượu gần đó trong thành bắc.
Những người gần đó đều mang nước tới cứu hỏa nhưng ở trước quán rượu lại phát sinh một cảnh tượng khiến mọi người khiếp sợ. Chỉ thấy hơn một ngàn nội vệ quân bao vây lấy quán rượu, hơn mười thi thể được đem từ trong quán rượu ra ngoài. Những người này cũng không phải bị chết cháy mà là trên người cắm đầy những mũi tên, khắp người đầy máu.
Một người trong đó chính là ông chủ của quán rượu Bát Phương – Lý Thủ Trọng. Tên này chết vì bị đao chém, trên người ông ta có một thanh chiến đao đâm xuyên qua ngực, lúc này ông ta nằm trên mặt đất lạnh lẽo, chết không nhắm mắt.
Nội vệ quân đều đang bận rộn cứu hỏa, dường như ai cũng không để ý đến người bị chết. Lúc đem thi thể những người này từ bên trong quán rượu ra để trên đất trống thì liền lập tức xuất hiện một đám người vây quanh hơn mười thi thể đó nghị luận, bàn tán xem thân phận thật sự của Lý Thủ Trọng là gì, tại sao lại bị nội vệ quân giết chết?
Ngụy Bí vẫn như đứng trên lầu hai của quán rượu Nguyên An, nhìn chăm chú vào thi thể của hơn mười người của đám người Lý Thủ Trọng. Anh ta quan sát chăm chú nhấtcử nhất động của đám người xung quanh.
Lúc này, một gã đàn ông có vóc người gầy ốm lặng lẽ đến gần Lý Thủ Trọng. Tên này ngồi xổm phía trước thi thể Lý Thủ Trọng, dường như đang xem xét miệng vết thương, lại thừa dịp người khác không chú ý liền vươn tay thò vào bên hông cái xác, lấy ra một tấm thẻ đồng từ thắt lưng Lý Thủ Trọng rồi nhanh chóng giật đi.
Tất cả những điều này đều lọt vào mắt Ngụy Bí. Anh ta quay đầu hỏi thủ hạ.
- Tên đàn ông ốm yếu kia là ai?
Thủ hạ nhìn chăm chú một lúc, đáp lại:
- Ông ta là chủ của hàng trà Thục Sơn ở thành bắc, tên là Triệu Văn Trung. Trong danh sách ông ta xếp thứ bảy, cửa hàng trà Thục Sơn cũng là một trong những phân đường của Đường Phong.
Ngụy Bí gật gật đầu. Thành viên của Đường Phong quả nhiên đến đây, lúc này anh ta mới ra lệnh:
- Không cần lo, tất cả cứ để kệ ông ta.
Ngụy Bí bước nhanh xuống lầu, đi tới trước cửa lớn. Có một binh sĩ tiến lên bẩm báo:
- Khởi bẩm tướng quân, năm tầng quán rượu lửa lớnkhông thể dập tắt, quán rượu đã toàn bộ bị thiêu hủy rồi.
- Các ngươi là một lũ ngu!
Ngụy Bí chửi đám lính vô dụng ầm cả lên, có vẻ vô cùng lo lắng, nhưng khóe mắt đã nhanh chóng quét về phía tên Triệu Văn Trung lúc nãy, phát hiện tên này đang đứng cách mình không xa, dường như đang chăm chú nhìn vào tầng năm quán rượu đã bị lửa lớn nuốt chửng kia.
Khóe miệng Ngụy Bí lộ ra một chút ý cười khó có thể phát hiện, chính là nụ cười đắc ý…
Dương Sư Đạo ở ở Trường An đã gần nửa tháng nay, nhiệm vụ của ông ta khi đi sứ đến Trường An là trấn an triều Đường nhằm nói rõ với triều đình của Lý Đường rằng việc phát hành hệ thống tiền bạc cũng sẽ không ảnh hưởng đến triều Đường.
Xuất phát từ sự tôn trọng giữa các nước, Lý Uyên đã ra lệnh cho Thái tử Lý Kiến Thành và Lễ Bộ Thượng thư Dương Cung Nhân toàn quyền tiếp đón sứ giả triều Tùy lần này.
Nhưng cho đến nay, Thái tử Lý Kiến Thành cũng chỉ là vào ngày hôm sau gặp mặt Dương Sư Đạo, hai bên chỉ nói chuyện qua loa với nhau nửa canh giờ rồi liền kết thúc ngay. Thời gian nửa tháng nhanh chóng trôi qua. Lần đi sứ này còn chưa kết thúc, vương triều Đường dường như đã lãng quên vị sứ giả của triều Tùy này rồi.
Trên thực tế, đó cũng không phải là quên mà là một loại cục diện bế tắc, cũng không phải là vương triều Đường không coi trọng bạc trắng của triều Tùy mà hoàn toàn ngược lại, triều Đường vô cùng căng thẳng đối với việc phát hành tiền bạc của triều Tùy. Nếu một số lượng lớn bạc trắng của triều Tùy mạnh mẽ tiến vào triều Đường thì sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho tiền tệ của triều Đường.
Đầu năm nay, vương triều Tùy đã sử dụng một lượng lớn tiền Đại Nghiệp để mua rất nhiều vật tư tại Trường An khiến cho giá cả hàng hóa tại Trường An tăng vọt, triều đình nhà Đường chịu đủ khổ sở. Cho nên việc phát hành thêm tiền này của triều Tùy đã khiến tất cả triều đình và dân chúng tại Trường An đều hoang mang cực độ.
Mấu chốt của việc Dương Sư Đạo ở Trường An lại gặp phải sự lạnh nhạt như thế này chính là ở việc sự giải thích của triều Tùy không có ý nghĩa gì, giống như hung hăng cho triều Đường một cái bạt tai, lại còn hỏi xem nó có đau hay không vậy. Từ Lý Uyên cho đến Lý Kiến Thành đều cho rằng triều Tùy không có thành ý làm rõ mọi việc, Lý Kiến Thành đương nhiên sẽ không muốn gặp Dương Sư Đạo rồi.
Có điều, Dương Sư Đạo ở Trường An lại được đãi ngộ vô cùng tốt. Ông ta ở trong quán trọ dành cho khách quý tên là Hồng Lư Tự, một mình chiếm nguyên một tòa nhà rộng hơn mười mẫu, giống hệt như một khu vườn hoàng gia bên trong quán trọ.
Bên trong đó, nào là đình đài lầu các, nào là hoa cỏ cây cối quý hiếm, nào là nước ao trong suốt, còn có cả mười hai thị nữ yêu kiều nhảy múa xinh đẹp, mỗi ngày đầu bếp của cung đình đều đưa tới món ngon vật lạ, gần như làm cho ông ta quên mất mình là người của triều Tùy.
Nửa tháng như vậy cứ thế trôi qua một cách nhanh chóng. Việc mà Dương Sư Đạo làm hàng ngày chính là gặp gỡ bạn cũ, dạo phố ở Trường An, tưởng nhớ về thời niên thiếu của mình. Phó sứ Trương Lượng sớm đã dẫn đoàn tùy tùng về trước, chỉ có một mình Dương Sư Đạo ở lại Trường An.
Mặc dù trong quán trọ dành cho khách quý mà ông ta ở có đủ các món ngon vật lạ nhưng cứ mỗi ngày vào giữa trưa, ông ta đều sẽ dùng cơm tại một quán rượu bên ngoài thành Tây của Trường An. Quán rượu đó tên là Thục Hương, ban đầu là do một người Thục mở ra, giờ đã qua rất nhiều lần đổi chủ. Quán rượu này đã có bốn mươi năm lịch sử tại Trường An và đã từng là sở hữu của ông ngoại Dương Sư Đạo, hiện tại nó thuộc về một gã buôn giàu có của Tây Vực.
Lý do mà Dương Sư Đạo đưa ra để giải thích nguyên nhân ông ta thích dùng cơm trưa tại đó với các quan viên đi cùng là: “Quán rượu này có thể làm ta nhớ lại thời thơ ấu.”
Trưa hôm nay, Dương Sư Đạo cũng giống như mọi ngày, vào giữa trưa liền ngồi xe ngựa tới quán rượu Thục Hương.Quan viên triều Đường đi cùng với ông ta là Hồng Lư Tự Thiếu khanh – Trịnh Tụng Đình.
Trịnh Tụng Đình xuất thân từ Trịnh thị ở Huỳnh Dương, là em ruột của Thái tử phi, và thế là tự nhiên ông ta cũng là tâm phúc chính của Thái tử Lý Kiến Thành. Ông ta phụ trách tiếp Dương Sư Đạo đã hơn nửa tháng qua.
- Dương tướng quốc, ngày nào cũng tới quán rượu này dùng cơm, ngài không cảm thấy ngán sao? Không bằng ta dẫn ngài tới giáo phường của phường Bình Khang, đảm bảo sẽ khiến ngài không muốn rời khỏi.
Trên thực tế, chính là Trịnh Tụng Đình đã chán ăn ở đây rồi. Ông ta thấy Dương Sư Đạo lại vẫn cứ tới quán rượu này thì không khỏi nhíu mày.
Dương Sư Đạo cười ha hả:
- Thời gian ta ở Trường An dạo chơi sẽ không lâu lắm nên có thể tới đây được ngày nào hay ngày đó. Thật ra ta tới đây không phải là vì chuyện dùng cơm.
Trịnh Tụng Đình cười khan một tiếng nói:
- Hóa ra Dương tướng quốc là một người giàu tình cảm, thôi được rồi! Bỏ qua giáo phường vậy.
Khi hai người đến gần quán rượu thì một gã tiểu nhị liền chạy ra đón, vẻ mặt tươi cười nói:
- Thì ra là Dương tướng quốc và Trịnh thiếu khanh đế. Thật là vinh hạnh cho quản nhỏ này. Mời hai vị lên lầu hai, chỗ ngồi đã được chuẩn bị rồi ạ.
Hai người đi lên lầu hai. Bọn họ có một chỗ ngồi riêng biệt, là một góc gần cửa sổ, rất sáng sủa, khá vắng vẻ và yên tĩnh. Hai người ngồi xuống, lúc này Dương Sư Đạo thấy một gã tiểu nhị dùng ánh mắt ra hiệu với mình thì liền lập tức liền đứng lên, cười nói:
- Ta đi tiểu tiện một lúc, Trịnh thiếu khanh cứ ngồi đây nhé!
- Dương tướng quốc xin cứ tự nhiên!
Dương Sư Đạo xuống lầu, đi về phía hậu viện. Trong lúc đi xuống cầu thang thì có một gã tiểu nhị nhanh chóng đem một cuộn giấy nhét vào tay ông ta. Sắc mặt Dương Sư Đạo vẫn không đổi, tiếp tục đi về phía hậu viện.
Tìm được một chỗ không người, ông t ta liền mở cuộn giấy ra. Đây là Tình Báo Đường tại Trường An gửi tới một mệnh lệnh của Dương Nguyên Khánh: “Tạm dừng phát hành tiền bạc, đóng cửa mỏ bạc, biểu hiện thành ý lớn nhất của triều Tùy.” Phía dưới còn có chữ ký do chính tay Dương Nguyên Khánh viết.
Mặc dù quán rượu này và triều Tùy không có quan hệ gì nhưng chủ quán rượu lại chính là thành viên của Tình Báo Đường. Dương Sư Đạo mỗi ngày tới đây ăn cơm chẳng qua là vì trao đổi tin tức với Dương Nguyên Khánh mà thôi. Có thể nói ông ta đúng là đang mong chờ mệnh lệnh này của Dương Nguyên Khánh. Mệnh lệnh này đủ để đánh tan cục diện bế tắc trước mắt… Vào buổi chiều cùng ngày, Dương Sư Đạo đi theo Trịnh Tụng Đình vào Đông cung. Ông ta yêu cầu gặp Thái tử Lý Kiến Thành, hai bên một lần nữa trao đổi về việc phát hành tiền. Không lâu sau, một gã thị vệ vội vàng chạy ra cửa cung, thi lễ với Dương Sư Đạo đang chờ bên ngoài:
- Thái tử điện hạ triệu kiến, mời Dương tướng quốc đi theo ta!
Thái tử đầu tiên của triều Đường Lý Kiến Thành này là một vị Thái tử có thực quyền của Đại Đường. Mặc dù Lý Thế Dân được phong làm Thượng Thư Lệnh, nhưng trên thực tế, chính vụ của triều đình Đại Đường đều nằm trong tay vị Thái tử này. Ngoại trừ một số chính vụ quan trọng trong nước cần phải bẩm báo phụ hoàng Lý Uyên, những sự vụ bình thường đều là do Lý Kiến Thành tự quyết định.
Đối với khả năng xử lý chính vụ, Lý Uyên rất tin tưởng vào y. Sự tin tưởng này đã có từ khi Lý Uyên còn là thần của triều Tùy. Bao năm nay, Lý Kiến Thành vẫn một mực không ra làm quan, vẫn là một người trợ giúp đắc lực cho phụ thân, giúp Lý Uyên xử lý đủ mọi việc chính sự. Sau khi trở thành Thái tử, loại quan hệ hợp tác này giữa y và phụ hoàng vẫn không đổi.
Mặc dù là vậy, Lý Kiến Thành vẫn luôn cảm thấy địa vị Thái tử của mình đang từng ngày bị lung lay chứ không phải là càng ngày càng vững chắc. Mẫu hậu thiên vị với nhị đệ, phụ hoàng tin tưởng nhị đệ, tất cả những điều này đều khiến cho y càng ngày càng bất an. Hơn nữa, gần đây đã xảy ra hai việc lớn trực tiếp làm lung lay gốc rễ Thái tử của y.
Thứ nhất là việc xây dựng Kim Ngô Vệ, phụ trách tuần tra thành Trường An, bổ nhiệm Ung Vương – Lý Đạo Huyền làm đại tướng quân của Kim Ngô Vệ mà cái tên Lý Đạo Huyền trẻ tuổi đó lại là tâm phúc của Lý Thế Dân.
Kim Ngô Vệ là lập ra từ điều ra mười hai ngàn binh lính tinh nhuệ của Quan Trung Các, tất cả đều chịu sự điều khiển của Lý Thế Dân. Như thế chẳng phải là Lý Thế Dân gián tiếp khống chế thành Trường An sao.
Thứ hai là việc khuếch trương quyền lực của Đường Phong. Bình thường công việc chính của nhị đệ là phụ trách thu thập tình báo bên ngoài. Bây giờ , phụ hoàng lại cho phép Đường Phong có thêm quyền lực. Đó là quyền nội thẩm, chính là quyền giám sát bên trong, hơn nữa còn không hạn chế phạm vi giám sát. Nói cách khác, chính là Đường Phong có thể giám sát toàn bộ bá quan văn võ.
Mặc dù quyền nội thẩm này bị các trọng thần trong triều phản đối mãnh liệt nên không thể tiến hành trên diện rộng nhưng Lý Kiến Thành nhận được một thông tin rằng Đường Phong đã giám sát một bộ phận các đại thần rồi. Hai việc lớn này khiến Lý Kiến Thành cực kỳ âu lo. Chỉ cần thời cơ chín muồi, Lý Thế Dân hoàn toàn có thể phát động chính biến trong cung.
Nhưng Lý Kiến Thành lại không dám nhắc nhở phụ hoàng. Chỉ cần anh ta mở miệng thì phụ hoàng nhất định sẽ mắng to rằng y có âm mưu đê tiện, khiến y chỉ đành tìm cơ hội nhờ các đại thần khác nhắc nhở phụ hoàng mà thôi.
Trong thư phòng Thái tử điện Hiển Đức, Lý Kiến Thành cũng giống như mọi khi đang phê duyệt hết tấu chương này đến tấu chương khác. Chính vụ của y cực kỳ nặng nề, mỗi ngày đều phải phê duyệt hơn một trăm bản tấu chương, hơn nữa phần lớn tấu chương đều là do y quyết định sau cùng. Nếu xảy ra sai lầm, y phải chịu toàn bộ trách nhiệm, bởi vậy Lý Kiến Thành phải rất cẩn thận, ngày nào y cũng bận rộn tới tận đêm khuya mới được nghỉ ngơi.
Lúc này, một gã thị vệ đi đến cửa thư phòng bẩm báo:
- Khởi bẩm Thái tử, sử giả triều Tùy- Dương tướng quốc cầu kiến, nói có chuyện quan trọng muốn thảo luận với Thái tử.
Hai ngày nay, Lý Kiến Thành cũng đang chuẩn bị bớt chút thời gian đến gặp mặt Dương Sư Đạo để cùng tiếp tục trao đổi. Bọn họ không thể cứ giằng co vô thời hạn mãi được. Triều Đường đề xuất yêu cầu triều Tùy phải đóng cửa mỏ bạc, nếu không sẽ cắt đứt tất cả các mối quan hệ buôn bán với triều Tùy.
Đây là một thủ đoạn phản chế sau cùng của triều Đường, đoạn tuyệt hết tất cả các giao dịch với triều Tùy , bao gồm cả con người lẫn vật tư. Như vậy cho dù có người buôn lậu dùng bạc của triều Tùy mua vật tư của triều Đường đi nữa thì số lượng cũng sẽ không quá lớn.
Nhưng Dương Sư Đạo vẫn cứ mãi không trả lời. Điều này khiến Lý Kiến Thành chờ đợi đến nỗi không thể kiên nhẫn thêm được nữa. Việc Dương Sư Đạo đến lúc này, Lý Kiến Thành không thể cự tuyệt, lập tức gật đầu nói:
- Mời ông ta đến Vụ Bản Đường gặp mặt.
Vụ Bản Đường chính là nơi thảo luận chính vụ của Lý Kiến Thành và các đại thần, nằm ngay bên cạnh Thiên điện. Không lâu sau, hai thị vệ dẫn Dương Sư Đạo vội vàng đi vào Vụ Bản Đường. Lý Kiến Thành đã tới trước một bước chờ ông ta.
Dương Sư Đạo lập tức tiến lên khom người hành lễ.
- Tùy thần Dường Sư Đạo tham kiến Đại Đường Thái tử điện hạ!
Lý Kiến Thành khẽ mỉm cười nói:
- Dương tướng quốc, mời ngồi!
- Tạ ơn điện hạ.
Dương Sư Đạo ngồi xuống, Lý Kiến Thành cũng ngồi xuống ở ghế trên. Y cười tủm tỉm hỏi:
- Nửa tháng nay, cuộc sống của Dương tướng quốc ổn chứ? Có chỗ nào tiếp đón không được chu đáo không?
Dương Sư Đạo vội vàng cúi thấp người nói:
-Đa tạ điện hạ quan tâm, Sư Đạo sống vô cùng tốt, mọi việc đều được quan tâm rất chu đáo, cũng không can thiệp vào tự do, Sư Đạo vô cùng cảm tạ!
Lý Kiến Thành cười ha hả nói:
-Ngài là Tùy triều tướng quốc mà! Thân phận tôn quý, tất nhiên là khách quý của Đại Đường chúng ta. Chúng ta nên làm như vậy mà.
Dừng lại một lúc, Lý Kiến Thành lại hỏi:
- Không biết sau nửa tháng suy nghĩ, Dương tướng quốc có câu trả lời mới hay chưa? Ta hy vọng chúng ta có thể chấm dứt cuộc thương lượng này một cách vui vẻ.
Dương Sư Đạo thản nhiên cười nói:
- Trên thực tế thì hai ngày trước ta đã nhận được mệnh lệnh mới nhất của Sở Vương điện hạ rồi, ta vẫn muốn tìm một cơ hội để cùng điện hạ đây nói chuyện vui vẻ. Để điện hạ phải chờ tới tận hôm nay, ta thật sự cảm thấy rất có lỗi!
Tinh thần Lý Kiến Thành chấn động, liền vội vàng hỏi:
- Không biết thái độ của Sở Vương điện hạ ra sao?
- Sở Vương điện hạ nói, để tỏ rõ thành ý lớn nhất của Đại Tùy chúng ta, ngài ấy có thể chấp nhận đề xuất của triều Đường.
Lý Kiến Thành mừng rỡ nói:
- Nói như vậy, các ngài đã đồng ý việc đóng cửa mỏ bạc ở quận Hội Ninh. Là như vậy phải không?
Dương Sư Đạo trịnh trọng gật đầu nói:
- Không chỉ đóng cửa mở bạc ở quận Hội Ninh mà chúng ta chính thức quyết định tạm dừng phát hành bạc mới. Ta có thể thẳng thắn nói rằng, đó cũng không phải là vì triều đình của các ngài mà là vì Sở Vương không đành lòng cướp đoạt của cải của dân chúng hai quận Quan Trung và Ba Thục, không đành lòng khiến bọn họ phải gánh chịu giá lương thực tăng cao. Đối với chúng ta mà nói, dân chúng hai quận Quan Trung và Ba Thục sớm hay muộn cũng là con dân của Đại Tùy.
Chương 921 : Thái độ của Kiến Thành
Lý Kiến Thành hừ lạnh một tiếng:
- Là con dân Đại Tùy của các ngươi?
Dương Sư Đạo híp mắt mỉm cười:
- Chẳng lẽ điện hạ không cho rằng dân chúng Hà Đông, Hà Bắc cũng là con dân của Đại Đường sao?
Lý Kiến Thành ngẩn ra, sau một lúc lâu, y mới chậm rãi gật đầu nói:
- Nói hay lắm, tương lai bất kể là Tùy vong hay Đường bại, dân chúng trong thiên hạ đều là con dân của đối phương…
Lý Kiến Thành đích thân tiễn Dương Sư Đạo ra cửa chính của Đông cung. Tuy trên danh nghĩa y có thể đại diện toàn thể Đại Đường để hòa giải với triều Tùy
nhưng trên thực tế, sự biến hóa quan trọng của triều Tùy này, y nhất định phải bẩm báo với phụ hoàng. Nếu y thật sự đáp ứng hoặc cự tuyệt cái gì thì điều chờ đợi y sẽ là cơn thịnh nộ của phụ hoàng.
Mãi đến gần đây, Lý Kiến Thành mới dần dần hiểu được vì sao phụ hoàng luôn không hài lòng về y. Cũng không phải tại vì y đã làm sai điều gì mà là những việc y từng làm không được chu toàn. Mặc dù phụ hoàng giao cho y rất nhiều chính vụ nhưng điều đó không có nghĩa là phụ hoàng sẽ giao quyền lực cho y.
Rất nhiều chính vụ là do y tự quyết định. Nhưng đây cũng không phải là bước cuối cùng, y vẫn còn có một việc mấu chốt chưa làm. Đó là y vẫn chưa tập trung báo cáo những chuyện xảy ra gần đây với phụ hoàng, y đã làm thế nào, xử lý thế nào.
Đây chính là mấu chốt khiến phụ hoàng nảy sinh ngờ vực vô căn cứ với y. Y có vượt quyền hay không? Có giấu diếm chuyện quan trọng hay không v.v ? Thời gian càng lâu, sự hoài nghi của phụ hoàng tất nhiên sẽ trở thành bất mãn.
Việc này mặc dù Lý Kiến Thành hiểu ra hơi muộn, nhưng cách suy nghĩ đó là chính xác. Giống như chủ tịch hội đồng quản trị dù không can thiệp vào công việc kinh doanh hàng ngày nhưng cũng phải xem qua báo cáo. Lý Kiến Thành chính là quên phải làm một bản báo cáo tuần, báo cáo tháng như vậy để trình lên cho hoàng đế Lý Uyên.
Lý Kiến Thành đã quyết định cứ mười ngày một lần lại làm một bản tấu chương, tập hợp mọi việc trình lên cho phụ hoàng, giúp phụ hoàng hiểu rõ những chuyện lớn nhỏ phát sinh ở triều đình trong mười ngày đó.
Sau khi tiễn Dương Sư Đạo xong, vừa quay lại thư phòng thì một gã hoạn quan liền vào bẩm báo, nói:
- Điện hạ, Dương tẩy mã có chuyện muốn bẩm báo, anh ta đã đợi ngài lâu rồi.
Dương tẩy mã chính là Dương Tuấn, đảm nhiệm chức Thái tử tẩy mã. Chức vụ này là một chức vụ khá gần gũi với Thái tử. Thông thường đều là do Thái tử đích thân tiến cử, thường là tuyển tâm phúc của mình.
Mặc dù Dương Tuấn là huynh đệ ruột của Dương Nguyên Khánh, nhưng tên này lại có hiềm nghi phản bội, tiếng tăm không được tốt nhưng Lý Kiến Thành cũng không để ý, vẫn tiến cử anh ta đảm nhiệm chức Thái tử tẩy mã.
Lý Kiến Thành gật gật đầu nói:
- Cho anh ta vào!
Không lâu sau, Dương Tuấn bước nhanh đến. Dương Tuấn năm nay đã ba bốn ba lăm tuổi, cùng Dương Vanh đầu hàng triều Đường, bởi vì phản bội phụ thân mà bị người khác khinh thường, càng bởi vì Dương Nguyên Khánh mà Lý Uyên cũng không dùng bọn chúng, chỉ phong cho hai huynh đệ bọn chúng mỗi người một chức quan nho nhỏ, cho một phần bổng lộc rồi đuổi đi.
Nhưng Thái tử Kiến Thành khá khoan dung, cũng do Thái tử phi cầu khẩn nên y mới nhận hai huynh đệ Dương gia vào Đông cung. Dương Vanh làm quan quân thị vệ, Dương Tuấn thì đảm nhiệm chức phụ tá.
Dương Tuấn khá có học thức, hơn nữa tâm cơ sâu xa, đưa ra được rất nhiều ý kiến cho Lý Kiến Thành, rất được Lý Kiến Thành tin cậy. Người nhắc nhở Lý Kiến Thành làm tấu chương để trình lên hoàng đế Lý Uyên ba ngày trước chính là Dương Tuấn .
Dương Tuấn bất kể là làm phụ tá hay là đảm nhiệm chức Thái tử tẩy mã thì đều trung thành trước sau như một với Lý Kiến Thành cho nên Lý Kiến Thành mới xem anh ta như tâm phúc, giao một số việc cơ mật quan trọng cho anh ta làm.
Dương Tuấn tiến lên thi lễ.
- Điện hạ, vi thần có việc cần bẩm báo.
Lý Kiến Thành hiểu rõ là Dương Tuán muốn bẩm báo chuyện gì, liền quay sang nói với mấy tên hoạn quan trong thư phòng:
- Tất cả các ngươi lui ra!
Đám hoạn quan lui ra, trong phòng chỉ còn hai người Dương Tuấn và Lý Kiến Thành. Lý Kiến Thành khẽ mỉm cười:
- Ngươi nói đi! Có tin tức gì không?
- Doãn công nhờ ty chức chuyển lời tới điện hạ. Gần đây Thánh Thượng ngủ không được tốt, thường mất ngủ nửa đêm, vì thế rất buồn rầu. Nếu điện hạ có thể kịp thời biểu hiện thành ý quan tâm, tất sẽ khiến long nhan vô cùng vui mừng. Mặt khác, Doãn Đức Phi còn từ lời nói của Thánh Thượng đoán được rằng, tình trạng sức khỏe của Hoàng hậu khá bất ổn nhưng tin tức bị phong tỏa, nên cũng không biết là thật hay giả.
Doãn công chính là phụ thân của Doãn Đức Phi – Doãn Quý Bình. Doãn Đức Phi vì muốn tìm kiếm sự trợ giúp từ bên ngoài nên tạo mối quan hệ giữa phụ thân và Lý Kiến Thành. Lý Kiến Thành cũng chấp nhận để cho Doãn Đức Phi trở thành nội tuyến của mình trong cung. Y lập tức ra lệnh cho Dương Tuấn làm người đại diện cho mình liên lạc với Doãn Quý Bình.
Lý Kiến Thành gật gật đầu. Từ ngự y trong cung, y cũng có được một số tin tức, hình như trong cơ thể mẫu hậu có một khối u khá lớn, trong khoảng thời gian này mẫu hậu trở nên gầy yếu vô cùng. Nhưng mẫu hậu không muốn để cho người ngoài biết nên tin tức vẫn bị phong tỏa. Thông tin này căn bản giống với tin tức từ Doãn Đức Phi.
Có điều, tin tức phụ hoàng mất ngủ lại làm cho Lý Kiến Thành có điều suy tư. Đây đúng là một cơ hội tốt lấy lòng phụ hoàng. Sau khi suy nghĩ một chút, y nhớ lại hình như năm ngoái Thái thú quận Mi Sơn – Thi Sùng Nguyên có tặng mình một cái ngọc chẩm có tác dụng làm yên giấc, có thể tặng cho phụ hoàng.
- Còn gì nữa không?
Lý Kiến Thành lại hỏi.
- Còn một việc chính là Doãn công hy vọng có thể chiếm được một mảnh đất ở thành đô, đại khái rộng khoảng mười khoảnh. Đối phương là hơn một trăm hộ nông dân, nói thế nào cũng không chịu nhượng lại, ông ta hy vọng điện hạ có thể gây áp lực với Thái thú quận Thục.
Lý Kiến Thành nhướn mày. Cái này hơi khó làm rồi. Lý Kiến Thành hiển nhiên không muốn chiếm đoạt đất đai của nông dân. Nông dân chính là nền tảng của Đại Đường, quyết không thể dễ đàng hủy diệt.
Nhưng Doãn Quý Bình nếu đã đề xuất yêu cầu này, y lại không tiện cự tuyệt. Sau một lúc trầm tư, y nghĩ chuyện này có thể giao cho Thái thú quận Thục Cao Biểu Nhân giải quyết thỏa đáng, dùng biên pháp bồi thường lớn hơn hoặc đổi đất, v.v… để giải quyết.
- Chuyện này ta đã biết, ngươi nói cho Doãn công để ông ta đừng có vội vàng, ta sẽ thay ông ta giải quyết.
- Thuộc hạ sẽ nói cho ông ta biết.
Đúng lúc này, bên ngoài thư phòng truyền đến âm thanh bẩm báo của một gã hoạn quan:
- Điện hạ, Thánh Thượng gọi Điện hạ cấp tốc yết kiến!
Nghe được hai chữ “cấp tốc”, Lý Kiến Thành không dám chậm trễ, lại dặn dò với Dương Tuấn vài câu rồi sai người mang tới ngọc chẩm, tiếp đó liền vội vàng tiến cung…Đông cung cũng nằm ở bên trong cung Thái Cực, rất gần điện Võ Đức- nơi cógự thư phòng của Lý Uyên. Chỉ một lúc sau, Lý Kiến Thành đã tới trước ngự thư phòng. Có hoạn quan đi vào bẩm báo cho y, rất nhanh liền quay ra nói:
- Điện hạ, Thánh Thượng lệnh cho ngài vào yết kiến!
Lý Kiến Thành sửa sang lại mũ áo một chút rồi bước nhanh vào ngự thư phòng. Trong ngự thư phòng, lúc này Lý Kiến Thành bất ngờ phát hiện Tần Vương đã ở trong đó. Trong lòng anh ta lập tức có chút không vui. Chẳng lẽ phụ hoàng gọi y tới có liên quan đến việc của Tần Vương?
Lý Kiến Thành không kịp nghĩ nhiều, lập tức tiến lên phía trước hành lễ thật sâu.
- Nhi thần thỉnh an phụ hoàng, chúc phụ hoàng long thể an khang, thọ tỉ nam sơn!
- Hoàng nhi miễn lễ!
Lý Uyên vuốt râu cười, nhưng nụ cười cũng không đến mức cười từ ái. Cấp bậc lễ nghĩa của Thái tử như vậy rất chu toàn nhưng nếu so sánh với Tần Vương ngày nào cũng gặp mặt dập đầu hành đại lễ thì Thái tử vẫn còn kém một chút.
Chính là khác một chút này thôi đã khiến cho Lý Uyên không thực sự thoải mái lắm. Ông ta cảm thấy về phương diện hiếu thuận, Kiến Thành có chút không bằng với Thế Dân.
Lúc này, Lý Uyên thấy tên hoạn quan phía sau đang cầm một cái ngọc chẩm, hiển nhiên hiểu được đây là do Kiến Thành mang đến, liền hỏi:
- Hoàng nhi, ngọc chẩm này là sao?
- Hồi bẩm phụ hoàng, lần trước nhi thần thấy tinh thần của phụ hoàng có chút mệt mỏi, liền đoán là phụ hoàng có lẽ ngủ không được ngon giấc nên nhi thần liền ghi nhớ phải tìm một chút. Ngọc chẩm này tên là Du Tiên chẩm, chính là mấy tháng trước Mi Sơn – Thi Thái thú tiến cống, phụ hoàng lại ban cho nhi thần. Nghe nói là có tác dụng giúp ngủ ngon rất tốt, nhi thần chưa dùng bao giờ liền quyết định dâng lên cho phụ hoàng, mong phụ hoàng nghỉ ngơi thật tốt.
Lý Uyên mấy ngày nay quả thật ngủ không ngon giấc, nửa đêm chợt tỉnh, sau đó thì không ngủ được nữa nên khiến ông ta mỗi ngày đều thấy mệt mỏi vô cùng, vô cùng buồn rầu. Lý Kiến Thành đúng lúc này hiến cho ông ta ngọc chẩm liền khiến ông ta vui mừng quá đỗi, một chút không vui vừa rồi do y không dập đầu cũng tan thành mây khói.
- Hoàng nhi có lòng, trẫm cực kỳ vui mừng, tốt lắm! Tốt lắm!
Lý Uyên nói liên tiếp hai tiếng “tốt lắm” chứng tỏ ông ta cực kỳ vừa lòng. Trong lòng Lý Kiến Thành rất mừng rỡ. Tin tức của Doãn Đức Phi quả nhiên hữu dụng. Y vốn định nhân cơ hội để nói rằng đã tập hợp những công việc trong mười ngày qua trong một bản tấu chương để trình lên nhưng thấy Tần Vương ở trong này, Lý Kiến Thành liền nhẫn nhịn, y không ngờ Tần Vương cũng sẽ tham dự vào chính vụ của mình.
Chương 922 : Tranh chấp đối lập (1+2)
Lý Kiến Thành liền chuyển đề tài sang chính sự:
- Phụ hoàng triệu nhi thần tới, nhi thần nguyện vì phụ hoàng cống hiến sức lực!
Lý Uyên mới vừa từ Lý Thế Dân nhận được tin tức mới nhất. Triều Tùy đã đóng cửa mỏ bạc ở quận Hội Ninh, thợ mỏ đã bắt đầu đi chuyển về phía bắc. Tin tức này khiến Lý Uyên rất bất ngờ, ông ta liền muốn biết tình hình đàm phán giữa Lý Kiến Thành và Dương Sư Đạo ra sao.
- Trẫm nghe Thế Dân báo cáo, triều Tùy đã đóng cửa mỏ bạc Hội Ninh, đây là chuyện gì? Dương Sư Đạo có ý kiến gì về việc này không?
Lý Kiến Thành thật sự không ngờ triều đình nhà Tùy hành sự quyết đoán như vậy. Y vừa mới nhận được tin tức đây thôi thì triều Tùy đã đóng cửa mỏ rồi. Lý Kiến Thành vội vàng nói:
- Khởi bẩm phụ hoàng, tầm khoảng một canh giờ trước, Dương Sư Đạo có tìm gặp nhi thần, nói rằng triều Tùy chấp nhận sẽ tỏ thành ý, đáp ứng yêu cầu của chúng ta, chính thức đóng cửa mỏ bạc, đồng thời tạm ngưng phát hành đồng tiền mới, xem ra triều Tùy lần này giữ chữ tín rồi.
- Giữ chữ tín
Lý Thế Dân bên cạnh cười lạnh một tiếng nói:
- Nếu Dương Nguyên Khánh là kẻ giữ chữ tín thì mỏ bạc Hội Ninh hiện giờ phải là của chúng ta rồi. Năm ngoái ký kết hiệp nghị đình chiến, giấy trắng mực đen rõ ràng, chúng ta tuân thủ hiệp nghị, từ Võ Quan xuất binh tấn công Lạc Dương, bọn chúng lại trực tiếp từ huyện Thiểm qua sông, trực tiếp phá hủy hiệp nghị. Ta chẳng thấy Dương Nguyên Khánh có chỗ nào giữ chứ tín. Hiện tại hắn đóng cửa mỏ bạc chẳng qua là vì quyền lợi, bị buộc bất đắc dĩ mà thôi. Hiển nhiên, đây là vì quân Đột Quyết đã uy hiếp tới an toàn biên giới của hắn.
Nói đên đây, Lý Thế Dân thi lễ thật sâu với Lý Uyên rồi nói:
- Lời nhi thần vừa nói nhi thần còn muốn nói lại một lần nữa, để hoàng huynh hiểu rõ, xin phụ hoàng chấp nhận.
Lý Uyên thở dài một tiếng nói:
- Hoàng nhi nói đi!
Lý Thế Dân xoay người về phía Lý Kiến Thành, nói:
- Quận Kim Thành truyền tin đến rằng họ đào được thi thể của sứ giả người Đột Quyết và hộ vệ quân Đường trong một cánh rừng sâu. Việc này tất nhiên là do quân Tùy gây ra, đây chính là muốn ngăn chặn việc liên kết giữa chúng ta và Đột Quyết. Hiện tại, vùng phía bắc biên giới triều Tùy vô cùng bất ổn. Hiệt Lợi Khả Hãn vừa mới đăng cơ, ông ta sẽ nóng lòng tạo lập uy tín trong các bộ lạc Đột Quyết và Thiết Lặc, cho nên việc tiêu diệt đám tàn dư của bộ lạc Ô Đồ chính là lựa chọn tốt nhất của ông ta. Nếu đại quân Đột Quyết xuôi nam, tàn dư của bộ lạc Ô Đồ tất nhiên cũng sẽ chạy xuống phương nam tị nạn, quân Tùy và quân Đột Quyết sẽ khó tránh khỏi xảy ra một cuộc chiến tranh. Đây chính là nguyên nhân mà Dương Nguyên Khánh nóng lòng muốn trấn an chúng ta. Nếu không, hắn làm sao có thể đóng cửa mỏ bạc đang khai thác được cơ chứ.
Lý Kiến Thành lại chậm rãi lắc đầu.
- Tuy nói là bị buộc bất đắc dĩ như vậy nhưng Dương Nguyên Khánh vẫn là biểu hiện thành ý. Từ xưa tới này, dân tộc du mục phương bắc xâm lấn Trung Nguyên đều mang đến tai họa khủng khiếp cho dân chúng. Nếu quân Tùy đang chống cự với sự xâm lấn của Đột Quyết, chúng ta lại từ phía sau cho quân Tùy của hắn một đao. Điều này sẽ khiến cho người trong thiên hạ cảm thấy chúng ta thế nào? Sẽ dấy lên sự phẫn nộ của dân chúng trong thiên hạ, sẽ làm chúng ta mang tiếng câu kết với Đột Quyết. Phụ hoàng, nếu muốn giữ gìn chính thống triều Đường, trước tiên không thể mất đi đại nghĩa. Nhi thần kiên quyết phản đối lợi dụng cơ hội Tùy, Đột khai chiến để giành lợi ích cho Đại Đường. Chúng ta hẳn là nên ủng hộ triều Tùy chống lại Đột Quyết. Đây mới chính là việc mà những người nhân nghĩa nên làm, chứ không phải là nhân cơ hội tấn công Tùy…
- Cực kỳ cổ hủ!
Lời nói của Lý Thế Dân chỉ trích gay gắt cái gọi là “Ngôn luận quốc sự nhân nghĩa” của Thái tử Lý Kiến Thành.
- Lịch sử cho tới bây giờ đều do kẻ thắng viết lên, chỉ cần chúng ta có thể cướp lấy thiên hạ, ai dám nói chúng ta nhân lúc cháy nhà hôi của. Sử sách có thể nói chúng là bắc thượng là vì chống đỡ sự xâm lấn của Đột Quyết, có thể nói chúng ta là nhận sự thỉnh cầu mà xuất binh trợ chiến của Tùy triều, không phải là có Dương Sư Đạo đi sứ hay sao? Cũng có thể nói rằng chúng ta là vì bảo hộ tính mạng và tài sản của dân chúng Trung Nguyên mà xuất binh chống đỡ Đột Quyết, càng có thể nói là Dương Nguyên Khánh dẫn quân Đột Quyết vào Trung Nguyên, bộ tộc Ô Đồ chính là chứng cớ tốt nhất. Nếu tương lai là chúng ta thấy bại, hoàng huynh cho rằng Dương Nguyên Khánh sẽ đem vinh quang “nhân nghĩa chi bang” mà đội lên đầu chúng ta ư?
Lý Thế Dân không chút khách khí chỉ trích đã khơi dậy phẫn nộ của Lý Kiến Thành, anh ta cũng không thể nhẫn nhịn thêm được nữa, liền phản bác nói:
- Thôi được! Chúng ta không nói cái gì “nhân nghĩa chi bang” nữa, cùng loại người như ngươi nói nhân nghĩa chính là đàn gảy tai trâu. Chúng ta chỉ lấy việc luận việc, bài học Trung Nguyên thảm bại ngươi đã quên rồi sao, lúc trước không phải chính ngươi luôn miệng nói quân Tùy bị Hà Bắc kiềm chế, vô lực chú ý tới Trung Nguyên, chúng ta mới tiến binh xuống Trung Nguyên, kết quả thì sao? Dựa vào kinh nghiệm đánh trận được vài năm, ngươi có lần nào đánh bại được quân Tùy chưa, có lần nào không phải là bị đánh cho tối tăm mặt mũi chứ? Lần này Đột Quyết xâm lược Tùy, ngươi có thể bảo chứng Tùy triều sẽ sụp đổ không, Đột Quyết không có vũ khí công thành, nhiều lắm chỉ là đến đánh cướp một phen rồi liền bỏ đi, sau đó thì sao? Chúng ta phải đối mặt như thế nào?
- Cơ hội nếu không nắm chặt? Chẳng lẽ chúng ta nghển cổ đợi người tới giết!
Lý Thế Dân cũng nổi giận rồi.
- Vốn là sáu quận Quan Bắc nằm trong tay quân Tùy, về sau lại chiếm lĩnh quận Hội Ninh, bước tiếp theo chính là chiếm toàn bộ Quan Nội đạo, bởi vì e ngại Tùy triều mà không dám khai chiến, không bằng hiện tại liền đầu hàng cho rồi, đao đều đã treo lơ lửng trên đỉnh đầu chúng ta, vậy tại sao lại còn phải nhịn làm gì?
- Toàn bộ câm miệng!
Lý Uyên bị cuộc cãi vã của hai đứa con trai chọc giận, ông ta vỗ bàn một cái thật mạnh, lớn tiếng mắng:
- Các ngươi xem trẫm là bù nhìn hả? Ở trước mặt trẫm không kiêng nể gì mà cãi nhau, một người đường đường là Thái tử, một người là Thiên Sách Thượng tướng. Các ngươi giống sao? Tất cả cút hết ra ngoài cho trẫm, cút!
Huynh đệ hai người thấy phụ hoàng tức giận, đều sợ tới mức không dám nói gì, nơm nớp lo sợ, lui ra bên ngoài. Rời khỏi ngự thư phòng, hai người gần như không hẹn mà cùng hừ một tiếng thật mạnh, rồi xoay người rời đi.
Hai đứa con trai ở ngay trước mặt mình tranh chấp với nhau khiến trong lòng Lý Uyên vô cùng tức giận, mặc dù đây cũng là cảnh tượng mà ông ta hy vọng thấy được, đó là hai đứa con trai kiềm chế lẫn nhau, nhằm đảm bảo cho ngôi vị hoàng đế của mình được ổn định.
Nhưng thực sự khi hai đứa con trai trước mặt ông ta cãi vã, ở trên mặt cảm tình, Lý Uyên khó có thể chấp nhận được. Dù sao ông ta ngoại trừ là một hoàng đế thì vẫn còn là một người cha.
Làm hoàng đế quan trọng nhất là bảo vệ và củng cố ngai vị của mình, đứa con chính là uy hiếp lớn nhất của hoàng đế, lúc này mà nói thì không có gì gọi là tình cảm cha con cả. Ông ta sẽ trăm phương ngàn kế, vắt hết óc để đối phó với đứa con của mình.
Nhưng cũng không phải ông ta đều từng giây từng phút làm hoàng đế, thỉnh thoảng ông vẫn có lúc quay trở về làm một người cha. Lúc này, hai đứa con bất hòa đã làm ông ta cực kỳ tức giận, ông ta hoàn toàn quên mất rằng mâu thuẫn của hai đứa con trai chính là do ông ta một tay tạo ra.
Phiền não của Lý Uyên còn ở việc ông ta đối với chuyện liên kết với Đột Quyết vẫn còn lưỡng lự. Trong lòng ông ta cũng chả xem cái “nhân nghĩa chi bang” là gì, ông rất rõ ràng, nhân nghĩa chẳng qua là cái áo khoác mà thôi, lợi ích mới là căn bản.
Một mặt, ông ta đồng ý với chủ nghĩa cơ hội của đứa con thứ hai Thế Dân. Lần này Đột Quyết tấn công Tùy, đúng là cơ hội cho bọn họ chiếm lấy Quan Nội đạo, từ khi Đại Đường lập nước tới nay, sáu quận Quan Bắc vẫn là tâm bệnh lớn nhất trong lòng ông ta, chính như lời Thế Dân nói, đây quả là một lưỡi đao sắc treo trên đầu bọn hắn.
Vốn cây đao này vẫn nằm trong vỏ, nhưng từ khi quận Hội Ninh bị Tùy triều cưỡng đoạt thì cây đao này cũng đã rút ra được một nửa rồi, mũi đao lóng lánh khiến cổ bọn họ cảm thấy từng đợt lạnh ngắt.
Nhưng mặt khác, Thái tử nói cũng có lý, Đột Quyết không phải Tiên Ti, bọn họ sẽ không chiếm lĩnh Hà Đông để lập nước, nhiều nhất chỉ là cướp người cướp của rồi sau đó lập tức sẽ rút về thảo nguyên. Tùy triều không có khả năng bị Đột Quyết tiêu diệt, vậy sau đó thì sao? Khi Đột Quyết bỏ đi, bọn họ làm thế nào đối mặt với quân Tùy vồ tới, thất bại trong trận đại chiến ở Trung Nguyên đã để lại bóng ma cực kỳ sâu sắc trong lòng, khiến Lý Uyên rất e ngại Dương Nguyên Khánh.
Lý Uyên bị vây trong một hoàn cảnh khó cả đôi đường… Lý Thế Dân nổi giận đùng đùng về tới phủ Tần Vương, vừa vào trong cửa phủ, Trưởng Tôn Vô Kỵ liền chạy ra đón, vẻ mặt có chút khẩn trương nói:
- Điện hạ, Thái Nguyên Thần Phong đã xảy ra chuyện.
- Cái gì?
Lý Thế Dân cả kinh, lập tức quên mất bực bội trong lòng, liền vội hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Trưởng Tôn Vô Kỵ lấy ra một cuốn tin tức đưa cho Lý Thế Dân.
- Đây là tin tức vừa mới thu được, nói rằng bởi vì sự kiện bạc giả nên quán rượu Bát Phương đã bị tra xét, Lý Thủ Trọng và hơn mười thành viên trụ cột Đường Phong bị giết, còn quán rượu Bát Phương bị thiêu rụi, Thái Nguyên Đường Phong gần như bị phá hủy.
Lý Thế Dân nhìn kỹ một lần nữa những tin tức này, lông mày xoắn cả lại vào nhau. Lý Thủ Trọng này tại sao lại vô dụng đến vậy, vì một chuyện bạc giả nhỏ nhặt như vậy mà làm mình bại lộ, dừng lại một lúc, anh ta lại hỏi:
- Tình hình những thành viên khác của Đường Phong như thế nào?
- Tạm thời vẫn chưa rõ, tuy nhiên từ việc bọn họ còn có thể thả chim ưng truyền tin mà xét thì hẳn là vẫn chưa bại lộ. Lý Thủ Trọng và hơn mười thành viên trụ cột toàn bộ bị giết, quán rượu Bát Phương bị thiêu rụi, chứng tỏ Lý Thủ Trọng vẫn giữ được bí mật, danh sách đã bị thiêu hủy.
Trong lòng Lý Thế Dân chỉ cảm thấy rối bời, do quá nhiều việc lo âu chắn ở trong lòng, khiến anh ta không thể nhìn rõ, anh ta cẩn phải tỉnh táo lại, hoặc là nghe một số đề nghị thông minh, anh ta lại hỏi:
- Phòng tiên sinh trở về rồi sao?
- Hồi bẩm điện hạ, Phòng tiên sinh đã trở lại, nghe nói đang ở nhà.
Lý Thế Dân mừng rỡ, lập tức hướng thị vệ nói:
- Đi mời Phòng tiên sinh tới đây, ta có chuyện quan trọng muốn cùng ông ta thảo luận.
Phòng Huyền Linh trở về, khiến trong lòng Lý Thế Dân có một chút lo lắng, rồi hướng Trưởng Tôn Vô Kỵ nói:
- Hiện tại, phải giữ gìn thực lực còn lại của Thái Nguyên Đường Phong, ra lệnh cho tất cả mọi người tạm ngưng hoạt động, nếu thấy có gì khác thường, có thể lập tức rút lui khỏi Thái Nguyên.
- Ty chưc đã hiểu, mặt khác ty chức còn một việc muốn bẩm báo, liên quan tới Đông cung.
Lý Thế Dân khoát tay chặn lại.
- Đến thư phòng của ta rồi nói!
Lý Thế Dân dẫn Trưởng Tôn Vô Kỵ đi tới bên ngoài thư phòng, vừa tới cửa lại dặn dò thủ vệ nói:
- Không cho bất cứ kẻ nào tới quấy rầy, cũng không cho ai tới gần!
- Tuân lệnh!
Đẩy cửa đi vào phòng, Lý Thế Dân ngồi xuống, lúc này anh ta mới hướng Trưởng Tôn Vô Kỵ nói:
- Nói đi! Chuyện gì?
- Điện hạ, chúng tôi phát hiện có thể Thái tử và Duẫn Đức Phi có quan hệ.
- Quan hệ?
Lý Thế Dân nhướng mày:
- Quan hệ gì?
- Chúng tôi phát hiện người của Thái tử và cha của Duẫn Đức Phi là Doãn Quý Bình thường qua lại mật thiết, bởi vậy mới suy đoán Duẫn Đức Phi có thể đã bị Thái tử mua chuộc.
Tin tức này khiến Lý Thế Dân có chút đứng ngồi không yên, Duẫn Đức Phi và Trương Tiệp Dư chính là hai phi tử mà phụ hoàng yêu mến nhất. Nếu Duẫn Đức Phi bị Thái tử mua chuộc, cô ta chỉ cần nói bóng nói gió thôi thì e rằng sẽ bất lợi với chính mình, Lý Thế Dân trầm tư một lúc hỏi:
- Các ngươi làm thế nào phát hiện tình huống này?
- Lần trước điện hạ cho ty chức một bản danh sách, là một số tâm phúc đại thần bên cạnh Thái tử. Ty chức phái Đường Phong lưu ý từng người trong đám này, trong đó khi theo dõi Thái tử Tẩy mã Dương Tuấn thì phát hiện được, tên này gần đây thường qua lại rất mật thiết với Doãn Quý Bình, mới vừa rồi hai người lại gặp nhau, điều này có hơi khác thường nên ty chức cảm thấy có vấn đề.
Lý Thế Dân chắp hai tay sau lưng đi vài bước, Dương Tuấn này khiến hắn nghĩ tới người em của tên này là Dương Vanh, chính là một trong hai đại Trung Lang Tướng bảo vệ Đông cung, cũng là một kẻ ăn chơi trác táng không hơn không kém. Tên này thường dẫn thị vệ Đông cung đi giáo phường chơi gái, tiếng tăm rất xấu.
Mà huynh trưởng Dương Tuấn lại là tâm phúc của Thái tử, một tên ngay cả cha mình cũng dám phản bội, Thái tử vậy mà vẫn tin tưởng tên này như vậy, quả thực không thể tin nổi.
Lý Thế Dân biết được nhược điểm của huynh trưởng Lý Kiến Thành, mà nhược điểm lớn nhất của Lý Kiến Thành chính là y quá trọng tình cảm, đối với người khác quá độ lượng, huynh đệ Dương thị chỉ là nhờ có quan hệ với Thái tử phi, vậy mà y liền trọng dụng bọn chúng, lại quên mất bọn chúng rất nguy hiểm. Từ xưa tới nay, người trọng tình cảm khó thành đại sự.
So sánh với mức độ quan trọng của huynh đệ Dương thị, thì chuyện của Duẫn Đức Phi liền có vẻ không còn quan trọng gì nữa, nghĩ vậy Lý Thế Dân không khỏi cười lạnh một tiếng, anh ta lập tức hướng Trưởng Tôn Vô Kỵ thấp giọng nói:
- Chuyện này không cần lộ ra, cứ tiếp tực theo dõi Dương Tuấn, đừng cho hắn phát hiện, đồng thời thu thập một số nhược điểm của hai huynh đệ bọn chúng.
Trưởng Tôn Vô Kỵ hiểu ý tứ của Lý Thế Dân, huynh đệ Dương thị trong tương lai có khả năng sẽ xài tới, gã lập tức khom người nói:
- Ty chức đã hiểu, sẽ không bứt dây động rừng.
Lúc này, Lý Thế Dân nghe thấy âm thanh của thị vệ bên ngoài truyền đến:
- Phòng tiên sinh, điện hạ nói không phận sự không được tiến vào!
- Nhưng là điện hạ tìm ta, nói có việc quan trọng, ngươi thay ta đi bẩm báo một chút.
Đây là Phòng Huyền Linh đến, Trưởng Tôn Vô Kỵ lập tức chắp tay nói:
- Điện hạ, vậy ty chức đi trước.
Gã vô cùng khôn khéo, biết có một số việc mình không thể tham dự, Lý Thế Dân gật gật đầu.
- Đi đi! Đem chuyện ở Thái Nguyên an bài thỏa đáng, phải cố gắng bảo vệ lực lượng.
Trưởng Tôn Vô Kỵ xoay người đi rồi, Lý Thế Dân mới mở cửa cười nói:
- Để Phòng tiên sinh vào đi!
Phòng Huyền Linh buổi sáng mới từ quận Lũng Tây trở về, quần áo còn chưa kip thay ra, trông có vẻ khá mệt mỏi. Hơn một tháng mệt nhọc đi về phía tây, khiến y trở nên vừa gầy vừa đen, y đi Quan Tây là để kiểm tra quân lương và nhu yếu phẩm cho quân đội, y đang định ngày mai cùng Lý Thế Dân bàn bạc về việc này.
Nhưng lúc này Lý Thế Dân chẳng còn quan tâm tới việc này nữa, anh ta liền đem nhưng việc mới phát sinh gần đây nói rõ ràng mạch lạc lại cho Phòng Huyền Linh, cuối cùng cực kỳ lo âu nói:
- Quan trọng là Thái tử phản đối mãnh liệt việc xuất binh, khiến phụ hoàng sinh ra nghi ngờ rất lớn. Quan trọng hơn nữa là Thái tử sẽ phát động yêu cầu với các bá quan văn võ, lần trước tấn công Tiêu Tiển cũng do sự phản đối mãnh liệt bá quan mà bị hủy bỏ, ta lo lắng lần này cũng sẽ giống vậy.
Sau khi Phòng Huyền Linh trở về đã cùng Trưởng Tôn Vô Kỵ bàn bạc qua một chút, tình hình trong triều đình ít nhiều cũng đã nắm sơ qua, y cũng đã suy xét qua, trong lòng có một số ý tưởng.
Phòng Huyền Linh có thể cảm nhận được lo âu trong lòng Lý Thế Dân, liền khẽ mỉm cười nói:
- Điện hạ đầu tiên phải tỉnh táo lại đã, rồi mới có thể thong dong sắp xếp mới việc. Thật ra ty chức nghĩ chuyện này mấu chốt là ở chỗ Thánh Thượng, chỉ cần điện hạ có thể thuyết phục Thánh Thượng, cho dù Thái tử có phát động bá quan phản đối thì ngược lại sẽ khiến Thánh Thượng có cảm giác bị áp chế, từ đó tất sẽ đối với quyền lực quá lớn của Thái tử mà sinh ra nghi kỵ. Điện hạ không thấy đây là một chuyện tốt hay sao?
Hai mắt Lý Thế Dân híp lại, mình tại sao lại không nghĩ đến điều này nhỉ…
Thảo nguyên đầu tháng mười đã trở thành một vùng mù mịt, cỏ cây, súc vật khô héo, sự sống ảm đạm, thảo nguyên mênh mông bao trùm bởi tử khí nặng nề. Ngay cả dân chăn nuôi của thảo nguyên cũng rất hiếm khi nhìn thấy thảo nguyên tang thương đến như vậy.
Bởi vì vào những năm trước, vào thời điểm này khắp nơi trên thảo nguyên bị tuyết dày bao phủ, trời đất toàn là một màu tuyết trắng, rất khó nhìn thấy một thảo nguyên khô cằn.
Nhưng năm nay thời tiết lại khô hạn đến lạ thường, đã đến tháng mười một rồi mà chưa thấy một trận tuyết nào ở phương bắc, chỉ là có hai trận mưa vào tháng chín nhưng không thể nào giảm bớt sự khô hạn, mà đại hạn mùa đông thì rất bất lợi đối với tính hình thổ nhưỡng. Điều này càng khiến mọi người lo lắng hơn về đại hạn mùa xuân.
Nhưng vào tháng mười một, một nỗi lo khác lại bao trùm lên triều đình và người dân Đại Tùy. Đó là Đột Quyết phương bắc có khả năng sẽ xâm lấn Trung Nguyên. Thông tin này là đến từ quận Mã Ấp, không ngừng có những nhóm nhỏ lính gác lưu động của Đột Quyết xâm nhập vào biên giới lãnh thổ triều Tùy.
Thông thường quân đội Đột Quyết đều là do dân chăn nuôi cấu thành, lúc bình thường, họ là dân chăn nuôi du mục, sống cuộc sống vô ưu vô lo. Quân đội Đột Quyết chỉ tập trung ở vùng phụ cận vương trướng Khả Hãn còn trên biên giới tuyệt nhiên không xuất hiện lính gác lưu động.
Lúc này biên giới xuất hiện lính gác lưu động của Đột Quyết thì chỉ có một khả năng là quân đội Đột Quyết bắt đầu tập kết quy mô lớn. Lính gác lưu động xuất hiện chính là một tín hiệu.
Cái tên của Lương Trảo sơn của quận Mã Ấp được bắt nguồn bởi dáng núi như hình móng sói. Ngọn núi nằm ở biên giới Tùy Đột. Trên vách núi ở độ cao vài chục trượng đã xây dựng một tòa tháp khói lửa báo động. Đây là tòa tháp khói lửa ở vùng cực bắc của quân Tùy, được gọi là tháp khói lửa Lương Trảo sơn.
Tháp khói lửa cao ba trượng, chia làm ba tầng, tổng cộng có mười tên lính đóng tại đây, bình thường nếu bình an vô sự thì họ sẽ đốt lên một tầng khói lửa, nếu có nhóm nhỏ lính gác lưu động đột kích thì sẽ đốt hai tầng khói lửa, nhưng nếu là đại quân kỵ binh Đột Quyết xuất hiện thì sẽ châm ba tầng khói lửa.
Tuy rằng gần đây không ngừng có các nhóm nhỏ lính gác lưu động Đột Quyết lui tới và cũng đã từng tập kích tháp khói lửa nhưng bởi vì địa thế rất cao nên tháp khói lửa cuối cùng vẫn không bị lính gác lưu động Đột Quyết công phá.
Chương 923 : Khói lửa Hồ Mã
Nhưng nội binh trong tháp khói lửa lại phải chịu áp lực chiến tranh rất lớn, hết lượt lính gác lưu động này đến lượt khác đến công kích khiến cho nội binh trong tháp khói lửa có mười tên lính đã bỏ mình năm người, chỉ còn lại năm tên Tùy binh cố thủ thành lũy ở cực bắc Đại Tùy này.
Sáng sớm hôm nay, một đợt chấn động liên tiếp không ngừng đã đánh thức đám binh sĩ trong tháp khói lửa đang ngủ say. Mấy tên lính đều bật người dựng lên, ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu chuyện gì xảy ra.
Lúc này từ phương xa truyền đến từng đợt tiếng vang kỳ lạ hệt như tiếng sấm rền trước khi bão táp tiến đến, Hỏa Trưởng kịp thời phản ứng, hô to một tiếng:
- Không hay rồi!
Anh ta cuống cuồng chạy lên tầng ba.
Từ tầng thứ ba tháp khói lửa nhìn ra xa, trong ánh mắt mấy tên quân Tùy là sự sợ hãi cực độ. Bọn họ nhìn thấy ở phương bắc xuất hiện một mảng xám xịt, chiều ngang hơn mười dặm. Đó là chủ lực kỵ binh Đột Quyết xuất hiện. Dựa vào kinh nghiệm, bọn họ biết đằng sau mảng xám đó sẽ là một dàn kỵ binh vô cùng đông đúc, chí ít cũng có đến hai ba trăm nghìn người.
Hỏa trưởng đột nhiên hét lớn lên một tiếng:
- Châm khói lửa rồi bỏ chạy ngay!
Anh ta và hai tên lính trèo lên đỉnh tháp khói lửa, đốt cây đuốc lên rồi đốt lên một nồi sắt lớn cỏ tím và phân sói. Ba cột khói báo động phóng lên cao, khói đặc cuồn cuộn để truyền tin về phương nam rằng đại quân Đột Quyết đã đột kích. Phía nam cách đó mấy chục dặm lại có ba trụ khói báo động được đốt lên, càng truyền càng xa, truyền về hướng Thái Nguyên.
Rất nhanh, đại quân Đột Quyết đã đông đảo tiến tới dưới chân núi Lương Trảo sơn, kỵ binh Đột Quyết đông nghìn nghịt hệt như biển đen mênh mông vô bờ, ít nhất cũng phải có hơn hai trăm nghìn quân.
Đột Quyết là một quốc gia toàn là dân binh, có bao nhiêu thanh niên trai tráng là có bấy nhiêu quân đội, trong lịch sử Đại Nghiệp những năm cuối, Thủy Tất Khả Hãn từng dẫn hàng triệu dũng sĩ mặc giáp tập trung hoả lực tấn công phương bắc, uy hiếp nghiêm trọng sự bình an của Trung Nguyên.
Đột Quyết cũng lại là một liên minh bộ lạc rời rạc, ngoài ba mươi sáu bộ lạc Đột Quyết, đồng thời họ còn khống chế được mười mấy bộ lạc Thiết Lặc. Khi Đột Quyết cần phát động chiến tranh, tất cả các bộ lạc Thiết Lặc đều phải xuất binh yểm trợ. Đột Quyết có hùng mạnh hay không tùy thuộc vào việc họ có khống chế được các bộ Thiết Lặc hay không.
Năm đó Đột Quyết thảm bại ở Phong Châu.Tuy thực lực các bộ Đột Quyết tổn thất thê thảm và nghiêm trọng nhưng các bộ Thiết Lặc thì tổn thất không lớn. Tuy nhiên, chính vì Đột Quyết thực lực suy yếu, không kêu gọi được các bộ Thiết Lặc nên thảo nguyên xuất hiện sự chia rẽ khiến Đột Quyết chưa gượng dậy nổi đã nhanh chóng bị suy sụp đi xuống.
Khoảng thời gian hai năm ngắn ngủi không đủ để Đột Quyết sống lại nhưng có thể giúp Đột Quyết có được cơ hội. Nội chiến bên trong Ô Đồ dường như là món quà trời ban cho Đột Quyết.
Xử La Khả Hãn nhanh chóng nắm lấy cơ hội, đánh tan Ô Kẹp Mộc, tiếp nhận gần ba trăm ngàn Ô Đồ bộ tộc đầu hàng khiến Đột Quyết lập tức có thêm sức mạnh.
Chính sức mạnh đánh bại Ô Đồ bộ đã khiến cho Đột Quyết lại thành công khi triệu tập liên minh các bộ Thiết Lặc. Gần như tất cả Khả Hãn của các bộ Thiết Lặc đều quy thuận Đột Quyết Đại Khả Hãn, khiến cho Đột Quyết suy yếu lại một lần nữa cường thịnh trở lại.
Lúc này, Xử La Khả Hãn chết vì bệnh, huynh đệ của ông ta là Hiệt Lợi Khả Hãn đăng cơ, các bộ Thiết Lặc lại xuất hiện dấu hiệu chia rẽ lần nữa khiến Đột Quyết ở vào thế cực kỳ nguy hiểm, vô cùng khó khăn, nhưng lại là một hoàn cảnh vô cùng tế nhị.
Người mới đăng cơ Hiệt Lợi Khả Hãn hiểu rất rõ tình thế nguy hiểm mà Đột Quyết đang phải đối diện thì cũng biết nên làm gì được đây?
Muốn Thiết Lặc các bộ không chia rẽ, muốn xoay chuyển tình thế nguy hiểm trước mắt chỉ có một cách, một lần nữa lấy thắng lợi huy hoàng để tạo nên uy danh tối cao của Đột Quyết trên thảo nguyên. Ánh mắt Hiệt Lợi Khả Hãn liền chuyển hướng về phía nam, Đột Quyết ngã ở đâu thì phải đứng dậy từ đó.
Hiệt Lợi Khả Hãn thấy Trung Nguyên xảy ra nội chiến, ông ta biết có thể lợi dụng Tùy Đường đang lúc bất hòa để tìm cơ hội, vì thế ông ta liền phái ra hai nhóm sứ giả đi sứ Tùy Đường.
Nhưng cùng lúc với việc phái sứ giả, ông ta đã bắt đầu tập kết quân đội quy mô lớn. Số quân ông ta tập kết bao gồm đại quân Đột Quyết một trăm bảy mươi ngàn người trong Ô Đồ bộ, rồi lại mượn từ Hồi Hột và Tiết Diên Đà bộ mỗi nơi bốn mươi ngàn binh, khiến cho tổng binh lực của ông ta lên đến hai trăm năm mươi ngàn.
Hiệt Lợi Khả Hãn ghìm chặt chiến mã, híp mắt đánh giá tháp khói lửa Lươn Trảo sơn cách đó không xa. Ông ta biết rõ khói lửa này báo hiệu điều gì. Vượt qua tháp khói lửa này là tiến vào địa giới Đại Tùy, Hiệt Lợi Khả Hãn khoát tay ra hiệu cho quân đội dừng lại.
Ông ta xoay người xuống ngựa, quỳ hai đầu gối xuống thảo nguyên, cuối cùng toàn bộ thân đều rạp xuống thảo nguyên, vô cùng thành kính, dường như đang cảm nhận được các thần thánh của thảo nguyên đang truyền chỉ cho ông ta. Một lúc lâu sau, ông ta đứng lên, xoay người hô lớn:
- Mongke Tengri nói cho ta biết, thảo nguyên không có tuyết, chính là cơ hội mà Người đã ban cho chúng ta!
Lời tiên đoán của ông ta trong nháy mắt đã truyền khắp toàn quân. Đại quân Đột Quyết hơn hai trăm ngàn n người cùng vung tay cao tung hô. Tiếng hoan hô vang dội khắp thảo nguyên. Trong tiếng hoan hô, Hiệt Lợi Khả Hãn vung chiến đao hướng về phía nam ra lệnh:
- Tiêu diệt toàn bộ Ô Đồ bộ, cướp sạch Trung Nguyên!
Chiến mã đại quân hơn hai trăm ngàn người phi nhanh như một làn sóng thủy triều đen thổi quét thảo nguyên, vừa gào thét vừa tiến về phía hồ Phục Khất ở hướng nam...
Bóng đêm bao trùm phủ Thái Nguyên. Dương Nguyên Khánh ngồi trong thư phòng bên bàn viết, hắn đang viết một bức thư cho Vương Thế Sung ở Lạc Dương, nói cho ông ta biết một chút về sự thay đổi của cục diện.
Bởi vì Đột Quyết xâm nhập phía nam với quy mô lớn làm rối loạn bố trí chiến lược của triều Tùy, hắn buộc phải điều chỉnh quân đội một chút, năm mươi ngàn quân ùy đóng ở Trung Nguyên bị cắt giảm còn ba mươi ngàn, chủ yếu bố trí ở quận Đông, nhà kho Lê Dương và quận Huỳnh Dương quận, quân Tùy sẽ rút quân đóng giữ ở quận Toánh Xuyên quận, quận Nhữ Nam và quận Tương Thành.
Ngụ ý là nói cho Vương Thế Sung biết rằng lúc này đây quân Tùy không thể bảo hộ sự an toàn của ông ta được, ông ta chỉ có thể tự lo mà thôi. Điều này thực ra cũng là triều Tùy sắp bị bức bách dồn ép rút lại chiến tuyến.
Vừa rồi, Dương Nguyên Khánh đã viết một bức thư cho Từ Thế Tích và Lai Hộ Nhi, ra lệnh cho bọn họ cố gắng hết sức để đưa người Trung Nguyên di chuyển đến Hà Bắc.
Từ mười ngày trước Dương Nguyên Khánh đã ban bố lệnh phát động chiến tranh khắp nơi của Đại Tùy, mệnh lệnh cho tổng quản Phong Châu Bùi Nhân Cơ dẫn một trăm ngàn quân đội hiệp trợ ba mươi ngàn hộ, khoảng hơn hai trăm ngàn dân chúng dời vào quận Linh Võ rồi lại ra lệnh đưa số người Trung Nguyên nhiều nhất có thể di chuyển đến Hà Bắc.
Đồng thời, nông dân các vùng nông thôn phía bắc Thái Nguyên cố gắng tránh vào thành, mệnh lệnh cho quan phủ các nơi sắp xếp chu đáo cho dân tị nạn.
Trước mắt tổng binh lực quân Tùy ước chừng hai trăm năm mươi lăm ngàn người, nhưng bởi vì chiến tuyến triều Tùy quá dài, bố trí cũng khá phân tán đóng ở quận Hội Ninh và quận Linh Võ có hai mươi ngàn người, ở Trung Nguyên và nhà kho Lê Dương ba mươi ngàn người, ở Hà quận Bắc Trác có một trăm ngàn người, ở Liêu Đông một trăm ngàn người, ở quận Đôn Hoàng một trăm ngàn người, ở quận Hà Đông và Hà Nội ba mươi ngàn người, mặt khác đóng ở đô thành Thái Nguyên còn cần bốn mươi ngàn người. Như vậy tính ra lượng quân đội mà bọn họ có thể điều động được chỉ còn lại một trăm ngàn người.
Dương Nguyên Khánh đặt bút xuống, khẽ thở dài. Bất cứ lúc nào, chiến tranh cũng đều ảnh hưởng rất lớn tới dân chúng, đặc biệt là chiến tranh dị tộc xâm lược. Nếu chuẩn bị không đầy đủ sẽ khiến nhân dân Đại Tùy gặp phải tai họa vô cùng nặng nề.
Trong lịch sử cuối đời Tùy, kỵ binh Đột Quyết tới thành Thái Nguyên đánh cướp bốn phía Hà Đông, tới thành Trường An, cướp sạch toàn bộ Quan Trung. Bọn chúng lợi dụng thời cuối nhà Tùy càng vùng Trung Nguyên suy yếu, không không còn sức chống cự nên hết lần này đến lần khác tiến vào Trung Nguyên, đánh cướp phụ nữ và tài sản, sinh linh lầm than, khiến người dân Trung Nguyên và tài sản của họ bị tổn thất cực kỳ thê thảm và nghiêm trọng.
Dương Nguyên Khánh hiểu rất rõ lần này không giống với lần Phong Châu.Khi xưa Phong Châu gần triệu dân di dời về quận Linh Võ ở phía nam, có thành Hà Khẩu làm bức bình phong độc đạo ngăn cản đại quân Đột Quyết xâm nhập phía nam khiến Phong Châu tổn thất cũng không lớn, hơn nữa quân đội dựa vào thành trì chắc chắn để phòng ngự nên có thể chống lại hơn một trăm ngàn quân Đột Quyết.
Còn lần này dân cư Hà Đông đông đúc, quân Đột Quyết sau khi tiến vào Hà Đông, gần như không còn nguy hiểm nào cần phải phòng thủ cả. Nếu quả thật bị quân đội Đột Quyết tiến vào Hà Đông thì chắc chắn sẽ bị tổn thất thê thảm và nghiêm trọng. Quan trọng hơn là quân Đột Quyết sẽ không đánh tiếp chiến thành khiến quân Tùy không có ưu thế như ở Phong Châu lần trước.
Hơn nữa lúc này chiến lực cung tiễn của Đột Quyết đã không thua gì quân Tùy. Quân Tùy ngoại trừ ưu thế có khôi giáp thì ưu thế ở các phương diện khác đều không lớn nữa.
Chương 924 : Đại chiến lặng lẽ tới
Bùi Mẫn Thu ngồi bên lặng lẽ chuẩn bị thu xếp hành lý cho chồng. Ngày mai Dương Nguyên Khánh sẽ đích thân xuất lĩnh đại quân lên phương Bắc, trong lòng nàng vô cùng lo lắng. Nàng có thể cảm nhận được nỗi lòng nặng trĩu của Dương Nguyên Khánh. Cho dù năm đó Đột Quyết tiến công Phong Châu với quy mô lớn, chàng cũng không có tâm trạng nặng nề như hôm nay.
- Nguyên Khánh, lần này tình hình rất không ổn sao?
Bùi Mẫn Thu rốt cục không kìm nổi hỏi.
Dương Nguyên Khánh liếc mắt nhìn vợ một cái, bắt gặp vẻ mặt lo lắng của vợ liền chậm rãi ngả xuống chỗ tựa lưng lên, thả lỏng cơ thể, thoải mái tươi cười:
- Cũng không có nghiêm trọng đến mức đó. Chỉ có điều thời gian ngắn mà gia nghiệp lại quá lớn, ta nhất thời bận rộn cho nên cảm thấy hơi mệt mỏi. Người Đột Quyết cũng không có gì đáng phải lo lắm.
Bùi Mẫn Thu nghĩ tới một chuyện, vội vàng nói:
- A Tư Đóa bảo ta chuyển lời tới chng, khẩn cầu chàng cố gắng cứu giúp Ô Đồ bộ, đừng bỏ mặc bọn họ.
Dương Nguyên Khánh lắc đầu:
- Chỉ có thể nói là cố gắng thôi. Lần này quân Tùy sẽ không đi thảo nguyên và quyết chiến với quân Đột Quyết. Nếu Ô Đồ bộ có thể kịp thời xuống phía nam thì có lẽ còn có thể bảo hộ được bọn họ, nhưng nếu bọn họ không rút lui về phía nam kịp thời, ta cũng không có cách nào khác.
Bùi Mẫn Thu thở dài, nàng có thể hiểu nỗi lòng của chồng...
Sáng sớm hôm sau, tám mươi ngàn đại quân chỉnh tề xếp thành hàng ở cánh đồng rộng lớn phía bắc cung Tấn Dương, tám mươi ngàn đại quân gần như toàn bộ đều là kỵ binh, mỗi binh lính đều dắt một con chiến mã, nón sắt sáng bóng, trường đao lợi hại, sĩ khí hừng hực, ánh mắt ai nấy đều thể hiện sự chờ đợi cuộc chiến tranh sắp tới.
Trước cung Tấn Dương, Dương Nguyên Khánh đầu đội mũ sắt, thân mặc áo giáp, đang lần lượt cáo biệt bảy vị tướng quốc. Trong đội ngũ tướng quốc, giờ phút này điều Đỗ Như Hối nghĩ đến nhiều nhất là làm thế nào để bảo hộ sự an toàn của dân chúng Đại Tùy, chỉ cần dân chúng bình an vô sự, còn hết thảy của cải đều còn có thể làm ra lại..
Ông ta chậm rãi đi đến trước mặt Dương Nguyên Khánh, thấp giọng nói:
- Điện hạ, thần có một đề nghị.
- Tướng quốc nói đi! Đề nghị chuyện gì?
- Thần thấy nên để dân chúng bốn quận Mã Ấp, Nhạn Môn, Định Tương và Lâu Phiền tự đi sơ tán, nên để bọn họ chạy nạn về phía nam. Như vậy mới có thể giảm tối đa tổn thất, giống như khi xưa dân chúng Phong Châu rút lui về quận Linh Võ phía nam vậy.
Thôi Quân Tố bên cạnh tiếp lời nói:
- Nhưng nay bốn quận có gần triệu dân, nếu hình thành một đợt tị nạn quá lớn sẽ tạo thành áp lực lớn cho phía nam. Hơn nữa ta đoán có nhiều người sẽ chạy về hướng Thái Nguyên hơn.
- Chạy đến Thái Nguyên thì sao chứ? Trong kho của chúng ta có hai trăm ngàn lều trại, hoàn toàn có thể dùng để sắp xếp cho dân chạy nạn, còn có năm trăm ngàn thạch lương thực, hơn nữa những người chạy nạn cũng có rất nhiều người mang theo lương thực. Ta thấy đối với Thái Nguyên mà nói, tuy thành trì sẽ trở nên chật chội nhưng như vậy lại có thể bảo vệ càng nhiều tính mạng người dân. Bây giờ nhân dân là của cải lớn nhất của chúng ta!
Câu nói sau cùng của Đỗ Như Hối khơi dậy sự đồng tình của Dương Nguyên Khánh. Thực ra hắn cũng là người muốn bảo vệ nhân dân nên mới hạ lệnh cho quan phủ các nơi tổ chức cho dân vào thành. Tuy thế nhưng trong lòng hắn vẫn có ít nhiều lo lắng về việc phòng ngự của huyện thành.
Năm đó khi Đột Quyết ở huyện Nhạn Môn vây quanh tiên đế Dương Quảng, liên tiếp hạ hơn bốn mươi thành. Mấyg huyện thành nhỏ này có thể đỡ nổi vó ngựa của mấy trăm ngàn quân Đột Quyết được sao?Huống hồ tuyệt đại đa số huyện thành nhỏ còn không có binh lính phòng thủ.
Hắn cũng biết quân đội Đột Quyết không phải không có khả năng tấn công thành. Khi xưa ở Phong Châu, việc Đột Quyết sắp xếp thang đã để lại cho hắn ấn tượng sâu sắc.
Quả thật, một khi người Đột Quyết đánh hạ một huyện thành thì dân chúng toàn thành sẽ bị giết hại và cướp đoạt, hắn quyết không thể cho phép chuyện đó xảy ra. Đề xuất của Đỗ Như Hối rất tốt, nên thông báo cho dân chúng biết nguy hiểm để họ tự lựa chọn đường chạy thoát.
- Đề xuất của Đỗ tướng quốc ta tiếp thu, ta sẽ cho quân đội động viên dân chúng tứ quận phương bắc chạy trốn về phía nam. Cũng hy vọng Thái Nguyên có thể làm tốt việc chuẩn bị tiếp đón, còn Tấn Dương cung, chắc là cũng không chặn được kỵ binh Đột Quyết công kích, cũng phải rút lui trước, Thái hậu và Thánh Thượng có thể rút lui đến phủ của ta.
- Điện hạ xin yên tâm, Chính sự đường đã lên kế hoạch rút lui rồi.
Dương Nguyên Khánh dặn dò xong, lúc này Tần Quỳnh bước nhanh tới phía trước, khom người thi lễ:
- Ty chức tham kiến điện hạ!
Tần Quỳnh lần này được giao trọng trách, dẫn bốn mươi ngàn quân bảo vệ sự an toàn củaThái Nguyên.Tác phong bình tĩnh vững vàng của anh ta rất khiến Dương Nguyên Khánh yên tâm.
Dương Nguyên Khánh cũng chắp tay thi lễ lại, nghiêm nghị nói với Tần Quỳnh:
- Ta chỉ có một câu muốn nói với tướng quân, phải nhớ cho kỹ, cho dù tướng quân giết chết một trăm ngàn quân Đột Quyết thì công lao cũng không bằng ngăn được quân Đột Quyết vào thành một bước.
Tần Quỳnh khom người đáp:
- Ty chức xin ghi nhớ, tuyệt đối không cho quân đội Đột Quyết vào thành, cũng tuyệt không tham công mà ra khỏi thành.
Dương Nguyên Khánh khẽ mỉm cười:
- Sự an nguy của thủ đô , thậm chí an nguy của Đại Tùy là phụ thuộc vào Tần tướng quân đó.
Tần Quỳnh yên lặng gật đầu, anh ta cảm thấy áp lực trên vai mình thật lớn.
Lúc này, thị vệ hô lớn một tiếng:
- Bệ hạ giá lâm!
Hai bên đại thần đều mau tránh đường. Mười mấy tên thị vệ khiêng xe bước nhanh đi tới. Ngồi trên xe là tiểu Hoàng đế Dương Hựu, hôm nay Tiêu thái hậu phượng thể không khoẻ nên anh ta đến tiễn Dương Nguyên Khánh.
Mặc dù anh ta chỉ là Hoàng đế Đại Tùy trên danh nghĩa nhưng dù sao cũng là vua của một nước. Lần này là chiến tranh bảo vệ vận mệnh quốc gia, nên anh ta cũng không thể không đếm xỉa đến. Anh ta dùng cách riêng của mình đến để thể hiện ủng hộ quân Tùy chinh phạt phương bắc.
Theo lý, làm Hoàng đế, Dương Hựu nên ngồi trên xe kéo, xe kéo cũng là một loại xe lớn. Điểm khác biệt chính là xe chỉ do mấy người khiêng còn xe kéo thì cần mấy trăm người khiêng. Điều này rõ ràng là không thực tế, cũng không hợp với phong cách khiêm tốn nhất quán của Dương Hựu. Dương Hựu lấy cớ nghiêm khắc thực hiện tiết kiệm, kiên quyết không chịu đi xe kéo mà chỉ giống đại thần, ngồi trên một chiếc xe nhỏ mà thôi.
Dương Hựu đến, các đại thần đều khom mình thi lễ tỏ vẻ tôn trọng. Dương Nguyên Khánh bước nhanh lên trước, quì một gối, chắp cao tay thi lễ:
- Chinh bắc Nguyên soái Dương Nguyên Khánh tham kiến Ngô hoàng bệ hạ!
Lúc này, Dương Nguyên Khánh không dùng danh nghĩa Sở Vương, cũng không dùng chức quan Thượng Thư Lệnh, càng không lấy địa vị Nhiếp chính vương mà dùng thân phận Nguyên soái quân đội để hành lễ với Dương Hựu. Điều này vừa để tỏ vẻ tôn trọng Dương Hựu và cũng để duy trì sự tôn nghiêm của mình đồng thời cũng làm cho các đại thần thấy được tư thái cúi thấp của hắn.
Lúc này hắn tựa như Tào Tháo cuối nhà Hán, đã trở thành người khống chế thực tế của Đại Tùy nhưng hắn vẫn cần tỏ ra chút thái độ, tỏ vẻ hắn giữ gìn trật tự quân thần, giữ gìn chính thống, làm gương cho các đại thần. Nhưng đối với trật tự quân thần của các đại thần thì không phải là Dương Hựu mà là hắn Dương Nguyên Khánh.
Dương Hựu vội vàng đi xuống xe nâng Dương Nguyên Khánh dậy:
- Sở Vương không cần thi đại lễ như vậy, trẫm sao có thể nhận được, mau mau đứng lên đi!
Dương Nguyên Khánh đứng lên cười nói:
- Thần hôm nay phải xuất binh chinh bắc chống lại Đột Quyết, xin điện hạ yên tâm, thần nhất định sẽ đánh bại Đột Quyết, bảo vệ Đại Tùy.
- Trẫm cũng hy vọng như thế.
Lúc này, một gã cận vệ của Dương Nguyên Khánh bưng mâm đồng tiến tới, trên mâm đồng có một ly rượu, Dương Hựu bưng rượu lên, hai tay đưa cho Dương Nguyên Khánh:
- Ly rượu này xin kính Sở Vương, chúc Sở Vương xuất binh đắc thắng, đánh đuổi hồ Đột!
- Tạ ơn bệ hạ!
Dương Nguyên Khánh tiếp nhận ly rượu, uống một hơi cạn sạch, sau đó nâng ly rượu lên cao, giơ ra bốn phía, hàng trăm đại thần đồng loạt vỗ tay.
Lúc này, xa xa truyền đến tiếng trống trận “Tùng! tùng!”, giờ lành xuất chinh đã đến thúc giục đại quân xuất phát. Một tên thân binh đem chiến mã tiến đến, Dương Nguyên Khánh quay mình lên ngựa, ngồi trên ngựa chắp tay về phía mọi người nói:
- Các vị đại thần, đại quân xin được xuất chinh!
Các đại thần đều thi lễ:
- Chúc điện hạ xuất binh đắc thắng, đánh đuổi giặc Đột!
Trong từng đợt trống vang lên, tám mươi ngàn quân Tùy xuất chinh, tinh kỳ phấp phới che phủ trời đất, tám mươi ngàn đại quân trùng trùng điệp điệp hành quân hướng về phương bắc... Dương Nguyên Khánh cuối cùng đã áp dụng đề nghị của Đỗ Như Hối, hắn lệnh cho hơn một ngàn binh lính tới bốn quận Định Tương, Mã Ấp, Nhạn Môn và Lâu Phiền, truyền lệnh cho quan viên khuyên dân chúng xuôi về phương nam chạy nạn.
Trước nỗi sợ hãi quân đội Đột Quyết sẽ tàn sát hàng loạt dân trong thành và chiếm đoạt phụ nữ, dân chúng hơn mười huyện của bốn quận đều khủng hoảng lập tức chạy nạn, hàng triệu người dân từ bỏ ruộng vườn nhà cửa, mang theo lương thực và chút tài sản, dìu già dắt trẻ hướng về phía nam chạy nạn, quan phủ cũng mở nhà kho cấp lương thực, dùng kho lương thực nhà nước để cứu tế dân chạy nạn.
Đường xuôi phương nam chật ních các dân chúng chạy nạn, liên tiếp không ngừng dài đến trăm dặm, người cưỡi lừa, người ngồi xe ngựa, người gánh gồng, sọt trước sọt sau là hai đứa con, người vợ thì mang trên lưng chút tài sản ít ỏi, bọn họ phần lớn đi theo đoàn gia tộc, mỗi gia tộc là một đám người, giúp đỡ chăm sóc cho nhau, trùng trùng điệp điệp hướng về phía Thái Nguyên.
Ở hai bên đường lớn, Ngưu Tiến Đình phụng mệnh dẫn mười ngàn kỵ binh và ba ngàn nữ hộ binh đứng ven đường bảo hộ, trợ giúp người dân bị bệnh hoặc gặp rủi ro. Theo ý của Dương Nguyên Khánh, lần chạy nạn này có thể khủng hoảng, có thể chật vật, nhưng quan trọng là không được xảy ra thảm cảnh chết bệnh hoặc chết đói.
Ở bên kia đường lớn là các tướng sĩ chinh bắc, bọn họ đội ngũ chỉnh tề, sĩ khí hừng hực, đội quân cưỡi ngựa đi thành hàng tiến về phương Bắc bên cạnh dân chạy nạn. Sự xuất hiện của họ là niềm an ủi lớn đối với dân chúng đang chạy loạn về hướng nam, dân chúng liên tục đem trứng gà và bánh bột mì cho binh lính, tiếng hoan hô liên tiếp hết đợt này đến đợt khác, chỉ khi bị chiến tranh uy hiếp, quân đội mới thể hiện được tầm quan trọng không gì sánh nổi của mình.
Dương Nguyên Khánh cưỡi ngựa chậm rãi đi trong hàng ngũ, trước sau hắn là tinh kỳ dày đặc, năm trăm thân binh hộ vệ chung quanh, hắn dẫn đoàn tám mươi ngàn quân nhưng cũng không có quá nhiều đồ quân nhu.
Thực ra, từ lúc gần một tháng trước, khi hắn phái Lý Tĩnh lên phương Bắc, công tác chuẩn bị cho chiến tranh đã bắt đầu rồi. Số lượng lớn vật tư quân giới, lương thực, lều trại đều được vận chuyển tới huyện Thiện Nhật ở phương bắc, đó là địa giới thuộc Mã Ấp quận cai trị, cũng là một tòa thành lớn chắc chắn, nơi đó sẽ trở thành địa điểm hậu cần quan trọng của quân Tùy.
Dương Nguyên Khánh yên lặng chăm chú nhìn từng đoàn dân chúng đang chạy loạn về phương nam, cảnh tượng chạy nạn này khiến hắn xúc động sâu sắc.Ở giai đoạn chuyển giao Tùy Đường, khắp nơi xưng hùng xưng bá tranh chấp lẫn nhau, sinh mạng con người như con sâu cái kiến, rất nhiều kiêu hùng đều không ý thức được rằng dân chúng mới là tài sản quý giá nhất, nên trước sau đều thất bại, Dương Nguyên Khánh hắn thành công chính là ở chỗ hắn nhận thức được tầm quan trọng của dân chúng, người dân chính là một tài nguyên, là cội nguồn của lương thực, chính là sự đảm bảo cơ bản để triều Tùy có thể cường thịnh.
Đỗ Như Hối nói rất đúng, chỉ cần bảo vệ tốt những người dân chạy loạn về phương nam này, mặc cho Đột Quyết có xâm lược thế nào, Đại Tùy vẫn còn có thể một lần nữa phục hồi cường thịnh, nhân dân mới là người sáng tạo ra của cải.
Nghĩ vậy, Dương Nguyên Khánh thấy cảm xúc dâng trào, hắn lập tức lệnh cho thân binh nói:
- Truyền mệnh lệnh của ta xuống toàn quân, không được nhũng nhiễu dân, ai dám to gan ức hiếp dân chạy nạn, lập tức nghiêm trị theo quân pháp...
Hồ Phục Khất là một vùng hồ nước ở phía bắc Mã Ấp quận, trong phạm vi hàng trăm dặm, bốn phía nơi đây đều là thảo nguyên mênh mông, vùng này cỏ nuôi súc vật tốt tươi, sông hồ dày đặc, là nơi chăn thả tốt nhất. Năm đó Dương Quảng đi tuần tra phương bắc, chính ở nơi này đã gặp Đột Quyết Thủy Tất Khả Hãn sắp sửa lên ngôi.
Lúc này vùng hồ Phục Khất đã trở thành khu nhà tạm của Ô Đồ dư bộ, mấy trăm ngàn dân chăn nuôi Đột Quyết về phương nam sinh sống ở đây, chăn thả hàng triệu con dê bò ngựa. Bọn họ dùng dê bò để trao đổi lương thực, muối và nhu yếu phẩm của cuộc sống với triều Tùy, cuộc sống trôi qua với những tháng ngày yên bình, sung túc.
Triều Tùy còn phái riêng mười mấy sĩ tử lên phương Bắc dạy cho trẻ con nơi đây học chữ Hán, trang phục của con gái Trung Nguyên cũng dần dần phổ biến ở Ô Đồ bộ, Ô Đồ bộ cũng không khó chịu với việc văn hóa Hán ngày càng mở rộng, tù trưởng A Nỗ Lệ của bọn họ ngược lại lại cổ vũ cho xu thế Hán hóa này.
Nhưng bọn họ ở phía nam, lúc nào cũng là cái gai trong mắt Đột Quyết Khả Hãn, chiến tranh tuyệt diệt rốt cục đã xảy ra, bọn họ buộc phải đối mặt với một lựa chọn quan trọng, đầu hàng bản bộ Đột Quyết và trở về thảo nguyên hay tiếp tục xuôi xuống phía nam để tiến vào vùng Trung Nguyên với nền văn minh nông canh.
Nhưng lựa chọn này không làm cho A Nỗ Lệ hoang mang. Nàng quyết định dứt khoát sẽ xuôi về phương nam, trưa hôm nay, A Nỗ Lệ được tin khẩn quân Tùy đưa tới, đài phong hỏa phương bắc báo hiệu, đại đội kỵ binh Đột Quyết đã xâm lược, trong lòng A Nỗ Lệ hiểu rõ, lần này chắc chắn là quân chủ lực Đột Quyết đánh tới rồi.
Nàng lệnh cho đại tướng A Mộc Đồ dẫn mười ngàn quân cản phía sau, nàng tự mình dẫn mấy chục ngàn tộc người rút về hướng nam, lúc này, đội tiên phong của Hiệt Lợi Khả Hãn chỉ còn cách hồ Phục Khất không đến trăm dặm, chiến tranh hết sức căng thẳng.
Địa thế quận Mã Ấp thọc sâu, dài chừng ngàn dặm, hơn nữa địa hình nam bắc khác biệt rất lớn, phương bắc là thảo nguyên mcòn phần giữa là núi Võ Chu và núi Hột Thực thuộc mạch Thái Hành Sơn, chặn ngang quận Mã Ấp , núi non trùng điệp chạy theo hướng tây kéo dài đến sông Hoàng Hà, gần như hình thành một thế núi bao vây hoàn mỹ, về mặt địa lý nó ngăn cách Trung Nguyên và thảo nguyên.
Nhưng giữa vùng núi trùng điệp đó có vô số những con đường nối liền nam bắc, nơi hẹp thì không đến một dặm, nơi rộng thì hơn mười dặm, chính những con đường này đã trở thành đường tắt của dân du mục phương bắc tiến thẳng về phía nam.
Lúc này quân Tùy đã bố trí hơn hai mươi ngàn người ở biên giới phương bắc do tổng quản Đại Châu Lý Tĩnh thống soái. Lý Tĩnh đem hơn hai mươi ngàn người chia làm ba nhóm quân, phía tây khoảng năm ngàn người cố thủ vùng Từ Hà, vùng đó núi thấp, địa thế bằng phẳng, là con đường quân Đột Quyết thường đi về phương nam.
Một nhóm quân khác cũng là gồm năm ngàn người phòng ngự ở quận Nhạn Môn, chủ yếu là bảo vệ cho khe núi Quân Đô, canh phòng nghiêm ngặt quân Đột Quyết theo khe núi Quân Đô tiến vào Hà Bắc.
Lý Tĩnh đích thân dẫn mười ngàn quân đóng ở huyện Vân Nội. Huyện Vân Nội chính là Đại Đồng sau này, nằm trên một bồn địa rộng lớn, chủ yếu là đồi núi và đồng bằng, phía bắc có núi Võ Chu và núi Hột Thực là tấm bình phong tự nhiên cản gió lạnh phương bắc tràn xuống phía nam.
Vị trí địa lý độc đáo khiến cho huyện Vân Nội có khí hậu ẩm ướt, thảm thực vật rậm rạp, thổ nhưỡng phì nhiêu, có hơn mười nhánh sông ngang dọc khắp huyện. Đây là vùng nông nghiệp hiếm hoi ở miền trung quận Mã Ấp.
Cũng vì thế, mấy trăm năm trước, huyện Vân Nội đã từng là đô thành của Bắc Ngụy, đến nay còn lưu giữ nhiều tường thành cao lớn kiên cố, cung điện cổ lầu tinh xảo và vô số pho tượng phật trong chùa.
Dãy núi phía bắc huyện Vân Nội tuy chặn dòng khí lạnh xâm nhập nhưng giữa núi Võ Chu và núi Hột Thực lại có một con đường tự nhiên lớn rộng chừng hơn mười dặm khiến dãy núi phương bắc không thể ngăn cản được kỵ binh người Hồ xuống phía nam, núi Bạch Đăng nằm ở ngoài hai mươi dặm phía bắc huyện Vân Nội chính là nơi năm đó Hán Cao Tổ Lưu Bang bị đại quân Hung Nô bao vây.
Mười mấy năm trước, Tùy Đế Dương Quảng từng triệu tập hơn một trăm ngàn dân phu trùng tu Trường Thành, nhưng Trường Thành vẫn không ngăn được đại quân Đột Quyết xuống phía nam. năm đó ở vòng vây Nhạn Môn, hơn một trăm ngàn người của đại quân Đột Quyết từ các cửa ải Trường Thành tiến vào. Đột Quyết đã nắm vững chiến thuật tấn công thành đơn giản, Trường Thành liền dần dần mất đi tác dụng phòng ngự.
Ở đầu huyện thành Vân Nội , Lý Tĩnh đưa ánh mắt nặng nề hướng về phương bắc. Mặc dù Ô Đồ bộ đã ba lần phái người đến cầu cứu nhưng ông ta vẫn án binh bất động, trong tay ông ta chỉ có mười ngàn quân, căn bản không thể chống chọi lại tổng số một trăm ngàn kỵ binh trên thảo nguyên của Đột Quyết, chắc chắn toàn quân sẽ bị diệt.
Nếu quân đội của ông ta bị đánh tan thì sẽ không còn gì ngăn cản đại quân Đột Quyết nữa. Chúng sẽ thần tốc tiến quân, dân chúng quận Mã Ấp sẽ bị tai hoạ giáng xuống đầu. Lý Tĩnh xem xét thời thế, ông ta biết nhiệm vụ lúc này của mình là ngăn quân Đột Quyết xuôi về phía nam, bởi vì dân chúng quận Mã Ấp đang tranh thủ thời gian để rút lui về phương nam.
Lúc này, phó tướng Lý Hải Ngạn bên cạnh thấp giọng nói:
- Tổng quản, quân đội Đột Quyết có khi nào chỉ tiêu diệt Ô Đồ bộ, sau đó bọn họ liền rút về thảo nguyên không? Dù sao đang là mùa đông, bất cứ lúc nào tuyết cũng có thể rơi. Bọn họ thật sự sẽ xuôi về phía nam sao?
Lý Tĩnh lắc lắc đầu:
- Nếu chỉ vì tiêu diệt Ô Đồ bộ, chúng sẽ không xuất binh hơn hai trăm ngàn người. Ba mươi ngàn quân đội là đủ, hơn nữa chỉ có tiêu diệt một Ô Đồ bộ nhỏ, sẽ không thể thể hiện được sức mạnh quân đội của Hiệt Lợi Khả Hãn. Khi xưa quân Đột Quyết thảm bại ở Phong Châu nên mới bị chia rẽ trầm luân, bọn họ muốn phục hưng trở lại, nay muốn đánh bại quân Tùy, chí ít phải tiến vào Trung Nguyên đánh cướp một phen, uy danh của Hiệt Lợi Khả Hãn mới có thể khôi phục lại.
Lý Tĩnh vừa nói xong, xa xa liền xuất hiện vài tên kỵ binh vội vàng chạy tới, bụi đất bay cuồn cuộn, thám báo của quân Tùy đã trở lại, Lý Tĩnh vội vàng ra lệnh nói:
- Mau đưa bọn họ tới!
Một lát sau, mấy tên thám báo vào thành và được đưa lên lầu thành. Giáo Úy thủ lĩnh thám báo quì một gối bẩm báo:
- Khởi bẩm tổng quản, Ô Đồ bộ ở phía nam hồ Khất Phục bị quân tiên phong Đột Quyết đuổi kịp, chết cực kỳ thê thảm và nghiêm trọng, số người chạy thoát không đến mười ngàn, họ chạy về hướng vùng Tử Hà.
Tin tức này khiến Lý Tĩnh thất kinh, Ô Đồ bộ có hơn bốn mươi ngàn người, mà chạy thoát lại không được đến mười ngàn người. Chết thê thảm và nghiêm trọng vậy sao? Ông ta vội vàng hỏi:
- Quân đội Ô Đồ bộ đâu? Mười ngàn quân đội của họ đi đâu rồi?
Chương 925 : Đột Quyết mừng công
Thám báo Giáo Úy lắc đầu:
- Chỉ nghe nói đi lên phương bắc chống chọi với đại quân Đột Quyết, rồi không còn tin tức gì nữa, có lẽ toàn quân đã bị diệt rồi.
Lý Tĩnh khẽ thở dài, sự tình đã đến nước này, Ô Đồ bộ xem như chết hẳn rồi, Dương Nguyên Khánh muốn giống như năm đó bảo hộ cho Khải Dân bộ, nên đã bảo hộ cho Ô Đồ bộ.
Nhưng Đột Quyết đã rút ra bài học năm đó, tiêu diệt hoàn toàn Ô Đồ bộ, không để lại hậu hoạ về sau, quan trọng hơn là, đại quân Đột Quyết chiếm được súc vật của Ô Đồ bộ nên đã giải quyết xong vấn đề quân lương, thậm chí có thể ở lại hồ Khất Phục qua mùa đông.
Nghĩ vậy, Lý Tĩnh lại hỏi:
- Hiện tại đại quân Đột Quyết đâu? Đã tiến về phía nam rồi ư?
- Đột Quyết phân ra một đội quân chừng hai trăm ngàn người đi về phía Tử Hà truy kích nốt số dân Ô Đồ bộ, đại quân còn lại ở vùng cửa núi Võ Chu hạ trại, cách thành Võ Chu chừng ba mươi mấy dặm, Dư Tướng quân bảo ty chức đến xin chỉ thị tổng quản, có tiếp tục cố thủ thành Võ Chu nữa hay không?
Thành Võ Chu là một tòa quân bảo trấn giữ ở cửa ải lớn núi Võ Chu, chu vi khoảng sáu dặm, binh lính khoảng một ngàn người do thiên tướng Dư Thao thống soái, tác dụng của nó chủ yếu là phòng ngừa số ít quân Đột Quyết xâm lấn Vân Nội, nhưng muốn đối phó mấy trăm ngàn người của đại quân Đột Quyết thì hiển nhiên là chẳng có ý nghĩa gì.
Từ thảm bại Ô Đồ, Lý Tĩnh lập tức hiểu được chiến thuật của Đột Quyết. Đó là phân ra một bộ phận quân đội đối phó lực lượng ngăn cản, còn quân chủ lực tiếp tục xuôi nam, với Ô Đồ bộ như thế nào thì đối với quân Tùy cũng sẽ như vậy, chỉ dùng một phần nhỏ quân đội đối phó thành trì, sau đó đại quân tiếp tục xuôi nam, quân đội Đột Quyết tuyệt đối không thể tiếp tục ngày nối tiếp đêm tấn công thành Vân Nội được.
Nếu vậy, mình cố thủ thành Vân Nội quả thật cũng không có ý nghĩa gì, cũng không thể ngăn cản quân đội Đột Quyết xuôi nam, ngược lại sẽ bị Đột Quyết tiêu diệt trong thành. Nghĩ đến đây, trong đầu Lý Tĩnh bỗng nhiên lóe ra một kế can đảm, có lẽ ông ta có cách giữ chân đại quân Đột Quyết xuôi nam... Thảm bại của Ô Đồ bộ là do phán đoán sai lầm của bọn ông ta, bọn ông ta tưởng rằng quân đội của mình có thể ngăn cản một đợt đại quân Đột Quyết xuôi nam, và có đủ thời gian để rút lui về phía nam, bởi vậy bọn họ mang theo nhiều gia sản, kéo theo cả dê bò thong thả xuôi nam.
Nhưng không ngờ đã phái ra năm mươi ngàn người đi bao vây mười ngàn quân của A Mộc Đồ, chính ông ta cũng dẫn đại quân hai trăm ngàn người hăng hái đuổi theo, vậy mà rốt cuộc khi tới phía nam thảo nguyên cách hồ Khất Phục khoảng tám mươi dặm đã đuổi kịp Ô Đồ bộ.
Trải qua hai canh giờ đánh giết cướp bóc, gần hai mươi ngàn thanh niên trai tráng và người già đã bị giết, phụ nữ và tài sản bị cướp, máu tươi nhuộm đỏ cả thảo nguyên, chỉ có đội quân của A Nỗ Lệ và một số tộc người nhỏ đi ở phía trước trốn thoát.
Mặc dù như thế, Hiệt Lợi Khả Hãn vẫn phải nhổ cỏ tận gốc, ông ta phái Vạn phu trưởng Hagi dẫn hai mươi ngàn kỵ quân Đột Quyết tinh nhuệ đuổi theo giết số người Ô Đồ còn sót lại.
Đêm đã rất khuya, đại quân Đột Quyết không lập tức xuôi nam, bọn chúng muốn thu gom và hưởng thụ chiến lợi phẩm. Bọn chúng liền tới bờ bắc Thanh Hà cách núi Võ Chu khoảng hơn ba mươi dặm hạ trại.
Từng đống lửa trại ở trong đại doanh Đột Quyết đã châm lên, trên đống lửa là những con dê bò nướng thơm phức, hàng triệu con dê bò và lượng lớn lương thực cướp được từ Ô Đồ bộ trở thành quân lương tiếp tế tuyệt vời cho đại quân Đột Quyết, khiến bọn chúng không phải lo lắng lương thảo không đủ.
Binh lính Đột Quyết vây quanh lửa trại, nhiệt tình uống rượu, nói cười hô hố, miệng nhồm nhoàm nhai thịt nướng, nhiều phụ nữ Ô Đồ bộ bị bắt bị ép khiêu vũ trước lửa trại, không ít tên lính Đột Quyết uống say cười dâm đãng nhào tới, đè ngửa một trong số các phụ nữ đó xuống đất, khiến cho đám binh lính xung quanh cười to.
Trong vương trướng Đột Quyết cũng náo nhiệt lạ thường, những chiếc bàn nhỏ được xếp thành một vòng. Sau mỗi cái bàn được kê một tấm da dê dày mềm mại, trên bàn bầy toàn rượu sữa ngựa, quả khô và một mâm thịt dê nướng chín, Đột Quyết Đại Khả Hãn trẻ tuổi Đốt Bật ngồi giữa lều lớn, hai bên là mười mấy tù trưởng bộ lạc cùng với các tướng lĩnh cao cấp.
Ở giữa đại trướng, năm mươi thiếu nữ Ô Đồ bộ trẻ trung mĩ miều chia làm hai đội đánh đàn và nhảy múa trong tiếng trống và tiếng đàn bên cạnh đống lửa.
Đại tù trưởng Hồi Hột bộ Bùi Tát nâng chén hướng về phía Hiệt Lợi Khả Hãn cười sang sảng, nói:
- Hôm nay Đại Khả Hãn hoàn toàn tiêu diệt Ô Đồ bộ, đã lập nên công lao sự nghiệp lớn. Khắp nơi trên thảo nguyên chắc chắn sẽ truyền xướng công lao vĩ đại của Khả Hãn, các bộ Thiết Lặc nguyện quy thuận Đột Quyết. Ta thay mặt Hồi Hột bộ lấy rượu ngon cung kính Khả Hãn. Chúc Khả Hãn sớm thống nhất thảo nguyên.
Hồi Hột không phải là một bộ lạc Thiết Lặc mà là tên liên minh của vài bộ lạc Thiết Lặc bao gồm bốn bộ lạc lớn Vi Hột, Phó Cốt, Cùng La và Rút Dã Cổ. Bọn họ là liên minh thành lập vào nguyên niên Đại Nghiệp phản kháng Đột Quyết , gọi chung là Hồi Hột.
Lần này Đột Quyết xuất binh đánh phía nam, ngoại trừ một trăm bảy mươi ngàn đại quân Đột Quyết, còn có bốn mươi ngàn quân Hồi Hột và các bộ Tiết Diên Đà trong đó bốn mươi ngàn quân Hồi Hột là do bốn bộ lạc Vi Hột, Phó Cốt, Cùng La và Rút Dã Cổ, mỗi bộ lạc xuất mười ngàn binh do đại tù trưởng Bùi Tát thống nhất cầm đầu.
Đốt Bật cười nhạt một tiếng, anh ta hiểu được ý nghĩa trong lời khen của tù trưởng Hồi Hột. Chính là muốn anh ta hồi binh trở về phương bắc, không cần tiến công triều Tùy nữa, trong lòng anh ta cười lạnh một tiếng, nhưng khuôn mặt lại vẫn ung dung, anh ta khẽ khom người nói:
- Cảm tạ đại tù trưởng quá khen, chỉ có điều rượu dù có thơm ngon nhưng làm sao so được với men say chiến thắng, bầy sói xuất chinh, chỉ bắt được vài con dê gầy đâu có thể ăn no nê? Các dũng sĩ nam chinh chưa thể dừng bước, chúng ta sẽ tiếp tục xuôi nam, tìm kiếm con mồi béo bở hơn.
Nói xong, anh ta giơ chén rượu lên, uống một hơi cạn sạch, trong đại trướng lập tức vang lên những tiếng bàn luận xôn xao, đại tù trưởng Hồi Hột Bùi Tát có chút mất hứng ngồi xuống, không nói được một lời.
Năm trước ở trận chiến Phong Châu, liên minh Hồi Hột của bọn họ đã chết trận ba mươi ngàn người, vậy mà đến nay Đột Quyết cũng không tỏ bất kỳ thái độ gì.
Tuy rằng Hiệt Lợi Khả Hãn đồng ý bồi thường cho bọn họ nhưng bồi thường thế nào? Khi nào bồi thường thì lại không hề thấy nhắc đến nữa, hôm nay chiếm được nhiều tài sản của Ô Đồ bộ như vậy, chẳng lẽ không có phần của Hồi Hột sao?
Thực ra Bùi Tát cũng không phản đối tiến công triều Tùy, nhưng ông ta muốn trước khi chiến đấu phải thương lượng cách phân chia chiến lợi phẩm. Ông ta và Cùng La bộ, Phó Cốt bộ đều đã thương lượng rồi, nếu Hiệt Lợi Khả Hãn trước đó không đưa ra phương án phân chia, bọn họ sẽ không đi theo xuống phía nam.
Các mỹ nữ khiêu vũ đã lui xuống, trong đại trướng không khí trở nên trùng xuống đôi chút, không có người nói chuyện, ai nấy đều uống rượu và suy tư, Hiệt Lợi Khả Hãn hiểu được tâm tư của bọn họ, ông ta chắc chắn phải thể hiện thái độ rồi.
Ông ta nâng chén rượu lên đứng lên nói:
- Phương án phân chia đương nhiên là có, ta sớm đã suy xét kĩ, ta nói với mọi người thế này! Bất kể là lần này tiêu diệt Ô Đồ bộ, hay về sau cướp được người và tài sản của triều Tùy, sau khi bồi hoàn toàn bộ những thứ tiêu hao cho quân đội, số người và tài sản còn lại được chia làm ba phần, phần thứ nhất chiếm một phần năm, căn cứ theo số lượng xuất binh của các bộ để phân chia, phần thứ hai tương đối quan trọng, chiếm một phần ba, căn cứ theo công lao của các bộ phận để phân chia, phần thứ ba còn lại là phân cho các tướng sĩ hy sinh của các bộ cũng là một phần năm, mọi người thấy thế nào?
Trong đại trướng vẫn là một bầu không khí hoàn toàn yên tĩnh, lúc này Bùi Tát mới nói:
- Phần thứ nhất và thứ ba ta không có ý kiến gì nhưng phần thứ hai có chút không hiểu. Quân công cao thấp là do ai quyết định? Là do Khả Hãn quyết định hay là mọi người cùng ngồi lại thương lượng với nhau?
Hiệt Lợi Khả Hãn hiểu được ý tứ của ông ta. Đáng lẽ phải là do Khả Hãn quyết định nhưng ý của ông ta chính là muốn mọi người cùng thảo luận công lao của các quân binh rồi.
Nhưng Hiệt Lợi Khả Hãn lại không muốn dùng cách thương lượng công lao quân binh. Như vậy chẳng khác nào tước đoạt quyền lực tối cao của Khả Hãn Đột Quyết là ông ta và đi ngược lại với ước nguyệnan đầu của ông ta trong lần xuất binh đánh xuống phía nam này.
Hiệt Lợi Khả Hãn liếc nhìn Khả Hãn Di Nam của Tiết Diên Đà bộ, ngụ ý để ông ta bày tỏ thái độ...
Sau khi Tiết Diên Đà bộ thảm bại ở thành Đại Lợi Phong Châu vào năm đầu Đại Nghiệp, thực lực đã giảm mạnh nên phải phục theo Đột Quyết Khải Dân Khả Hãn và được xếp đặt ở phương bắc dưới nha trướng của Đột Quyết, có một vùng thảo nguyên lớn cỏ nuôi súc vật tốt tươi.
Trải qua mười mấy năm phát triển, nhân khẩu nhanh chóng sản sinh đông đúc, Tiết Diên Đà liên tiếp thâu tóm rất nhiều bộ lạc nhỏ, lại dần dần lớn mạnh lên, y có được gần ba trăm ngàn bộ hạ, binh lực một trăm ngàn người.
Chương 926 : Trận mở màn của Lý Tĩnh
Trong trận chiến Phong Châu năm ngoái, Tiết Diên Đà bộ đã nhận được một bài học sâu sắc, ngay từ đầu bọn họ đãthấy hoài nghi không ổn, Khả Hãn Di Nam lấy cớ phải chống đỡ Ô Đồ bộ xâm lấn nên chỉ phái ra mấy ngàn người tham gia.
Kết quả là trận chiến Phong Châu, Tiết Diên Đà bộ tổn thất ít nhất, còn khi Ô Đồ xuất quân tiến vào nha trướng của Đột Quyết thì bọn họ lại né tránh ra xa. Sau mấy lần trốn tránh cái hại, hướng theo cái lợi, Tiết Diên Đà bộ đã trở thành thế lực lớn thứ hai trên thảo nguyên sau Đột Quyết.
Lần này Đột Quyết xuôi nam tạo lập uy danh, lệnh cưỡng chế buộc Tiết Diên Đà xuất binh, Tiết Diên Đà bộ rốt cuộc tránh né không được, Di Nam Khả Hãn đành tự mình dẫn bốn mươi ngàn đại quân cùng Đột Quyết xuất chinh.
Di Nam Khả Hãn cũng là con trai cả của đại tù trưởng Tiết Diên Đà Ất Thất Bát năm xưa. Ôngg ta phản đối phụ thân tiến công triều Tùy, cuối cùng phụ thân ông ta ta bị người Khế Bật giết chết, Di Nam khi đó đang tuổi thành niên liền được số quý tộc Tiết Diên Đà còn lại lập làm tân tù trưởng.
Mười mấy năm trôi qua, Di Nam cũng đã tuổi gần năm mươi, râu tóc bạc trắng, trên thảo nguyên tuổi thọ trung bình chỉ có ba mươi mấy tuổi nên ông ta đã được coi là thọ rồi.
Di Nam hiểu được ý của Hiệt Lợi Khả Hãn, ông ta đứng lên cười ha hả nói:
- Theo truyền thống, chiến lợi phẩm đương nhiên là do Đại Khả Hãn quyết định phân chia. Lần này hẳn là cũng không ngoại lệ, ta tin tưởng Đại Khả Hãn nhất định sẽ phân chia công bằng.
Ông ta vừa dứt lời, Bùi Tát liền cười lạnh một tiếng nói:
- Thiên hạ nếu có hai chữ “công bằng” thì đã không có Tiết Diên Đà hôm nay rồi.
Quan hệ giữa Hồi Hột và Tiết Diên Đà vẫn rất căng thẳng. Bắt đầu từ năm đầu Đại Nghiệp, Đột Quyết sắp xếp Tiết Diên Đà. Mảnh đất sắp xếp cho Tiết Diên Đà vốn là của Hồi Hột, bị Đột Quyết cưỡng ép sắp xếp cho Tiết Diên Đà.
Lại thêm việc Đột Quyết đặc biệt bất công với Tiết Diên Đà, phong Di Nam làm Khả Hãn, trong khi Bùi Tát của Hồi Hột chỉ làm đại tù trưởng, cho nên hôm nay Tiết Diên Đà thay Đột Quyết lên tiếng, Hồi Hột làm sao lại phải giữ sĩ diện cho y chứ.
Di Nam không nghĩ đối phương lại có thể châm chọc mình như vậy, lập tức nổi giận nói với Bùi Tát:
- Ngươi nói vậy là có ý gì, ngươi nói rõ xem!
Bùi Tát đứng phắt lên, tay cầm chặt chuôi đao, hung tợn trừng mắt với đối phương nói:
- Với loại chó như ngươi thì có lời gì để nói!
Không chỉ có Di Nam nổi giận, bên cạnh ông ta bốn gã vạn phu trưởng của Tiết Diên Đà đều giận tím mặt, cùng rút đao ra chỉ về hướng Bùi Tát. Mấy tên Hồi Hột vạn phu trưởng cũng không yếu thế, đồng loạt rút đao ra.
Trong trướng vải của Đột Quyết Vương giương cung bạt kiếm, không khí cực kỳ căng thẳng, Hiệt Lợi Khả Hãn không ngờ tới sẽ xảy ra cảnh tượng như vậy, trong lòng căm tức vô cùng nhưng ông ta vẫn phải kiềm chế. Liền lạnh lùng ra lệnh nói:
- Thu đao hết lại cho ta!
Thấy sắc mặt của Đột Quyết Đại Khả Hãn, hai bên đều thu hồi đao, nhưng Bùi Tát chưa nguôi cơn giận trong lòng. Ông ta hừ mạnh một tiếng, xoay người liền đi ra ngoài lều lớn, mấy tên vạn phu trưởng Hồi Hột Vạn cũng theo ông ta đi ra.
Trong đại trướng lặng ngắt như tờ. Sắc mặt Hiệt Lợi Khả Hãn u ám, nhìn chằm chằm theo bóng lưng Bùi Tát, trong mắt sát khí phừng phừng nhưng ông ta lại nhanh chóng kiềm chế được. Bây giờ chưa phải lúc xử ly Hồi Hột... Trong khi Đột Quyết hạ trại mừng công thì một đoàn kỵ binh tám ngàn người tức tốc phóng đi về hướng tây trong bóng đêm dưới ánh trăng ảm đạm.
Phương bắc là dãy núi Võ Chu tối mịt mù, cao lớn đồ sộ. Dưới ánh trăng sao bàng bạc chiếu xuống, núi dốc cao như chạm tới trời xanh, hiểm ác dị thường.
Lý Tĩnh mím chặt môi, ánh mắt tỏ vẻ nghiêm trọng, gió đêm buốt giá vù vù bên tai, ông ta không ngừng vung roi quật chiến mã, phóng ngựa chạy gấp.
Thời gian của ông ta rất khẩn trương, nhất định phải tới Tử Hà trước rạng sáng ngày mai. Đây là một bước cờ hiểm, nếu thành công thì có thể chặn được đại quân Đột Quyết ít nhất năm ngày trở lên. Trong thời gian năm ngày quan trọng này có thể đảm bảo cho dân chúng quận Mã Ấp rút lui về phía nam, chủ lực quân Tùy cũng có thể kịp thời chinh Bắc.
Nhưng nếu thất bại, ông ta sẽ phải chịu trách nhiệm vì không chặn được quân giặc. Ánh mắt Lý Tĩnh bỗng trở lên nghiêm trọng, ông ta cảm giác áp lực trên vai mình vô cùng lớn... Trải qua một ngày một đêm tức tốc, khi trời tờ mờ sáng, tám ngàn kỵ binh quân Tùy đã tới Tử Hà. Tử Hà khởi nguồn từ vùng núi non trùng điệp của quận Mã Ấp chảy về hướng Bắc ra phía sau Trường Thành, giống như cánh quân Tùy cong thành hình vòng cung, lượn cong xuống phía dưới bên trái rồi lại uy phong lẫm liệt duỗi thẳng ra.
Ánh sáng màu lam nhạt lóe lên, nước sông màu tím nhạt chảy qua núi non trùng điệp, rồi lại chảy qua thảo nguyên nuôi cỏ cây súc vật tốt tươi, cuối cùng chảy thẳng vào sông Hoàng Hà.
Hạ du Tử Hà vốn là con đường chủ yếu của dân tộc du mục phương bắc tiến vào Trung Nguyên. Cho dù lần này Đột Quyết vì tiêu diệt Ô Đồ bộ, gần như có thể khẳng định bọn họ sẽ theo hồ Khất Phục xuôi về phương nam, nhưng để chắc chắn đạt được mục đích Lý Tĩnh vẫn cẩn trọng sắp xếp năm ngàn quân phòng ngự khu vực con đường dọc sông Hoàng Hà ở hạ du Tử Hà.
Sự thật đã chứng minh, sự cẩn thận của ông ta hoàn toàn chính xác. Ai có thể ngờ những người dân Ô Đồ bộ cuối cùng lại chạy trốn về hướng Tử Hà và kéo theo hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết truy kích, lưu vực Tử Hà cũng xuất hiện quân Đột Quyết.
Trời đã sáng rõ, quân Tùy đã tiến vào thung lũng Tử Hà. Đây là một vùng lòng chảo rộng chừng một dặm, dài hơn hai mươi dặm, trên thực tế đó là một khe núi do nước sông bào mòn hàng ngàn hàng vạn năm mà thành.
Hai bên là vách núi đá dựng đứng, trên vách đá mọc dày đặc các loại thực vật và dây leo. Mặc dù đã là mùa đông nhưng những cành dây leo khô vàng vẫn che kín vách đá, dù cho hôm nay mặt trời chiếu ấm áp, ánh nắng vẫn không chiếu vào khe núi khiến ánh sáng trong khe núi yếu ớt, có phần u ám ảm đạm. Nước sông đã đóng băng từ lâu, nhìn trông như gương vậy, gió lạnh gào thét xuyên qua khe núi, phát ra tiếng vang thật lớn và quái dị khiến người đi ở trên mặt băng có một cảm giác ma quái, dường như đây là cửa chính đi vào âm ti địa phủ vậy.
Tám ngàn quân kỵ binh Tùy yên lặng đi qua khe núi hẹp dài, âm thanh chiến mã bước đi trên mặt băng thỉnh thoảng hù dọa không ít sinh vật có cánh không tên, chúng thét lên những tiếng kêu chói tai vang lên đỉnh núi cao đến vài chục trượng, những tiếng kêu sắc bén khiến người ta sởn tóc gáy.
Lúc này, hơn mười người của đội tuần tra trinh sát đi ngược đường tới, ở giữa bọn họ là một gã đạo sĩ mặc áo màu lam, tóc búi cẩu thả, đầu đội chiếc nón nan cũ nát, đạo sĩ tuổi chừng ngoài ba mươi, dưới sự đi kèm của binh lính Tùy hai bên, vẻ mặt ông ta có chút bất an.
- Lý tổng quản!
Binh lính tuần tra rốt cuộc đã tìm được Lý Tĩnh, chạy ra đón chào, Lý Tĩnh cũng nhìn thấy tên đạo sĩ ở giữa bọn họ, chỉ roi ngựa hỏi:
- Vị đạo sĩ này là thế nào?
- Khởi bẩm tổng quản, người này là một người hái thuốc tìm được ở một khe núi đá, ông ta có tin tức của Ô Đồ bộ.
Lý Tĩnh mừng rỡ, liền vội vàng hỏi:
- Ngươi là đạo sĩ nơi nào, có chuyện gì muốn nói với ta?
Đạo sĩ liền vội vàng khom người hành lễ nói:
- Bần đạo là đạo sĩ của Huyền Thanh quan, quan đạo ở cách đây khoảng năm mươi dặm về phía nam. Bần đạo hái thuốc ở vùng này đã nhiều năm nay, canh năm tối qua, bần đạo đang ngủ trong khe núi bỗng bị tiếng vó ngựa làm bừng tỉnh, bần đạo ngó ra thăm dò thì thấy chừng năm sáu ngàn người đi xuyên qua khe núi, bọn họ cầm theo đuốc, phần lớn là phụ nữ và trẻ em, cũng có mấy trăm thanh niên trai tráng, nhìn ra thì thấy đó là người Đột Quyết, rất nhiều đàn ông bị thương, bọn họ khóc sướt mướt, hình như là một đoàn đưa ma.
Dừng lại một chút, đạo sĩ lại nói:
- Thủ lĩnh của bọn họ hình như là nữ nhân, ăn mặc rất lộng lẫy, được mấy chục thị vệ bảo hộ, cũng không ngừng lau nước mắt.
Lý Tĩnh gật gật đầu, có lẽ đúng là những người sống sót cuối cùng của Ô Đồ bộ, A Nỗ Lệ cũng trong số đó. Bọn họ đi về hướng nam, vậy là lỡ mất cơ hội gặp mình. Nhưng suy nghĩ một chút, Lý Tĩnh lập tức liền hiểu ra, thám báo nói Ô Đồ bộ còn gần mười ngàn người, nhưng đạo sĩ chỉ nhìn thấy năm sáu ngàn người. Đại đa số là phụ nữ và trẻ em, mấy trăm người đàn ông đều bị thương.
Điều này chứng tỏ Ô Đồ bộ đã chia làm hai đường, một đường hẳn là binh lính, có trách nhiệm dụ truy binh Đột Quyết để yểm hộ cho A Nỗ Lệ, phụ nữ và trẻ em chạy trốn theo khe núi. Lý Tĩnh nhanh chóng tính toán một lúc, đạo sĩ nhìn thấy bọn họ lúc canh năm, như vậy truy binh Đột Quyết hẳn là đã truy đuổi qua cửa khe núi và đi về phía tây.
Lý Tĩnh lập tức thấy lo lắng. Năm ngàn quân Tùy đóng quân tại lô cốt Tử Hà cách nơi này không xa lắm, chỉ có hơn một trăm dặm, bọn họ rất có thể sẽ gặp phải hai mươi ngàn truy binh Đột Quyết. Nghĩ vậy, Lý Tĩnh trong lòng lo lắng, lại hỏi:
- Từ đây đến cửa bắc khe núi còn xa lắm không?
- Không xa, khoảng bảy tám dặm là có thể đi ra ngoài khe núi. Các ngài có thể đi dọc theo Tử Hà, sau khi ra khỏi khu đồi núi thì đều là thảo nguyên, có lẽ người mà các ngài muốn tìm cũng đi theo phía tây của con sông.
- Đa tạ!
Chương 927 : Đợi quân vào hũ
Lý Tĩnh lập tức nói:
- Thưởng cho ông ta mười lượng bạc và thả ông ta đi.
Bọn lính thả tên đạo sĩ, một gã thân binh đưa cho đạo sĩ một thỏi bạc, đạo sĩ cảm tạ và bước thẳng đi. Lúc này, Lý Tĩnh hạ lệnh:
- Truyền mệnh lệnh của ta, đội ngũ tăng tốc hành quân!
Đội kỵ binh quân Tùy lập tức tăng tốc, nhanh chóng đi về hướng cửa bắc của khe núi... Một lát sau liền đã đi được bảy tám dặm đường. Không lâu sau, đội quân đã ra khỏi khe núi. Hai bên là khu đồi thấp, cây cối um tùm. Đây là rừng tùng đen rậm rạp, còn chưa có đường đi về hướng tây, kỵ binh quân Tùy đành phải đi dọc theo lòng sông nhanh chóng tiến quân về hướng tây bắc.
Ước chừng đi được hai mươi mấy dặm, đồi núi càng ngày càng thấp, rất nhanh liền đã đi tới chỗ uốn lượn của Tử Hà, tầm mắt rộng mở, phương xa không có đồi núi mà là thảo nguyên mênh mông vô bờ. Chính ở chỗ này, Tử Hà uốn mình chuyển hướng chảy về phía tây nam.
Phía sau bọn họ là dãy núi Võ Chu sừng sững, dưới ánh mặt trời chiếu rọi, thế núi cao lớn hùng tráng vô cùng. Khe núi bọn họ vừa đi ra đã trở thành một dải đen nhỏ, không còn nhìn thấy rõ nữa.
- Lý tổng quản!
Một gã thám báo chạy vội báo lại:
- Các thám báo phát hiện có rất nhiều dấu vó ngựa, có mấy chục ngàn kỵ binh đi qua, đã đi dọc theo bờ bắc lòng sông đi về phía tây, ước chừng hơn một canh giờ trước.
Lý Tĩnh nhẩm tính một lát. Lô cốt Tử Hà cách nơi này chừng trăm dặm. Nếu phi ngựa nhanh hơn, ước chừng nửa ngày là đuổi kịp nhưng bọn họ hành quân đã một ngày một đêm, người ngựa đã mệt mỏi lắm rồi. Như thế này mà đuổi theo thì không được, có thể cho thám báo đi trước thám thính tình hình.
Đương nhiên, Lý Tĩnh không phải vì nghĩ cách cứu viện mấy ngàn binh lính cuối cùng của Ô Đồ bộ. Mục đích của ông ta là muốn tiêu diệt này hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết tách đàn này. Nếu hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết bị tiêu diệt hoàn toàn sẽ khiến đại quân Đột Quyết không dám dễ dàng xuôi về phía nam nữa.
Lý Tĩnh lập tức hạ lệnh:
- Truyền mệnh lệnh của ta, toàn quân xuống ngựa nghỉ ngơi...
Dọc theo Tử Hà về hướng tây hơn trăm dặm, thế núi dần kết thúc. Đi tiếp về hướng tây hơn hai trăm dặm thì không còn bóng dáng núi đồi nữa. Hoàng Hà bắt đầu chảy xuyên xuống, tạo thành một cửa ải chiến lược vô cùng quan trọng.
Xuyên qua cửa ải này xuống phía nam đều là vùng đất bằng phẳng, tạo thành một mối uy hiếp thật lớn với Trung Nguyên. Năm Đại Nghiệp thứ ba, Dương Quảng hạ lệnh động viên gần triệu dân phu năm quận Lâu Phiền, Mã Ấp, Nhạn Môn, Định Tương, Du Lâm xây dựng và cải tạo Trường Thành.
Phía tây đoạn Trường Thành này bắt đầu từ Du Lâm, phía đông là đoạn núi cuối cùng của Tử Hà, dài hơn hai trăm dặm, cửa ải chiến lược được dùng để ngăn cản chỗ này. Mà mặt đông của đoạn Trường Thành này nương tựa vào đoạn cuối của thế núi, chính là Tử Hà Bảo (1).
(1) Bảo: những thành trấn có tường đất bao quanh.
Chính xác thì Tử Hà Bảo là một tòa thành quân sự. Mới đầu, chu vi của tòa thành này không đến ba dặm, có sông Tử Hà chảy xuyên qua, để lại trên tường thành một cái thủy động hình bán nguyệt.
Sau khi Dương Nguyên Khánh tiêu diệt Lưu Vũ Chu liền hạ lệnh xây dựng và gia cố thêm, cho nên hiện tại, tòa thành quân sự này cao hơn trước, chu vi cũng lên tới tám dặm, trở thành một cái thành trì nhỏ cỡ huyện thành. Lượng quân trú đóng duy trì là hai ngàn người.
Lần này Lý Tĩnh đảm nhiệm Tổng quản Đại Châu, suy xét đến việc quân Đột Quyết sắp tổ chức xuôi nam quy mô lớn, y hạ lệnh tăng cường quân số của Tử Hà Bảo lên đến năm ngàn người. Năm ngàn quân đóng ở Từ Hà Bảo đảm nhiệm phòng ngự toàn bộ vùng tây bộ của quận Mã Ấp.
Tướng trấn thủ Từ Hà Bảo tên là Tiết Thiều, là cháu trai của Đại tướng triều Tùy Tiết Thế Hùng, cũng là em họ của huynh đệ Tiết thị, đảm nhiệm chức vụ Á Tướng, phụng lệnh Lý Tĩnh trấn thủ Tử Hà Bảo.
Sáng sớm hôm nay, ánh mặt trời rực rỡ vừa mới chiếu xuống Tử Hà Bảo, một đội trinh sát tuần tra đã mang về tin tức, một bộ phận kỵ binh tàn dư của bộ lạc Ô Đồ đang tiến về phía Tử Hà Bảo.
Tin tức này khiến cho toàn bộ quân trấn thủ Tử Hà Bảo đều tăng cường phòng bị. Bọn họ đều chạy lên đầu thành, tay cầm trường mâu và nỏ quân, ánh mắt có chút khẩn trương nhìn về hướng đông bắc.
Ánh mắt của chủ tướng Tiết Thiều cũng chăm chú như đám binh lính. Y biết gần đây đã phát sinh chuyện gì. Trước khi y đến Tử Hà Bảo, Tổng quản Lý Tĩnh đã nói cho y biết, sắp tới sẽ bùng nổ một trận đại chiến, có lẽ người Đột Quyết sẽ giống như châu chấu trên thảo nguyên, che trời phủ đất, tiến về Tử Hà Bảo.
Mặc dù chỉ là có lẽ, nhưng Tiết Thiều biết Lý Tĩnh tăng thêm ba ngàn quân cho Tử Hà Bảo là có dụng ý gì, không phải là không có khả năng xảy ra. Hiện tại người Ô Đồ đại bại trốn tới đây, vậy phía sau bọn họ là cái gì? Một đám người Đột Quyết nhàn nhã tản bộ sao?
Rất nhanh, từ phương xa truyền đế tiếng vó ngựa như sấm rền. Một đám người Đột Quyết, đội hình tán loạn xuất hiện, ước chừng có khoảng hai ba ngàn người, tay cầm một cái cờ màu trắng hình đầu sói, đó là cờ xí của bộ lạc Ô Đồ.
Lính đào ngũ ngày càng đến gần Tử Hà Bảo. Vẻ mặt bọn họ hoảng sợ như chó nhà có tang, quần áo xộc xệch, chiến mã sùi bọt mép, đã như tên hết đà, sắp không duy trì nổi nữa rồi.
Ở phía sau bọn họ vài dặm xuất hiện một vùng xám xịt, đó là kỵ binh Đột Quyết, đông nghìn nghịt, thế như che trời phủ đất, vó ngựa dẫm khắp thảo nguyên. Cả vùng đất bắt đầu xuất hiện chấn động, quân thủ thành hoảng sợ biến sắc, tiếng kèn trên đầu thành không ngừng vang lên.
Mắt thấy binh lính bộ lạc Ô Đồ ngày một tới gần, chỉ còn cách Tử Hà Bảo không đến trăm bước. Bọn họ liều mạng vẫy tay, khẩn cầu quân thủ thành cho bọn họ vào trong thành. Một gã Lang tướng vội vã chạy đi, khẩn trương đến chỗ Tiết Thiều xin chỉ thị:
- Tiết Tướng quân, làm sao bây giờ, phải mở cửa sao?
Trong lòng Tiết Thiều vô cùng khó xử. Mặc dù y biết bộ lạc Ô Đồ và triều Tùy có quan hệ khá tốt, bọn họ đến là để dựa vào triều Tùy. Nhưng y không biết ở bên kia hồ Khất Phục đã xảy ra chuyện gì? Nếu đây là kế dụ binh của người Đột Quyết thì phải làm sao? Mang cờ xí của bộ lạc Ô Đồ, nhưng thật ra lại là người Đột Quyết giả trang.
Đôi mắt của Tiết Thiều nhìn chằm chằm vào mấy ngàn bại binh, lúc này, y bỗng nhiên nhận ra tướng lĩnh cầm đầu trong số đó, đúng là Đại tướng A Mộc Đồ của bộ lạc Ô Đồ. Tháng trước y cùng đi với tù trưởng A Nỗ Lệ đến bái kiến Lý Tĩnh mới đến đảm nhiệm chức vụ Tổng quản. Lúc ấy Tiết Thiều cũng có mặt. Lúc này, sắc mặt của A Mộc Đồ trắng bệch, sau lưng cắm hai mũi tên, có thể thấy là sắp không chịu nổi nữa rồi.
- Nhanh mở cổng cho bọn họ vào!
Tiết Thiều vội vàng ra lệnh.
Cổng thành của Tử Hà Bảo chậm rãi mở ra, mấy ngàn bại binh của bộ lạc Ô Đồ dùng chút sức lực cuối cùng vọt vào bên trong thành. Cửa thành lại chậm rãi đóng lại, cầu treo được kéo lên. Năm ngàn quân thủ thành giương cung lắp tên, bày ra trận địa sẵn sang nghênh địch, chăm chú nhìn đại quân Đột Quyết ở nơi xa đang nhanh chóng đánh tới.
Vài tên lính mặc khôi giáo quân Tùy mang theo một cái cáng bước nhanh lên đầu thành. Trên cáng cứu thương là A Mộc Đồ đang nằm hấp hối. Y vài lần trốn thoát đại nạn, nhưng khi sắp đến Tử Hà Bảo thì bị trúng tên của quân địch.
Tiết Thiều vội vàng chạy lên trước, ngồi xổm xuống cầm tay của y:
- A Mộc Đồ Tướng quân, đã xảy ra chuyện gì?
Vẻ mặt A Mộc Đồ hiện ra nụ cười sầu thảm, sắc mặt trằng bệch lộ ra vẻ mặt vô cùng thống khổ:
- Bộ lạc Ô Đồ xong rồi. Hai mươi mấy vạn đại quân Đột Quyết đuổi theo chúng ta, nam nhân bị giết, nữ nhân bị cướp đi. Thê tử của ta và nữ nhi cũng bị bọn chúng bắt đi rồi.
- Tù trưởng A Nỗ Lệ đâu?
- Nàng mang theo … mấy ngàn phụ nữ và trẻ em theo cốc đạo u ám trốn đi rồi. Chúng ta… dẫn dụ truy binh của Đột Quyết rời đi.
A Mộc Đồ cố sức nói.
Tiết Thiều biết thung lũng u ám trong lời của y chính là lòng chảo sông Tử Hà. Y cầm lấy tay của A Mộc Đồ:
- Ngươi sẽ không chết, cũng không thể chết. Sở Vương Điện hạ muốn gặp ngươi. Ngươi cứ an tâm ở lại Tử Hà Bảo dưỡng thương.
Y đứng lên ra lệnh:
- Lệnh cho quân y điều trị cho y thật tốt!
Mấy tên lính Tùy lại nhấc cáng lên, đưa xuống phía dưới. Lúc này, khu vực này lại tiếp tục rung động, dường như đang xảy ra động đất vậy. Hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết gào thét đánh tới, chạy đến khoảng cách ngoài mười bước thì giương cung bắn tên. Một trận mưa tên che trời phủ đất bắn về phía đầu thành. Hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết không mang vũ khí công thành, đối mặt với tường thành chắc chắn và cao ngất này, ngoại trừ việc bắn tên lên đầu thành để trút bỏ sự tức giận ra thì bọn chúng cũng không có biện pháp nào khác.
Sau khi giằng co hơn một canh giờ, Vạn phu trưởng Đột Quyết là Cáp Cát thấy không có biện pháp nào có thể xoay chuyển tình hình, đành phải hạ lệnh rút quân về chủ doanh bên hồ Khất Phục. Hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết giống như thủy triều, nhanh chóng rời đi.
Nhưng ngay khi kỵ binh Đột Quyết vừa mới rút lui, vài tên thám báo quân Tùy lại cưỡi ngựa từ trong cánh rừng ở mặt đông chạy tới, bọn họ chạy đến gần thành, giọng thành kính hô to:
- Tiết Tướng quân ở đâu?
Chương 928 : Quỷ cốc Tử Hà (1)
Có tên lính chạy tới bẩm báo với Tiết Thiều, y vội vàng đi lên đầu thành hỏi:
- Các ngươi từ đâu tới?
- Chúng ta phụng lệnh Lý Tổng quản. Lý Tổng quản có quân lệnh giao cho Tiết Tướng quân.
Tiết Thiều nghe thấy chúng là người do Lý Tĩnh phái tới, vội vàng sai người mở cổng thành cho bọn họ vào. Một lát sau, một tên lính dẫn tên thám báo lúc nãy lên thành. Thám báo lấy ra một phong thư, quỳ một gối trình lên:
- Đây là thủ lệnh của Lý Tổng quản, mời Tướng quân tiếp nhận!
Tiết Thiều mở thủ lệnh ra đọc một lần, ánh mắt lập tức lộ ra vẻ kinh ngạc, sau đó trở nên hưng phấn. Y cất thủ lệnh đi, sau đó quay đầu lại lớn tiếng quát:
- Lệnh cho toàn quân xếp thành hàng, chuẩn bị xuất kích.
Lộ trình từ Tử Hà Bảo đến sơn khẩu Võ Chu ước chừng khoảnh hai trăm sáu mươi dặm. Kỵ binh Đột Quyết cũng phải trải qua một ngày một đêm chạy gấp mới đuổi đến Tử Hà Bảo, nhưng khi trở về, tốc độ của bọn chúng chậm đi rất nhiều, chủ yếu là do chiến mã mỏi mệt, hơn nữa bọn chúng cũng không còn áp lực của nhiệm vụ.
Thống lĩnh hai mươi ngàn quân Đột Quyết này là Vạn phu trưởng tên là Cáp Cát, đã hai mươi mấy tuổi, làn da ngăm đen thô ráp khiến cho vẻ ngoài của y giống với một người đã ba mươi tuổi. Y cao sáu thước, nặng hơn hai trăm cân, cường tráng như một con gấu chó bình thường. Y là dũng sĩ nổi danh của Đột Quyết, có thể dùng tay không đấu với hổ báo. Mặc dù tứ chi của y phát triển, nhưng đầu óc cũng không hề đơn giản, thậm chí còn rất cẩn thận.
Y suất quân truy kích đến cuối cùng, dần dần bắt kịp bộ lạc Ô Đồ, lại phát hiện đúng là là thiếu người. Rõ ràng là có hơn chục ngàn người chạy trốn, cuối cùng thế nào mà chỉ còn có hai ba ngàn người, hơn nữa toàn bộ đều là binh sĩ cường tráng. A Nỗ Lệ ở đâu? Phụ nữ và trẻ nhỏ ở chỗ nào?
Trong lòng y hiểu được, nhất định là mình đã trúng kế dụ binh của địch. A Nỗ Lệ và hơn ngàn phụ nữ, trẻ nhỏ chạy được nửa đường đã chuyển sang một con đường khác chạy thoát rồi. Chỉ có điều là bọn họ trốn bằng một con đường khác từ chỗ nào? Y nghĩ đi nghĩ lại đến cả trăm lần mà vẫn không có đáp án. Đối với địa hình của khu vực này, Cáp Cát cũng chưa quen thuộc lắm.
Nhưng lúc này y cũng rất lo lắng là trở về phải trình báo thế nào? Khả Hãn lệnh cho y dẫn hai mươi ngàn kỵ binh đuổi giết A Nỗ Lệ chạy trốn, cần phải chém tận diệt tuyệt bộ lạc Ô Đồ, tránh để lại hậu hoạn, không ngờ là y đến một người cũng không đuổi kịp, thậm chí còn không bắt được dù là một đứa trẻ.
Nếu như tay không trở về, không nói đến vấn đề bị nhạo báng, mà mấu chốt là y làm thế nào mà báo cáo với Khả Hãn? Chẳng lẽ nói hai mươi ngàn kỵ binh lại không chạy nhanh bằng mấy ngàn phụ nữ và trẻ con sao?
Trong lòng Cáp Cát vô cùng âu lo. Lúc này, một gã Thiên phu trưởng lớn tuổi tiến lên phía trước nói:
- Tướng quân, có thể Công chúa A Nỗ Lễ dẫn theo đám người chạy trốn vào hang u ám rồi.
- Thung lũng U Ám?
Cáp Cát sửng sốt:
- Nó ở chỗ nào?
- Chính là lòng chảo của sông Tử Hà xuyên qua núi lớn. người triều Tùy gọi nó là Tử Hà Cốc, cách chúng ta sáu mươi dặm về phía trước. Ta từng theo Khả Hãn Khải Dân đi qua, xuyên qua thung lũng chính phúc địa triều Tùy, có không ít thôn trang.
Trong lòng Cáp Cát vừa động, vội vang hỏi:
- Có thể lách qua Tử Hà Bảo sao?
- Đương nhiên có thể!
Trong lòng Cáp Cát nóng lên. Mấy ngàn bại binh của bộ lạc Ô Đồ bị bọn họ truy kích, sau khi tiến vào Tử Hà Bảo tất nhiên là sẽ dừng lại một lúc, sau khi nghỉ ngơi một chút sẽ tiếp tục xuôi nam hội họp với A Nỗ Lệ.
Nói không chừng A Nỗ Lệ thống lĩnh phụ nữ và trẻ em còn có thể dừng lại giữa đường đợi bọn chúng. Mình đi trước một bước, giết xuống phía nam, cho dù là không bắt được A Nỗ Lễ những cũng có thể ngăn cản mấy ngàn binh lính bộ lạc Ô Đồ, giết hết bọn chúng, mình cũng có thể dùng đầu người mà báo cáo với Khả Hãn rồi.
Nghĩ vậy, Cáp Cát lập tức ra lệnh cho Thiên phu trưởng:
- Do ngươi dẫn đường, đại quân lập tức xuyên qua thung lũng đến phía nam.
Cáp Cát ra lệnh một tiếng, hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết gia tăng tốc độ, dọc theo sông Tử Hà, chạy về hướng thung lũng.
Buổi chiều, hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết đã chạy đến chỗ chuyển biến của thung lũng. Bọn họ nhằm hướng nam, men theo chỗ sâu nhất trong đồi núi mà đi, rất nhanh liền phát hiện thấy chút manh mối. Trên bùn đất có dấu vó ngựa dày đặc, biểu hiện rằng có một đội người ngựa rất lớn từng đi qua đây, còn phát hiện một vài miếng da dê rơi rớt.
Cáp Cát càng thêm hưng phấn, thống lĩnh hai mươi ngàn kỵ binh nhằm chỗ sâu nhất trong thung lũng mà chạy đi, rất nhanh đã tiến nhập vào Sơn cốc U Ám trong truyền thuyết của người Đột Quyết.
Ngay sau khi đại quân Đột Quyết tiến vào trong sơn cốc khoảng nửa canh giờ, Tiết Thiều thống lĩnh bốn ngàn kỵ binh quân Tùy đã đuổi đến cửa sơn cốc. Lúc này đã có hơn hai chục thám báo quân Tùy đứng chờ ở cửa sơn cốc, bọn họ là người của Lý Tĩnh, đứng ở đây để tiếp ứng cho đại quân.
Một gã Giáo úy giục ngựa tiến đến thi lễ nói:
- Khởi bẩm Tiết Tướng quân, không ngoài dự liệu của Lý Tổng quản, đại quân Đột Quyết đã tiến vào thung lũng, đã vào được nửa canh giờ.
Tiết Thiều gật gật đầu, quay đầu ra lệnh:
- Một nửa quân lên núi, một nửa còn lại theo ta vào trong.
Quân Tùy chia quân làm hai đường, một đường theo Tiết Thiều vào trong thung lũng, còn một đường khác thì khiêng hơn ngàn thùng dầu hỏa lên núi, dọc theo khe núi bên cạnh nhằm hướng đỉnh núi tiến đến.
Thung lũng kéo dài khoảng chừng ba mươi dặm. Bởi vì nước sông đóng thành băng cho nên đường trong sơn cốc có thể nói là khá bằng phẳng, chỉ cần một lúc là có thể ra khỏi sơn cốc. Hai mươi ngàn quân Đột Quyết xếp thành hàng di chuyển trong sơn cốc, kéo dài đến vài dặm. Bên trong thung lũng vô cùng u ám, trên đỉnh đầu là một dải trời hẹp. Sau khi ra khỏi sơn cốc ước chừng mười dặm, binh lính ở tiền phương bỗng nhiên lớn tiếng quát lên, một mảnh ồn ào xuất hiện.
- Đã xảy ra chuyện gì?
Cáp Cát giục ngựa tiến lên phía trước hỏi.
- Tướng quân, đường đi phía trước bị tảng băng lớn chắn hết rồi. Chúng ta không thể đi tiếp được!
Cáp Cát sửng sốt, giục ngựa chạy về phía trước. Đúng là ở lối đi hẹp phía trước bị hơn chục khối đá lớn chặn lại, mỗi khối đá đều nặng đến mấy ngàn, thậm chí là hơn chục ngàn cân, cao chừng một trượng, khiến cho con đường bị bịt kín một cách chặt chẽ. Người thì có thể nghĩ cách để leo qua, nhưng chiến mã thì chắc chắn không thể qua được.
Trong lòng Cáp Cát bỗng dâng lên một cảm giác cực kỳ xấu, y như ý thức được cái gì đó, lập tức ra lệnh:
- Nhanh chóng lùi về, mau quay lại!
Y vừa dứt lời, ở trên đỉnh đầu bỗng nhiên truyền đến hàng loạt tiếng nổ ầm ầm. Bọn họ ngẩng đầu lên xem, chỉ thấy bốn phía dày đặc đá tảng đang rơi xuống, rơi thẳng xuống đỉnh đầu của bọn họ!
Trong binh thư thường viết một câu rất đơn giản là “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Những lời này tuy nói ra rất đơn giản nhưng lại bao hàm một đạo lý vô cùng sâu sắc.
Chính là muốn nói phải tự biết mình, biết sức lực của mình, không nên đi trêu chọc cường địch. Nhưng có rất nhiều người lại thường không tự biết mình, hoặc là vì muốn giữ chút thể diện, hoặc là do thói quen cho phép mà gây ra.
Tự biết mình đã khó, biết người lại càng khó. Biết người cũng phải có trình tự, biết đối phương có bao nhiêu quân lương, bao nhiêu binh lực, trang bị như thế nào. Nhưng những điều này cũng chỉ là hiểu biết sơ cấp, rất sơ sài, chỉ cần phái ra thám báo là có thể biết được.
Mà hiểu về bối cảnh chủ tướng của đối phương, kinh nghiệm từng trải qua, thói quen tác chiến, thích đánh lén hay thích cướp lương, đây chính là hiểu biết trung cấp. Làm được điều này cần có thời gian, cần phái nhân viên tình báo đi trước điều tra, có chút khó khăn.
Mà hiểu rõ về hoàn cảnh của đối phương, hiểu được tâm tư của đối phương, căn cứ vào tình cảnh và tâm tư để phán đoán ra quyết sách mà đối phương định áp dụng, đây chính là hiểu biết cao cấp. Đương nhiên, loại hiểu biết này mang tính phiêu lưu rất lớn, cần phải là người có tài năng, tính quyết đoán mới có thể có được, tuy phiêu lưu nhưng tiền lời thu được cũng rất cao.
Lần tập kích này của Lý Tĩnh, không thể nghi ngờ chính là biết người biết ta ở mức độ cao cấp. Y biết thực lực của mình, chỉ dẫn theo có tám ngàn kỵ binh, cộng thêm quân của Tử Hà Bảo là mười ba ngàn người, mà đối phương lại có đến hai mươi ngàn người. Tuy rằng áo giáp của quân Tùy mạnh hơn bì giáp của đối phương, nhưng so kỹ thuật cưỡi ngựa thì lại kém đối phương một bậc. Kỹ năng sử dụng cung tiễn, trường mâu của hai bên cũng không khác biệt lắm.
Hơn nữa đối phương đến từ thảo nguyên ở bờ bắc sông Tử Hà, không có chỗ để ẩn thân mai phục, không có tường thành để cố thủ, không thể lợi dụng địa hình hoặc bờ sông, chỉ có thể hỗn chiến với đối phương. Cho dù là trận pháp của quân Tùy tiên tiến, cuối cùng cũng có thể lấy yếu thắng mạnh, đánh bại đối phương.
Nhưng giết địch ba ngàn, tự tổn tám trăm. Muốn chiến thắng, quân Tùy cũng phải trả giá ít nhất là bốn năm ngàn mạng sống của binh lính. Thế nên, ngay từ lúc bắt đầu, Lý Tĩnh đã không có ý định hỗn chiến với quân địch.
Dưới tình huống biết mình, y lại bắt được một nhược điểm lớn nhất của đối phương. Người Đột Quyết truy kích bộ lạc Ô Đồ thất bại, chủ tướng của bọn họ trở về không thể báo cáo kết quả của hành động.
Chương 928 : Quỷ cốc Tử Hà (2)
Dưới tình huống như vậy, tất nhiên là chủ tướng sẽ nghĩ biện pháp, tìm kiếm cơ hội chiến đấu. Cứ như vậy, y sẽ phát hiện ra phụ nữ và trẻ em của bộ lạc Ô Đồ bí mật trốn vào trong Tử Hà Cốc. Vậy thì y sẽ không nghĩ ngợi gì, chắc chắn là sẽ xuyên qua Tử Hà Cốc, tiến xuống phía nam chặn đám chiến sĩ của bộ lạc Ô Đồ rút lui.
Không thể nghi ngờ là Lý Tĩnh đã mạo hiểm đặt xuống một số tiền cược khá lớn. Bởi vì trong Tử Hà Cốc ẩn chứa một cơ hội, y đánh cuộc là chủ tướng của đối phương sẽ nắm lấy cơ hội này. Vì thế, Lý Tĩnh liền dứt khoát hạ lệnh, bày ra thiên la địa võng ở Tử Hà Cốc, chờ cho quân Đột Quyết chui vào rọ.
Trên đỉnh đầu, vô số đá tảng rơi xuống, khí thế như muốn che trời phủ đất khiến cho đội hình của quân Đột Quyết trở nên rối loạn. Binh lính bị đá rơi trúng lập tức lâm vào cảnh đầu rơi máu chảy, chiến mã điên cuồng hí vang, không ngừng ngã lăn trên mặt đất. Tiếng kêu thảm thiết liên tiếp vang lên, binh lính vội vàng giơ tấm chắn phòng ngự lên, một số thì chạy vội sang hai bên vách núi dựng đứng, nép người vào đó mà tránh trận mưa đá.
Vốn là trên đỉnh núi cũng không có nhiều đá tảng như vậy. Chỉ dựa vào đá tảng thì không có cách nào tiêu diệt được hai mươi ngàn quân Đột Quyết. Nhưng tâm lý trúng mai phục, lọt vào ổ phục kích của quân Tùy khiến cho sĩ khí của quân Đột Quyết giảm mạnh, đội hình vô cùng rối loạn.
Hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết quay đầu ngựa lại, vội vàng chạy trốn về phía bắc. Đây là bản năng của con người, trong thời khắc nguy nan, con người luôn có bản năng chạy trốn về nhà của mình.
Nhưng con đường hẹp trong sơn cốc không cho phép một lượng lớn người ngựa như vậy chạy nhanh. Khủng hoảng và bản năng cầu sống khiến cho kỵ binh Đột Quyết tranh nhau nhằm phía bắc mà chạy trối chết. Bọn họ dẫm lên nhau, dẫm lên thân thể đồng bạn và chiến mã. Tiếng kêu la, khóc lóc vang lên thảm thiết, vọng khắp thung lũng.
Chủ tướng Cáp Cát đầu tàu gương mẫu, dẫn theo hơn mười ngàn kỵ binh Đột Quyết hướng miệng cốc ở phía bắc mà chạy trốn. Khi còn cách cửa cốc vài dặm, y bỗng nhiên hoảng sợ ghìm chặt dây cương. Y phát hiện phía trên mặt đất tối như mực phủ đầy vệt mỡ, trong không khí có một mùi hắc hắc khó chịu.
Phát hiện này khiến cho y hồn bay phách lạc, mãnh liệt thúc giục chiến mã nhằm cửa cốc chạy trối chết. Đúng lúc này, trên đỉnh đầu y bỗng xuất hiện mười mấy quả cầu lửa khổng lồ, lao thẳng xuống đám đông người ngựa.
Bọn lính hoảng sợ vạn phần, kêu gào ầm ỹ, liều mạng tránh né hỏa cầu đang lao xuống. Nhưng hỏa cầu chỉ là cái chìa khóa mở ra cánh cửa xuống Địa ngục. Chỉ một thoáng sau, trong thung lũng bùng lên một ngọn lửa vô cùng lớn.
Ngọn lửa mãnh liệt nuốt sống binh lính Đột Quyết. Tiếng kêu rên vang dội khắp thung lũng. Trên đỉnh đầu lại có vô số thùng dầu hỏa được ném xuống. Dầu mỏ đen thui chảy khắp nơi, nơi nào có dầu hỏa, nơi đó có ngọn lửa bốc lên, giống hệt như Hỏa Ma lè lưỡi hút đi sinh mạng, khói độc gay mũi ngày càng đặc hơn, tràn ngập khắp sơn cốc.
Chủ tướng Cáp Cát dẫn theo hơn hai ngàn quân liều chết chạy về hướng cửa cốc. Con đường trong sơn cốc càng ngày càng rộng, chiều rộng đã tới trăm bước, vậy là sắp đến cửa cốc rồi. Bọn họ đã có thể nhìn thấy ánh sáng của cửa cốc từ nơi xa, cảm nhận được làn gió mát lạnh.
Nhưng đúng vào lúc này, một tiếng mõ vang lên, một trận mưa tên dày đặc như bão táp phong ba phóng tới. Cáp Cát không có phòng bị, chỉ một thoáng thôi, y lập tức trở thành con nhím, bị vô số loạn tiễn bắn trúng, cũng không kịp kêu lên một tiếng, cả người và ngựa cứ thế đổ rạp xuống đất.
Phía trước có mưa tên của quân Tùy, sau lưng là liệt hỏa ngập trời, khói độc tràn ngập. Hơn hai ngàn kỵ binh Đột Quyết không có lựa chọn, chỉ có thể giơ tấm chắn lên, liều mạng lao về phía miệng cốc.
Từng đám từng đám kỵ binh Đột Quyết chết thảm dưới mưa tên, nhưng dục vọng cầu sinh mãnh liệt vẫn khiến cho mấy trăm kỵ binh thành công lao ra khỏi cửa cốc, chạy thục mạng về phía thảo nguyên ở phương xa.
Hơn một canh giờ sau, thế lửa dần dần bị nước sông dập tắt, khói đặc cũng dần tản ra, toàn hộ Tử Hà Cốc gần như trở thành Tu La Địa Ngục. Hơn hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết, ngoài trừ hơn bốn trăm người thành công thoát ra ngoài, tránh được một hồi đại nạn, số kỵ binh còn lại gần như chết thảm trong Tử Hà Cốc.
Đá tảng rơi trúng, dẫm đạp lên nhau, bị ngọn lửa mãnh liệt đốt cháy, bị khói độc thiêu đốt, bị mưa tên bao phủ. Các loại thủ đoạn tàn khốc ở trên còn chưa đủ, quân Tùy còn cho binh lính tiến vào trong cốc, tay cầm đao sắc, tìm kiếm binh lính Đột Quyết còn chưa chết, toàn bộ một đao giết chết, không để lại hậu hoạn.
Từ đó về sau, Tử Hà Cốc bị dân bản xứ gọi là “Quỷ cốc”. Ban đêm, gió thổi qua Quỷ Cốc tạo ra tiếng huýt gió sắc nhọn, phảng phất như tiếng oan hồn kêu đau. Mãi cho đến tận vài năm sau vẫn không có người nào dám đi qua Tử Hà Cốc vào ban đêm.
Sáng sớm ngày hôm sau, Khả Hãn Hiệt Lợi suất lĩnh hai trăm ngàn đại quân hoàn toàn chiếm đóng huyện Vân Nội thì nhận được tin tức hai mươi ngàn quân Đột Quyết bị tiêu diệt hoàn toàn ở Tử Hà Cốc. Tin này làm cho y vô cùng khiếp sợ, cũng khiến cho y ý thức được quân Tùy bắt đầu phản kích. Bởi vì không nắm được nhân số của quân Tùy cho nên y không dám khinh thường, hạ lệnh cho đại quân đình chỉ việc xuôi nam, trú đóng ở huyện Vân Nội, nơi mà quân dân triều Tùy đã sớm rút lui toàn bộ.
Ba ngày sau, vào trung tuần tháng mười một, Dương Nguyên Khánh suất lĩnh tám mươi ngàn quân chủ lực của triều Tùy đã tới quận trị của quận Mã Ấp là huyện Thiện Dương. Lúc này, huyện Thiện Dương đã trở thành đại bản doanh đối kháng với Đột Quyết ở phía bắc. Vì trước đó đã có sự chuẩn bị nên hiện tại bên trong thành đã tích trữ một lượng lớn vật tư quân sự, lương thực, cỏ khô, quân giới, dầu hỏa, lều trại, trống trận, nỏ sang, máy bắn đá, phích lịch pháo… Cùng với hơn một ngàn loại vũ khí phòng ngự hạng nặng.
Mà mấy chục ngàn dân cư của huyện Thiện Dương cũng đã được đưa di tản toàn bộ, bên trong thành chỉ còn khoảng mười ngàn dân phu chiêu mộ từ khắp nơi phụ trách khuân vác vật tư. Quân nha chỉ huy của Dương Nguyên Khánh chính là quận nha của quận Mã Ấp. Sau khi cung điện của Lưu Vũ Chu xây dựng bị dỡ bỏ, quận nha này chính là công sở lớn nhất bên trong thành.
Buổi sáng hôm nay, phía ngoài thành Thiện Dương có một đội kỵ binh chạy như bay tới, Đại tướng cầm đầu chính là Tổng quản Đại Châu Lý Tĩnh. Quân đội của y đã rút về phía nam, lúc này y được lệnh của Dương Nguyên Khánh đến thành Thiện Dương báo cáo công việc.
Kỵ binh chạy như bay đến dưới chân thành, một gã kỵ binh tiến lên hô to:
- Lý Tổng quản phụng lệnh Sở Vương Điện hạ tới báo cáo công việc. Trên thành mau mở cửa!
Quan quân thủ thành lập tức nhận ra Lý Tĩnh, lập tức ra lệnh mở cổng thành. Đội kỵ binh thúc giục chiến mã, hướng phía trong thành chạy đi.
Công đường nghị sự của quận nha, Dương Nguyên Khánh một thân một mình đứng trước sa bàn thật lớn trầm tư suy nghĩ về chiến dịch lần này. Hắn có kinh nghiệm rất phong phú về việc tác chiến với Đột Quyết. Hắn biết người Đột Quyết đánh trận rất đơn giản, không giống với việc tiến công Lý Đường thì cần phải phân tích các loại tình báo chiến thuật, cũng không cần phải tranh đoạt thành trì, chỉ cần lựa chọn một thời cơ thích hợp, phát động một cuộc đại chiến là có thể quyết định việc thắng bại của hai bên.
Nhưng cho dù là phát động một cuộc đại chiến cũng cần phải chú ý đến nhiều chuyện. Và chiến dịch đối kháng quân Đột Quyết vẫn cần phải suy xét các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Thiên thời chính là thời tiết. Lúc này đã là trung tuần tháng mười một, sắp đến ngày đông chí, thời tiết lạnh nhất trong năm, khả năng là tuyết rơi càng lúc càng lớn. Một khi tuyết rơi chính là một đả kích chí mạng vào khí thế của người Đột Quyết.
Địa lợi chính là địa hình tác chiến. Trên thảo nguyên bằng phẳng, người Đột Quyết nắm giữ ưu thế. Nhưng tiến vào địa hình phức tạp, vùng phúc địa gập gềnh không bằng phẳng của Trung Nguyên, ưu thế của kỵ binh Đột Quyết sẽ giảm dần. Mà lợi dụng địa hình để tác chiến cũng chính là việc mà quận đội Trung Nguyên am hiểu nhất.
Mà nhân hòa lại có thể giải thích là sĩ khí. Khả Hãn Hiệt Lợi vừa mới đăng cơ, lực khống chế nội bộ của y còn chưa đủ mạnh, nếu quân Đột Quyết thế như chẻ tre, thuận buồm xuôi gió mà nói thì mâu thuẫn bên trong sẽ không biểu hiện ra ngoài. Nhưng nếu như quân Đột Quyết gặp phải đả kích, hoặc mất nhiều hơn được, vậy thì các loại mâu thuẫn sẽ xuất hiện, thậm chí có thể dẫn tới việc phân liệt bên trong nội bộ Đột Quyết.
Phần lớn suy xét của Dương Nguyên Khánh là từ đại cục mà tiến hành. Lúc trước hắn không muốn tác chiến với Đột Quyết, vì để khống chế Đột Quyết xâm nhập phía nam, hắn không tiếc suy xét, lợi dụng Đông Đột Quyết đến kiềm chế. Nhưng làm như vậy cũng là một sự phiêu lưu khá lớn. Rất có thể Tây Đột Quyết sẽ trở nên mạnh mẽ, cứng rắn đông tiến, trở thành mối uy hiếp mới của Trung Nguyên.
Mà hiện tại Đột Quyết đã xâm nhập phía nam, vậy thì sẽ mua một tặng một, dẫn dụ Tây Đột Quyết tiến sâu vào, khiến cho lương thảo tiếp tế trở nên khó khăn. Nếu trận chiến này có thể làm suy yếu thực lực của Đột Quyết, vậy thì chắc chắn thảo nguyên sẽ bị phân liệt, thậm chí có thể sẽ bùng nổ nội chiến.
Khi đó hắn không cần tới Đông Đột Quyết cũng có thể tiêu trừ uy hiếp từ thảo nguyên. Chờ sau khi hắn thống nhất thiên hạ, tiếp tục tiêu diệt hoàn toàn Đột Quyết.
Đang suy nghĩ thì có thân binh vào bẩm báo:
- Điện hạ, Lý Tổng quản đã đến.
Chương 929 : Tai họa ngầm bộc phát (1)
Dương Nguyên Khánh mừng rỡ, vậy là Lý Tĩnh đã đến, hắn vội vàng ra lệnh:
- Nhanh, đưa y vào đây!
Một lát sau, Lý Tĩnh bước nhanh trên bậc thang, tiến vào phòng nghị sự. Y tiến lên thi lễ thật sâu:
- Ty chức tham kiến Điện hạ!
Dương Nguyên Khánh đã nhận được báo cáo Lý Tĩnh tiêu diệt hai mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết. Thắng lợi đúng lúc của trận này đã kéo gót sắt xuôi nam của Đột Quyết lại, để cho dân chúng có đủ thời gian rút lui, cũng để cho quân Tùy ngược bắc chiếm giữ huyện Thiện Dương, nắm được mấu chốt thời cơ chiến đấu.
Có thể nói, trận này là một cú đánh vào khớp xương mấu chốt của chiến dịch. Đương nhiên, trong lòng Dương Nguyên Khánh cũng hiểu được, Lý Tĩnh quyết định đánh trận này cũng có chút hơi mạo hiểm.
- Lý Tổng quản vất vả rồi!
Dương Nguyên Khánh không hề keo kiệt, hết lòng khen ngợi:
- Trận chiến ở Tử Hà Cốc là một trận mấu chốt để xoay chuyển toàn bộ cuộc chiến, bảo vệ huyện Thiện Dương, làm cho quân Tùy giành được thế chủ động. Cuộc chiến với Đột Quyết lần này, công lao của ngươi xếp thứ nhất.
Trong lòng Lý Tĩnh cảm động, vội vàng khiêm tốn nói:
- Trận này ty chức giành được thắng lợi cũng nhờ may mắn, cũng là nhờ vào một ý niệm của tướng địch, đúng là rất mạo hiểm, không đáng để ca ngợi. Ty chức không dám nhận sự khen thưởng của Điện hạ.
Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu:
- Có chuyện ngươi cần phải hiểu, đánh thế nào là do ngươi toàn quyền quyết định, ta sẽ không hỏi đến. Ta chỉ cần biết kết quả cuối cùng thế nào. Thắng thì được khen thưởng, nếu bại, ngươi cũng phải nhận sự trừng phạt. Cho nên, ta hi vọng lần sau khi ngươi đưa ra quyết sách gì, trước tiên cần phải suy nghĩ thật kỹ về hậu quả và trách nhiệm một cách kỹ càng.
Lý Tĩnh yên lặng gật đầu, y hiểu được ý tứ của Dương Nguyên Khánh, cũng không phải là hoàn toàn khen ngợi y, đồng thời cũng mang theo một tia cảnh cáo. Quân Đột Quyết xuôi nam quy mô rất lớn, việc quan trọng nhất mà y cần làm là bảo vệ huyện Thiện Dương chứ không phải mạo hiểm đi Tử Hà Bảo.
- Ty chức đã hiểu. Lần sau ty chức sẽ suy xét cẩn thận trước khi đưa ra quyết sách, nhất định sẽ lấy đại cục làm trọng.
Dương Nguyên Khánh thấy y đã hiểu được ý của mình, liền không nhắc đến chuyện này nữa, chuyển sang đề tài khác:
- Về lần chiến đấu với quân Đột Quyết này, ta muốn biết suy nghĩ của ngươi.
Trong điện Võ Đức thành Trường An, hoạn quan và cung nữ đều nơm nớp lo sợ, từ xa cũng có thể nghe thấy tiếng rống đầy giận dữ của Hoàng đế Đại Đường Lý Uyên:
- Đây là đứa con của trẫm, đây là Thái tử Đại Đường sao?
Trong ngự thư phòng, Bùi Tịch không ngừng khuyên bảo Lý Uyên:
- Bệ hạ bớt giận. Xin Bệ hạ bớt giận, chuyện này còn chưa thể kết luận!
- Ngươi nói trẫm bớt giận như thế nào? Thái tử như vậy, trẫm sao có thể đem giang sơn này giao cho y?
Lý Uyên tức sùi bọt mép, nắm tay không ngừng đập xuống mặt bàn. Bùi Tịch bí mật nói cho y biết một sự kiện, gần như khiến cho y tức điên lên rồi. Nguyên nhân gây ra chuyện này chính là do cha của Doãn Đức Phi là Doãn Quý Bình nghĩ cách mưu đoạt một khối ruộng tốt ở Thành Đô.
Mà chủ nhân của đám ruộng tốt này à hơn trăm hộ nông dân, dù thế nào bọn họ cũng nhất định không chịu bán. Sau đó Doãn Quý Bình mới nhờ Thái tử Lý Kiến Thành tạo áp lực với Thái thú quận Thục là Cao Biểu Nhân, cuối cùng sử dụng quyền lực của quan phủ, dùng một cái giá vô cùng thấp chiếm đoạt khối ruộng tốt này.
Kết quả là hơn trăm hộ nông dân cùng kéo vào kinh đưa cáo trạng, kinh động đến Lý Thế Dân. Dưới chủ ý của y, Đường Phong nhanh chóng tra ra chân tướng sự việc. Sau đó Lý Thế Dân liền bày mưu tính kế để Bùi Tịch đem việc này vào cung tố cáo với phụ hoàng.
Lý Uyên bị chọc giận. Y vô cùng coi trọng việc thôn tính đất đai. Y biết chỉ cần xuất hiện việc thôn tính đất đai cũng đồng nghĩa với dấu hiệu mất nước. Cho nên, Lý Uyên thà đem lượng lớn đất đai vô chủ ban cho đám công thần quý tộc cũng tuyệt đối không cho phép phát sinh việc thôn tính đất đai.
Bất kỳ một vương triều nào, ở thời kỳ mới lập quốc, chính trị đều rất trong sạch, thanh danh trong dân chúng đều tốt lắm. Đấy là do tiền triều diệt vong khiến cho một lượng lớn lợi ích của các giai cấp bị mất hết, nhân khẩu thưa thớt mà tài nguyên phong phú, cho nên mới giai cấp cao tầng quyền quý mới thu được một lượng lớn lợi ích. Nhưng bởi vì tài nguyên nhiều nên dân chúng vẫn kiếm được một chén canh, bọn họ còn có thể chấp nhận sự bóc lột của đám quyền quý.
Nhưng theo thời gian, tài nguyên ngày càng ít đi mà khẩu vị của giai cấp quyền quý cũng không có thu nhỏ lại, ngược lại càng lúc càng lớn, cũng là lúc xuất hiện lòng tham không đáy. Nhân dân không thể sống nổi sẽ bùng nổ việc tạo phản, sẽ xuất hiện việc thay đổi triều đại. Các triều đại trước đều vì lý do này mà diệt vong. Về điểm này trong lòng Lý Uyên hiểu rõ. Cho nên y quyết không cho phép xuất hiện việc thôn tính đất đai.
Quan trọng hơn là, Doãn Quý Bình lại thông qua Thái tử tạo áp lực để chiếm đoạt khối đất đai này, điều này chứng tỏ mối quan hệ giữa Doãn Quý Bình và Thái tử không hề tầm thường. Vậy thì quan hệ giữa Doãn Đức Phi và Thái tử là thế nào? Lửa giận từ việc thôn tính đất đai kết hợp với việc Thái tử bị nghi kỵ khiến cho Lý Uyên cuối cùng cũng không thể kiềm chế được lửa giận, hoàn toàn bạo phát ra ngoài.
Tuy rằng ngoài miệng thì Bùi Tịch ra sức khuyên bảo Lý Uyên bớt giận nhưng thực ra trong lòng y lại đang mừng thầm. Trong trí nhớ của y, chưa bao giờ nhìn thấy Lý Uyên nổi giận như thế, rất có thể là Lý Uyên muốn phế Thái tử rồi.
Trong lòng y vạn phần đắc ý, nhưng lại giả vờ giả vịt nói:
- Bệ hạ, tốt nhất cần hỏi lại Thái tử, rốt cuộc chuyện này là thế nào? Tránh trường hợp Thái tử bị oan uổng.
- Trẫm cũng đang muốn hỏi nó xem nó định ăn nói thế nào.
Lồng ngực Lý Uyên vì tức giận mà liên tục phập phồng. Y cố gắng kiềm chế nỗi tức giận ngút trời, quát lên:
- Truyền ý chỉ của trẫm, lệnh cho Thái tử lập tức tới gặp trẫm.
Trong điện Hiển Đức ở Đông cung, Thái tử Lý Kiến Thành đang sửa sang lại bức danh thư do đủ loại quan lại kí tên phản đối việc khai chiến. Tần Vương Lý Thế Dân cực lực khuyên phụ hoàng thừa dịp Đột Quyết xuất binh tấn công Tùy để công chiếm sáu quận ở Quan Bắc, cũng đoạt lại quận Hội Ninh.
Mà Lý Kiến Thành lại cương quyết phản đối hành động ném đá xuống giếng này, việc này không chỉ đẩy Đại Đường vào con đường bất nghĩa, hơn nữa sẽ phải đối mặt với hành động trả thù kịch liệt của triều Tùy, cuối cùng sẽ làm tổn thương nghiêm trọng đến lợi ích của triều Đường. Vì ngăn cản phụ hoàng bị Tần Vương thuyết phục, Lý Kiến Thành còn lợi dụng quyền uy của mình, động viên tất cả quan viên ngũ phẩm trở lên cùng chống lại việc khai chiến.
Lý Kiến Thành biết đây là sát chiêu sắc bén nhất. Lần tranh chấp trước về việc tấn công Tiêu Tiển, y đã động viên mười mấy vị trọng thần phản đối tập thể, khiến cho phụ hoàng cuối cùng phải từ bỏ ý niệm xuất binh trong đầu. Còn lần này, y muốn tạo ra áp lực lớn hơn nữa để áp chế dục vọng khai chiến của phụ hoàng.
Lý Kiến Thành là người nhân hậu, suy xét vấn đề tương đối cụ thể, những gì đã làm đều là suy xét vấn đề lợi ích của triều Đường. Y không hề ý thức được mình làm như vậy sẽ khiến cho phụ hoàng cảm thấy quyền lực của y quá lớn mà trở nên nghi kỵ.
Mặc dù Lý Kiến Thành không ý thức được việc này, nhưng những đại thần tâm phúc bên cạnh y lại ý thức được. Một trong số những tâm phúc của Lý Kiến Thành là Trung doãn Vương Khuê, y nghe nói Thái tử muốn động viên quan viên ngũ phẩm trở nên phản đối tập thể việc khai chiến với triều Tùy, điều này khiến cho y sầu lo.
Lúc này, Vương Khuê đang ở trong phòng với Lý Kiến Thành, cực khổ khuyên bảo Lý Kiến Thành:
- Điện hạ làm như vậy, mặc dù sẽ rất hữu hiệu, có thể bức Thánh thượng hủy bỏ việc khai chiến. Nhưng Điện hạ có nghĩ tới điều này sẽ khiến cho Thánh thượng cảm thấy thế nào không? Việc có thể vận động tám phần mười quan viên ngũ phẩm trở lên phản đối sẽ khiến cho Thánh thượng cảm thấy bị Điện hạ uy hiếp. Điện hạ, sở dĩ Thánh thượng để cho Tần Vương tham gia chính sự, đồng ý cho y xây dựng phủ Thiên Sách, tự bổ nhiệm quan viên chỉ sợ là có liên quan đến việc Điện hạ có quyền uy rất lớn trong triều. Ý vua khó lường, Điện hạ phải có chút kiêng kị mới được!
Lý Kiến Thành rơi vào trầm tư, có lẽ người trong cuộc thường mê muội, chưa bao giờ y ý thức được tính nghiêm trọng của việc này. Y vẫn sử dụng việc phát động đủ loại quan lại phản đối làm đòn sát thủ cuối cùng, hai năm quả đúng là đã sử dụng rất thuần thục, chưa hề nghĩ tới sẽ làm phụ hoàng tức giận, khiến cho phụ hoàng nghi kỵ.
Lý Kiến Thành cũng không phải là người ngu xuẩn, cũng không cố chấp. Ngược lại, y là một người cực kỳ thông minh, cực kỳ khiêm tốn, lại giỏi về việc tiếp thu ý kiến can gián của người khác. Buổi nói chuyện với Vương Khuê khiến cho y tỉnh ngộ. Y sử dụng phương pháp thỉnh nguyện của đủ loại quan lại để xử lý là có điểm thể hiện lực ảnh hưởng trong triều một cách thái quá rồi, sẽ làm cho phụ hoàng kiêng kỵ.
Nghĩ thông suốt điểm này, y bắt đầu cảm thấy do dự. Dùng thỉnh nguyện của đủ loại quan lại đến phản đối việc khai chiến, quả thật không quá thỏa đáng. Nhưng y cảm thấy phụ hoàng ngày càng có khuynh hướng khai chiến, mình phải làm thế nào để khuyên bảo phụ hoàng?
Đúng lúc này, một gã thị vệ ở cửa bẩm báo:
- Điện hạ, Trương công công đến, nói là Thánh thượng có chỉ, lệnh cho Điện hạ lập tức vào cung.
Chương 929 : Tai họa ngầm bộc phát (2)
Lý Kiến Thành gật gật đầu;
- Ta biết rồi!
Rốt cục vào giờ khắc này, y đã có quyết định, tạm thời không đưa thư thỉnh nguyện của bá quan cho phụ hoàng xem, quan sát tình huống một chút rồi nói sau. Y liền thay đổi một bộ y phục, sau đó bước nhanh ra khỏi cung.
Hoạn quan đến tuyên chỉ là một lão hoạn quan, họ Trương, đã phục vụ trong cung rất nhiều năm, hiện tại chủ quản ngự thư phòng. Y và Thái tử Lý Kiến Thành có quan hệ vô cùng tốt. Hiện tại y đang đứng ở bên ngoài cung, tâm trạng lo lắng. Thấy Lý Kiến Thành đi ra, Trương công công liền vội vàng tiến lên nói:
- Điện hạ, đã xảy ra chuyện rồi.
- Xảy ra chuyện gì?
Lý Kiến Thành thấy vẻ mặt kinh hoàng của y, trong lòng cũng âm thầm có cảm giác không ổn.
- Điện hạ, hôm nay Bùi Tướng quốc mật báo với Thánh thượng, hình như nói về việc đất đai ở Thành Đô, khả năng là có liên quan đến Điện hạ. Thánh thượng đang rất giận dữ, hiện đang ở trong ngự thư phòng, triệu Điện hạ lập tức đến gặp ngài.
Lý Kiến Thành cả kinh, da đầu như muốn nổ tung. Việc đất đai ở Thành Đô, chẳng lẽ là sự việc của Doãn Quý Bình? Làm sao Bùi Tịch biết được việc này? Đúng thật là y có liên quan đến chuyện này, nhưng cũng không có quan hệ lớn lắm, y chỉ lên tiếng chào hỏi Cao Biểu Nhân một câu, sau đó kết quả thế nào cũng không hỏi đến. Chẳng lẽ đã xảy ra hậu quả nghiêm trọng gì sao?
Trong lòng Lý Kiến Thành vô cùng khẩn trương. Hỏng rồi. Nhất thời y không biết phải làm gì mới tốt. Lão hoạn quan lại nhắc y:
- Điện hạ, nhanh tiến cung đi. Thánh thượng chờ đã lâu rồi. Để Thánh thượng đợi lâu, người sẽ càng thêm tức giận đấy!
Lý Kiến Thành gật đầu. Cho dù là thế nào, trước tiên cũng cần phải dùng thái độ đoan chính, biểu hiện thành ý. Y không kịp nghĩ lại, lập tức cất bước tiến về hướng điện Võ Đức.
Một đường rảo bước, không bao lâu sau, Lý Kiến Thành đã đến trước cửa ngự thư phòng. Lúc này, một gã hoạn quan chạy đến:
- Thái tử Điện hạ, mau vào đi thôi! Thánh thượng chờ đợi đã nóng nảy lắm rồi.
Lý Kiến Thành cuống quít đi vào ngự thư phòng. Vừa bước vào trong ngự thư phòng đã nhìn thấy ánh mắt đỏ ngầu của Lý Uyên. Lý Uyên vỗ thật mạnh lên bàn:
- Nghiệp chướng, ngươi còn mặt mũi tới gặp trẫm!
Lý Kiến Thành có thể cảm nhận được sự tức giận của phụ hoàng, y cuống quít quỳ xuống:
- Xin phụ hoàng bớt giận, bảo trọng long thể. Có chuyện gì nhi thần xin thành thật trả lời.
Lý Uyên hừ mạnh một tiếng, nói với Bùi Tịch:
- Ngươi nói cho nó biết. Trẫm muốn xem nó giải thích chuyện này thế nào?
Trước kia, người mà Bùi Tịch hận nhất chính là Lưu Văn Tĩnh. Y và Lý Kiến Thành cũng không có mâu thuẫn gì quá sâu, chỉ có điều nguyên nhân là vì y thuộc phe ủng hộ Tần Vương, cho nên mới có quan hệ không tốt với Thái tử.
Hơn nữa Bùi Tịch biết, nếu Lý Kiến Thành đăng cơ, người đầu tiên y muốn thu thập chính là mình. Cho nên, Bùi Tịch luôn tìm trăm phương ngàn kế làm lung lay căn cơ của Thái tử Lý Kiến Thành. Lần này Lý Thế Dân cấp cho y một cơ hội, thậm chí không cần dạy thì y cũng biết nên làm cái gì rồi.
Bùi Tịch cười khan một tiếng:
- Điện hạ, việc Doãn Quý Bình mua đất, chắc Điện hạ không nói là không biết chứ?
Trong lòng Lý Kiến Thành nhảy dựng lên, quả nhiên là chuyện này. Y không biết Bùi Tịch đã nắm được chứng cớ gì, nhưng phủ nhận thì không tốt, liền gật đầu:
- Chuyện này ta có biết một phần. Nhưng cũng không có liên quan mật thiết gì với ta. Mời Tướng quốc nói tiếp, đã xảy ra chuyện gì?
- Được rồi! Vậy ty chức xin nói thẳng.
Bùi Tịch cũng không khách khí, dùng một ngữ khí lạnh băng nói:
- Đây có thể xem là vụ án điển hình của việc thôn tính đất đai. Doãn Quý Bình dùng một cái giá rất thấp, mười xâu tiền một mẫu, cưỡng ép dân chúng, mua hơn mười khoảnh ruộng tốt. Ngự sử đài đã phái người đi điều tra qua, Cao Biểu Nhân thừa nhận chuyện này là Điện hạ tạo áp lực với y, cho nên chúng ta không rõ, Điện hạ và Doãn Quý Bình có quan hệ như thế nào?
Lý Kiến Thành toát mồ hôi trán, y bỗng ý thức được, chuyện này không chỉ đơn giản là việc thôn tính đất đai, mà còn dính đến mối quan hệ giữa y và Doãn Phi. Chỉ sợ là Phụ hoàng tức giận phần nhiều là vì điều sau.
Ánh mắt Lý Uyên lạnh lùng nhìn chằm chằm Kiến Thành:
- Trẫm cũng muốn biết, vì sao ngươi nhiệt tình giúp Doãn Quý Bình làm việc như vậy?
Lý Kiến Thành lau đi mồ hôi trên trán, vội vàng giải thích:
- Phụ hoàng, không hề có chuyện như vậy. Doãn Quý Bình và nhi thần không hề có bất cứ quan hệ nào, chỉ vì ông ta là phụ thân của Doãn Đức Phi, là hoàng thân quốc thích cho nên nhi thần mới giúp ông ta chút việc, tuyệt đối không có ý gì khác.
- Vậy thật kỳ quái, vì sao y không tìm trẫm. Y hoàn toàn có thể nhờ Doãn Đức Phi đến tìm trẫm. Y là Quốc trượng, trẫm giúp y là hợp tình hợp lý. Chẳng lẽ lực ảnh hưởng của trẫm lại không bằng Thái tử?
Lời nói của Lý Uyên vô cùng khắc nghiệt, trong giọng nói tràn đầy sự nghi ngờ và bất mãn. Lý Kiến Thành càng thêm kinh hãi, lại hướng phụ hoàng giải thích:
- Phụ hoàng, Doãn Quý Bình tìm đến nhi thần là vì nhi thần và Thái thú quận Thục Cao Biểu Nhân có quan hệ khá tốt. Cao Biểu Nhân là con trai của Cao Quýnh, năm đó y và nhi thần có qua lại, cho nên Doãn Quý Bình mới nghĩ đến việc tìm nhi thần hỗ trợ.
Đôi mắt của Lý Uyên giống như mắt chim ưng, chăm chú nhìn Lý Kiến Thành. Tuy lời giải thích của Lý Kiến Thành có hơi gượng ép, nhưng cũng coi như là có lý do. Mấu chốt là có Bùi Tịch ở bên cạnh, tạm thời Lý Uyên không nghĩ đến việc truy cứu quá mức chuyện Doãn Đức Phi, y sợ sẽ vạch áo cho người xem lưng, lộ ra chuyện xấu gì đó trong nhà, sau này sẽ truy cứu sau.
- Được rồi! Tạm thời không đề cập đến quan hệ của ngươi và Doãn Quý Bình. Trẫm hỏi ngươi, ngươi thân là Thái tử, chẳng lẽ không hiểu được hậu quả nghiêm trọng của việc thôn tính đất đai?
Trong lòng Lý Kiến Thành thoáng bình tĩnh lại. Chỉ cần không đề cập đến Doãn Đức Phi, vậy thì y có thể thong thả ứng đối rồi. Cùng lắm thì đẩy toàn bộ trách nhiệm lên người Cao Biểu Nhân.
- Phụ hoàng, sao nhi thần có thể không hiểu hậu quả của việc thôn tính đất đai. Lúc Doãn Quý Bình đến tìm nhờ nhi thần hỗ trợ, nhi thần đã cảm thấy không ổn. Có điều cũng cũng vì nể chút mặt mũi hoàng thân cuốc thích nên mới miễn cưỡng đáp ứng, sau đó nhi thần cho người đến nói với Cao Biểu Nhân, nói y giải quyết chuyện này sao cho thỏa đáng, có thể sử dụng phương thức giao dịch công bằng, cũng có thể dùng biện pháp đổi đất, tóm lại là không được làm tổn hại lợi ích của nông dân. Hơn nữa lúc ấy cũng chỉ nói là mười khoảnh, thế nào mà bây giờ lại biến thành mấy chục khoảnh, lại còn dùng mười quan tiền để mua lại một mẫu đất. Chuyện này còn ẩn chứa duyên cớ gì, nhi thần thật sự không biết, xin phụ hoàng minh giám!
Giọng điệu của Lý Kiến Thành rất thành khẩn, hơn nữa những lời nói ra cũng hoàn toàn là lời thật, quả thật là y không biết sẽ xuất hiện sự việc nghiêm trọng thế này. Nếu biết, y tuyệt đối không đáp ứng.
Lý Uyên cũng từng đảm nhiệm chức quan ở địa phương một thời gian dài, đối với loại nếp sống ở trên có người bao che, ở dưới tha hồ làm loạn của chốn quan trường này y hiểu rất rõ. Y biết những điều Kiến Thành nói đều là thật.
Quan trọng hơn là, Kiến Thành theo y rất nhiều năm, hiểu rõ cách làm người của đứa con trưởng, đối xử với người khác rất khoan dung, Kiến Thành tuyệt đối sẽ không cho phép phát sinh loại sự việc dùng mười xâu tiền mua một mẫu đất. Việc này hẳn là do Cao Biểu Nhân tự nghĩ ra, hành động lung tung khiến cho sự việc rối tinh lên.
Tuy nhiên, cơn giận của Lý Uyên vẫn còn chưa tiêu hết, y lại lạnh lùng nói:
- Nhất định trẫm sẽ điều tra chuyện này tới cùng. Trong thiên hạ Đại Đường của trẫm, tuyệt đối không cho phép xuất hiện việc thôn tính đất đai. Kẻ nào liên quan đến việc này, tuyệt đối không dung tha.
Lý Uyên liên tiếp dùng hai lần “tuyệt đối không” khiến cho Lý Kiến Thành cảm nhận thật sâu sắc sự bấn mãn của phụ hoàng với mình. Trong lòng y thở dài một tiếng, cúi đầu.
Trong phòng, Lý Thế Dân khoanh tay đứng trước cửa sổ, ánh mắt dừng lại trước mấy gốc cây khô ngoài cửa sổ, hai tai chăm chú lắng nghe Bùi Tịch đang cẩn thận kể lại sự việc, không bỏ sót bất cứ một chi tiết nhỏ nào.
Lúc này, trong lòng của y tràn đầy đắc ý. Chỉ một vụ án thôn tính đất đai nho nhỏ liền khiến cho Thái tử mặt xám mày tro, để cho y nếm được cảm giác thắng lợi ngọt ngào.
Nhưng trong lòng Lý Thế Dân cũng hiểu rõ, Thái tử và Doãn Đức Phi cũng không có quan hệ gì đặc biệt, phụ hoàng cũng sẽ không vì chuyện này mà phế bỏ Thái tử, nhiều nhất là địa vị của Thái tử trong lòng phụ hoàng bị ảnh hưởng, tuy nhiên, dù chỉ là như vậy nhưng kết quả này cũng khiến cho y vô cùng đắc ý.
Tuy nhiên, Lý Thế Dân tỷ mỉ thiết kế vụ án này chính là để có thể thuyết phục phụ hoàng xuất binh tấn công triều Tùy. Vì triều Tùy và Đột Quyết ở phương bắc khai chiến nên Dương Nguyên Khánh đã co rút tuyến phòng ngự lại, đây là cơ hội ngàn năm có một. Nếu như triều Đường không nắm lấy, chỉ sợ về sau sẽ không còn loại cơ hội tốt như thế này nữa.
Hiện tại Thái tử dính vào vụ án thôn tính đất đai ở Thành Đô, đã mất đi lực ảnh hưởng trong mắt phụ hoàng. Nhất định y phải nắm lấy cơ hội này thuyết phục phụ hoàng xuất binh.
Nghĩ vậy, Lý Thế Dân xoay người nói với Bùi Tịch:
- Vụ án thôn tính đất đai cứ án theo quy định mà điều tra, có nói có, không nói không. Loại chuyện này không thể gạt được phụ hoàng, không cần phải thêm mắm thêm muối, tránh để lợn lành lại chữa thành lợn què.
Bùi Tịch vội vàng đáp ứng:
- Ty chức đã hiểu. Ty chức sẽ chỉ đạo Ngự sử đài, dựa theo ý tự Điện hạ mà làm việc.
- Được rồi! Chuyện này đã khiến ngươi vất vả rồi. Giờ ta muốn vào cung, khuyên bảo phụ hoàng xuất binh.
Chương 930 : Cử quốc binh sách
Sau khi Lý Thế Dân nghe Bùi Tịch báo cáo liền vội vàng vào cung. Y đi thẳng đến quảng trường của điện Võ Đức, đứng trên bậc thang chờ triệu kiến, trong lòng suy nghĩ xem nên nói thế nào để có thể thuyết phục được phụ hoàng.
Không bao lâu sau, một gã hoạn quan vội vàng chạy tới, khom người thi lễ:
- Thánh thượng triệu kiến Điện hạ. Mời Điện hạ theo nô tài.
Lý Thế Dân sửa sang lại trang phục một chút, nhanh chân bước lên bậc thang, đi theo hoạn quan hướng đến ngự thư phòng của phụ hoàng.
Y chờ ở ngoài ngự thư phòng một lát, một gã hoạn quan đi ra nhỏ giọng nói:
- Điện hạ, mời vào!
Lý Thế Dân bước vào phòng thì phát hiện Tiêu Vũ đã ở đây. Y hướng Tiêu Vũ gật gật đầu, sau đó quỳ hai gối xuống, cung kính hướng Lý Uyên dập đầu một cái:
- Nhi thần xin thỉnh an phụ hoàng!
Vì việc của Thái tử nên tâm tình của Lý Uyên không được tốt. Tuy y biết Thái tử sẽ không làm những việc tổn hại đến nhân dân, nhưng đúng là Thái tử có liên quan đến việc thôn tính đất đai ở Thành Đô, việc này nhiều ít cũng khiến cho y có chút thất vọng với Thái tử.
Tuy nhiên Lý Uyên cũng biết Bùi Tịch và Thái Tử từng có quan hệ, để Bùi Tịch đi điều tra chuyện này chỉ sợ sẽ không công bằng. Mà đám người Trần Thúc Đạt, Đậu Quỹ lại cùng một đảng phái với Thái tử, đều thiên vị Thái tử. Chuyện này chỉ có thể để cho một người trung lập phụ trách. Tiêu Vũ chính trực công bằng, là người mà y tín nhiệm nhất.
Lý Uyên khoát tay chặn lại;
- Hoàng nhi bình thân!
- Tạ ơn phụ hoàng!
Lý Thế Dân đứng lên, Lý Uyên nhìn y một cái, trên mặt miễn cưỡng lộ ra nụ cười:
- Hoàng nhi tìm trẫm có chuyện gì không?
- Nhi thần nhận được tình báo khẩn cấp của Đường Phong, Dương Nguyên Khánh đã tự mình dẫn tám mươi ngàn đại quân tới huyện Thiện Dương ở phía bắc. Phụ hoàng, đây là một cơ hội trời cho.
- Cơ hội?
Ánh mắt Lý Uyên đầy thâm ý nhìn chăm chú vào Lý Thế Dân:
- Hoàng nhi đang muốn khuyên trẫm xuất binh tấn công triều Tùy, là ý này phải không?
Trong lòng Lý Thế Dân thở một hơi thật sâu, y có thể cảm nhận được trong giọng nói của phụ hoàng có một tia chần chừ. Y biết biết phụ hoàng vẫn do dự như trước. Nói trắng ra là phụ hoàng đang lo lắng triều Tùy trả thù, và cũng có chút quan hệ với cái thuyết đại nghĩa của Thái tử.
- Phụ hoàng cho rằng Tùy Đường có thể cùng tồn tại trong một thời gian dài hay sao?
Lý Thế Dân uyển chuyển khuyên phụ than:
- Không phải là triều Tùy không muốn tiêu diệt chúng ta, vấn đề là hiện tại bọn họ chưa có thực lực này. Nếu như không có Đột Quyết xâm lấn, nhi thần dám chắc rằng vào mùa xuân năm tới, nhất định là Dương Nguyên Khánh sẽ phát động tấn công quy mô vào Quan Trung. Bởi vì trong trận chiến ở quận Hội Ninh, hắn đã nắm được thật giả về thực lực của chúng ta. Cũng sẽ không vì việc chúng ta nói đại nghĩa, cũng không bởi vì chúng ta e ngại hắn mà hắn sẽ bỏ qua cho chúng ta. Dương Nguyên Khánh không có loại lòng dạ đàn bà này. Hắn cướp được một lượng lớn vật từ từ Triều Tiên, khiến cho hắn nắm chắc khí lực và tài lực. Khi hắn tẩy trừ quan trường Hà Bắc, không một ai dám phải đối quyết sách này của hắn. Phụ hoàng, thời cơ quân Tùy tấn công Quan Trung cũng đã chính muồi rồi.
Lúc này, Tiêu Vũ ở bên cạnh cũng tiếp lời:
- Thần tán thành ý kiến của Tần Vương Điện hạ. Quả thật là Dương Nguyên Khánh có thể chuẩn bị tiến công triều Đường vào mùa xuân năm tới.
Lý Uyên khẽ cau mày:
- Vì cớ gì mà ái khanh nói như vậy?
Tiêu Vũ khẽ mỉm cười:
- Thật ra, dựa vào một ít dấu vết để lại là có thể đoán được. Tỷ như việc hắn chuẩn bị phát hành ngân tiền, rõ ràng việc này là nhằm vào triều Đường. Trước dùng ngân tiền làm nhiễu loạn giá hàng hóa của Quan Trung, khiến cho giá cả tăng vọt, dân chúng oán thán. Sau đó hắn sẽ nhân cơ hội xuất binh tập kích, đây là kỹ xảo mà hắn ưa chuộng nhất. Lại lấy ví dụ như hồi đầu tháng mười năm ngoái, quân đội của hắn tích cực chuẩn bị chiến tranh Hà Bắc, tiến hành cường hóa huấn luyện. Mà tháng mười năm nay, quân Tùy lại bắt đầu chuẩn bị chiến tranh, cũng đồng dạng tiến hành cường hóa huấn luyện, hoàn toàn giống với lần trước.
- Còn có một điểm, rõ ràng là hắn có thể dễ dàng tiêu diệt Đậu Kiến Đức, nhưng lại không động thủ, rất rõ ràng là hắn muốn giữ lại một vùng đệm giữa Tùy và Ngụy. Điều này chứng tỏ hắn không có ý định tấn công Lý Mật. Cứ như vậy mà phân tích, có thể thấy, mục tiêu tiếp theo, rất có khả năng là Quan Trung hoặc là bốn quận ở nam bộ quan nội. Thần cho rằng, mục tiêu là bốn quận ở nam bộ quan nội có khả năng lớn hơn, thật ra chính là sự kéo dài của việc hắn cướp lấy quận Hội Ninh.
Những điều Tiêu Vũ phân tích vô cùng có lý, trong lòng Lý Uyên có chút trầm ngâm. Thật ra sau khi quân Tùy cướp lấy quận Hội Ninh, điều mà Lý Uyên lo lắng nhất chính là Dương Nguyên Khánh có tiếp tục tấn công bốn quận ở quan nam là quận Hoằng Hóa, quận An Định, quận Bắc Địa và quận Thượng hay không?
Nếu bốn quận quan nam bị cướp đoạt, vậy thì Quan Trung liền gặp phải mối uy hiếp chiến lược vô cùng lớn. Triều Đường không thể không dời đô, cuối cùng là mất đi Quan Trung, Lũng Hữu và Hà Tây.
Loại áp lực này khiến cho Lý Uyên thường xuyên bừng tỉnh giấc khi đang ngủ, nhưng y lại không muốn đối với nó, không muốn nghĩ đến chuyện này.
Hôm nay, đứa con thứ Lý Thế Dân và Tiêu Vũ khiến cho y không thể tiếp tục tự lừa dối mình, chỉ có thể đối mặt với nguy cơ.
Lúc này, Lý Thế Dân nhận ra nét lo lắng trên mặt phụ thân, lại tiếp tục khuyên nhủ:
- Phụ hoàng, nhi thần cho rằng lòng trời đang chiếu cố đến Đại Đường ta, tại thời khắc nguy tràn đầy nguy cơ này, ông trời lại ban cho chúng ta một cơ hội, khiến cho Đột Quyết ở phía bắc xâm lấn triều Tùy. Phụ hoàng, cơ hội tốt như vậy chỉ sợ sau này khó mà có được. Nếu chúng ta không nắm lấy cơ hội này, chắc chắn sau này sẽ phải hối hận cả đời.
Rốt cục Lý Uyên cũng thở dài:
- Vậy ngươi nói một chút kế hoạch của ngươi đi!
Tinh thần Lý Thế Dân rung lên, phụ hoàng đã đồng ý nghe y trình bày kế hoạch, vậy là chuyện này đã có tiến triển rồi. Y sớm đã suy tính phương án tấn công, vội vàng khom người nói:
- Phụ hoàng, kế hoạch của nhi thần rất đơn giản, tận dụng hết khả năng để giành lấy lợi ích. Nhất định phải lấy lại quận Diên An và quận Hội Ninh, về phần ba quận Điêu Âm, Sóc Phương và Diêm Xuyên, vì nhân khẩu quá ít, không có giá trị chiến lược gì nên có thể tạm thời không xét đến. Nhi thần cảm thấy tốt nhất là chiếm được quận Linh Võ. Hiện tại nhân khẩu của Phong Châu đều tập trung ở quận Linh Võ. Nếu như có thể chiếm được quận Linh Võ, chúng ta có thể không cần địa bàn, đem toàn bộ nhân khẩu của Phong Châu và quận Linh Võ tập trung trung đưa về Quan Trung. Cướp lấy nhân khẩu mới là vấn đề mấu chốt, sẽ đẩy quân Tùy về phía đông Hoàng Hà. Như vậy, toàn bộ đạo (1) Quan Nội sẽ là lãnh thổ quốc gia, đem cục diện bị động của chúng ta thay đổi hoàn toàn.
(1) Đạo: đơn vị hành chính thời Đường, tương đương với tỉnh.
Thật ra, nơi mà Lý Uyên nhớ mãi không quên chính là đạo Hà Đông. Thái Nguyên là nơi y lập nghiệp, nằm mơ y cũng muốn đoạt lại nó. Y cắt đứt trình bày của Lý Thế Dân rồi hỏi:
- Sao không nhắc đến đạo Hà Đông? Ngươi không suy xét đến sao?
Lý Thế Dân lắc đầu:
- Sau khi quân Tùy và Đột Quyết đại chiến, cho dù cuối cùng quân Tùy có thể thắng được Đột Quyết thì tất nhiên là quân Tùy cũng sẽ chịu tổn thất rất lớn. Dưới tình huống như vậy, bọn họ chỉ biết bảo vệ trung tâm lợi ích của chính mình. Dựa vào việc Dương Nguyên Khánh bố trí trọng binh ở quận Hà Đông và quận Hà Nội mà xem xét, Hà Đông chính là trung tâm lợi ích của triều Tùy, Dương Nguyên Khánh có liều chết cũng phải đánh với chúng ta một trận. Nhưng nếu như chúng ta không động đến trung tâm lợi ích của hắn, chỉ lấy đạo Quan Nội, vậy thì Dương Nguyên Khánh sẽ nhẫn nhịn, cuối cùng sẽ đồng ý với kết cục này, chúng ta sẽ có thời gian khuếch trương quân đội, tăng cường thực lực. Như vậy cục diện Tùy Đường cùng tồn tại mới có thể được hình thành.
Lý Uyên ngẫm nghĩ một chút, ánh mắt nhìn về phía Tiêu Vũ, ý muốn hỏi ý kiến của y. Tiêu Vũ trầm tư thật lâu, sau đó nói:
- Thần lại cảm thấy có thể lợi dụng cơ hội này chiếm lấy Lạc Dương.
Lý Uyên chấn động cả người. Y chậm rãi nhắm hai mắt lại, thật lâu sau mới từ từ nói:
- Các ngươi để ta suy nghĩ thêm một chút.
Lý Uyên chắp tay sau lưng đứng phía trước cửa sổ, ánh mắt dừng lại trước cung Thái Cực huy hoàng, trầm tư thật lâu không nói. Kỳ thật y đã bị thuyết phục, đúng là như vậy. Dương Nguyên Khánh sẽ không vì việc y e ngại hắn mà bỏ qua cho triều Đường.
Một bước này, mặc kệ y có nguyện ý đi hay không, mặc kệ hậu quả như thế nào, y cũng phải bước ra ngoài. Nghĩ vậy, rốt cục Lý Uyên cũng hạ quyết tâm, y muốn dùng ba trăm ngàn binh lính của toàn bộ Đại Đường cướp lấy đạo Quan Nội và Lạc Dương.
Thật ra còn một nguyên nhân quan trọng hơn, trong một thời gian dài, y chiến đấu với triều Tùy đều gặp phải bất lợi, điều này khiến cho quý tộc Quan Lũng thường xuyên bất mãn. Thậm chí y còn biết chuyện gia tộc Độc Cô âm thầm đưa lương thực lên phía bắc. Nếu y không có hành động gì, chắc chắn quý tộc Quan Lũng sẽ vứt bỏ triều Đường, vậy thì căn cơ của triều Đường sẽ sụp đổ, triều Đường cũng xong rồi.
Sớm hay muộn thì y cũng phải đối mặt với cuộc tấn công quy mô của triều Tùy. Đầu tiên là bốn quận quan nam khó giữ được, cùng với tương lai thê thảm phải dời đô, vậy không bằng hiện tại hạ quyết tâm tàn nhẫn, dùng cơ hội Đột Quyết xâm nhập phía nam, cướp lấy đạo quan nội và Lạc Dương.
Chương 931 : Độc kế Ngụy Hán
Đây là ngày thứ năm sau đêm trăng tròn, một vầng trăng hình bán nguyệt treo lơ lửng trên bầu trời, ánh trăng mang theo những tia sáng đỏ như máu đầy quỷ dị. Ánh trăng ảm đạm chiếu xuống đại địa, phủ lên dãy núi ở phía xa, khiến cho dãy núi cũng khoác lên mình vẻ kì quái.
Khả Hãn Đột Quyết Hiệt Lợi đứng trên đầu thành huyện Vân Nội, ánh mắt say đắm ngắm nhìn vầng trăng hình bán nguyệt màu đỏ đầy mê hoặc. Ở Đột Quyết, hiện tượng trăng máu này là đại biểu cho điềm đại hung, không nên xuất binh. Dị tượng này khiến cho lòng Khả Hãn Hiệt Lợi trở nên vô cùng nặng nề.
Y đã nhận được tin tức Dương Nguyên Khánh dẫn theo tám mươi ngàn đại quân chỉ còn cách phía nam huyện Thiện Dương hơn hai trăm dặm, còn ở phía đông Tử Hà Bảo lại có mười lăm ngàn quân Tùy và dư nghiệt của bộ lạc Ô Đồ.
Cứ lấy việc binh lực của quân Tùy chưa bằng một nửa quân mình, nhưng hai mươi ngàn quân Đột Quyết lại bị tiêu diệt hoàn toàn tại Tử Hà Cốc khiến cho nội tâm y trở nên trĩu nặng. Không chỉ có sĩ khí của quân đội bị đả kích, ngay cả niềm tin của y cũng có chút dao động.
Quan trọng hơn là hiện tại đã là mùa đông, thoạt nhìn thì thời tiết cũng chưa có lạnh lắm, cũng không có dấu hiệu tuyết rơi. Nhưng trong truyền thống của người Đột Quyết, nhắc đến mùa đông là nhất định có tuyết rơi. Y có cảm giác là trận tuyết lớn này càng ngày càng đến gần, vầng trăng máu này cũng có thể xem là một loại dấu hiệu báo trước.
Ánh mắt Hiệt Lợi Khả Hãn lại nhìn về hướng nam. Lúc này trong lòng y hiểu được, mặc kệ khí hậu ác liệt như thế nào, chiến dịch lần này nhất định phải đánh. Không chỉ vì y đã đâm lao nên phải theo lao, mà quan trọng hơn là trong nội bộ Đột Quyết đã càng ngày càng không ổn định.
Thất bại ở Phong Châu hai năm trước đã tạo thành tổn thương nghiêm trọng, đến nay vẫn lành. Dấu hiệu tự lập của Hồi Hột đã ngày càng rõ rệt, Tiết Diên Đà lại nghĩ một đằng nói một nẻo, các bộ lạc cũng đang cố gắng tranh thủ tìm kiếm lợi ích lớn nhất cho mình. Nếu như không có một chiến dịch huy hoàng để tạo ra quyền uy cho chính mình, vậy thì chuyện Đột Quyết phân liệt là khó tránh được.
Nhưng trận này phải đánh thế nào? Rõ ràng là Dương Nguyên Khánh đang cố gắng để kéo dài thời gian, hắn đến huyện Thiện Dương đã tám ngày rồi nhưng vẫn không có chút dấu hiệu nào tỏ vẻ sẽ tiến lên phía bắc. Hắn muốn giằng co với mình, hắn muốn lợi dụng trận tuyết lớn xảy ra để bức bách mình phải rút quân, không đánh mà thắng.
Trên thực tế, trong lòng Khả Hãn Hiệt Lợi cũng hiểu rõ, chỉ cần không đi công thành, trận này mình chắc thắng đến bảy phần. Dù sao thì quân số của mình cũng gấp hai lần quân Tùy, sức chiến đấu cũng không yếu.
Hơn nữa y đã khắc sâu bài học từ lần thảm bại ở Phong Châu. Tuyệt đối không được vứt bỏ ưu thế về kỵ binh của mình, không thể chạy tới đánh với quân Tùy cái gọi là công thành chiến. Nhưng vấn đề hiện tại là phải làm thế nào mới có thể khiến quân Tùy ra ngoài tác chiến, một trận phân định thắng bại.
Trầm tư thật lâu, Khả Hãn Hiệt Lợi bỗng nhiên nghĩ đến một người, y lập tức quay đầu lại ra lệnh:
- Gọi Quách Tử Hòa đến đây!
Quách Tử Hòa là một thế lực từng cát cứ quận Định Tương. Y vốn là Tả dực vệ Ưng dương lang tướng ở kinh thành, bị liên lụy bởi vụ án của Tề Vương Dương Giản mà bị lưu đày đến Du Lâm.
Năm Đại Nghiệp thứ mười một, do ảnh hưởng từ việc Lưu Vũ Chu tạo phản, Quách Tử Hòa dẫn mười tên võ sĩ giết chết Quận thừa Du Lâm, sau đó cũng tuyên bố tạo phản. Sau khi thu thập được mấy ngàn người, y tiến lên phía bắc chiếm cứ quận Định Tương, sau đó đầu hàng Đột Quyết, được Khả Hãn Thủy Tất phong làm Ốc Lợi Thiết, cũng xem như là tù trưởng một phương.
Sau khi Dương Nguyên Khánh trở nên mạnh mẽ, cứng rắn đông tiến, đánh bại Lưu Vũ Chu ở quận Du Lâm. Quách Tử Hòa biết đại thế đã mất đành buông bỏ quận Định Tương, chạy lên phía bắc vào Đột Quyết. Nhưng Khả Hãn Thủy Tất e ngại y không có cái quyết tâm chống cự, phái y đi đốn củi ở phía đông, trên thực tế là đã vứt bỏ y rồi.
Có điều, Khả Hãn Hiệt Lợi từng tiếp xúc với Quách Tử Hòa vài lần. Y phát hiện Quách Tử Hòa là một người rất có đầu óc. Cái mà người Đột Quyết thiếu thốn nhất chính là mưu lược của người Hán. Cho nên, sau khi Khả Hãn Hiệt Lợi đăng cơ liền phong cho Quách Tử Hòa làm Trụ quốc, theo y nam chinh.
Không lâu sau, mấy tên binh lính Đột Quyết dẫn theo một tướng lĩnh người Hán, dáng vẻ khôi ngô đi tới. Quách Tử Hòa chừng bốn mươi tuổi, nhưng trải qua kiếp sống đốn củi đầy gian khổ mấy năm qua đã khiến cho vẻ mặt y trở nên già nua, tóc bạc như người năm mươi tuổi, thoạt nhìn giống như một lão nhân đã hơn năm chục tuổi vậy. Tuy nhiên, ánh mắt của y vẫn sáng như mắt chim ưng, tạo ra một cảm giác nhìn thấu lòng người.
Quách Tử Hòa vốn đã bắt đầu thất vọng, cho rằng mình sẽ sống ở Đột Quyết cho đến hết tuổi già, không ngờ Khả Hãn Hiệt Lợi đăng cơ lại khiến y một lần nữa có được sức sống, khiến cho y vô cùng cảm kích. Y tiến lên khom người nói:
- Tham kiến Khả Hãn!
Khả Hãn Hiệt Lợi gật đầu, dịu dàng nói:
- Tìm Quách Tướng quân đến là muốn thỉnh giáo một chút kế sách của Quách Tướng quân. Hiện tại quân Tùy và Đột Quyết giằng co, thời gian càng kéo dài đối với Đột Quyết ta càng bất lợi. Quách Tướng quân nghĩ xem chúng ta phải làm thế nào mới có thể phá vỡ cục diện bế tắc nà?
Thái độ của Khả Hãn Hiệt Lợi rất khiêm tốn, khiến cho Quách Tử Hòa có chút được sủng ái mà lo sợ. Y liền vội vàng khom người nói:
- Ty chức nguyện vì Khả Hãn chia sẻ!
Y tập trung sửa sang lại một chút suy nghĩ trong đầu, nhân tiện nói:
- Kỳ thật ty chức nghĩ là, Dương Nguyên Khánh xuất chiến thì áp lực còn lớn hơn Khả Hãn. Hiện tại hắn dẫn đại quân giao chiến với Đột Quyết, cơ hội tốt thế này làm sao triều Đường có thể bỏ qua? Ty chức có thể khẳng định, quân Đường sẽ nhân cơ hội này mà cướp lấy đạo Quan Nội và Trung Nguyên. Hiện tại khẳng định là lòng Dương Nguyên Khánh đang nóng như có lửa đốt mới đúng, hắn còn muốn quyết chiến hơn Khả Hãn nhiều.
Sự phân tích của Quách Tử Hòa vốn đã nằm trong suy nghĩ của Khả Hãn Hiệt Lợi rồi, thật ra là y cũng muốn lợi dụng sự tranh đoạt của Tùy Đường để giành lấy lợi ích lớn nhất cho Đột Quyết. Có điều, trận chiến ở Tử Hà Cốc đã đả kích nghiêm trọng vào lòng tin của y, khiến nội tâm y bàng hoàng, suy nghĩ rối loạn, nhất thời lại quên mất triều Đường. Lúc này, Quách Tử Hòa nói một câu đã khiến y tỉnh lại từ trong mộng cảnh.
- Ý của Quách Tướng quân là ta cứ án binh bất động, bức Dương Nguyên Khánh chủ động tiến lên phía bắc quyết chiến sao?
Quách Tử Hòa cười lạnh một tiếng rồi nói:
- Khả Hãn, người Hán tác chiến thường tránh chỗ mạnh tìm chỗ yếu, phải nắm được nhược điểm của đối phương. Nhược điểm của quân Tùy chính là gây chiến quá rộng, phòng tuyến trải dài từ Liêu Đông đến Đôn Hoàng. Thoạt nhìn thì có vẻ như chiếm được một vùng đất rộng lớn, nhưng trên thực tế cũng mang đến gánh nặng không nhỏ. Binh lực của triều Tùy cũng không ít, nhưng phân tán ra phòng ngự ở các nơi, chắc chắn là sẽ không đủ binh lực. Quan trọng hơn là bọn chúng còn có đại địch là triều Đường, phỏng chừng bọn chúng sẽ sắp đặt trọng binh ở quận Hà Đông và quận Hà Nội, vậy thì trong nội địa Hà Đông chắc chắn là trống không. Chi bằng Khả Hãn phái ra một đội kì binh, tiến vào nội địa Hà Đông, đem vùng nội địa của triều Tùy quấy phá cho long trời lở đất, lại vượt qua khe núi Tỉnh tiến lên Hà Bắc, xem Dương Nguyên Khánh có còn kéo dài được nữa không?
Ánh mắt Khả Hãn Hiệt Lợi lóe lên, một chiêu này quả thật rất độc ác, tại sao mình không nghĩ đến điều này sớm hơn?
- Vậy Quách Tướng quân cho rằng ta nên phái ra bao nhiêu binh lực cho thỏa đáng?
- Khả Hãn, kì binh không cần nhiều, phái ra nhiều quá sẽ ảnh hưởng đến sức chiến đấu của chủ doanh. Ty chức đề nghị phái ra ba mươi ngàn kỵ binh. Mấu chốt là không nên tác
chiến với quân Tùy, không cần công thành, lấy việc phá hoại là chính, bức Dương Nguyên Khánh phải quyết chiến.
Khả Hãn Hiệt Lợi híp mắt suy nghĩ chốc lát, sau đó dứt khoát nói;
- Vậy ta sẽ đem ba mươi ngàn kì binh này giao cho Quách Tướng quân, do Quách Tướng quân đi tập kích nội địa triều Tùy!
Vì việc của Tề Vương năm đó mà Quách Tử Hòa hận Dương Nguyên Khánh thấu xương. Y vốn tưởng rằng sẽ không bao giờ có hi vọng trả được thù, lại không ngờ trong lúc vô ý lại có được cơ hội này. Y mừng rỡ trong lòng, khom người nói:
- Ty chức nguyện vì Khả Hãn ra sức.
Ngày thứ tám sau đêm trăng tròn, bầu trời dần nhiều mây. Về đêm, từng mảng mây lớn che khuất ánh sao. Những ánh sao yếu ớt không ngừng hiện ra giữa khe hở của những đám mây,
Dương Nguyên Khánh đứng trên đầu thành nhìn mây đen lững lờ trôi qua vầng bán nguyệt. Trăng tàn. Trăng cuối tháng đỏ như máu, khiến cho lòng hắn tràn đầy cảm giác có điềm xấu xuất hiện.
Từ mười ngày trước, sau khi hắn và Lý Tĩnh thương lượng, cuối cùng cũng định ra chiến thuật kéo dài, kéo dài mà không đánh, thúc đẩy bên trong Đột Quyết sinh loạn, lợi dụng áp lực tuyết rơi bức Đột Quyết phải rút quân.
Bắt đầu từ hai ngày trước, mây trên bầu trời dần tăng lên, đây là một dấu hiệu của việc thời tiết sắp thay đổi. Lúc này thời tiết thay đổi chính là sắp xảy ra tuyết lớn.
Nhưng lúc này Dương Nguyên Khánh cũng chịu một áp lực rất lớn. Hắn đã nhận được tình báo, rốt cuộc triều Đường cũng xuất binh rồi. Bọn họ dùng ba trăm ngàn đại quân cả nước tấn công triều Tùy. Ba trăm ngàn đại quân chia làm hai đường, một đường do Lý Kiến Thành và Sài Thiệu suất lĩnh một trăm ngàn đại quân tấn công đạo Quan Nội. Một đường khác do Lý Thế Dân và Lý Hiếu Cung dẫn theo một trăm ngàn đại quân tấn công Lạc Dương.
Chương 932 : Nguy cơ hai tuyến
Triều Đường xuất binh đã nằm trong dự liệu của Dương Nguyên Khánh. Mặc dù Dương Nguyên Khánh hy vọng bằng phương pháp nhượng bộ việc bạc trắng có thể thúc đẩy phái chủ hòa trong nội bộ triều Đường chiếm thế thượng phong, lấy đại nghĩa làm trọng, bỏ qua việc tấn công triều Tùy.
Dương Nguyên Khánh cũng hiểu rõ, Lý Uyên không phải là trẻ con ba tuổi. Nếu phương pháp nhượng bộ việc bạc trắng có thể khiến triều Đường bỏ qua cơ hội lần này, vậy thì đúng là một loại may mắn rất lớn rồi, mà lớn hơn nữa có thể là Lý Uyên sẽ nắm lấy cơ hội này, thừa dịp mình bị Đột Quyết làm chệch thời cơ, vì triều Đường mà giành lấy lợi ích lớn nhất.
Hiện tai cục diện vô cùng bất lợi với quân Tùy nhưng Dương Nguyên Khánh vẫn phải tỉnh táo. Lúc này không thể loạn, nhất định phải ổn định quân tâm. Nếu như lúc này hắn rối loạn rồi bị Đột Quyết đánh bại, hai trăm ngàn đại quân Đột Quyết nhiều như châu chấu giết đến Hà Đông, vậy thì Đại Tùy xong rồi.
Quân Đường tấn công quan nội, tấn công Lạc Dương nhưng không tấn công Hà Đông, điều này chứng tỏ quân Đường vẫn còn có chút cố kỵ, để lại cho hắn một chút đường sống. Nhờ có chút đường sống này khiến cho Dương Nguyên Khánh có thể ổn định được quân tâm, chờ đợi đến lúc thời tiết biến đổi.
Chỉ cần Đột Quyết rút quân là hắn sẽ lập quay đầu xuôi nam, phản công quan nội. Hắn có thể mặc kệ Vương Thế Sung bị giết, nhưng giếng dầu hỏa ở quận Diên An là một nơi chiến lược của quân Tùy, hắn không thể để mất.
Lúc này, trong đêm đen, vài tên kỵ binh gấp gáp chạy tới, nháy mắt đã đến chân thành. Mấy tên kỵ binh này là từ quận Lâu Phiên tới, bọn chúng đứng dưới chân thành la lớn:
- Chúng ta muốn gặp Điện hạ, có tình báo khẩn cấp cần bẩm báo!
Dương Nguyên Khánh bước nhanh đến bên tường thành, cất tiếng hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì?
- Bẩm báo Điện hạ, có ba mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết giết qua quận Lâu Phiền, lúc này đã tiến về phía nam.
- Cái gì?
Dương Nguyên Khánh chấn động, vội vàng ra lệnh:
- Mở cửa thành cho bọn họ vào.
Một lát sau, binh lính dẫn theo mấy tên kỵ binh đến báo tin đã lên đến đầu thành. Tên kỵ binh cầm đầu quỳ một gối nói:
- Tham kiến Điện hạ!
Dương Nguyên Khánh vội hỏi:
- Chuyện xảy ra khi nào?
- Chính là sáng hôm nay. Một đội kỵ binh Đột Quyết khoảng ba mươi ngàn người giết đến quận Lâu Phiền. Bọn chúng phóng hỏa thiêu hủy thành Lam Thành thuộc huyện Tĩnh Nhạc, giết hơn ngàn người già yếu không kịp bỏ chạy, sau đó nhằm hướng Thái Nguyên bỏ đi rồi.
Tin tức ngoài ý muốn này khiến cho nội tâm Dương Nguyên Khánh loạn cả lên. Tại sao hắn không có phát hiện gì. Trong phạm vi hai trăm dặm quanh đây đều phủ đầy thám báo quân Tùy tuần tra trinh sát. Nếu quân Đột Quyết tiến vào thì chắc chắn là hắn phải biết. Đội kỵ binh Đột Quyết này từ đâu đến? Chẳng lẽ là mọc cánh bay qua?
Lúc này, Ngưu Tiến Đạt ở bên cạnh nói:
- Điện hạ, hẳn là kỵ binh Đột Quyết tiến vào từ quận Nhạn Môn.
Một câu này đã nhắc nhở Dương Nguyên Khánh. Tuy rằng bên phía quận Nhạn Môn đã bố trí năm ngàn quân nhưng năm ngàn quân này chủ yếu dùng để canh giữ bên mặt đông khe núi Quân Đồ, phía tây không có quân đóng giữ. Mà hầu hết dân cư của quận Nhạn Môn đã rút lui về phía nam, do đó, nếu quân Đột Quyết có tiến qua thì cũng ít có khả năng bị phát hiện.
Dương Nguyên Khánh chắp tay sau lưng đi qua đi lại. Thật không ngờ tin tình báo này đã làm rối loạn kế hoạch của hắn. Trong nội địa Hà Đông, chỉ có thành Thái Nguyên là có bốn mươi ngàn quân trú đóng, thêm năm ngàn quân đóng ở huyện Hoắc Ấp, còn lại các huyện đều không có quân đội trú đóng. Nếu đại quân Đột Quyết giết đến nội địa Hà Đông, vậy thì hậu quả khó có thể tưởng tượng được.
Bên phía Hà Đông thì hắn có chuẩn bị một số phương án, hầu hết dân chúng đều đã lui vào trong thành Thái Nguyên hoặc rút lui về quận Thượng Đảng, nhiều nhất cũng chỉ có tài sản bị tổn thất lớn. Quan trọng là Hà Bắc, bên đó không hề có bất kỳ sự chuẩn bị phòng ngự nào, gần như không đề phòng.
Nếu ba mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết giết hết Hà Đông lại giết thẳng lên Hà Bắc, vậy thì toàn bộ sinh linh Hà Bắc sẽ rơi vào cảnh đồ than. Nghĩ vậy, hắn liền lấy ra một cái kim bài, lòng nóng như lửa đốt đưa cho một gã thân binh rồi nói:
- Ngươi theo khe núi Quân Đồ, nhanh chóng đến U Châu, lện cho Hầu Mạc Trần Nghệ xuất binh ngăn chặn khe núi Phi Hồ, quyết không để kỵ binh Đột Quyết tiến vào Hà Bắc.
Lúc này, Ngưu Tiến Đạt lo lắng nói:
- Điện hạ, không thể tiếp tục kéo dài nữa rồi.
Dương Nguyên Khánh ngẩn đầu nhìn thoáng qua bầu trời đầy mây đen, hắn không khỏi thở dài. Mặc dù hắn muốn bảo tồn thực lực, không muốn quyết chiến với Đột Quyết, nhưng hiện tại, xem ra hắn đã không thể đợi được đến khi thời tiết thay đổi nữa rồi.
Từ sau khi quân Tùy ở phía bắc lùi về phía sau, Vương Thế Sung lại chỉnh đốn binh mã, mộ binh bốn phía. Tiếc rằng Dương Nguyên Khánh chỉ cấp cho y hai quận Hà Nam và Hoằng Nông, nhân khẩu không đủ. Hơn nữa y trưng binh rất gấp, khiến cho dân chúng khủng hoảng, một lượng lớn dân chúng đã trốn sang hai quận Toánh Xuyên và Huỳnh Dương.
Bộn rộn gần hai tháng, cuối cùng Vương Thế Sung cũng chiêu mộ được hai mươi ngàn người, cộng thêm mười ngàn quân còn sót lại, hiện tại Lạc Dương chỉ có ba mươi ngàn quân bảo vệ.
Mấy năm nay chiến loạn liên tục, lương thực lại thiếu khiến cho dân chúng quận Hà Nam rơi vào cảnh lầm than, dân chúng không ngừng bỏ trốn khiến cho lượng nhân khẩu do Vương Thế Sung quản lý giảm mạnh.
Rơi vào đường cùng, Vương Thế Sung đành phải hạ lệnh đưa toàn bộ dân chúng ở Huỳnh Dương và Hà Nam tập trung về Lạc Dương, tổng cộng có hơn hai trăm ngàn, còn những vùng đất bên ngoài Lạc Dương thì trở nên đồng không mông quạnh, hiếm thấy bóng người.
Trên thực tế, giang sơn của Vương Thế Sung cũng chỉ còn lại một tòa thành cô độc. Y không muốn nhìn thấy kết cục này, nhưng y lại không thể không tiếp nhận sự thật tàn khốc này.
Vương Thê Sung đã hoàn toàn trầm luân. Y đem chính vụ giao cho thế tử Vương Ứng Huyền, đem quân đội giao cho cháu trai Vương Nhân Tắc, còn y thì ở trong cung, cùng một đám cung nữ uống rượu ca hát, sống một cuộc sống mơ mơ màng màng. Theo lời y nói, làm Hoàng đế một ngày thì còn được hưởng thụ cuộc sống xa xỉ của bậc Đế Vương thêm một ngày.
Nhưng đúng vào lúc y tuyệt vọng nhất thì cơ hội lại xuất hiện. Đột Quyết xâm nhập phía nam khiến cho Dương Nguyên Khánh buộc phải co rút tuyến phòng ngự lại, buông bỏ quận Tương Thành, quận Dương và quận Dĩnh Xuyên.
Tuy rằng Dương Nguyên Khánh không nói rõ, nhưng Vương Thế Sung cũng hiểu được ý tứ ẩn dấu của Dương Nguyên Khánh, y lập tức ra lệnh cho Vương Nhân Tắc thống lĩnh mười ngàn quân chiếm lấy quận Toánh Xuyên, lại lệnh cho thế tử Vương Ứng Huyền lĩnh suất mười ngàn quân chiếm lấy quận Tương Thành.
Vương Thế Sung tỉnh táo lại, lựa chọn từ trong số dân của thành Lạc Dương ra ba mươi ngàn thanh niên cường tráng, cưỡng chế bọn họ nhập ngũ, do y đích thân huấn luyện mỗi ngày.
Lúc này, dã tâm của Vương Thế Sung bắt đầu bành trướng. Hiện tại Dương Nguyên Khánh chỉ khống chế quận Huỳnh Dương và quận Đông. Như vậy, quận Lương, quận Đông Bình, quận Tế Âm, quận Tiếu ở phía đông và quận Hoài An, quận Nhữ Nam, quận Nam Dương và quận Tích Dương ở phía nam, y có thể dễ dàng chiếm lĩnh rồi.
Chưa bao giờ Vương Thế Sung nghĩ mình là người vô tài vô đức. Y văn võ song toàn, hiểu được đạo lý nghỉ binh dưỡng dân, hiểu được cách thu mua lòng người. Y có trí thống nhất thiên hạ, thành lập cơ nghiệp muôn đời.
Chỉ có điều thời vận của y không tốt, tuy khống chế được Lạc Dương nhưng lại là nơi tứ bề thọ địch, bị ba đại cường địch là Tùy Đường Ngụy vây quanh, mấy năm nay liên tục bị chinh phạt khiến cho binh lực của y hao hụt, căn cơ tan vỡ. Nhưng chỉ cần có thể cho y thời gian từ ba đến năm năm chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thảo, y chắc chắn mình sẽ trở thành thế lực hùng mạnh nhất Trung Nguyên.
Ngay tại thời điểm Vương Thế Sung đang hăng hái, chuẩn bị ra tay ra chân cũng là lúc một tin tức khiến y gần như tuyệt vọng truyền đến, triều Đường xuất binh rồi. Hai trăm ngàn quân Đường từ Quan Trung và Kinh Tương thẳng hướng đến Lạc Dương. Vương Thế Sung ngửa mặt lên trời rên rỉ ba tiếng, lại luống cuống tay chân ra lệnh cho Vương Nhân Tắc và Vương Ứng Huyền rút quân, quay về Lạc Dương.
Trong thành Lạc Dương là một mảnh hỗn loạn, rất nhiều dân chúng bắt đầu bỏ trốn. Vương Thế Sung thấy dân tâm ngày một xa liền định ra nghiêm hình tuấn chế. Trong nhà có một người chạy trốn lập tức giết cả nhà bất kể già trẻ, vợ chồng, huynh đệ, nhưng nếu tự giác bẩm báo sẽ được tha tội.
Lại lệnh cho năm nhà cùng bảo vệ. Nếu một nhà phản bội trốn đi mà hàng xóm không phát hiện ra, lập tức giết toàn bộ láng giềng. Do lượng người bỏ trốn rất đông, nên lượng người ra ngoài đốn củi, khai khoáng đều bị hạn chế.
Vương Thế Sung lại lấy hoàng cung làm nhà tù, phàm người nào cất lời bất mãn lập tức bắt giữ, tính cả người nhà, toàn bộ đưa vào trong cung, không cấp lương thực, mặc kệ chuyện sinh tử. Mà quân nhân ra ngoài trinh sát tuần tra, người nhà của tướng sĩ cũng bị đưa vào trong cung.
Vương Thế Sung cũng hiểu được đại thế đã mất, hắn trầm luân lần nữa, ôm người đẹp trốn trong cung, cả ngày sống cuộc sống mơ mơ màng màng.
Sáng sớm hôm nay, một tiếng bước chân dồn dập từ ngoài cung truyền đến. Vài tên thị vệ kinh hãi hô lên:
- Tướng quân, ngài không thể vào trong được!
- Cút hết cho ta!
Đây là giọng nói của Vương Nhân Tắc. Chỉ thấy một hình bóng vừa lóe lên, Vương Nhân Tắc một thân khôi giáp đã vọt vào phòng ngủ của Vương Thế Sung. Lúc này, Vương Thế Sung đã tỉnh, y chậm rãi mở to đôi mắt, lạnh lùng liếc nhìn Vương Nhân Tắc:
- Ngươi mang kiếm xông vào cung là muốn giết ta sao?
Chương 933 : Thu hoạch ngoài ý muốn . (1)
Vương Nhân Tắc quỳ một gối, khẩn trương nói:
- Bệ hạ, quân Đường đã giết đến nơi, hiện đang đóng quân ngoài thành. Hiện tại quân tâm dao động, khẩn cầu Bệ hạ đứng ra trấn an!
Tuy rằng Vương Thế Sung bị bức phải bỏ đi niên hiệu, nhưng trên thực tế, danh hiệu của y vô cùng hỗn loạn. Có người gọi y là Vương gia, lại có người gọi là Bệ hạ. Đến bản thân y cũng không hiểu được rốt cuộc mình là cái gì?
Vương Thế Sung nghe nói quân Đường đã giết đến liền đứng thẳng lên, nhưng lại cảm thấy trời đất quay cuồng, suýt nữa ngã sấp xuống đất. Vương Nhân Tắc cuống quít đỡ lẫy y:
- Bệ hạ, xin cẩn thận!
Vương Thế Sung ổn định tinh thần, khoát tay nói:
- Ta không sao. Đến đầu thành xem sao.
Thời khắc không muốn đối mặt nhất cuối cùng đã tới. Vạn bất đắc dĩ, Vương Thế Sung đành phải đi lên đầu thành. Y vừa đến đầu thành ở phía tây, thò người ra nhìn xuống phía dưới, quang cảnh phía dưới lập tức khiến y cảm thấy mê muội.
Chỉ thấy ngoài thành, quân đội che trời phủ đất, cờ xí như mây, dường như trời đất cũng bị che lấp. Hai trăm ngàn quân Đường mới chỉ sắp hàng mà khí thế tỏa ra cũng khiến cho những người trên đầu thành cảm thấy tuyệt vọng.
Quân Đường cũng không vội công thành. Bọn họ không ngừng biến hóa trận hình, dương như muốn dùng khí thế để uy hiếp quân đội trên đầu thành. Ở phía xa xa, đỉnh lều lớn dày đặc như nấm mọc sau mưa, hết cái đỉnh lều này lại đến cái đỉnh lều khác, liếc qua cũng không kịp nhìn thấy điểm kết thúc.
Mặc dù Vương Thế Sung cũng trải qua trăm trận chiến, nhưng hai tháng nay, tinh lực toàn thân y đều vì tửu sắc quá độ mà mất hết, ý chí giảm sút. Không ngờ khí thế của quân Đường ở ngoài thành lại khiến cho hai cổ tay y run rẩy, sắc mặt trắng bệch, đôi môi run lên, một câu cũng không thốt ra được. Hiện tại y đã hoàn toàn mất đi tư thế của một kẻ kiêu hùng.
Đúng lúc này, thế tử Vương Ứng Huyền dẫn theo một gã thương nhân trẻ tuổi chạy vội lên đầu thành, miệng hô to:
- Phụ thân!
Vương Thế Sung ngơ ngác nhìn hai trăm ngàn quân Đường ở dưới tường thành, dường như không hề nghe thấy hai tiếng “Phụ thân!” vậy. Vương Ứng Huyền chạy lên đến nơi, thở hồng hộc nói:
- Có tin tốt!
- Tin tốt?
Vương Thế Sung quay đầu lại, ánh mắt đầy nghi hoặc nhìn thoáng qua đứa con:
- Có tin tốt gì?
Lúc này, tên thương nhân trẻ tuổi mới tiến lên thi lễ:
- Ty chức Khổng Ứng Thắng, là Giáo úy ở Hổ Lao Quan. Sở Vương Điện hạ có một phong thư khẩn cấp gửi đến cho Vương gia. Thư được đưa tới Hổ Lao Quan, hiện tại ty chức mang nó đến cho Vương gia.
Vương Thế Sung nghe thấy Dương Nguyên Khánh có thư gửi cho mình, tinh thần rung lên, vội vàng hỏi:
- Thư ở đâu?
Hai tay người đưa thư dâng lá thư lên, Vương Thế Sung vội vàng nhận lấy, tay chân luống cuống mở ra. Y liếc mắt một cái thấy thư này do Dương Nguyên Khánh tự tay viết và ký tên, đúng là bút tích của Dương Nguyên Khánh. Vương Thế Sung vội vàng đọc hết. Lúc đó, ánh mắt của Vương Thế Sung rực sáng, trong lòng dấy lên một tia hi vọng.
Vương Nhân Tắc và Vương Ứng Huyền ở bên cạnh đều chú ý đến vẻ mặt của Vương Thế Sung. Bọn họ phát hiện sự thay đổi trên mặt Vương Thế Sung, tinh thần lập tức rung lên, hai người đồng thanh hỏi:
- Là tin tốt gì?
Niềm tin của Vương Thế Sung dần hồi phục, y nhìn thoáng qua vẻ mặt của hai người, sau đó nở một nụ cười:
- Dương Nguyên Khánh nói, chỉ cần chúng ta có thể kiên trì năm ngày là hắn có thể chấm dứt chiến dịch ở phương bắc, lập tức chạy tới cứu viện chúng ta.
Vương Nhân Tắc và Vương Ứng Huyền mừng rỡ. Vương Nhân Tắc kìm không kìm nén được vui sướng trong lòng bèn nói:
- Dương Nguyên Khánh thật sự sẽ đến kịp sao?
Vương Thế Sung gật đầu:
- Hắn sẽ không nói ngoa, bởi vì hắn cũng không muốn quân Đường chiếm được Lạc Dương.
Nói đến đây, cảm giác sợ hãi trong lòng Vương Thế Sung liền biến mất, y đứng thẳng lưng, lớn tiếng hô hào binh sĩ đang đứng trên thành:
- Ba quân tướng sĩ nghe đây, ta sẽ lấy ra toàn bộ vàng bạc tiền tài. Giết chết một tên lính Đường được thưởng năm mươi xâu tiền và mười mẫu ruộng.
Ở quận Hội Ninh, bóng ma chiến tranh bao phủ mảnh đất bên cạnh dãy núi Hoàng Hà này. Nơi này vốn là một vùng núi đá cằn cỗi, nhưng từ khi phát hiện ra nó chứa một lượng lớn của cải tiền tài thì liên tục trở thành tiêu điểm của hai quân Tùy Đường.
Từ sau khi phát sinh nguy cơ về ngân tiền, quân Tùy bèn tăng cường binh lực cho quận Hội Ninh. Nhưng sau khi Đột Quyết ở phía nam xâm phạm, Dương Nguyên Khánh liền triệu hồi một lượng lớn quân Tùy ở phía đông trở về Thái Nguyên, khiến cho quân coi giữ quận Hội Ninh chỉ còn lại có mười ngàn người, do Tổng quản Hội Châu Mã Thiệu thống lĩnh.
Giữa trưa ngày hôm nay, một đội kỵ binh quân Tùy có khoảng hai ngàn người hăng hái hành quân. Đại tướng cầm đầu là Tổng quản Hội Châu Mã Thiệu, y vừa mới nhận được mệnh lệnh của Dương Nguyên Khánh, buông tha quận Hội Ninh, toàn quân lùi về giữ quận Linh Võ, trợ giúp Tổng quản Phong Châu là Tướng quân Bùi Nhân Cơ cùng quân dân rút về Phong Châu.
Đối với những mệnh lệnh do Dương Nguyên Khánh truyền đạt, Mã Thiệu chưa bao giờ hỏi vì sao, y luôn luôn chấp hành một cách nghiêm chỉnh. Trong mệnh lệnh còn có một hành động khác, yêu cầu y trước khi đi phải phá hủy toàn bộ công trường khai thác quặng mỏ.
Kỵ binh chạy một mạch, xuyên qua một mảnh đất trống giữa các lều trại. Những lều trại này vốn là của những người thợ khai thác mỏ dùng để ở, nay chỉ còn lại toàn là rác rưởi. Mấy tháng trước, sau khi quân Tùy xây xong công trường khai thác mỏ bạc thì nơi này đã không còn một bóng người, toàn bộ thợ mỏ đều được đưa lên phía bắc, đến núi Xích Thiết.
Mặc dù Dương Sư Đạo đã hứa hẹn với triều Đường là sẽ đóng cửa mỏ bạc, nhưng đóng cửa chứ không phá hủy chỗ ở và bến tàu. Hơn mười nhà kho tiêu phí hơn hai tháng mới xây dựng và cải tạo xong vẫn đứng sừng sững trong gió rét.Trong kho hàng chất đầy xe đẩy dùng để vận chuyển khoáng thạch, còn có rất nhiều khí cụ dùng để khai thác quặng mỏ.
Trên bến tàu còn có hơn trăm chiếc thuyền đáy bằng đang thả neo, trên núi còn có hơn chục cái hầm mỏ. Chính từ những cái hầm mỏ này mà những người thợ đào mỏ mới không ngừng khai thác được một lượng lớn quặng bạc và quặng đồng phẩm chất cao.
Toàn bộ đều phải phá hủy, không thể để lại cho quân Đường một chút gì. Mã Thiệu liếc mắt nhìn thoáng qua một cái hầm mỏ bị bỏ trống, dùng roi ngựa chỉ:
- Phá hủy tòa bộ!
Mệnh lệnh vừa ban ra, hai ngàn quân Tùy lập tức hành động. Bọn họ gom những chiếc thuyền con lại một chỗ, tưới dầu hỏa lên, sau đó dùng một mồi lửa thiêu đốt. Trên bến tàu, khói đen không ngừng bốc lên. Chẳng mấy chốc mà bến tàu đã bị phá hủy, nhà kho bị kéo đổ.
Tất cả đồ dùng bằng gỗ cũng không bị đốt cháy một cách đơn giản. Quân Tùy chất đống trong các hầm mỏ, sau đó mới châm lửa đốt. Lửa lớn thiêu đốt toàn bộ vật dụng còn sót lại trong hầm mỏ, tỏa ra nhiệt độ vô cùng cao. Bọn lính lập tức đem nước sông lạnh như băng đổ vào, đá tảng vỡ tan, hầm mỏ sụp đổ trong nháy mắt.
Thời đại này chưa có chất nổ, bình thường đều dùng cách thức đơn giản này để lấy quặng hoặc để phá đá. Hoăn một canh giờ sau, một tòa mỏ quặng đã bị phá hủy triệt để. Quân Tùy đồng loạt lên ngựa, lại hướng đến một tòa mỏ quặng khác cách đó mười dặm.
Ở quận Linh Võ bên cạnh Hoàng Hà, cuộc rút lui quy mô lớn đã bắt đầu được hai ngày. Để tránh né kỵ binh Đột Quyết mà hơn hai trăm ngàn dân chúng Phong Châu phải rút về phía nam, một lần nữa rời khỏi quê hương Phong Châu.
Quận Linh Võ có hơn trăm ngàn hộ dân, tổng cộng gần bốn trăm ngàn người đồng loạt rút lui. Đây chính là mệnh lệnh do đích thân Sở Vương Dương Nguyên Khánh truyền đạt, lệnh cho toàn bộ dân chúng rút về Phong Châu.
Khoảng mười dặm trên mặt sông Hoàng Hà đã đóng băng hiện lên vô số ván trượt tuyết loại lớn, ước chừng có hơn mười ngàn cái. Trên mỗi ván trượt là già trẻ lớn bé của một gia đình cùng toàn bộ tài sản quan trọng, chủ yếu là tiền bạc, lương thực, da dê, công cụ, vũ khí và quần áo. Súc vật thì được dùng để kéo ván trượt tuyết.
Bọn họ lấy trăm hộ làm một đội, được chục tên kỵ binh bảo vệ, dưới từng đợt hò hét của nam nữ già trẻ trong nhà, từng ván trượt tuyết lần lượt được trâu ngựa kéo đi, chậm rãi hướng về phương bắc.
Tốc độ của xe trượt tuyết rất chậm, kỵ binh lững thững đi bên cạnh. Lúc này, kẻ địch của bọn họ không phải là quân Đường mà là những bầy sói thường xuất hiện vào mùa đông.
Ở bờ sông, Tổng quản Phong Châu Bùi Nhân Cơ nhìn từng đoàn ván trượt tuyết rời đi. Bọn họ đã đi liên tục được hai ngày rồi, số người còn lại cũng không nhiều lắm.
Y có thể hiểu được mệnh lệnh của Sở Vương. Con người là tài nguyên quý giá nhất, có thể để triều Đường chiếm được đất đai, nhưng người thì quyết không thể để lại. Đã không có người dân, quân Đường cũng không thể bảo vệ được quận Linh Võ.
- Tổng quản, có đợi Mã Tướng quân trở về rồi cùng đi không?
Thái thú quận Linh Võ là Ngư Toàn Hồng đứng ở bên cạnh lên tiếng hỏi.
Bùi Nhân Cơ lắc đầu:
- Không cần chờ y. Ta sẽ để lại vài thám báo báo tin cho y.
Bùi Nhân Cơ bỗng nhiên hiểu ra ý tứ của Ngư Toàn Hồng, y cất tiếng cười ha hả rồi nói:
- Người cũng xem như đã đi hết rồi, Ngư Thái thú cũng có thể đi được rồi, ta chờ thêm một chút nữa.
Mặt Ngư Toàn Hồng đỏ lên, chắp tay ôm quyền rồi nói:
- Vậy hạ quan xin đi trước một bước. Bùi Tướng quân, bảo trọng.
Bùi Nhân Cơ khẽ mỉm cười:
- Chúc Ngư Thái thú thuận buồm xuôi gió!
Chương 933 : Thu hoạch ngoài ý muốn . (2)
Ba mươi ngàn kỵ binh Đột Quyết xuôi nam đã phá vỡ sự cân bằng của hai quân Tùy Đột, khiến cho cuộc chiến ở quận Mã Ấp lại trở nên tinh tế. Lúc này, Đột Quyết đang nắm thế chủ động, Khả Hãn Hiệt Lợi nắm được điểm yếu của quân Tùy, y bắt đầu chủ động rút quân về phương bắc, vượt qua sơn khẩu Võ Chu, tiếp tục rút lui về hướng hồ Khất Phục.
Y muốn dẫn dụ quân Tùy tới thảo nguyên rồi mới quyết chiến. Trong tâm y hiểu rõ, ba mươi ngàn quân Đột Quyết xuôi nam giống như một sợi dây thừng dắt quân Tùy. Nhất định bọn chúng phải mau chóng quyết chiến với mình mới có thể giải quyết mối nguy ở phía nam.
Nhưng bất cứ chuyện gì cũng không thể hoàn hảo, Mặc dù kế hoạch của Khả Hãn Hiệt Lợi là rút lui về phía bắc, quyết chiến với quân Tùy ở thảo nguyên, nhưng kế hoạch này cũng không nhận được sự tán thành của tất cả mọi người. Màn đêm vừa buông xuống, đại quân Đột Quyết vượt qua sơn khẩu Võ Chu, những đỉnh lều lớn được dựng lên sừng sững giữa thảo nguyên.
Khả Hãn Hiệt Lợi đứng trước địa đồ, cẩn thận quan sát vị trí của quân Tùy. Y nhận được báo cáo của trinh sát tuần tra, chủ lực của quân Tùy vẫn đi theo đại quân của y, còn cách khoảng bốn mươi dặm. Khả Hãn Hiệt Lợi đắc ý híp mắt mỉm cười, y có cảm giác như mình sắp câu được một con cá lớn.
Hẳn là ngày mai, chậm nhất là ngày mốt sẽ xảy ra quyết chiến rồi. Ngày mai, hai trăm ngàn đại quân của y sẽ đánh tan quân Tùy. Sau khi trận chiến này kết thúc, y cũng không cần vội vã trở về thảo nguyên, y sẽ ở lại Hà Đông tận hưởng những ngày khó quên nhất đời, cũng là một mùa đông vinh quang nhất trong sự nghiệp của y cho đến mùa xuân sang năm mới trở lại thảo nguyên.
Đúng lúc này, phía ngoài Vương trướng vang lên âm thanh khà khàn của Đại tù trưởng Hồi Hột Bùi Tát:
- Ta muốn gặp Khả Hãn, các ngươi để cho ta vào.
- Không được! Khả Hãn có lệnh, ngài đang suy nghĩ quân vụ, không cho bất cứ ai quấy rầy.
- Sự tình trọng đại, các ngươi nhất định phải cho ta vào.
Giọng của Bùi Tát có chút gấp gáp.
Khả Hãn Hiệt Lợi đi đến trước cửa, lạnh lùng nói:
- Các ngươi để cho y vào đi!
Bùi Tát bước vào Vương trướng, có chút lo lắng nói:
- Khả Hãn, chúng ta nhất định phải lập tức rút quân, không thể tiếp tục kéo dài!
- Vì sao?
Ánh mắt của Khả Hãn Hiệt Lợi vừa giãn ra lại tiếp tục híp lên, lạnh lùng nhìn Bùi Tát. Y không tin người Hồi Hột lại không biết dụng ý của mình, không ngờ tại thời điểm mấu chốt lại đề nghị rút quân về phương bắc. Rốt cục Bùi Tát có ý gì? Mục đích của y là gì? Chẳng lẽ đây là phương pháp chống đối để thể hiện sự bất mãn sao?
Lần trước thảo luận phân phó nhiệm vụ đã cãi nhau khiến Tiết Diên Đà và Hồi Hột ra về mà không vui. Cuối cùng Khả Hãn Hiệt Lợi cũng nhượng bộ, y đích thân tìm Bùi Tát, tỏ rõ là sẽ cho dù y đến quyết định phân phối chiến lợi phẩm nhưng trước đó y cũng sẽ thương lượng với Bùi Tát một chút, như vậy liền giải quyết xong lần phân tranh trước.
Lúc này mới qua được mấy ngày, ở thời điểm mấu chốt thế này mà người Hồi Hột lại gây rối, khiến cho Khả Hãn Hiệt Lợi cảm thấy tức giận. Y kiềm chế sự bất mãn trong lòng, chờ đợi Bùi Tát cho mình một lý do.
Bùi Tát bước nhanh ra khỏi lều lớn, chỉ về bầu trời ở phương bắc, nói với Khả Hãn Hiệt Lợi:
- Chẳng lẽ Khả Hãn không nhìn thấy mây đen ở bên kia sao? Mấy ngày trước vẫn chỉ là mấy cụm mây đen, vậy mà hôm nay đã dày đặc như mực. Đây là hiện tượng thời tiết gì, người thảo nguyên nào mà không biết rõ? Chẳng lẽ Khả Hãn thật sự không thèm để ý tới sao?
Lời của Bùi Tát khiến cho bọn thị vệ ở xung quanh có chút bất an. Bọn họ đều biết đó là dấu hiệu của tuyết lớn ở thảo nguyên. Hiện tại thảo nguyên ở phương bắc đã xuất hiện tuyết lớn rồi, chỉ có điều là tuyết lớn còn chưa kéo đến nơi này, nhưng sẽ tới rất nhanh, chậm nhất là hai ba ngày nữa thôi.
Khả Hãn Hiệt Lợi không chút nhúc nhích, làm sao y lại không biết điều này. Y còn biết rõ hơn người khác là bão tuyết sắp đến, y cũng hiểu được là hiện tại đã không thể trở về thảo nguyên được nữa rồi, vì thế y mới quyết định ở lại Hà Đông đến hết mùa đông.
Chiến tranh đã bước đến thời khắc quan trọng nhất. Lúc này, dù trên trời có rơi xuống mưa đao thì cũng phải đánh tiếp trận này.
- Đại tù trưởng về đi! Chiến tranh sắp bắt đầu, không được làm ảnh hưởng tới sĩ khí.
Giọng điệu của Khả Hãn Hiệt Lợi rất lãnh đạm, y vốn là một người rất lạnh lùng. Trong mắt người Đột Quyết, bất kể là người Thiết Lặc, người Hồi Hột, người Tiết Diên Đà hay người Hiệt Dát Tư cũng đều là nô bộc của người Đột Quyết, là dân tộc hạ đẳng bị bọn họ chinh phục. Ở trước mặt Đại Khả Hãn chí cao vô thượng của Đột Quyết, bọn họ không có tư cách nói chuyện ngang hàng, càng không có tư cách đề xuất dị nghị, chỉ trích tư cách của Khả Hãn Đột Quyết.
Khả Hãn Hiệt Lợi không kìm được nữa, lửa giận trong lòng đã không còn kiềm chế được nữa rồi, sắp bị bức cho bùng nổ. Y dùng ánh mắt sắc lạnh như đao nhìn chằm chằm Bùi Tát, bàn tay chậm rãi đặt lên chuôi đao. Chỉ cần Bùi Tát dám nói một chữ “Không!” thì y sẽ làm thịt Bùi Tát ngay lập tức.
Thấy động tác đặt tay lên chuôi đao của đối phương, nội tâm Bùi Tát kinh hãi, theo bản năng bước lùi về sau hai bước. Lúc này y đã cảm nhận được sát khí trong mắt đối phương. Bùi Tát cúi đầu, ở thời điểm mấu chốt này, y không thể tiếp tục động chạm đến đối phương, trước tiên cần phải bảo vệ tính mạng của mình.
Bùi Tạt đặt tay trước ngực, khom người thi lễ:
- Đại Khả Hãn Đột Quyết là chim nhạn đầu đàn của thảo nguyên, tất cả chim nhạn của thảo nguyên đều nguyện ý bay theo ngài, Hồi Hột cũng không ngoại lệ. Ta cáo từ.
Bàn tay đè lên chuôi đao của Khả Hãn Hiệt Lợi dần lỏng ra, trên mặt y lộ ra một nụ cười dối trá:
- Đi thôi! Hi vọng lúc đối đầu với quân Tùy trên chiến trường ta có thể thấy các dũng sĩ Hồi Hột biểu hiện sự dũng mãnh như hùng ưng trên thảo nguyên.
Bùi Tát lại thi lễ rồi lui xuống. Khả Hãn Hiệt Lợi nhìn bóng dáng y dần xa, không khỏi cười lạnh một tiếng. Loại người nhu nhược vô dụng, phải dọa dẫm mới chịu nghe lời. Đương nhiên là Khả Hãn Hiệt Lợi sẽ không giết Bùi Tát, đây là đêm trước chiến tranh, y cũng không muốn nội chiến bùng phát.
Bùi Tát trở lại lều của mình, chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong lều, trong lòng cực kỳ lo lắng. Cũng không phải y chỉ vì bão tuyết sắp xảy ra mà lo lắng, điều y lo lắng hơn chính là tương lai của Hồi Hột.
Mười mấy năm trước, bốn bộ lạc người Thiết Lạc là Vi Hột, Phó Cốt, Đồng La, Bạt Dã Cổ vì không chịu sự nô dịch của Đột Quyết mà kết thành đồng minh chống lại Đột Quyết, thống nhất xưng là Hồi Hột. Tuy rằng bọn họ đã thoát khỏi sự khống chế của Đột Quyết một lần, nhưng lại nhanh chóng bị sự mạnh mẽ, cứng rắn của bộ lạc Khải Dân đánh bại, một lần nữa bị Đột Quyết chinh phục.
Mà hai năm trước, khi Đột Quyết thảm bại ở Phong Châu khiến cho các bộ lạc Thiết Lạc lại thấy được hy vọng độc lập. Nhưng Đột Quyết cực lực khống chế, khiến cho bọn họ trong suốt hai năm qua vẫn ở một tình trạng lùi một bước thì trời cao biển rộng, mà tiến thêm một bước thì giống như bị tơ nhện quấn quanh thân treo lơ lửng trên vách núi.
Bùi Tát cũng ý thức được, hiện tại, bất kể là Đột Quyết hay các bộ lạc Thiết Lặc đều đã ở vào thời điểm trước đêm nổi loạn. Hoặc là Đột Quyết chiến thắng triều Tùy, lại hùng mạnh thêm lần nữa, các bộ lạc Thiết Lặc từ nay về sau trầm luân. Hoặc là Đột Quyết thất bại, từ nay về sau các bộ lạc Thiết Lạc có thể bước đi trên con đường độc lập.
Nhưng bất kể thế nào, y cũng nên làm chút gì đó. Cuối cùng Bùi Tát cũng hạ quyết tâm.
Y đi đến cửa lều, ra lệnh:
- Gọi Thổ Mê Độ lại đây!
Một lát sau, một gã Thiên phu trưởng cực kì trẻ tuổi, dáng người khôi ngô bước vào trong lều lớn, khom người thi lễ:
- Đại tù trưởng tìm ta có việc gì sao?
Gã Thiên phu trưởng trẻ tuổi này tên là Thổ Mê Độ, năm nay mới chỉ mười tám tuổi, được xưng là đệ nhất dũng sĩ Hồi Hột, là thị vệ trưởng của Bùi Tác, cũng là người được y tín nhiệm nhất.
Bùi Tát lấy ra một phong thư đưa cho y, thấp giọng nói:
- Ngươi lập tức xuôi nam, tìm đại doanh quân Tùy, đem phong thư này giao cho Sở Vương Dương Nguyên Khánh.
Lúc này, đại quân chủ lực của Dương Nguyên Khánh chỉ còn cách đại doanh Đột Quyết có bốn mươi dặm. Màn đêm buông xuống, bọn họ cũng tiến hành hạ trại. Lúc này Dương Nguyên Khánh đã nhìn thấy được tâm lý được ăn cả ngã về không của Khả Hãn Hiệt Lợi, cho dù là bão tuyết có đến thì người Đột Quyết cũng không rút về phương bắc.
Hơn nữa, hiện tượng thiên văn ở phương bắc đã biểu hiện rõ ràng, một trận bão tuyết đang tàn sát bừa bãi ở thảo nguyên. Trên thực tế, quân Đột Quyết đã không thể trở về, bọn họ chỉ có thể tử chiến đến cùng. Mà Dương Nguyên Khánh hắn cũng không có lựa chọn khác. Nếu hắn không xử lý xong đại quân Đột Quyết, hắn cũng không thể trở về giải quyết nguy cơ bị triều Đường xâm lấn.
Đây là một chiến dịch mấu chốt liên quan đến sự ổn định của biên giới phía bắc. Chiến dịch này kết thúc, biên giới phía bắc sẽ có được thời kỳ yên bình khoảng mười năm, Dương Nguyên Khánh hắn cũng có thể tập trung tinh lực thống nhất thiên hạ.
Lúc này, La Sĩ Tín xuất hiện ở bên cạnh, trầm giọng nói:
- Điện hạ, ty chức có một vấn đề liên quan đến Đột Quyết vốn làm ty chức khá hoang mang, mong Điện hạ có thể giải thích nghi hoặc.
Dương Nguyên Khánh quay đầu nhìn y một cái, khẽ cười nói:
- Toàn bộ Vương triều Đại Tùy, người am hiểu về Đột Quyết nhất ngoại trừ Trưởng Tôn Thịnh ra, chỉ e chính là Dương Nguyên Khánh ta rồi. Ngươi nói đi! Có điều gì khiến ngươi hoang mang?
Chương 933 : Thu hoạch ngoài ý muốn . (3)
La Sĩ Tín cắn vào môi dưới một cái rồi nói:
- Lúc Điện hạ còn trẻ có tham gia cuộc chiến với Đột Quyết vào năm Khai Hoàng thứ mười chín và hai mươi. Khi đó, quân Tùy có vài lần đại chiến đều là dùng một trăm ngàn quân đại phá mấy trăm ngàn đại quân của Đạt Đầu Tây Đột Quyết. Khi chúng ta còn ở Phong Châu cũng là lấy bảy mươi ngàn đại quân đánh bại ba trăm ngàn quân Đột Quyết. Lần này chênh lệch hai bên còn ít hơn, một trăm ngàn đánh với hai trăm ngàn, vì sao Điện hạ lại cẩn thận như vậy?
Dương Nguyên Khánh mỉm cười:
- Ý ngươi muốn nói là ta bó tay bó chân không dám ra đánh có phải không?
La Sĩ Tín cúi đầu:
- Ty chức không có ý này, nhưng có phải Điện hạ cũng đã quá cẩn thận không?
Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu:
- Nguyên nhân rất đơn giản, bởi vì trận chiến này ta không được để thua. Nếu như chúng ta thua trận chiến này thì cũng là lúc Đại Tùy diệt vong, cho nên ta mới cần phải cẩn thận, rất cẩn thận. Thà rằng để cho ba mươi ngàn quân Đột Quyết phá tan hoang nội địa Hà Đông, thà rằng để cho quân Đường chiếm lĩnh đạo Quan Nội, thà rằng để Vương Thế Sung bị tiêu diệt cũng phải đánh thắng trận chiến này.
Chủ yếu là La Sĩ Tín lo lắng chuyện ba mươi ngàn quân Đột Quyết xuôi nam, tạo thành tổn thất nghiêm trọng cho nội địa Hà Đông. Đã vài lần y xin được xuôi nam giết giặc nhưng đều không được Dương Nguyên Khánh cho phép, khiến cho lòng y vô cùng lo lắng.
- Thuộc hạ có thể hiểu được tình cảnh của chúng ta hiện tại, nhưng Điện hạ có thể để cho Lý Tĩnh dẫn hơn mười ngàn quân xuôi nam, vậy thì ba mươi ngàn quân Đột Quyết cũng sẽ không tạo ra hậu quả quá nghiêm trọng.
Dương Nguyên Khánh hiểu được lo lắng trong lòng La Sĩ Tín, hắn liền vỗ bả vai La Sĩ Tín, cười nói:
- Người không cần quá lo lắng. Mặc dù kỵ binh Đột Quyết sẽ tạo thành tổn thất rất lớn cho nội địa Hà Đông, nhưng đại bộ phận dân chúng đều đã chuyển đến thành Thái Nguyên. Cùng lắm là nhà cửa, thành trì bị phá hủy, chi cần người còn thì còn có thể xây dựng cải tạo lại. Hơn nữa, huyện Hoắc Ấp còn có năm ngàn quân coi giữ, quân Đột Quyết cũng không thể giết đến phía nam, cùng lắm là đến được Thái Nguyên, tàn sát bừa bãi ở hai quận bờ tây sông mà thôi. Được rồi, sắp xảy ra quyết chiến rồi, hiện tại không cần phải lo lắng chuyện ở phía nam nữa.
Dừng lại một chút, Dương Nguyên Khánh lại nói nhỏ:
- Hiện tại quân Đột Quyết không giống với lúc trước. Trước kia trang bị của quân Đột Quyết rất kém cỏi, bình thường đều là dân chăn nuôi, sức chiến đấu rất kém. Nhưng hiện tại, ngoại trừ bì giáp của Đột Quyết là kém áo giáp của quân Tùy, những trang bị khác cũng không thua kém bao nhiêu. Quan trọng hơn là, lần này Khả Hãn Đột Quyết thân chinh, dẫn theo một trăm ngàn quân cận vệ. Một trăm ngàn quân cận vệ này rất có tố chất, là quân đội tinh nhuệ nhất của Đột Quyết, sức chiến đấu không thua gì kỵ binh của quân ta. Trận chiến ngày mai, lúc bắt đầu chính là một cuộc tranh đấu năng lực chỉ huy của hai đội quân trọng giáp của hai bên rồi. Nói thật, ta cũng không nắm chắc mười phần sẽ giành chiến thắng.
La Sĩ Tín yên lặng gật đầu:
- Ty chức đã hiểu. Trận chiến ngày mai, ty chức tuyệt đối sẽ không khinh địch!
Đúng lúc này, một tên lính vội vàng chạy đến thông báo:
- Khởi bẩm Điện hạ, ngoài doanh có một người tự xưng là do Đại tù trưởng Hồi Hột phái tới, muốn cầu kiến Điện hạ.
Dương NGuyên Khánh ngẩn ra, sứ giả Hồi Hột đến đây là có chuyện gì? Hắn không kịp suy nghĩ, vội vàng ra lệnh:
- Nhanh dẫn y tới gặp ta.
Lát sau, một Thiên phu trưởng trẻ tuổi được dẫn đến trước mặt Dương Nguyên Khánh. Y khom người thi lễ:
- Phổ Mê Độ, Thiên phu trưởng Hồi Hột tham kiếm Sở Vương Điện hạ!
Dương Nguyên Khánh thấy vóc dáng người này vô cùng uy mãnh, liền gật đầu, dùng tiếng Đột Quyết hỏi thăm y:
- Ngươi đến tìm ta có chuyện gì?
- Ta phụng lệnh của Đại tù trưởng, mang một phong thư tới cho Điện hạ.
Y lấy thư ra đưa lên cho Dương Nguyên Khánh. Dương Nguyên Khánh nhận lấy phong thư, thư được viết bằng tiếng Đột Quyết. Hắn nhanh chóng nhìn qua một lần, nhíu mày, trong mắt hiện lên một tia kinh ngạc.
Nhưng ngay sau đó, vẻ kinh ngạc lập tức biến mất, sắc mặt khôi phục lại như bình thường. Dương Nguyên Khánh dấu giếm thanh sắc hỏi:
- Đại tù trưởng của các ngươi đã không muốn ra sức cho Đột Quyết, vậy tại sao hiện tại không rút lui?
Thổ Mê Độ lại thi lễ:
- Ty chức chỉ phụ trách truyền tin, những chuyện còn lại ty chức không có quyền trả lời!
Dương Nguyên Khánh nhìn y một cái, đúng là có bổn phận của một thuộc hạ. Dương Nguyên Khánh gật đầu:
- Được rồi, ngươi trở về nói với Đại tù trưởng, thư của y ta đã nhận!
- Ty chức cáo từ!
Thổ Mê Độ thi lễ. Y vừa định lui xuống thì Dương Nguyên Khánh chợt nhớ tới một chuyện, cười nói:
- Thổ Mê Độ Tướng quân có thể giúp ta một chuyện không?
Thổ Mê Độ do dự một chút, cuối cùng cũng không thể từ chối sự nhờ vả do chính miệng Sở Vương đưa ra đành yên lặng gật đầu. Dương Nguyên Khánh nói nhỏ với một gã thân binh bên cạnh vài câu, sau đó đưa cho y một cái ngân bài.
Tên thân binh gật đầu, ôm quyền với Thổ Mê Độ rồi nói:
- Xin mời! Ta tới nhắn nhủ sắp xếp của Điện hạ.
Dương Nguyên KHánh nhìn Phun Mễ Độ đi xa, không ngừng cười cười. Đêm nay người này đến thật đúng là một thu hoạch ngoài ý muốn.
Lúc này, La Sĩ Tín ở bên cạnh có chút lo lắng nói:
- Điện hạ, thời khắc mấu chốt này cần phải đề phòng quân địch có dối trá.
Dương Nguyên Khánh trầm tư một lát. Thật ra, đối với việc Hồi Hột lén phái người tới cũng khiến hắn cảm thấy kinh ngạc, đây cũng không phải chuyện nhỏ, vừa phải đề phòng có sự dối trá, nhưng cũng phải từ sự việc này nhìn ra một tia hy vọng.
- Ta biết, đa tạ ngươi đã nhắc nhở.
Đêm dần khuya, bọn lính đều đã chìm vào giấc ngủ. Dương Nguyên Khánh vẫn còn ở trong lều lớn suy nghĩ việc của Hồi Hột. Chuyện này tới thật bất ngờ, nhưng lại hợp tình hợp lý. Dương Nguyên Khánh giao tiếp với Đột Quyết gần hai mươi năm, hắn vô cùng rõ ràng mối quan hệ giữa Đột Quyết và các bộ lạc Thiết Lặc, trước giờ bọn họ vẫn luôn là loại quan hệ nô dịch và bị nô dịch.
Một dân tộc thảo nguyên hùng mạnh, đầu tiên là mang ý nghĩa chinh phục, chinh phục các dân tộc khác trên thảo nguyên cho tới khi thực lực trở thành số một trên thảo nguyên. Kẻ chinh phục dùng trăm phương ngàn kế để bảo vệ sự thống trị của chính mình, còn kẻ bị chinh phục lại là loại sẵn sàng nổi dậy thoát khỏi sự chinh phục, sau đó lại đi chinh phục kẻ khác.
Đúng là Đột Quyết nô dịch các bộ lạc Thiết Lặc cực kỳ sâu nặng, chúng e sợ các bộ tộc khác trở nên hùng mạnh, cho nên tích cực trọng thu tài phú của các bộ lạc Thiết Lạc. Nhằm làm suy yếu thực lực của các bộ lạc trên thảo nguyên, hàng năm, các bộ lạc Thiết Lặc phải đem một nửa số dê bò ngựa mới đẻ giao cho Đột Quyết.
Loại thuế má áp bức trầm trọng này cũng khiến cho các bộ lạc Thiết Lặc liên tiếp phản kháng, trở thành một thủ đoạn mà các Vương triều ở Trung Nguyên dùng để làm suy yếu Đột Quyết. Trong lịch sử, phần lớn là triều Tùy lợi dụng mâu thuẫn nội bộ của Đột Quyết để làm suy yếu Đột Quyết, ví dụ như nội chiến giữa Đông – Tây Đột Quyết.
Nhưng tới triều Đường thì cải cách lại thành lợi dụng sự phản kháng của các bộ lạc Thiết Lặc để làm suy yếu Đột Quyết, nhưng như vậy sẽ khiến cho một dân tộc cường đại mới sinh ra trên thảo nguyên, ví dụ như Hồi Hột và Khiết Đan.
Bất kể là sự phá hoại ở bên trong của triều Tùy, hoặc là tranh giành ở bên ngoài của triều Đường, thật ra cũng không phải là biện pháp để giải quyết dứt điểm vấn đề. Muốn giải quyết dứt điểm vấn đề này, phải dựa vào sắt và máu.
Dương Nguyên Khánh nhìn mây đen dày đặc phủ kín bầu trời ở phương xa, khẽ thở dài một cái. Dù bất kể thế nào cũng có thể lợi dụng sự phản loạn của Hồi Hột, nhưng không phải trên chiến trường mà là ở thời kì hậu chiến, thời kì xây dựng lại trận tự trên thảo nguyên sau cuộc chiến này.
Lúc này, ánh mắt Dương Nguyên Khánh chuyển hướng về phía phương bắc, trong lòng hắn tràn đầy chờ mong đối với cuộc đại chiến ngày mai.
Trong đêm đen, gió lạnh gào thét, một đội kỵ binh đang chạy gấp trên thảo nguyên. Thiên phu trưởng trẻ tuổi Thổ Mễ Độ dẫn theo ba mươi mấy tùy tùng một đường chạy thẳng.
Ở phía sau y, ngoại trừ hơn mười tùy tùng mà y dẫn theo còn có hơn hai chục thám báo của quân Tùy. Bọn họ đều mặc quân trang của Đột Quyết, cầm đầu là một gã Giáo úy chừng ba mươi tuổi, tên là Chung Căn Sinh, là người Thái Nguyên, có thể nói tiếng Đột Quyết một cách lưu loát, đã từng tham gia cuộc chiến chống Đột Quyết ở Phong Châu. Lần này y phụng mệnh Dương Nguyên Khánh tiến vào khu đại doanh của Đột Quyết.
Tâm tình của Thổ Mê Độ có chút trầm trọng, y không biết mình dẫn quân Tùy tiến vào khu đại doanh có phải là một quyết định chính xác hay không, nhưng y vô cùng hiểu rõ tâm tư của Đại tù trưởng. Đại tù trưởng hy vọng Hồi Hột có thể có được lợi ích dù thắng hay bại. Nếu quân Tùy thất bại, bọn họ có thể cướp lấy chiến lợi phẩm từ quân Tùy, nhưng nếu Đột Quyết thất bại, bọn họ sẽ thu được thứ quý giá nhất, là tự do.
Nhưng thanh niên Thổ Mê Độ lại hy vọng Đột Quyết thất bại. Y cho rằng chiến lợi phẩm dù quý giá mấy cũng không thể sánh được với tự do, thậm chí Hồi Hột còn có thể thay thế Đột Quyết. Chính vì những suy nghĩ đó mà y dứt khoát đáp ứng trợ giúp thám báo quân Tùy.
Đội kỵ binh nhằm hướng tây bắc chạy gấp. Trinh sát tuần tra của Đột Quyết bao phủ một phạm vi chừng mười dặm. Ở phía ngoài, Đột Quyết bố trí hai mươi ngàn lính gác, chia làm ba phòng tuyến, nghiêm ngặt đề phòng quân Tùy lợi dụng đêm tối tập kích đại doanh, nhưng tuyến phòng ngự ở phía tây lại do chính quân Hồi Hột phụ trách.
Đội kỵ binh dần đến gần trạm gác. Trong đêm đen, một đội trinh sát tuần tra gào thét chạy tới. Hơn trăm cây cung nhắm thẳng vào bọn họ:
- Đứng lại!
Chương 934 : Đêm trước trận huyết chiến
Thổ Mê Độ liền tiến lên trả lời:
- Ta, Thổ Mê Độ phụng lệnh Đại tù trưởng ra ngoài làm việc!
Y giơ một cái kim tiễn lên. Lũ lính gác này đều biết y là đệ nhất dũng sĩ của Hồi Hột, lại thấy y có kim tiễn của Đại tù trưởng liền lui xuống. Thổ Mê Độ giục ngựa dẫn mọi người tiếp tục chạy về hướng đại doanh. Liên tiếp vượt qua hai trạm gác, lúc này, đội kỵ binh chỉ còn cách đại doanh không đầy một dặm, đã có thể mơ hồ nhìn thấy hình dáng đen nhanh của lều trướng Đột Quyết.
Thổ Mê Độ ghìm chặt chiến mã, quay đầu trầm giọng nói với Chung Căn Sinh:
- Ở phía trước đã không còn trinh sát tuần tra rồi, ta cũng chỉ có thể trợ giúp đến đây thôi. Khẩu lệnh đêm nay là “Đêm trước đại chiến”, các ngươi tự bảo trọng đi!
Chung Căn Sinh chắp tay thi lễ với y:
- Đa tạ!
Y khoát tay lên, dẫn theo mười chín tên thám báo chạy vội về hướng đông. Thổ Mê Độ nhìn bóng dáng của họ dần xa, không khỏi lắc đầu, giục ngựa chạy về hướng đại doanh của Hồi Hột.
Chung Căn Sinh dẫn theo mười chín thám báo, đầu đội mũ thoát hồn, mặc áo da dày, bên ngoài là bì giáp chắc chắn, dùng lông trâu già thật dày che mặt, hoàn toàn giống với cách ăn mặc của kỵ binh Đột Quyết. Bọn họ chạy dọc theo đại doanh, gấp gáp chạy về hướng đông.
Chung Căn Sinh là một lão trinh sát, đối với cách hạ trại của Đột Quyết y nắm rõ như lòng bàn tay. Bọn họ đã vượt qua ba trạm gác, chỉ cần không tiến vào khu vực Vương trướng thì cũng sẽ không gặp phải rắc rối gì. Hai mươi thám báo này đều được tuyển chọn cẩn thận, ngoại trừ Chung Căn Sinh và hai gã thám báo khác là người Hán, còn lại mười bảy người đều là bộ lạc Ô Đồ của người Đột Quyết.
Bọn họ tiến vào đại doanh Đột Quyết ở một khu đóng quân khá yên lặng. Đại bộ phận binh lính Đột Quyết đều đã đi ngủ, dọc theo đường đi không có một người nào chặn bọn họ lại để hỏi han.
Đi thẳng vài dặm, đi tiếp sẽ đế khu Vương trướng rồi. Trên mặt đất có chiến hào, nhiều đội quân cận vệ Đột Quyết qua lại tuần tra, phòng ngự vô cùng nghiêm mật. Chung Căn Sinh quay đầu gật gật với mọi người, đã có thể hành động. “Tạch…!” một tiếng, một cây đuốc được đốt lên, ngay sau đó, hai mươi cây đuốc được thắp lên. Bọn họ bắt đầu phát động, tay cầm đuốc chạy về phía doanh trướng, bắt đầu châm lửa vào từng căn lều lớn.
Từng căn lều lớn bị đốt cháy, ánh lửa ngút trời, khói đặc cuồn cuộn. Vô số binh lính Đột Quyết từ trong lều lớn chạy ra, lớn tiếng quát to, liều mạng dập lửa ở những căn lều bị đốt cháy. Trong đại doanh Đột Quyết là một mảnh hỗn loạn.
Đại tù trưởng Hồi Hột Bùi Tát đứng trước lều lớn nhìn ánh lửa ở phía xa. Bỗng nhiên, y quay đầu lại liếc mắt nhìn Thổ Mê Độ một cái.
Thổ Mê Độ cúi đầu. Bùi Tát lại quay đầu nhìn ánh lửa ở phương xa, trong mắt y cũng lóe lên một đóa hoa lửa của niềm hy vọng.
Có lẽ đúng như lời của Thổ Mê Độ, tự do còn quan trọng hơn của cải.
Khả Hãn Hiệt Lợi cũng đã bị kinh động. Y chạy ra khỏi Vương trướng, nhìn ánh lửa ngút trời ở phương xa. Y vội vàng hỏi:
- Đã xảy ra chuyện gì?
Có tên lính vội chạy tới bẩm báo:
- Khả Hãn, có gian tế quân Tùy trà trộn vào đại doanh, đốt lều trại. Hiện tại quân ta đang lùng bắt bọn chúng.
Khả Hãn Hiệt Lơi giận quá liền giậm chân một cái, gấp gáp ra lệnh:
- Lệnh cho quân cận vệ lập tức xuất động, xếp thành hàng chờ lệnh, phòng ngừa quân Tùy tập kích đêm!
Một trăm ngàn kỵ binh cận vệ quân của Đột Quyết xuất động. Bọn họ xếp thành hàng trên cánh đồng bát ngát trước đại doanh, chỉnh đốn trang bị chuẩn bị chiến tranh. Nhưng ngoại trừ màn đêm đen kịt trên thảo nguyên, ngoại trừ gió Bắc lạnh căm căm gào thét ra thì không thấy bất kỳ bóng dáng nào của quân Tùy.
Mục đích của quân Tùy chỉ là nhiễu loạn quân tâm, quấy nhiễu sự nghỉ ngơi của quân Đột Quyết, cũng không có kế hoạch tập kích đêm. Trận lửa lớn này đã quấy rối quân Đột Quyết suốt một đêm, đại đa số binh lính Đột Quyết đều lo lắng cho đến bình minh, một đêm không ngủ. Trời dần sáng. “Ô… ô..!” Vô số tù và trong đại doanh quân Tùy được thổi lên, tiếng kèn trầm thấp trên thảo nguyên cũng vang lên. Đây chính là tiếng báo hiệu đại chiến đã đến.
Binh lính quân Tùy đều mặc áo giáp, đội nón sắt, thu thập chiến mã, trường mâu bén nhọn, lưỡi đao sắc bén, dây cung cũng được đổi sang dây mới, từng mũi trường tiễn được cho vào trong lọ tên. Chiến mã đã ăn no, binh lính cũng đã để lại di chúc và tài vật cho người nhà, cẩn thận gói kỹ, yên lặng giao cho Giáo úy.
Dưới sự thúc giục không ngừng của tiếng kèn, bọn lính xoay mình lên ngựa, tụ tập thành từng đội kỵ binh, tiến đến xếp hàng ở cửa đại doanh phía bắc, nhằm hướng mấy ngàn lá cờ lớn tung bay phần phật ở ngoài mấy chục dặm ở đại doanh Đột Quyết mà tiến tới.
Nhưng chỉ mới đi được hơn chục dặm, một gã thám báo chạy vội tới, nhằm hướng đại kỳ chủ soái quân Tùy của Dương Nguyên Khánh bẩm báo:
- Đại quân Đột Quyết đã xuôi nam, hiện tại còn cách ngoài hai mươi dặm!
Dương Nguyên Khánh khoát tay ra lệnh:
- Đại quân dừng lại, bày trận!
Tám mươi ngàn kỵ binh quân Tùy bắt đầu bày trận lần nữa, chia làm ba cánh quân, tả hữu và trung quân. Dương Nguyên Khánh đích thân dẫn dắt năm mươi ngàn đại quân ở trung quân, hai cánh trái phải, mỗi cánh có mười lăm ngàn người. Chủ tướng tả quân là Đại tướng La Sĩ Tín, phó tướng Vương Quân Khuếch. Chủ tướng hữu quân là Đại tướng Bùi Hành Nghiễm, phó tướng Tạ Ánh Đăng. Chủ tướng hậu quân là Ngưu Tiến Đạt, y dẫn mười ngàn quân theo sau.
Lần này quân Tùy chủ yếu lấy kỵ binh làm chủ, ngoài ra còn có sáu ngàn mạch đao trọng giáp binh và bốn ngàn cường nỏ binh. Năm ngàn trọng giáp kỵ binh thì giao cho Lý Tĩnh, y dẫn mười lăm ngàn quân đứng ở cạnh sườn, làm quân sinh lực, sẽ xuất hiện vào thời khắc trọng yếu của cuộc chiến.
Tám mươi ngàn quân Tùy ở trên thảo nguyên đã chỉnh đốn xong. Mấy ngàn cán cờ lớn phân bố ở phía trước chiến tuyến dài chừng ba dặm, gió thổi lá cờ bay phần phật. Sĩ khí quân Tùy dâng cao, binh lính ngẩng cao đầu, sát khí đằng đằng. Chiến mã ở bên cạnh cũng cảm nhận được sự khẩn trương của đại chiến trước mắt, cúi đầu, miệng phát ra tiếng Xi..Xiiii, lỗ mũi phát ra tiếng phì phì.
Lúc này, hơn chục thám báo quân Tùy hướng đại trận của quân Tùy chạy tới, bọn họ chính là đám người Chung Căn Sinh đi tập kích đại doanh Đột Quyết đêm qua. Lúc đầu, quân Tùy cho rằng bọn họ đã hi sinh, nhưng không ngờ là lúc này bọn họ lại xuất hiện, khiến cho khắp đại trận quân Tùy vang lên tiếng vui mừng.
Ngay tại thời điểm tiếng hoan hô vang lên trong trận hình quân Tùy thì ở phương xa bỗng truyền đến tiếng kèn dồn dập, một đoàn dài ước chừng mười dặm cuối cùng cũng xuất hiện trên thảo nguyên.
Đêm qua, sự quấy nhiễu của quân Tùy chỉ có thể coi là một khúc nhạc dạo, không ảnh hưởng gì đến quyết tâm đánh bại quân Tùy của Khả Hãn Hiệt Lợi, cũng không thể ngăn cản hai bước chân xuôi nam của hai trăm ngàn đại quân Đột Quyết.
Nó chỉ tạo ra ảnh hưởng rất nhỏ ở một vài mặt như thể lực và tâm trạng của binh lính Đột Quyết. Sự ảnh hưởng rất nhỏ này tạm thời còn chưa thể nhận ra, chỉ trong khi đại chiến được một thời gian dài, khi một lượng lớn thể lực đã bị tiêu hao thì nó mới từ từ biểu hiện ra ngoài.
Đối với Khả Hãn Hiệt Lợi mà nói, trận chiến này cũng là do tình thế bắt buộc. Hiện tại trên thảo nguyên, bão tuyết đang tàn sát bừa bãi, bão tuyết sắp kéo đến phía nam, y đã không còn đường lùi nữa rồi.
Mặc dù là phải tử chiến đến cùng nhưng Khả Hãn Hiệt Lợi vẫn tràn đầy tin tưởng. Y có hai trăm ngàn quân tinh nhuệ, gấp đôi quân Tùy. Trận chiến này y giành thẳng lợi là điều không phải nghi ngờ.
Nhưng Khả Hãn Hiệt Lợi cũng biết, chỉ tin tưởng thôi là chưa đủ, còn cần phải bày binh bố trận, cần phát huy lú giao chiến. Trong quá khứ, Đột Quyết và quân Tùy từng giao chiến nhiều lần, có rất nhiều kinh nghiệm và giáo huấn, y nhất định phải tiếp thu.
Trong số hai trăm ngàn đại quân của y, quân Đột Quyết có một trăm hai mươi ngàn người, trong đó có một trăm ngàn quân cận vệ. Quân cận vệ là một loại chế độ do Khả Hãn Khải Dân sáng tạo ra, lựa chọn những binh lính tinh nhuệ nhất trong các bộ lạc Đột Quyết tạo thành.
Bọn họ không hề tham gia hoạt động chăn nuôi, chỉ chuyên trách chức nghiệp binh sĩ, phụ trách bảo vệ Khả Hãn, trang bị hoàn mỹ, huấn luyện kỹ lưỡng, là tinh nhuệ trong đại quân Đột Quyết, do mười Vạn phu trưởng thống lĩnh, trực tiếp nhận sự chỉ huy từ Khả Hãn Đột Quyết.
Ngoại trừ một trăm hai mươi ngàn quân Đột Quyết thì còn có tám mươi ngàn quân liên hiệp. Tiết Diên Đà và Hồi Hột đều có bốn mươi ngàn người, phân bố ở hai cánh. Khả Hãn Hiệt Lợi đã hứa hẹn với bọn họ, chỉ cần trận chiến này có thể đánh bại quân Tùy, tiền tài và phụ nữ của triều Tùy mặc cho bọn chúng đánh cướp, sẽ không tiến hành phân phối.
- Khả Hãn! Quân Tùy đã ở phía trước rồi.
Một gã Vạn phu trưởng chỉ về phía tiền phương hô to.
Ánh mắt Hiệt Lợi Khả Hãn híp lại, y cũng đã nhìn thấy quân Tùy các đó hơn mười dặm. Y giơ cánh tay lên ra lệnh:
- Toàn quân giảm tốc độ. Đến cách ba dặm thì dừng lại!
Hai trăm ngàn đại quân Đột Quyết bắt đầu chỉnh đốn đội ngũ, lấy mười ngàn người làm một phương trận, chia làm hai mươi cái phương trận lớn, che trời phủ đất, gần như bao phủ toàn bộ thảo nguyên.
Trường mâu được giơ cao, dày đặc như rừng rậm. Đội ngũ chậm rãi nhằm hướng đến tiền phương bước đến, càng ngày càng gần. Khi đại quân còn cách quân Tùy chừng ba dặm thì đồng loạt dừng lại.
Từng đợt gió lạnh thổi qua thảo nguyên, một con chuột chũi từ dưới vùng đất nằm giữa hai quân chồi lên, quay đầu nhìn về hai phía liền lập tức hoảng sợ, vội vàng chui vào hang, không dám ra nữa. Trên bầu trời, mây đen âm trầm kéo đến.
Chương 935 : Đại chiến Tùy Đột
Trong đội hình trung quân của quân Tùy, ở bên cạnh soái kỳ có một toàn mộc tháp cao đến hai trượng, đây chính là đài chỉ huy của quân Tùy. Trên tháp, ngoại trừ chủ soái Dương Nguyên Khánh và hai gã quân lính truyền lệnh ra còn có tám gã kỳ thủ.
Dưới mộc tháp bày sẵn ba mươi sáu cái trống lớn và mười cái chuông đồng. Tiếng trống và tiếng chuông là để chỉ huy quân Tùy tiến tới hoặc lùi về sau, còn tám gã kỳ thủ là để chỉ huy quân đội một cách cụ thể.
Trên mộc tháp, Dương Nguyên Khánh ngẩng đầu nhìn chăm chú vào khoảng không âm u. Từng đoàn từng đoàn mây đen như mực quay cuồng ở bầu trời phương bắc. Hắn cảm thấy hôm nay, trong không khí rét lạnh còn có một tia ướt át.
- Bão tuyết sắp đến rồi!
Dương Nguyên Khánh lẩm bẩm.
Trong đại trận của Đột Quyết, rất nhiều binh lính cũng không an lòng, quay đầu nhìn về bầu trời phương bắc. Từng đoàn từng đoàn mây đen như mực không ngừng quay cuồng. Tối hôm qua, những đám mây này còn ở tít phương bắc xa xôi, vậy mà hôm nay đã ở gần trong gang tấc rồi. Tất cả người trên thảo nguyên đều biết điều này có ý nghĩa như thế nào, bão tuyết sắp cuốn tới đây.
Chỉ có duy nhất Khả Hãn Hiệt Lợi là có vẻ mặt coi thường, không thèm để ý đến bão tuyết sắp đến. Trong lòng của y đang tràn đầy sát khí, có một loại cảm giác mãnh liệt muốn vung đao xông lên chém giết quân Tùy, y sắp không thể kiềm chế được bản thân nữa rồi.
Khả Hãn Hiệt Lợi chậm rãi rút chiến đao ra. Ánh mắt dừng lại trước trận hình của quân Tùy, y biết rõ trong hàng ngũ dày đặc của quân Tùy chắc chắn có cất giấu trọng giáp bộ binh, y biết rõ sự lợi hại của loại trọng giáp bộ binh này. Quân Tùy còn có nỏ tên, y nhất định phải phái ra một chi quân đội ngăn chặn nỏ tên của quân Tùy.
- Đạt Hãn!
Khả Hãn Hiệt Lợi lớn tiếng quát lên.
Một gã Vạn phu trưởng, dáng người khôi ngô bước ra khỏi hàng thi lễ:
- Nguyện vì Khả Hãn ra sức!
- Trận thứ nhất do ngươi đánh. Nếu như ngươi không chết, nữ nhân trong thành Thái Nguyên tùy ngươi lựa chọn.
Vạn phu trưởng cất tiếng cười dữ tợn:
- Ta muốn nữ nhân của Dương Nguyên Khánh!
Quan quân Đột Quyết cất tiếng cười to. Trong mắt Khả Hãn Hiệt Lợi hiện lên một tia không hài lòng, nhưng y lập tức che dấu nó đi, trầm giọng nói:
- Như ta nói, nữ nhân bên trong thành Thái Nguyên tùy ngươi lựa chọn.
Khả Hãn Hiệt Lợi không để cho y tiếp tục làm càn, vung chiến đao lên:
- Xuất chiến!
"Ô …" Tiếng kèn trầm thấp vang lên trong đại trận của Đột Quyết. Một phương trận tạo thành từ mười ngàn quân cận vệ Đột Quyết chợt phát động, vạn mã lao nhanh, trường mâu như rừng. Quân Đột Quyết xung phong, khí thế như hồng thủy tích tụ tuôn gào thét tuôn trào, tiếng reo hò không dứt, nhằm thẳng hướng quân Tùy lao tới.
Dưới sự che phủ của những đám mây đen, đại chiến Tùy Đột cuối cùng cũng đã bắt đầu.
Người Đột Quyết khi tác chiến thường chú ý đến một tiếng trống làm tinh thần thêm hăng hái, chú ý đến khí thế. Mà quân đội Trung Nguyên khi tác chiến lại chú ý đến phòng thủ phản kích. Loại phương thức tác chiến khác nhau này đã dẫn phát ra ưu thế của cung tên trong quân đội Trung Nguyên.
Mặc dù hiện tại, quân cung tiễn của Đột Quyết ở cuối thời Tùy đã có tiến bộ nhảy vọt, đã có thể phân cao thấp với quân Tùy, nhưng hình thức và phong cách tác chiến có từ mấy trăm năm qua vẫn không thay đổi, luôn là quân đội du mục thảo nguyên xung phong, tiên phát chế nhân (1), còn quân đội Trung Nguyên thì phòng thủ, chờ cơ hội phản kích.
(1) Hành động trước để kiềm chế đối phương.
Quân Tùy sớm đã sắp xếp trận hình. Bốn ngàn cường nỏ quân xếp thành hàng ở phía trước, hai người một tổ, khiêng một cây nỏ thật lớn trên vai, đây chính là Đại Hoàng Nỏ của quân Tùy. Nếu như thuận gió, cường nỏ sát thương hiệu quả nhất trong phạm vi hai trăm bốn mươi bước. Nhưng bây giờ là ngược gió, sức gió lại mạnh mẽ, hiệu quả sát thương giảm xuống, chỉ còn khoảng một trăm tám mươi bước.
Bọn họ phát động đợt công kích thứ nhất. Sau khi đợt công kích thứ nhất kết thúc, bọn họ liền thay đổi thành trường thương binh, bày trận hình phòng ngự đài chỉ huy.
Ở phía sau cường nỏ quân là sáu ngàn cung kỵ binh, bọn họ phụ trách đợt công kích thứ hai. Sau khi cung tên của đợt thứ hai được bắn ra, cung kỵ binh rút lui về phía sau sáu ngàn trọng giáp bộ binh ở hai cánh, đi theo bên cạnh để bảo hộ trọng giáp bộ binh.
Ở phía sau cung kỵ binh là sáu ngàn mạch đao quân. Bọn họ chính là mấu chốt để Dương Nguyên Khánh giành lấy thắng lợi ở cuộc chiến lần này, do Á tướng Lý Trọng Uy, thân cao sáu thước bảy chỉ huy. Trong quân Tùy, y là người có hình thể to lớn xếp thứ hai, gần bằng Dương Nguy, nhưng y lại không mập mạp như Dương Nguy mà là vai rộng eo thon, sức lực lớn vô cùng.
Sáu ngàn mạch đao trọng giáp binh lấy hai trăm người làm một tổ, tổng cộng là ba mươi tổ. Bọn họ xếp thành hàng chỉnh tề. Sáu ngàn mạch đao trong gió rét giống hệt một mảnh rừng rậm sắc bén. Mặc dù bọn họ yên lặng đứng sừng sững ở đó, nhưng sát khí trong người bọn họ sớm đã đạt đến giới hạn của bản thân.
Dương Nguyên Khánh đứng trên đài chỉ huy, ánh mắt dừng lại trên mười ngàn kỵ binh Đột Quyết đang mãnh liệt đánh tới. Hắn đã nhìn thấu chiến thuật của Khả Hãn Hiệt Lợi, trước tiên phái ra mười ngàn kỵ binh đến phá hư cung nỏ quân của mình. Hắn cười lạnhtiếng, mười ngàn kỵ binh này coi như đến giúp quân mình tăng thêm sĩ khí đi.
- Giữ nguyên kế hoạch bắn, chuẩn bị!
Trên đài chỉ huy, một lá cờ lệnh màu vàng được phất liên tục. Chỉ huy của bốn ngàn trọng nỏ bộ binh là Lang tướng Chu Bình nhìn thấy hoàng kỳ liền lớn tiếng hét to:
- Chuẩn bị bắn!
Hai ngàn trọng nỏ bộ bình nâng Đại Hoàng Nỏ nặng bảy thạch lên, đầu mũi tên sắc bén nhằm thẳng vào kỵ binh Đột Quyết ở nơi xa đang gào thét xông tới. Kỵ binh Đột Quyết như muốn thổi bay thảo nguyên, khí thế hừng hực, tiếng võ ngựa gõ kịch liệt lên mặt đất, phát ra tiếng ù ù như sấm động, mặt đất cũng bị chấn động muốn vỡ ra.
Ngay khi khoảng của đợt sóng kỵ binh thứ nhất của Đột Quyết còn cách quân Tùy khoảng ba trăm bước, Khả Hãn Hiệt Lợi hạ lệnh cho toàn quân tấn công. Chiến đao của y giơ về phía trước, giọng khà khàn hô to:
- Toàn quân xông lên, giết!
'Đông! Đông! Đông! Đông!' Tiếng trống trận thật lớn vang lên khắp thảo nguyên. Một trăm chín mươi ngàn đại quân đồng thời phát động tấn công, liếc mắt một cái liền thấy kỵ binh Đột Quyết tạo thành một mảng đen như đại dương, bốn bề nổi sóng, mãnh liệt lao thẳng vào trận địa của quân Tùy.
Lúc này, Khả Hãn Hiệt Lợi sẽ không phạm phải bất cứ sai lầm nào như trước đây. Ưu thế lớn nhất của y chính là lực lượng khổng lồ, y sẽ không đi đấu trận pháp với quân Tùy, sẽ không để cho quân Tùy tiêu diệt từng bộ phận của quân mình. Chỉ có để cho hai trăm ngàn đại quân cùng xông lên mới có thể phát huy hết ưu thế của chính mình.
Hai trăm ngàn đại quân cùng lúc tấn công tạo ra một khí thế hùng mạnh đủ để làm cho bất kỳ một đối thủ nào cũng phải cảm thấy khiếp sợ. Nhưng Dương Nguyên Khánh đứng trên đài chỉ huy lại không chút dao động.
Cho dù hai trăm ngàn đại quân Đột Quyết là biển rộng mênh mông mãnh liệt, vậy thì cũng không thể nào phá vỡ tảng đá ngầm là quân Tùy. Bất kể là quân Đột Quyết chém giết thế nào đi nữa, cuối cùng cũng sẽ thua trong tay quân Tùy.
Dương Nguyên Khánh không chút biến sắc, nhìn chăm chú vào trận đánh với mười ngàn kỵ binh ở phía trước. Đối phương đã đến khoảng cách ngoài hai trăm bước rồi, một số binh lính Đột Quyết không nhịn nổi đã giương cung bắn tên. Mưa tên bay đầy trời nhưng hai ngàn cái cương nỏ vẫn không chút động đậy.
Đã giết đến ngoài một trăm tám mươi bước.
- Có thể bắn!
Ngạy tại thời điểm Dương Nguyên Khánh thốt ra mệnh lệnh, Lang tướng Chu Bình, chỉ huy cường nỏ cũng hô to một tiếng:
- Bắn!
Hai ngàn mũi tên bằng sắt dài một thước chín tấc đồng thời được bắn ra, lực bắn vô cùng cường đại. Hai ngàn mũi tên sắt giống hệt một mảnh bóng đen dày đặc, nháy mắt đã chiếu vào kỵ binh Đột Quyết đang chồm chồm xông tới.
Tên sắt bắn thủng tấm chắn của kỵ binh Đột Quyết, tiếng kêu thảm thiết vang lên thành từng mảnh. Những kỵ binh Đột Quyết chạy ở phía trước ngã thành từng bầy, chiến mã bị bắn thủng thân thể, máu tươi phụt ra, phát ra tiếng kêu thảm thiết.
Lượt thứ nhất có chừng năm trăm người bị trúng tên, nhưng nhóm nỏ binh cũng không thèm nhìn đến kết quả. Động tác của bọn họ rất nhanh, phối hợp thuần thục, trong nháy mắt sau khi tên sắt được bắn ra, bọn họ lập tức đạp cung kéo dây, một người nâng nỏ, một người lấy tên thả vào máng, lưu loát như nước chảy.
Mấy trăm người tử trận đối với mười ngàn kỵ binh mà nói cũng không tạo ra bất kỳ sự ảnh hưởng nào. Tốc độ của kỵ binh Đột Quyết nhanh hơn, đã vợt tới khoảng cách một trăm hai mươi bước. Không cần chờ sự chỉ huy thống nhất, đượt cường nỏ thứ hai được bắn ra, tên sắt như gió táp mưa sa bắn rào rào về phía kỵ binh Đột Quyết.
Một lớp kỵ binh Đột Quyết dày đặc lại ngã xuống. Lúc này lượng người trúng tên đã tăng lên, hơn tám trăm người bị bắn ngã ngựa. Theo thời gian mà xem xét, cường nỏ quân còn có cơ hội công kích lần thứ ba, nhưng trên phương diện chiến thuật lại không cho phép.
Đây là bởi vì tầm bắn sát thương của kỵ cung Đột Quyết là tám mươi bước, nỏ quân cần có thời gian để lùi lại, nhất định phải rút lui trước khi quân địch tiến vào phạm vi trăm bước, nếu không sẽ tạo thành thương vong vô cùng nghiêm trọng, cũng sẽ tạo thành ảnh hưởng lớn đối với cung kỵ binh ở phía sau.
Lang tướng Chu Bình ra lệnh một tiếng:
- Rút lui!
Bốn ngàn trọng nỏ bộ binh nhặt trường mâu dưới mặt đất lên, như thủy triều chạy sang hai cánh rút ra phía sau, lộ ra một loạt cung kỵ binh xếp hàng ngay ngắn chỉnh tề. Đây là chiến pháp cung nỏ truyền thống, nỏ trước cung sau, lợi dụng cách bắn dài ngắn khác nhau để tạo ra sát thương hiệu quả đối với kỵ binh quân địch.
Lúc này, kỵ binh Đột Quyết đã tiến vào phạm vi dưới trăm bước. Kỹ thuật cưỡi ngựa của bọn họ rất thành thạo, chân điều khiển ngựa, lợi dụng sức eo và lực cánh tay ở tốc độ cao để bắn cung.
Rất nhiều kỵ binh của quân Tùy cũng có thể làm như vậy, nhưng cần phải có tài năng hoặc trải qua huấn luyện gian khổ mới có thể làm được. Nhưng kỵ binh Đột Quyết như thể là được trời ban cho kỹ năng này, bọn họ không cần huấn luyện đã có thể thực hiện một loạt động tác có độ khó tương đối cao.
Ngay tại thời điểm tám ngàn kỵ binh Đột Quyết đồng loạt bắn tên, sáu ngàn cung kỵ binh cũng bắn ra vòng tên thứ nhất. Mưa tên đan vào nhau trên không trung, tạo thành một cái lưới tên dày đặc.
Chương 936 : Huyết chiến sa trường
Trong những năm Khai Hoàng và giai đoạn đầu những năm Đại Nghiệp, kỹ thuật cung tiễn của người Đột Quyết rất kém, phần lớn được chế tạo thô ráp, hơn nữa đa số là đơn cung, tầm bắn chỉ ba bốn mươi bước, khoảng cách sát thương hữu hiệu cũng chỉ có hơn hai mươi bước. Bởi vậy cung tiễn vẫn là điểm yếu của người Đột Quyết.
Nhưng vào cuối đời Tùy xảy ra đại loạn, một lượng lớn thợ thủ công người Hán bỏ trốn vào thảo nguyên tị nạn, mang đến kỹ thuật chế tạo cung tiễn tiên tiến, đồng thời đại lượng cung tiễn cũng chảy vào Đột Quyết thông qua đủ loại đường khác nhau, khiến cho trình độ cung tiễn của người Đột Quyết đột nhiên tăng mạnh.
Dưới tình huống như vậy, những chiến thuật cũ truyền thống đã không còn thích hợp, ví dụ như bố trí cung kỵ binh ở vị trí thứ hai, trước đây Đột Quyết cung nỏ yếu kém, cung kỵ binh còn có thể bắn được ba lượt tên, sát thương được lượng lớn kẻ thù.
Nhưng hiện tại cung kỵ binh đã không còn ưu thế chút nào, thậm chí đối với tốc độ cao của kỵ binh Đột Quyết, họ còn trở thành mục tiêu tĩnh mặc sức tấn công.
Dù rằng Dương Nguyên Khánh đặt ở vị trí thứ hai vẫn là cung kỵ binh, nhưng nhiệm vụ chủ yếu của bọn họ cũng không phải là sát thương quân địch, tất nhiên sát thương quân địch thì phải là nhiệm vụ của bọn họ rồi, nhưng đó không phải là duy nhất.
Nhiệm vụ quan trọng hơn của bọn họ là yểm hộ và bảo vệ trọng nỏ quân phía sau và trọng giáp mạch đao quân ở hai bên cánh.
Dày đặc tên bắn của hai quân đan xen vào nhau trên không trung, hơn một ngàn kỵ binh Đột Quyết ngựa đổ, người ngã nhào trên mặt đất, cung kỵ binh của quân Tùy cũng xuất hiện thương vong, trong đội ngũ cung kỵ binh vang lên một loạt âm thanh kêu la thảm thiết, hơn bốn trăm kỵ binh quân Tùy bị bắn trúng ngã xuống.
Đây là bởi vì đội hình kỵ binh Đột Quyết có khoảng cách trước sau quá lớn, chỉ có gần một nửa kỵ binh có thể bắn tên đến đội ngũ quân Tùy, mặc dù như vậy cung kỵ binh quân Tùy vẫn liên tiếp xuất hiện thương vong không ngừng.
Kỵ binh Đột Quyết đã vọt tới bên ngoài năm mươi bước, lam kỳ trên đài chỉ huy vẫy vẫy, ra lệnh cho cung kỵ binh rút lui sang hai bên.
Cung kỵ binh nhanh chóng lui ra, hộ vệ mạch đao quân ở hai cánh, bọn họ treo lên cung tiễn, vũ khí trong tay trở thành trường mâu và tấm chắn, sắp hàng thành trận thế, bày trận dày đặc hai bên mạch đao quân.
Cùng lúc cung kỵ binh tán ra như sương khói, vũ khí sắc bén nhất của quân Tùy rốt cục xuất hiện trước mắt người Đột Quyết. Sáu ngàn mạch đao quân giáp trụ sáng loáng, bày ra thế trận chặt chẽ, giống như tường đồng vách sắt. Mạch đao sắc bén đột nhiên chém ra, đâm sâu ngập cán, mũi đao tụ tập dày đặc gào thét nhắm tới kỵ binh Đột Quyết.
Kỵ binh Đột Quyết vội vã xông ra vài chục bước bên ngoài, đội ngũ kỵ binh phía trước thấy hiện lên trước mắt dày đặc ánh đao giáng xuống, bọn họ tuyệt vọng hét thảm, ngã xuống mặt đất, chiến mã cũng đi theo hý lên rên rỉ, bọn họ đã không có cách nào thay đổi được vận mệnh bi thảm của chính mình.
Hải triều mạnh mẽ rốt cục đánh lên dải đá ngầm san hô cứng rắn, nhưng kết quả cuối cùng lại là sóng biển bị đánh tan thành từng mảnh nhỏ. Kỵ binh Đột Quyết ầm ầm đánh vào mạch đao quân dày đặc, chỉ trong nháy mắt máu thịt văng tung tóe, chân tay đứt gãy, sương máu tràn ngập…
Mùi đất trong không khí lúc này biến thành mùi máu tươi, làm cho người ta cảm giác buồn nôn. Theo làn sóng xung kích tán đi, trước trận mạch đao lập tức xuất hiện thi cốt xếp thành tường thịt, bề rộng hơn ba trượng, dài hơn hai dặm. Xác ngựa và xác người hỗn tạp cùng một chỗ, không thể phân biệt.
Trong số kỵ binh Đột Quyết tử vong, một phần là bị mạch đao đâm chết, còn lại phần lớn là bị đồng bạn va chạm giẫm đạp lên nhau.
Nhưng đối với mạch đao quân mà nói, đây là kết quả hiển nhiên của việc kỵ binh trận tấn công mạch đao trận. Bọn họ nhắm mắt làm ngơ, dưới mệnh lệnh thét ra của Á tướng Lý Trọng Uy, đồng loạt đứng dậy, mạch đao bổ chém, đạp trên thi thể quân địch hướng tới kỵ binh Đột Quyết mà đánh… Trên đài chỉ huy, Dương Nguyên Khánh cũng không quan tâm chú ý đến đợt sóng thứ nhất tấn công tới của kỵ binh Đột Quyết, đó chẳng qua chỉ là người Đột Quyết hỏi đường mà quăng ra một tảng đá, địch nhân chân chính vẫn còn ở phía sau, mười chín vạn đại quân che trời phủ đất đánh tới.
Lúc này bất luận kỳ mưu, kế sách nào cũng đều không thể thực hiện, bất luận thế trận nào cũng bị bao phủ bởi biển người đại quân Đột Quyết, bất luận lời chỉ huy nào cũng không thể truyền đạt ra ngoài, chiến tranh trở về giống như thời kỳ nguyên thủy, xem thực lực ai mạnh, xem tố chất huấn luyện quân đội, xem binh lính của ai dũng mãnh ngoan cường.
Giờ đây phụ trách bảo hộ trung tâm chỉ huy, đại tướng Dương Nguy ý thức được tình hình không ổn, đài chỉ huy rất bắt mắt, sẽ trở thành trọng điểm tiến công của đại quân Đột Quyết, vô cùng nguy hiểm. Hắn chạy lên trước lo lắng hô to:
- Điện hạ, đài chỉ huy không còn an toàn, mời điện hạ đi xuống!
Dương Nguyên Khánh dường như không nghe thấy tiếng la, hắn vịn lan can, ngắm nhìn cách xa ba dặm ở bên ngoài đông nghìn nghịt đại quân Đột Quyết đang giết tới. Trong lòng hắn lúc này dấy lên ngọn lửa dũng mãnh đã lâu không cháy, hắn không nhớ rõ đã bao lâu rồi mình không tự thân ra trận giết địch, có lẽ hôm nay, hắn lại một lần nữa đại khai sát giới.
- Truyền lệnh cho Lã Sĩ Tín và Bùi Hành Nghiễm, ra lệnh cho bọn họ phối hợp tác chiến tại trung quân, tả hữu hai cánh tự chỉ huy.
Lúc này, thống nhất chỉ huy đã không còn phù hợp với chiến trường, chỉ có thể ủy quyền cho các chủ tướng từng lộ quân, ra lệnh cho bọn họ linh hoạt tác chiến. Dương Nguyên Khánh xoay người xuống đài chỉ huy, nhìn Dương Nguy nói:
- Bảo hộ soái kỳ, nếu soái kỳ bị đoạt, ngươi xách đầu tới gặp ta!
- Tuân lệnh!
Dương Nguy nhảy lên lạc đà, tay cầm đại chùy hướng về phía soái kỳ chạy tới, hắn phụ trách chỉ huy bốn ngàn cường nỏ quân đã chuyển sang dùng trường thương. Trường thương quân xếp thành hình phương trận, một tay cầm tấm chắn, một tay nắm chắc trường thương, vây xung quanh cờ Xích Ưng viền vàng của Đại Tùy.
Dương Nguyên Khánh nhận Phá Thiên Sóc từ tay thân binh, hắn nhẹ nhàng vuốt cán mã giáo nặng trịch, dường như lại trở về thời kỳ thiếu niên vẫn còn đang hăng hái, Tây Đột Quyết Đạt Đầu Khả Hãn do chính tay mình giết, nhiệt huyết của hắn bắt đầu sôi trào lên trong lòng.
Hắn trở mình lên ngựa, phi nước đại tới quân trận phía trước, trước mặt đội ngũ giương cao trường sóc, lớn tiếng hô to:
- Tam quân binh sĩ, vận mệnh Tùy triều chính là trận chiến này, dùng trường mâu và chiến đao trong tay các ngươi để bảo vệ vợ con, cha mẹ mình, bảo vệ nhà cửa của mình, dùng nhiệt huyết bảo vệ tôn nghiêm của chúng ta!
Dương Nguyên Khánh chạy lên mô đất cao, giơ cao trường sóc, dùng hết khí lực toàn thân khàn giọng hô to:
- Các dũng sĩ Đại Tùy tuyệt không khuất phục, cùng đi theo ta huyết chiến, đến người cuối cùng mới thôi!
Nhiệt huyết mấy vạn tướng sĩ bị đốt lên, rất nhiều người kích động đến chảy xuống nước mắt, một loại dũng khí hy sinh vì quốc gia chậm rãi kích phát trong lòng, tám vạn đại quân giơ cao trường mâu hô to:
- Huyết chiến đến cùng! Huyết chiến đến cùng!
Dương Nguyên Khánh vung lên trường sóc, chỉ hướng đại quân Đột Quyết cách xa hai dặm bên ngoài.
- Giết…!
Hắn hét lớn một tiếng, phóng ngựa phi nước đại, không chùn bước chặn đánh mười chín vạn quân Đột Quyết.
- Giết…!
Tiếng hô của tám vạn tướng sĩ Tùy quân vang vọng đất trời, chiến mã chồm lên, anh dũng tranh trước, theo sau chủ soái thẳng hướng tới đại quân Đột Quyết…
Hai chi đại quân trên thảo nguyên ngày càng áp sát, Hiệt Lợi Khả Hãn cũng đang dẫn đầu đội ngũ, hắn cầm chiến đao chém ra, cao giọng hô to:
- Ai giết chết Dương Nguyên Khánh, thưởng năm trăm ngàn đầu dê, sắc phong Tiểu Khả Hãn!
Mười chín vạn đại quân Đột Quyết cũng bộc phát ra tiếng hò hét long trời lở đất, hai chi đại quân càng ngày càng gần, cuối cùng ầm ầm chạm vào nhau, thiên địa trở nên biến sắc. Trên phía bắc núi Võ Chu mờ mịt tại thảo nguyên, triển khai trận sinh tử quyết chiến giữa hai dân tộc… Ở phía đông bắc, bên ngoài sơn khẩu núi Võ Chu hơn mười dặm, một chi quân đội Tùy lẳng lặng đứng yên sừng sững, khoảng chừng mười lăm ngàn quân, chi quân đội này do Lý Tĩnh suất lĩnh bên sườn quân Tùy. Đây là chiến thuật Dương Nguyên Khánh và Lý Tĩnh đã thương lượng xong từ trước.
Chi quân đội sinh lực này lấy trọng giáp kỵ binh là chiến đao sắc bén nhất, chờ đến khi hai quân đều đã mệt mỏi, sinh lực quân mới giết vào mặt sau đại quân Đột Quyết, đây chính là một bước quyết định chiến thắng của quân Tùy trước đại quân Đột Quyết.
Lúc này Lý Tĩnh đứng dưới một cây đại kỳ, hắn đang chờ đợi mệnh lệnh của Dương Nguyên Khánh, vẻ mặt lo lắng nhìn về phía tây nam. Giờ đã là buổi chiều, song phương giao chiến đã ba canh giờ mà vẫn không phân thắng bại, hắn vô cùng lo lắng cho tình cảnh quân Tùy.
Tại Tử Hà cốc, tuy rằng hắn đã toàn diệt hai vạn kỵ binh Đột Quyết, thành công kéo lại quân chủ lực Đột Quyết xuôi nam, nhưng đồng thời cũng là nhắc nhở Hiệt Lợi Khả Hãn, không thể chia ra tác chiến, để tránh khỏi việc lại bị quân Tùy tiêu diệt từng bộ phận.
Cuối cùng ngoại trừ phái ra ba vạn quân Đột Quyết xuôi nam đánh lén, Hiệt Lợi Khả Hãn không phân ra thêm người nào nữa, từ đầu đến cuối đưa hai trăm ngàn đại quân chặt chẽ tập kết chung một chỗ, khiến cho chủ lực quân Tùy không thể không gặp phải phương thức quyết chiến tập đoàn.
Chương 937 : Sinh tử tồn vong
Loại phương thức quyết chiến này, cho dù quân Tùy cuối cùng có khả năng chiến thắng quân Đột Quyết thì cũng phải trả giá bằng thương vong thảm trọng.
Lý Tĩnh biết rõ, Dương Nguyên Khánh tuyệt đối không muốn chọn loại phương thức chiến tranh này, nhưng quân Đột Quyết lại lựa chọn nó. Điều này khiến cho Dương Nguyên Khánh chỉ có thể bất đắc dĩ mà đối mặt. Nhưng điều làm cho Lý Tĩnh còn lo lắng hơn là quân số Đột Quyết nhiều hơn gấp hai lần quân Tùy, chưa nói đến thắng thảm, muốn chiến thắng trong cuộc chiến này còn là một vấn đề khó khăn.
Lúc này, quân Tùy chỉ có thể dựa vào khí thế vang dội và hai chi trọng giáp kỳ binh để có thể giành được thắng lợi.
Đúng lúc đó, một đội kỵ binh chạy như bay tới, giáo úy cầm đầu hô to lên từ xa:
- Lý tổng quản!
Lý Tĩnh nhận ra đây là thân binh giáo úy bên người Dương Nguyên Khánh, hắn thấy đối phương vẻ mặt lo lắng, trong lòng lập tức cả kinh, vội vàng giục ngựa tiến lên hỏi:
- Tình huống thế nào?
Giáo úy lắc đầu, giọng điệu vô cùng trầm trọng:
- Song phương đều tử thương thảm trọng, trọng giáp bộ binh tiêu hao thể lực quá lớn, không duy trì được, hiện nay đã tổn thất hơn hai ngàn người, cung kỵ binh cũng thương vong quá nửa.
Tâm tình Lý Tĩnh giống như rơi xuống vực sâu, trọng giáp bộ binh có khả năng phòng ngự mạnh nhất, không ngờ cũng thương vong hơn hai ngàn người, nếu vậy thì các chi quân đội khác thương vong thế nào cũng có thể biết, hắn lại vội hỏi:
- Tình huống Điện hạ như thế nào?
- Tình huống Điện hạ hơi tốt một chút, có mười ngàn Hổ Bí quân hộ vệ, đang cùng ba vạn quân cận vệ Đột Quyết ác chiến.
Nói tới đây, thân binh giáo úy lấy ra một mặt kim bài, giao cho Lý Tĩnh, lo lắng nói:
- Điện hạ ra lệnh cho Lý tổng quản xuất binh, mục tiêu là mặt đông Tiết Diên Đà quân, Điện hạ nói chỉ cần Tiết Diên Đà quân tan tác thì Hồi Hột quân cũng sẽ rút lui, như vậy hy vọng chiến thắng sẽ trở nên rất lớn.
Lý Tĩnh tiếp nhận kim bài, gật gật đầu:
- Ta hiểu rồi.
Hắn lập tức quay đầu hô to:
- Toàn quân xuất phát!
Lý Tĩnh xuất lĩnh mười lăm ngàn quân Tùy chạy về hướng tây nam. Vừa đi vài dặm, hắn bỗng nhiên cảm thấy mũi chợt lạnh, trong lòng có chút hiểu ra, hắn vội ngẩng đầu nhìn lên không trung, mây đen cuồn cuộn trên đỉnh đầu, trên không trung nhẹ nhàng nổi lên một vài bông tuyết.
Hắn quay đầu nhìn lại phương bắc, cách đó hai mươi dặm bình thường có thể thấy được rõ núi Hột Thực, giờ đây đã không thấy rồi, vị trí đó chỉ còn là một mảnh trắng xóa, sức gió lúc này đột nhiên trở nên mạnh mẽ, gió lạnh gào thét, bão tuyết rốt cuộc đã tới…
Đại chiến đã tiến hành đến mức độ ác liệt, một mảnh hơn hai mươi dặm trên thảo nguyên, mấy chục vạn đại quân triển khai một hồi chém giết đẫm máu, từng nhóm kỵ binh đối mặt với nhau chém giết, đao bổ mâu đâm, tiếng ngựa hí vang động.
Một con chiến mã bị lật tung, một gương mặt dữ tợn phủ đầy máu đen cười rộ lên, hung hăng đâm trường mâu sắc bén vào ngực của người bị ngã xuống đất, trường mâu đâm xuyên qua ngực, người ngã ngựa phát ra một tràng kêu la thảm thiết.
Khuôn mặt đầy máu đen ngửa đầu cười lớn, tiếng cười quàng quạc bỗng nhiên bị đình chỉ, một mũi tên đã bắn xuyên qua cổ họng của hắn, một con chiến mã lướt nhanh qua bên cạnh, chiến đao sắc bén chém đứt đầu, đầu người bay lên, một vòi huyết quang phun ra bắn toán loạn.
Bên cạnh mấy trượng, hai gã kỵ binh dây dưa với nhau đồng thời bị rơi xuống ngựa, tên binh lính trẻ tuổi quân Tùy gắt gao giữ chặt cổ người đàn ông Đột Quyết vạm vỡ, đầu gối vững vàng giữ lấy bộ ngực của hắn, rút ra một mũi tên, giống như đã nổi điên lên, từng mũi tên cắm vào thật sâu rồi lại rút ra trên khuôn mặt của người đàn ông Đột Quyết. Người đàn ông Đột Quyết kêu lên những tiếng thảm thiết, vùng vẫy giãy chết, hắn rút ra một thanh đoản đao dưới ủng, đâm mạnh vào ngực tên binh lính trẻ tuổi quân Tùy…
Chiến đấu kịch liệt, thảm thiết nhất là ở chỗ Dương Nguy suất lĩnh bốn ngàn trường thương binh. Bọn họ phụ trách bảo vệ soái kỳ, bị mười hai ngàn cận vệ kỵ binh của quân Đột Quyết mãnh liệt tiến công. Trong khi đang diễn ra trận chiến, cướp lấy soái kỳ đối phương là thủ đoạn hữu hiệu, trực tiếp nhất để đả kích sĩ khí quân địch.
Hơn nữa đối với dân tộc du mục trên thảo nguyên, cướp được Vương kỳ quân địch chính là một loại vinh dự cao nhất, bởi vậy ngay từ khi vừa xảy ra trận chiến, soái kỳ Xích Ưng viền vàng rộng ba trượng của quân Tùy ngay lập tức đã trở thành trọng điểm tấn công của kỵ binh Đột Quyết.
Đối mặt với luồng sóng kỵ binh Đột Quyết tấn công điên cuồng, trường thương binh kết thành phương trận, liều chết bảo vệ soái kỳ. Trải qua hơn hai canh giờ chiến đấu kịch liệt, thảm thiết, quân Tùy chết quá nửa, mười ngàn kỵ binh Đột Quyết cũng đã tử thương hơn bốn ngàn người.
Đống xác chết người ngựa chất lên thành núi, máu tươi chảy xuống cuồn cuộn tạo thành một dòng suối nhỏ, nhanh chóng ngưng kết thành băng, khắp nơi trên thảo nguyên xuất hiện từng mảng khối băng màu sắc đỏ sẫm. Tuy vậy nhưng soái kỳ quân Tùy vẫn vững vàng không ngã, phần phật tung bay trong gió rét, ủng hộ khí thế quân Tùy khắp chiến trường.
Bốn phía xung quanh đại kỳ là thi thể binh lính quân Tùy bỏ mình, lạc đà của Dương Nguy đã bị bắn chết, trên người hắn cũng bị bắn trúng ba mũi tên, nhưng hắn không hề quan tâm đến chút nào. Hắn đứng dưới soái kỳ, ánh mắt đỏ rực trừng lên, cả người đẫm máu, tay nắm chắc cán chùy, trên đầu đại chùy lúc này dính đầy máu, óc, thịt.
Mặc dù âm thanh hắn đã khàn khàn nhưng hắn vẫn liều mạng lớn tiếng quát to như cũ:
- Duy trì trận hình, không thể phân tán!
Dương Nguy biết rõ, trường thương binh sở dĩ có thể đối kháng cùng kỵ binh, mấu chốt chính là xếp được thành trận hình dày đặc trường thương. Chỉ cần trường thương trận bị chia cắt ra, tất nhiên sẽ chịu kỵ binh giết hại không ngừng. Không chỉ Dương Nguy, từng lang tướng, giáo úy, lữ soái, bọn họ đều hiểu rõ, cho nên bất kể kỵ binh Đột Quyết tấn công kịch liệt thế nào đi chăng nữa thì mỗi khi quân lính trường thương binh bị tách ra lại một lần nữa cố gắng tụ họp lại.
- Dương tướng quân!
Một gã giáo úy chỉ vào góc Tây Bắc hô to:
- Đội ngũ Tần giáo úy bị tách ra rồi.
Dương Nguy cũng nhìn thấy, tại góc Tây Bắc, mấy trăm trường thương binh bị giải khai ra thành một lỗ hổng, trận hình đã loạn. Gã Đột Quyết thiên phu trưởng suất lĩnh hơn ngàn tên kỵ binh hướng vòng lại đột kích, tên Đột Quyết thiên phu trưởng này hung mãnh dị thường, liên tiếp đâm chết bảy tám người binh sĩ quân Tùy, chỉ còn cách xa soái kỳ có vài trượng.
Dương Nguy xông lên dòng nhiệt huyết, hắn hét lớn một tiếng, vung đại chùy đánh tới hướng tên Thiên phu trưởng. Đúng lúc này một mũi tên bắn lén bay tới, “Phốc!” trúng ngay chân trái Dương Nguy. Cả người Dương Nguy chấn động, chân trái không chống đỡ nổi, nhưng hắn không lập tức quỳ rạp xuống đất mà dùng đại chùy chống đỡ thân thể cao lớn của mình.
Tên Đột Quyết thiên phu trưởng cười lên một tiếng dữ tợn, chiến mã phi gấp, hắn nghiêng người vung trường kích đâm vào ngực Dương Nguy. Dương Nguy bỗng nhiên khàn giọng gầm lên giận giữ, bật người đứng lên, dùng đại chùy đỡ lấy một kích của đối phương, “Đương” lên một tiếng, mũi kích bị đánh văng ra, đại chùy như cuồng phong đánh tới khuôn mặt tên Đột Quyết thiên phu trưởng. Tên thiên phu trưởng tránh né không kịp, chỉ nghe oanh một tiếng thật lớn, đầu người bị nện đến dập nát, thi thể theo đó lập tức rơi xuống.
Giết chết tướng địch giúp Dương Nguy kích phát được tiềm lực, hắn cuồng tiếu cười vang, lại vung lên đại chùy, đánh tới binh lính Đột Quyết người ngã ngựa đổ. Binh lính quân Tùy được cổ vũ, tinh thần trở nên hăng hái hơn, từ hai mặt giáp công, đâm chết mấy trăm tên binh lính Đột Quyết, lấp lại được chỗ hổng mới bị giải khai…
Dương Nguyên Khánh chỉ huy năm vạn trung quân chiến đấu kịch liệt với mười hai vạn quân chủ lực Đột Quyết, trong đó quân cận vệ Đột Quyết tinh nhuệ đã có mười vạn người. Người Đột Quyết cũng không phải không hiểu binh pháp, bọn họ tôn trọng Sói thảo nguyên, lấy Sói làm vật tổ, từ đàn sói bọn họ cũng học được chiến thuật cắt, vây quanh, tìm nhược điểm quân địch tập trung ưu thế binh lực vây công…
Nhưng quân Tùy được huấn luyện rất nghiêm chỉnh, bọn họ phối hợp ăn ý, đề cao hiệu suất tác chiến. Mặc dù bọn họ bị Đột Quyết quân phân cách ra từng khối nhưng mỗi khối lại trở thành một tập thể chiến đấu, phối hợp với nhau, bao vây ngược lại chia cắt đội ngũ kỵ binh Đột Quyết.
Mặc dù binh lực quân Tùy kém Đột Quyết rất nhiều, nhưng do phối hợp ăn ý và chiến thuật linh hoạt, đã giúp bọn họ không bị rơi vào thế hạ phong chút nào, ngoan cường mà đứng vững trước từng đợt tấn công điên cuồng của đại quân Đột Quyết.
Hơn thế nữa sáu ngàn mạch đao quân trên chiến trường đều đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, bọn họ giống hệt tường đồng vách sắt, mạch đao tung bay, những nơi đi qua đều để lại thi thể khắp nơi, máu chảy thành sông. Mặc dù mạch đao quân cũng tử thương hơn hai ngàn người nhưng bọn họ cũng tiêu diệt được hơn hai vạn ba ngàn kỵ binh Đột Quyết. Điều đó khiến cho mạch đao quân trở thành tiêu điểm trên toàn bộ chiến trường.
Mạch đao quân dũng mãnh làm cho người Đột Quyết cũng phải thay đổi chiến thuật của mình. Bọn họ không trực tiếp chiến đấu cùng mạch đao quân nữa mà chỉ vây quanh. Mỗi người Đột Quyết đều cầm dây chụp làm vũ khí, từ xa chụp đến thân thể binh lính trọng giáp không được linh hoạt lắm. Mặc dù mạch đao vẫn có thể chém đứt được dây thừng nhưng vẫn gây ra rất nhiều phiền toái cho mạch đao quân, thành công ngăn lại mạch đao quân đánh rộng ra ngoài chiến trường.
Chương 938 : Bão tuyết tiến tới
Nhưng như vậy đối với mạch đao quân thì khó khăn lớn nhất cũng không phải sợi dây chụp của người Đột Quyết, mà chính là thể lực của mình. Sau hai canh giờ chiến đấu, binh lính mặc trọng giáp mạch đao quân đều sức cùng lực kiệt, khả năng sát thương địch cũng càng ngày càng thấp.
Theo thời gian trôi qua, tỷ lệ thương vong của song phương đều không ngừng gia tăng, nhưng lúc này không ai có thể rút ra được khỏi chiến trường, ai rút lui trước đều mang ý nghĩa thảm bại. Sau hơn hai canh giờ ác chiến, chiến tranh chuyển sang đọ sức về ý chí và thể lực, thám báo quân Tùy đêm qua tập kích địch doanh tạo thành ảnh hưởng tinh tế, cho thấy tác dụng ở thời khắc mấu chốt này.
Thể lực quân đội Đột Quyết bị giảm xuống rất nhanh, kéo theo hậu quả là số lượng tử vong tăng cao. Ngược lại, quân Tùy càng đánh càng hăng, lấy năm vạn người đánh với mười hai vạn người, chẳng những không bị rơi vào thế hạ phong mà còn chậm rãi nắm giữ quyền chủ động trên chiến trường.
Dương Nguyên Khánh suất lĩnh mười ngàn Hổ Bí quân đánh với ba vạn quân cận vệ do Hiệt Lợi Khả Hãn suất lĩnh, nơi này trở thành trung tâm của chiến trường. Quân Đột Quyết đã phát hiện ra vị trí chủ soái Dương Nguyên Khánh của quân Tùy, Hiệt Lợi Khả Hãn tự mình chỉ huy ba vạn quân cận vệ tinh nhuệ nhất vây công quân đội chỗ Dương Nguyên Khánh.
Mười ngàn Hổ Bí quân cũng là quân tinh nhuệ nhất của quân Tùy, đều là lão binh đã theo Dương Nguyên Khánh nhiều năm tại Phong Châu, đã tham gia vô số lần chiến đấu, bất kể kinh nghiệm tác chiến hay cưỡi ngựa bắn cung, võ nghệ, chiến mã, vũ khí đều là số một bên quân Tùy.
Nhưng trong chiến tranh tàn khốc thì không có ai vĩnh viễn là người may mắn. Quân Tùy tập hợp năm mươi người một đội, mà quân Đột Quyết thì một đội có trăm người, đem quân Tùy bao vây từng đoàn. Song phương đều rất rõ ràng, chỉ cần đánh bại đối phương thì sẽ giành được chiến thắng cuối cùng trong trận chiến này, vì vậy bọn họ chiến đấu cũng vô cùng kịch liệt, thảm thiết.
Chiến đấu kịch liệt từ sáng sớm cho đến buổi chiều, Hổ Bí quân đã tử vong hơn bốn ngàn người, quân cận vệ Đột Quyết ba vạn ngườicũng đã tổn thất hơn một vạn. Tuy vậy, song phương vẫn bị vây trong trạng thái giằng co như cũ. Dương Nguyên Khánh ở giữa đội ngũ, hắn suất quân liều chết xung phong, địch nhân chết dưới giáo của hắn nhiều vô số kể. Lúc này cả người hắn đẫm máu, âm thanh khàn khàn, chiến mã hộc bọt mép, nhân mã cũng đã lâm vào tình trạng kiệt sức.
Bên cạnh hắn, năm trăm thân vệ cũng đã bỏ mình hơn hai trăm người, số thân vệ còn lại đang bao vây hộ vệ xung quanh hắn, không cho hắn tiếp tục mang binh tấn công. Lúc này, một mũi tên bắn lén thôi cũng có thể tạo thành hậu quả nghiêm trọng không thể bù lại.
Dương Nguyên Khánh đưa trường sóc giao cho thân binh, tay cầm chiến đao chỉ huy Hổ Bí quân chiến đấu, hắn không ngừng điều động quân đội, trợ giúp những chỗ yếu nhược. Lúc này một tên binh lính chạy tới hô lớn:
- Điện hạ, Bùi tướng quân bị thương nghiêm trọng, không thể duy trì nổi.
Dương Nguyên Khánh cả kinh trong lòng, Tạ Ánh Đăng đã bị thương không thể tiếp tục chiến đấu, nếu Bùi Hành Nghiễm cũng duy trì không được, hữu quân sẽ gặp nguy hiểm. Hắn nhanh chóng lấy mẫu lệnh tiễn giao cho thân binh của mình:
- Ngươi đi truyền lệnh, Trình Giảo Kim kế nhiệm chủ tướng hữu quân, lệnh cho hắn cần phải kiên trì chờ đợi cho tới lúc viện quân đến.
- Tuân lệnh!
Thân binh tiếp lệnh ngay lập tức chạy như bay, trong lòng Dương Nguyên Khánh sầu lo cực kỳ, mặc dù trước đó hắn đã chuẩn bị tâm lý, dù sao cũng không thể cứng rắn chiến đấu với quân địch được, nhưng hắn còn chưa nghĩ đến chiến tranh sẽ thảm khốc tới mức độ này. Việc này liên quan đến ý chí của chủ soái bên địch, cho thấy Hiệt Lợi Khả Hãn vô cùng quyết tâm đánh bại quân Tùy.
Điều làm cho Dương Nguyên Khánh lo lắng là thời gian càng kéo dài thì càng bất lợi cho quân Tùy. Dù cho hiện tại số lượng quân Đột Quyết thương vong gấp hai lần quân Tùy, điều này phù hợp với mong muốn trước khi chiến đấu, nhưng dù sao binh lực quân Tùy cũng ít hơn, cứ đánh như vậy thì đến lúc Đột Quyết vẫn còn hơn mười vạn quân còn có thể chiến đấu, quân Tùy sẽ không thể duy trì được bởi binh lực quá ít.
Hắn nhìn sang hướng đông bắc, song phương đều đã sức tàn lực kiệt, quân Lý Tĩnh đáng nhẽ nên xuất hiện rồi mới đúng. Thân binh bên người bỗng nhiên xuất hiện một trận xôn xao nhỏ, có binh lính hô to:
- Tuyết rơi!
Dương Nguyên Khánh ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, thấy không trung quả nhiên có tuyết rơi xuống chi chit, theo gió Bắc phiêu phiêu rơi xuống. Hắn không nghĩ ra được trận bão tuyết mà hắn mong chờ từ lâu đã xuất hiện vào lúc này, không biết Đột Quyết Khả Hãn sẽ có cảm tưởng gì?
Dương Nguyên Khánh lại nhìn sang phương bắc, hắn biết Hiệt Lợi Khả Hẵn cũng cách hắn không xa.
Rời xa chỗ Dương Nguyên Khánh ngoài ba dặm, trong chủ trận quân cận vệ Đột Quyết, Hiệt Lợi Khả Hãn tay cầm chiến đao đầy máu, nằm bên cạnh hắn là một gã vạn phu trưởng đã đầu một nơi thân một nẻo. Hiệt Lợi Khả Hãn nổi trận lôi đình, khiển trách rống lên với một đám tướng lĩnh bên người:
- Mặc kệ tuyết có rơi hay không, ta vẫn phải đánh bại quân Tùy, ai còn dám đưa lý do này ra, đây chính là kết cục của hắn!
Hắn cầm chiến đao chỉ một gã vạn phu trưởng khác, thanh âm khàn khàn ra lệnh, nói:
- Không tiếc bất cứ giá nào, đánh tan quân đội của Dương Nguyên Khánh cho ta, giết chết Dương Nguyên Khánh…
Phía đông chiến trường bố trí hữu quân Đại Tùy, chủ tướng là Bùi Hành Nghiễm, phó tướng Tạ Ánh Đăng, bọn họ suất lĩnh mười lăm ngàn kỵ binh quân Tùy đánh với bốn vạn quân Tiết Diên Đà.
Tiết Diên Đà từ sau khi thảm bại tại thành Đại Lợi năm đầu Đại Nghiệp, liền mai danh ẩn tích.
Nhưng bọn họ chỉ có trầm tĩnh lại mà không bị tiêu vong, chẳng những thế, họ được người Đột Quyết che chở mà dần dần phục hồi được nguyên khí. Mười mấy năm sinh sống đầy đủ và không ngừng thôn tính, bộ tộc của bọn họ đã có hơn hai trăm ngàn người, binh lực một trăm ngàn, trở thành một chi bộ phận Thiết Lặc hùng mạnh nhất.
Người Đột Quyết bồi dưỡng Tiết Diên Đà là muốn lợi dụng bọn họ đối phó với người Hồi Hột vẫn không quá an phận, cố ý chia một nửa bãi cỏ của người Hồi Hột cho Tiết Diên Đà, tạo ra mâu thuẫn giữa hai bên. Kế ly gián của người Đột Quyết thành công, Tiết Diên Đà và Hồi Hột quả thật đã trở thành tử địch.
Nhưng cừu hận lớn nhất của người Tiết Diên Đà không phải là người Hồi Hột, mà chính là Tùy triều, nói chính xác hơn là người suất lĩnh Phong Châu quân – Dương Nguyên Khánh. Thù hận hơn mười năm trước bọn họ chưa bao giờ quên, giờ đây xuôi nam, Tiết Diên Đà vì báo thù rửa nhục mà đến.
Bốn vạn đại quân Tiết Diên Đà không ngừng hướng tới hữu quân Đại Tùy phát động tiến công điên cuồng, song phương tử vong rất thảm trọng, tiểu nhi tử của Khả Hãn Di Nam cũng bỏ mình, tám gã vạn phu trưởng cũng đã chết tới bốn người, quân lính tử vong hơn hai vạn.
Đối với quân đội thảo nguyên, bình thường thương vong hơn nửa đều không thể tiếp tục kiên trì, nhưng Di Nam rất rõ ràng, nếu lúc này hắn bị đánh bại, hy vọng đến Trung Nguyên giành lấy chiến lợi phẩm phong phú sẽ không còn, Tiết Diên Đà cũng không thể dùng tuyết rửa sạch được sỉ nhục ở thành Đại Lợi.
- Cố gắng kiên trì, chỉ cần chiến thắng được quân Tùy, thưởng cho mỗi người trăm đầu dê!
Di Nam dùng khao thưởng lớn ủng hộ quân đội của mình.
Quân đội Tùy lúc này cũng thương vong thật lớn, phó tướng Tạ Ánh Đăng trúng ba mũi tên, được thân binh cứu, mà chủ tướng Bùi Hành Nghiễm cũng bị trọng thương, đổ máu rất nhiều, hắn cũng sắp kiên trì không nổi.
- Lão Bùi, người lùi lại đi, nơi này giao cho ta!
Trình Giảo Kim gấp đến mức hai mắt đỏ bừng, lớn tiếng quát to.
Bùi Hành Nghiễm cắn răng, nhờ một gã thân binh nhổ mũi tên trên cánh tay phải, hắn lắc lắc đầu:
- Ngươi không có kinh nghiệm chi huy quân đội độc lập. Giao cho ngươi ta rất lo lắng!
Trình Giảo Kim chán nản, không ngờ như vậy. Hắn không khỏi oán hận mắng:
- Đến lúc nào rồi mà ngươi còn quản việc này. Cho ngươi biết, quân ta sẽ chết trận đến người cuối cùng, ngươi tin hay không?
Hắn lại xoay người nhìn hơn mười người tướng lĩnh hô to:
- Các ngươi nói, tin tưởng ta!
Hơn mười người tướng lĩnh đều cúi đầu, ai cũng không lên tiếng. Lúc này Bùi Hành Nghiễm lại cảm thấy choáng váng đầu óc, cả người không còn một chút sức lực nào, hắn thực sự kiên trì không nổi, thanh âm trầm thấp đành phải nói:
- Đợi Điện hạ ra lệnh đi!
Vừa dứt lời, thân binh của Dương Nguyên Khánh chạy vội tới, giơ cao lệnh tiễn hô to:
- Sở Vương điện hạ có lệnh, Trình Giảo Kim tướng quân tiếp quản chỉ huy hữu quân, cần phải kiên trì chờ đợi viên quân đến!
Trình Giảo Kim mừng rỡ, tiến lên tiếp nhận lệnh tiễn, xoay người nhìn chằm chằm Bùi Hành Nghiễm, ánh mắt toát ra hào quang. Bùi Hành Nghiễm bất đắc dĩ, đành phải đối diện với hơn mười người tướng lĩnh ra lệnh:
- Phục tùng Trình tướng quân chỉ huy, kẻ trái lệnh chém!
Các tướng cùng nhau khom người thi lễ:
- Tuân lệnh!
Giờ phút này, Trình Giảo Kim bỗng nhiên trở nên nghiêm túc, hướng tới mọi người nói:
- Trình Giảo Kim ta tuy rằng chiến công không đủ, thanh danh không tốt, nhưng điện hạ vẫn chọn ta làm chủ tướng, loại tín nhiệm này làm cho ta không có lời nào để nói, chỉ có nguyện chết báo đáp lại công ơn tri ngộ của Sở Vương điện hạ.
Hắn vung lên đại phủ:
- Mọi người theo ta, khiến bọn chó Tiết Đà Nhân nếm thử tư vị lưỡi búa của lão Trình ta…
Lúc này trên không trung, bông tuyết càng ngày càng lớn, nhìn nơi xa bắt đầu mơ hồ, sau lưng đại quân Tiết Diện Đà, Lý Tĩnh suất lĩnh mười lăm ngàn quân đội đã chạy đến.
Lý Tĩnh gạt nhẹ bông tuyết phủ trên người, nhìn chăm chú hậu quân Tiết Diên Đà cách đó hơn một dặm, hắn biết thành hay bại của toàn bộ trận đại chiến chính là lúc này.
Lý Tĩnh hít một hơi thật sâu, quay đầu nhìn lại phía sau, sau lưng hắn là năm nghìn trọng giáp kỵ binh sắp xếp chỉnh tề thành hàng, giống như năm nghìn bức tượng, lẳng lặng đứng yên giữa trời đầy bông tuyết, trên người đã phủ kín một tầng bông tuyết mỏng.
Đại tướng Tiết Vạn Triệt đứng ở đầu hàng, tay cầm mã giáo, nhìn chăm chú vào Lý Tĩnh, trong ánh mắt tràn đầy khát vọng chiến đấu. Lý Tĩnh hiểu được trong mắt hắn đang ẩn chứa chờ mong, chậm rãi gật đầu:
- Xuất phát!
Tiết Vạn Triệt giơ cao mã giáo, đây là mệnh lệnh xuất chinh, năm nghìn trọng giáp kỵ binh bắt đầu xuất phát, bọn họ trăm người thành một đội, bắt đầu thong thả chạy về phía trước, đội ngũ chỉnh tề, vó ngựa phát ra âm thanh trật tự, nhịp nhàng.
Phía sau trọng giáp kỵ binh, tả hữu phân bố năm nghìn khinh kỵ binh, bọn họ cũng sắp xếp thành đội, đang chờ đợi mệnh lệnh tiến công.
Trọng giáp kỵ binh không có khả năng phát động tiến công quân địch từ xa, chiến mã của bọn họ không thể chống đỡ được khoảng cách quá xa, bắt đầu phát động ở khoảng cách một dặm này có thể sinh ra hiệu quả tấn công tốt nhất.
Nhưng nếu cứ như vậy thì khi trọng giáp kỵ binh tập kích cũng sẽ bị quân địch dễ dàng phát hiện. Trên thực tế, trinh sát tuần tra Tiết Diên Đà đã phát hiện ra quân Tùy ở mặt sau.
Tin tức này khiến cho Di Nam Khả Hãn chấn động, một mặt hắn phái người khẩn cấp cầu viện Hiệt Lợi Khả Hãn, đồng thời đưa năm nghìn quân đội tổ chức phòng thủ phía sau doanh, cung tiễn dày đặc sẵn sàng đón đánh đợt công kích của quân Tùy.
Cung tiễn của Tiết Diên Đà quân cũng không phải loại tốt như của người Đột Quyết, người Đột Quyết sẽ không giao những loại vũ khí tốtho bọn hắn. Tiết Diên Đà phải sử dụng lượng lớn súc vật đổi lấy ba vạn bộ cung tiễn từ người Cao Ly, đây đều là loại kỵ cung tốt nhất do quân khí của Tùy triều tạo ra.
Xa xa, đông nghịt trọng giáp kỵ binh quân Tùy càng ngày càng đến gần, rất nhiều binh lính Tiết Diên Đà đều xuất hiện vẻ hoảng sợ trong mắt, chưa đợi được đến lúc kỵ binh quân Tùy vào tầm bắn đã bắt đầu mù quáng mà bắn tên.
Trọng giáp kỵ binh đã giết tới ngoài ba trăm bước, Tiết Vạn Triệt tay cầm cự thuẫn, giơ cao lên mã giáo, năm nghìn trọng giáp kỵ binh đột nhiên tăng tốc.
Bọn họ xếp thành hàng đón đỡ mưa tên dày đặc, hướng phía quân địch vọt tới, tốc độ càng lúc càng nhanh, tiếng vó ngựa giống như sấm đánh, khí thế như sóng to gió lớn, phá hủy hết thảy, phá tan hết thảy, lấy một loại khí thế không thể chống lại dữ dằn xông mạnh đến phía năm nghìn Tiết Diên Đà kỵ binh đang phòng ngự.
Kỵ binh Tiết Diên Đà hoảng sợ vạn phần, bọn họ đã ác chiến hơn hai canh giờ, đều đã lâm vào tình trạng kiệt sức, ý chí chiến đấu giảm mạnh, trọng giáp kỵ binh tấn công mãnh liệt làm bọn họ sợ run chân, đều quay đầu mà chạy, lăn lộn loạn thành một bầy.
Di Nam Khả Hãn sắc mặt đại biến, không ngờ lại là trọng giáp kỵ binh, ở năm Khai Hoàng thứ hai mươi, hắn đã từng chứng kiến sự hùng mạnh của trọng giáp kỵ binh khi quân Tùy Bắc phạt.
Nhưng hắn biết lúc này không thể lui về sau, Di Nam rút đao ra, hô to:
- Chống địch cho ta!
Năm nghìn Tiết Diên Đà quân tay cầm chấp mâu tiến tới. Có kẻ liều mạng triệt thoái về phía sau, bọn họ giữa chiến đấu và trốn chạy trở nên do dự, càng thêm hỗn loạn, kỵ binh hàng trước hoảng sợ phải gào thét.
Ngựa khỏe lao nhanh, sát khí ngút trời, năm nghìn trọng giáp kỵ binh áp sát quân địch chỉ còn hơn mười bước, Tiết Diên Đà quân trong khoảnh khắc cuối cùng rốt cục không chịu nổi. Bọn họ quay đầu ngựa, hướng về phía cánh đồng bát ngát liều mạng chạy trốn.
Lúc này, mười ngàn viện quân Đột Quyết cũng chạy tới, bọn họ khinh thường Tiết Diên Đà quân lúc trước nhưng cũng bị khí thế rung chuyển trời đất của trọng giáp kỵ binh chấn nhiếp, trong lòng cực kỳ sợ hãi. Binh lính ở hàng trước không có chỗ chạy, cũng không thể lui về phía sau, bị binh lính phía sau đẩy tới, bọn họ chỉ có cách nhắm mắt lại mà giơ lên trường mâu, tuyệt vọng mà hét thảm.
- Oanh!
Năm nghìn trọng giáp kỵ bin dùng một loại lực lượng bẻ gãy, nghiền nát mà lao vọt vào hàng ngũ quân địch. Hàng thứ nhất của kỵ binh Đột Quyết bị đâm cho tan xương nát thịt, hơn mười cỗ thi thể và chiến mã văng ra ngoài, vô số người bị chiến mã dẫm đạp dưới móng sắt, âm thanh kêu la thảm thiết có khi cũng không phát ra được. Từng hàng người bị cắt xuống giống như gặt lúa, thi thể máu thịt mơ hồ, huyết tương vung vãi khắp nơi.
Lực lượng quá lớn của trọng giáp kỵ binh phá tan trận hình của viện quân Đột Quyết trong nháy mắt. Lúc này, Tiết Diên Đà Di Nam Khả Hãn đang ở tại phía sau quân trận Đột Quyết.
Hắn trơ mắt nhìn bức tường quân nhân Đột Quyết dày đặc đang tan rã như đồ sứ bị ném vỡ tan thành trăm ngàn mảnh nhỏ, thi cốt bay tứ tung, máu thịt văng khắp nơi. Một cánh tay nhuộm đầy máu tươi bỗng nhiên hiện ra trước mắt hắn, chiến mã giống như một con quái thú, cái mũi phun ra nồng nặc khói trắng, hai mắt đỏ bừng, hướng về phía hắn vọt tới.
- A!
Di Nam hoảng sợ cất tiếng cười điên cuồng, trăm tên thị vệ bên cạnh hắn đã không còn cách cứu viện, trơ mắt nhìn Khả Hãn của bọn họ bị thiết kỵ quân Tùy cuốn vào móng ngựa, giẫm thành thịt nát.
Trọng giáp kỵ binh vung mã giáo đâm liên tục, thế như chẻ tre, đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, chém giết mở ra được một con đường máu.
Phía sau bọn họ, Lý Tĩnh suất lĩnh mười ngàn kỵ binh quân Tùy lao theo con đường máu vừa được mở ra giết vào trận địa Tiết Diên Đà quân. Tiết Diên Đà quân trở nên hỗn loạn, kỵ binh chạy trốn tứ phía trong cơn tuyết lớn, kêu khóc vang trời.
Tuyết rơi càng lúc càng lớn, tinh tế biến thành từng đoàn tuyết cầu, thiên địa trở nên một mảnh tối tăm, mịt mờ.
Trận tuyến phía tây chiến trường, đại tù trưởng Hồi Hột Bùi Tát híp mắt đánh giá tuyết rơi trên không trung. Đúng lúc này, có người chạy vội tới, lo lắng hô to:
- Tù trưởng, viện quân Tùy triều đã tới, Tiết Diên Đà tan tác rồi. Tù trưởng, chúng ta mau rút lui thôi!
Bùi Tát liếc nhìn đại doanh Đột Quyết. Lúc này trong lòng của hắn đang cân nhắc nặng nhẹ, cuối cùng thì từ Tùy triều chiếm được lợi lớn hay giúp cho Hồi Hột được tự do.
Hắn lạnh lùng cười:
- Thời đại của Đột Quyết đã kết thúc, thời đại chiến quốc của Thảo nguyên đến rồi.
Hắn vung tay lên:
- Chúng ta rút lui!
Tây tuyến Hồi Hột quân nhanh chóng rút lui khỏi chiến trường. Tuy vậy, La Sĩ Tín cũng không buông tha, hắn suất lĩnh quân đội đuổi giết phía sau. Lúc này, một gã quan quân chạy vội tới, lớn tiếng kêu lên:
- La tướng quân! La tướng quân!
La Sĩ Tín ghìm chặt cương ngựa, quay đầu lại hỏi:
- Chuyện gì?
Quan quân chạy tới, giơ lên chiếc lệnh tiễn, cao giọng nói:
- Điện hạ có lệnh, không đuổi theo đánh Hồi Hột, tập trung binh lực tiến công quân Đột Quyết.
La Sĩ Tín lập tức tỉnh ngộ, quay đầu lớn tiếng quát:
- Toàn quân nghe lệnh, tiến công Đột Quyết!
Lúc này ở đông tuyến, Trình Giảo Kim cũng đồng thời nhận được mệnh lệnh, buông tha không đuổi giết Tiết Diên Đà, kết hợp cùng Lý Tĩnh phát động tấn công phía Tây quân Đột Quyết.
Viện quân của Lý Tĩnh đã thay đổi được chiến cuộc đúng vào thời khắc mấu chốt nhất, theo quân Tiết Diên Đà tan tác và Hồi Hột quân rút chạy, quân tâm Đột Quyết bắt đầu lung lay sập đổ, đầy trời tuyết lớn càng khiến cho bọn họ lâm vào trong trạng thái tuyệt vọng.
- Khả Hãn, mau rút lui thôi!
Một gã Vạn phu trưởng Đột Quyết mang theo hơn ba nghìn người chạy như điên tới, lo lắng thúc giục Hiệt Lợi Khả Hãn rút lui về phương bắc. Ở giữa mấy trăm thị vệ, Hiệt Lợi Khả Hãn quỳ rạp trên mặt đất, đầu vùi sâu vào trong đất, thấp giọng khóc lên.
Giờ khắc này, tuyệt vọng, phẫn nộ, không cam lòng, các loại cảm xúc bóp méo trong lòng của hắn, hắn đã không thể khống chế được tâm tình của mình nữa rồi, hắn tựa như một người đem tất cả thân gia, tính mạng để đi đánh cuộc, nhưng một khắc cuối cùng, hắn thua, thua triệt để, không còn gì để mà thua nữa.
Hắn bỗng nhiên ngẩng đầu lên, nước mắt đã chảy đầy khuôn mặt, hắn giơ cao hai cánh tay, hướng lên bầu trời đầy tuyết, đau buồn hô lớn:
- Ông trời ơi! Ngài thương hại cho Đột Quyết đi...
Đông! Đông! Đông!
Trống lớn báo hiệu quân Tùy bắt đầu phản công ầm ầm gõ vang, tiếng trống rung chuyển đất trời, sĩ khí quân Tùy tăng vọt, phát động ra lần phản công cuối cùng. Quân Đột Quyết bắt đầu tan tác trên toàn bộ trận tuyến rôi.
Quân Tùy đuổi giết phía sau, giết cho bại quân Đột Quyết tử vong vô cùng thảm trọng, thi thể chồng chất như núi, máu tươi nhuộm hồng cả thảo nguyên.
Tuyết rơi càng lúc càng lớn, gió lạnh gào thét, bão tuyết thổi quét, che trời phủ đất đánh xuống đại địa, trong thiên địa trở nên mờ mịt một mảnh, nửa năm phương bắc khô hạn rốt cục nghênh đón trận bão tuyết lần đầu tiên…
Bắt đầu từ lúc chạng vạng, bão tuyết càng ngày càng mãnh liệt, cuồng phong gào thét che trời phủ đất, không trung đen sẫm cùng mưa tuyết đan vào một chỗ cùng nhau trong thiên địa trở thành một mảnh trời mênh mông.
Đi lên một mô đất cao, Dương Nguyên Khánh đối mặt với phiến ổ địa mà mấy chục vạn đại quân vừa chiến đấu kịch liệt. Hắn đứng đó thật lâu, trong mắt cũng không có sự vui sướng khi thắng lợi, cũng không có sự mệt mỏi sau đại chiến, chỉ có một loại đau buồn và thất vọng thật sâu.Vô số sinh mạng con người, vô số tướng sĩ đi theo hắn nam chinh bắc chiến, xác người ngựa nằm bừa bãi giữa thiên địa bão tuyết.
Chương 939 : Hang hổ kỳ kế
Tuyết rơi xuống càng lúc càng lớn, phủ đầy trên người, trên nón trụ của hắn, khiến cho hắn trở thành một người tuyết. Sau lưng hắn, nhóm thân binh trao đổi ánh mắt bất an với nhau, Điện hạ đã đứng yên nửa canh giờ, nếu không mang hắn xuống chỉ sợ sẽ bị đông cứng mất.
Lúc này, tiếng vó ngựa từ xa truyền tới, nhanh chóng chạy đến gần, trong gió tuyết truyền đến thanh âm Lý Tĩnh:
- Điện hạ ở đây sao?
Nhóm thân binh mừng rỡ, đều nghênh đón một người đang đi nhanh tới trong gió tuyết, chính là Đại Châu tổng quản Lý Tĩnh:
- Lý tổng quản, khuyên nhủ Điện hạ đi! Ngài đã đứng đó nửa canh giờ rồi.
Nhóm thân binh thấp giọng lo lắng nói.
Lý Tĩnh cả kinh, tuyết lạnh thế này có thể phá hư cơ thể, y bước nhanh đến chỗ Dương Nguyên Khánh, trên mô đất truyền đến thanh âm trầm thấp của Dương Nguyên Khánh:
- Là Lý tổng quản sao?
- Điện hạ, là ta!
Lý Tĩnh thả chậm bước chân, nghe giọng nói của Dương Nguyên Khánh vừa rồi, y có thể cảm nhận được tâm trạng bi thương giống như vừa bị mất đi người thân. Lý Tĩnh có thể hiểu được Dương Nguyên Khánh đang đau thương, là một chủ soái tốt với binh sĩ, thương vong thảm trọng như vậy quả thật làm cho người khó có thể chấp nhận.
Thế nhưng… chiến tranh mãi mãi không bao giờ kết thúc, Lý Tĩnh chậm rãi đi đến bên cạnh Dương Nguyên Khánh, thấp giọng khuyên nhủ:
- Hiện tại không phải thời điểm thương cảm, còn có ba vạn kỵ binh Đột Quyết ở trong lòng Hà Đông đang làm loạn, còn có quân Đường đang nhân lúc cháy nhà mà đi hôi của, chúng ta cũng chưa tiêu trừ được nguy cơ.
- Ta biết.
Giọng điệu Dương Nguyên Khánh trở nên vô cùng bình tĩnh:
- Ta muốn suốt đêm xuôi nam, giờ gần đi, ta muốn cáo biệt với bọn họ, thỉnh cầu bọn họ tha thứ cho ta không thể đưa bọn họ nhập thổ.
Lý Tĩnh giật mình, sau một lúc lâu cũng không nói ra lời, Dương Nguyên Khánh lại muốn suốt đêm xuôi nam. Lúc này, Dương Nguyên Khánh xoay người đi xuống, lại gần chỗ chiến mã, xa xa nghe thấy thanh âm của hắn truyền đến:
- Về đại doanh rồi nói sau! Ta có rất nhiều chuyện phải giao phó cho ngươi.
Lý Tĩnh bỗng nhiên hiểu ra, Dương Nguyên Khánh phải đem hậu sự chiến dịch Đột Quyết giao cho mình, trong lòng y nóng lên, bước nhanh xuống đi theo.
Trong gió tuyết, mấy trăm kỵ binh quay đầu ngựa, hướng phía đại doanh quân Tùy cách đó mười dặm chạy tới. Gió tuyết nhanh chóng chôn vùi bóng dáng kỵ binh, chỉ còn lại trên chiến trường mấy ngàn binh lính quân Tùy đang phân biệt các thi thể, đưa vô số thi thể tướng sĩ quân Tùy bỏ mình đưa lên xe ngựa...
Khác với bão tuyết ở Mã Ấp, quận Hà Đông cũng rơi xuống hai ngày bão tuyết, sau khi trời trong sáng, từng tòa thôn xóm được phủ thêm một lớp bông tuyết dày như những chiếc áo bông trắng toát. Cây cối biến thành những cành băng mập mạp, xa xa là một đoạn tường hoang phế trông như sống lưng của một con cự xà, vươn về hướng ánh sáng mặt trời màu đỏ tím mờ xa. Hai bên đường cái nhấp nhô hố đất và mương máng, bị tuyết lấp đầy, trở thành một mảnh đất bằng phẳng trắng xóa.
Nơi này là Ngũ Liễu trấn, cách phía bắc thành Hà Đông khoảng ba mươi dặm, vào lúc sáng sớn, trên đường cái người đi lại không ngừng, tuyết đọng dày bị dẫm đạp trở nên rắn chắc, người đi đường đạp xuống phát ra tiếng vang “Kẽo kẹt! Kẽo kẹt!”
Ngồi trên một tảng đá lớn ven đường, lão nông mặt mày nhăn nhó, bánh xe ngựa của lão bị rơi vào trong khe rãnh. Năm sáu người trẻ tuổi cường tráng đang giúp lão nâng xe lên, vài lần đều không thành công, làm cho những thiếu nữ trẻ đi qua cất tiếng cười vang lên như chuông bạc.
Xa xa, một đám trẻ nhỏ đang nô đùa, chạy dọc theo bờ ruộng bị tuyết đọng bao trùm, cười vui tìm chỗ chạy trốn, mấy con chó cũng chạy trước nô đùa cùng lũ trẻ.
Trong đống tuyết, một đám nông dân đang chuyên chú đo đạc độ dày của tuyết, trên mặt mỗi người đều phát ra nội tâm tràn đầy vui sướng, tuyết rơi đúng lúc bọn họ đang mong mỏi đã hơn nửa năm, giúp cho đất đai không còn khô cằn, khôi phục lại sức sống vốn có.
Lúc này, xa xa truyền đến tiếng vó ngựa dồn dập, một đội năm sáu trăm kỵ binh từ phương bắc hăng hái chạy tới, từ xa có thể nhìn thấy bọn họ giống hệt như một dải dài xám xịt giữa cánh đồng tuyết.
Trên đường cái, những người đi đường đều né sang hai bên. Một lát sau, đám kỵ binh chạy gấp tới, mỗi người đều trang bị song mã, bởi vì đây là lộ khẩu nên người đi đường rất nhiều, bọn kỵ binh phải thả chậm lại tốc độ, nhưng vẫn rất nhanh chạy như bay vượt qua trước mặt mọi người
Lão nông ngồi trên tảng đá lớn bỗng nhiên đứng lên kinh ngạc nói với mấy tên trẻ tuổi:
- Các ngươi nhìn rõ người cầm đầu quan quân là ai chưa?
Mấy tên trẻ tuổi cùng nhau lắc đầu, bọn họ đều không chú ý tới, thấy lão nhân vẻ mặt kinh ngạc, lập tức mồm năm miệng mười hỏi:
- Tần lão cha, đó là ai vậy?
- Các ngươi toàn là lũ ngu ngốc, cầm đầu tướng lĩnh không phải là Sở Vương điện hạ sao?
Bên cạnh, vài tên thương nhân cũng vây quanh, vội hỏi:
- Cha, có thể xác định là Sở Vương điện hạ thật sao?
- Đúng vậy, ta đã thấy ngài nhiều lần, năm trước khi ngài đi thị sát Hà Đông, cũng qua thôn chúng ta, còn hỏi ta vài câu đấy, khẳng định chính là ngài.
Lập tức mọi người đều nghị luận, Sở Vương điện hạ không phải đang chống lại người Đột Quyết ở phương bắc sao? Thế nào mà lại tới quận Hà Đông? Lão nông khẽ vuốt chòm râu bạc trắng, thế sự xoay vần, ánh mắt lộ ra vẻ cười hiểu ý, lão nhìn mọi người hưng phấn nói:
- Nếu ta đoán không sai thì quân đội chúng ta đã đánh bại Đột Quyết, lấy được thắng lợi lớn rồi!
Mọi người đều hoan hô lên một tiếng, vài tên thương nhân nhìn nhau, trong mắt hiện lên vẻ khiếp sợ, đây là tình báo trọng yếu, bọn họ phải lập tức hướng lên Tần Vương điện hạ bẩm báo…
Mặc dù hơn một nửa Hà Đông đều đắm chìm vào sự vui sướng trong lúc tuyết rơi, nhưng Dương Nguyên Khánh lại không có tâm tình cùng nhân dân ven đường ăn mừng tuyết rơi đúng lúc.
Một mặt là do kết quả thảm thiết của trận chiến làm cho hắn buồn bực không vui, mặt khác là hắn đang sầu lo về việc quân Đường mượn gió bẻ măng, tâm trạng nặng trịch đè lên trong lòng hắn.
Hắn không biết thế cục đã chuyển biến tới một bước nào rồi? Nhất là Trung Nguyên, có đột phá điểm mấu chốt của hắn hay không? Dọc theo đường đi hắn không chiếm được một tình huống mới nào từ Lạc Dương, chỉ biết Lạc Dương bị vây, nhưng đó là tình huống ba ngày trước, hiện tại ra sao?
Trên thực tế, Dương Nguyên Khánh cũng không phải lo lắng thành Lạc Dương bị phá, Vương Thế Sung bị giết là chuyện sớm hay muộn mà thôi, không phải bị tiêu diệt trong tay Đường triều, chính là bị quân Tùy xử lý.
Lạc Dương tuy là địa điểm lớn của Trung Nguyên, nhưng đồng thời cũng là nơi dễ xảy ra chiến tranh, dễ công khó thủ, Vương Thế Sung kẹp giữa hai đại kình địch, cục diện cân bằng này không có khả năng kéo dài bao lâu.
Vương Thế Sung cũng là hạng người kiêu hùng, Dương Nguyên Khánh cũng không thèm để ý đối với sống chết của hắn, hắn quan tâm chính là việc quân Đường mở rộng về phía đông, một khi quân Đường chiếm được Lạc Dương, mà chiến tranh giữa quân Tùy và Đột Quyết còn chưa kết thúc, như vậy Lý Thế Dân sẽ có cơ hội khuếch trương về phía đông, chiếm được hơn một nửa Trung Nguyên.
Đây mới là điểm mấu chốt, là điều Dương Nguyên Khánh tuyệt đối không muốn thấy, vì thế cho nên hắn mới cho Vương Thế Sung kỳ hạn một năm, chỉ là để khích lệ Vương Thế Sung tử thủ thành trì, vì hắn tranh thủ được một chút thời gian, hôm nay đã là ngày thứ tư.
Lúc này, phía sau truyền đến một tiếng thét kinh hãi cắt đứt suy nghĩ của Dương Nguyên Khánh, hắn vừa quay đầu lại thì thấy một con chiến mã té ngã trên mặt đất, miệng sùi bọt mép, bốn vó không ngừng co giật, đây là bộ dạng do cực độ mệt nhọc mà ra.
Dương Nguyên Khánh lập tức ghìm chặt chiến mã, ánh mắt thân thiết nhìn theo tên thân binh vừa bị ngã ngựa, tên thân binh ngã quay cuồng xa hơn một trượng, rất nhanh bò lên, trên mặt đất tuyết đọng rất dày nên hắn cũng không xảy ra vấn đề gì cả. Dương Nguyên Khánh gật gật đầu, lại nhìn về hướng tiền phương, nơi này cách thành Hà Đông chỉ còn hơn mười dặm.
- Thả chậm tốc độ, cho chiến mã nghỉ ngơi!
Rồi hắn hướng tới Trình Giảo Kim nói:
- Ngươi đi đến thành Hà Đông trước, nói cho Lai tướng quân là ta đã đến.
- Rõ!
Trình Giảo Kim đáp ứng một tiếng, thay đổi con ngựa khác, tăng thêm tốc độ chạy tới thành Hà Đông.
Lúc này, La Sĩ Tín rốt cuộc tìm được cơ hội, tiến lên thấp giọng nói:
- Điện hạ, giải vây cho thành Lạc Dương thì phải đi quận Hà Nội, chúng ta lại đi đến thành Hà Đông, có phải hay không…
- Tiểu tử ngươi muốn nói “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, có phải vậy không?
Dương Nguyên Khánh liếc mắt nhìn hắn, rốt cuộc trên mặt lộ ra vẻ cười cười.
La Sĩ Tín mặt đỏ lên, gãi gãi sau gáy nói:
- Ty chức không dám nói như vậy, ty chức chỉ muốn nói “nước xa không kịp giải khát”.
- Ta nghĩ tiểu tử ngươi cũng không dám nói lung tung.
Dương Nguyên Khánh cười cười, lại không trả lời nghi ngờ của y, bọn họ đi thêm một đoạn đường, La Sĩ Tín rốt cục không kìm nổi, lại hỏi:
- Chúng ta có phải chuẩn bị theo Phong Lăng Độ qua sông, cắt đứt đường lui của quân Đường?
Dương Nguyên Khánh cười cười, dùng roi ngựa gõ lên mũ giáp của hắn một cái, nói:
- Ta có đần như vậy sao? Cho ngươi thời gian suy xét, không ngờ ngươi lại nghĩ đến Phong Lăng Độ, thật khiến cho ta thất vọng, vì sao người không nghĩ đến Bồ Tân Độ?
- Bồ Tân Độ (bến Bồ Tân)!
La Sĩ Tín ngây ngẩn người, bỗng nhiên đầu óc hiện lên một đạo linh quang, yt lập tức hiểu được ý đồ của Dương Nguyên Khánh rồi. Y liền che miệng lại, kích động đến mức muốn kêu ra thành tiếng, Dương Nguyên Khánh là muốn trực tiếp tấn công Trường An!
Chương 940 : Đêm tuyết qua quan đạo
Dương Nguyên Khánh thấy vẻ mặt yn kích động, biết y đã hiểu được ý đồ của mình rồi, liền cười hỏi:
- Thế nào, ngươi cảm thấy không ổn sao?
- Không hề không ổn!
La Sĩ Tín liên tục xua tay:
- Ty chức chẳng qua cảm thấy vô cùng kích thích, trực tiếp tấn công Trường An, nếu có thể công phá được Trường An thì tốt nhất, vứt Lý Uyên lão nhân xuống khỏi ngai vàng!
La Sí Tín càng nói càng kích động, y tự đánh một cái lên trán mình:
- Ta thật là đần, kế sách tốt như vậy, không ngờ, không ngờ, Quan Trung trống rỗng, đây đúng là vây Ngụy cứu Triệu!
La Sĩ Tín bỗng nhiên lại nghĩ đến cái gì, chần chờ một chút rồi hỏi:
- Chỉ có điều kế sách này sao không thực hiện sớm, kỳ thực khi quân Đường tới Đồng Quan đã có thể áp dụng rồi, cũng không cần chúng ta phải đuổi đến từ ngàn dặm xa xôi, dọc đường đi còn phải lo lắng hãi hùng.
- Ngươi nghĩ rằng ta không nghĩ tới sao?
Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu:
- Kế sách này phiêu lưu quá lớn, nếu tùy tiện sát nhập Quan Trung, Lý Kiến Thành rút quân theo quan nội, Lý Hiếu Cung lại từ Đồng Quan tiếp viện, liền biến thành bắt rùa trong hũ rồi. Còn một điểm nguy hiểm là, quân Tùy sát nhập Quan Trung, Hà Đông tất nhiên trống rỗng, lúc này Lý Thế Dân thừa dịp Bắc thượng Hà Đông, mà Tùy - Đột còn đại chiến tại Mã Ấp, ngươi nói phải làm sao bây giờ?
La Sĩ Tín tỉnh táo lại, yên lặng gật gật đầu:
- Cái này sẽ mất nhiều hơn được.
Dương Nguyên Khánh cũng hơi cảm thán một tiếng:
- Còn không chỉ mất nhiều hơn được, như vậy không thể vây Ngụy cứu Triệu, ngược lại là tiền mất tật mang.
Dừng một chút, Dương Nguyên Khánh lại nói:
- Kế sách này mấu chốt ngay ở chỗ đại chiến Tùy – Đột chấm dứt, như vậy quân Tùy có thể quay ra phòng thủ, Lý Thế Dân không dám dễ dàng Bắc thượng Hà Đông, cho nên ta mới vội vàng xuôi nam. Chỉ cần ta lộ diện ở Hà Đông, Lý Thế Dân liền biết ngay Tùy – Đột đã chấm dứt đại chiến, hắn không dám hành động thiếu suy nghĩ một lần nữa, hơn nữa phòng ngừa nếu chẳng may, ta lại từ quận Hà Nội điều mười ngàn quân sang tăng phòng cho quận Hà Đông, như vậy liền có thể thực thi kế sách vây Ngụy cứu Triệu này rồi.
Dương Nguyên Khánh mới nói tới đây thì thấy xa xa chạy tới một đội nhân mã, cầm đầu là chủ tướng trấn thủ Hà Đông Lai Hộ Nhi…
Về việc chọn chủ tướng phòng ngự ở quân Hà Đông, Dương Nguyên Khánh luôn xem xét cẩn thận để tìm người tốt nhất. Để làm được chủ tướng Hà Đông, đầu tiên cần phải có tính tình điềm đạm, chắc chắn. Tiếp theo là có danh tiếng, mới có thể trấn trụ được quân Đường ở Quan Trung khiến bọn họ không dám hành động thiếu suy nghĩ. Người đầu tiên mà Dương Nguyên Khánh nghĩ tới, chính là Tần Quỳnh. Nhưng Tần Quỳnh tuy tính cách điềm đạm, nhưng danh khí chưa đủ lớn.
Cho nên, Lai Hộ Nhi trở thành người tốt nhất để lựa chọn. Ông ta vốn là lão tướng của triều Tùy. Bất kể là kinh nghiệm hay tài điều binh khiển tướng, đều nổi danh khắp thiên hạ.
Tiếc nuối duy nhất chính là tuổi tác của ông ta đã cao. Tuy nhiên Dương Nguyên Khánh không cần ông ta phải chinh chiến, chỉ cần thay mình bảo vệ tốt quận Hà Đông, thì đã coi là công lớn rồi.
- Sở Vương điện hạ đến thật nhanh!
Lai Hộ Nhi cười ha hả chạy ra đón chào. Ở trên ngựa ôm quyền thi lễ nói:
- Điện hạ một đường vất vả.
Dương Nguyên Khánh hiểu ý vội hỏi:
- Có phải có tin tức từ Thái Nguyên truyền tới hay không?
Lai Hộ Nhi gật đầu nói:
- Nửa đêm hôm qua, Thái Nguyên truyền tới cấp báo. Có một tin tức tốt muốn truyền tới cho điện hạ.
- Là tin tức về ba mươi nghìn của Đột Quyết.
Đây là việc mà hắn quan tâm nhất. Quận Lâu Phiên và quận Thái Nguyên, ngoại trừ thành Thái Nguyên chưa bị tổn hại. Còn lại các thành thị đều bị phá hư, đốt cháy hầu như không còn. Thương vong đã đạt tới mười nghìn người.
Điều này khiến Dương Nguyên Khánh cực kỳ căm tức. Trước khi đi hắn đã ra lệnh cho Lý Tĩnh và Tần Quỳnh, liên kết tiêu diệt đội quân Đột Quyết này. Cho nên Lai Hộ Nhi vừa nói tới có tin tức tốt, hắn liền suy nghĩ ngay đến chuyện này.
- Đúng như vậy, chính là về ba mươi nghìn quân Đột Quyết. Bọn họ nghe nói Mã Ấp Đột Quyết bại trận, liền từ Tỉnh Hình đi vòng Hà Bắc. Ty chừng đoán rằng bọn họ muốn đi Liêu Đông. Trong cấp báo đã nói, Tần tướng quân dẫn theo hai mươi nghìn quân ngăn chặn đường vào Tỉnh Hình. Hầu Mạc Trần Nghệ tướng quân suất quân mười ngàn, bảo vệ ở phía đông Thổ Môn Quan. Như vậy có thể vây ba mươi nghìn quân Đột Quyết ở trong Tỉnh Hình.
Tin tức này khiến Dương Nguyên Khánh rất mừng rỡ. Hắn lập tức ra lệnh cho thân binh:
- Lập tức dùng chim ưng gửi thư tới huyện Thiện Dương. Ra lệnh cho Lý Tĩnh lại tiếp viện mười nghìn quân tới Thổ Môn Quan. Cần phải vây hết người Đột Quyết ở trong Tỉnh Hình.
Ba mươi nghìn quân Đột Quyết bị vây ở Tỉnh Hình, sớm hay muộn sẽ bị tiêu diệt, dẹp đi được một tảng đá lớn trong lòng của Dương Nguyên Khánh. Nhưng lúc này, điều mà hắn quan tâm nhất chính là tình huống ở Lạc Dương và Quan Trung.
- Đi thôi! Đi vào trong thành rồi lại nói chuyện.
Đoàn người thúc ngựa tăng tốc độ về hướng thành Hà Đông …
Bên trong nghị sự đường của quận Hà Đông, nhóm thân binh của Dương Nguyên Khánh rất nhanh đã mở ra sa bàn khu vực Quan Trung. Sa bàn chỉ rộng chừng một trượng, chia làm mười sáu khối, tiện lợi cho việc mang theo người.
Dương Nguyên Khánh đứng ở trước sa bàn, nhìn chăm chú vào địa hình của Quan Trung. Đồng thời nghe Lai Hộ Nhi báo cáo tình hình chiến đấu mới nhất.
- Chiến dịch Lạc Dương đánh rất thảm thiết. Hai trăm ngàn quân Đường liên tục công thành ba ngày, chết ít nhất là mấy chục nghìn người. Nhưng thành trì còn chưa bị đánh hạ. Nghe thám tử báo cáo, Vương Thế Sung bức bách nam nữ toàn thành đều phải lên thành phòng thủ. Đồng thời tưới nước trên đầu thành, khiến tường thành trơ nên bóng loáng vô cùng. Khiến quân Đường rất khó tấn công.
Dương Nguyên Khánh khẽ thở dài một cái nói:
- Không thể không thừa nhận, Vương Thế Sung rất giỏi đánh trận. Tuy nhiên, cuối cùng y sẽ vẫn phải thất thủ.
Lúc này, Ngụy Trưng, mới nhậm chức Thái Thú quận Hà Đông, đứng lên thi lễ nói:
- Vương Thế Sung trị dân tàn bạo, làm cho đô thành lớn như vậy trở nên điêu linh rách nát. Y còn ở Lạc Dương, còn là nỗi bất hạnh của người dân. Điện hạ cần gì phải thương cảm y?
Dương Nguyên Khánh liếc Ngụy Trưng một cái, cười nói:
- Ta không thương cảm y. Nếu ta chiếm được thành Lạc Dương, ta cũng sẽ giết y bình ổn sự phẫn nộ của người dân. Ngụy Thái Thú không cần phải nghĩ nhiều như vậy.
Không đợi Ngụy Trưng nói thêm, Dương Nguyên Khánh lại nói với Lai Hộ Nhi:
- Không đề cập tới việc ở Lạc Dương nữa, mà nói về tình huống ở Quan Trung và Trường An.
Lai Hộ Nhi lấy một cây gỗ chỉ hướng Trường An nói:
- Hiện tại quân Đường đã dốc toàn bộ lực lượng, nên đất Thục và Kinh Tương gần như không có binh lính canh giữ. Tuy nhiên Trường An còn có mười nghìn Vũ Lâm quân và mười nghìn Kim Ngô Vệ. Mặt khác, ở Đồng Quan và Bồ Tân Quan còn có năm nghìn quân coi giữ. Đứng đầu Bồ Tân Quan là Vương Trường Hài. Còn ở Đồng Quan là Đại soái Lý Thần Thông suất lĩnh.
Dương Nguyên Khánh nhướn mày:
- Lý Thần Thông sao lại trở thành đại soái ở Đồng Quan rồi?
Lai Hộ Nhi cười lạnh một tiếng nói:
- Nghe nói chỉ là tạm thời kiêm nhiệm Lý Thần Thông chuẩn bị đảm nhiệm việc đóng giữ ở Lạc Dương. Nếu như quân Đường chiếm được thành Lạc Dương, y sẽ liền đi nhậm chức.
Dương Nguyên Khánh trầm tư một lát, dứt khoát nói:
- Vậy thì đêm nay xuất binh, tập kích Bồ Tân Quan…
Ban đêm, không khí vừa khô vừa lạnh lẽo. Một vầng trăng treo lơ lửng trên bầu trời xanh thẳm. Trời đêm ít sao, ánh trăng trong trẻo nhưng lạnh lùng chiếu khắp đại địa. Nước sông Hoàng Hà đã bị đóng băng khoảng mười dặm. Tuyết dày bao trùm cả mặt sông, không thấy một bóng người ở đó.
Từ sau vụ tiền bạc, Đường triều đã đoạn tuyệt việc mậu dịch với triều Tùy. Nghiêm cấm thương nhân qua sông, cũng không cho phép thương nhân Hà Đông đi vào Quan Trung. Hơn nữa chiến tranh liên tục không ngừng, khiến cho việc qua lại giữa Tùy Đường trở nên bị cắt đứt hoàn toàn. Ngẫu nhiên sẽ xuất hiện bóng người qua lại, nhưng phần lớn đều là thám tử do hai quân phái tới.
Dưới ánh trăng lạnh lùng, một đội kỵ binh chừng mười nghìn người đang chạy gấp trên mặt sông băng, đi về phía Bồ Tân.
Bồ Tân Quan là một đạo hiểm quan ở giữa Tần và Tấn thời xưa. Phía bắc của Bồ Tân Quan đều là vách núi vách đá. Chính là thung lũng lớn Tần Tấn nổi tiếng. Lại đi về phía bắc hơn hai trăm dặm, có thể Vũ Môn vượt qua sông. Sau đó dọc theo sông đi về phía nam.
Nhưng thời gian để đi qua Vũ Môn đã không còn kịp. Quân Tùy chỉ có thể theo Bồ Tân Quan nhập Quan Trung. Còn cách Bồ Tân Quan bảy tám dặm, Dương Nguyên Khánh giơ tay ra hiệu dừng lại. Đội ngũ bắt đầu chậm rãi đình chỉ. Từ phía tây của sông có thể mơ hồ nhìn thấy dãy núi đen nhánh. Bồ Tân Quan đứng sừng sững ở giữa hai vách núi đá.
Dương Nguyên Khánh đứng ở xa nhìn quan ải. Hắn đang đợi tin tức từ đội tiên phong…
Dưới ánh trăng, một đội thương nhân đang vô thanh vô tức đi trên đường núi tới Bồ Tân Quan. Độ thương nhân ước chừng hai trăm người, dẫn theo ba trăm con lừa và con la, cùng các loại hòm xiểng chứa hàng hóa. Trên vài con lừa có gắn lá cờ. Trên lá cờ có ghi bốn chữ ‘Bồ Nam thương hành’. Có thể nhìn ra được đây là một đội thương nhân có quy mô lớn.
Người cầm đầu đội thương nhân tên là Trương Nguyên Trọng. Y là lãnh tụ của thương nhân quận Hà Đông. Y có dáng hình vừa to vừa béo, nặng chừng hai trăm cân. Cho nên đi đường rất là khó khăn, chỉ phải ngồi trên kiệu, do bốn người khiêng. Đi bên cạnh y chính là La Sĩ Tín và Trình Giảo Kim.
.
Chương 941 : Khẩn cấp ứng đối
Trình Giảo Kim lộ vẻ âm trầm. Loại việc lừa bịp này vốn là sở trường của y. Nhưng bây giờ y chỉ là trợ thủ, mà người cầm đầu lại là một tên thương nhân mập mạp. Nếu có công lao thì người này cũng chiếm hiến. Điều này khiến Trình Giảo Kim rất là khó chịu. Nếu không phải là La Sĩ Tín ở bên cạnh, y đã sớm đào một cái hố tuyết rồi ném tên thương nhân béo ú này vào trong đó.
Trương Nguyên Trọng có thể cảm nhận được địch ý của Trình Giảo Kim. Trong lòng y có chút thấp thỏm bất an. Liền hướng La Sĩ Tín cười nói:
- Hiện tại Đường triều cấm thương nhân nhập Quan Trung. Nhưng trên có lệnh, dưới có đối sách. Việc kinh doanh vẫn phải làm. Chỉ có điều không thể đi vào ban ngày, nhất định phải vào buổi tối mới qua quan được. Đồng thời phải giao nộp cho quân coi giữ một số chi phí thì quân coi giữ mới bỏ qua. Cho nên những binh lính coi giữ này đều tranh nhau trực vào ban đêm. Bởi vì nước luộc kiếm được rất lớn.
La Sĩ Tín nhìn thoáng qua Trình Giảo Kim, cười trấn an Trương Nguyên Trọng:
- Trương đông chủ không cần phải lo lắng. Điện hạ đã mời đông chủ hỗ trợ, tất nhiên sẽ không bạc đãi ngươi. Có điện hạ thay ngươi làm chủ, người khác không dám làm hại tới ngươi.
Trình Giảo Kim liếc mắt một cái, người khác không phải ám chỉ mình thì là ai! Y định nói vài câu lấy lại mặt mũi, môi giật giật, nhưng vẫn nhịn được, bởi phía trước đã là Bồ Tân quan.
Hai ngọn núi hai bên che mất ánh trăng, để lại cái bóng thật lớn. Khiến quan ải có chút tối. Thấy không rõ tình hình trên đầu thành. Chỉ nghe thấy có tiếng hô từ bóng đêm trên đầu thành:
- Là ai?
Đội thương nhân dừng lại, Trương Nguyên Trọng bước xuống kiệu. Có hai gã tùy tùng đi đến đỡ y tiến lên phía trước nói:
- Trên thành là vị tướng quân nào đang trực. Là Mã Giáo Úy hay là Đinh Giáo Úy?
Lúc này trên đầu thành truyền đến thanh âm có chút tục tằn nói:
- Ta là Đinh Thao. Phía dưới có phải Trương đông chủ không?
Trương Nguyên Trọng qua lại Bồ Tân quan đã vài chục năm. Mọi người đã sớm quen mặt. Trương Nguyên Trọng vội vàng cười nói:
- Chính là tại hạ! Đinh tướng quân, đêm nay có thể cho đi qua hay không?
Trên đầu thành ló ra một người có thân hình cực cao. Y nhìn Trương Nguyên Trọng nói:
- Trương đông chủ, hôm nay hơi khó! Ngày hôm qua triều đình vừa ra ý chỉ, yêu cầu phải điều tra nghiêm ngặt những người đi qua. Nếu đoàn người vượt qua năm người, thì không cho phép qua quan. Nếu hai ngày trước ngươi qua đây thì đã không có vấn đề gì rồi.
Trình Giảo Kim đứng bên cạnh có chút khẩn trương. Y vừa muốn nói chuyện, La Sĩ Tín liền kéo y lại. Chỉ thấy Trương Nguyên Trọng không chút hoang mang cười nói:
- Đinh tướng quân cũng biết, hai ngày trước có tuyết lớn, làm sao có thể đi được. Khó khăn lắm mới đợi được tuyết ngừng rơi, mới vội vàng đi tới. Nếu không thể mở sạp buôn bán sớm, huynh đệ ở đây đều phải lỗ vốn. Mong rằng Đinh tướng quân thông cảm mà giúp đỡ!
Người trên đầu thành có chút trầm mặc, lại nói:
- Trương đông chủ, không phải là ta không muốn giúp ngươi. Mọi người đều đã quen biết mười mấy năm rồi. Làm việc vất vả chỉ vì kiếm miếng ăn, ta hiểu sự khó xử của ngươi. Nhưng sự khó xử của ta, ngươi cũng cần phải hiểu. Ta mạo hiểm lớn cho ngươi qua quan, chẳng may ngươi lại bị thượng quan điều tra ra được. Vậy thì cái chức quan này vứt đi là chuyện nhỏ, nói không chừng còn muốn rơi đầu. Ngươi cứ nghĩ đi…
Trương Nguyên Trọng cười ha hả nói:
- Vậy phí qua thành gia tăng thêm hai thành.
Trình Giảo Kim mới bừng tỉnh đại ngộ. Hóa ra là cò kè mặc cả. Mình đúng là không hiểu những quy củ này của thương nhân. Sự bất mãn trong lòng y liền tiêu tan. Nếu để y lừa dối qua quan, nhất định sẽ không thành công.
Quan quân trên đầu thành có vẻ vẫn ngại ít, liền nói:
- Lần này không giống như những ngày thường. Tăng thêm ba thành.
- Thêm ba thành, vậy thì ta không kiếm được chút lợi nhận nào. Mong rằng Đinh tướng quân nhường một chút.
- Người nào lại không biết hàng hóa của Trương đông chủ đều bán rất chạy, thu được tiền lãi lớn. Trương đông chủ nên để cho các anh em binh lính ở đây ăn chút cơm thừa canh cặn chứ
- Thôi được rồi! Ba thành thì ba thành. Không thể tăng thêm.
Song phương cò kẻ mặc cả, đã đạt thành hiệp nghị. Rất nhanh, cửa chính của Bồ Tân quan chậm rãi mở ra. Trương Nguyên Trọng quay đầu lại liếc mắt ra dấu cho La Sĩ Tín một cái. La Sĩ Tín nắm chặt thiết thương trên lưng, dẫn con la đi vào Bồ Tân quan. Đội thương nhân gia tăng tốc độ, lục tục đi vào quan ải. Bỗng nhiên, trong cửa thành vang lên một tiếng hét thảm. Lập tức liên tiếp vang lên tiếng kêu la… Cách đó vài dặm, Dương Nguyên Khánh vẫn kiên nhẫn chờ đợi tin tức. Hắn đã có phương án phòng bị. Nếu không thể lừa dối qua được quan, vây thì có thể cường công. Kỳ thực không phải không thể tấn công, chỉ có điều sẽ gặp phải ít nhiều trắc trở, còn có thương vong. Hiện tại Dương Nguyên Khánh thực sự không muốn có thêm thương vong.
Đúng lúc này, có binh lính chỉ vào quan ải hô to:
- Điện hạ, có ánh lửa rồi!
Dương Nguyên Khánh cũng đã nhìn thấy. Trên đầu thành Bồ Tân quan có ánh lửa. Hắn liền lập tức ra lệnh:
- Toàn quân xuất phát, tiến tới Bồ Tân quan!
Mười ngàn kỵ binh liền phát động. Vó ngựa vang lên như sấm, bay băng băng tới bờ sông bên kia. Không bao lâu, mười ngàn kỵ binh Tùy đã tiến vào Bồ Tân quan, vọt tới doanh trại của địch ở phía sau. Tướng phòng giữ Vương Trường Hài hoảng sợ bỏ chạy, trốn về Đông Quan báo tin.
Chiếm được Bồ Tân quan, quân Tùy cũng không dừng lại, tiếp tục chạy nhanh về hướng tây. Vào lúc canh ba, quân Tùy đã qua sông Vị. Mười nghìn kỵ binh Tùy do Dương Nguyên Khánh suất lĩnh, giống như tia chớp đánh tới Trường An…
Cung Thái Cực, điện Bạch Liên. Đây là tẩm điện của Doãn Đức Phi. Lúc này là đã canh một, bốn phía cung điện đều có đứng đầy thị vệ. Nhiều đội thị vệ thay nhau tuần tra. Ở những chỗ tối còn có trạm gác ngầm. Nơi này được canh gác nghiêm ngặt như vậy, chứng tỏ đêm nay Hoàng đế Đại Đường Lý Uyên đang ngủ ở trong điện Bạch Liên.
Đêm đã khuya, bọn thị vệ đều đi giày đáy mềm, nhằm tận lực đi lại nhẹ nhàng. Trong cung điện vô cùng im lặng. Bỗng nhiên vang lên thanh âm dồn dập của tiếng bước chân, khiến bọn thị vệ đều nâng cao cảnh giác.
- Là ai?
Bọn thị vệ đi lên ngăn cản người đang chạy.
- Là ta!
Thanh âm của người tới rất nghiêm khắc. Bọn thị vệ liền nhận ra y là Trực Các tướng quân Chu Tuấn, đều sợ tới mức lui ra.
Chu Tuấn trừng mắt nhìn bọn thị vệ một cái, mới bước nhanh tới bậc thang. Hai gã hoạn quan tiến lên ngăn cản y:
- Chu tướng quân, Thánh Thượng đã nghỉ ngơi, không nên quấy nhiễu.
Chu Tuấn vội vàng ôm quyền nói:
- Ta biết, nhưng ta có một đại sự cần nhanh chóng thông báo cho Thánh Thương. Mong rằng hai vị công công đi truyền đạt.
Hai gã hoạn quan nhìn nhau. Bình thường là không thể quấy nhiễu sự nghỉ ngơi của Thánh Thượng. Nhưng Chu Tuấn là Trực Các tướng quân, y so với ai khác càng hiểu quy củ này. Nhất định là có việc trọng đại. Nếu như bọn họ lầm sự, chỉ sợ không thể gánh vác được. Một gã hoạn quan gật đầu nói:
- Chu tướng quân xin đợi một chút!
Hoạn quan xoay người đi vào tới tẩm cung. Bên trong tẩm điện của Doãn Đức Phi càng im lặng. Ở góc phòng có đặt hai lư hương, đang bốc khói lượn lờ. Khiến trong phòng tràn ngập mùi đàn hương. Trên mặt đất thì được phủ thảm Tây Vực. Trên tường treo đầy gấm Tứ Xuyên đủ màu sắc. Có một hạt dạ minh châu lớn được đặt trên hộp. Ánh sáng rực rỡ từ viên ngọc tỏa khắp đại điện.
Trong đại điện có một tấm vải dày buông xuống, chia đại điện thành hai phần. Tám người cung nữ đứng ở ngoài màn, chờ đợi Thánh Thượng và nương nương sai bảo.
Mà ở đằng sau tấm vải là một cái giường bằng ngà voi, có tơ vàng cuốn quanh. Trên giường là Đại Đường Hoàng đế Lý Uyên đang ôm tuổi trẻ mỹ mạo Doãn Đức Phi ngủ say sưa.
Lúc này đã là canh một, nhưng đằng sau tấm vải vẫn vang lên tiếng thánh thót của Doãn Đức Phi:
- Việc của phụ thân thần thiếp, bệ ha nhất định phải đáp ứng. Nếu không đáp ứng, thần thiếp sẽ không chịu bỏ qua.
- Ái phi yên tâm đi! Phụ thân của của nàng là quốc trượng, trẫm làm sao có thể truy cứu? Nghỉ sớm một chút đi! Trẫm có chút mệt mỏi.
- Không được. Bệ hạ phải chính mồm đáp ứng thần thiếp. Nếu không thần thiếp sẽ khóc cho Thánh Thượng xem.
- Được! Được! Được! Trẫm chính thức hướng ái phi cam đoan, tuyệt đối sẽ không truy cứu việc của phụ thân nàng. Nhất ngôn cửu đỉnh.
- Đa tạ bệ hạ, bệ hạ ngủ đi! Thần thiếp giúp bệ hạ ấm người.
Lúc này, phía bên ngoài có vang lên tiếng bước chân. Ngay sau đó có một gã hoạn quan bẩm báo:
- Bệ hạ, có việc lớn khẩn cấp cần thông báo.
Lý Uyên và Doãn Đức Phi vừa mới làm xong chuyện ân ái, mệt mỏi không chịu nổi. Vậy mà lại có người tới quấy rầy, làm y vô cùng tức giận. Nhưng nghe thấy là việc lớn khẩn cấp, y kìm nén lửa giận, lạnh lùng hỏi:
- Là việc gì?
- Khởi bẩm bệ hạ, là Trực Các Chu tướng quân đến bẩm báo. Chu tướng quân nói là ở Ly Sơn có đốt ba ngọn lửa báo hiệu.
Đốt lửa báo hiệu ở Ly Sơn, có nghĩa là có kẻ thù từ bên ngoài tới tấn công biên giới. Nếu không phải người Đột Quyết, thì chính là Thổ Dục Hồn. Nhưng Đột Quyết và Đường triều đang có hiệp ước, có thể bài trừ. Khả năng lớn là người Thổ Dục Hồn xâm phạm.
Tuy đây cũng là việc lớn, nhưng Lý Uyên đã mỏi mệt không chịu nổi, có thể tạm thời để đó. Y liền nói:
- Trẫm đã biết, ngày mai sẽ cùng các đại thần thảo luận.
Im lặng một lúc, hoạn quạn lại cẩn thận nhắc nhở:
- Bệ hạ, là khói lửa từ tòa bên trái.
- Cái gì!
Lý Uyên ngồi mạnh xuống. Ly Sơn có hai tòa canh gác. Phía bên phải là để canh gác phía tây và phía bắc. Mà ở bên trái là để canh gác nguy hiểm từ Quan Đông. Toàn bên trái đốt lửa báo hiệu, có nghĩa là Quan Trung có địch xâm lấn. Lý Uyên sợ hãi, cuống quít mặc áo bào vào.
Doãn Đức Phi cũng không dám ngủ tiếp. Nàng hô một tiếng, vài người cung nữ lập tức chạy vào, thay Lý Uyên mặc áo bào, đội khăn. Xong xuôi Lý Uyên mới vội vàng đến ngoại cung.
Trực Các tướng quân Chu Tuấn vẫn đang chờ ở nơi này. Y thấy Lý Uyên đi ra, liền vội vàng tiến lên bẩm báo:
- Bệ hạ, khói lửa vừa mới đốt lên, chứng tỏ Bồ Tân quan bên kia đã xảy ra chuyện.
Lý Uyên cũng đoán được Bồ Tân quan gặp chuyện không may. Vậy thì có lẽ là quân Tùy xâm nhập Quan Trung. Điều này khiến trong lòng y vô cùng sợ hãi. Quan Trung hư không, Trường An chỉ có hai mươi nghìn quân. Nếu là quân Tùy tập kích Quan Trung, y phải ứng đối như thế nào?
Lý Uyên đổ mồi hôi lạnh đầy lưng. Y lập tức ra lệnh cho thân binh:
- Nhanh chóng triệu tập năm vị tướng quốc tới ngự thư phòng gặp trẫm.
Lý Uyên đã không còn một tia buồn ngủ. Y đơn giản rửa mặt một chút, liền vội vàng đi tới ngự thư phòng.
Trên quảng trường của Điện Võ Đức, tuyết lớn đã được quét sạch sẽ. Năm vị tướng quốc là Bùi Tịch, Trần Thúc Đạt, Tiêu Vũ, Đậu Quỹ, Độc Cô Chấn đều đã tới. Lúc này bọn họ cũng đã biết việc ở bên trái của Ly Sơn có đốt khói báo hiệu. Tin tức khiến bọn họ cũng rất khiếp sợ. Năm người tụ lại một chỗ thương nghị.
- Lần trước ta đã nói, đem toàn bộ quân đội phái đi ra ngoài, Quan Trung sẽ hư không. Kết quả là không ai nghe ta, ai cũng không chịu khuyên Thánh Thượng. Hiện tại xảy ra vấn đề, các ngươi nói nên làm thế nào bây giờ?
Thanh âm của Bùi Tịch rất lớn, mang theo một tia oán giận. Lúc ấy triều đình đồng ý xuất toàn bộ binh lính của cả nước, ông ta đã cảm thấy không ổn. Nhưng Lý Uyên đang nổi nóng, ông ta cũng không dám khuyên. Định nhờ người khác nói hộ, nhưng lại không ai để ý tới ông ta. Hiện tại quả nhiên là nguy hiểm. Ông ta liền lập tức sinh ra oán giận với những người này.
Bốn người khác đều lạnh lùng nhìn ông ta. Bùi Tịch là người giỏi làm những việc đâm lén sau lưng người khác. Cho nên mọi người rất cảnh giác ông ta. Cũng không ai nguyện ý làm bạn với ông ta. Bùi Tịch giận thì cứ giận, không ai để ý.
Lúc này, trên bậc thang , một gã hoạn quan đi ra, cao giọng nói:
- Thánh Thượng có chỉ, tuyên năm vị tướng quốc vào yết kiến.
Năm vị tướng quốc sửa sang lại quần áo và mũ, cùng nhau đi vào điện Võ Đức. Lúc này, ở trong ngự thư phòng, đèn đuốc đã được đốt sáng. Có mấy chậu than được đốt lên, khiến căn phòng trơ nên ấm áp. Lý Uyên chính đang khoanh tay đứng ở trước bản đồ Quan Trung, trầm tư thật lâu không nói.
- Tham kiến bệ hạ!
Năm vị tướng quốc lần lượt cúi người thi lễ.
Lý Uyên khoát tay:
- Các vị ái khanh bình thân, ban thưởng ghế ngồi!
Đám hoạn quan mang ghế ngồi tới. Mọi người đều an vị, Lý Uyên mới thở dài nói:
- Nửa đêm gọi các vị tướng quốc tới đây, trẫm cảm thấy thực có lỗi. Chắc mọi người đều đã biết, ở Ly Sơn có khói báo hiệu. Bây giờ còn chưa rõ tình huống, nhưng trẫm thực sự là rất lo lắng. Khả năng lớn là quân Tùy thừa dịp Quan Trung hư không, tấn công Trường An. Mọi người xem xét chuyện này nên làm thế nào bây giờ?
Năm người đều trầm mặc. Một lát sau, Đậu Quý khẽ khom người nói:
- Bệ hạ, vi thần cho rằng khả năng quân Tùy từ Bồ Tân quan tiến vào Quan Trung là rất lớn. Hiện tại Bồ Tân quan hẳn là không còn giữ được. Nếu đã như vậy, nhanh nhất là trưa mai, quân Tùy sẽ tới được Trường An. Vi thần nghĩ ra được hai phương án có thể khẩn cấp ứng đối.
Lý Uyên mừng rỡ. Hiện tại y chỉ hy vọng có người đưa án cách ứng đối tình huống. Đậu Quỹ trước kia từng đảm nhiệm chức Thái Thú quận Phù Phong. Ông ta cũng từng suất lĩnh quân dân chiến đấu hăng hái nửa tháng. Dùng mười lăm ngàn quân đội thành công phòng ngự được một trăm ngàn đại quân của Dương Huyền Cảm tấn công. Cho nên ở việc bố trí phòng ngự, ông ta rất có kinh nghiệm. Lý Uyên cực kỳ tín nhiệm tài năng của của Đậu Quỹ, liền vội vàng hỏi:
- Đậu tướng quốc mời nói.
Đậu Quỹ khẽ mỉm cười nói:
- Phương án của thần, kỳ thực mọi người đều có thể nghĩ ra. Một là thủ thành, hai là cầu viện. Có thể lập tức ra lệnh cho Vũ Lâm quân và Kim Ngô Vệ lên thành phòng ngự. Đồng thời chiêu mộ thanh niên cường tráng của Trường An hỗ trợ phòng thủ. Thần đoán quân Tùy sẽ sử dụng kỵ binh nhẹ đột kích, mà không có mang theo vũ khí công thành. Cho nên khả năng đánh hạ được thành Trường An là không lớn. Nhưng kỵ binh Tùy tiến vào Quan Trung, sẽ ảnh hưởng rất lớn tới sĩ khí của quân dân. Sẽ dao động sự tin của quân dân đối với Đường triều. Cho nên nhất định phải cầu viện, ra lệnh cho quân đội của Thái Tử và quân đội của Tần Vương đồng thời quay lại cứu viện.
Trần Thúc Đạt đứng bên cạnh nhướn mày nói:
- Có lẽ mục đích của quân Tùy lần này là vây Ngụy cứu Triệu, bức bách chúng ta phải rút quân. Nếu chúng ta ra lệnh cho hai quân trở về tiếp viện, chả phải vừa vặn trúng phải âm mưu của quân Tùy sao. Đậu tướng quốc đã nghĩ tới điểm này chưa?
Đậu Quỹ lắc đầu nói:
- Trần tướng quốc có chút suy nghĩ quá nhiều. Trọng binh của Dương Nguyên Khánh ở phương bắc. Mà ở Hà Đông lại có ba mươi nghìn quân Đột Quyết đang tàn sát bừa bãi, đại quân của hắn làm sao có thể rảnh rỗi mà xuôi nam. Cho nên số lượng quân đội đánh lén lần này sẽ không nhiều. Tối đa là hai mười nghìn quân là cùng. Kỳ thực, ý của thần chính là, tiêu diệt đội quân đánh lén này ở trong địa phận của Quan Trung. Điều này có thể kích thích khí thế của quân dân. Mặt khác quân đội cũng không cần toàn bộ trở lại tiếp viện. Chỉ cần năm mươi nghìn người là đủ.
Bùi Tịch cũng tiếp lời nói:
- Thậm chí chúng ta còn có thể ra lệnh cho Tần Vương theo huyện Thiểm đi lên Hà Bắc, tấn công lại quận Hà Đông, cắt đoạn đường lui của quân Tùy đánh lén này. Hoặc là đơn gian mở một quy mô lớn tấn công phương bắc, cướp lấy quận Hà Đông và quận Giáng. Hai quận này có nhân khẩu đông đúc, nông nghiệp phát đạt. Chiếm được hai quận chính là thu hoạch lớn nhất của chúng ta.
Lúc này, Lý Uyên thấy Tiêu Vũ vẫn trầm tư không nói, liền hỏi:
- Tiêu tướng quốc có ý kiến gì không?
Trong ánh mắt của Tiêu Vũ có sự ưu tư. Ông ta chậm rãi nói:
- Theo vi thần nghĩ, vì sao triều Tùy không xuất binh trước đó. Lúc đó, Quan Nội chưa có bị chiếm lĩnh, Lạc Dương cũng chưa bị vây. Khi đó nếu xuất binh càng có thể kiềm chế chúng ta. Nhưng quân Tùy lại cố tình xuất binh vào hiện tại. Chẳng lẽ quân Tùy không biết bọn họ sẽ bị bao vây ở Quan Trung hay sao? Chẳng lẽ quân Tùy không biết, quận Hà Đông sẽ bị quân Đường phản kích tấn công?
Sự nghi ngờ của Tiêu Vũ khiến Lý Uyên dường như hiểu ra một ý gì đó:
- Ý của Tiêu ái khanh là…
Tiêu Vũ gật đầu nói:
- Vi thần có bảy thành khắc định, quân Tùy đã đánh bại quân Đột Quyết. Chỉ có như vậy, bọn họ mới dám bất ngờ đánh Trường An.
Tiêu Vũ lớn mật phán đoán, khiến Lý Uyên hít một hơi khí lạnh. Nếu là như vậy, thế cục hiện tại sẽ phát sinh ra biến hóa.
Đúng lúc này, ở bên ngoài truyền tới tiếng bước chân. Có người ở ngoài cửa bẩm bao:
- Khởi bẩm điện hạ, Thái Nguyên có cấp báo!
Đường Phong ở Thái Nguyên đã bị phá hủy. Nhưng còn có một chút thế lực Đường Phong giấu ở Thái Nguyên. Tuy bọn họ không dám có hành động gì, nhưng nếu có những việc lớn xảy ra ở Thái Nguyên, bọn họ đều sẽ truyền về tin tức.
Trong lòng của Lý Uyên dâng lên một điềm xấu. Chẳng lẽ là…
Y vội vàng ra lệnh:
- Nhanh chóng trình lên!
Một người hoạn quan vội vàng đi vào, dùng hai tay trình lên một phần tình báo. Lý Uyên tiếp nhận tình báo, chỉ thấy trên tình báo có viết:
- Quân Tùy đại thắng, toàn thành Thái Nguyên đang chúc mừng.
Trái tim của Lý Uyên lạnh buốt, giống như rơi vào hố băng. Y cười khổ một tiếng, nói với Tiêu Vũ:
- Quả nhiên là bị ái khanh đoán đúng. Quân Tùy đã đánh bại quân Đột Quyết.
Trong ngự phòng lập tức vang lên tiếng bàn luận xôn xao. Lý Uyên ngồi không yên. Y đứng lên, chắp tay phía sau đi tới gần cửa sổ, nhìn về phía bầu trời đêm. Trong lòng y cảm thấy cực kỳ trầm trọng. Việc mà y không muốn xảy ra, đã xảy ra.
- Bệ hạ, việc đầu tiên là phải bảo vệ thành Trường An. Mặt khác có thể xem xét tình huống phát triển mà làm ra quyết định.
Đậu Quỹ đề nghị.
Lý Uyên gật đầu, quay lại nói với mọi người:
- Ra lệnh cho Thái Tử và Tần vương cử năm mươi nghìn quân quay lại, viện trợ Quan Trung.
Y lại hướng Đậu Quỹ nói:
- Trọng trách phòng ngự thành, trẫm liền giao cho ái khanh….
Phía nam Phong Châu, mặt sông đã bị tuyết lớn bao trùm. Tuyết đã ngừng rơi. Ở phía xa xa, mặt trời đã bắt đầu mọc, ánh nắng ôn hòa chiếu sáng khắp đại địa.
Trên mặt sông Hoàng Hà rộng chừng hơn mười dặm, xuất hiện đông nghịt những chấm đen nhỏ. Từ xa nhìn lại, giống như những hạt vừng nhỏ rơi vãi đầy trên mặt tuyết trắng.
Đợi đến khi những điểm đen càng ngày càng tới gần, thì mới thấy rõ, đó là những chiếc xe trượt tuyết do binh lính Tùy tự chế tạo. Mỗi chiếc xe được hai con ngựa kéo, chạy băng băng trên mặt tuyết dày.
Chương 942 : Hai tuyến phản kích
Ở bên cạnh mỗi chiếc xe trượt tuyết, còn có hơn mười con ngựa chiến chạy theo. Chúng được bọc vải dày ở bụng và chân. Phải làm như vậy, nếu không ngựa chiến chạy thời gian dài trên mặt băng, khí lạnh sẽ khiến bọn chúng không chịu được.
Đây là đội quân gồm mười lăm nghìn binh sĩ Tùy, đại tướng cầm đầu chính là tổng quản Phong Châu Bùi Nhân Cơ. Lúc này, quận Linh Võ đã bị mười nghìn quân Đường chiếm lĩnh. Nhiệm vụ của bọn họ chính là xuôi nam đoạt lại quận Linh Võ.
Có thể nói, đây là đợt phản kích đầu tiên của quân Tùy. Từ lúc ở quận Mã Ấp quân Tùy chiến thắng người Đột Quyết, thì việc bố trí phản kích Đường triều đã được toàn diện áp dụng.
Trên thực tế, lúc quân Tùy buộc phải rút lui khỏi quận Linh Võ, Dương Nguyên Khánh đã gửi tận tay tới Bùi Nhân Cơ kế hoạch phản kích. Cái gọi là nguy cơ, chính là sự kết hợp giữa nguy hiểm và cơ hội. Trong những lúc nguy hiểm mới có thể nhìn ra cơ hội.
Sau khi vượt qua nguy hiểm đến từ người Đột Quyết, bọn họ lại nghênh đón một cơ hội mới. Hầu như trong lòng mỗi tướng sĩ quân Tùy đều nghẹn một cục khí. Thậm chí, ngay cả lão tướng Bùi Nhân Cơ cũng tràn đầy sát khí báo thù. Đánh tan quân Đường, đuổi bọn họ khỏi địa giới của quận Linh Võ.
- Bùi tổng quận, chúng ta có thể đợi quân Đường di chuyển nhân khẩu từ Lũng Hữu và Quan Nam tới quận Linh Võ, rồi sau đó mới chiếm lĩnh quận Linh Võ. Như vậy chẳng phải có thu hoạch lớn sao?
Đưa ra câu hỏi này chính là Tần Hoài Ngọc, đi phía sau của Bùi Nhân Cơ. Bùi Nhân Cơ rất thích người tuổi trẻ thông minh hiếu học này, nên luông mang theo y bên người.
Bùi Nhân Cơ khẽ cười nói:
- Quận Linh Võ có đầy đủ nguồn nước tưới, lại là nơi khí hậu ôn hòa, đất đai phì nhiêu. Nơi đó vẫn được coi là kho lúa của chúng ta. Nếu bị quân Đường cướp đi, vậy thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề cung cấp lương thực của chúng ta. Điều quan trọng hơn là, chúng ta nhất định phải phối hợp với Sở Vương điện hạ thi triển kế hoạch phản kích toàn diện, đánh cho Đường triều không còn thái độ kiêu ngạo.
Bùi Nhân Cơ thấy Tần Hoài Ngọc vẫn đắn đo suy nghĩ. Ông ta biết y còn không có hài lòng với câu trả lời của mình, cười nói:
- Cái này giống như việc ngươi và người khác đánh nhau. Bên cạnh đang có rất nhiều người xem. Bao gồm rất nhiều người cần ngươi bảo vệ. Vừa mới bắt đầu, ngươi đã bị người ta đánh ngã. Nhưng ngươi lập tức có năng lực phản kích. Ngươi nói xem, sẽ đợi mấy ngày sau mới đến báo thù, hay là lập tức đánh ngã đối phương?
Tần Hoài Ngọc cũng mỉm cười:
- Tổng quản còn coi ty chức như trẻ con chắc! Ta minh bạch ý tứ của tổng quản. Hiện tại chúng ta phản kích là cổ vũ khí thế của quân dân Đại Tùy, đoạt lại nơi có chiến lược trọng yếu.
Bùi Nhân Cơ gật đầu. Ánh mắt của ông ta lại nhìn về phía xa xa. Ông ta có tràn đầy tin tưởng đối với việc đánh tan quân Đường, đoạt lại quận Linh Võ lần này …
Quận Hoài Dương, huyện Uyển Khâu. Một đội kỵ binh mười nghìn người đang xuất phát về hướng nam. Đây cũng là một đội kỵ binh Tùy. Đại tướng cầm đầu chính là tổng quản Hà Nam Từ Thế Tích. Y cũng vừa nhận được mệnh lệnh của Dương Nguyên Khánh, mệnh lệnh y đánh nghi binh Kinh Tương.
Đội kỵ binh chạy nhanh trên cánh đồng tuyết vô bờ, dọc theo quan đạo rộng lớn, chạy nhanh về hướng nam. Hai bên quan đạo là những ruộng lúa mạch mọc thành từng phiến. Lúa mì vụ đông đã được gieo. Đang bị tuyết dày bao phủ lấy, chỉ đợi đến đầu xuân là nảy mầm. Phía xa xa là từng toàn thôn trang, bị vây quanh bởi những con sông và rừng cây. Lúc này đã là sáng sớm, thôn trang dần dần bốc lên khói bếp.
Từ Thế Tích mím môi không nói được một lời. Trong khoảng thời gian, tâm tình của y không được tốt lắm. Sau khi đại chiến Trung Nguyên, y gần như không có chuyện để làm. Bất kể là cuộc viễn chinh Triều Tiên, hay là trận chiến chống lại Đột Quyết ở quận Mã Ấp, đều không có phần của y. Y cảm giác mình đã bị gạt ra ngoài.
Đương nhiên, Từ Thế Tích cũng hiểu, mấu chốt là quân Tùy chưa có ý định tấn công Thanh Châu. Nếu không mình cũng sẽ không trở thành nhàn nhã như vậy. Trong lòng y mặc dù có điểm bất bình nhưng dù sao y cũng là tổng quản cả một phương, nên phải chấp hành đại cục, phục tùng sự chỉ huy của Dương Nguyên Khánh.
Đội ngũ đi về phía trước một đoạn đường, cách huyện Uyển Khâu còn không xa. Từ Thế Tích thấy một khu rừng tùng rậm rạp ở bên đường. Tuy trên rừng tùng có đầy tuyết đọng, nhưng rừng cây vẫn còn tương đối khô ráo. Y lập tức dùng roi ngựa ra hiệu, mọi người đi vào rừng cây tùng nghỉ ngơi.
Hơn mười người thám báo đi tới trước rừng tùng, một lát sau đi ra liền hô to:
- Tổng quản, trong này an toàn, có thể dừng chân nghỉ ngơi.
Đội ky binh liền ly khai quan đạo, dẫn ngự đi vào rừng cây tùng. Trong rừng cây tùng tràn ngập mùi nhựa thông thơm ngát. Khắp nơià những đống tuyết đọng. Đây là tuyết từ trên cây rơi xuống. Phần lớn là khô ráo. Trên mặt đất thì bị phủ đầy lá thông.
Bọn lính tìm chỗ để nghỉ ngơi, rồi cho ngựa ăn uống. Cỏ khô và nước lấy ra từ trong túi đã bị đông lạnh như băng. Bọn họ lấy ra bánh mì và thịt dê, rắc lên chút muối và hạt tiêu, liền ăn ngấu nghiến. Lại lấy ra bình nước uống mấy ngụm, thấp giọng đàm luận đại chiến ở quận Mã Ấp. Đây là việc mà tất cả mọi người đều quan tâm.
Từ Thế Tích cũng ngồi ở dưới một thân cây, từ từ ăn lương khô. Trong lòng y vẫn đang suy nghĩ việc tấn công Thanh Châu. Y có một loại dự cảm, sau khi giải quyết xong việc về Đột Quyết, bước tiếp theo rất có khả năng là Sở Vương sẽ chiếm lấy Thanh Châu.
Lúc này, phó tướng của Từ Thế Tích, là Cao Tử Khai ngồi ở bên cạnh cười nói:
- Tổng quản, sao chúng ta không đơn giản chiếm lấy Kinh Tương, cần gì phải đánh nghi binh cho mệt?
- Dựa vào mười nghìn kỵ binh này mà muốn đơn giản chiếm lấy Kinh Tương?
Từ Thế Tích liếc mắt nhìn y một cái, cười lạnh nói:
- Ngươi cho rằng việc chiếm lĩnh chỉ đơn giản như vậy thôi sao? Lạc Dương có hai trăm nghìn quân Đường bao vây. Một khi bọn họ đánh chiếm được Lạc Dương, bước tiếp theo chính là thâu tóm Trung Nguyên. Ngươi cho rằng bọn họ chiếm Trung Nguyên, còn chúng ta thì ung dung giữ lấy Kinh Tương sao?
Cao Tử Khai gãi đầu:
- Điều này cũng đúng. Kinh Tương và triều Tùy của chúng ta không có biên giới kéo dài. Triều đình đưa công văn đều không qua được nơi đó.
- Chiếm lĩnh được một thành thị không phải đơn giản như ngươi nghĩ. Cần phải quan tâm các vấn đề như sĩ tộc địa phương có ủng hộ ngươi hay không. Dân chúng ở đây có nguyện ý chịu ngươi cai quản hay không. Quan viên có trung thành hay không. Còn việc giải quyết lương thực cho quân đội phải làm như thế nào. Đây đều là những vấn đề lớn. Năm đó, Dương Huyền Cảm chiếm lĩnh Quan Trung, người Quan Trung có quy thuận y hay không? Cuối cùng còn không phải là thất bại thảm hại hay sao. Còn có, chúng ta lĩnh Hà Bắc, chỉ là chiếm lĩnh mà thôi. Để chân chính khống chế Hà Bắc, khiến người Hà Bắc quy thuận, không biết Sở Vương điện hạ đã tốn không biết bao nhiêu tâm cơ, hao phí hết bao nhiêu tiền của lương thực. Đến hiện tại mới có thể thay đổi quan trường ở Hà Bắc. Quá trình đã mất một năm.
Từ Thế Tích nói đến đây, lại thở dài:
- Còn có Trung Nguyên. Kỳ thực cũng là chuyện phiền toái. Đến lúc chúng ta rút lui, ngươi xem có ai giữ lại chúng ta? Lúc quân Đường tới, ngươi xem có ai đứng lên phản kháng? Người Trung Nguyên vẫn còn trung thành với quân Ngõa Cương. Nếu quân Ngõa Cương còn tồn tại, chỉ sợ chúng ta muốn cướp lấy Trung Nguyên, sẽ là rất khó. Điều này, ta là người hiểu rõ nhất. Đây cũng là nguyên nhân mà điện hạ cho phép ta lưu lại Trung Nguyên.
Cao Tử Khai cúi đầu trầm tư một lát, lại hỏi:
- Nói như vậy, việc Lý Mật rời khỏi Trung Nguyên là thất sách, có phải hay không?
- Hoàn toàn trái lại!
Từ Thế Tích cười cười:
- Tuy Địch Nhượng thiển cận, nhưng y lại là người trượng nghĩa. Có thịt thì mọi người cùng ăn, có tiền thì mọi người cùng dùng. Đánh địa chủ, đoạt nhà kho của quan, chia lương thực cho người nghèo. Cho nên, dân chúng Hà Nam rất ủng hộ việc y suất lĩnh quân Ngõa Cương. Nhưng Lý Mật lại cho rằng Địch Nhượng làm như vậy là đắc tội với sĩ tộc, không thành được đại sự. Cho nên Lý Mật đã giết y, tự lập làm Ngụy Vương. Tuy vậy, việc giết Địch Nhượng, khiến y không thể tồn tại ở Trung Nguyên được, chỉ phải dời về Giang Nam. Một mặt là trốn tránh sự uy hiếp của Tùy Đường. Một mặt khác là muốn tiếp tục tìm kiếm sự ủng hộ của sĩ tộc phía nam.
Tuy Cao Tử Khai cũng xuất thân là danh môn Cao thị ở Bắc Hải nhưng y là một viên võ tướng, chỉ biết phục tùng nhiệm , cchưa bao giờ suy nghĩ đến đại cục như vậy. Hôm nay nghe lời luận bàn của Từ Thế Tích, khiến trong lòng y hiểu rõ rất nhiều việc.
Cao Tử Khai yên lặng gật đầu nói:
- Ty chức đã hiểu. Về sau mong được Từ tổng quản chỉ giáo nhiều hơn nữa. Ty chức rất muốn biết rõ những việc như vậy, không muốn chỉ cắm đầu vào đánh giặc.
Từ Thế Tích vỗ vỗ bả vai y, cười nói:
- Nhân tiện đây ta cho ngươi một vấn đề để ngươi suy nghĩ. Đó là vì sao điện hạ không trực tiếp chiếm Thanh Châu, giúp nạn thiên tại mà là khiến nạn dân của Thanh Châu chạy tới Hà Bắc rồi mới giúp?
Hai lông mày của Cao Tử Khai nhíu lại, đau khổ suy nghĩ vấn đề này. Từ Thế Tích chỉ cười nói:
- Vừa đi vừa nghĩ!
Y hướng các quan quân xung quanh ra lệnh:
- Thông báo cho các huynh đệ, đã đến lúc xuất phát!
.
Chương 943 : Binh lâm cung hạ
Một tiếng kèn lệnh ô ô thổi lên. Đây là tiếng ra lệnh xuất phát. Kỵ binh Tùy đều thu thập lên ngựa. Bọn họ lại điều khiển ngựa chạy lên quan đạo. Vó ngựa vang rền. Mười nghìn kỵ binh lại tiếp tục hành trình…
Chính như Đậu Quỹ đã đoán trước. Giữa trưa vào ngày thứ hai Dương Nguyên Khánh đã suất lĩnh đội kỵ binh đánh tới Trường An. Quân đội chiếm lĩnh được quân doanh Bá Thượng đồng thời chiếm lĩnh được lương thực, thịt khô và cỏ khô để bổ sung. Bọn lính đều ăn uống no nê, nghỉ ngơi dưỡng sức.
Cả đêm hành quân cấp tốc, khiến người và ngựa đều khốn đốn không chịu nội. Ở trong một gian phòng trống, Dương Nguyên Khánh chính đang đứng trước sa bàn, trầm tư suy nghĩ bước hành động tiếp theo.
Tối hôm qua hành quân, hắn đã nhìn thấy khói báo hiệu. Chắc hẳn Trường An đã biết tin quân Tùy đánh tới. Hắn có thể tưởng tượng, quân Đường ở Trường An đã chuẩn bị sẵn sàng nghênh đón.
Tuy nhiên, ngay từ lúc đầu, Dương Nguyên Khánh đã không có ý định đánh chiếm Trường An. Đây dù sao cũng không phải quá thực tế. Bọn họ không có mang theo vũ khí công thành. Muốn đánh được tường thành cao ba trượng kia, thực sự là suy nghĩ viển vông.
Nhưng cứ như vậy vòng qua thành mà đi, thì không phù hợp với mục đích của chuyến đi lần này. Hắn muốn làm nhiễu loạn Trường An và Quan Trung, bức Lý Uyên phải rút quân các tuyến. Ít nhất phải khiến một số lượng lớn quân đội rút về nhằm tạo điều kiện phản công cho hắn.
Lần này nên đánh Trường An như thế nào? Dương Nguyên Khánh trầm tư thật lâu. Bỗng ngoài cửa vang lên tiếng báo cáo:
- Khởi bẩm điện hạ, thám báo đã quay trở lại.
Tinh thần Dương Nguyên Khánh rung lên, lập tức nói:
- Cho y tiến vao!
Một lát sau, một người Giáo Úy thám báo vội vào đi tới, quỳ một gối bẩm báo:
- Khởi bẩm điện hạ, ty chức thăm dò được tin tức từ Trường An.
- Nói đi!
- Bẩm báo điện hạ, hôm nay chín cửa thành Trường An đã đóng tám cửa. Chỉ có cửa Minh Đức là mở một canh giờ. Hiện tại đã đóng cửa. Ty chức điều tra ra được một ít tình huống. Nghe nói chủ tướng thủ thành là tướng quốc Đậu Quỹ. Binh lính thủ thành đều là quân Vũ Lâm và Kim Ngô Vệ. Bọn họ còn động viên thêm ba mươi nghìn thanh niên cường tráng giúp đỡ thủ thành. Trên đầu thành hiện giờ rất hỗn loạn. Bọn họ tập trung chủ yếu ở phía đông và nam thành.
Ánh mắt của Dương Nguyên Khánh lại nhìn chăm chú về hướng sa bàn. Hắn đang nhìn về phía bắc. Đây là nơi mà hắn rất tinh tường. Bởi từ nhỏ hắn đã săn bắt thú rừng ở nơi này để mưu sinh.
- Phía Long Thủ Nguyên có bao nhiêu đóng ở đấy?
Dương Nguyên Khánh nhớ rõ ở Long Thủ Nguyên có một quân doanh lớn.
- Hồi bẩm điện hạ, quân doanh ở Long Thủ Nguyên chính là quân doanh Kim Ngô Vệ. Toàn bộ bọn họ đã rút vào thành. Trong quân doanh hiện giờ không có một bóng người.
- Không có một bóng người?
Bỗng nhiên, Dương Nguyên Khánh nghĩ ra một kế cực kỳ lớn mật…
Lúc này trong thành Trường An đang trở nên hỗn loạn. Cửa thành vốn thường ngày mở lúc hửng đông giờ đã đóng cửa, ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc đi lại của dân chúng bình thường. Hơn nữa quân đội còn đến từng nhà chiêu mộ thanh niên cường tráng cùng dân phủ đi thủ thành khiến cho thành Trường An càng thêm bạo động.
Trong thành Trường An liên tục truyền ra các loại lời đồn. Có người nói là đại quân Đột Quyết xuôi nam sát nhập Quan Trung. Cũng có người nói quân Tùy xâm nhập biên giới. Dần dần mọi người mới biết rõ thực hư. Tin tức Dương Nguyên Khánh suất lĩnh một trăm ngàn đại quân sắp tấn công thành Trường An lan truyền ngày càng rộng, khiến dư luận huyên náo xôn xao.
Ở cửa Minh Đức, thành Trường An, là nơi hỗn loạn nhất. Có mấy chục nghìn dân chúng đang tụ tập ngoài cửa thành, lớn tiếng kêu gọi mở cửa thành. Đậu Quỹ bất đắc dĩ, chỉ phải hạ lệnh mở cửa Minh Đức một canh giờ, cho phép dân chúng vào thành.
Lúc này, trên đường Chu Tước, phía sau cửa Minh Đức, có đông nghịt dân chúng chen nhau đi vào. Họ đeo cái sọt, chở theo gia sản, kêu cha gọi mẹ, la hét ầm ĩ, tiếng chửi bậy vang lên không ngừng. Tình hình dần dần khó kiểm soát, khiến các đội binh lính mang đầy đủ võ trang phải cưỡng bức ổn định trật tự.
Bốn cửa phường ở gần cửa Minh Đức là Diên Tộ, An Nghĩa, Quang Hiền, Bảo Ninh đều đã mở ra. Bọn lính xua đuổi mấy chục nghìn dân chúng đi vào trong bốn phường.
Mà rất nhiều hộ gia đình trong phường lại ngăn cản dân chúng tiến vào phường. Bọn họ dùng các loại chướng ngại vật ngăn chặn cửa phường. Khiến cửa phường liên tục vang lên tiếng hô khóc mấy ngày liền. Còn có những tên du côn vô lại lợi dụng hỗn loạn, đứng trên tường bắn những thiếu phụ tuổi trẻ, coi như niềm vui.
Chu vi của trường thành ước chừng hơn sáu mươi dặm nhưng quân coi giữ chỉ có hai mươi nghìn người, cho nên chỉ có thể bố trí ở phía đông và nam thành. Cho dù như thế, tường thành dài hơn mười dặm, khiến sự phân bố binh lính vẫn rất thưa thớt. Đồng thời chiêu mộ thêm mấy chục nghìn thanh niên cường tráng, cho bọn họ mượn cung tiễn, trường mâu. Ra lệnh bọn họ hiệp trợ binh lính thủ thành.
Đậu Quỹ đứng ở đầu thành phía đông. Ánh mắt phức tạp nhìn chăm chú về phương xa. Ông ta vừa nhận được tin tức, đúng là có quân Tùy xâm lấn. Nhân số ước chừng mười nghìn tới hai mươi nghìn. Nhưng điều khiến ông ta giật mình chính là. Có người nhận ra tướng lĩnh cầm đầu quân Tùy lại là Dương Nguyên Khánh.
Tin tức này khiến ông ta rất khẩn trương, trong ánh mắt tràn đầy là sự lo âu. Đứng bên cạnh là chưởng quản Vũ Lâm quân Tả Kiêu Vệ Đại tướng quân Trưởng Tôn Như Ý. Y cuời ha hả hỏi:
- Đậu tướng quốc vì sao phải khẩn trương như vậy. Dương Nguyên Khánh tự mình lãnh binh tới Quan Trung không phải quá tốt sao? Chỉ cần đợi quân đội của Thái Tử và Tần Vương trở về, liền trực tiếp vây bắt hắn lại. Chẳng phải là một việc cực kỳ vui mừng sao?
Đậu Quy thở dài nói:
- Dương Nguyên Khánh tự mình suất binh nhập quan, nhìn qua có vẻ là sai lầm. Nhưng thực ra là hắn muốn lấy thân mình làm mồi. Hấp dẫn chủ lực của quân Đường quay trở về. Một khi chủ lực của quân Đường trở về Quan Trung. Ta lo lắng tới việc kiếm củi ba năm thiêu một giờ. Hơn nữa, hắn tuyệt đối sẽ không để chúng ta bắt được. Chỉ càng đề cao uy vọng của hắn.
Ông ta vừa dứt lời. Bỗng nhiên có binh lính hoảng sợ hô to:
- Quân Tùy đã tới.
Đậu Quỹ và Trưởng Tôn Thuận Đức cả kinh. Bọn họ đều đưa mắt nhìn về phía xa xa. Chỉ thấy trên vùng quê đầy tuyết trắng ở xa, có một nhóm điểm đen chính đang cấp tốc lao tới. Đội hình dài chừng bảy tám dặm, ước chừng là tám, chín ngàn người.
Không khí trên tường thành trở nên khẩn trương. Bọn lính hô to gọi nhỏ. Thậm chí có người còn run rẩy. Đội quân phòng ngự phía đông thành chủ yếu là binh lính của Vũ Lâm quân. Vũ Lâm quân kỳ thực chỉ là quân đội nghi thức. Phần lớn là con cháu quan lại, danh môn, gia cảnh giàu có. Bình thường mặc khôi giáp đẹp đẽ, uy phong lẫm lẫm, được đãi ngộ vô cùng tốt. Nhưng bọn họ không dùng để đánh giặc, mà chỉ cần dung nhan chỉnh tế, uy vũ trang nghiêm là được.
Cho nên, khi bọn họ gặp phải một cuộc chiến thực sự, thì sự sợ hãi đối với tử vong, khiến bọn họ không thể khống chế đươc cảm xúc. Liên tục hô to để giảm bớt sự khủng hoảng trong lòng.
Trưởng Tôn Thuận Đức giận dữ, nhảy lên ngựa đi về phía bọn lính. Y dùng roi ngựa quật mạnh vào người binh lính đang run rẩy, nói:
- Không cần kinh hãi. Nếu có người còn kêu to hoảng sợ thì lập tức mang đi chém!
Mắt thấy kỵ binh Tùy càng ngày càng tới gần, trên đầu thành trơn nên an tĩnh lại. Lúc này, Đậu Quỹ có thể thấy rõ ràng, người đại tướng cầm đầu có dáng người khôi ngô, đội nón bạc, đeo giáp bạc, tay cầm một cây thiết thương to và dài. Đi bên cạnh y là một vị tướng lĩnh mặt đen như đáy nồi, tướng mạo hung ác xấu xí, tay cầm một cây búa thật to.
- Đây La Sĩ Tín và Trình Giảo Kim!
Trưởng Tôn Thuận Đức buột miệng thốt ra. Y nhận ra hai người này.
Đậu Quỹ ngẩn người. Còn Dương Nguyên Khánh đâu? Chẳng lẽ hắn ở phía sau đội hình sao?
Lúc này, đội kỵ binh Tùy chạy như bay tới, đồng thời bắn tên lên đầu thành. Tên bay như gió, vùn vụt mà tới. Đầu thành liền vang lên một tiếng kêu thảm thiết. Binh lính thủ thành chưa kịp đề phòng, đã bị bắn gục rất nhiều người. Đậu Quỹ được một tên bính lính đẩy ra đúng lúc, nhưng mũ của ông ta đã bị bắn rơi.
Đậu Quỹ tát cho mình một cái, quân Tùy đã tới trước mặt, mình lại quên không hạ lệnh bắn tên. Trưởng Tôn Thuận Đức cũng phản ứng, y lớn tiếng hô to:
- Bắn tên! Mau bắn tên!
Quân Đường trên đầu thành bắt đầu phản kích. Nhưng bọn họ bị những mùi tên dày đặc của quân Tùy bắn tới, khiến không thể ngóc đầu lên được. Chỉ phải tránh ở phía sau tường thành, dùng cách bắn lên trời để chống trả. Trên thành, dưới thành tên bắn như mưa. Tiếng kêu rung trời, khí thế đồ sộ. Nhưng thương vong của song phương cũng không lớn. Quân Đường tránh ở lỗ châu mai không dám ngẩng đầu lên, chỉ phải bắn lên trời. Tầm bắn không đủ, không thể ảnh hưởng nhiều tới quân Tùy.
Một lát sau, quân Tùy đổi tên thường sang tên lửa. Từng mũi tên nhọn hoắt mang theo ngọn lửa bắn lên đầu thành. Số lượng lớn tên lửa bắn trúng thành lâu. Thành lâu bắt đầu bốc cháy. Thế lửa càng ngày càng lớn, hừng hực bốc lên tận trời, khói đặc cuồn cuộn. Trên đầu thành liên tục xảy ra hỗn loạn…
Đồng thời với việc quân Tùy tập kích quấy rầy thành Trường An, Dương Nguyên Khánh lại mang theo hai ngàn kỵ binh quân Tùy đi vòng thành bắc tới Long Thủ Nguyên. Long Thủ Nguyên chính là cung điện Đại Minh sau này.
Nhưng lúc này, Long Thủ Nguyên chỉ là một khu rừng rậm rạp đã được Đường triều xây dựng thành vườn thượng uyển. Vì là rừng của hoàng thất, cho nên không cho phép bất cứ ai đi vào. Năm đó Dương Nguyên Khánh trốn vào đây săn thú, cho nên hắn rất rõ địa hình nơi đây.
Nơi này là nơi có địa thế cao nhất của Trường An. Từ đây có thể nhìn rất rõ thành Trường An. Mà khu vực cách bọn họ gần nhất, chính là Hoàng thành và Cung thành Trường An. Bọn họ đang ở phía sau của cung Thái Cực. Cung Thái Cực là là nơi rất nguy nga đồ sộ, mái ngói, đình tháp được sơn son thiếp vàng. Dưới ánh mắt trời càng thêm chói lóa khiến người khác cảm thán không ngừng.
Tuy nhiên, bọn họ không có trực tiếp đánh tới tường cung thành. Ở phía sau Hoàng cung còn có một cánh rừng và đồng cỏ. Nơi đó là Tây Nội Uyển của Hoàng cung. Là nơi mà năm đó Tùy Văn Đế Dương Kiên dùng để nuôi dưỡng chim quý thú lạ. Còn bây giờ là nơi đóng quân của Vũ Lâm quân.
Ở trên Long Thủ Nguyên, còn có một tòa quân doanh rất lớn. Đây là quan doanh của Kim Ngô Vệ. Nhưng Dương Nguyên Khánh không có ý định đi quân doanh kia. Mục tiêu của hắn chính là Hoàng cung Đường triều.
Bình thường hoàng cung Đường triều do mười nghìn Vũ Lâm quân bảo vệ, đề phòng nghiêm khắc. Nhưng chính là như vậy, tác dụng của Vũ Lâm quân chỉ là để đối phó với đạo tặc và thích khách. Cũng không phải dùng để đánh giặc. Bốn phía của Quan Trung đều là quan ải, quan nội có đóng giữ trọng binh. Phòng ngự nghiêm mật, nên gần như có rất ít quân đội có thể đánh tới Trường An.
Nhưng lúc này lại không giống như ngày thường. Quân Tùy thừa dịp Quan Trung hư không, trực tiếp đánh tới Trường An. Mà Vũ Lâm quân lại bị điều đi thủ thành. Ở cung thành hiện giờ chỉ có hơn hai ngàn thị vệ. Việc phòng ngự ở Trường An xuất hiện một lỗ hổng lớn. Mà Dương Nguyên Khánh lại rất rõ lỗ hổng này là ở nơi nào.
Dương Nguyên Khánh suất lĩnh kỵ binh đi xuyên qua Long Thủ Nguyên, đi tới thung lũng mà năm đó hắn cứu Dương Kiên. Thung lũng này nối thẳng tới cửa chính của Tây Nội Uyển. Hiện tại thung lũng đã bị tuyết thật dày bao phủ. Dương Nguyên Khánh nhìn thung lũng quen thuộc này, trong lòng dâng lên một loại hoài niệm tới thời thiếu niên.
Lúc này, một con sơn trĩ bay qua đỉnh đầu của hắn. Dương Nguyên Khánh nhanh chóng lấy cung gài tên. Cung mở, nhưng hắn không có bắn ra mũi tên. Dây cung lại từ từ nới lỏng. Hắn tự trào phúng lắc đầu. Đại chiến sắp tới, cần phải khắc chế. Hắn là một chủ soái một quân, làm sao có thể hoài niệm việc săn bắn khi xưa. Nếu bọn lính nhìn thấy, bọn họ sẽ nghĩ như thế nào?
Dương Nguyên Khánh giục ngựa suất lĩnh hai ngàn kỵ binh đi về Tây Nội Uyển. Đi một lát thì tới ngoài tường. Bên ngoài của Tây Nội Uyển được bao quanh tường đá, tường cao hai trượng, được xây dựng vô cùng kiên cố. Ở phía bắc là một cửa cung có khí thế đồ sộ. Đây là cửa Tây Uyển. Bình thường nơi này sẽ có ba trăm binh lính trấn thủ. Nhưng hôm nay chỉ có hơn năm mươi người coi giữ.
Bọn lính đang đi lại tuần tra. Đột nhiên, bọn họ phát hiện ở phía xa thung lũng có quân Tùy đang lao nhanh tới. Bọn họ sợ tới thất kinh, lên tiếng quát to:
- Quân Tùy đến đây! Quân Tùy đến đây!
- Đương!Đương! Đương.
Tiếng cảnh báo dồn dập vang lên trên đầu thành. Dương Nguyên Khánh ra lệnh một tiếng:
- Động thủ!
Hai nghìn kỵ binh mãnh liệt tấn công. Tên bay như mưa, bắn về phía cửa lầu. Hơn mười binh lính phòng thủ ngay lập tức bị bắn trúng, kêu thảm ngã xuống lầu. Mấy trăm binh lính Tùy chặt một cây đại thụ, để lên cửa lầu rồi nhanh chóng leo lên trên. Quân coi giữ thấy tình thế không ốn, bốn phía chạy trốn.
Một lát sau, quân Tùy kéo xích sắt lên, cửa chính của Tây Nội Uyển ầm ầm mở ra. Hai ngàn kỵ binh Tùy giơ lên chiến đao vọt vào Tây Nội Uyển. Đội kỵ binh đằng đằng sát khí lao vào cửa Huyền Vũ, phía bắc cung Thái Cực.
Cửa Huyền Vũ là lối vào quan trọng để đi vào cung. Cửa thành được đúc bằng sắt thô, cần phải ba mươi người ở trên lầu kéo xích mới có thể mở ra được. Mà cửa lầu cao tới bốn trượng, cực kỳ hùng vĩ đồ sộ.
Lúc này, tiếng chuông báo động ở cửa Tây Uyển đã kinh động tới quân coi giữ ở cửa Huyền Vũ. Nơi này có năm trăm Vũ Lâm quân coi giữ. Bọn họ thấy hai ngàn kỵ binh Tùy đánh tới, đều cực kỳ kinh hãi. Bọn họ nằm mơ cũng không ngờ, quân Tùy sẽ từ phía sau đánh tới.
Không đợi kỵ binh quân Tùy đánh tới gần, quân coi giữ cửa Huyền Vũ liền bắn tên, ngăn cản quân Tùy tới gần. Nhưng quân Tùy phân bố thành hai đường. Một đường tấn công cửa Huyền Vũ, một đường khác thì đi vòng.
Kỵ binh Tùy dùng tên lửa bắn vào phòng ở. Thế lửa rất mạnh, lập tức đã thiêu đốt rất nhiều cung điện mái ngói. Trong đó có tẩm cung của Hoàng hậu đã bị lửa lớn nuốt hết. Ánh lửa và khói đặc bay thẳng lên trời.
Lý Uyên đang trốn ở trong tĩnh thất hoàng cung, chắp tay sau lưng, bất an đi qua đi lại. Y chỉ hy vọng quân Tùy không đánh được thành Trường An, chỉ phải lách thành mà đi, buông tha cho thành Trường An. Y mặc kệ Quan Trung ra sao, y chỉ để ý bảo vệ Trường An.
Bỗng nhiên Lý Uyên nghe thấy tiếng xôn xao ở bên ngoài. Dường như đang có cung nữ khóc hô chạy trốn. Trong lòng y cả kinh, bước nhanh đi tới cửa sổ. Chỉ thấy rất nhiều cung nữ, hoạn quan đang chạy loạn bốn phía. Y ngẩng đầu nhìn, thì thấy cách đó không xa có khói lửa cuồn cuộn.
- Chuyện gì xây ra? Trong cung có hỏa hoạn sao?
Trong lòng Lý Uyên kinh nghi. Đúng lúc này, có một gã thị vệ chạy như điên tới:
- Bệ hạ!
Thị vệ chạy tới cửa lớn bẩm báo:
- Bệ hạ, Dương Nguyên Khánh tự mình dẫn theo hai nghìn kỵ binh Tùy đã tiến vào Tây Nội Uyển. Đang chiến đấu kịch liệt với quân coi giữ ở cửa Huyền Vũ. Bệ hạ nên nhanh chóng rút khỏi hoàng cung.
Tin tức này khiến Lý Uyên sợ tới hồn phi phách lạc. Y ngơ ngác đứng ở trong phòng. Trong đầu là một khoảng hư không. Cả người giống như rơi xuống vực sâu vạn trượng…
Dù sao Lý Uyên cũng là hoàng đế, là người đã trải qua chiến tranh, chỉ là sự uy hiếp đột ngột khiến ông ta theo bản năng rơi vàosự kinh sợ cực độ, nhưng rất nhanh ông ta đã tỉnh táo lại. Sau khi trầm tư một lúc, ông ta ra lệnh:
- Tất cả thị vệ trong cung tập trung về cửa Huyền Vũ để phòng ngự, truyền ý chỉ của trẫm cho Đậu Quỹ, bảo anh ta cấp tốc đem năm nghìn quân Vũ Lâm trở về.
Lý Uyên đã sắp xếp mọi thứ xong xuôi. Lúc này thị vệ lại thúc giục:
- Bệ hạ, xin nhanh chóng rời khỏi Cung thành, quân Tùy bất kể lúc nào cũng có thể tấn công vào trong cung.
Lý Uyên cũng biết tình thế lúc này rất nguy cấp, ông ta cũng không thể đợi Thừa Liễn tới được liền trực tiếp trở mình lên ngựa phi thẳng về hướng Hoàng thành. Nói thế nào đi nữa thì ông ta phải thoát khỏi Cung thành trước đã rồi mới nói tiếp…Bên ngoài cửa Huyền Vũ, mấy tòa cung điện trong nội uyển phía tây và quân doanh quân Vũ Lâm cũng đã bị thiêu hủy, đâu đâu cũng là lửa cháy hừng hực, cả bầu trời trên nội uyển phía tây đều cuồn cuộn khói đen.
Lúc này, quân Tùy vẫn đang tạo áp lực liên tục. Binh lính triều Tùy chặt mấy trăm gốc đại thụ rồi chất đống trước cửa Huyền Vũ, sau đó tưới dầu hỏa lên rồi đốt. Lửa lớn nhanh chóng thiêu rụi hai tòa lầu, mười mấy tên lính triều Đường không chạy kịp liền lập tức bị ngọn lửa lớn nuốt chửng.
Không chỉ có cửa Huyền Vũ, kỵ binh quân Tùy bắn vô số hỏa tiễn vào trong Cung thành khiến mấy chục tòa cung điện dựa vào tường thành Cung thành toàn bộ bắt lửa. Mặt bắc cung Thái Cực cũngở trong biển lửa.
Trong Cung thành đâu đâu cũng là lửa lớn. Ngọn lửa ngập trời bốc lên của cửa Huyền Vũ cao đến hơn ba mươi trượng. Toàn bộ thành Trường An đều có thể nhìn thấy một cách rõ ràng.
Ở thành Đông, thế công của quân Tùy đã yếu bớt, kỵ binh quân Tùy đi vòng qua thành Nam, tiếp tục công kích.
Lúc này, đứng trên tường Đông thành, Đậu Quỹ đang ngơ ngác nhìn cung điện phía bắc chìm trong lửa lớn, trong lòng vô cùng kinh hãi . Mãi đến lúc này, anh ta cuối cùng mới ý thức được tại sao Dương Nguyên Khánh lại không có ở đây. Thì ra Dương Nguyên Khánh đã xuất quân tấn công mặt bắc của Cung thành.
Đây là kế dương đông kích tây của quân Tùy. Bên ngoài thì giả bộ tấn công thành trì, nhưng trên thực tế thì lại đi đánh lén Cung thành. Việc này quả thật chưa từng xảy ra.
Đậu Quỹ lập tức kinh sợ đến toát mồ hôi lạnh. Nếu Cung thành bị công phá thì anh ta sẽ trở thành tội nhân thiên cổ của Đại Đường. Anh ta liền nhanh chóng ra lệnh cho Trưởng Tôn Thuận Đức nói:
- Trưởng Tôn tướng quân, ngươi hãy cấp tốc đưa năm nghìn quân đi trợ giúp hoàng cung, mau đi!
Trưởng Tôn Thuận Đức cũng đã toát mồ hôi khắp đầu. Anh ta là người nắm giữ quân Vũ Lâm, có trách nhiệm bảo vệ an toàn cho hoàng cung nhưng hiện tại anh ta lại đem gần như toàn bộ đội quân của mình chạy ra khỏi hoàng cung thế này, chỉ để lại trong cung không tới một nghìn người. Anh ta vốn không thể biết được Dương Nguyên Khánh sẽ tấn công từ cửa Huyền Vũ vào Cung thành.
- Tuân lệnh!
Trưởng Tôn Thuận Đức hét lớn một tiếng, sau đó xoay người chạy về phía Cung thành. Anh ta liên tục gào thét, thúc giục năm nghìn binh lính nhanh chóng theo mình rời khỏi thành Đông, chạy như điên về phía thành Bắc …
Bên ngoài Huyền Vũ môn, Dương Nguyên Khánh bật người nhảy xuống từ một cây thông lớn, nhìn chăm chú vào ngọn lửa đang cháy hừng hực ở Huyền Vũ môn. Trên tường thành, hơn hai nghìn tên thị vệ đang giao chiến kịch liệt với kỵ binh quân Tùy. Tên bắn như mưa, liên tục không ngừng có quân Vũ Lâm từ phía đông vội vàng chạy tới gia nhập vào trong đội ngũ đang giao chiến.
Chương 944 : Đứng vững trước áp lực
Cho dù có tiếp tục đánh thì cũng không còn ý nghĩa gì nữa, Dương Nguyên Khánh cuối cùng ra lệnh:
- Truyền lệnh quân đội lui về!
Mệnh lệnh đã truyền ra, hai nghìn kỵ binh quân Tùy lập tức quay đầu ngựa rồi theo Dương Nguyên Khánh nhanh chóng di chuyển về phía cửa Tây Uyển. Không lâu sau, đội quân đã rời khỏi thành Bắc thành Trường An, đến hợp với quân đội của La Sĩ Tín. Mười ngàn quân Tùy lúc này lại tiếp tục đánh về phía huyện Hàm Dương.
Lý Uyên dưới sự bảo vệ của mấy ngàn quân Vũ Lâm lúc này đang đứng trên tường thành bên ngoài, nhìn chăm chú vào kỵ binh quân Tùy phía xa xa. Ông ta vừa mới thờ phào nhẹ nhõm thì Bùi Tịch ở bên cạnh đột nhiên lại nói:
- Bệ hạ tuyệt đối không thể sơ suất. Dương Nguyên Khánh này là người vô cùng giảo hoạt, vi thần e rằng hắn sẽ sử dụng chiêu hồi mã thương. Nếu chúng ta lơ là thì sẽ có thể rơi vào nguy cơ bị phá thành.
Tiêu Vũ cũng lo lắng nói:
- Lần này quân Tùy không đánh hạ Trường An là bởi vì bọn chúng chỉ đem theo binh mã gọn nhẹ, không hề mang theo vũ khí công thành nhưng thần nhớ rõ trong kho chứa ở Hàm Dương có không ít thang dài lần trước khi dùng để tu sửa thành trì còn để lại. Nếu như bị quân Tùy tìm được thì thật sự là phiền toái lớn.
Trong lòng Lý Uyên lập tức cả kinh. Quân Tùy tấn công cửa Huyền Vũ đúng là đã dọa cho ông ta sợ vỡ mật, nếu bây giờ quân Tùy lại quay ngược lại mà đánh tới, đồng thời lại có vũ khí công thành thì bọn họ làm sao ngăn cản được đây, thế nên ông ta vội vàng hỏi:
- Vậy theo ý kiến của các vị ái khanh thì bây giờ ta nên làm thế nào cho phải?
Đậu Quỹ khom người nói:
- Bệ hạ, hay là chúng ta sử dụng cách cũ, lập tức chiêu mộ hàng loạt những thanh niên cường tráng trong thành, ít nhất phải chiêu mộ được trên hơn mười nghìn người trở lên, sau đó phân phát vũ khí để những thanh niên đó cùng góp sức thủ thành. Viện quân của Thái tử và Tần Vương sẽ lập tức về đến, không thể chậm trễ thêm phút giây nào nữa!
Lý Uyên cắn răng nói:
- Truyền chỉ dụ của trẫm, lệnh cho Thái tử và Tần Vương cấp tốc trở lại cứu viện. Ai dám chậm trễ trẫm sẽ nghiêm trị không tha…
Lúc này, cuộc chiến giữa hai bên tại thành Lạc Dương đã bước sang ngày thứ tư. Sau ba ngày tấn công liên tục trên quy mô lớn, hôm nay cuối cùng cuộc chiến công thành đã tạm thời dừng lại. Dưới chân thành Lạc Dương lúc này thây chất như núi, máy bắn đá bị hư hại, thang dài và xe chở xác chết ngã nghiêng ngả trên mặt đất. Cho dù quân Đường đã bỏ ra gần hai mươi nghìn quân nhưng vẫn không thể đánh hạ được thành Lạc Dương.
Mùa đông lạnh lẽo đã giúp Vương Thế Sung thủ thành rất tốt. Vương Thế Sung đã dùng nước tưới lên tường thành khiến thành trì trở nên vô cùng trơn trượt. Thang dài dựng lên toàn bị trượt đi, nếu muốn leo lên thì chỉ có thể dùng tới dây thừng có móc câu. Thế nhưng quân đội của Vương Thế Sung lại dùng thiết chùy để phá hủy móc, chỉ cần một người cũng có thể ngăn cản việc leo lên của quân địch. Điều này quả thật đã khiến cho việc công thành của quân Đường gặp khó khăn rất lớn.
Nhưng quân đội của Vương Thế Sung cũng chết thê thảm và nghiêm trọng không kém gì quân Đường. Quân đội của ông ta bỏ mình cũng gần hai mươi nghìn người, dân phu cũng tử vong trên hai mươi nghìn người. Quân Lạc Dương coi như đứng vững trước nguy cơ chuẩn bị sụp đổ.
Tại đại doanh quân Đường cách thành Tây hơn mười dặm, những chiếc lều lớn nằm trải dài vô tận, kéo dài tới mấy chục dặm. Lúc này, trong đại trướng trung quân, Lý Hiếu Cung đang lo lắng nói với Lý Thế Dân:
- Hiện giờ điều ta lo lắng nhất là Kinh Tương. Lần này dẫn theo một trăm ngàn đại quân đi về phía bắc, Kinh Tương không có binh lính trấn thủ. Tiêu Tiển kia nhát như cáy nên y sẽ không dám mở rộng quân về phía tây nhưng ta chỉ e quân Tùy sẽ xuôi nam đánh Kinh Tương. Mặc dù đội quân kia của quân Tùy nhìn như là nghi binh nhưng nếu như bọn chúng thật sự xâm nhập được vào Kinh Tương thì ta chỉ sợ sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.
Hôm nay, quân Đường đã tạm dừng tấn công thành là bởi vì bọn họ nhận được một loạt thông tin tình báo bất lợi. Đầu tiên chính là thám báo tại quận Hoài Dương phát hiện một nhánh kỵ binh của quân Tùy đang nhanh chóng xuôi nam, phương hướng đúng là Kinh Tương.
Sau đó thám tử Đường Phong tại quận Hà Đông phát hiện Dương Nguyên Khánh xuất hiện tại thành Hà Đông. Lý Thế Dân hoài nghi Dương Nguyên Khánh có ý định đánh lén Quan Trung, kết quả là ngay sáng sớm hôm nay y liền nhận được chỉ dụ viết tay khẩn cấp của phụ hoàng, ra lệnh cho y phải lập tức trở về cứu viện cho Quan Trung.
Những biến cố liên tiếp đã khiến cho đầu của Lý Thế Dân như muốn nổ tung. Trong lòng y giờ đâythật sự là rất lo âu. Y biết rõ căn nguyên của tất cả. Hiện tại nếu Dương Nguyên Khánh đã xuất hiện tại quận Hà Đông thì điều này chứng tỏ chiến sự ở phương bắc ngừng rồi, chắc chắn là quân Tùy đã thắng Đột Quyết.
Lý Thế Dân chắp tay sau lưng đi qua đi lại trong đại trướng, hai hàng lông mày nhắn lại. Thế này thì phiền phức rồi đây. Nhất định phải quay về Kinh Tương phòng thủ rồi.
Quân Tùy đã kết thúc chiến dịch phương bắc, thế thì Kinh Tương bên kia không có binh lính thì có chút nguy hiểm rồi. Tuy Tiêu Tiển không dám phản công Kinh Tương nhưng nếu có quân Tùy xuôi nam làm chỗ dựa thì tên này rất có khả năng sẽ xuống tay.
Nghĩ vậy, Lý Thế Dân thở dài, quay sang nói với Lý Hiếu Cung:
- Ngươi hãy dẫn tám mươi nghìn quân xuôi nam về Kinh Tương đi. Ta rất lo quân Tùy sẽ ủng hộ Tiêu Tiển phản công Kinh Tương.
Lý Hiếu Cung giật mình kinh hãi. Điều này quả thật là rất có khả năng xảy ra. Mặc dù một mình Tiêu Tiển không dám phản công Kinh Tương nhưng nếu có quân Tùy xuôi nam làm chỗ dựa thì lại là chuyện khác. Ông ta lập tức gật đầu:
- Ta sẽ lập tức rút về Kinh Tương, Lạc Dương bên này liền giao cho nhị đệ rồi.
Ông ta thấy Lý Thế Dân vẫn còn có chút âu lo, liền hỏi:
- Sao thế? Không lẽ một trăm ngàn quân vẫn không nắm chắc sẽ hạ được thành Lạc Dương hay sao?
Lý Thế Dân lắc đầu:
- Hạ thành Lạc Dương không phải là vấn đề. Trong lòng đệ đã nắm chắc rồi, trong vòng ba ngày chắc chắn sẽ phá được Lạc Dương, quan trọng là tại Trung Nguyên phải làm thế nào bây giờ?
Lý Thế Dân thở dài, lại nói:
- Dương Nguyên Khánh suất quân tấn công tập kích Quan Trung, phụ hoàng lệnh cho đệ phải lập tức đem theo năm mươi nghìnquân trở về để giúp Quan Trung. Nếu cứ như vậy thì binh lực trong tay đệ sẽ không đủ, chỉ sợ cũng không sức mà đánh Trung Nguyên nữa rồi.
Lý Hiếu Cung trầm mặc một lúc rồi nói:
- Chỉ sợ đây mới chính là mục đích của Dương Nguyên Khánh.
- Đệ biết chứ, đây là mưu của hắn. Hắn phái quân đội tập kích Kinh Tương ở phía nam là muốn bức huynh lui về phía sau, tiếp đó lại tấn công Quan Trung ở phía tây là muốn ép quân đội của đệ phải lui về. Nói cho cùng, hắn chính là dùng kế vây Ngụy cứu Triệu làm thất bại kế hoạch tấn công Trung Nguyên của chúng ta.
Lý Thế Dân lại khẽ thở dài:
- Vấn đề là, mặc dù đệ biết rõ ý đồ của hắn nhưng lại không thể không bị hắn dắt mũi.
Lý Hiếu Cung chăm chú suy tư trong chốc lát rồi nói:
- Ta nghĩ Thánh Thượng chắc chắn cũng ra lệnh cho Thái tử quay về cứu viện rồi. Thực ra chỉ cần Thái tử quay lại cũng đủ để cứu vãn tình hình nguy cấp tại Quan Trung. Nếu đệ không dẫn binh trở về mà tiếp tục tấn công Lạc Dương rồi chiếm lĩnh Trung Nguyên thì ta nghĩ Dương Nguyên Khánh nhất thời cũng không thể làm gì đệ được.
- Ý của Hiếu Cung là muốn đệ kháng chỉ?
Lý Thế Dân híp mắt hỏi.
- Mặc dù kháng chỉ có chút không ổn nhưng chỉ cần đệ chiếm được Trung Nguyên, đồng thời tình thế nguy cấp ở Quan Trung cũng được giải quyết, sau đó đệ lại giải thích rõ ràng với Thánh Thượng thì ta nghĩ vấn đề cũng không phải là lớn lắm.
Lý Thế Dân lại lắc đầu:
- Huynh nói như vậy thì quả thật lầm to rồi. Kháng chỉ không theo mệnh lệnh thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Phụ hoàng xem coi quân quyền quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Nếu đệ không nghe phụ hoàng điều động mà kháng chỉ thì cho dù tình thế nguy hiểm ở Quan Trung có được giải quyết và cho dù đệ có lấy được Trung Nguyên đi chăng nữa thì phụ hoàng cũng sẽ không tha cho đệ đâu. Phụ hoàng chắc chắn sẽ từng bước cướp đoạt quân quyền của đệ thôi.
Hai người lại lần nữa rơi vào trầm mặc. Lý Thế Dân chắp tay sau lưng đi vài bước, y dường như nghĩ tới điều gì đó liền khẽ mỉm cười:
- Có lẽ đệ có thể kéo dài một chút, phái năm mươi nghìn viện quân chầm chậm mà đi. Chờ cho tình thế nguy hiểm tại Quan Trung được giải quyết, đệ liền viết thư xin phụ hoàng chỉ thị tiếp tục tấn công Trung Nguyên. Như vậy Thái tử cũng không thể nắm được nhược điểm của đệ được.
- Nhưng liệu quân Tùy có chịu đồng ý như thế không?
Lý Hiếu Cung lại tiếp tục nói:
- Nếu bọn chúng đã thắng Đột Quyết, không còn nỗi lo gì ở sau thì hắn liệu sẽ cho phép chúng ta chiếm lĩnh Trung Nguyên không? Thế Dân, đệ không phải quá lạc quan đó chứ.
Lý Thế Dân cười lạnh một tiếng:
- Cho dù Dương Nguyên Khánh có đánh bại Đột Quyết đi nữa thì chắc chắn cũng là thảm thắng. Quân đội của hắn đã sức cùng lực kiệt, thực lực giảm mạnh, làm sao còn có sức lực cùng chúng ta tranh đoạt Trung Nguyên nữa. Nếu không thì Dương Nguyên Khánh cũng sẽ không dùng đến phương pháp tập kích bất ngờ Quan Trung để ép chúng ta phải rút quân. Bây giờ là Đường mạnh Tùy yếu, chỉ cần chúng ta có thể cắn răng trụ vững, như vậy Trung Nguyên nhất định sẽ thuộc về chúng ta.
.
Chương 945 : Phát hiện bất ngờ
Lý Thế Dân vẫn canh cánh trong lòng về thất bại nặng nề mấy tháng trước ở Trung Nguyên. Mặc dù lần đó cũng không phải là lỗi của y mà là do phụ hoàng chỉ huy sai lầm. Lần này khó khăn lắm y mới được phụ hoàng chấp nhận cho nắm toàn quyền dụng binh, thế nên y không thể lại đi sai một bước như trước được.
Y nhất định phải chiếm được Trung Nguyên một lần nữa. Cho dù Dương Nguyên Khánh có dùng kế vây Ngụy cứu Triệu thì y cũng tuyệt đối không để cho Dương Nguyên Khánh có thể dễ dàng thực hiện âm mưu…
Giữa trưa, quân đội Dương Nguyên Khánh đã tới Hàm Dương, cácthành Hàm Dương chừng nửa dặm. Cổng thành Hàm Dương rộng mở, huyện lệnh Vi Nghĩa Tiết cùng hơn mười quan viên đi ra ngoài cùng đầu hàng.
Vi Nghĩa Tiết là tộc đệ của Vi Tế , là nhân vật quan trọng của gia tộc Vi thị. Ông ta vốn đảm nhiệm chức Lễ Bộ Thị lang nhưng bởi vì có liên quan đến vụ án của Lưu Văn Tĩnh mà bị cách chức, bị hạ xuống làm huyện lệnh tại Hàm Dương. Do trong huyện Hàm Dương không có binh lính trú đóng,chỉ có hơn một trăm lão binh đóng mở cổng thành,Vi Nghĩa Tiết tự biết không thể thủ thành, lại sợ quân Tùy sẽ cướp bóc lương thực của dân chúng, vạn bất đắc dĩ mới phải mở thành đầu hàng.
Một tên binh lính quân Tùy dẫn Vi Nghĩa Tiết tới trước mặt Dương Nguyên Khánh. Lúc này Vi Nghĩa Tiết mới biết không ngờ Sở Vương Dương Nguyên Khánh đích thân đến.
Trong lòng ông ta sợ hãi, hai đầu gối quỳ xuống, hai tay dâng lên ấn tín huyện lệnh, khóc nói:
- Hàm Dương mở thành nghênh đón Sở Vương điện hạ, khẩn cầu điện hạ xem xét việc thành của ta không chống cự mà bỏ qua cho dân chúng Hàm Dương, xin đừng làm tổn thương dân chúng.
Dương Nguyên Khánh thản nhiên cười nói:
- Vi huyện lệnh không cần lo lắng, ta đến Quan Trung không phải để giết dân, trái lại ta tới là để cứu tế những người nghèo khổ ở Quan Trung này. Xin hãy đứng lên đi! Ấn tín huyện lệnh ta không cần.
Trong lòng Vi Nghĩa Tiết càng thêm nghi hoặc. Bên trong nhà kho Hàm Dương có trên hai mươi nghìn thạch lương thực, chẳng lẽ Dương Nguyên Khánh lại mở nhà kho để phát lương thực hay sao? Vi Nghĩa Tiết không dám nhiều lời, chỉ đành đứng dậy nói:
- Xin mời điện hạ vào thành nghỉ ngơi!
Khi quân Tùy tấn công Trường An vào ban trưa, có không ít binh lính trúng tên bị thương, hiện đang cần điều dưỡng, Dương Nguyên Khánh liền gật gật đầu rồi quay lại nói với La Sĩ Tín và Trình Giảo Kim:
- Hai người các ngươi đi sắp xếp thỏa đáng cho các huynh đệ nhưng nhất quyết không được nhũng nhiễu dân chúng. Sau đó mở nhà kho phát lương thực, cứu tế những người nghèo khổ ở Hàm Dương. Bất kể là già trẻ trai gái đều phải được phát lương thực!
- Tuân lệnh!
La Sĩ Tín và Trình Giảo Kim cùng thi lễ, sau đó hai người liền dẫn quân đội nhập thành. Dương Nguyên Khánh thì đi tới huyện nha dưới sự hộ tống của mấy trăm thân binh. Hắn cũng cần phải bình ổn tinh thần trước khi cân nhắc những bước tiếp theo trong kế hoạch.
Tại nghị sự đường bên trong huyện nha, đám thân binh nhanh chóng ghép sa bàn, Dương Nguyên Khánh thì đứng trước sa bàn trầm tư không nói. Hôm nay, việc xảy ra tại thành Trường An quả thật đã khiến hắn phải phiền não, hắn có thể khẳng định Lý Uyên chắc chắn sẽ ra lệnh rút quân để cứu viện. Thái tử Lý Kiến Thành bên này tất nhiên sẽ lập tức quay về, nhưng quân đội của Lý Thế Dân bên kia liệu có rút quân như hắn tính toán hay không?
Dương Nguyên Khánh lo lắng chính là điều này. Lần này hắn tập kích bất ngờ Quan Trung, mục đích chính là ép Lý Thế Dân phải rút quân về Quan Trung, từ bỏ việc chiếm Trung Nguyên. Nhưng với tài trí của Lý Thế Dân thì y chắc chắn sẽ nhìn thấu ý đồ của hắn, liệu y có thể đứng vững trước áp lực, kiên quyết không rút quân quay về Quan Trung hay không?
Dựa vàotrực giác, Dương Nguyên Khánh cảm thấy Lý Thế Dân rất có thể sẽ đứng vững trước áp lực lần này, kiên quyết không lui binh quay về Quan Trung. Dù sao thì đây cũng là một cơ hội để chiếm Trung Nguyên, đồng thời lúc này quân Tùy vừa đánh nhau với Đột Quyết xong, vùng Hà Đồng tổn thất thê thảm và nghiêm trọng, binh lính thì thể xác lẫn tinh thần đều mỏi mệt, quả thực không còn sức lực để tiếp tục một cuộc đại chiến ở Trung Nguyên nữa.
Lý Thế Dân chắc chắn có thể nhìn thấy cơ hội lần này, việc y không chịu rút quân rất có khả năng xảy ra, vậy nên ứng phó như thế nào với cục diện bất lợi này đây? Dương Nguyên Khánh khoanh tay đi qua đi lại vòng quanh sa bàn, suy nghĩ đối sách. Lúc này, Trình Giảo Kim với vẻ mặt kích động đi tới, anh ta vừa tiến vào đại sảnh liền reo lên:
- Điện hạ, ngài đoán xem ty chức phát hiện được điều gì?
Dương Nguyên Khánh bị cắt đứt dòng suy nghĩ, trong lòng có chút không vui. Hắn quay đầu lại, hung hăng trừng mắt nhìn Trình Giảo Kim. Lúc này Trình Giảo Kim mới giật mình nhận ra, anh ta sợ tới mức cúi đầu, một tiếng cũng không dám thốt ra khỏi miệng. Dương Nguyên Khánh hừ một tiếng hỏi:
- Lần này tạm tha cho ngươi. Sau này còn dám xông loạn vào đại sảnh thì ta sẽ phạt ba mươi quân côn đó!
- Vâng! Ty chức nhớ rồi.
Dương Nguyên Khánh lúc này mới thu dòng suy nghĩ, hỏi:
- Ngươi phát hiện được điều gì?
Trình Giảo Kim không còn hưng phấn như lúc trước nữa, anh ta nơm nớp lo sợ nói:
- Ty chức cùng Sĩ Tín mở nhà kho lương thực, sau khi xem xét kho thì liền phát hiện có rất nhiều thang dài rắn chắc, mỗi cái đều cao khoảng ba tới bốn trượng, rất thích hợp cho việc công thành. Chúng ta chẳng phải là không mang theo vũ khí công thành hay sao? Mấy cái thang này…
Phát hiện này khiến Dương Nguyên Khánh rất hứng thú, hắn lập tức nói:
- Đi! Đi xem nào.
Nhà kho huyện Hàm Dương ở phía bên trái huyện nha, cách đó chừng một dặm. Nhà kho này thực chất được sử dụng nhằm hai mục đích. Một là để chứa lương thực, hai là để chứa tiền bạc và vật tư. Kho lương huyện Hàm Dương là do hai kho lớn chứa lương tạo thành, có thể chứa khoảng hai mươi nghìn thạch lương thực, được trông coi bởi mười mấy tên nha dịch.
Lúc này, kho lương đã bị quân Tùy tiếp quản. La Sĩ Tín suất lĩnh năm trăm binh lính đang mở kho phát lương thực. Mấy chục nghìn dân chúng nghe nói thế, người thì vác bao tải, người thì kéo theo lừa, thậm chí không ít người huy động toàn bộ gia đình của mình, dù sao thì quân Tùy cũng chẳng nhận ra.
Phía trước kho lương là hơn mười hàng dài, ước chừng cả nghìn bước chân. Tuy nhiều người như vậy nhưng cũng khá ngay ngắn trật tự, không có cảnh tranh nhau. Có mấy trăm kỵ binh quân Tùy duy trì trật tự.
Dương Nguyên Khánh cưỡi ngựa chậm rãi đi tới với sự bảo hộ của đám thân vệ xung quanh. Huyện lệnh Vi Nghĩa Tiết thì cưỡi ngựa ở bên, vẻ mặt ông ta lúc này rất u sầu, bởi vì những thứ này đều là thuế lương thực thu được, nếu đem toàn bộ ra để cứu tế thì ông ta làm sao có thể giải thích với triều đình đây?
Dương Nguyên Khánh dùng roi quất ngựa chỉ vào đám dân chúng đang xếp hàng lĩnh lương thực, nói với Vi Nghĩa Tiết:
- Những dân chúng này phần lớn là ăn mặc lam lũ, rõ ràng là người nghèo khổ. Ta dùng lương thực để cứu tế cho bọn họ chẳng lẽ lại không phải là chuyện tốt hay sao? Vi huyện lệnh vì sao mặt mũi lại khó coi như thế?
Trong lòng Vi Nghĩa Tiết thở dài, chỉ dám nhỏ giọng đáp:
- Điện hạ là người quản lý thiên hạ, hẳn là hiểu được mỗi triều đều có pháp luật quy định rõ ràng. Làm gì để giúp nạn dân trong thiên tai, cứu tế bao nhiêu lương thực thì đã có Hộ bộ tự sắp xếp, người nào nên lĩnh lương thực, người nào không nên, làm một huyện lệnh, ta cũng hiểu được, chứ không phải giống như điện hạ phát lương thực lung tung như thế này.
- Ngươi nói ta phát lương thực lung tung?
Trên mặt Dương Nguyên Khánh có vẻ giận dữ.
Vi Nghĩa Tiết quyết định chắc chắn nói:
- Đó là đương nhiên. Điện hạ nhìn xem những dẫn chúng này quần áo lam lũ, nhưng rất nhiều người lại có vẻ mặt sáng láng, chắc chắn là bọn họ cố ý ăn mặc rách rưới để tới lĩnh lương thực. Thậm chí còn có địa chủ giàu có và bọn tiểu dân giảo hoạt lẫn lộn trong đó, chẳng lẽ điện hạ lại không rõ hay sao?
Dương Nguyên Khánh ngẩn ra. Hắn bỗng nhiên ngửa đầu cười ha hả:
- Khảng Lý gia rỗng rãi mà, ta quản chi họ là người này là giàu hay nghèo. Khi nào ta quay lại đem lương thực tại nhà kho Quảng Thông cũng phát hết ra, để cho Lý Uyên khóc ròng xem!
Vi Nghĩa Tiết càng thêm kinh hãi nhưng ông ta lại chẳng biết nói thế nào cho phải. Dương Nguyên Khánh thu lại nét mặt tươi cười, quay đầu nhìn ông ta một cái, gật đầu nói:
- Ta phát hiện Vi huyện lệnh rất hợp ý của ta. Nếu Lý Uyên đối đãi bất nhân với người, thì hãy theo ta đi! Ta cho ngươi đảm nhiệm Hộ bộ Thị lang của Đại Tùy.
Vi Nghĩa Tiết cười gượng một tiếng:
- Ý tốt của điện hạ, ta xin tâm lĩnh. Chỉ là nếu ta đi theo điện hạ thì danh tiết của ta cũng xong rồi, mong điện hạ thông cảm.
- Danh tiết?
Dương Nguyên Khánh lắc đầu:
- Ngươi có biết Lưu Văn Tĩnh chết như thế nào không. Ta có thể nói rõ cho ngươi biết. Tất cả đều là do ta sắp đặt, lợi dụng đám thám tử ngu xuẩn của triều Đường để thực hiện. Thật ra trong lòng Lý Thế Dân cũng hiểu rất rõ, nhưng y vì giết Lưu Văn Tĩnh, trừ khử cánh tay đắc lực của Lý Kiến Thànhnên mới tương kế tựu kế. Kẻ thực sự bị lừa chẳng qua chỉ có Lý Uyên mà thôi. Ngươi vô tội nhưng bị giáng chức thì cần gì phải vì sự tranh giành quyền lực của đám cao tầng triều Đường mà giữ gìn danh tiết?
Lúc này, Vi Nghĩa Tiết mới như tỉnh mộng. Một lúc lâu sau mới nói:
- Danh tiết của ta và Lưu Văn Tĩnh không có liên quan. Ta đã là thần tử triều Đường thì tất nhiên nên trung thành với Thánh Thượng. Nếu ta vì quan to lộc hậu mà theo điện hạ thì ta sẽ là bất nghĩa với Thánh Thượng.Ta không thể đi được, nếu điện hạ ép buộc thì ta cũng chỉ đành lấy cái chết để thể hiện sự trung thành mà thôi.
Chương 946 : Công phá thành ngoài
- Được rồi! Ngươi đã không chấp nhận thì ta cũng không miễn cưỡng, nếu ngươi nghĩ thông suốt thì lại có thể theo ta, ta sẽ hoan nghênh ngươi.
Nói xong, Dương Nguyên Khánh không để ý đến ông ta nữa, hắn giục ngựa đi theo Trình Giảo Kim tới nhà kho…Xung quanh nhà kho có vài chục tên lính thủ vệ đứng canh, Dương Nguyên Khánh bước nhanh vào trong. Bên trong nhà kho là một hàng dài những căn nhà trệt, mỗi căn lại có cửa nhỏ thông với nhau, trong mỗi gian phòng đều chất đống các loại vật phẩm, có mấy chục rương lớn chứa tiền đồng, đều là Khai Nguyên thông bảo mới được đúc. Loại tiền này cũng được lưu thông tại triều Tùy, tính ra cũng khoảng mấy nghìn quan, còn có mấy mấy chục nghìn thất vải lụa, chất đầy năm sáu gian phòng, bên cạnh đó còn có mấy rương chứa bạc, ước chừng cũng phải ba nghìn lượng.
Roi quất ngựa của Dương Nguyên Khánh chỉ vào đống tiền của, nói với Trình Giảo Kim:
- Những thứ này đều mang ra phân phát cho các huynh đệ đi, xem như là ta khao thưởng cho bọn họ!
Trình Giảo Kim mừng rỡ. Anh ta sớm đã muốn lấy đống vật tư này rồi, chỉ có điều quân kỷ của quân Tùy nghiêm minh nên anh ta không dám. Bây giờ Dương Nguyên Khánh đã mở lờithì anh ta liền không khách khí gì nữa. Dương Nguyên Khánh lạnh lùng liếc mắt nhìn anh ta:
- Ta cảnh cáo ngươi trước. Những thứ này là để khao thưởng cho các huynh đệ. Ngươi chỉ được một phần trong đó. Nếu như ngươi dám lấy thêm một lượng bạc thì ta sẽ lột da ngươi treo ở quân nha đó!
Trình Giảo Kim chợt nhớ tới cảnh tên huyện lệnh huyện Phòng Tử bị lột da kia, anh ta lập tức sợ hú hồn, vội vàng nói:
- Ty chức không dám, ty chức đã thay đổi hoàn toàn, không tham tiền nữa.
Dương Nguyên Khánh chẳng muốn để ý tới anh ta nữa, hắn đi tới phía cuối nhà kho. Nói đúng ra thì nơi này không phải là nhà kho mà là một nơi để vật tư lẫn lộn, diện tích rất lớn, chất đầy các loại vật tư một cách hỗn loạn, nào là trống lớn của huyện nha, nào là gậy công sai của đám nha dịch, rồi cả giường chiếu v.v.
Nhưng ở bên trong cùng lại có một đống thang dài được xếp một cách chỉnh tề, ước chừng có khoảng hơn trăm cái, phần lớn đều dài khoảng bốn năm trượng, rộng rãi vững chắc. Đây không phải là thang bình thường mà chính là thang dùng để công thành, phía trên đầu mỗi cái thang đều có thêm móc sắt. Phát hiện bất ngờ này khiến Dương Nguyên Khánh rất vui vẻ. Hắn vội quay đầu lại:
- Gọi huyện lệnh tới đây cho ta!
Rất nhanh sau đó, Vi Nghĩa Tiết vội vàng đi tới. Dương Nguyên Khánh chỉ vào đống thang rồi hỏi:
- Mấy cái thang này ở đâu ra vậy?
Vi Nghĩa Tiết liền vội vàng khom người nói:
- Khởi bẩm điện hạ. Đây là thang dùng để tu sửa tường thành Hàm Dương hồi đầu năm, được mượn từ Trường An. Do tường thành phía bắc còn một đoạn chưa sửa xong nên mấy cái thang này tạm thời được giữ ở đây.
Dương Nguyên Khánh đã không thể kìm nén niềm vui sướng trong lòng. Có những chiếc thang công thành này, hắn lập tức có thể tấn công Trường An lần thứ hai. Hắn nhất định phải khiến cho Lý Thế Dân buộc phải rút quân trở về. Cho dù không được như vậy thì cũng phải khiến y gánh chịu tội danh kháng chỉ…Dưới trời đêm lạnh lẽo đầy tuyết rơi, quân Tùy lại một lần nữa xuất phát, trùng trùng điệp điệp thẳng tiến về Trường An. Dưới ánh trăng vằng vặc, những bông tuyết như sáng lên rực rỡ, trên người binh lính quân Tùy bó chặt áo lông, đón những cơn gió lạnh thấu xương, anh dũng tiến thẳng về phía trước, sĩ khí ngất trời.
Ước chừng vào lúc canh ba, mười nghìn kỵ binh quân Tùy đã vượt qua Trung Vị Kiều, cách Trường An chưa đầy mười dặm.
Lúc này, trên đầu thành Trường An chỉ còn lại mười nghìn Kim Ngô Vệ để phòng thủ, toàn bộ Vũ Lâm Quân đã lui lại trấn giữ Cung thành. Nhưng triều Đường cũng đã ý thức được Dương Nguyên Khánh rất có thể sẽ quay trở lại.
Do đó, bọn họ đã nhanh chóng chiêu mộ bốn mươi nghìn thanh niên cường tráng rồi trang bị vũ khí cho họ. Lúc này, mấy chục nghìn thanh niên cường tráng vừa được võ trang đều tập trung tại Dũng Đạo Lý ở giữa nội và ngoại thành, ai nấy đều dùng thảm bọc người, chen chúc nhau ngồi từng đám bên cạnh lửa trại. Có người thì ngủ, cũng có người đang ngồi xì xào nói chuyện phiếm.
Đậu Quỹ đứng trên đầu nội thành, nhìn đám dân phu chưa qua huấn luyện này, trong lòng đầy lo lắng. Bọn họ liệu có thể ngăn cản nổi sự tấn công mãnh liệt vào thành của quân Tùy được hay không…
Vào lúc canh ba, cũng là lúc lạnh nhất ban đêm, gió lạnh thấu xương, mười nghìn kỵ binh quân Tùy lặng lẽ di chuyển nhannh chóng trên quan đạo, tiến quân về thành Trường An. Lúc này, bọn họ cách thành Trường An càng lúc càng gần, dưới ánh sao thưa thớt của buổi đêm đã có thể thấy rõ tường thành dài dằng dặc ở phía đằng xa.
Lúc này, trong đêm đen, một gã thám báo chạy gấp tới, rất nhanh đi tới trước mặt Dương Nguyên Khánh. Anh ta ngồi trên ngựa, khom người nói:
- Khởi bẩm điện hạ, quân Đường phòng thủ chủ yếu ở thành Tây và thành Bắc, ở thành Nam và thành Đông rất ít người nhưng có thể nhìn thấy trên đầu thành lờ mờ xuất hiện ánh lửa, chắc là trong các đường thông của tường thành còn ẩn nấp không ít người.
Dương Nguyên Khánh gật gật đầu. Điều này chắc chắn là triều Đường đã động viên thanh niên trai tráng trong thành tham chiến rồi.Vũ khí trong kho quân khí đầy đủ, có thể nhanh chóng vũ trang cho đại quân một trăm nghìn người. Xem ra triều Đường cũng không ngu xuẩn, bọn chúng đã nhận ra mình sẽ lại tấn công Trường An.
- Điện hạ, phải đánh thế nào?
La Sĩ Tín thấp giọng hỏi.
Dương Nguyên Khánh nhìn chăm chú thành Trường An một lúc rồi cười lạnh một tiếng:
- Quân Đường hiện giờ là đau chỗ nào trị chỗ đó, về căn bản sẽ không hấp thu bải học nên ta vẫn cứ sử dụng phương pháp dương đông kích tây. Ta sẽ đánh thành Tây để hấp dẫn chủ lực của quân địch, ngươi dẫn theo một nghìn huynh đệ tấn công thành Đông.
- Ty chức đã hiểu.
La Sĩ Tín chạy như bay, trong đêm đen có thể nghe thấy tiếng quát thật lớn của anh ta:
- Doanh thứ nhất và doanh thứ hai đi theo ta!
Quân đội bắt đầu chia làm hai bộ phận. La Sĩ Tín dẫn một nghìn kỵ binh chạy nhanh về phía đông, bọn họ mang theo ba mươi cái thang công thành.
Đội ngũ còn lại tiếp tục chậm rãi mà đi. Lúc còn cách Trường An khoảng ba dặm, hắn liền lờ mờ nghe thấy trên đầu thành truyền đến tiếng chuông chói tai, trong đêm đen tĩnh mịch có thể nghe thấy rõ mồn một. Đây chính là thủ thành quân Đường gõ chuông cảnh báo vì phát hiện quân địch.
Đầu thành Trường An đã rất lộn xộn, năm mươi nghìn tân binh thanh niên trai tráng chen chúc nhau lên thành. Dưới tiếng mắng chửi của quan quân, từng tốp binh lính chạy lên đầu thành còn Kim Ngô Vệ thì nhanh chóng lui vào trong nội thành, tạo thành tuyến phòng ngự thứ hai.
Mặc dù chiêu mộ được năm mươi nghìn tân binh thanh niên trai tráng, hơn nữa còn có không ít người từng là phủ binh của triều Tùy trước đây nhưng đã từng đi lính không có nghĩa là bọn họ có thể nhanh chóng tạo thành sức chiến đấu. Không huấn luyện, binh lính không thể là binh lính chính thức được.Với những binh lính như vậy thì chỉ huy không thể nhanh chóng, mệnh lệnh không thể thực hiện. Trên thực tế,bọn họ không khác là mấy với một đám ô hợp.
Hơn nữa bây giờ còn là ban đêm, binh lính chen chúc nhau chi chít trên tường thành phía tây, bọn họ căng thẳng nắm chặt trường mâu, hàng trước là những người tay cầm cung tiễn, vẻ mặt ai nấy hoảng sợ quan sát động tĩnh bên ngoài thành. Phụ trách chỉ huy nhánh quân Đường này là Hồng Lư Tự Khanh, Quận Vương Vĩnh An – Lý Hiếu Cơ.
Anh ta cưỡi trên một con chiến mã, tay cầm một ngọn giáo, bên người dẫn theo hơn một trăm thân binh. Trên thành lúc này vô cùng hỗn loạn khiến anh ta cực kỳ nôn nóng, càng không ngừng lớn tiếng quát to:
- Không được đứng lộn xộn. Các đại tướng lãnh binh quản thúc binh lính của mình, căn cứ theo khu vực phân chia ban ngày để phòng ngự!
Dù anh ta hô đến khản cả giọng nhưng trong sự ồn ào như vậy thì tiếng gào thét của anh ta chỉ có hơn một nghìn người ở gần đó có thể nghe thấy. Giọng Lý Hiếu Cơ cũng đã khản đặc rồi, nhưng trên tường thành vẫn cứ hỗn loạn như trước, càng khiến anh ta thêm uể oải vô cùng.
Thật ra thì điều này cũng khó trách, việc chỉ huy quân đội trên cả chục nghìn người thế này từ trước đến nay đều phải dùng đến trống trận và cờ lệnh. Những tân binh mới thu thập lúc trời đã tối này, ngoài việc mặc bộ khôi giáp bên ngoài ra thì trên thực tế thì bọn họ căn bản chưa từng trải qua bất kỳ sự huấn luyện nào, ngay cả quân lệnh cơ bản nhất cũng không hiểu chứ đừng nói tới việc đánh trận vào ban đêm. Quân đội như vậy chẳng qua cũng là tự lừa mình dối người mà thôi.
Trong đêm đen, kỵ binh quân Tùy đang chậm rãi đi đến. Dương Nguyên Khánh thấy trên tường thành Tây dài hơn mười dặm là chi chít những binh lính, dưới ánh sáng của những ngọn đuốc chiếu xuống trông có vẻ khá đồ sộ. Hắn bỗng nhiên cười, quay đầu lại, rồi cao giọng ra lệnh:
- Đến thành Nam!
Chín nghìn kỵ bịnh lập tức theo hắn chạy về phía thành Nam, trên thành Tây ngay sau đó là một cảnh hỗn loạn với những tiếng chửi, tiếng nguyền rủa. Mấy chục nghìn quân phòng thủ cũng chạy theo quân Tùy ở dưới về phía thành Nam, cả đám người trong đêm tối chạy loạn khiến Lý Hiếu Cơ căng thẳng đến mức hét to:
- Không được hỗn loạn, tất cả tướng lĩnh phải quản tốt binh lính của mình!
Nhưng sự chỉ huy của anh ta không hề có hiệu quả. Không ai nghe anh sự chỉ huy của anh tacả. Lúc này, một tên lính chạy tới, cao giọng nói:
- Vương gia, Đậu tướng quốc bào ngài khống chế quân đội, không được để hỗn loạn!
Lý Hiếu Cơ tức giận đến mắng to:
- Đám ô hợp này làm sao ta có thể chỉ huy đây? Có bản lĩnh thì bảo ông tađến đây, ta mặc kệ!
Trên tường nội thành Đậu Quỹ nhìn mấy chục nghìn binh lính trên thành ngoài hỗn loạn, không có trật tự gì, ông ta không khỏi thở dài. Đêm này chỉ sợ lành ít dữ nhiều.
Đúng lúc này, quân Tùy vừa mới chạy vội tới thành Nam lại bỗng nhiên quay ngược trở lại thành Tây, trên đầu thành lại càng trở nên đại loạn, mấy chục nghìn binh lính mệt mỏi lại lần nữa chạy về phía thành Tây…Ngay lúc Dương Nguyên Khánh dùng phương thức trêu đùa khiến đám quân thủ thành chạy qua chạy lại như vậy, La Sĩ Tín dẫn một nghìn quân Tùy đã tới thành Đông. Do quân chủ lực của triều Đường gần như đã bị hấp dẫn kéo về thành Tây nên hơn thành Tây dài hơn mười dặm của thành Đông lúc này chỉ còn không tới năm nghìn quân phòng thủ, đứng thưa thớt trên đầu thành, do Thái Thường Tự Khanh – Lý Trọng Văn suất lĩnh.
Dựa theo sự phân công trước đó, bốn mặt Trường An đều có một đại thần có thể dẫn binh đánh giặc phụ trách, ngoại trừ thành Bắc là do Trưởng Tôn Thuận Đức dẫn mười nghìn Vũ Lâm Quân trấn thủ bên ngoài thì thành Nam là do Điện Trung Giam – Đậu Quản trấn giữ, thành là Hồng Lư Tự Khanh – Lý Hiếu Cơ phụ trách, còn coi giữ quân ở thành Đông là do Thái Thường Từ Khanh – Lý Trọng Văn thống lĩnh, tất cả đều được Đậu Quỹ tướng quốc thống nhất chỉ huy.
Do quân Tùy là từ mặt tây mà đến nên trọng tâm phòng ngự tập trung ở thành Tây, còn lại thành Nam và thành Đông mỗi nơi chỉ bố trí năm nghìn người. Vốn ban đầu suy nghĩ nếu quân Tùy chuyển hướng đánh thành Nam hoặc thành Đông thì quân đội có thể nhanh chóng di chuyển đến thanh Nam và thành Đông để đối phó, như vậy vừa có thể tập trung binh lực phòng ngự lại vừa có khả năng linh hoạt, cơ động trợ giúp.
Suy nghĩ này rất đúng, rất chu toàn, nhưng bọn họ lại không ngờ quân Tùy sẽ nửa đêm quay ngược trở lại, càng không ngờ đến việc chỉ huy tân binh lại khó khăn đến vậy.
Cách hai dặm bên ngoài, La Sĩ Tín đang chăm chú nhìn quân trấn thủ trên đầu thành. Trên tường thành dài hơn mười dặm, quân trấn thủ chủ yếu phân bố ở phần phía nam và phần giữa còn phần phía bắc thì quân trấn thủ khá ít, chỉ vẻn vẹn có khoảng mấy trăm người. La Sĩ Tín suy nghĩ giây lát rồi vẫy tay một cái, thiên tướng Đổng Học Minh bước nhanh về phía trước, khom người thi lễ:
- Xin tướng quân chỉ bảo!
- Ngươi mang bảy trăm huynh đệ đến mặt nam đánh nghi binh, đợi ta lên thành từ phía mặt bắc thì ngươi lập tức quay lại chi viện!
- Tuân lệnh!
Đổng Học Minh dẫn bảy trăm người nhanh chóng đi về phía mặt nam, bên cạnh La Sĩ Tín lúc này chỉ còn lại ba trăm người, La Sĩ Tín lại dặn dò hai tên lính:
- Hai ngươi đi thăm dò địa hình dưới thành, đừng để bị phía trên phát hiện.
Hai người đáp lại một tiếng rồi xoay người mượn bóng đêm đen tối đi về phía tường thành, lúc nhanh, lúc chậm, dần dần tới sát bờ sông bảo vệ thành, vượt qua con sông, đứng sát vào tường.
Lúc này, ánh mắt La Sĩ Tín hướng về phía mặt nam, chăm chú quan sát tình hình bên kia. Đột nhiên trên đầu thành truyền đến tiếng chuông dồn dập “reng, reng, reng”, cóngười lớn tiếng quát to, quân trấn thủ đầu thành nhanh chóng chạy về mặt nam, hẳn là Đổng Học Minh ở mặtam đã thu hút sự chú ý của quân trấn thủ trên thành.
La Sĩ Tín nhìn chăm chú đầu thành, đợi cho quân trấn thủ trên thành chạy được khoảng bốn năm dặm, anh ta thấp giọng ra lệnh:
- Theo ta lên!
Ba trăm tên lính đã xoay người xuống ngựa, khiêng theo hai cái thang công thành đi theo La Sĩ Tín, chạy về phía tường thành.
- Tướng quân, ở bên này!
Hai tên lính dưới thành thấp giọng hô lên.
Sông đào bảo vệ thành đã đóng băng rắn chắc, bọn họ xông qua sông đào bảo vệ thành rồi đem thang công thành kê trên tường thành, bỗng nhiên trên đầu thành truyền đến một tiếng hô to:
- Có địch!
Ngay sau đó, tiếng một mũi tên bay “vèo” bắn tới, trúng ngay vai của một tên lính quân Tùy khiến anh ta hét thảm một tiếng, xoay người ngã xuống đất.
La Sĩ Tín giận dữ, cầm một cây đại thiết nhanh chóng leo lên đầu thành, mấy chục tên lính quân Tùy ở phía sau cũng theo anh ta xung phong về phía trước, binh lính đầu thành cũng không phải toàn bộ chạy về mặt nam để phòng ngự mà còn có hơn hai trăm người, vừa rồi là một binh lính tuần tra nhìn thấy bọn họ.
Tiếng la của đám lính gác kinh động đến thủ binh, bọn họ từ bốn phương tám hướng chạy lên, mấy tên lính bắt lấy cái móc sắt trên đầu của thang công thành, ra sức đẩy xuống. Đúng lúc này, La Sĩ Tín đã nhảy lên được đầu thành, hét lớn một tiếng, rồi dùng thiết thương đâm tới, “Phốc! Phốc! Phốc!” ba phát liền đâm xuyên qua cổ họng của ba tên lính.
Mười mấy tên lính từ bốn phía đồng loạt lao lên, hơn mười cây trường mâu cùng lúc đâm về phía La Sĩ Tín. Sát khí của anh ta đột nhiên bùng phát, đại thiết thương quét ngang, hơn mười thanh trường mâu lập tức bị thương của anh ta đánh gãy.
Anh ta rống to một tiếng, vọt vào giữa đám lính địch, đại thiết thương bay lượn lên xuống, dũng mãnh vô biên không gì cản được, chỉ thoáng chốc đã có gần ba mươi người bị anh ta đâm chết, nằm trên mặt đất.
Binh lính quân Đường trên thành ngoại trừ lữ soái và hai gã đội trưởng là lão binh ra, còn lại đều là tân binh, bọn họ chưa từng nhìn thấy một mãnh tướng hung ác và tàn bạo như vậy, trong khoảnh khắc đã giết chết mấy chục người. Ngay cả lữ soái và đội trưởng cũng chết trong tay anh ta, anh ta giống hệt như sát thần giáng lâm khiến bọn họ sợ tới mức hồn siêu phách tán, thét lên một tiếng rồi cả đám quay đầu bỏ chạy.
Lúc này, thủ hạ của La Sĩ Tín nhanh chóng trèo lên thành, chiếm lĩnh khu vực phía trên thành Bắc. Mấy tên lính đốt hỏa tiễn cùng bắn lên bầu trời đêm. Mấy mũi hỏa tiễn xẹt ngang qua bầu trời đêm thâm trầm như những bong hoa lửa trong đêm đen.
Bên ngoài thành Tây, Dương Nguyên Khánh dẫn kỵ binh từ đầu đến cuối vẫn không phát động tấn công, hắn hãm chân mấy chục nghìn quân ở thành Tây, bỗng nhiên có một binh lính chỉ về phía mặt đông hô to:
- Điện hạ mau nhìn kìa, là hỏa tiễn!
Dương Nguyên Khánh cũng nhìn thấy hơn mười hỏa tiễn bay xẹt qua bầu trời đêm, đây là tín hiệu La Sĩ Tín đã thành công. Dương Nguyên Khánh mừng rỡ, hô to một tiếng:
- Đi!
Hắn quay đầu ngựa lại rồi chạy về phía thành Đông, chín nghìn kỵ binh theo hắn hăng hái chạy về phía thành Đông…
Không chỉ có Dương Nguyên Khánh nhìn thấy, Đậu Quỹ ở trên nội thành cũng thấy hỏa tiễn, ông ta cả kinh trợn mắt há hốc mồm. Chẳng lẽ quân Tùy đã giết lên đầu thành hay sao? Ông ta lập tức phản ứng lại, gấp đến độ hô to:
- Lệnh cho quân đội trên thành ngoài nhanh chóng trợ giúp thành Đông!
Trên thành Đông tiếng kêu rung trời, Lý Trọng Văn dẫn mấy nghìn quân đánh về phía ba trăm người của La Sĩ Tín. La Sĩ Tín hét lớn một tiếng rồi tiến lên nghênh chiến, ba trăm binh lính đứng vững dưới sự tấn công của binh lính quân Đường,trên đầu thành là sự chém giết thảm khốc.
Đại thiết thương của La Sĩ Tĩn như bão tố, nơi nào nó đi qua thây ngã khắp nơi, tiếng kêu thảm thiết không dứt. Còn ba trăm binh lính còn lại thì từ hai bên phối hợp tác chiến, một trăm người dùng tấm chắn phòng ngự làn mưa tên phóng ra từ đầu thànhtrong, bay tới, hai trăm người còn lại cùng La Sĩ Tín chiến đấu kịch liệt với quân Đường, đẩy lui binh lính quân Đường về phía sau.
Lúc này, thiên tướng Đổng Học Minh cũng dẫn bảy trăm người chạy tới, bọn họ vác theo hơn mười cái thang công thành, nhanh chóng đặt lên đầu thành, sau đó gia nhập vào vòng chiến.
Với gần một nghìn binh lính quân Tùy gia nhập vòng chiến, quân Đường trên thành Đông đã không thể ngăn cản được nữa. Bọn họ đều là tân binh, rất nhiều trong đó là tiểu nhị, là người làm công ở khu chợ phía tây, đại bộ phận đều chưa từng trải qua sự thảm khốc trên chiến trường. Khi bọn họ thấy thi thể chất đầy đất, đầu người lăn lông lốc dưới chân, thịt nát bay tứ tung thì bọn họ cuối cùng cũng không thể khống chế được nỗi sợ hãi cực độ trong lòng, sĩ khí tan rã.
Mấy ngàn quân trấn thủ quay đầu chạy trốn, có người chạy về phía thành Nam và thành Tây, có người trực tiếp chạy như điên xuống phía dưới thành rồi ven theo hành lang tường thành. La Sĩ Tín đã giết đến tòa thành đã bị đốt cháy một nửa ban ngày, mười mấy tên lính kéo tay quay cửa sắt, tay quay chuyển động, theo đó một tiếng ầm ầm vang lên, cửa Xuân Minh của Trường An lúc này chầm chậm mở ra…
Đặc điểm lớn nhất của tường thành Trường An là có thành trong và thành ngoài, ở giữa hai thành là một hành lang rộng chừng năm trượng. Việc xây dựng hai tường thành song song vốn không phải là để phòng ngự, mà là để cho đế vương xuất hành được dễ dàng. Ví như Đường Huyền Tông – Lý Long Cơ mang theo Dương quý phi đi hồ Khúc Giang du ngoạn thì đường đi chính là hành lang kẹp giữa hai bức tường này.
Thành trong và ngoài của thành Trường an không hề thiên về phòng ngự giống như thành Đại Lợi ở Phong Châu . Giữa thành trong và thành ngoài của Đại Lợi là dùng đường núi hiểm trở trên thành đá để liên hệ, một khi thành ngoài bị công phá thì lập tức thiêu hủy đường núi, trong ngoài sẽ hoàn toàn bị ngăn cách, không có nhược điểm gì.
Còn ở giữa thành trong và thành ngoài thành Trường An lại không có đường núi hiểm trở như thế, nhất định phải đi qua cổng thành, cho nên nếu như lợi dụng hành lang để phòng ngự thì quả là không thực tế chút nào. Một khi thành ngoài bị phá thì việc phá thành trong tương đối mà nói sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Chương 947 : Công phá thành Trường An
Chỉ cần chiếm được thành ngoài liền có thể trực tiếp dùng chùy công thành để phá cửa xông vào trong thành, cũng có thể dùng cung tên từ bên trên thành ngoài bắn phá quân trấn thủ trong thành nhằm yểm trợ binh lính dùng thang công thành trèo lên tường thành, thậm chí còn có thể dùng thang dài trực tiếp bắc qua giữa hai bức tường thành, có rất nhiều phương pháp để công thành.
Nhưng nguy cơ của thành trong đêm nay lại là một tình huống không thể tưởng tượng được. Đậu Quỹ chưa từng hận chính bản thân mình nhiều như tối nay. Ban ngày ông ta chiêu mộ binh lính, chỉ hận không thể chiêu mộ tất cả thanh niên trai tráng trong thành Trường An này. Nhưng vào lúc này, năm mươi nghìn tân binh hỗn loạn lại khiến cho ông ta lâm vào cảnh khốn cùng.
Thông tin thành ngoài thất thủ khiến quân trấn thủ trong thành khủng hoảng, lòng quân sụp đổ, mấy chục nghìnquân Đường tranh nhau chạy trốn xuống thành, bọn họ lao như điên tới cửa Minh Đức khiến cho cửa Minh Đức trong đêm tối chật ních người chen chúc nhau vào thành. Bọn họ chen lấn xô đẩy khiến tốc độ vào thành chậm như rùa, tiếng chửi rủa, tiếng la khóc, tiếng cầu khẩn càng khiến cho cửa thành hỗn loạn.
Đậu Quỹ đứng trên đầu thành bên trong quát lớn ra lệnh:
- Đóng cửa thành! Mau đóng cửa thành!
Cửa thành đã mấy lần muốn đóng lại nhưng đã bị mấy chục nghìn binh lính gắt gao cản trở, căn bản không thể đóng lại được. Lòng Đậu Quỹ nóng như có lửa đốt, ra lệnh cho binh lính Kim Ngô Vệ tiến lên xua đuổi. Lúc này, ông ta đã có thể lờ mờ nhìn thấy quân Tùy từ thành Đông đuổi tới, nghe thấy tiếng vó ngựa lao nhanh từ phía tây, như sấm rền đang nổ vang ngoài thành.
Đậu Quỹ căng thẳng đến mức độ giậm chân. Không đóng được cửa thành, sắp xảy ra chuyện lớn rồi. Đúng lúc này, bỗng nhiên tường thành phía đối diện xuất hiện một nhóm lớn binh lính quân Tùy. Đây chính là mấy trăm quân Tùy dùng thang công thành leo lên, lúc này đã không còn bất cứ tường ngoài thành phòng ngự gì nữa.
Hai mắt Đậu Quỹ bỗng dưng mở trừng lên, ông ta nghĩ tới một tình huống vô cùng đáng sợ. Quả nhiên, mấy trăm quân Tùy vọt vào tòa thành, chỉ nghe tiếng cầu treo ngoài thành ầm ầm được thả xuống, Đậu Quỹ lui về phía sau hai bước, ông ta bị sợ đên ngây cả người ra.
Lúc này, có mấy chục binh lính Kim Ngô Vệ vội vã chạy đến, viên Giáo Úy cầm đầu vội la lên:
- Tướng quốc đi mau, thành sắp bị phá rồi!
Đậu Quỹ ngơ ngác đứng như trời trồng ở đó, ông ta bất độngcứ như làkhông nghe thấy gì hết, giống như linh hồn của ông ta đã bay đi vậy. Ông ta có nằm mơ cũng không ngờ thành Trường An lại bị dễ dàng công phá đến vậy. Đây là trách nhiệm của ông ta, ông ta là tội nhân thiên cổ của Đại Đường.
Đậu Quỹ bỗng nhiên rút kiếm ra, quét mạnh lên cổ, viên Giáo Úy mau tay nhanh mắt liền một phát bắt được cánh tay Đậu Quỹ, sau đó đoạt kiếm trong tay ông ta. Giáo Úy cũng bất chấp Đậu Quỹ có chấp nhận hay không liền cõng ông ta lên lưng rồi chạy xuống dưới thành.
Lúc này, ngoài cửa Minh Đức, cửa thành chậm rãi mở ra, Dương Nguyên Khánh suất lĩnh kỵ binh quân Tùy tiến vào. Binh lính quân Đường như ong vỡ tổ, sợ hãi la hét, người ngã ngựa đổ, chạy như điên ra hai bên hành lang.
Kỵ binh quân Tùy như một mũi dao sắc bén, trong nháy mắt xông vào cửa thành, những binh lính quân Đường không kịp chạy trốn đều bị quân Tùy chém chết nằm trên mặt đất, chiến mã xông vào cửa thành chật chội lập tức hí vang lên những tiếng thê lương, thảm thiết…
Khi quân Tùy tấn công trên đầu thành thành ngoài thì Kim Ngô Vệ phòng ngự thành trong liền đã bắt đầu rút lui. Bọn lính nhanh chóng chạy về phía Cung thành. Chỉ sau mười lăm phút, thiết kỵ của quân Tùy đã đạp trên thi thể binh lính quân Đường, vọt vào cửa Minh Đức, thành Trường An đã bị công phá.
Mười nghìn kỵ binh quân Tùy giết thẳng vào Trường An, tiếng vó ngựa như sấm rền vang vọng trên đường Chu Tước, kỵ binh quân Tùy xếp thành hàng chia ra hai bên. Dưới sự vây quanh của mấy trăm kỵ binh, Dương Nguyên Khánh thúc chiến mã đi vào nơi mà từ thời Tần Hán tới nay được xem như cố đô của trung tâm chính trị.
Hắn lạnh lùng đánh giá cửa Chu Tước ở phía xa một lúc. Lúc này, Trình Giảo Kim tiến lên khom người nói:
- Xin điện hạ ra chỉ thị, có tấn công cửa Chu Tước hay không?
Dương Nguyên Khánh lắc lắc đầu:
- Không cần gấp, trước hết hãy tiêu hủy tất cả các phường môn nhưng quân đội không được nhũng nhiễu dân chúng, kẻ nào tự ý vào nhà dân lập tức xử chém!
Sau khi hạ lệnh, mười nghìn kỵ binh phân công nhau hành động. Rất nhanh, khắp nơi trong thành Trường An đã bốc lên những ngọn lửa lớn, chỉ nghe thấy tiếng vó ngựa vội vã khắp đường lớn ngõ nhỏ. Thông tin quân Tùy đã giết vào thành loan truyền khắp thành. Tất cả mọi người đều vô cùng sợ hãi, trốn vào trong nhà không dám ra khỏi cửa.
Người thì dập dầu trước bài vị tổ tiên, khẩn cầu tổ tiên phù hộ, người thì khẩn cầu bồ tát phù hộ. Quan viên lớn nhỏ của triều Đường không kịp chạy đến Hoàng thành thì ai nấy đều nhanh chóng thay quần áo rồi trốn vào trong hầm ngầm gia đình, ai nấy đều lo sợ bất an, trong lòng sợ hãi tột độ.
Bất kể là quan viên hay là dân chúng bình thường, trong lòng ai ai cũng đều không yên, tự hỏi không biết sẽ có bao nhiêu bi thảm giáng xuống đầu bọn họ. Toàn bộ thành Trường An đều bị bao phủ trong bóng đen của cái chết và sự sợ hãi…Quân Tùy công phá ven thành ngoài, ngoài ra thì Hoàng thành và Cung thành vẫn chưa bị phá. Tường thành của Hoàng thành cao chừng bốn trượng, lại rất chắc chắn, dễ thủ khó công, chu vi khoảng chừng mười hai dặm. Lúc này, ở trên đầu thành xuất hiện mười nghìn bảy trăm Kim Ngô Vệ và Vũ Lâm Quân, chứng kiến thành Trường An bị công phá, trong lòng ai nấy đều vô cùng nặng nề, nhìn chăm chú vào ngọn lửa đang bùng cháy dữ dội bên trong thành. Rất nhiều người trong lòng tràn ngập lo lắng, không biết người nhà của bọn họ hiện tại vận mệnh ra sao?
Cửa lớn mà đường Chu Tước đối diện với Hoàng thành chính là cửa Chu Tước. Lúc này, trên đầu thành cửa Chu Tước có hơn một nghìn thị vệ đang đứng vây quanh Hoàng đế Đại Đường – Lý Uyên. Lý Uyên được mấy tên hoạn quan dìu đỡ, sắc mặt trắng bệch, thành Trường An bị Dương Nguyên Khánh công phá khiến trong lòng ông ta vô cùng sợ hãi. Ở phía sau ông ta là hơn một trăm trọng thần, bọn họ từ giữa trưa đã trốn vào trong Hoàng thành.
Lý Uyên thậm chí còn muốn chạy trốn ra khỏi Trường An, nhưng ông ta lại sợ bị quân Tùy đuổi theo. Giọng ông ta run rẩy hỏi thị vệ bên cạnh:
- Thư cầu cứu gửi cho Thái tử và Tần Vương đã gửi chưa?
- Khởi bẩm bệ hạ, thư đã được gửi đi rồi. Theo ý chỉ của bệ hạ đã liên tiếp phát ra mười hai thánh chỉ gấp, chậm nhất là ngày kia, Thái tử sẽ quay trở lại kinh thành.
Lý Uyên thở dài:
- Trẫm có thể sống hết đêm nay hay không vẫn còn là vấn đề.
Vừa dứt lời, xa xa bỗng nhiên truyền đến tiếng vó ngựa kịch liệt, dường như thiên quân vạn mã đang chạy tới cửa Chu Tước. Tim của tất cả binh lính trên đầu thành đều như muốn ngừng đập, trong lòng Lý Uyên lại càng hoảng sợ vô cùng. lui lại phía sau một bước, gần như té ngã trên mặt đất, mấy tên hoạn quan vội vàng đỡ lấy ông ta.
- Bệ hạ cẩn thận!
Lúc này, tiếng vó ngựa đột nhiên biến mất nhưng tất cả mọi người đều có thể thấy rõ ràng, ở phía xa cách đó khoảng chừng hơn một dặm, trên đường lớn Chu Tước rộng một trăm năm mươi bước chân, binh lính quân Tùy đã đứng dày đặc, bọn họ tay cầm đuốc chiếu đường lớn Chu Tước sáng như ban ngày.
Một gã quan quân cưỡi ngựa hấp tấp chạy tới, khi tới cửa lớn Chu Tước liền ngửa đầu lên hô to:
- Hoàng đế Đại Đường có đây không?
Lý Uyên không hé răng, đánh mắt về phía Bùi Tịch, Bùi Tịch hiểu ý, tiến lên thò người ra bên ngoài lỗ châu mai, cao giọng hỏi:
- Các ngươi có chuyện gì?
- Ta phụng mệnh của Sở Vương điện hạ đưa thư tới!
Nói xong, tên này giương cung lắp tên, bắn một mũi tên có gắn thư về phía đầu thành. Bùi Tịch sợ tới mức thụt đầu vào, mũi tên sượt qua đỉnh đầu ông ta vừa lúc dừng ngay dưới chân Lý Uyên. Lý Uyên kinh ngạc nhìn phong thư, cứ như phong thư này chính là thư đòi mạng của ông ta vậy.
Một tên hoạn quan nhặt phong thư lên, hai tay dâng lên cho Lý Uyên, Lý Uyên tiếp nhận lá thư rồi dùng ánh sáng dịu nhẹ phát ra từ đèn lồ để đọc. Là thư do Dương Nguyên Khánh tự tay viết, Lý Uyên có thể nhận ra điều này.
“Đại Tùy Thượng Thư Lệnh, Sở Vương Dương Nguyên Khánh gửi hoàng đế bệ hạ của Tây Đường quốc.”
Trong lòng Lý Uyên âm thầm tức giận, Dương Nguyên Khánh lại đem triều Đường gọi là Tây Đường quốc. Nếu là lúc bình thường, ông ta chắc chắn sẽ xé nát lá thư này thành từng mảnh nhưng lúc này ông ta lại không thể làm như vậy. Dù sao quân Tùy đang uy hiếp nghiêm trọng đến tính mạng của ông ta.
Ông ta chỉ đành thở dài, bất đắc dĩ mở xem, trong thư, Dương Nguyên Khánh đưa ra cho ông ta ba điều kiện để lui binh. Thứ nhất là quân Đường rút lui khỏi quận Linh Võ, thứ hai là quân Đường lập tức từ Lạc Dương rút quân về Quan Trung, nhưng điều kiện thứ ba lại làm cho Lý Uyên khá sửng sốt, Dương Nguyên Khánh lại muốn cầu triều Đường phục chức cho huyện lệnh Hàm Dương – Vi Nghĩa Tiết.
Một huyện lệnh nho nhỏ không ngờ lại trở thành điều kiện lui binh của quân Tùy, chẳng lẽ là… Lý Uyên chợt nhớ tới những cái thang công thành mà quân Tùy tự nhiên có được.
Nhưng lúc này, Lý Uyên không rảnh để suy nghĩ kỹ, ông ta tiếp tục đọc tiếp. Phía dưới chính là uy hiếp, nếu Tây Đường quốc không đáp ứng điều kiện của hắn thì đêm nay hắn sẽ hỏa thiêu thành Trường An, san Hoàng thành Trường An và Cung thành thành bình địa.
Chương 948 : Quan nội hư không
Lý Uyên thở dài, đưa lá thưcho Tiêu Vũ.
- Năm vị tướng quốc xem qua một lượt đi!
Tiêu Vũ nhận lấy lá thư, vội vàng nhìn qua một lần, rồi lại đưa cho Bùi Tịch, mấy người khác cũng vây lấy xung quanh.
- Tiêu ái khanh, ngươi nghĩ thế nào?
Lý Uyên mệt mỏi hỏi.
Tiêu Vũ sau một lúc trầm tư liền nói:
- Theo thần nghĩ thì nếu Dương Nguyên Khánh đã chủ động đề xuất điều kiện rút quân, hơn nữa điều kiện này cũng không quá hà khắc thì chắc là hắn cũng không nắm chắc có thể đánh hạ Hoàng thành. Dù sao thì binh lực của hắn cũng không đủ, về phần hỏa thiêu Trường An thì thần cho rằng hắn chỉ đe dọa mà thôi, hắn thật sự cũng không dám làm như thế.
- Trẫm đang hỏi ngươi là có phải đáp ứng điều kiện của hắn hay không?
Lý Uyên có chút bực bội hỏi lại.
- Điều này…thần không dám trả lời.
Tiêu Vũ cúi đầu, lúc này ông ta không dám tỏ thái độ, ông ta thật sự không đảm đương nổi trách nhiệm này.
- Vậy Bùi ái khanh, ngươi có gì để nói không?
Lý Uyên trừng mắt nhìn Tiêu Vũ, ánh mắt lại chuyển qua Bùi Tịch.
Bùi Tịch đảo mắt nói:
- Ý của vi thần giống của Tiêu tướng quốc. Thần cũng cho rằng Dương Nguyên Khánh không nắm chắc sẽ đánh hạ được Hoàng thành, hắn muốn rời khỏi Trường An một cách có thể diện.
Bùi Tịch cũng lươn lẹo, không chịu tỏ rõ thái độ cụ thể. Trong lòng Lý Uyên vô cùng thất vọng. Vào thời khắc quan trọng như thế này, không ngờ cả đám đều không thể thay mình chia sẻ nỗi lo. Lúc này, Độc Cô Chấn vẫn luôn trầm mặc bỗng trầm giọng nói:
- Bệ hạ, thần cho rằng có thể chấp nhận điều kiện của Dương Nguyên Khánh.
Tinh thần Lý Uyên chấn động. Độc Cô Chấn là đại biểu cho quý tộc Quan Lũng, ông ta tỏ ý chấp nhận điều kiện, vậy nghĩa là quý tộc Quan Lũng cũng ủng hộ việc rút quân khỏi Lạc Dương. Ánh mắt Lý Uyên lại nhìn về phía Đậu Quỹ, Đậu Quỹ cũng chầm chậmgật đầu. Ông ta và Độc Cô Chấn giống nhau, trước hết là phải bảo vệ lợi ích của quý tộc Quan Lũng. N, ếu Dương Nguyên Khánh đại khai sát giới giống như ở Quan Trung thì quý tộc Quan Lũng chính là những kẻ đứng mũi chịu sào.
Có hai quý tộc tai to mặt lớn của Quan Lũng ủng hộ, Lý Uyên cuối cùng cũng hạ quyết tâm, ông ta liền đi lên đầu thành, cao giọng nói với quan quân báo tin:
- Trẫm chính là hoàng đế Đại Đường, mời chuyển cáo cho Sở Vương điện hạ, trẫm chấp nhận điều kiện!
- Điện hạ của ta hy vọng bệ hạ dùng văn bản để trả lời!
Lý Uyên không biết làm sao, đành phải lấy bút rồi viết qua loa hai chữ “Chấp nhận” lên lá thư của Dương Nguyên Khánh, lại tiếp tục ghi tên mình lên thẻ tre.
Sau đó liền giao thư cho thị vệ dùng tên bắn lá thư xuống dưới. Quan quân nhặt lá thư lên, chạy trở về đội ngũ quân Tùy, dâng lên cho Dương Nguyên Khánh.
- Điện hạ, hoàng đế Đại Đường nói rằng sẽ chấp nhận điều kiện của điện hạ!
Dương Nguyên Khánh nhận lấy lá thư nhìn qua, khẽ mỉm cười, rồi lập tức quay lại ra lệnh:
- Truyền lệnh rút quân!
Kỵ binh quân Tùy nhanh chóng rút khỏi thành Trường An, giống như gió cuốn chớp giật, lao nhanh về phía đông, rất nhanh đã biến mất trong bóng đêm.
Một lúc lâu sau, đại tướng thủ hạ của Lý Kiến Thành là Đoàn Đức Thao dẫn hai mươi nghìn quân Đường hăng hái chạy tới thành Trường An…
Đoàn Đức Thao là tổng quản của Kính Châu thuộc Đại Đường. Y có thể kịp thời suất quân trở về là nhờ sự cẩn thận của Thái Tử Lý Kiến Thành. Lý Kiến Thành nhận thấy dẫn đi đại quân một trăm nghìn người, có thể khiến Trường An trở nên hư không. Nên sau khi y đánh hạ được quận Diện An, liền lập tức ra lệnh cho Đoàn Đức Thao dẫn theo hai mươi nghìn kỵ binh quay về trú binh ở huyện Tân Bình.
Như vậy vừa có thể ở phía bắc tấn công quận Hoằng Hóa, đồng thời cũng có thể hồi viện Quan Trung. Sự thật đã chứng minh, việc đề phòng của Lý Kiến Thành là không phải dư thừa. Sau khi nhận được mệnh lệnh khẩn cấp từ Lý Kiến Thành, Đoàn Đức Thao chỉ dùng thời gian hơn một ngày đã chạy về tới Trường An. Nhưng y vẫn chậm một bước. Quân Tùy đã công phá xong thành Trường An.
Quân Tùy đã bỏ chạy. Quân Đường một lần nữa khống chế thành Trường An. Cửa thành đóng lại, các tân binh chạy tứ tán dần dần tập hợp. Lửa lớn ở các cửa phường đều đã được dập tắt. Nhiều đội binh lính đi đến các phường trấn an dân chúng, thông báo cho dân chúng rằng quân Tùy đã bỏ chạy. Không khí khủng bố trong thành Trường An dần dần mới bị tán đi.
Một ít cư dân can đảm bắt đầu đi hỏi thăm tình huống. Các nhóm quan viên cũng thay quan phục, đi đến Hoàng thành. Phát sinh ra sự tình lớn như vậy, chắc hẳn triều đình đã có công đạo.
Trải qua một ngày hai đêm kinh hãi, Hoàng đế Đại Đường Lý Uyên rốt cuộc không kiên trì được, liền ngã bệnh. Y đang nằm ở trong điện Dưỡng Tâm chữa trị. Có mấy chục người thái ý liên tục xuất nhập, bận rộn xem bệnh cho Lý Uyên.
Mấy chục người trọng thần đều đứng ở trên quảng trường, túm năm tụm ba, thấp giọng xì xào bàn tán, thảo luận bệnh tình của Hoàng đệ, thảo luận lần đánh lén Quan Trung này của Dương Nguyên Khánh.
Lúc này, Y chính Triệu Văn Đức bước nhanh từ trong điện đi ra, đề cao thanh âm nói:
- Thánh Thượng hỏi, Đoàn tổng quản có ở đây không?
- Đã phái người đi tìm, rất nhanh sẽ tới.
Có người trả lời.
Triệu Văn Đức xoay người vừa muốn đi vào, Tiêu Vũ đã bước nhanh tới kéo tay áo của ý nói:
- Triệu Y chính chờ một chút!
Vài vị tướng quốc đều vây quanh Triệu Văn Đức, lo lắng hỏi:
- Tình hình của Thánh Thượng như thế nào rồi? Có nghiêm trọng không?
Triệu Văn Đức thở dài nói:
- Là do Thánh Thượng quá mệt mỏi, ban đêm gặp lạnh, hơn nữa vì bị kích thích, ảnh hưởng tới tâm tình cho nên mới ngã bệnh. Thân thể tuy không ảnh hưởng, nhưng tâm tình lại bị ảnh hưởng.
Ngừng một chút, Triệu Văn Đức hạ giọng nói:
- Các vị tướng quốc, chỉ sợ Hoàng hậu khó qua khỏi.
Mọi người cả kinh, vội vàng truy vấn:
- Không phải đã nói, có thể kiên trì tới nửa năm, một năm sao?
Triệu Văn Đức lắc đầu:
- Lúc đầu là có thể kiên trì được nửa năm. Nhưng hoàng cung lần này gặp phải đại loạn, cung nữ mang Hoàng hậu đi trốn. Hoàng hậu bị kinh hãi, hai ngày nay đã không có tỉnh lại. Mọi người phải chuẩn bị tâm lý trước đi.
Tất cả mọi người đã trầm mặc. Thánh Thượng bị bệnh, Hoàng hậu có thể qua đời. Vận mệnh của Đại Đường đang trong thời khắc bấp bênh, đến bao giờ mới có thể cân bằng lại? Trong lòng mọi người đều tràn đầy sự sầu lo.
Lúc này, tổng quản Kinh Châu Đoàn Đức Thao vội vàng đi tới. Đoàn Đức Thao là người Lũng Hữu, là hậu duệ của quý tộc Quan Lũng, tuổi chừng ba mươi sáu, dáng người khôi ngô, võ nghệ cao cường. Do y thông thạo binh thư, nên gần đây được Thái Tử để ý tới. Trong cuộc tấn công nước Tây Tần, y có tham gia chiến đấu. Y suất lĩnh năm nghìn quân đánh bại ba mươi nghìn quân đội Thổ Dục Hồn tới trợ giúp nên được phong là Trụ Quốc, đảm nhiệm Thái Thú quận Tây Hải. Có thể nói, đây là một người văn võ song toàn.
Nhưng bởi vì khi ở Hà Tây, y có đắc tội với Lý Thần Thông, nên bị chèn ép, không được trọng dụng. Cuối cùng là được Tiêu Vũ đề cử cho Thái Tử Lý Kiến Thành. Lý Kiến Thành đang cầu hiền như khát, thấy Đoàn Đức Thao một là nhân tài khó được liền cầu tình Lý Uyên, điều Đoàn Đức Thao về làm tổng quản Kinh Châu. Lần này Lý Kiến Thành điều binh, Đoàn Đức Thao được phân phối làm đại tướng tiên phong.
Cũng nhờ Đoàn Đức Thao kịp thời suất quân trở về, mới khiến vương triều Đường thoát khỏi một nỗi nhục nhã. Ở thời khắc mấu chốt, Đoàn Đức Thao đã lập được một công lớn.
Triệu Văn Đức thấy người ày là Đoàn Đức Thao, vội vàng nói:
- Đoàn tướng quân, Thánh Thượng muốn gặp ngài. Xin mời đi theo ta.
Đoàn Đức Thao gật đầu, đi theo Triệu Văn Đức vào điện Dưỡng Tâm
Trong phòng bệnh, Lý Uyên sắc mặt tái nhợt, cực kỳ suy yếu nằm trên giường. Y đang hướng Phòng Đức Di căn dặn vài câu:
- Về việc Hàm Dương Lệnh Vi Nghĩa Tiết, ngươi an bài người đi Hàm Dương xem. Phải điều tra tỉ mỉ xem Dương Nguyên Khánh ở Hàm Dương đã làm cái gì? Vi Nghĩa Tiết đã làm cái gì? Điều tra xong thì trở về báo cáo cho trẫm.
Lý Uyên hơi hoài nghi gia tộc họ Vi đã âm thầm giao dịch với Dương Nguyên Khánh. Nếu không Dương Nguyên Khánh sẽ không lôi việc của Vi Nghĩa Tiết mà nói ra. Y nhớ rõ, mấy năm trước, lần đầu tiên tổ chức khoa cử ở Phong Châu, Vi gia có hai người hậu bối trúng cử. Lần này Dương Nguyên Khánh dám lớn mật tự mình mang binh nhập Quan Trung như vậy, là do ai cung cấp tin tức cho hắn? Khả năng rất lớn là Vi gia.
Kỳ thực, Lý Uyên là một người cố chấp. Dương Nguyên Khánh đem việc của Vi Nghĩa Tiết là một trong những điều kiện. Người thông minh có thể nhìn ra, Dương Nguyên Khánh đang có ý châm ngòi ly gián mối quan hệ giữa Vi gia và triều Đường.
Lý Uyên cũng hiểu được điều này. Nhưng y vẫn cố chấp cho rằng, Vi gia và Dương Nguyên Khánh chắc hẳn có chuyện gì không nói ra được. Nếu không, vì sao Dương Nguyên Khánh không nói tới Độc Cô gia, không nói tới Đậu gia mà cứ nhất thiết phải là Vi gia.
Bất kể thế nào, trong lòng y cũng cực kỳ căm tức Vi Nghĩa Tiết. Y cảm giác Vi Nghĩa Tiết đang hợp tác với Dương Nguyên Khánh, dùng việc quan phục nguyên chức để nhục nhã y. Hừ! Tưởng có thể đảm nhiệm lại chức Lễ Bộ Thị Lang sao?
Phong Đức Di sở dĩ được Lý Uyên tín nhiệm như vậy, bởi vì y rất hiểu rõ tính cách của Lý Uyên. Năm đó y là tâm phúc của Ngu Thế Cơ, nên học được thuật đọc tâm của Ngu Thế Cơ. Giờ y vận dụng những điều đã học trên người Lý Uyên, cũng coi như là thuận buồm xuôi gió.
Chương 949 : Cơ hội của Kiến Thành
Phong Đức Di biết trong lòng Lý Uyên kỳ thật rất hối hận. Hối hận không nên đáp ứng những điều kiện của Dương Nguyên Khánh. Nếu Lý Uyên sớm biết viện quan sẽ đến, y đã cứng rắn, mạnh mẽ một chút cũng đã không bị Dương Nguyên Khánh nhục nhã, còn bị bức bách phải đáp ứng những điều kiện mà y không muốn.
Nhưng Lý Uyên là Hoàng đế, miệng vàng lời ngọc, làm sao có thể đổi ý được. Trong lòng y thẹn quá hóa giận, muốn mượn Vi Nghĩa Tiết để trút giận. Những suy nghĩ này của Lý Uyên, Phong Đức Di đã đoán ra được.
Phong Đức Di quay tròng mắt, thấp giọng nói:
- Bệ hạ, về ba điều kiện kia, bệ hạ cũng có thể biến báo, tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu. Chẳng hạn như việc phục chức cho Vi Nghĩa Tiết, bệ hạ có thể cho y làm lại Lễ Bộ Thị Lang. Hai ngày sau thì tra lại vấn đề của y ở Hàm Dương rồi lại miễn chức y, thậm chí có thể hỏi tội. Còn điều kiện rút khỏi Lạc Dương, thì có thể rút khỏi sau đó thì chiếm lại hoặc là lưu lại một tòa thành trống không, đem toàn bộ người và vật trở về Quan Trung. Đây đều là những thủ đoạn có thể dùng tới.
Lý Uyên nhắm hai mắt lại, sau một lúc lâu mới chậm rãi nói:
- Ngươi đi an bài đi! Điều tra cẩn thận vào.
- Vi thần minh bạch, vi thần xin cáo lui.
Phong Đức Di khom người thi lễ, chậm rãi lui xuống. Lý Uyên lại nhắm lại hai mắt. Những đề nghị của Phong Đức Di đã nói tới tâm khảm của y.
Lúc này, một gã hoạn quan đứng ở ngoài cửa bẩm báo:
- Bệ hạ, tướng quân Đoàn Đức Thao đã tới.
- Tuyên y vào yết kiến!
Một lát sau, Đoàn Đức Thao vội vàng đi vào ngự thư phòng. Y thi lễ thật sâu nói:
- Thần Đoàn Đức Thao tham kiến bệ hạ. Chúc bệ hạ mau chóng được khỏe mạnh.
Lý Uyên khe khẽ thở dài nói:
- Nếu mỗi vị đại thần đều giống như ái khánh, thay trẫm giải ưu thì trẫm sẽ không sinh bệnh như vậy. Lần này thành Trường An bị phá, là một bài học. Khiến trẫm thấy được rất nhiều trung thần, cũng nhìn thấy ra rất nhiều những đại thần không trung tâm.
Trong lòng Đoàn Đức Thao cảm thấy sợ hãi. Thánh Thượng nói những câu này với y, cũng không phải là chuyện tốt gì. Y vội vàng khom người nói:
- Thần phụng mệnh Thái Tử, đi cả ngày lẫn đêm, trở về cứu giá. Đáng tiếc không thể ngăn cản được quân Tùy phá thành. Trong lòng thần cảm thấy rất thẹn với bệ hạ.
- Ngươi đã làm rất tốt. Ít nhất, vì ái khanh, mà Dương Nguyên Khánh không dám tấn công Hoàng thành lần nữa. Điều đó đã bảo vệ tính mạng của trẫm. Ngươi đã lập được công lớn cứu giá. Cho nên trẫm nhất định sẽ phong thưởng cho ái khanh.
Thanh âm của Lý Uyên rất yếu. Nhưng người nghe có thể cảm nhận được y đã thừa nhận Đoàn Đức Thao. Mặc dù y có chút hối hận vì đáp ứng điều kiện của Dương Nguyên Khánh nhưng trong lòng y vẫn rất cảm kích Đoàn Đức Thao đến đúng lúc khiến y thoát khỏi nỗi sỉ nhục bị bắt.
- Thần thà rằng không có ban thưởng, chỉ mong long thể của bệ hạ được bình phục.
- Đa tạ sự quan tâm của ái khanh. Trẫm gia phong ngươi làm Tả Đồn Vệ Đại tướng quân phong tước làm Quận công Lũng Tây. Tiền thưởng mười nghìn lượng, ban thưởng một tòa nhà sang trọng ở Trường An, ruột tốt là năm mươi mẫu.
Đoàn Đức Thao có chút ngây người. Trong trí nhớ của y, hình như còn chưa có một vị đại thần nào được ban thưởng hậu hĩnh như vậy. Y liền quỳ xuống, dập đầu thật mạnh, lạy ba cái rưng rưng nói:
- Thần nguyện vì bệ hạ tan xương nát thịt, không hề hối hận.
Lý Uyên cười cười, lại nói:
- Lần này chiêu mộ năm mươi nghìn tân binh tuy không có tác dụng gì nhưng nếu có thể huấn luyện tốt, thì về sau sẽ lập nhiều công tích cho trẫm. Năm mươi nghìn lính mới này, trẫm hoàn toàn giao hết cho ngươi huấn luyện. Mong rằng ngươi không để cho trẫm thất vọng.
- Thần tuân chỉ!
Trong lòng Đoàn Đức Thao minh bạch. Đây là quyền lực mà Thánh Thượng muốn ban cho Thái Tử. Giao cho mình huấn luyện năm mươi nghìn tân bình, không khác gì đem năm mươi nghìn tân binh này cho Thái Tử chi phối.
Đúng lúc này, bên ngoài truyền tới tiếng rối loạn rất nhỏ. Ngay sau đó có tiếng người khóc vang lên. Lý Uyên ngẩn ra, hỏi hoạn quan bên người:
- Đi xem đã xảy ra chuyện gì?
Hoạn quan chạy vội đi ra ngoài. Một lát sau, hoạn quan tràn đầy nước mắt trên mặt đi vào không kìm nổi cảm xúc, quỳ xuống mặt đất khóc lớn.
Lý Uyên nóng nảy, giãy dụa muốn đứng lên, nhưng lại không thể đứng dậy nổi, chỉ phải ở trên giường mắng:
- Ngươi nói mau, rốt cuộc xảy ra chuyện gì?
- Bệ hạ…Hoàng hậu… Hoàng hậu…đã hoăng rồi! (Thời xưa nếu chư hầu hoặc quan to chết đều gọi là hoăng)
Lý Uyên chỉ cảm thấy trước mắt tối sầm. Y quát to một tiếng, rồi ngất đi…
Trong đêm đen, gió lạnh thấu xương, Dương Nguyên Khánh chính đang suất lĩnh mười ngàn kỵ binh hăng hái chạy về hướng bắc. Hai mươi nghìn kỵ binh của Đường kịp thời chạy về đã hơi nằm ngoài dự liệu của hắn. Dương Nguyên Khánh đã tính toán, nhanh nhất cũng phải đến trưa mai.
Hắn biết Kính Dương có một đội quân Đường. Chỉ có điều, Dương Nguyên Khánh thật không ngờ tới, đội quân đó lại tới nhanh hơn dự kiến bốn canh giờ. Đủ thấy năng lực của chủ tướng này là rất mạnh.
Tuy nhiên, kế hoạch của hắn vẫn được áp dụng. Vốn Dương Nguyên Khánh còn chuẩn bị đánh tới nhà kho Quảng Thông nhưng hiện tại hắn đã không còn thời gian. Hắn nhất định phải ngay lập tức tiến tới quận Hội Ninh.
Dương Nguyên Khánh biết, đội quân này chỉ là đội tiên phong. Phía sau hẳn có có đại quân do Lý Kiến Thành suất lĩnh. Ít nhất phải có ba mươi nghìn người. Nhưng chỉ cần Lý Kiến Thành suất lĩnh đại quân trở về Quang Trung thì Quan Nội lại trở nên hư không.
Kỵ binh lợi dụng ban đêm tối om đã qua cầu Trung Vị, chạy gấp tới Thiển Thủy Nguyên. Nơi đó là quận Bắc Địa. Đi thêm về hướng tây bắc là quận An Định. Qua quận An Định và quận Bình Lương, là tới quận Hội Ninh.
Trong bóng đêm, chỉ nghe thấy người hô to:
- Điện hạ ở nơi nào? Có tin tức từ thám báo truyền tới.
Dương Nguyên Khánh ghìm chặt chiến mã. Một lát sau, có một thân binh dẫn theo một người thám báo đi nhanh tới. Thám báo khom người nói:
- Khởi bẩm điện hạ, có tình báo chuẩn xác từ quân Đường ở Hội Ninh.
- Nói đi!
- Ở quận Hội Ninh có đóng quân hai mươi nghìn người, do đại tướng Thịnh Ngạn Sư thống soái…
Tình báo này khiến Dương Nguyên Khánh hơi sững sờ. Hắn nhớ rõ lúc trước sát nhập Quan Trung cũng đã từng điều tra binh lực tại quận Hội Ninh. Lúc đó binh lực ở quận Hội Ninh chỉ có mười nghìn người. Tại sao hiện giờ đã tăng lên hai mươi nghìn người rồi?
- Tình báo có chính xác không?
Dương Nguyên Khánh trầm giọng hỏi.
- Hồi bẩm điện hạ, tình báo là hoàn toàn chính xác. Thuộc hạ đã tận mắt nhìn thấy. Về sau lại bắt được quan hậu cần của Đường. Chính miệng y đã khai báo, xác nhận phán đoán của thuộc hạ.
Dương Nguyên Khánh trầm ngâm một lát. Hắn dần dần nghĩ thông suốt nguyên nhân. Đây tất nhiên là do Bùi Nhân Cơ phát uy ở quận Linh Võ. Hoặc là quân đội của quận Linh Võ rút lui tới quận Hội Ninh. Cũng có thể là Lý Kiến Thành nhận ra được quận Hội Ninh sẽ gặp nguy hiểm mà tăng thêm binh lực ở đó.
Nhưng cho dù thế nào đi chăng nữa, quân đội của quân Hội Ninh đã thành hai mươi nghìn người. Hắn nên thay đổi sách lược một chút.
Theo kế hoạch của Dương Nguyên Khánh, Quan Nội đạo và Hà Nam đạo là hai trọng điểm cần phải tranh đoạt. Đánh Hà Nam đạo chủ yếu là bức bách Lý Thế Dân rút quân. Mà đánh Quan Nội đạo là muốn tranh đoạt quyền lợi.
Trong các quận thuộc Quan Nội đạo thì quận trọng điểm là quận Linh Võ, quận Hội Ninh, và quận Diên An. Ba quận này đại diện cho ba nơi cung cấp nguồn tài nguyên là lương thực, bạc trắng và dầu hỏa.
Đồng thời quận Diên An còn là cây cầu từ Hà Đông đạo tiến vào Quan Nội đạo. Cho nên ý nghĩa chiến lược của nó càng thêm trọng đại. Vì vậy đánh ba quận này là tình thế bắt buộc với Dương Nguyên Khánh.
Biết được quân Đường ở quận Hội Ninh đã lên tới hai mươi nghìn người, Dương Nguyên Khánh liền quyết định thay đổi chiến thuật. Dưới ánh sáng của cây đuốc, hắn viết một bức thư, dùng con dấu ấn lên, đưa cho thám báo.
- Ngươi lập tức tới quận Linh Võ, đưa bức thư này cho Bùi tổng quản.
- Tuân mệnh!
Thám báo tiếp nhận bức thư, xoay người rời đi. Dương Nguyên Khánh gọi lại người thám báo trẻ tuổi này lại, khẽ cười hỏi:
- Ngươi tên là gì?
Thám báo lập tức khom người nói:
- Ty chức tên là Hạ Đắc Thắng. Phụ thân của ty chức đã từng kề vai tác chiến cùng điện hạ vào năm Khai Hoàng thứ mười chín. Lúc đó, ông ấy đảm nhiệm chức Bách Nhân Trưởng. Ông ấy thường xuyên đề cập tới điện hạ cho ty chức.
Dương Nguyên Khánh ngẩn ra. Hắn lập tức nghĩ tới năm đó là lần đầu tiên mình chấp hành nhiệm vụ. Nhớ tới vị kia thích rút thăm quyết định việc làm Hạ Bách Trưởng, Dương Nguyên Khánh không khỏi mỉm cười. Vị kia Hạ Bách Trưởng không tệ, rất là chiếu cố mình. Về sau tác chiến với Đột Quyết, có người nói ông ta đã hy sinh, cũng có người nói ông ta đã xuất ngũ. Về sau không còn nghe thấy tin tức của ông ta.
- Hóa ra ngươi là con trai của Hạ Bách Trưởng. Phụ thân ngươi còn tại thế không?
- Hồi bẩm điện hạ, phụ thân của ty chức quay về U Châu làm nghề nông. Ông ấy bị đứt một cánh tay, hiện tại thân thể vẫn còn tốt. Trong nhà được phân cho một trăm mẫu đất.
- Vậy thì tốt. Có thời gian ta sẽ tới thăm ông ấy một chút. Ngươi đi đi! Một đường chú ý, tin tức này rất trọng yếu.
- Ty chức nhất định sẽ đưa bức thư đến tận nơi.
Thám báo Hạ Đắc Thắng dùng nghi thức quân đội chào từ biệt, quay đầu ngựa lại chạy như bay. Tiếng vó ngựa dần dần xa, rất nhanh đã biến mất trong bóng đêm.
Chương 950 : Lạc Dương thất thủ
Trong lều lớn của Lý Thế Dân, một người tướng lĩnh đang quỳ một gối trước mặt Lý Thế Dân. Vị tướng này tuổi chừng ba mươi. Dáng người cao to cường tráng, khuôn mặt gầy gò, trong mắt tràn đầy bi phẫn và nước mắt.
- Huynh đệ chúng ty chức vì y bán mạng, y lại nhốt phụ thân của chúng ta lại ở hoàng cung. Còn nói nhốt đó làm con tin. Mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm. Đáng thương phụ thân của chúng ty chức tuổi già sức yếu. Chúng ty chức vừa mới nhận được tin, tối hôm qua, phụ thân đã chết đói ở trong cung.
Vị tướng lĩnh này tên là Lý Quân Mộ, là một thám báo lang tướng của Vương Thế Sung. Y chẳng qua chỉ là một người tướng lĩnh bình thường. Nhưng Lý Thế Dân lại rất có hứng thú với huynh trưởng của y là Lý Quân Tiện. Lý Quân Tiện là người võ nghệ cao cường, được xưng là mãnh tướng đứng đầu của Trịnh Quân, đảm nhiệm chức Phiêu Kỵ tướng quân.
Hai huynh đệ Lý Quân Tiện vốn là quân Ngõa Cương. Do Lý Mật dời nam về Giang Nam, bọn họ không muốn đi theo liền thoát ly Lý Mật, đầu hàng Vương Thế Sung. Không ngờ, lần này quân Đường tấn công Lạc Dương, Vương Thế Sung sợ tướng sĩ chạy trốn, liền nhốt toàn bộ gia quyến của bọn họ ở trong cung làm con tin.
Phụ thân của hai huynh đệ Lý Quân Tiện cũng bị nhốt vào hoàng cung, không thể liên lạc được. Thẳng đến buổi trưa hôm nay, đến phiên Lý Quân Tiện canh giữ. Y mới biết được tối hôm qua phụ thân của bọn họ đã chết vì đói. Điều này khiến huynh đệ hai người rất là bi phẫn, liền quyết định đầu hàng quân Đường.
Tin tức này khiến Lý Thế Dân cực kỳ hưng phấn. Đồng thời cảm thấy thời khắc phá thành đã tới. Nhưng y vẫn nghĩ tới một khả năng, đó là Lý thị huynh đệ là do Vương Thế Sung phái tới trá hàng. Lý Thế Dân không thể không đề phòng, y dấu diếm thanh sắc hỏi:
- Vương Thế Sung phòng ngự nghiêm mật như vậy, Lý tướng quân định phá thành như thế nào?
Lý Quân Mộ nhận thấy Lý Thế Dân còn chưa phải tin tưởng mình. Y vội vàng giải thích nói:
- Bởi vì Dương Nguyên Khánh và Vương Thế Sung có ước hẹn năm ngày. Dương Nguyên Khánh yêu cầu Vương Thế Sung thủ vững năm ngày, hắn sẽ tới cứu viện. Hôm nay đã là ngày thứ sáu, mà quân Tùy vẫn chưa thấy đến. Vương Thế Sung lòng nóng như lửa đốt, liền mệnh lệnh ty chức thừa dịp lúc ban đêm rời thành, đi đến bến sông thám thính tin tức của quân Tùy.
Tuy sự nghi ngờ của Lý Thế Dân chưa chưa mất, nhưng điều giải thích này cũng hợp tình hợp lý. Lý Thế Dân tạm thời kiềm chế sự hoài nghi trong lòng. Y tiến lên nâng Lý Quân Mộ dậy cười nói:
- Uy danh của hai huynh đệ các ngươi, ta đã sớm được nghe nói tới. Nếu như các ngươi nguyện ý quy phục quân Đường, ta tuyệt đối sẽ không bạc đãi các ngươi.
Lý Quân Mộ mừng rỡ, vội vàng nói:
- Hồi bẩm điện hạ, lòng người ở Lạc Dương đã loạn. Vương Thế Sung dần bị các tướng lĩnh xa lánh. Hiện tại đã tới lúc phá thành. Huynh trưởng của ty chức đang đảm nhiệm việc phòng ngự của Lạc Dương. Huynh ấy nguyện ý đêm nay hiến thành quy phục Đại Đường!
Lý Thế Dân gật đầu nói:
- Ta đi an bài một chút, sau đó lại cùng ngươi nói chuyện.
Lý Thế Dân sai người đưa Lý Quân Mộ đi nghỉ ngơi. Lúc này mới quay đầu lại cười hỏi Phòng Huyền Linh, vốn im lặng từ nãy giờ:
- Tiên sinh cho rằng việc đầu hàng của bọn họ là thật hay giả?
Phòng Huyền Linh vuốt râu khẽ mỉm cười nói:
- Điện hạ cho rằng, tình hình đã bết bát như vậy, huynh đệ bọn họ còn có thể toàn tâm toàn ý vì Vương Thế Sung trá hàng hay sao? Còn có thể chấp nhận nguy hiểm tính mạng vì y sao?
Nghi vấn này của Phòng Huyền Linh khiến Lý Thế Dân bừng tỉnh đại ngộ. Con cháu, huynh đệ của Vương Thế Sung còn có khả năng trá hàng. Nhưng huynh đệ Lý thị đầu hàng Vương Thế Sung còn chưa tới một năm. Vương Thế Sung không có khả năng có thể khiến bọn họ trá hàng. Việc này hẳn là không phải giả.
Lý Thế Dân kìm nén không được hưng phấn trong lòng. Như vậy đêm nay đã là thời điểm để phá thành. Y chờ đợi thời khắc này đã lâu. Bỗng ngoài cửa của tiếng thân binh gấp giọng bẩm báo:
- Điện hạ, có tin tức khẩn cấp từ Trường An truyền tới.
Lý Thế Dân và Phòng Huyền Linh sửng sốt nhìn nhau. Tính cả mấy bức thư khẩn cấp từ trước, hiện tại đã là bức thứ chín. Lý Thế Dân lập tức ra lệnh:
- Mau mang thư đến đây!
Một người thân binh bước nhanh đi vào lều lớn, quỳ một gối thi lễ, dâng bức thư khẩn cấp lên. Lý Thế Dân tiếp nhận bức thư. Rút ra một tấm lụa mỏng bên trong, run rẩy mở ra nhìn. Trên mặt y không khỏi lộ ra nụ cười khổ. Đó là một vẻ mặt bất đắc dĩ.
- Lại là thư giục điện hạ rút quân trở về?
Phòng Huyền Linh nhìn vể mặt Lý Thế Dân mà đoán ra được.
Lý Thế Dân gật đầu, đưa bức thư cho Phòng Huyền Linh rồi nói:
- Phụ hoàng tự tay viết chỉ thị, nói rằng Dương Nguyên Khánh có thể sẽ tấn công Trường An vào ban đêm. Ra lệnh cho ta lập tức điều binh trở về trợ giúp Quan Trung.
Phòng Huyền Linh đọc xong bức thư, liền khuyên nhủ nói:
- Điện hạ, đây đã là bức thư thứ chín. Nếu điện hạ còn không quan tâm, có thể sẽ khiến Thánh Thượng nghi kỵ. Vậy thì liền thành cái được không bù đắp đủ cái mất.
- Nhưng ta đã phái mười nghìn quân đội quay trở về. Tiên sinh cho rằng số binh lực này vẫn còn ít sao?
Phòng Huyền Linh thở dài nói:
- Điện hạ, đây kỳ thực là một loại thái độ. Nếu như Thái Tử tự mình dẫn theo năm mươi nghìn quân trở về Quan Trung. Mà điện hạ chỉ phái mười nghìn quân về cứu viện. Một sự đối lập rõ ràng như vậy, sẽ khiến Thánh Thượng có cái nhìn xấu đối với điện hạ. Ít nhất, Thánh Thượng sẽ cho rằng điện hạ không đặt sự an nguy của Thánh Thượng trong lòng. Điện hạ, tha thứ cho hạ thần nói thẳng, phái mười nghìn quân trở về cứu viện, còn không bằng không phái.
Lý Thế Dân chắp tay sau lưng đi lại trong lều lớn. Chỉ thị của phụ hoàng khiến y rất khó xử. Phụ hoàng ra lệnh cho y phái năm mươi nghìn quân trở về cứu viện Quan Trung. Nhưng nếu năm mươi nghìn quân đội trở về, binh lực trong tay y liền trở nên mỏng. Đừng nói là cướp lấy Trung Nguyên, chỉ sợ hạ thành Lạc Dương cũng trở nên khó khăn. Lý Thế Dân không thể không thừa nhận tài điều binh khiển tướng của Vương Thế Sung rất lợi hại. Chỉ dùng mấy chục nghìn quân đội mà có thể thủ vững trước sự tấn công của hai trăm nghìn quân Đường suốt ba ngày liền.
- Nếu dựa theo ý tứ của phụ hoàng, phái năm mươi nghìn quân trở về trợ giúp, vậy thì kế hoạch cướp lấy Trung Nguyên của chúng ta coi như đổ vỡ. Mà chiến quả chỉ là một thành Lạc Dương đã bị tàn phá nặng nề. Vậy thì chiến dịch lần này khác gì lần đại chiến Trung Nguyên trước kia chứ.
Lý Thế Dân thở dài một tiếng. Trong ánh mắt tràn đầy vẻ lo lắng. Y quả thật lo lắng. Lần đại chiến Trung Nguyên trước, là do y cực lực chủ trương. Kết quả rơi vào thảm bại. Lúc này cũng là do y cực lực thúc đẩy phụ hoàng. Thậm chí còn không tiếc vận dụng Đường Phong giám thị cha của Doãn Đức Phi để đả kích Thái Tử.
Lúc này, nếu mà chưa công đã lui, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới địa vị của y trong lòng phụ hoàng. Thậm chí sẽ ảnh hưởng tới việc phân phối quân quyền. Hiện tại Lý Thế Dân đang rơi vào hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan.
Phòng Huyền Linh cũng hiểu sự bất đắc dĩ của Lý Thế Dân. Nhưng cân nhắc lợi hại, y cho rằng vẫn nên điều quân trở về cứu viện Quan Trung. Điều này có liên quan tới vấn đề thái độ, ảnh hưởng vô cùng lớn tới tương lai của Lý Thế Dân.
- Điện hạ, chiếm không được Trung Nguyên, chỉ khiến cho Thánh Thượng thất vọng. Nhưng nếu không chịu cứu viện Quan Trung, sẽ khiến cho Thánh Thượng nghi kỵ. Cái nào nặng, cái nào nhẹ, hẳn là điện hạ hiểu được. Chúng ta nên phòng ngừa chuyện bị Thái Tử lợi dụng. Cho nên, đêm nay sau khi chiếm được thành Lạc Dương, điện hạ nên lập tức điều thêm bốn mươi nghìn quân trở về trợ giúp. Sau khi giải trừ được nguy hiểm ở Quan Trung, chúng ta có thể xem xét lại tình thế ở Trung Nguyên. Nếu điều kiện cho phép, chúng ta đánh tiếp Trung Nguyên cũng không muộn.
Lý Thế Dân trầm tư thật lâu, rốt cuộc gật đầu nói:
- Vậy cứ làm theo lời của tiên sinh…
Màn đêm buông xuống, rốt cuộc Vương Thế Sung đã rời vào tuyệt vọng. Điều hứa hẹn của Dương Nguyên Khánh đã không thực hiện được. Đã sáu ngày rồi, viện quân của triều Tùy còn chưa tới. Từ hy vọng, thất vọng, đến tuyệt vọng. Một tia hy vọng cuối cùng thành đế vương của Vương Thế Sung, rốt cuộc đã tan biến. Vương triều Trịnh thị của y sắp tan tành, y sẽ không còn cơ hội đông sơn tái khởi.
- Dương Nguyên Khánh, đồ nói không giữ lời. Như vậy ngươi có tư cách gì để tranh giành thiên hạ?
Trong nội cung, Vương Thế Sung ngồi trên giường bằng ngà voi, một tay nắm bảo kiếm. Tay kia thì liên tục nâng cốc uống rượu. Y đã uống say đến không biết trời đất. Vừa uống rượu, y vừa chửi Dương Nguyên Khánh ầm ỹ:
- Đồ ngụy quân tử. Lợi dụng Đường triều xử lý bọn ta, ngươi lại đến chiếm Lạc Dương, có phải hay không? Dương Nguyên Khánh, ngươi chính là một tên tiểu nhân vô liêm sỉ.
Trong nội điện, có năm sáu người cung nữ đang tránh phía sau tấm bình phong. Bọn họ đều sợ tới mức run rẩy. Ai cũng không dám tới rót rượu cho Vương Thế Sung. Chỉ có một người hoạn quan tâm phúc của Vương Thế Sung đứng một bên, thỉnh thoảng rót rượu tỠtrong bầu rượu cho y.
- Ngươi nói đi!
Vương Thế Sung mặt đỏ bừng, nhìn chằm chằm vào tên hoạn quan tâm phúc hỏi:
- Vì sao Dương Nguyên Khánh nói không giữ lời? Vì sao hắn lại lừa gạt ta?
Tên hoạn quan tâm phúc sợ tới mức hai chân như muốn nhũn ra:
- Có lẽ…Là do quân đội của hắn đã tới, nhưng còn ở bên ngoài, chưa có liên hệ với điện hạ.
- Vì sao ngươi biết?
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com