Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

thien than va ac quy 3

Langdon nhìn danh sách đang cầm trên tay. Khoảng 20 nhà thờ toạ lạc gần như đúng trên đường thắng mà Gió Tây chỉ tới.

Một trong số đó là bàn thờ khoa học thứ ba, hi vọng anh có đủ thời gian để xác định được nhà thờ đó. Thường thì Langdon sẽ rất sung sướng khi được đích thân xem xét từng nhà thờ. Tuy nhiên, hôm nay anh chỉ có khoảng 20 phút để tìm được cái cần tìm - nhà thờ duy nhất có chứa một tác phẩm của Bernini liên quan đến Lửa.

Langdon bước đến bên cánh cửa quay điện tử để vào trong vòm. Người lính vẫn đứng yên. Hình như anh ta đang lưỡng lự, không được thoải mái lắm. Langdon mỉm cười:

- Không sao đâu. Không khí hơi loãng, nhưng vẫn thở được.

- Nhiệm vụ của tôi là hộ tống ông đến đây và quay về trụ sở ngay.

- Anh đi ngay à?

- Vâng. Lính gác Thuỵ Sĩ không được phép vào trong vòm. Vào tận trong này thế là đã vi phạm điều lệnh rồi. Chỉ huy vừa nhắc tôi xong.

- Vi phạm điều lệnh à? - Các người không cần biết đêm nay có chuyện gì sao? Ông chỉ huy chết tiệt nhà anh là người phía mình hay phía địch thế?

Bao nhiêu vẻ thân thiện trên sắc mặt của người lính tiêu tan hết sạch. Vết sẹo dài dưới mắt anh ta bắt đầu giật giật. Người lính trợn tròn mắt, đột nhiên trông có vẻ giống Olivetti đến lạ lùng.

- Tôi xin lỗi. - Langdon nói, thầm lấy làm tiếc vì câu nói của mình. - Chỉ là vì... tôi muốn nhờ anh giúp một tay.

Người lính vẫn không chớp mắt.

- Xin lỗi, tói phải làm theo mệnh lệnh, và không được phép thảo luận gì hết. Nếu ông tìm thấy gì thì hãy liên lạc với chỉ huy ngay lập tức.

Langdon bối rối:

- Nhưng ông ấy đang ở tận đẩu đâu kia mà?

Người lính lấy máy bộ đàm giắt ở thắt lưng và để trên một cái bàn cạnh đó:

- Kênh một nhé. - Sau đó anh ta biến mất trong bóng tối.

Chiếc ti vi Hitachi màn hình rộng được đặt kín đáo ở một ngăn tủ khuất trong góc đối diện với bàn làm việc của Giáo hoàng. Hai cánh tủ lúc này mở toang, và tất cả mọi người đều xúm lại.

Vittoria cũng lại gần chiếc ti-vi. Sau khoảng gần một phút, trên màn hình hiện lên khuôn mặt của một nữ phát thanh viên trẻ tuổi.

Người phụ nữ tóc nâu này có đôi mắt nai thật mơ màng.

"Đây là chương trình thời sự của MSNBC. Kelly Horan Jones, truyền hình trực tiếp từ Vatican".

Sau lưng người này là quang cảnh Đại thánh đường St. Peter trong đêm, đèn điện sáng trưng.

- Có phải trực tiếp đâu! - Đại tá Rocher bực bội. - Đấy là cảnh nền chụp sẵn. Chúng ta tắt hết đèn rồi còn đâu.

Olivetti xì một cái, ra hiệu bảo ông ta trật tự.

Người phát thanh viên nói tiếp, vẻ căng thẳng:

"Những diễn biến gây sốc trong thời gian diễn ra bầu cử ở Vatican tối nay. Chúng tôi vừa được tin hai thành viên của Hội đồng hồng y đã bị sát hại một cách dã man tại Rome".

Olivetti lầm bầm nguyền rủa.

Khi cô phát thanh viên tiếp tục nói, một người lính xuất hiện ở cửa:

- Thưa chỉ huy, tổng đài báo rằng tất cả mọi đường dây đều có người gọi đến. Họ muốn biết quan điểm của chúng ta về...

- Ngắt đi. - Olivetti nói, mắt không rời màn hình.

Người lính có vẻ không hiểu:

- Nhưng thưa chỉ huy...

- Đi đi!

Anh ta biến mất.

Hình như Giáo chủ Thị thần cũng định nói gì rồi lại thôi. Viên Thị thần trẻ tuổi chỉ giận dữ nhìn Olivetti một hồi rồi quay lại màn hình ti vi.

MSNBC bắt đầu cho phát một đoạn băng. Những người lính gác Thuỵ Sĩ khiêng thi thể đức Hồng y Ebner xuống cầu thang ở nhà thờ Santa Maria Del Popolo và chuyển ngài vào một chiếc xe Alfa Romeo. Hình ảnh đứng lại, thi thể trần truồng của vị Hồng y Giáo chủ lộ ra ngay trước khi họ đưa ngài vào thùng xe.

- Kẻ chết tiệt nào quay cảnh này nhỉ? - Olivetti hỏi.

Người phát thanh viên của đài MSNBC vẫn đang nói tiếp.

"Người ta cho rằng đây chính là thi thể của Hồng y Giáo chủ Ebner đến từ Frankfurt, nước Đức. Những người đang đưa xác của ngài ra khỏi nhà thờ chắc chắn là các thành viên của đội lính gác Thuỵ Sĩ..."

Hình như cô phát thanh viên này đang cố tạo ra vẻ mặt đau buồn. ống kính tập trung vào khuôn mặt của cô ta, và vẻ đau buồn lại rõ thêm chút nữa.

"Bây giờ, MSNBC xin có lời khuyến cáo. Những cảnh mà chúng tôi sắp phát đi là rất rõ nét và có thể không thích hợp với những ai quá mẫn cảm..."

Vittoria nhăn nhó, nhà đài chỉ giả vờ tỏ ra quan tâm đến phản ứng của người xem mà thôi. Lời cảnh báo này đã tạo được hiệu ứng mà họ muốn có - sự tò mò đến tột độ. Không một người nào có thể chuyển kênh sau khi đã nghe lời hứa hẹn này.

Người phát thanh viên nhắc lại một lần nữa:

"Xin nhắc lại, những ai quá mẫn cảm không nên xem những thước phim mà chúng tôi sắp phát sau đây..."

- Đoạn phim nào? - Olivetti chất vấn. - Các người làm gì có...

Màn hình chiếu cảnh một đôi nam nữ trên quảng trường St. Peter, đang di chuyển giữa đám đông. Vittoria nhận ra ngay, đó chính là cô và Robert Langdon. Một dòng chữ hiện lên ở góc màn hình: BẢN QUYÊN: BBC. Một tiếng chuông vang lên.

- Ôi không thể nào. - Vittoria kêu lên. - Không thể nào.

Giáo chủ Thị thần có vẻ bối rối. Ngài quay sang hỏi Olivetti:

- Tôi tưởng đã tịch thu được cuốn băng rồi?

Đột nhiên, một đứa bé kêu thét lên. ống kính hướng thẳng vào một bé gái đang chỉ tay vào ông già vô gia cư máu me bê bết. Ngay lập tức, Robert Langdon xuất hiện trong khung hình, tìm cách giúp đỡ đứa bé. Cận cảnh.

Những người có mặt trong phòng làm việc của Giáo hoàng đều sững sờ trước tấn bi kịch hiện ra trước mặt. Thi thể của Hồng y đổ vật xuống. Vittoria xuất hiện, gọi người đến giúp. Máu. Dấu sắt nung. Kinh hoàng, cô gái không thể tiếp tục hô hấp nhân tạo cho nạn nhân.

"Những thước phim kinh hoàng này vừa được quay cách đây vài phút bên ngoài bức tường bao của Vatican. - Người phát thanh viên bình luận. - Theo các nguồn tin chúng tôi có được thì đó chính là thi thể của đức Hồng y. Giáo chủ người Pháp Lamassé..."

Lý do ngài ăn vận kiểu này và bị sát hại dã man như vậy vẫn còn bí ẩn. Cho đến lúc này, Vatican vẫn từ chối đưa ra lời bình luận.

Đoạn băng lại được phát lại lần nữa.

- Từ chối bình luận à? - Rocher lẩm bẩm. - Phải cho người ta có thời gian đã chứ!

Người phát thanh viên vẫn tiếp tục nói, mày nhíu lại.

- Mặc dù MSNBC vẫn chưa xác minh được động cơ của hành động này, nhưng các nguồn tin cho thấy trách nhiệm thuộc về một nhóm tự xưng là Illuminati.

Olivetti giật mình:

- Cái gì?

- Quý vị hãy tìm hiểu thêm về Illuminati bằng cách truy cập trang web của chúng tôi, địa chỉ là...

- Không thể nào! - Olivetti kêu lên, cuống quít bấm nút chuyển kênh.

Kênh truyền hình tiếp theo có một người dẫn chương trinh gốc Bồ Đào Nha:

"...một giáo phái tôn thờ quỷ dữ có tên là Illuminati, theo các nhà sử học thì..."

Lúc này Olivetti bắt đầu bấm nút chuyển kênh như một cái máy. Kênh nào cũng đang có chương trình phát trực tiếp. Hầu hết đều bằng tiếng Anh.

- Tối nay đội lính gác Thuỵ Sĩ đã chuyển một xác chết ra khỏi một nhà thờ. Nhiều người cho rằng đó chính là thi thể của Hồng y...

Đèn điện trên quảng trường St. Peter và ở các bảo tàng đều đã bị tắt hết và cuộc truy lùng...

- Chúng tôi đã mời đến trường quay một người chuyên nghiên cứu về các hội kín, Tyler Tingley, và ông sẽ bình luận về sự kiện gây chấn động này...

- Có tin đồn rằng trong buổi tối nay sẽ có thêm hai vụ hành quyết nữa...

Đang đặt ra câu hỏi liệu Hồng y Baggia có thể thoát nạn hay không...

Vittoria quay mặt đi. Các sự kiện đồn dập quá. Ngoài kia, trong ánh hoàng hôn đang tắt dần, tấn bi kịch này đã trở thành một thỏi nam châm hút mọi người đến Vatican. Đám đông tụ tập ngoài quảng trường mỗi phút lại phình to hơn. Thêm rất nhiều người nữa đang đi bộ đến quảng trường, và cánh phóng viên đang dỡ dụng cụ từ trên xe xuống để bắt đầu tác nghiệp.

Olivetti đặt thiết bị điều khiển từ xa xuống bàn, quay sang Giáo chủ Thị thần.

- Thưa cha, con chẳng hiểu thế nào nữa. Con đã tịch thu cuốn băng trong camera của người phóng viên đó rồi cơ mà!

Trong thoáng chốc, hình như người thầy tu trẻ tuổi này sững sờ đến mức không nói nên lời.

Tất cả mọi người trong phòng đều im lặng. Người lính gác Thuỵ Sĩ đứng im, sẵn sàng đợi lệnh.

Hình như Giáo chủ Thị thần mệt mỏi đến mức không còn sức để nổi cáu nữa:

- Dường như tình hình tối tệ hơn nhiều so với những gì ta được báo cáo lại. - Ngài nhìn đám đông đang lụ tập ngoài cửa sổ. - Ta phải phát biểu đôi lời.

Olivetti lắc đầu:

- Xin cha đừng làm thế. Đó chính là điều mà Illuminati đang mong muốn. Khẳng định sự thật lúc này khác gì tăng cường thêm sức mạnh cho bọn chúng. Chúng ta nên yên lặng.

- Còn những người ngoài kia? Giáo chủ Thị thần chỉ tay ra ngoài cửa sổ. - Chẳng mấy chốc sẽ có cả chục ngàn người. Rồi hàng trăm ngàn. Cứ mập mờ thế này thì họ sẽ gặp nguy hiểm. Ta cần phải cảnh báo họ. Sau đó chúng ta phải sơ tán Hội đồng hồng y.

- Chúng ta vẫn còn thời gian, thưa cha. Hãy để đại tá Rocher kết thức cuộc tìm kiếm phản vật chất đã.

Giáo chủ Thị thần quay sang ông ta:

- Ông dám ra lệnh cho ta đấy à?

- Không. Con chỉ khuyên cha thôi. Nếu cha lo lắng cho những người ngoài kia thì chúng ta có thể thông báo rằng một ống dẫn ga bị rò rỉ và phải giải tán đám đông. Thừa nhận rằng chúng ta đã trở thành con tin thì còn nguy hiểm hơn thế nhiều.

- Ông chỉ huy, ta nói một là một, hai là hai. Ta sẽ không biến căn phòng này thành nơi để rao truyền những lời dối trá. Ta sẽ chỉ nói sự thật mà thôi.

- Sự thật ư? Sự thật rằng thành Vatican đang bị một giáo phái ma quỷ đe doạ sẽ huỷ diệt tất cả ư? Làm thế chỉ khiến chúng ta thêm bất lợi.

Giáo chủ Thị thần trừng mắt:

- Còn có thể bất lợi hơn thế này được nữa cơ à?

Bất ngờ Rocher kêu lên, ông ta chộp lấy điều khiển, cho tiếng to lên. Tất cả đều quay lại.

Trên màn hình, vẻ mặt của cô phát thanh viên kênh MSNBC lúc này đã thật sự hoang mang. Ngay cạnh cô là bức ảnh của cố Giáo hoàng ...Tin động trời, đài BBC vừa mới chuyển cho chúng tôi. Có ta liếc nhìn xuống dưới như thể muốn khẳng định lại một lần nữa rằng quả thực đây là tin tức phải loan báo. Không còn băn khoăn nữa, cô ta ngước lên, vẻ mặt nghiêm trọng:

- Hội Illuminati vừa nhận trách nhiệm về... - Cô phát thanh viên vẫn lưỡng lự. - Họ đã nhận trách nhiệm về cái chết của cố Giáo hoàng cách đây 15 ngày.

Giáo chủ Thị thần há hốc mồm.

Rocher đánh rơi dụng cụ điều khiển từ xa đang cầm trên tay.

Vittoria không dám tin vào tai mình.

- Theo luật thánh thì không được phép khám nghiệm tử thi đối với thi thể của Giáo hoàng, nên hội Illuminati tuyên bố rằng không ai có thể khẳng định được hành động giết người của họ.

Người phát thanh viên nói tiếp:

- Tuy nhiên, họ khẳng định rằng nguyên nhân dẫn tới cái chết đột ngột của Đức Thánh Cha chính là do bị đầu độc chứ không phải do bị nhồi máu cơ tim như Vatican đã thông báo.

Căn phòng lại trở nên yên lặng như tờ.

Olivetti kêu lên:

- Điên rồ! Nói dối trắng trợn!

Rocher lại lia lịa chuyển kênh. Tin này cũng đang xuất hiện trên tất cả các kênh khác, như thể một thứ bệnh dịch vậy. Kênh nào cũng chỉ nói về một chuyện. Người ta thi nhau chọn những tiêu đề thật kêu để tác động đến tình cảm người xem.

ÁN MẠNG TẠI VATICAN

GIÁO HOÀNG BỊ ĐẦU ĐỘC

QUỶ SA-TĂNG ĐÃ ĐẠT CHÂN VÀO NGÔI NHÀ CỦA CHÚA.

Giáo chủ Thị thần quay mặt đi:

- Cầu chúa lòng lành.

Rocher bấm nút, định bỏ qua kênh BBC.

- ...báo tin cho tôi về vụ án mạng tại nhà thờ Santa Maria Del Popolo...

- Khoan đã. - Giáo chủ Thị thần nói - Lại kênh đó đi.

Rocher lại nhấn nút. Trên màn hình, một người đàn ông vẻ mặt đứng đắn đang ngồi bên bàn điểm tin. Màn hình lớn ngay cạnh ông ta hiện lên ảnh một người có chòm râu đỏ khá kỳ dị. Bên dưới màn hình có dòng chữ:

GUNTHER GLICK - TRỰC TIẾP TỪ VATICAN.

Rõ ràng là Glick đang dùng điện thoại để báo tin về, đường dây lạo xạo. "...Kỹ thuật viên camera đi cùng với tôi đã ghi lại cảnh thi thể của Hồng y Giáo chủ được đưa ra khỏi nhà nguyện Chigi..."

- Tôi xin được nhắc lại với quý khán giả. - Người đàn ông ngồi bên bàn điểm tin lên tiếng - Phóng viên Gunther Glick của BBC chính là người đầu tiên đưa tin về sự kiện này. Đến lúc này thì anh đã hai lần tiếp xúc trên điện thoại với một người được cho là sát thủ của Illuminati. Gunther này, anh nói là người này vừa gọi điện và chuyển cho anh thông điệp của Illuminati phải không?

- Đúng thế.

- Có đúng là người này tuyên bố rằng hội Illuminati nhận trách nhiệm về cái chết của Giáo hoàng không? - Chính người dẫn chương trình cũng tỏ ra hoài nghi.

- Chính xác. Người này nói với tôi rằng Giáo hoàng tạ thế không phải vì bị nhồi máu cơ tim, như Vatican vẫn tưởng thế. Thực ra hội Illuminati đã đầu độc ngài.

Tất cả mọi người có mặt trong phòng làm việc của Đức Thánh Cha đến như hoá đá.

- Đầu độc à? - Người dẫn chương trình hỏi lại. - Nhưng mà... nhưng mà...bằng cách nào?

- Họ không nói cụ thể, chỉ có mỗi chi tiết là... họ đã giết ngài bằng một loại thuốc có tên là... - Có tiếng giấy sột soạt. - Một loại thuốc có tên là Heparin.

Giáo chủ Thị thần, Olivetti và Rocher sững sờ nhìn nhau.

- Heparin à? - Rocher lên tiếng, vẻ vô cùng bối rối. - Chẳng phải là...

Mặt Giáo chủ Thị thần tái xám:

- Chính là thuốc của Đức Thánh Cha.

Vittoria kinh ngạc:

- Giáo hoàng dùng thuốc Heparin à?

- Người bị chứng nghẽn mạch. - Giáo chủ Thị thần đáp - Ngày nào Đức Thánh Cha cũng phải tiêm một mũi.

Rocher kinh ngạc đến lặng người:

- Nhưng Heparin có phải là thuốc độc đâu. Sao Illuminati lại tuyên bố là...?

- Nếu dùng không đúng liều thì Heparin sẽ trở thành thuốc độc - Vittoria giải thích. - Nó là một chất chống đông cực mạnh. Dùng quá liều sẽ gây ra hiện tượng xuất huyết bên trong và cả xuất huyết não.

Olivetti nhìn cô gái đầy nghi hoặc:

- Làm sao cô biết điều đó?

- Các nhà nghiên cứu hải dương học thường tiêm thuốc này cho các loài thú có vú họ bắt được để phòng hiện tượng máu vón cục do giảm vận động. Nhiều con thú đã chết vì bị chích thuốc không đúng liều. - Vittoria ngừng giây lát. - Dùng Heparin quá liều ở người thường gây ra các triệu chứng rất dễ nhầm với chứng nhồi máu cơ tim... đặc biệt là nếu không được khám nghiệm tử thi.

Giáo chủ Thị thần lúc này có vẻ thực sự lo lắng.

- Thưa cha, rõ ràng đây là thủ đoạn của Illuminati nhằm buộc chúng ta công khai mọi chuyện. Không một ai có thể cho Giáo hoàng dùng thuốc quá liều được. Những kẻ đó không có cách gì tiếp cận được Đức Thánh Cha. Giả sử chúng ta có ăn phải mồi nhử của chúng và tìm cách bác bỏ lời buộc tội đó chăng nữa thì cũng làm gì có cách? Luật thánh nghiêm cấm khám nghiệm tử thi đối với Đức Thánh Cha. Mà có khám nghiệm tử thi thì cũng chẳng tìm được gì. Chỉ có vết tích của Heparin trong cơ thể do Đức cha vẫn tiêm hàng ngày mà thôi.

- Đúng thế. - Giáo chủ Thị thần gằn giọng. - Nhưng có một chi tiết vẫn khiến ta phải suy nghĩ. Không một ai ở ngoài có thể biết những loại thuốc Đức cha vẫn dùng.

Im lặng.

- Nếu Đức Thánh Cha dùng Heparin quá liều, sẽ có các dấu vết trên cơ thể. - Vittoria nói.

Olivetti quay phắt lại phía cô gái:

- Cô Vetra, nếu cô chưa nghe thấy thì tôi xin nhắc lại rằng luật thánh nghiêm cấm khám nghiệm tử thi trong trường hợp này. Chúng ta không thể phạm đến sự uy nghiêm của Đức Thánh Cha bằng cách mổ xẻ cắt vụn cơ thể người ra mà xem xét chỉ vì một lời cáo buộc hiểm độc của kẻ địch!

Vittoria thấy ngượng.

- Tôi không có ý nói rằng... - Cô không có ý tỏ ra bất kính. - Dĩ nhiên là tôi không định nói rằng chúng ta nên khai quật thi thể của người...

Tuy nhiên cô vẫn do dự. Những lời Robert nói với cô trong nhà nguyện Chigi chợt vang lên trong tâm trí cô. Anh đã nói rằng quách của Giáo hoàng không bao giờ được chôn dưới đất, và người ta cũng không dùng xi măng để trét kín nắp quan tài đá. Đây là một tục lệ bắt nguồn từ thời các vua Pharaoh, người ta tin rằng nếu bít kín quan tài thì linh hồn người chết sẽ vĩnh viễn bị nhốt ở trong đó. Và người ta dùng trọng lực để thay thế cho vữa, nắp các quan tài đá thường nặng hàng tạ. Về mặt kỹ thuật thì có thể...

- Những dấu vết gì vậy? - Đột nhiên Giáo chủ Thị thần thắc mắc.

Quá sợ hãi, tim Vittoria đập loạn nhịp.

- Dùng Heparin quá liều sẽ gây ra chảy máu vòm miệng.

- Cái gì miệng?

- Lợi của nạn nhân sẽ chảy máu. Sau khi nạn nhân đã chết, máu sẽ đông lại và toàn bộ vòm miệng chuyển thành màu đen.

Vittoria đã một lần xem bức ảnh chụp ở vườn thú London, người luyện thú ở đó đã có lần cho hai con cá heo dùng thuốc này quá liều. Hai cái xác cứng đờ nổi lềnh bềnh trong bể nuôi, miệng há hoác, để lộ ra hai cái lưỡi đen sì như trát bồ hóng.

Giáo chủ Thị thần không nói gì. Ngài nhìn ra ngoài cửa sổ.

Giọng nói của Rocher hết hẳn âm sắc lạc quan:

- Thưa cha, nếu lời cáo buộc rằng Đức Thánh Cha bị đầu độc là thật thì...

- Thật là thế nào! - Olivetti lớn giọng - Người ngoài không thể nào tiếp cận được Đức Thánh Cha!

- Giả sử lời cáo buộc đó là thật, rằng Đức Thánh Cha đã bị đầu độc - Rocher lặp lại, - thì điều này có tác động rất lớn đến chiến dịch dò tìm phản vật chất. Vụ đầu độc này có nghĩa là Vatican đã bị cài nội gián ở cấp rất cao. Cho nên chỉ dò tìm trong khu vực trắng là không thích hợp. Có nghĩa là chúng ta không thể tìm thấy cái hộp đó trong khoảng thời gian còn lại.

Olivetti chĩa sang đồng sự của mình một cái nhìn lạnh lẽo:

- Đại tá để tôi nói cho anh nghe những gì sắp diễn ra ở đây.

- Không. - Giáo chủ Thị thần đột nhiên quay lại. - Để ta nói cho các ông nghe những gì sẽ xảy ra. - Ngài nhìn thẳng vào Olivetti. - Tình hình đã trở nên quá tồi tệ. Trong vòng 20 phút nũa, ta sẽ đích thân quyết định có cần thiết phải sơ tán thành Vatican và hoãn Mật nghị Hồng y hay không. Quyết định của ta là tối thượng. Ông nghe rõ chưa?

Olivetti không chớp mắt, cũng không nói gì.

Lúc này hình như người thầy tu trẻ bỗng mạnh mẽ hẳn lên, như thể vừa tìm được một nguồn sinh lực dự trữ nào đó trong cơ thể Đại tá Rocher:

- Ông hãy hoàn tất việc dò tìm khu vực trắng, và báo cáo trực tiếp với ta ngay khi hoàn thành nhiệm vụ.

Rocher gật đầu và liếc nhìn Olivetti vẻ e ngại.

Giáo chủ Thị thần chọn hai người lính gác.

- Ta muốn anh chàng phóng viên đài BBC, tên là Gunther Glick có mặt tại văn phòng này ngay lập tức. Vì đã liên lạc trực tiếp với Illuminati nên anh ta có thể giúp ích cho chúng ta. Đi ngay đi.

Hai người lính ấy biến mất.

Lúc này Giáo chủ Thị thần quay sang ba người lính còn lại:

- Hôm nay ta không cho phép mất thêm bất kỳ sinh mạng nào nữa. Trong vòng hai giờ nữa, các anh phải xác định được hai địa điểm còn lại và tóm cổ thủ phạm về đây. Nghe rõ chưa?

- Nhưng thưa cha, chúng ta còn chưa biết... - Olivetti nói.

- Ông Langdon đang lo chuyện đó rồi. Chắc chắn ông ấy sẽ làm được. Ta tin như thế.:

Nói xong, Giáo chủ Thị thần tiến về phía cửa ra vào bằng những bước chân đầy dũng khí. Vừa đi, ngài vừa chỉ ba ngươi lính còn lại:

- Còn ba anh, hãy theo ta. Ngay bây giờ.

Ba người lính làm theo.

Ra đến bậu cửa, Giáo chủ Thị thần dừng lại:

- Cô Vetra, cả cô nữa, hãy đi theo ta.

Vittoria lưỡng lự:

- Cha định đi đâu?

Người thầy tu sải bước:

- Đi thăm một người bạn cũ.

***

Tại CERN, cô thư ký Sylvie Baudeloque cảm thấy đói bụng và muốn về nhà. Nhưng rủi thay, Kohler đã vượt qua cơn nguy kịch. Ông ta vừa gọi điện, không phải là đề nghị, mà là yêu cầu Sylvie làm thêm giờ. Không một lời giải thích.

Bao năm nay, Sylvie đã tự dặn mình không nên để bụng sự trái tính trái nết của Kohler - sự im lặng, thói quen kỳ quặc muốn dùng chiếc máy quay phim kỳ dị của ông ta để ghi lại tất cả các cuộc gặp gỡ. Chị thầm ước con người này sẽ có lần bắn nhầm phải chính mình khi đang bắn súng trường trong trường bắn giải trí của trung tâm. Nhưng rõ ràng ông ta là một xạ thủ rất cừ.

Lúc này, ngồi một mình bên bàn làm việc, Sylvie thấy bụng đang sôi lên ùng ục. Kohler vẫn chưa quay lại, cũng chẳng có một lời chỉ dẫn về công việc của chị tối nay. Ngồi một mình mà chịu đói kiểu này thật là chán, chị thầm nghĩ. Sylvie để lại trên bàn một lời nhắn cho Kohler, định chạy ù sang khu nhà ăn của viện để kiếm thứ gì ăn qua loa cho đỡ đói.

Nhưng Sylvie không thực hiện được ý định đó.

Đi ngang qua khu giải trí của CERN, một dãy phòng có trang bị ti-vi chị nhận thấy tất cả các phòng này đều đầy chật người, rõ ràng là những nhân viên này đã bỏ ăn tối để vào đây xem thời sự. Hình như có chuyện động trời. Sylvie bước vào phòng đầu tiên. Phòng này thấy toàn những anh chàng lập trình viên trẻ tuổi. Trông thấy hàng chữ lớn trên ti-vi, Sylvie há hốc mồm.

THẢM HỌA TẠI VATICAN

Nghe xong bản tin, Sylvie không dám tin vào tai mình. Một hội kín sát hại các Hồng y Giáo chủ? Để chứng minh điều gì? Lòng căm thù của họ ư? Địa vị thống trị của họ ư? Hay sự ngu dốt của họ?

Nhưng điều kỳ quặc là bầu không khí trong căn phòng này không một chút buồn bã hay ủ rũ.

Hai anh chàng kỹ thuật viên trẻ tuổi chạy qua, tay vẫy vẫy những chiếc áo phông in ảnh Bill Gates và lời nói của nhà tỉ phú này: RỒI MỘT NGÀY CÁC KỸ THUẬT VIÊN MÁY TÍNH SẼ THỐNG TRỊ THẾ GIỚI.

- Illuminati! - Một người hô to. - Tôi đã bảo là hội này có thật mà lại!

- Không tin nổi! Cứ tưởng chỉ là một trò chơi thông thường.

- Họ giết Giáo hoàng rồi, các bạn ơi! Giáo hoàng cơ đấy!

- Ối dào! Anh được bao nhiêu điểm rồi hả?

Tất cả cười rộ lên.

Sylvie sững sờ. Là một con chiên mộ đạo làm việc cùng những nhà khoa học, đôi khi chị phải chịu đựng những lời xầm xì vô thần đầy báng bổ, nhưng những anh chàng này dường như vô cùng phấn khích trước mất mát của giáo hội. Làm sao họ có thể nói những lời báng bổ đến thế? Sao họ lại căm thù nhà thờ đến thế?

Trong tâm thức của Sylvie, nhà thờ chỉ là một tổ chức vô hại... một nơi tràn ngập tình yêu thương và sự chia sẻ... đôi khi chỉ là nơi người ta đến để hát to lên mà không sợ bị người khác để ý.

Nhà thờ là nơi in dấu những sự kiện quan trọng trong đời chị - đám tang, đám cưới, lễ rửa tội, những ngày lễ - và nhà thờ chẳng bao giờ đòi hỏi gì để đổi lại cho vai trò của nó. Thậm chí tiền quyên góp cũng là tùy tâm. Sau những buổi giảng bài ngày Chủ nhật ở nhà thờ lũ trẻ trở nên đáng yêu hơn, tâm hồn chúng đầy ắp những ý tưởng giúp đỡ người khác và sống tốt hơn. Những cái đó có gì là xấu?

Sylvie luôn ngạc nhiên khi thấy những người được cho là lỗi lạc ở CERN không thể nào hiểu nổi tầm quan trọng của nhà thờ.

Chẳng lẽ họ thực sự tin rằng những hạt quark và meson có thể tác động đến những người bình thường? Rằng các phương trình có thể thực sự thay thế cho niềm tin vào đấng tối linh?

Choáng váng, Sylvie bước dọc hành lang, qua những phòng giải trí khác. Tất cả các phòng có ti-vi đều chật cứng. Lúc này, chị bắt đầu thắc mắc về cuộc gọi từ Vatican mà Kohler nhận lúc trước. Trùng hợp ngẫu nhiên? Rất có thể. Đôi khi Vatican vẫn gọi điện cho CERN, một động thái có tính chất ngoại giao trước khi đưa ra một lời bình luận gay gắt nào đó về những nghiên cứu ở đây - gần đây nhất là thành tựu đột phá của CERN về công nghệ nano, lĩnh vực mà giáo hội vẫn chỉ trích vì e ngại những liên quan của nó đến công nghệ gen. CERN chẳng bao giờ để ý.

Dường như đã thành lệ, gần như ngay sau loạt đạn của Vatican sẽ là cuộc điều tra của một tổ chức nào đó liên quan đến việc có cho phép triển khai tiếp nghiên cứu đó hay không. "Không gì đáng sợ bằng bị báo chí nhòm ngó", Kohler vẫn thường nói vậy.

Sylvie cân nhắc việc nhắn tin cho Kohler, dù ông ta có đang ở đâu để bảo ông ta bật ti-vi lên. Ông ấy có quan tâm không nhỉ? Ông ấy đã biết chưa? Dĩ nhiên, chắc chắn ông ấy phải biết rồi. Biết đâu Kohler lại còn đang ghi băng toàn bộ bản tin này, và đang nở nụ cười đầu tiên trong năm.

Tiếp tục đi dọc hành lang, cuối cùng thì Sylvie cũng tìm được một nơi mà bầu không khí có vẻ dịu hơn... gần như là buồn bã.

Trong phòng này, chị thấy những gương mặt có tuổi và đáng kính trọng nhất ở CERN. Lúc Sylvie bước vào trong phòng, họ thậm chí không ngẩng lên nhìn.

***

Ở đầu kia của toà nhà lớn, trong căn phòng lạnh lẽo của Leonardo Vetra, Maximilian Kohler đã đọc xong cuốn sổ nhật ký bọc da lấy từ ngăn kéo bàn của Vetra. Lúc này ông đang xem bản tin. Mấy phút sau, Kohler cất cuốn sổ vào chỗ cũ, tắt ti-vi và ra khỏi phòng.

***

Ở một nơi khác rất xa, tại Vatican, Hồng y Mortati bê khay lá phiếu. Tới chân ống khói nhà nguyện Sistine. Ngài đốt những lá phiếu trên khay, khói đen bốc lên.

Một lần bỏ phiếu. Chưa có Giáo hoàng.

***

Ánh sáng toả ra từ những chiếc đèn pin chẳng thấm tháp gì so với bóng tối âm u dày dặc trong Đại thánh đường St. Peter.

Khoảng không đen ngòm trên đầu như đang đè nặng xuống và Vittoria cảm thấy sự trống trải đen kịt xung quanh chẳng khác gì một vùng biển hoang vắng. Cô cố gắng bước đi sát bên cạnh những người lính gác Thuỵ Sĩ trong khi Giáo chủ Thị thần vẫn sải những bước dài. Trên cao, một chú chim câu kêu gù gù rồi vỗ cánh bay đi.

Dường như cảm nhận được tâm trạng bất an của Vittoria, Giáo chủ Thị thần bước chậm lại và đặt tay lên vai cô. Một luồng sức mạnh lập tức truyền qua bàn tay ấy, như thể con người này đang dùng phép màu nhiệm để truyền cho Vittoria sự điềm tĩnh rất cần thiết cho những công việc mà họ sắp tiến hành.

Chúng ta định làm gì thế này? Vittoria thầm nghĩ. Thật là một hành động điên rồ!

Tuy nhiên, Vittoria biết rằng đây là một việc không thể không lẫm, vì như thế có nghĩa là bất kính, là khủng khiếp. Cần có thông tin để đưa ra những quyết sách cần thiết... những thông tin đang bị chôn vùi trong nhà mồ của Vatican. Không hiểu họ sẽ tìm thấy gì. Có đúng là hội Illuminati đã sát hại Đức Thánh Chúa không? Phải chăng cánh tay của họ có thể vươn dài đến thế? Không lẽ mình sẽ là người đầu tiên tổ chức khám nghiệm tử thi của một vị Giáo hoàng?

Thật mỉa mai, trong thánh đường tăm tối này, Vittoria cảm thấy sợ hãi, khác hắn những đêm cô bơi giữa bầy cá ăn thịt người ngoài biển khơi. Thiên nhiên chính là nhà của cô. Và lúc nào cô cũng hiểu thiên nhiên. Nhưng với cô, linh hồn của loài người thì luôn luôn bí hiểm. Đám đông nhà báo tập trung bên ngoài khiến Vittoria nghi đến loài cá ăn thịt người. Thi thể bị đóng dấu sắt nung của đức Hồng y trên ti-vi khiến cô nghĩ đến người cha của mình... và tiếng cười ghê rợn của kẻ giết người. Hắn đang ở đâu đó ngoài kia. Cơn giận dữ trong lòng Vittoria đã nhấn chìm cảm giác sợ hãi từ lúc nào.

Đi qua một cây cột lớn - lớn hơn bất kỳ cây cột bằng gỗ nào khác cô gái trông thấy một luồng ánh sáng màu vàng cam. Luồng sáng này dường như phát ra từ dưới nền của trung tâm Đại thánh đường. Đến gần hơn, Vittoria nhận ra đó chính là điện thờ dưới lòng đất nổi tiếng, nơi cất giữ những di vật quý giá nhất của Vatican. Đến gần hơn, Vittoria chăm chú nhìn cỗ quan tài lớn bằng vàng, được thắp sáng bởi hàng chục ngọn đèn dầu.

- Đây chính là lăng mộ trong thánh đường St. Peter phải không? - Hỏi vậy nhưng cô đã biết rõ đây là nơi nào. Tất cả những ai từng đến thánh đường St. Peter đều biết những gì được cất giữ trong những cỗ quan tài bằng vàng này.

- Thực ra thì không phải vậy. - Giáo chủ Thị thần đáp. - Rất nhiều người vẫn hiểu lầm như thế. Đây không phải là chỗ đựng thánh tích. Trong hòm này là những chiếc khăn choàng pallium để Giáo hoàng phát cho những Hồng y mới được phong chức!

- Tôi tưởng là...

- Rất nhiều người cũng tưởng thế đấy. Các sách hướng dẫn du lịch gọi nó là hầm mộ trong thánh đường St. Peter, nhưng hầm mộ thật sự nằm ở tận dưới sâu trong lòng đất cơ. Vatican khai quật được hầm mộ này từ những năm 40. Không một ai được phép xuống đó.

Vittoria kinh ngạc. Bước theo những người khác, xa dần vùng sáng, cô nghĩ đến câu chuyện của những người hành hương vượt qua hàng ngàn cây số chỉ để được nhìn thấy chiếc quan tài bằng vàng này và nghĩ rằng họ đã đến được với Thánh Peter.

- Thế tại sao Vatican không công bố tin đó?

- Tất cả chúng ta đều được một cái gì đó khi nghĩ rằng mình được tiếp xúc với đấng tối linh... dù chỉ trong tưởng tượng.

Là một nhà khoa học, Vittoria không thể không công nhận rằng đây là một lập luận lôgíc. Cô đã từng đọc vô số nghiên cứu về hiệu ứng của sự trấn an - thuốc aspirin chữa lành bệnh cho những bệnh nhân ung thư trong khi bản thân người bệnh thì tin chắc rằng họ đang dùng một loại thần được nào đó. Suy cho cùng thì đó chẳng phải là đức tin hay sao?

Thay đổi chưa bao giờ là sở trường cửa Vatican. Thừa nhận những sai lầm trong quá khứ hay hiện đại hoá bản thân nó là những gì Giáo hội xưa nay luôn tìm cách tránh né. Và Đức Thánh Cha đã cố gắng thay đổi điều đó. - Giáo chủ Thị thần ngừng một lát - Hoà nhập với thế giới hiện đại, tìm những phương cách mới để tiếp cận Chúa.

Trong bóng tối, Vittoria gật đầu:

- Giống như khoa học chứ gì?

- Thật ra mà nói thì có lẽ khoa học lại là cái không thích hợp.

- Không thích hợp? - Vittoria có thể nghĩ ra rất nhiều từ ngữ để nói về khoa học, nhưng trong thời hiện đại này, từ không thích hợp rõ ràng không thể là một trong những từ ấy.

- Khoa học có thể chữa lành vết thương, nhưng cũng có thể giết chết người ta. Cái đó phụ thuộc vào người nắm khoa học trong tay. Linh hồn của người đó mới chính là cái ta quan tâm tới.

- Cha bắt đầu đến với Chúa từ bao giờ?

- Từ trước khi ta chào đời.

Vittoria trợn tròn mắt.

- Rất tiếc, câu hỏi đó đối với ta luôn có vẻ là lạ. Ta muốn nói rằng lúc nào ta cũng tâm niệm rằng mình sẽ phụng sự Chúa. Từ khi biết nghĩ. Tuy nhiên đến khi trở thành một thanh niên trong quân ngũ thì ta mới thực sự ý thức đầy đủ về tâm nguyện ấy của mình.

Vittoria ngạc nhiên:

- Cha đã từng đi lính ư?

- Hai năm. Ta nhất định không chịu cầm súng, thế là họ bắt ta lái máy bay. Loại trực thăng Medevac. Thỉnh thoảng ta vẫn lái máy bay đấy.

Vittoria cố mường tượng cảnh một vị thầy tu trẻ đang lái máy bay. Thật kỳ lạ, cô thấy con người này thật phù hợp với bảng điều khiển máy bay. Uy lực của Giáo chủ Thị thần Ventresca thực ra cũng là kết quả của phẩm chất này.

- Cha có bao giờ lái máy bay cho Đức Thánh Cha không?

- Lạy chúa, không. Vị khách đặc biệt đó thì xin dành cho các phi công chuyên nghiệp. Nhưng đôi khi Đức Thánh Cha cho phép ta trở về Gandolfo bằng máy bay trực thăng. - Giáo chủ Thị thần im lặng giây lát, rồi quay sang nhìn Vittoria. - Cô Vetra, cảm ơn cô đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi hôm nay. Ta rất lấy làm tiếc về cha của cô, thật đấy.

- Cảm ơn cha!

- Ta không bao giờ biết mặt cha ruột của mình. Ông ấy đã qua đời trước khi ta chào đời. Lên 10 tuổi thì ta mồ côi mẹ.

Vittoria ngước nhìn lên.

- Cha cũng mồ côi ư? - Đột nhiên cô thấy vị thầy tu này trở nên thật gần gũi.

- Ta sống sót sau một tai nạn. Thảm hoạ đó đã khiến mẹ ta thiệt mạng.

- Thế ai chăm sóc cha?

- Chúa. - Giáo chủ Thị thần đáp. - Người đã gửi đến cho ta một người cha khác, theo đúng nghĩa đen của từ ấy. Một linh mục ở vùng Palermo xuất hiện ở bệnh viện và đón nhận ta. Lúc đó ta không hề ngạc nhiên. Từ khi còn bé, ta đã cảm nhận được sự quan tâm và tình yêu của Chúa dành cho mình. Sự xuất hiện của vị linh mục ấy đơn giản là đã khẳng định những gì ta nghĩ rằng sẽ xảy đến. Chúa đã chọn ta làm kẻ nô bộc của người.

- Cha tin rằng Chúa đã chọn cha ư?

- Phải. Bây giờ ta vẫn tin như vậy. - Không hề có chút giả dối nào trong giọng nói của Giáo chủ Thị thần, mà chi có lòng biết ơn sâu sắc - Trong nhiều năm, ta đã làm việc dưới sự giám hộ của vị giám mục ấy. Sau đó người được phong chức Hồng y Giáo chủ Tuy nhiên, người vẫn không quên ta. Trong tâm khảm của ta, người chính là cha.

Một luồng sáng bất ngờ rọi vào khuôn mặt của vị thầy tu trẻ, và Vittoria dọc thấy sự cô đơn trong đôi mắt ấy.

Họ đến bên một cây cột rất cao, và những ánh đèn pin cùng chiếu xuống một cái hố. Nhìn những bậc thang dẫn xuống khoảng tối đen ngòm bên dưới, bất giác Vittoria muốn quay lui.

Những người lính gác đỡ Giáo chủ Thị thần bước xuống. Và cả cô nữa.

- Rồi sao nữa? - Vừa bước xuống, Vittoria vừa hỏi, cố phát âm một cách mạch lạc. - Vị Hồng y Giáo chủ đó sau thế nào?

- Người rời khỏi Hội đồng hồng y để đảm nhiệm một vị trí khác.

Vittoria ngạc nhiên.

- Sau đó, đáng tiếc là người đã ra đi.

- Thật sao? - Vittoria thốt lên. - Lâu chưa ạ?

Giáo chủ Thị thần quay lại, trong bóng tối, vẻ mặt đầy đau đớn:

- Chính xác là cách đây 15 hôm. Và ngay bây giờ chúng ta sẽ gặp lại người.

***

Vòm kính lưu trữ của Vatican được chiếu sáng bởi những bóng đèn màu đỏ. Vòm kính này nhỏ hơn nhiều so với những vòm khác ở đây ít khí hơn, ít thời gian hơn. Giá mà ban nãy Langdon nhớ ra để yêu cầu Olivetti cho bật quạt thông gió lên thì tốt biết mấy.

Langdon nhanh chóng xác định được khu vực chứa các tài liệu về mỹ thuật. Khu vực này không thể lẫn vào đâu được. Nó chiếm trọn 8 giá sách đầy ắp. Giáo hội Cơ đốc sở hữu hàng triệu tác phẩm nghệ thuật ở khắp nơi trên thế giới.

Langdon nhìn lướt qua các giá đề tận cái tên Gianlorenzo Bernini. Anh bắt đầu tận từ giữa giá trở xuống, ở khu mà có lẽ sẽ thấy vần B. Lúc đầu anh tưởng cuốn sổ đang cần tận đã bị thất lạc, nhưng chỉ sau chốc lát, Langdon kinh hãi phát hiện ra rằng những cuốn sổ này không được xếp theo thứ tự A, B, C. Sao mình không thấy ngạc nhiên nhỉ?

Mãi khi quay lại tìm từ đầu, trèo thang lên tận trên đỉnh giá cao nhất, anh mới hiểu ra cách sắp xếp tài liệu trong vòm này.

Cheo leo tận tầng trên cũng là những cuốn sổ cái dày nhất về các bậc thầy thời Phục Hưng - Michelangelo, Raphael, Da Vinci, Botticelli. Hoá ra là thế, vì đây là nơi lưu trữ tài liệu về "tài sản của Vatican" cho nên vị trí các cuốn sổ phụ thuộc vào giá trị của từng bộ sưu tập. Cuốn Bernini nằm giữa hai cuốn sổ đề Raphael và Michelangelo. Dày những gần mười phân.

Hổn hển vì phải vật lộn với cuốn sổ quá dày, Langdon xuống thang Rồi hệt như một cậu bé vớ được cuốn truyện tranh yêu thích; anh nằm soài xuống sàn; lật trang bìa.

Cuốn sổ này có bìa vải rất chắc chắn. Bên trong là tiếng Ý, chữ viết tay. Mỗi trang nói về một tác phẩm, có cả một đoạn miêu tả ngắn gọn ngày tháng, địa điểm, giá nguyên liệu, đôi khi có cả phác hoạ tác phẩm đó. Langdon lật nhanh một lượt... 800 trang tất cả. Bernini quả là một người bận rộn.

Hồi còn là sinh viên, Langdon đã có lần thắc mắc tại sao một số nghệ sĩ có thể sáng tạo nhiều tác phẩm đến thế trong quãng đời ngắn ngủi của họ. Về sau, anh đã vô cùng thất vọng khi hiểu ra rằng các nghệ sĩ đó thực sự tự sáng tác rất ít. Họ lập ra các xưởng nghệ thuật và đào tạo các nghệ sĩ trẻ, và để cho những nghệ sĩ học việc này thực hiện các ý tưởng của mình. Những nhà điêu khắc như Bernini thường nặn các nguyên mẫu thu nhỏ bằng đất sét sau đó thuê người khác sao chép sang chất liệu đá cầm thạch. Nếu Bernini phải đích thân tạo ra tất cả các tác phẩm của mình, chắc đến tận đầu thiên niên kỷ thứ ba này ông vẫn chưa thể làm xong.

Phụ lục. Langdon tự nói một mình để gạt những ý nghĩ vẩn vơ không cần thiết khỏi tâm trí. Anh lật đến cuối cuốn sổ, định tìm vần F để tận các tác phẩm có liên quan đến Lửa, nhưng không thấy. Anh lầm bầm trong miệng: Làm sao những người này lại căm ghét kiểu xếp theo trật tự A, B, C đến thế không biết.

Các tác phẩm rõ ràng là được xếp theo trật tự thời gian. Xong tác phẩm này, Bernini lại bắt đầu tác phẩm khác. Tất cả được xếp theo ngày tháng. Chẳng ích lợi gì.

Nhìn phần phụ lục, một chi tiết đáng thất vọng nữa đập vào mắt anh. Không có một tác phẩm nào có tiêu đề liên quan đến Lửa. Hai tác phẩm đã tận được: Habbakuk và thiên thần, cũng như Gió Tây, đều không có tiêu đề liên quan trực tiếp đến Đất và Khí.

Langdon thử lật lung tung cuốn sổ, hi vọng một hình minh hoạ nào đó có thể đem lại cho anh một ý. Tưởng bất ngờ. Nhưng chẳng thấy gì. Anh chỉ thấy hàng chục tác phẩm mà anh chưa nghe nói tới bao giờ, và cũng có nhiều tác phẩm anh đã biết từ trước... Daniel và Sư tử, Thần mặt trời và Daphne, có cả gần chục đài phun nước. Những đài phun nước này bỗng khiến anh để tâm. Nước. Biết đâu bàn thờ khoa học thứ tư lại là một đài phun nước nào đó. Để ngợi ca nước thì một đài phun nước dĩ nhiên là không gì bằng.

Langdon hi vọng có thể tóm được kẻ sát nhân trước khi phải nghĩ đến Nước - Bernini đã thiết kế hàng chục đài phun nước ở Rome, và hầu hết đều được bố trí phía trước các thánh đường.

Langdon quay lại với vấn đề của hiện tại. Lửa. Mắt nhìn lướt cuốn sổ dày cộp, Langdon chợt thấy vang lên trong tâm trí những lởi nói đầy khích lệ của Vittoria. Hai tác phẩm trước đều rất quen thuộc đối với anh... rất có thể anh cũng đã biết tác phẩm thứ ba này rồi cũng nên. Lại lại về phần phụ lục, Langdon tìm những tác phẩm anh đã biết. Một số có vẻ cũng quen quen, nhưng vẫn không thấy ý tưởng nào nảy ra trong đầu. Rất có thể anh sẽ chết trước khi tìm ra tác phẩm đó, dù thực sự không muốn, anh vẫn quyết định mang cuốn sổ cái ra khỏi vòm lưu trữ. Thực ra chỉ là một cuốn sổ cái thôi mà, anh tự an ủi bản thân. Lần này rất khác với việc đưa nguyên tác của Galileo ra ngoài. Nhớ đến tờ giấy nến viết về Galileo trong túi áo, anh tự nhủ phải nhớ mang trả vào chỗ cũ trước khi rời khỏi nơi này.

Vội vã Langdon định nhấc cuốn sổ lên, nhưng đúng lúc này một hình ảnh khiến anh dừng ngay lại. Dù phần phụ lục liệt kê rất nhiều, nhưng chỉ một tác phẩm khiến anh cảm thấy là lạ.

Phần chú thích cho thấy đây là một tác phẩm nổi tiếng của Bernini, Khoảnh khắc đê mê của thánh Teresa. Mới hoàn thành chưa được bao lâu, nó đã bị di chuyển khỏi vị trí ban đầu trong toà thánh: Điều này chưa có gì đáng chú ý, anh biết quá khứ sóng gió của tác phẩm này. Dù được nhiều người coi là kiệt tác, nhưng tác phẩm điêu khắc này bị Giáo hoàng Urban VIII cho là đậm chất tính dục và không thích hợp với Vatican. Ngài đã cho chuyển tác phẩm này đến một nhà thờ nhỏ hẻo lánh của thành phố. Điều đáng chú ý là tác phẩm này đã được dời đến một trong năm nhà thờ mà Langdon hiện đang quan tâm. Thêm vào đó ở đây còn ghi là di chuyển theo đề nghị của tác giả.

Theo đề nghị của tác giả? Thật khó hiểu. Khả năng Bernini muốn giấu tác phẩm của mình vào một nơi hẻo lánh là rất ít. Các nghệ sĩ đều muốn tác phẩm của mình được trưng bày trong những khung cảnh trang trọng, không phải ở...

Langdon đắn đo. Trừ phi...

Anh thậm chí không dám tin vào suy đoán của mình. Không lẽ là thế thật? Phải chăng Bernini cố tình tạo ra một tác phẩm quá đậm chất dục tính để buộc Vatican phải chuyển nó đi chỗ khác?

Đến một địa điểm do Bernini tự chọn? Biết đâu là một nhà thờ khuất nẻo nào đó nằm đúng hướng mà Gió Tây chỉ tới?

Langdon bắt đầu thấy phấn khởi trong lòng, nhưng những gì anh biết về tác phẩm này lờ mờ hiện ra trong trí nhớ. Đâu có liên quan gì đến Lửa. Tất cả những ai đã từng nhìn thấy tác phẩm này đều phải thừa nhận rằng nó chẳng có vẻ gì liên quan đến khoa học. Liên quan đến tinh dục thì có, chứ khoa học thì không chút nào. Có nhà phê bình nghệ thuật người Anh đã từng nói rằng, không thể nào dùng Khoảnh khắc đê mê của thánh Teresa làm vật trang trí cho một nhà thờ Thiên Chúa giáo. Dĩ nhiên Langdon hiểu vì sao lại có sự bất đồng quan điểm như vậy. Dù được tạo ra bằng một đôi tay thiên tài, nó vẫn là tượng Thánh Teresa trong tư thế nằm ngửa đang uốn éo, quằn quại trong cảm giác đê mê.

Khó có thể lọt vào mắt xanh của Vatican. Langdon vội lật đến trang miêu tả tác phẩm này. Trông thấy hình phác hoạ tác phẩm, anh bất giác cảm thấy có hi vọng. Trong tranh, rõ ràng là Thánh Teresa đang trong cảm giác ngây ngất đê mê, nhưng cạnh thiếu phụ này còn có một hình vẽ nữa, bức tượng thứ hai mà Langdon không hề nhớ ra.

Một thiên thần.

Anh bất giác nhớ lại truyền thuyết về bức tượng...

Vốn là một nữ tu sĩ, xơ Teresa đã được phong thánh sau khi tuyên bố rằng trong giấc ngủ, bà được một thiên thần ghé thăm. Về sau, các nhà phê bình đều cho rằng cuộc viếng thăm đó mang yếu tố dục tính chứ không có tính chất tâm linh. Cần cuối trang giấy, Langdon thấy những đoạn trích dẫn quen thuộc. Những lời nói của chính thánh Teresa khiến cho người ta không thể nghĩ theo bất kỳ hướng nào khác:

"Cây giáo lớn bằng vàng của thiên thần... rực lửa... xiên thẳng vào thân thể ta nhiều lần... xuyên vào ruột gan ta... một sự ngọt ngào đến vồ cùng khiến ta muốn khoảnh khắc đó không bao giờ chấm dứt".

Langdon cười mỉm. Những lời lẽ bóng bẩy này rõ ràng ám chỉ một cuộc truy hoan thực sự, không thể là bất kì thứ gì khác. Đọc những câu miêu tả trong trang giấy này, anh càng thấy phấn khởi. Dù đây là tiếng Ý, từ Lửa vẫn thấy xuất hiện rất nhiều lần:

... mũi giáo của thiên thần rực lửa

... đầu thiên thần toả ra những tia lửa

... người trinh nữ bừng bừng trong ngọn lửa đam mê...

Nhìn hình vẽ minh hoạ thêm một lần nữa, Langdon mới thực sự tin chắc. Cây giáo rực lửa của thiên thần được giương lên cao, như một ngọn hải đăng chỉ hướng. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả. Thậm chí đây còn là một thiên thần Seraph, mà nghĩa đen của từ này chính là "đấng rực lửa".

Mặc dù không thuộc kiểu người tin vào số mệnh, nhưng khi đọc tên của thánh đường đó, Langdon cũng phải tin là có những yếu tố tiền định.

Santa Maria Della Vittoria.

Vittoria, anh vừa đọc nhẩm vừa cười rạng rỡ. Tuyệt thật.

Lúc đứng lên, Langdon cảm thấy chóng mặt. Anh liếc nhìn cái thang, lưỡng lự không biết có nên đưa trả quyển sổ vào chỗ cũ không. Mặc kệ, anh thầm nghĩ. Cứ để cha Jaqui cất cũng được. Rồi anh gấp cuốn sổ lại, đặt ngay ngắn dưới đáy giá sách.

Vừa bước lại bên nút bấm đang toả sáng nhè nhẹ ở cửa ra, Langdon vừa thở dốc. Tuy nhiên, vận may tình cờ vẫn khiến anh cảm thấy phấn chấn.

Nhưng đúng lúc Langdon giơ tay định nhấn nút mở cửa thì vận may ấy kết thúc...

Bất thình lình, vòm kính như thở dài đánh thượt một cái. Đèn mở dần, rồi nút khoá cửa cũng tắt ngấm. Như một con mãnh thú vừa thở hắt ra lần cuối cùng trong đời, toàn bộ vòm kính chuyển thành tối thui Có người vừa cắt cầu dao điện.

***

Các hầm mộ linh thiêng của Vatican được bố trí bên dưới Đại thánh đường St. Peter. Những Giáo hoàng đã quá cố đều được an táng tại đây.

Vittoria đã xuống đến bậc thang cuối cùng, và bước vào trong hầm mộ. Đường hầm tối tăm nơi đây khiến cô nghĩ tới cỗ máy gia tốc hạt Hadron tại CERN - tối tăm và lạnh lẽo. Lờ mờ hiện ra dưới luồng sáng của những chiếc đèn pin, nơi này đầy vẻ ma quái. Hai bên lối đi có rất nhiều hốc được khoét sâu vào trong tưởng. Và sâu trong những hốc ấy là bóng dáng nặng nề thô kệch của những cỗ quan tài đá.

Vittoria thấy choáng váng. Vì lạnh đấy mà, cô tự nhủ, dù biết rằng đó không phải là lý do duy nhất. Cô có cảm tưởng như họ đang bị theo dõi, không phải bởi những con người bằng xương bằng thịt, mà bởi những bóng ma trong đêm tối nơi này. Bên trên các quan tài là những hình nộm mô phỏng các Giáo hoàng quá cố đầy đủ lễ phục, to bằng người thật, nằm chắp tay trước ngực.

Trông như thể những hình nhân ấy từ trong quan tài nhô lên, vượt qua sức cản của nắp quan tài bằng đá cẩm thạch, để thoát ra khỏi những ràng buộc của cái chết. Những luồng sáng từ mấy cây đèn pin tiếp tục tiến lên phía trước, những hình nhân ấy tạo thành những bóng đen, hiện ra trước mắt họ, đổ dài xuống, rồi biến mất, y như một vũ điệu ma quái mô phỏng một cuộc tỉ thí võ nghệ đầy ghê rợn.

Tất cả mọi người đều im lặng, không biết vì thành kính hay vì sợ hãi. Có lẽ là cả hai. Giáo chủ Thị thần nhắm mắt, chân bước thẳng về phía trước, như thể ngài đã thuộc lòng từng lối đi từ lâu lắm rồi. Vittoria có cảm giác rằng vị thầy tu trẻ tuổi này đã nhiều lần có những cuộc dạo chơi kỳ quái kiểu này từ khi Đức Thánh Cha tạ thế... có lẽ là để cầu nguyện bên quan tài của người.

Ta đã nhiều năm làm việc dưới sự giám hộ của đức Hồng y Giáo chủ, chính miệng viên Thị thần này đã nói thế. Người như là cha của ta vậy. Giáo chủ Thị thần đã nói những lời này khi kể về vị giám mục đã cứu ông ra khỏi quân ngũ. Tuy nhiên, đến lúc này cô mới hiểu hết toàn bộ câu chuyện. Chính vị giám mục đỏ sau này đã trở thành Giáo hoàng và người phụ tá trẻ của ngài đã trở thành Giáo chủ Thị thần.

Chi tiết này làm cho tất cả trở nên rất rõ ràng. Vittoria thầm nghĩ.

Cô gái luôn có những trực cảm rất chính xác về nội tâm của người khác, và vị thầy tu trẻ tuổi này đã khiến cô phải băn khoăn suốt từ lúc đặt chân đến toà thánh. Vừa mới gặp gỡ, Vittoria đã cảm nhận trong tâm can của con người này một nỗi đau vò xé, đáng sợ hơn nhiều so với những sự kiện dồn dập đang xảy đến ngay lúc này. Đằng sau vẻ điềm tĩnh này là một linh hồn bị giằng xé dữ dội. Giờ thì Vittoria biết chắc rằng trực giác của mình không sai chút nào. Vị thầy tu này không những đang đứng trước hiểm hoạ đáng sợ nhất trong lịch sử Vatican, mà còn phải chèo chống trong thế đơn thương độc mã.

Những người lính lúc này đã bước chậm lại, dường như trong bóng tối dày đặc, họ không thể xác định được vị trí của đức Giáo hoàng vừa tạ thế. Giáo chủ Thị thần thì vẫn phăm phăm bước tới đầy tự tin, sau đó dừng lại trước một mộ phần bằng đá hoa cương có vẻ sáng hơn so với những ngôi mộ khác. Ngay bên trên quách đá là hình mô phỏng cựu Giáo hoàng. Nhận ra khuôn mặt mà có đã mấy lần trông thấy trên ti-vi, Vittoria chợt thấy kinh hãi. Chúng ta định làm gì thế này?

- Ta biết là chúng ta không còn nhiều thời gian. - Giáo chủ Thị thần nói - Nhưng dù sao thì hãy cùng cầu nguyện một lát.

Những người lính Thuỵ Sĩ cúi đầu xuống. Vittoria cũng làm theo, tim đập thình thịch. Giáo chủ Thị thần quỳ xuống và khấn nguyện bằng tiếng Ý. Nghe những lời cầu nguyện của vị thầy tu trẻ tuổi, nỗi đau trong lòng cô gái chợt dâng trào... những giọt nước mắt khóc cho người cha vừa qua đời... người cha linh thần của cô. Giáo chủ Thị thần như đang khấn nguyện cho cả cố Giáo hoàng lẫn cha của Vittoria.

- Cha tôn kính, người chỉ lối, người bạn lớn của con. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần âm vang trong bầu không khí tĩnh mịch. Hồi còn bé con đã được cha căn dặn rằng tiếng nói trong tim con cũng chính là tiếng nói của Chúa. Cha đã dặn con phải luôn tuân phục những mệnh lệnh trong tim ấy, bất chấp mọi khó khăn gian khổ Lúc này con đang nghe thấy những mệnh lệnh ấy, và sắp sửa phải làm một việc thật khó khăn. Xin cha hãy cho con sức mạnh. Xin cha hãy xá tội cho con. Những gì con sắp làm... chính là vì tất cả những gì cha vẫn luôn tôn thờ. Amen!

Amen. - Những người lính lặp lại.

Amen. Cha ơi. Vittoria gạt nước mắt.

Giáo chủ Thị thần chậm rãi đứng dậy và bước tránh sang một bên.

- Hãy đẩy nắp quan tài ra.

Những người lính gác Thuỵ Sĩ lưỡng lự:

- Thưa cha, theo luật thì chúng con phải tuân theo lệnh cha. - Một người lính nói - Chúng con sẽ...

Giáo chủ Thị thần hiểu những suy nghĩ của người lính trẻ:

- Một ngày nào đó, ta sẽ phải cầu xin sự tha thứ của các bạn vì đã đẩy các bạn vào tình huống khó khăn này. Nhưng hôm nay, bơn phận của các bạn là làm theo mệnh lệnh của ta. Luật thánh được ban hành là để bảo vệ Giáo hội. Lúc này, ta yêu cầu các bạn vi phạm luật thánh cũng là vì lợi ích của Giáo hội.

Im lặng giây lát, người đội trưởng ra lệnh cho hai người còn lại. Cả ba người đặt đèn pin xuống đất, bóng họ đố dài về phía trước. Họ tiến lại bên quan tài. Trong những luồng sáng từ mặt đất hắt lên, ba người lính đặt tay lên một đầu nắp quan tài, gồng người lên trong tư thế chuẩn bị. Nhận được hiệu lệnh, cả ba cùng ra sức đẩy thật mạnh. Nắp quan tài bằng đá gần như không hề nhúc nhích, Vittoria thầm cầu cho họ không đủ sức để mở chiếc quách đá này. Bỗng nhiên cô cảm thấy sợ hãi khi nghĩ tới những gì mình sẽ phải trông thấy.

Ba người lính đẩy mạnh hơn nữa, nhưng nắp quan tài vẫn không hề lay chuyển.

- Để ta giúp một tay. - Giáo chủ Thị thần xắn ống tay áo thầy tu lên quá khuỷu. - Hai, ba nào! - Tất cả đều thở hổn hển.

Vittoria định giúp họ, nhưng chưa kịp lên tiếng thì nắp quan tài bắt đầu dịch chuyển. Bốn người đàn ông lại đẩy thêm một lần nữa, tiếng đá nghiến vào đá nghe lộng óc, nắp quan tài dịch hẳn sang một bên, mở ra một góc khá rộng - hình nộm của Giáo hoàng trên nắp quan tài bị ngửa hẳn đầu ra sau, còn hai chân thì xiên thắng ra trước mặt họ.

Tất cả đều bất giác lùi lại.

Một người lính nhặt cây đèn pin dưới chân lên. Anh ta lưỡng lự rồi chiếu đèn vào mộ phần. Luồng sáng lúc đầu run rẩy, rồi nhanh chóng ổn định. Những người lính khác cũng lần lượt làm theo. Dường như cả ba người lính đều muốn quay đầu bỏ chạy. Gần như đồng thời, họ đưa tay làm dấu thánh.

Quan sát mộ phần, Giáo chủ Thị thần rùng mình, hai vai rũ xuồng như đang phải mang một gánh nặng quá sức. Một lúc lâu sau ngài mới quay mặt đi.

Vittoria tưởng miệng Đức Thánh Cha đã cứng đờ, và cô sẽ phải bẻ gãy xương hàm để quan sát lưỡi. Nhưng hoá ra điều đó là không cần thiết. Hai gò má đã chảy xệ hẳn xuống, và miệng Giáo hoàng mở rộng.

Lưỡi của ngài đen sì.

***

Không âm thanh. Không ánh sáng.

Nhà mái vòm bí mật tối đen như mực.

Nỗi khiếp sợ quả là một chất kích thích loại mạnh, và lúc này thì Langdon đã nhận ra điều đó. Hổn hển, anh lần mò trong bóng tối hướng về cánh cửa xoay. Sờ thấy nút điều khiển trên tường, anh nhấn thật mạnh. Không thấy gì. Langdon đập mạnh một lần nữa. Cửa vẫn đóng im ỉm.

- Không nhìn thấy gì! - Langdon kêu to lên, nhưng cổ họng đã nghẹt lại. Anh chợt nhận ra mức độ nguy hiểm của tình thế này.

Hai lá phổi đang căng ra vì thiếu ôxy, trong khi adrenaline khiến cho nhịp tim tăng mạnh, làm Langdon cảm tưởng như có ai vừa đảo tung toàn bộ lục phủ ngũ tạng trong người mình.

Langdon xô mạnh cánh cửa, trong thoáng chốc, hình như cánh cửa vừa nhúc nhích chút đỉnh. Anh đẩy mạnh một lần nữa, mắt hoa lên. Hoá ra toàn bộ vòm kính vừa xê dịch chứ không phải cánh cửa. Loạng choạng, Langdon vấp phải một cái chân thang và ngã nhào. Đầu gối anh va mạnh vào cạnh sắc của một giá sách, rách toạc. Vừa lầm bầm trong miệng, Langdon vừa nhỏm dậy và lần mò tìm cái thang.

Đã thấy. Thang nhôm chứ không phải bằng gỗ hay sắt như anh hy vọng. Túm chặt cái thang, Langdon giương nó về phía trước như thể những người lính thời trung cổ giương những phiến gỗ nặng để phá thành. Anh chạy lấy đà rồi phang mạnh cái thang vào bức tường kính. Anh đã đứng quá gần bức tường. Cái thang va vào bức tường kính rồi nầy bật lại. Nghe tiếng va chạm chẳng lấy gì làm mạnh, anh biết là cái thang nhôm này không có tác dụng.

Nghĩ tới khẩu súng lục bán tự động, hy vọng lóe lên rồi lập tức tan biến. Anh không còn giữ khẩu súng nữa. Lúc ở phòng làm việc của Giáo hoàng, Olivetti đã thu lại khẩu súng vì không muốn anh mang vũ khí trong người lúc tiếp kiến Giáo chủ Thị thần. Lúc đó lý do ông ta đưa ra có vẻ rất thuyết phục.

Lại một lần nữa Langdon cố gọi thật to, nhưng cổ họng đã nghẹt hơn hẳn lần trước.

Rồi anh nhớ tới chiếc máy bộ đàm mà người lính gác để trên bàn, bên ngoài vòm kính. Sao lúc ấy mình không mang luôn vào đây chơ xong! Hai mắt đã bắt đầu hoa lên Langdon cố tập trung suy nghĩ. Trước đây mình đã từng bị gài bẫy, anh tự nhủ. Tình thế hồi đó tồi tệ hơn nhiều, mình đã thoát được ra dù mới chỉ là một thằng bé con. Bóng đêm đen kịt như muốn nuốt chửng tất thảy. Nghĩ đi!

Langdon nằm xuống sàn nhà, duỗi hai tay dọc theo mạng sườn rồi thu chân lại. Việc trước tiên phải làm là lấy lại bình tĩnh.

Thư giãn nào. Bình tĩnh lại.

Không còn phải bơm máu ngược hướng tác động của trọng lực nhịp tim của Langdon bắt đầu chậm lại. Những vận động viên bơi lội vẫn thường làm thế này để bổ sung dưỡng khí cho cơ thể trong những phút giải lao ngắn ngủi giữa các đợt đua.

Trong vòm vẫn còn rất nhiều không khí, anh tự nhủ. Nhiều lắm. Suy nghĩ đi. Langdon chờ đợi, biết đâu những bóng đèn điện này sắp sửa sáng lên trong chốc lát nữa. Vẫn thế. Trong tư thế cuộn người như vậy Langdon thấy dễ thở hơn, và trạng thái cam chịu kỳ lạ chợt xuất hiện. Anh thấy bình an trong lòng. Nhưng Langdon không chấp nhận trạng thái ấy.

Khỉ thật, mình phải cố gắng lên chứ. Nhung mà...

Trên cổ tay Langdon, chú chuột Mickey sung sướng toả sáng như thể đang thưởng thức thứ bóng tối mịt mùng ở nơi này: 9 giờ 33 phút tối. Nửa giờ nữa là đến Lửa. Lúc này 30 phút đó dường như dài dằng dặc. Thay vì tìm cách thoát ra ngoài, tâm trí anh đang đòi hỏi một lời giải thích. Kẻ nào đã ngắt điện? Liệu có phải là Rocher đang mở rộng diện tìm kiếm? Chẳng lẽ Olivetti không báo cho Rocher biết trước là mình đang ở trong này? Dù sao thì lúc này điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì đáng kể.

Ngửa đầu ra sau, miệng mở thật rộng, Langdon hít thở thật sâu. Sau mỗi nhịp thở cảm giác mệt mỏi giảm đi đáng kể. Đầu óc minh mẫn ra. Anh tập trung toàn bộ tinh lực, cố vắt óc suy nghi.

Tường kính, Langdon thầm nghĩ. Nhưng loại kính này dày kinh khủng. Không hiểu có cuốn sách nào ở đây được lưu trữ trong các hộp kim loại chống cháy không. Thỉnh thoảng anh vẫn thấy những cái hộp kiểu đó trong các vòm lưu trữ, nhưng trong vòm này thì chưa nhìn thấy cái nào. Thêm vào đó, tìm kiếm trong bóng tối sẽ rất tốn thời gian. Mà có thấy thì anh cũng không thể một mình nhấc được lên, đặc biệt là trong điều kiện này.

Còn cái bàn để kiểm tra tài liệu thì sao? Langdon biết, cũng giống như các vòm khác, ở giữa các giá sách của vòm kính này có một cái bàn. Thế thì sao? Anh cũng không thể một mình nhấc cả cái bàn lên. Mà nếu có cố kéo lê thì cũng chẳng được bao xa. Các kệ sách ở đây được kê rất sát nhau, và lối đi quá hẹp.

Lối đi quá hẹp...

Bất giác, Langdon biết phải làm gì.

Chợt cảm thấy dầy tự tin, anh đứng phắt dậy. Đầu óc chao đảo Langdon chới với trong bóng đêm để tìm chỗ dựa. Tay anh quờ được một cái kệ. Kiên nhẫn đợi trong giây lát, anh tự nhắc mình phải cẩn trọng. Cần phải tận dụng toàn bộ sức lực thì mới được việc Ý như một cầu thủ bóng đá đang chống vào thanh trượt để tập luyện, Langdon chống tay vào cái kệ, chân choãi ra, và đẩy. Đẩy được cho cái kệ này nghiêng đi thì tốt. Nhưng kệ sách chẳng hề lay chuyển. Anh lấy lại tư thế, thử đẩy lại một lần nữa, hai chân Langdon trượt về phía sau. Cái kệ kêu kẽo kẹt, nhưng vẫn không nhúc nhích.

Cần phải có đòn bẩy.

Lại dùng tay sờ soạng tìm bức tường kính để dò đường, Langdon tiến về phía đầu kia vòm kính. Bức tường cuối thình lình hiện ra, Langdon đâm sầm vào đó khiến vai anh đau điếng.

Lắm bầm nguyền rủa, Langdon bám vào một cái kệ cao đến ngang đầu. Một chân đạp vào bức tường kính sau lưng, một chân giẫm lên tầng thấp của cái kệ, anh bắt đầu trèo lên. Sách rơi tứ tung. Langdon chẳng cần biết. Bản năng sinh tồn trong anh lúc này đã hoàn toàn chế ngự ý thức bảo vệ các tài liệu lưu trữ. Cảm thấy bóng tối dày đặc bắt đầu khiến mình mất thăng bằng, Langdon nhắm mắt lại, cố tập trung sự chú ý vào các giác quan khác và trèo nhanh hơn. Càng lên cao càng có ít không khí để thở Anh đu người lên tầng sách trên, giẫm bừa lên sách vở, cố tìm điểm tựa cho bàn chân. Rồi y như một vận động viên leo núi vừa chinh phục được đỉnh cao, Langdon đu được vào tầng sách cao nhất. Anh soài tầng chân rả sau, đạp vào bức tường kính để leo lên, cho đến khi toàn thân gần như thành một đường ngang.

Giây phút quyết định định đây, Robert. Lời nhấc nhở vang lên trong tâm trí anh. Y như động tác xuống tân ở phòng tập của trường Harvard đấy nhé.

Thu hết sức bình sinh, Langdon đạp chân vào tường làm điểm tựa, gồng hai tay, đẩy cái kệ về phía trước. Không được.

Hổn hển, anh lấy lại tư thế, lần này choãi chân rộng thêm ra, rồi lại đẩy. Cái kệ xê dịch chút đỉnh, anh tiếp tục đẩy. Cái kệ chúi về phía trước được khoảng gần hai phân, rồi lại ngả trở lại tư thế ban đầu. Tận dụng thời điểm thuận lợi này, Langdon hít thật sâu và tiếp tục đẩy Cái kệ lắc lư mạnh thêm.

Giống như xích đu của trẻ con ấy mà, anh tự nhủ. Phải tận dụng nhịp đung đưa của nó. Một chút nữa thôi.

Langdon đẩy cái kệ, mỗi lần lại cố gắng choãi chân ra thêm.

Cơ bắp đau rát, nhưng anh mặc kệ. Cái kệ giờ đã lắc qua lắc lại như con lắc đồng hố. Ba lần đẩy nữa thôi, anh tự động viên mình.

Nhưng thực ra chỉ cần có hai lần.

Có một khoảnh khắc chòng chành không trọng lượng, sau đó sách vở rơi tứ tung, Langdon và cá kệ đổ về đằng trước.

Cái kệ đang đổ đập mạnh vào kệ kế tiếp. Langdon vẫn bám thật chặt, dồn toàn bộ trọng lượng cơ thể xuống để khiến cho kệ tiếp theo cũng đổ theo. Có một tích tắc hãi hùng bất động, rồi không chịu được sức nặng của kệ thứ nhất, kệ thứ hai cũng bắt đầu đổ về đằng trước. Langdon lại tiếp tục ngã cùng với cái kệ.

Như những quân cờ đô-mi-nô khổng lồ, các kệ sách lần lượt để nhào Kim loại nghiến vào kim loại, sách bắn tung tóe khắp mọi nơi. Langdon bám thật chặt khi chiếc kệ vẫn tiếp tục đổ xuống cùng với các kệ khác. Không hiểu có bao nhiêu kệ sách tất cả. Bức tường kính ở đằng kia dày kinh khủng...

Khi cái kệ mà Langdon đang bám vào gắn như đã nằm ngang hẳn ra thì anh nghe thấy thứ âm thanh đang mong đợi - một sự va chạm khác. Tít đằng xa, phía cuối vòm kính. Tiếng rít của kim loại quất vào kính. Toàn bộ vòm kình rung chuyển. Cái kệ cuối cùng, dưới sức nặng của những kệ khác, đã đập rất mạnh vào bức tường kính. Nhưng âm thanh tiếp theo đó lại không phải là điều anh mong đợi.

Im lặng.

Không có tiếng loảng xoảng của kính vỡ, chỉ có một tiếng phịch dội lại, như thể bức tường đã lặng lẽ đón toàn bộ sức nặng của cả dãy kệ. Nằm trên đống sách, Langdon trợn tròn mắt. Đâu đó phía xa vang lên tiếng kính nứt. Giá kể còn không khí mà thở thì Langdon cũng không dám thở, anh căng tai lắng nghe.

Một giây. Hai...

Rồi đúng vào lúc mà anh bắt đầu thấy đầu óc mụ đi, Langdon nghe thấy một loại âm thanh mới... một vết nứt đang lan dài khắp vòm kính. Rồi đột nhiên, toàn bộ vòm kính nổ tung như một quả đạn pháo. Cái kệ anh đang bám vào đổ sập xuống nền nhà.

Như trận mưa mát lành đổ ào xuống hoang mạc khô cằn, vô số mảnh kính vỡ rơi tung tóe khắp nơi trong bóng tối. Không khí ùa mạnh vào.

***

Sau đó 30 giây, tại khu hầm mộ của Vatican, Vittoria đang đứng trước thi thể của cố Giáo hoàng thì tiếng khọt khẹt của máy bộ đàm phá vỡ bầu không khí tĩnh mịch. Tiếng người nói vội vàng như sắp hụt hơi đến nơi.

- Tôi là Robert Langdon đây. Có ai nghe thấy không?

Vittoria ngẩng lên. Robert! Bỗng nhiên cô ao ước có anh ở bên biết chừng nào.

Những người lính gác Thuỵ Sĩ bối rối nhìn nhau. Một người gỡ chiếc máy giắt ở thắt lưng ra.

- Ông Langdon đấy à? Đây là kênh số 3 rồi. Chỉ huy đang đợi tin của ông ở kênh 1 cơ.

- Tôi biết ông ấy ở kênh 1. Tệ thật, tôi không muốn nói chuyện với ông ta. Tôi muốn gặp Giáo chủ Thị thần. Ngay bây giờ! Có ai biết Đức cha đang ở đâu không?

Trong bóng tối mịt mùng bao phủ Nhà mái vòm bí mật của Vatican, Langdon đứng giữa đống đổ nát và thở hổn hển. Cảm thấy một dòng chất lỏng âm ấm trên cánh tay trái, anh biết mình đã bị chảy máu. Giọng nói của Giáo chủ Thị thần vang lên gần như tức thì khiến Langdon giật mình.

- Ta là Giáo chủ Thị thần Ventresca đây. Có chuyện gì thế?

Langdon nhấn nút, tim anh đang đập như trống trận trong lồng ngực.

- Hình như có kẻ muốn sát hại tôi.

Đường dây im lặng.

Langdon cố giữ bình tĩnh.

- Và tôi cũng đã biết địa điểm hành quyết tiếp theo.

Những lời nói vang lên ngay sau đó không còn là của Giáo chủ Thị thần nữa. Đó chính là chỉ huy Olivetti:

- Ông Langdon, đừng nói thêm gì nữa.

***

Langdon băng qua khoảng sân Belvedere, hướng tới đài phun nước trước cửa trụ sở của đội lính gác Thuỵ Sĩ, đồng hồ Mickey trên cổ tay anh dính đầy máu, đã 9 giờ 41 phút. Máu đã ngừng chảy, nhưng cánh tay anh giờ nhức nhối hơn nhiều. Đến nơi, anh thấy dường như tất cả những người khác cũng vừa mới đồng loạt tụ về Olivetti, Rocher, Giáo chủ Thị thần, Vittoria và mấy người lính Thuỵ Sĩ.

Vittoria chạy ngay đến bên Langdon.

- Robert! Anh bị thương rồi này!

Langdon chưa kịp nói câu gì thì đã thấy Olivetti đứng ngay trước mặt.

- Ông Langdon, thấy ông vẫn an toàn thế này tôi nhẹ cả người. Tôi xin lỗi vì sự nhầm lẫn trong Nhà mái vòm bí mật.

- Nhầm lẫn là thế nào? - Langdon chất vấn. - Ông biết quá rõ là...

- Đó chính là lỗi của tôi. - Rocher bước lại, tỏ vẻ hối hận. - Tôi không hề biết ông đang ở trong phòng lưu trữ. Một số địa điểm thuộc khu vực trắng chung đường điện với toà nhà đó. Chúng tôi đã mở rộng khu vực tìm kiếm. Chính tôi đã dập cầu dao điện. Nếu mà biết trước thì tôi đã...

- Robert, Đức Thánh Cha đã bị đầu độc. - Vittoria cầm bàn tay bị thương của anh. - Hội Illuminati đã ám hại người.

Langdon nghe thấy, nhưng hầu như không hiểu gì. Quá nhiều sự kiện. Anh chỉ cảm thấy bàn tay Vittoria thật êm ái dễ chịu.

Giáo chủ Thị thần rút từ trong ống tay áo thầy tu ra một chiếc khăn tay lụa và đưa cho Langdon. Ngài không nói gì. Nhưng ánh mắt rực lên một ngọn lửa mới mẻ.

- Robert này, anh nói là đã xác định được địa điểm tiếp theo rồi phải không? - Vittoria hỏi.

Langdon thấy như đang bay:

- Đúng thế. Đó chính là...

- Đừng. - Olivetti ngắt lời. - Ông Langdon, có một lý do khiến tôi bảo ông đừng nêu lên địa điểm đó trên máy bộ đàm. - Ông ta quay lại mấy người lính gác Thuỵ Sĩ đang có mặt trong phòng. - Phiền các anh ra ngoài hộ một chút.

Những người lính rút hết sang trung tâm an ninh bên cạnh. Không một ai tỏ ra tự ái. Chỉ có sự phục tùng.

Olivetti quay lại với những người trong phòng.

- Tôi rất đau lòng khi phải nói ra điều này, nhưng để ám sát Đức Thánh Cha, kẻ xấu dứt khoát phải thông đồng với một kẻ nào đó trong hàng ngũ của chúng ta. Vì đại cục, chúng ta không thể tin tưởng bất kỳ người nào. Kể cả những người lính của tôi. - Dường như ông ta rất đau lỏng khi phải nói ra những lời cuối cùng ấy.

Rocher có vẻ lo lắng:

- Có sự câu kết tức là...

- Đúng thế! - Olivetti đáp. - Hiệu quả của việc dò tìm cũng không thể đảm bảo được. Tuy nhiên chúng ta phải chấp nhận canh bạc này. Cứ tìm tiếp đi.

Dường như Rocher định nói gì đó, nhưng lại thôi. Ông ta đi ra ngoài.

Giáo chủ Thị thần hít một hơi thật sâu. Ngài không nói gì, nhưng Langdon cảm thấy trong con người này có một quyết tâm sắt đá dường như thời điểm có tính quyết định đã đến.

- Ông chỉ huy này. - Giáo chủ Thị thần tỏ ra quyết đoán. - Ta sẽ tuyên bố hoãn Mật nghị Hồng y.

Olivetti bĩu môi, có vẻ không đồng tình:

- Con nghĩ rằng cha không nên làm thế. Chúng ta vẫn còn những 2 giờ 20 phút nữa.

- Loáng một cái là hết.

Giọng nói của Olivetti đầy thách thức:

- Thế cha định một mình sơ tán toàn bộ Hồng y đoàn hay sao?

- Ta sẽ làm mọi việc có thể để cứu lấy Giáo hội. Còn cách thức thế nào thi không cần ông phải quan tâm.

Olivetti đứng thẳng người lên:

- Dù cha có định làm gì thì con cũng không có quyền ngăn cản. - Ông ta ngừng giây lát. - Đặc biệt là sau thất bại này, trên cương vị chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ, con chỉ xin cha hãy kiên nhẫn thêm chút nữa. Cha hãy đợi thêm 20 phút... đợi đến sau 10 giờ. Nếu thông tin của ông Langdon chính xác thì chúng ta có cơ hội bắt sống được hung thủ. Tức là vẫn còn cơ hội để không phải phá vỡ truyền thống và giữ gìn sự tôn nghiêm cho Giáo hội.

- Tôn nghiêm ư? - Giáo chủ Thị thần cười khẩy. - Chúng ta đã mất cái đó từ lâu rồi ông chỉ huy ạ. Có lẽ ông vẫn chưa chịu nhận ra, chúng ta đang trong tình trạng chiến tranh mất rồi.

Một người lính từ trung tâm an ninh bước vào phòng, lên tiếng gọi Giáo chủ Thị thần:

- Thưa cha, có tin báo chúng ta đã bắt giữ được người phóng viên BBC đó, anh ta tên là Gunther Glick.

Giáo chủ Thị thần gật đầu:

- Bảo cả anh ta lẫn người kỹ thuật viên camera đợi ta ở cửa nhà nguyện Sistine.

Olivetti trợn tròn mắt:

- Cha định làm gì thế?

- 20 phút thôi đấy, ông chỉ huy ạ! - Vị thầy tu trẻ tuổi bước ra ngoài.

Lần này, khi chiếc xe Alfa Romeo của Olivetti lao ra khỏi thành Vatican, không thấy có chiếc xe lạ nào bám theo sau. Trên băng ghế sau, Vittoria đang dùng những thứ tìm được trong một cái túi cứu thương để băng tay cho Langdon.

Mắt Olivetti vẫn nhìn thẳng về phía trước:

- Được rồi, ông Langdon, giờ chúng ta đi đâu?

***

Dù còi báo động rú ầm ĩ, chiếc xe Alfa Romeo của Olivetti vẫn chẳng khiến mọi người để ý. Họ đang qua cầu và lao thẳng vào trung tâm thành Rome. Tất cả các xe cộ trên đường đều đi theo hướng ngược lại, hướng về Vatican. Dường như vùng đất thiêng này vừa trở thành địa điểm giải trí số một của Rome.

Langdon ngồi ở băng ghế sau, với vô số câu hỏi trong đầu, anh nghĩ đến hung thủ, không hiểu lần này có bắt được hắn không, liệu hắn có chịu khai ra những gì họ muốn biết hay không, hay là đã quá muộn mất rồi. Không hiểu Giáo chủ Thị thần đã công bố cho đám đông tụ tập trên quảng trưởng St. Peter biết hiểm hoạ này được bao lâu rồi. Sự kiện mới đây trong Nhà mái vòm bí mật vẫn ám ảnh tâm trí anh. Do sơ ý.

Không một lần đạp phanh, Olivetti cho xe lạng lách giữa dòng xe cộ, hướng về thánh đường Santa Maria Della Vittoria. Nếu là vào một thời điểm khác thì anh chắc hẳn đã sợ tái mặt. Nhưng lúc này, Langdon đã trở nên hoàn toàn vô cảm. Chỉ duy nhất cảm giác giật giật ở cánh tay nhắc anh nhớ đến thực tại.

Trên đầu họ, còi xe hú vang. Báo cho hắn biết ta đang đến thì còn nước non gì, Langdon thầm nghĩ. Nhưng quả là họ đang đi với tốc độ đáng kinh ngạc. Chắc là gần đến nơi thì Olivetti mới tắt còi đi.

Giờ đây, trong giây phút yên tĩnh, Langdon mới cảm thấy kinh ngạc về việc Giáo hoàng bị đầu độc. Không thể tin nổi, nhưng lại cũng rất hợp lôgíc. Nội gián trong lòng kẻ địch vốn là nền tảng sức mạnh của Illuminati - phá hoại từ bên trong. Và khó có thể kháng định chắc chắn rằng không bao giờ có chuyện Giáo hoàng bị sát hại. Đã từng có vô số tin đồn về những hành động phản trắc, dù không ai có thể khẳng định bất kỳ điều gì, vì không được phép khám nghiệm tử thi. Cho tới gần đây, các nhà khoa học đã được phép dùng tia X để xem xét lăng mộ của Giáo hoàng Celestine V. Theo lời đồn thì ngài đã chết trong tay người kế nhiệm quá sốt sắng của chính mình, Boniface VIII. Họ hi vọng những tấm phim chụp X quang sẽ cho thấy một vài dấu vết của sự bạo hành - chẳng hạn như một cái xương bị gãy. Nhưng rồi phim chụp lại cho thấy cả một cái đinh dài 20 cm đã bị đóng vào hộp sọ của Giáo hoàng, thật kinh hãi.

Langdon nhớ đến hàng loạt bài báo mà những sinh viên say mê đề tài Illuminati đã gửi cho anh. Lúc đầu anh nghĩ những bài báo đó chỉ là trò nghịch ngợm, nên đã vào kho lưu trữ của trường Harvard để xác minh lại. Thật đáng kinh ngạc, tất cả đều rất xác thực. Anh vẫn dán những bài báo đó trên bảng tin trong văn phòng của mình, để chứng minh rằng những hãng tin lớn dôi khi cũng hoang tưởng về Illuminati. Lúc này thì những nghi ngờ đó chẳng còn là hoang tưởng nữa rồi. Langdon vẫn nhớ rõ như in những bài báo ấy...

CÔNG TY PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH ANH QUỐC

Ngày 14 tháng 6 lăm 1998

Giáo hoàng John Paul I, tạ thế năm 1978, chính là nạn nhân của một chi nhánh của hội Tam Điểm có tên là P2... Hội kín này đã sát hại ngài khi John Paul I quyết định buộc Tổng Giám mục người Mỹ Paul Macrinkus thôi giữ chức Giám đốc Ngân hàng Vatican. Ngân hàng này bị cáo buộc có dính líu đến những hoạt động tài chính mờ ám của hội Tam Điểm.

THỜI BÁO NEW YORK

Ngày 24 tháng 8 trăm 1998

Tại sao cố Giáo hoàng John Paul I lại mặc áo sơ mi khi đi ngủ? Tại sao chiếc áo bị xé toạc? Chưa hết. Không có bất kỳ một cuộc điều tra nào. Hồng y Villot cấm chỉ việc khám nghiệm tử thi với lý do là luật thánh không cho phép khám nghiệm tử thi đối với Giáo hoàng. Và tất cả thuốc men của John Paul I đều bị lấy đi khỏi phòng ngủ của ngài, cả kính, dép lê, và di nguyện của ngài cũng vậy.

THƯ TÍN HÀNG NGÀY LONDON

Ngày 27 tháng 8 năm 1998

Một âm mưu. Cái vòi bạch tuộc của hội Tam Điểm hùng mạnh, dã man và bất hợp pháp đã vươn vào tận bên trong Vatican.

Điện thoại cầm tay của Vittoria chợt đổ chuông, giải thoát Langdon khỏi những ý tưởng đáng sợ.

Vittoria trả lời máy, cô gái có vẻ ngạc nhiên vì có người gọi cho mình vào lúc này. Từ xa, Langdon nhận ra ngay giọng nói lạnh lẽo của Maximilian Kohler.

- Vittoria à? Maximilian Kohler đây. Đã tìm được hộp phản vật chất chưa?

- Max à? Ông có khỏe không?

- Tôi đã xem tin tức trên truyền hình. Không ai nhắc gì đến CERN và hộp phản vật chất. Tốt lắm. Có chuyện gì thế?

- Chúng tôi vẫn chưa tìm thấy hộp phản vật chất. Tình hình rất phức tạp. Robert Langdon làm việc vô cùng hiệu quả. Chúng tôi đang lần theo tung tích của kẻ đã sát hại Hồng y Giáo chủ. Bây giờ chúng tôi đang đi đến...

- Cô Vetra. - Olivetti ngắt lời cô gái. - Nói thế thôi.

Vittoria lấy tay che ống nói, vẻ bực bội.

- Ông ấy là giám đốc của CERN. Ông ấy có quyền được biết...

- Nếu thế thì bảo ông ấy đến đây mà giải quyết vụ việc này đi -Olivetti lại chen ngang. - Cô đang sử dụng kênh liên lạc thông thường. Nói thế đủ rồi.

Vittoria hít một hơi thật sâu:

- Max?

- Tôi có thông tin cho cô đây. - Max nói - Liên quan đến cha cô hình như ông ấy đã tiết lộ thông tin về phản vật chất cho một người nào đó.

Vittoria buồn buồn:

- Max, cha tôi nói là ông ấy không hề kể với bất kỳ ai.

Vittoria này, tôi e là cha cô có kể đấy. Tôi phải kiểm tra lại các dữ liệu an ninh đã. Tôi sẽ sớm gọi lại cho cô.

Cuộc gọi bị ngắt.

Trông Vittoria bỗng xanh xao hẳn đi, cô gái cất điện thoại vào túi ao.

- Cô không sao chứ? - Langdon hỏi.

Vittoria gật đầu, nhưng những ngón tay đang run lên, chứng tỏ đó chỉ là lời nói dối.

- Nhà thờ này nằm ngay gần quảng trường Barberini. - Olivetti vừa nói vừa tắt còi hú và kiểm tra đồng hồ đeo tay. - Còn 9 phút nữa.

Lúc mới xác định được địa điểm thứ ba này, vị trí của thánh đường đã khiến anh phải suy nghĩ. Quảng trường Barberini. Cái tên này nghe quen quá... nhưng sao anh chẳng nhớ ra điều gì. Giờ thì Langdon đã hiểu ra. Người ta đã tranh cãi rất nhiều về việc xây dựng một nhà ga xe điện ngầm dưới quảng trường này. Cách đây 20 năm, các nhà sử học đã tỏ ra lo lắng rằng việc xây dựng nhà ga xe điện ngầm bên dưới quảng trường có thể khiến cho Kim tự tháp đá đặt giữa quảng trường bị đổ. Và các chuyên gia quy hoạch đô thị đã cho thay Kim tự tháp đó bằng một cái đài phun nước được đặt tên là Triton.

Vào thời của Bernini, quảng trường Barberini đã từng có một Kim tự tháp bằng đá nguyên khối, lúc này thì Langdon đã nhớ ra điều đó. Tất cả những băn khoăn trong lòng anh về địa điểm thứ ba này lập tức biến mất.

Cách quảng trường một toà nhà, Olivetti cho xe rẽ vào một lối nhỏ, rồi dừng phắt lại giữa phố. Ông ta bỏ áo khoác ra, xắn tay áo lên, kiểm tra lại vũ khí trên người.

- Chúng ta phải thận trọng đề phòng bị hắn nhận ra. - Ông ta nói - Các vị đã lộ diện trên truyền hình, nên bây giờ xin hãy vòng qua bên kia quảng trường cho kín đáo, và quan sát lối vào đằng trước. Tôi sẽ ra đằng sau. - Ông ta rút ra khẩu súng lục bán tự động lúc trước và đưa cho Langdon. - Chỉ để đế phòng thôi mà.

Langdon nhíu mày. Lần thứ hai trong ngày, anh lại phải cầm súng. Langdon tuồn khẩu súng vào túi áo khoác ngực, và chợt nhớ ra trang bản thảo của cuốn Diagramma vẫn còn trong túi áo.

Hoá ra anh đã quên không trả nó lại chỗ cũ. Chắc chắn người phụ trách phòng lưu trữ của Vatican sẽ tức điên người khi biết rằng một trang của cuốn sách vô giá ấy đã bị tha đi khắp thành Rome, chẳng khác gì một tấm bản đồ du lịch tầm thường. Rồi anh nghĩ đến đống đổ nát hoang làn trong Nhà mái vòm bí mật.

Người phụ trách còn có khối việc để mà bận tâm. Mà chắc gì Nhà mái vòm đã tồn tại được qua đêm nay...

Olivetti ra khỏi xe và chỉ tay xuống đầu phố.

- Quảng trường ở đằng kia. Các vị phải quan sát cho kỹ, đừng để hắn phát hiện được. - Ông ta đập đập vào chiếc máy bộ đàm gài ngang thắt lưng - Cô Vetra, kiểm tra lại một lần đã nào.

Vittoria rút điện thoại cầm tay trong túi ra và ấn nút gọi tự động đã cài sẵn lúc ở điện Pantheon. Máy bộ đàm trên thắt lưng của Olivetti lập tức rung.

Ông chỉ huy gật đầu:

- Tốt lắm. Nếu thấy bất kỳ hiện tượng gì thì báo cho tôi ngay. - Ông ta vung vẩy khẩu súng - Tôi sẽ đợi sẵn trong nhà thờ. Kẻ tà giáo này không thể thoát được.

Cũng đúng lúc ấy, ngay sát họ, một chiếc điện thoại cầm tay khác cũng đang đổ chuông Tên sát thủ nghe máy:

- Nói đi.

- Ta, Janus đây. - Một giọng nói vang lên.

Tên sát thủ mỉm cười:

- Xin chào chỉ huy.

- Anh có thể bị phát hiện. Có người đang đến đó để lùng tìm.

- Quá muộn mất rồi. Tôi đã chuẩn bị xong.

- Tốt lắm. Nhớ là phải thoát ra an toàn. Còn nhiều việc cần làm lắm.

- Kẻ nào dám cả gan cản đường tôi thì sẽ phải chết.

- Những kẻ đang cản đường anh đều rất hiểu biết đấy.

- Ngài muốn nói đến gã giảng viên đại học người Mỹ phải không?

- Anh biết ông ta à?

Tên sát thủ cười lớn.

- Điềm tĩnh, nhưng ngây ngô. Tôi đã nói chuyện với gã trên điện thoại rồi. Nhưng cô gái đi cùng với ông ta thì có vẻ ngược lại hoàn toàn. - Nghĩ đến tính cách sôi nổi của cô con gái nuôi của Leonardo Vetra, hắn chợt thấy tim đập mạnh.

Đường dây im lặng giây lát, và hình như tên sát thủ đã cảm nhận được sự do dự đầu tiên của người chỉ huy hội Illuminati.

Cuối cùng, Janus lên tiếng:

- Nếu cần thì phải loại bỏ cả hai.

Tên sát thủ cười mỉm:

- Chuyện đó coi như xong. - Chỉ nghĩ đến cảnh tượng đó, hắn đã thấy sung sướng vô cùng. Nhưng con bé kia thì ta sẽ giữ lại làm chiến lợi phẩm.

***

Một cuộc chiến đang nổ ra trên quảng trường St. Peter.

Quảng trường yên tĩnh bỗng chốc trở thành một bãi chiến trường. Xe hòm của các hãng tin kéo đến, y như những cỗ xe trên mặt trận đang đua nhau giành lấy những vị trí thuận lợi đằng sau công sự. Các phóng viên dọn đồ nghề từ trên thùng xe xuống, hệt như những người lính đang chuẩn bị súng ống đạn được. Quanh quảng trường, các hãng tin đua nhau xí chỗ để đặt loại vũ khí tối tân của họ trong cuộc chiến truyền thông này - các màn hình phẳng.

Màn hình phẳng được đặt trên nóc xe tải hoặc trên một giàn giáo di động. Chúng hiển thị lô-gô của hãng tin, và chủ yếu thực hiện chức năng quảng cáo cho hãng. Nếu chọn được vị trí đắc địa, ví dụ như ngay trước địa điểm xảy ra sự kiện chẳng hạn, thì các hãng tin khác sẽ bị buộc phải quảng bá cho đối thủ đang cạnh tranh với họ khi đưa tin về sự kiện đó.

Quảng trường nhanh chóng biến thành nơi tụ họp của các hãng tin, và của cả đám đông dân chúng. Những người hiểu kỳ từ khắp nơi nườm nượp đổ về. Trên quảng trường vốn rộng mênh mông này, chỗ trống nhanh chóng biến thành của quý. Người ta xúm đen xúm đỏ quanh các màn hình phẳng được đặt trên cao, háo hức xem các bản tin được phát đi trực tiếp.

Cách đó khoảng 100 mét, bên trong những bức tường đá của thánh đường St. Peter, bầu không khí vẫn hoàn toàn tĩnh mịch.

Thiếu uý Chartrand và ba người lính gác Thuỵ Sĩ khác đang di chuyển trong bóng tối. Tay cầm dụng cụ, mắt đeo kính hồng ngoại, họ vừa rà soát xong gian đại sảnh. Cho đến lúc này, nỗ lực rà soát các khu vực công cộng trong thành Vatican vẫn chưa mang lại kết quả.

- Đến đây thì tốt nhất là tháo kính ra. - Người chỉ huy của nhóm lên tiếng.

Chartrand lập tức làm theo. Họ đã tiến gần đến hốc Palliums - hốc lõm ở ngay giữa chính điện. Lúc nào cũng có 99 ngọn đèn dầu toả sáng trong hốc, và cặp kính khuếch đại ánh sáng này rất có thể thiêu cháy cặp mắt của họ.

Cảm thấy nhẹ nhõm sau khi gỡ bỏ cặp kính nặng nề, Chartrand vươn cổ mấy lần, rồi bước xuống và bắt đầu rà soát dưới hốc. Căn phòng quả là đẹp... lộng lẫy và toả sáng. Đây là lần đầu tiên anh có mặt ở căn phòng này.

Làm việc ở Vatican, dường như ngày nào anh cũng phát hiện thêm được một vài chi tiết bí ẩn. Những ngọn đèn này là một trong những chi tiết ấy. Lúc nào cũng có chính xác 99 ngọn đèn toả sáng. Đó là một truyền thống. Chúng luôn được tiếp dầu đầy đủ và không bao giờ tắt. Mọi người nói rằng những ngọn đèn này sẽ cháy đến tận cùng của thời gian.

Hay ít ra thì cũng đến nửa đêm hôm nay, Chartrand thầm nghĩ, cảm thấy miệng lại khô đắng.

Chartrand vung thiết bị rà soát lên trên những cây đèn. Không thấy gì. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, theo như hình ảnh trên màn hình an ninh thì cái hộp được đặt ở một cái hốc tối om.

Trong khi rà soát bên trong hốc Palliums, Chartrand tình cờ thấy một tấm vách ngăn đặt trên một cái hố lớn trên sàn. Cái hố này lại dẫn đến một cầu thang hẹp hướng thẳng xuống dưới. Anh đã nghe mọi người nói về cái hang này. May mắn là không cần phải xuống đó để rà soát. Mệnh lệnh của Rocher rất rõ ràng. Chỉ rà soát những nơi công cộng bỏ qua khu vực trắng.

- Mùi gì thế nhỉ? - Chartrand thắc mắc. Cái hốc này sực nức một mùi hương rất ngọt ngào.

- Từ những cây đèn kia toả ra đấy. - Một người lính trả lời.

Chartrand ngạc nhiên:

- Giống mùi nước hoa thế, chẳng giống mùi dầu hoả tí nào.

- Không phải dầu hoả đâu. Những cây đèn này ở rất gần bàn thờ Đức Thánh Cha, và một hỗn hợp gồm etanol, đường, butan và nước hoa được dùng thay cho dầu hoả.

- Butan à? - Chartrand nhìn những cây đèn đầy cảnh giác.

Người lính kia gật đầu.

- Đừng có làm đổ đèn nhé. Thơm thì thơm thật, nhưng rất dễ cháy đấy.

Rà soát xong hốc Palliums, toán lính gác Thuỵ Sĩ đang quay trở lên thì máy bộ đàm của họ nhận được tín hiệu.

Là những tin tức cập nhật về tình hình. Tất cả đều lắng nghe.

Rõ ràng là đã có những diễn biến mới phức tạp không thể nói trên máy bộ đàm được, nhưng Giáo chủ Thị thần đã quyết định phá vỡ truyền thống, ngài đã phát biểu trước Hồng y đoàn.

Trong lịch sử Giáo hội, chưa bao giờ có sự kiện nào giống thế này. Và cũng trong toàn bộ lịch sử tồn tại của Giáo hội, chưa bao giờ Vatican bị đe doạ bởi một thứ vũ khí tối tân như lúc này.

Biết rằng đã có Giáo chủ Thị thần lo lắng mọi việc nên Chartrand cảm thấy yên tâm. Trong toà thánh này, Giáo chủ Thị thần là người anh kính trọng nhất. Trong đội lính của anh, một số người cho rằng ngài thuộc kiểu người cuồng tín - kiểu người mà Chúa đối với họ là nỗi ám ảnh thay vì lòng kính yêu - nhưng tất cả đều phải thừa nhận rằng... nếu cần phải đấu tranh chống lại kẻ thù của Chúa, thì chắc chắn Giáo chủ Thị thần sẽ là chiến binh can trường nhất.

Tuần vừa rồi, những người lính Thuỵ Sĩ thấy Giáo chủ Thị thần xuất hiện khá nhiều, ngài phải chuẩn bị cho Mật nghị Hồng y và ai cũng thấy rằng vị thầy tu trẻ tuổi này dường như trở nên mạnh mẽ hơn, cái nhìn của ngài có vẻ quyết liệt hơn. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên, bọn họ bàn luận, vì ngài không chỉ chịu trách nhiệm lên kế hoạch cho Mật nghị Hồng y, mà còn phải tiến hành công việc thiêng liêng ấy ngay sau cái chết của đức Giáo hoàng mà ngài hằng tôn thờ.

Mới vào phụng sự tại toà thánh được mấy tháng Chartrand đã nghe kể rằng một quả bom đã lấy đi mạng sống của mẹ đẻ Giáo chủ Thị thần ngay trước mắt ngài, khi ngài mới là một cậu bé.

Một quả bom phát nổ trong nhà thờ... và giờ đây sắp có một quả bom nữa. Điều đáng buồn là nhà chức trách không bắt được thủ phạm của vụ đánh bom đó, người ta tin rằng chắc chắn đó là một nhóm bài Thiên Chúa nào đó. Dần dần vụ việc chìm vào quên lãng. Chả trách Giáo chủ Thị thần rất ghét sự thờ ơ.

Cách đây mấy tháng, vào một buổi chiều yên ả trong toà thánh, Chartrand đã tình cờ gặp Giáo chủ Thị thần trên đường đi.

Biết Chartrand là lính mới, ngài đã rủ anh đi tản bộ. Hai người nói chuyện, và ngay lập tức, Chartrand thấy viên Thị thần này thật gần gũi.

- Con hỏi cha một câu hơi lạ một chút được không ạ? - Chartrand nói.

Giáo chủ Thị thần mỉm cười:

- Được, nếu ta cũng có thể trả lời hơi lạ một chút.

Chartrand cười phá lên:

- Con đã hỏi tất cả những tu sĩ mà con biết, nhưng vẫn chưa thực sự hiểu thấu điều này.

- Con băn khoăn về điều gì? - Giáo chủ Thị thần đi trước Chartrand một bước. Những bước chân nhanh nhẹn, và chiếc áo thầy tu bị hất về phía trước theo những bước chân. Đôi giày đế kếp của ngài thật phù hợp, Chartrand thầm nhận xét, hơi cũ một chút, nó thể hiện bản chất của con người này... hiện đại mà khiêm nhường.

Chartrandhít một hơi thật sâu:

- Con không hiểu thế nào là sự tuyệt đối - nhân đức.

Giáo chủ Thị thần mỉm cười:

- Con vẫn chịu khó đọc Kinh thánh phải không?

- Vâng.

- Thấy khó hiểu khi Kinh thánh miêu tả Chúa là vị thánh tuyệt đối và nhân đức phải không?

- Đúng thế ạ.

- Tuyệt đối và nhân đức nghĩa là Chúa có quyền năng tuyệt đối và nhân đức, đơn giản thế thôi.

- Con hiểu khái niệm đó. Nhưng mà... con cảm thấy có sự mâu thuẫn.

- Đúng thế. Sự mâu thuẫn đó chính là nỗi đau. Loài người phải trải qua đói khát, chiến tranh, bệnh tật...

- Đúng thế đấy ạ. - Chartrand đã biết thế nào Giáo chủ Thị thần cũng sẽ hiểu anh. - Bao nhiêu điều kinh khủng xảy ra trên trái đất. Những bi kịch của con người dường như chứng minh rằng Chúa không thể nào vừa tuyệt đối vừa từ bi. Nếu Người yêu thương chúng ta và có quyền năng để thay đổi mọi thứ thì chắc chắn Người đã không để loài người phải chịu đau đớn, phải không ạ?

Giáo chủ Thị thần nhíu mày:

- Thật thế sao?

Chartrand hơi lúng túng. Hay là anh đã đi quá đà? Phải chăng anh đã hỏi một câu không nên hỏi?

- Ý con là... nếu Chúa yêu thương chúng ta thì Người phải bảo vệ chúng ta chứ. Có lẽ là Người tuyệt đối nhưng chẳng quan tâm, hoặc Người từ bi nhưng không đủ sức mạnh để cứu giúp loài người.

- Trung sĩ này, con đã có con chưa?

Chartrand bối rối:

- Thưa cha, chưa ạ.

- Chẳng hạn con có một đứa con trai 8 tuổi... liệu con có yêu thương thằng bé không?

- Dĩ nhiên là có chứ ạ.

- Liệu con có cho phép nó đi trượt pa-tanh không?

Chartrand suy nghĩ. Giáo chủ Thị thần có vẻ là một tu sĩ khá nhạy cảm.

- Vâng, chắc là có ạ. - Chartrand đáp. - Chắc chắn con sẽ cho phép nó, nhưng con sẽ dặn dò nó phải cẩn thận.

Tức là trên cương vị của một người cha, con sẽ bảo ban nó những điều căn bản, rồi để cho nó tự học lấy đúng không nào?

- Con sẽ không kè kè chạy theo nó từng bước một.

- Thế nếu thằng bé bị ngã trầy đầu gối thì sao?

- Thì nó sẽ tự học cách để không bị ngã nữa.

Giáo chủ Thị thần mỉm cười:

- Nghĩa là mặc dù con có khả năng can thiệp để bảo vệ cho thằng bé khỏi phải trải qua đau đớn, con vẫn muốn thể hiện tình yêu thương của mình bằng cách cho thằng bé tự mình học khôn phải không?

- Tất nhiên. Vì phải có đau đớn mới thành người được. Ai cũng phải trải qua điều đó.

Giáo chủ Thị thần gật đầu:

- Con nói đúng rồi đấy.

***

Từ một con phố nhỏ tối tăm ở phía Tây, Langdon và Vittoria quan sát quảng trường Barberini. Nhà thờ đã ở ngay trước mặt họ, chóp mái của nó lờ mờ nhô lên từ sau những ngôi nhà chen chúc quanh quảng trường. Đêm đã mang lại cho nơi này một bầu không khí mát dịu, và Langdon ngạc nhiên thấy quảng trường không một bóng người. Những màn hình ti-vi toả sáng từ những ô cửa sổ trên đầu nhắc anh nhớ tới địa điểm mà tất cả mọi người đang đổ về trong đêm nay.

"Vatican vẫn chưa đưa ra lời bình luận nào... Illuminati đã sát hại hai Hồng y Giáo chủ... quỷ dữ đang có mặt ở thành Rome... các nhà phân tích cho rằng chắc chắn có nội gián bên trong toà thánh..."

Tin tức lan nhanh chẳng kém gì ngọn lửa của bạo chúa Neo. Thành Rome kinh ngạc, và cả thế giới cũng vậy. Không hiểu họ có thể chặn đoàn tàu tốc hành này lại không. Trong khi chờ đợi, Langdon đưa mắt quan sát quảng trường, và nhận thấy nó vẫn giữ được hình e-líp nguyên thuỷ, dù một số công trình xung quanh đã lấn vào khá nhiều. Trên cao, một ngọn đèn nê-ông chiếu sáng một khách sạn hạng sang, trông như một cái bàn thờ hiện đại để tưởng nhớ những anh hùng thời quá khứ. Vittoria đưa tay chỉ. Biển hiệu của khách sạn này thích hợp đến mức kỳ dị.

KHÁCH SẠN BERNINI

10 giờ kém 5 phút. Vittoria vừa nói vừa đưa mắt nhìn khắp quảng trường. Đúng lúc ấy, cô túm chặt lấy cánh tay Langdon và lôi anh vào một góc khuất. Vittoria chỉ tay về phía trung tâm quảng trường.

Langdon nhìn theo hướng tay cô gái. Vừa trông thấy, cơ bắp trên người anh lập tức co cứng lại.

Hai bóng đen vừa xuất hiện, ngay dưới bóng đèn đường, trước mặt họ. Cả hai đều mặc áo khoác, đầu đội mũ trùm màu đen, loại mũ truyền thống của những goá phụ theo Cơ đốc giáo.

Langdon đoán rằng đây là hai người phụ nữ, nhưng tối thế này thì chẳng dám chắc bất cứ điều gì. Một người dường như đã có tuổi và đi lại một cách khó khăn, lưng còng xuống. Người kia to béo và ít tuổi hơn, đang dìu bà ta.

- Đưa súng cho tôi. - Vittoria nói.

- Không được...

Nhanh như cắt, Vittoria đã thò tay vào túi anh và tự lấy ra. Lúc này khẩu súng đang lóe sáng trên tay cô gái. Rồi Vittoria đi vòng ra sau hai người kia, không một tiếng động, như thể gót chân cô không hề giẫm lên mặt đường trải sỏi. Thấy Vittoria bắt đầu tiến đến để đón lõng hai người kia từ phía sau, Langdon đờ ra. Rồi lầm bầm tự nguyền rủa bản thân, anh vội vàng bám theo cô.

Hai người này đi rất chậm, và chỉ trong vòng nữa phút, Vittoria và Langdon đã ở sau lưng họ. Vittoria làm bộ khoanh tay trước ngực để giấu khẩu súng không lộ ra, nhưng chỉ một loáng là có thể sẵn sàng nhả đạn ngay được. Càng đến gần hai bóng đen kia, cô gái càng bước đi nhanh thoăn thoắt khiến Langdon phải vất vả lắm mới theo kịp. Anh đá phải một hòn sỏi làm nó văng tít ra xa, Vittoria liền quay sang, trừng mắt. Nhưng hai bóng đen kia dường như chẳng để ý gì cả. Họ đang nói chuyện.

Còn cách họ khoảng 10 mét, Langdon bắt đầu nghe thấy tiếng nói. Không nghe rõ được từng từ, chỉ là những lời thầm thì khe khẽ. Ngay cạnh anh, Vittoria đang sải bước mỗi lúc một nhanh hơn. Hai cánh tay khoanh trước ngực đã bắt đầu lơi ra, sẵn sàng chĩa súng ngay lập tức. 6 mét. Những tiếng nói đã rõ hơn - một người nói to hơn hẳn. Giọng giận dữ, khàn khàn. Langdon cố lắng tai nghe xem bà ta đang nói gì, nhưng một giọng nói khác vang lên, phá tan bầu không khí tĩnh mịch.

- Mi scusi!(1) - Giọng nói thân thiện của Vittoria như một ngọn đuốc xé tan màn đêm trên quảng trường.

Thần kinh Langdon căng ra khi hai người kia quay lại. Vittoria vẫn phăm phăm tiến lên phía trước, thậm chí còn nhanh hơn ban nãy, như thể muốn đâm thẳng vào họ. Chắc chắn hai người này sẽ không kịp phản ứng. Langdon thấy hai chân mình đã dừng bước. Từ đằng sau, anh thấy hai cánh tay Vittoria nới lỏng hẳn ra, khẩu súng đung đưa phía trước. Rồi nhìn qua vai cô gái, anh trông thấy một khuôn mặt hiện ra dưới ánh đèn đường. Kinh hãi, Langdon nhao lên phía trước:

- Vittoria, đừng!

Nhưng Vittoria đã nhanh hơn anh một tích tắc. Như thể vô tình, hai cánh tay Vittoria khoanh trước ngực, không trông thấy khẩu súng đâu nữa, cô gái co vai lại y như một thiếu phụ trong sương đêm lạnh giá. Langdon loạng choạng, suýt nữa thì vấp vào hai người mặc áo choàng đen trước mặt.

- Buona sera(2), Vittoria giật mình thốt lên, lùi ngay lại.

Langdon thở phào nhẹ nhõm. Trước mặt họ, hai người phụ nữ đang quắc mắt nhìn. Một bà già đến nỗi gần như không đứng nổi. Bà thứ hai đang phải xốc nách bà ta. Cả hai đều cầm tràng hạt trên tay. Hình như Langdon và Vittoria đã làm họ bối rối.

Vittoria mỉm cười, dù vẫn chưa hết run.

- Nhà thờ Santa Maria Della Vittoria đâu ạ?

Hai người đàn bà cùng giơ tay chỉ về phía toà nhà đồ sộ cạnh con dốc trước mặt. - E la!(3)

- Glazie(4) - Langdon đáp lời. Anh đặt tay lên vai Vittoria và nhẹ nhàng kéo cô gái đi. Hoá ra họ vừa định tấn công hai bà già.

- Non Si puo entrare(5) - một trong hai bà già nói - Ha chiuso presto(6)

- Đóng cửa sớm ạ? - Vittoria ngạc nhiên. - Tại sao thế?

Cả hai người kia nhiệt tình giải thích mọi chuyện. Họ có vẻ giận dữ. Langdon chỉ hiểu bập bõm thứ tiếng Ý làu bàu của hai bà già này. Cách đây 15 phút, hai bà này đã đến nhà thờ để cầu nguyện cho Vatican, và một người đàn ông đến nói với họ rằng nhà thờ phải đóng cửa sớm.

- Hai bác có biết người đó không? - Vittoria hỏi với vẻ căng thẳng.

Cả hai cùng lắc đầu. Trông lạ hoắc, hắn đuổi hết mọi người ra ngoài, chẳng thèm để ý đến vị thầy tu trẻ và người gác nhà thờ doạ sẽ gọi cảnh sát đến. Hắn chỉ cười phá lên, lại còn dặn họ bảo cảnh sát nhớ mang máy quay phim đến.

- Máy quay à? Langdon băn khoăn.

Hai người phụ nữ tỏ vẻ giận dữ, họ gọi hắn là bar-àrabo. Rồi vẫn chưa hết làu bàu giận dữ, họ đi tiếp.

- Bar-àrabo? - Langdon hỏi Vittoria. - Một kẻ vô giáo dục à?

Vittoria đột nhiên trở nên căng thẳng.

- Không hẳn. Đó là một lối chơi chữ thể hiện sự khinh thường. Có nghĩa là... Ả-rập.

Langdon rùng mình, anh đưa mắt quan sát thánh đường. Đúng lúc ấy anh lờ mờ trông thấy một hình ảnh từ sau khung cửa kính của nhà thờ. Langdon thấy lạnh xương sống.

- Vẫn chưa biết gì, - Vittoria rút điện thoại ra và nhấn nút gọi tự động. - Phải báo cho Olivetti biết.

Không nói nên lời, Langdon vươn tay ra, chạm vào cánh tay cô gái. Run run, anh chỉ về phía nhà thờ.

Vittoria há hốc mồm.

Trong thánh đường, lửa rừng rực cháy, những ô kính cửa sổ rực sáng, hệt như những con mắt của quỷ.

Chú thích:

(1) Mi scusi: Xin lỗi.

(2) Buona sera: Xin chào.

(3) E la: Đằng kia.

(4) Grazie: Cảm ơn.

(5) Non Si puo entrare: Nhưng không vào được.

(6) Ha chiuso presto: Nó đóng cửa rồi.

Langdon và Vittoria lao vào thánh đường Santa Maria Della Vittoria, cánh cổng bằng gỗ bị khoá. Vittoria rút khẩu súng bán tự động mà Olivetti đưa cho, và bắn ba phát vào cái then gỗ, cánh cổng bật mở.

Không có phòng chờ, nên toàn cảnh thánh đường lập tức hiện ra sau khi hai người mở tung cửa chính. Cảnh tượng bên trong thật bất ngờ và kỳ dị, đến nỗi Langdon phải nhắm mắt vào rồi lại mở mắt ra trong giây lát, để cho trí não có thời gian xử lý những hình ảnh vừa trông thấy.

Thánh đường này được trang trí theo trường phái ba-rốc, rất cầu kỳ... với bàn thờ chúa dát vàng. Ngay giữa thánh đường, thẳng mái vòm xuống, một đống ghế băng bị xếp chồng lên nhau cao ngất ngưởng đang cháy rừng rực như một giàn thiêu. Lửa bốc cao gần lên tới tận mái vòm. Langdon đưa mắt nhìn theo ngọn lửa, và anh trông thấy cảnh tượng khủng khiếp nhất.

Tít trên cao, những sợi dây cáp được kéo ra từ hai bên trần nhà, chúng vốn được dùng để lắc bình hương trên đầu những người đến đây hành lễ. Tuy nhiên, lúc này chẳng thấy có bình hương nào. Và cũng chẳng lắc lư. Những sợi dây lúc này đã được dùng với một mục đích khác...

Có một người bị treo trên đó. Quần áo bị lột sạch. Cồ tay và cổ chân bị buộc vào các đầu dây và bị kéo căng đến mức gần như sắp rách ra. Hai cánh tay bị kéo đang sang hai bên như thể bị đóng đinh vào một cây thập giá vô hình đang đu đưa trong chính ngôi nhà của Chúa.

Ngước nhìn lên, Langdon đờ người. Sau thoáng chốc, anh lại phát hiện thêm một chi tiết nữa. Người này vẫn còn sống, và đang ngóc đầu lên. Đôi mắt đờ đẫn hướng thẳng vào Langdon cầu cứu câm lặng. Trên ngực người này có một vết cháy xém. Nạn nhân đã bị đóng dấu sắt nung lên người. Không nhìn được rõ vết đóng dấu ấy, nhưng Langdon biết chắc chắn nó là cái gì. Lửa bốc cao thêm, bị lưỡi lửa táp vào chân, ông già rùng mình và thét lên đau dớn.

Như thể vừa nhận được một sức mạnh vô hình, Langdon bất giác lao nhanh về phía đám cháy rừng rực. Gần đến nơi, anh hít phải lớp khói dày đặc. Còn cách ngọn lửa 3 mét, đang chạy hết tốc lực, Langdon vấp phải một bức tường nhiệt nóng ran. Da mặt đau rát, anh ngã ngửa ra sau, người đập mạnh xuống sàn lát đá hoa cương. Anh loạng choạng đứng dậy và lại lao lên phía trước, hai tay giơ thẳng ra để tự vệ.

Và Langdon tức khắc nhận ra. Ngọn lửa nóng vô cùng.

Đành phải lùi lại, anh đưa mắt nhìn bốn bức tường. Một tấm thảm thật dày, Langdon thầm nghĩ. Biết đâu có thể dập tắt ngọn lửa... Nhưng anh biết không thể tìm thấy thảm. Nhà thờ này được xây dựng thao trường phái ba-rốc, Robert ạ, có phải là một thánh đường kiểu Đức đâu cơ chứ! Nghĩ đi! Langdon quay lại nhìn con người khốn khổ đang bị treo trên đống lửa.

Lửa và khói cuộn lên cao, gần đến tận mái vòm. Những sợi dây buộc cổ tay nạn nhân được dòng qua hai cái ròng rọc sát trên trần nhà, và đầu kia của hai sợi dây được cố định vào hai đầu cọc được bố trí hai bên thánh đường. Langdon đưa mắt nhìn đầu cọc. Nó khá cao nhưng nếu anh với được một đầu cọc và nhả cho sợi dây chùng xuống thì nạn nhân có thể tránh được ngọn lửa.

Đột nhiên, ngọn lửa bốc vụt lên, và Langdon nghe thấy tiếng kêu thét đầy đau đớn. Da chân của nạn nhân đã bắt đầu rộp. Hồng y Giáo chủ đang bị thiêu sống. Langdon chạy ngay đến bên cái cọc buộc dây.

Ở cuối thánh đường, Vittoria túm chặt lấy một cái ghế, cố lấy lại bình tĩnh. Những gì vừa trông thấy thật kinh hoàng. Cô cố gắng nhìn ra hướng khác. Phải làm gì đi chứ? Olivetti đâu rồi nhỉ? Ông ta đã trông thấy hung thủ chưa? Đã bắt được hắn chưa? Cả hai đang ở chỗ nào? Vittoria định tới giúp Langdon một tay, nhưng một tiếng động khiến cô chú ý.

Đúng lúc ấy, tiếng lửa cháy lách tách bỗng dưng lo hẳn lên, nhưng thứ tiếng động kia cũng rất rõ. Tiếng rung của kim loại. Rất gần. Tiếng rung liên hồi đó dường như vọng ra từ cuối hàng ghế, phía tay trái. Nghe như tiếng chuông điện thoại, rất gắt. Siết chặt khẩu súng, Vittoria tiến về phía cuối dãy ghế. Tiếng động ấy trở nên rõ ràng hơn. Dừng. Rồi lại rung. Lặp đi lặp lại.

Đến cuối dãy ghế, Vittoria cảm thấy tiếng động này phát ra tử trên mặt đất, đâu đó phía cuối một cái ghế băng dài. Tiếp tục tiến về phía trước, súng chĩa thẳng trước mặt, Vittoria nhận ra tay trái cô còn cầm một vật nữa - điện thoại cầm tay. Trong lúc hốt hoảng, cô quên rằng đã nhấn nút gọi tự động từ lúc ở ngoài cổng để báo động cho ông chỉ huy. Vittoria áp điện thoại vào tai.

Chuông vẫn đang đổ. Không thấy chỉ huy nghe máy. Đột nhiên, Vittoria kinh hãi nhận ra âm thanh mà cô đang nghe thấy. Run rẩy, cô gái tiến về phía trước.

Nhìn thấy hình hài bất động trên sàn, Vittoria cảm thấy đất dưới chân như sụt xuống. Không thấy vết máu chảy. Không có vết tích của ẩu đả. Chỉ duy nhất cái đầu của ông chỉ huy... bị vặn ngược ra sau, 180 độ, thật đáng sợ. Vittoria cố gạt khỏi tam trí hình ảnh người cha của cô nằm chết sóng soài trên sàn nhà.

Chiếc máy bộ đàm giắt ở thắt lưng của Olivetti đang nằm lên sàn đá. Vittoria tắt điện thoại trên tay, máy bộ đàm cũng lập tức ngừng đổ chuông. Trong yên tĩnh, Vittoria nghe thấy một âm thanh khác nữa. Tiếng thở, trong bóng tối, ngay sau lưng.

Cô gái lập tức xoay người lại, giương súng lên, nhưng đã quá muộn. Hung thủ đập mạnh khuỷu tay vào gáy cô gái, và Vittoria bị một luồng nhiệt truyền thẳng từ đỉnh đầu đến tận bàn chân.

- Giờ thì cô em là của ta. - Một giọng nói cất lên.

Sau đó chỉ còn một màn đêm thăm thẳm.

Sát bức tường đối diện, trong giáo đường, Langdon đang cố giữ thăng bằng trên lưng dựa của một cái ghế băng, cố vươn lên để với chiếc cọc. Cái cọc vẫn cao hơn đầu anh gần 2 mét. Trong các nhà thờ, những cái cọc kiểu này thường được bố trí khá cao để tránh va vào đầu mọi người. Các tu sĩ vẫn thường dùng một loại thang gỗ gọi là piuòli để trèo lên chỗ cái cọc. Chắc chắn hung thủ cũng phải dùng cái thang đó để treo nạn nhân lên cao thế kia. Khỉ thật, cái thang đó đâu rồi nhỉ? Langdon cúi xuống, nhìn quanh. Hình như anh vừa thoáng thấy cái thang ở đâu đây. Chỗ nào cơ chứ? Sau giây lát, tim anh chùng hẳn xuống. Langdon đã nhớ ra chỗ của cái thang. Anh quay lại nhìn ngọn lửa đang bốc cao. Kia rồi, cái thang ở tít trên chóp, đang cháy rừng rực.

Tuyệt vọng, Langdon đứng nguyên tại chỗ, đưa mắt quan sát khắp nhà thờ, hi vọng tìm được cái gì để với đến cái cọc. Lúc này, anh mới chợt nhận ra.

Vittoria đâu mất rồi? Chẳng thấy cô đâu cả. Hay Vittoria đi gọi người tới giúp? Langdon gọi tên cô gái thật to. Không có tiếng đáp lại. Còn Olivetti đâu?

Có một tiếng rú đau đớn trên cao, và Langdon biết anh chẳng còn kịp làm gì được nữa. Ngước nhìn lên, anh thấy nạn nhân đang bị thiêu sống từ từ. Và anh chỉ còn nghĩ ra được một thứ.

Nước. Thật nhiều nước để dập lửa. Ít ra thì cũng không cho nó bốc cao thêm nữa.

- Khỉ thật, mình phải đi lấy nước! - Langdon kêu to.

- Cái đó để sau! - Một giọng nói cất lên từ cuối thánh đường.

Langdon quay lại, và suýt nữa ngã nhào.

Một gã đàn ông đen đúa như quỷ đang thẳng tiến tới chỗ anh.

Trong ánh lửa bập bùng, Langdon đã kịp trông thấy cặp mắt trắng dã của hắn. Và khẩu súng hắn đang cầm trên tay chính là khẩu súng ban nãy còn ở trong túi áo của anh... khẩu súng mà Vittoria đã cầm.

Một loạt những cảm giác kinh hãi đồng thời dâng lên trong anh. Sợ hãi và lo lắng cho Vittoria. Đồ thú vật kia đã làm gì cô gái? Vittoria có bị đau không? Hay còn tồi tệ hơn thế. Cùng lúc ấy vị Hồng y đang bị treo trên cao cũng kêu thét lên. Ông ấy chết mất. Nhưng không thể làm gì vào lúc này. Rồi trông thấy hung thủ đang giương súng nhằm vào ngực mình, Langdon lại thấy lo sợ cho bản thân. Đúng lúc viên đạn bay ra khỏi nòng, theo bản năng, Langdon nhảy xuống khỏi lưng ghế, đang tay lao thẳng xuống dãy ghế băng trước mặt.

Ngã vào đống ghế, Langdon bị va mạnh, rồi ngã nhào xuống mặt sàn. Sàn đá cứng như thép. Tiếng bước chân đang tiến lại từ bên phải. Langdon quay người về phía trước, lồm cồm bò dưới những chiếc ghế băng để chạy trốn.

Bị treo ngược trên cao, Hồng y Guidera đang trải qua những giây phút đau đớn cuối cùng. Nhìn xuống, Đức cha thấy da chân mình đã rộp hẳn lên và bắt đầu bong rời ra. Ta đang ở trong địa ngục, Hồng y thầm nghĩ. Chúa ơi, sao Người lại đoạ đày con thế này?

Hồng y biết mình đang ở trong địa ngục, vì ngài đang nhìn dấu sắt nung trên ngực ngược từ dưới lên... ấy thế mà thật kỳ dị, nó có ý nghĩa rất rõ ràng.

***

Ba lần bỏ phiếu. Chưa có Giáo hoàng.

Trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Mortati đang cầu mong một phép nhiệm màu. Xin cho bốn người được lựa chọn xuất hiện!

Trì hoãn thế là lâu lắm rồi. Nếu chỉ thiếu một vị thôi, thì đức cha còn hiểu được. Nhưng cả bốn cùng một lúc? Chẳng còn lựa chọn nào khác. Thế này thì chỉ có Chúa đích thân ra tay mới có được hai phần ba số phiếu cần thiết.

Khi then cửa nhà nguyện bắt đầu dịch chuyển, Hồng y Mortati và toàn thể Hồng y đoàn đều quay sang nhìn. Hành động mở dấu niêm phong thế này chỉ có thể có một ý nghĩa duy nhất.

Theo luật, cửa nhà nguyện chỉ được mở trong hai trường hợp - để đưa người bị ốm ra ngoài, và để đón các vị Hồng y đến muộn.

Bốn vị được lựa chọn đã quay trở lại!

Tim Hồng y Mortati đập rộn lên. Mật nghị Hồng y có cơ hội thành công rồi!

Khi hai cánh cửa mở ra, tất cả những ai có mặt trong nhà nguyện đều há hốc mồm, nhưng không phải vì vui sướng. Thấy người đó bước vào, đức cha kinh ngạc. Lần đầu tiên trong lịch sử Vatican, một Giáo chủ Thị thần dám cả gan phá dấu niêm phong trên cửa nhà nguyện Sistine sau khì đã đóng hai cánh cửa ấy lại.

Viên Thị thần này đang nghĩ gì không biết!

Giáo chủ Thị thần sải bước đến bên bàn thờ Chúa và bắt đầu phát biểu trước sự kinh ngạc tột cùng của toàn thể Hồng y đoàn.

- Thưa các ngài. - Anh ta nói - Tôi đã đợi quá lâu rồi. Chuyện này các ngài có quyền được biết.

***

Langdon chẳng cần biết sẽ đi đến đâu. Bản năng là phương tiện định hướng duy nhất để thoát khỏi hiểm nguy lúc này. Khuỷu tay và đầu gối đau rát vì phải bò lồm cồm dưới gầm ghế. Nhưng Langdon vẫn tiếp tục bò. Tâm trí mách bảo anh hãy di chuyển về bên trái. Nếu ra được đến lối đi giữa là có thể chạy thoát ra ngoài. Anh biết điều đó là không thể. Lối đi chính đã bị cả một bức tường lửa bịt mất rồi! Đầu Langdon căng ra để tìm đường thoát thân, trong khi tay và chân vẫn tiếp tục bò. Tiếng bước chân bên phải đã gần hơn.

Langdon hoàn toàn bị bất ngờ. Anh cứ tưởng còn khoảng 3 mét nữa thì sẽ đến cửa trước của thánh đường. Nhưng anh đã ước lượng sai. Bất ngờ, những chiếc ghế đang che chắn cho anh biến mất. Langdon sợ cứng người, người anh nhô hẳn ra ngoài, ngay phía trước thánh đường. Từ góc nhìn kỳ dị của anh lúc này, Langdon thấy một hình khối rất lớn hiện ra phía tay trái, chính là tác phẩm nghệ thuật đã dẫn dắt anh đến đây. Langdon đã quên hẳn tác phẩm điêu khắc này. Khoảnh khắc đê mê của thánh Teresa hiện ra, chẳng khác nào một vật phẩm khiêu dâm thời hiện đại... vị thánh trong tư thế nằm ngửa, cơ thể oằn oại trong hoan lạc, miệng hé mở như thể đang rên rỉ đê mê, và trên người nữ thánh, một thiên thần đang giương cao cây giáo lửa.

Một phát đạn nổ ngay trên hàng ghế băng, sượt qua đầu Langdon. Anh bất giác căng người lên như một vận động viên thể thao đang chạy nước rút. Lượng adrenaline trong máu tăng vọt, theo bản năng, anh chạy, đầu chúi xuống, chạy ngang qua thánh đường rộng lớn, hướng về phía tay phải. Lại có tiếng súng nổ sau lưng, một lần nữa Langdon chúi xuống thật thấp, rồi trượt chân, văng một đoạn dài trên sàn đá hoa cương, rồi ngã vật xuống ngay trước hàng lan can của một cái hốc tường bên tay phải.

Đúng lúc này, anh trông thấy cô gái đang nằm bất động phía cuối thánh đường. Vittoria! Đôi chân trần của cô gái quặp lại, bất động, nhưng hình như vẫn còn thở. Langdon chẳng kịp làm gì để giúp Vittoria.

Ngay lập tức, tên sát thủ vòng qua những hàng ghế bên tay trái nhà thờ và bắt đầu sải bước về phía Langdon. Trong tích tắc, Langdon nhận ra, thế là hết. Hắn giương súng lên, và điều duy nhất Langdon có thể làm trong lúc này là lăng người, nhảy qua lan can vào trong hốc. Đúng lúc Langdon chạm chân xuống sàn đá bên trong hốc, hàng cột đá bao quanh hốc bị một loạt đạn phá tan tành.

Loạng choạng bò sâu thêm vào trong hốc, Langdon cảm thấy mình đã thật sự bị dồn vào chân tường trong cái hốc hình bán nguyệt này. Trước mắt anh, thứ duy nhất được đặt trong hốc hiện ra mới đúng lúc làm sao - một cái quách bằng đá. Có lẽ để dành riêng cho mình, anh thầm nghĩ. Đến cả kiểu dáng của nó cũng thích hợp một cách kỳ lạ. Đây là loại quan tài đá nhỏ, giản dị, không có các chi tiết trang trí cầu kỳ. Chứng tỏ gia tộc này không giàu có lắm. Chiếc quan tài được kê trên hai phiến đá hoa cương, Langdon quan sát khe hở giữa chiếc quan tài và sàn nhà, ước lượng xem có thể chui lọt xuống dưới không.

Tiếng bước chân vang lên ngay sau lưng.

Chẳng còn sự lựa chọn nào khác, Langdon dán chặt người xuống sàn, trườn vào bên dưới chiếc quan tài đá. Mỗi tay bám vào một phiến đá hoa cương, anh đẩy người vào trong, giống như một vận động viên bơi ếch, kéo thân mình vào bên dưới quan tài.

Súng nổ.

Cùng với tiếng súng là một cảm giác mà lần đầu tiên trong đời Langdon trải qua... một viên đạn sượt qua da thịt. Tiếng gió rít rồi như một cái roi da quất xuống thật mạnh, viên đạn sượt qua người anh, trúng vào tảng đá hoa cương và bụi bay tung tóe.

Tim đập thình thịch, Langdon đẩy tay thật mạnh, thu nốt người vào hẳn dưới gầm quan tài. Lồm cồm, anh chui qua chiếc quan tài đá sang phía bên kia.

Hết đường.

Lúc này Langdon đang đối diện với bức tường sau của mộ phần. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái góc chật hẹp này sẽ là nấm mồ của chính anh. Và rất mau lẹ, Langdon trông thấy nòng súng chĩa vào khe hở giữa quan tài đá và sàn nhà. Tên sát thủ hạ súng xuống song song với sàn nhà, chĩa thẳng vào người Langdon.

Không thể trượt được.

Bản năng tự vệ lúc này đã hoàn toàn chi phối đầu óc Langdon.

Anh xoay người nằm sấp xuống, song song với chiếc quan tài. úp mặt xuống, anh tì hai tay trên sàn, vết đứt do bị kính vỡ găm vào lúc ở trong Nhà mái vòm bí mật đau nhói lên. Mặc kệ, anh chống tay thật mạnh. Anh đẩy cho toàn thân cong lên trong một tư thế khá kỳ quặc, đúng lúc súng nổ. Đạn bay sượt qua dưới bụng Langdon, không khí rung lên, những phiến đá hoa cương lát sàn bị thủng lỗ chỗ. Mắt nhắm nghiền, cố chống lại cảm giác mệt mỏi đến kiệt quệ, anh cầu cho loạt đạn chấm dứt.

Mãi rồi nó cũng phải hết.

Tiếng băng đạn rỗng lách cách thay cho tiếng đạn nổ ầm ầm.

Langdon chậm chạp mở mắt ra, chỉ sợ hai mí mắt có thể gây ra tiếng động. Cố nén đau, anh giữ nguyên tư thế của mình, như một con mèo đang vươn vai. Không dám thở. Tai ù đi vì tiếng súng, nhưng Langdon vẫn cố lắng nghe xem kẻ giết người có dấu hiệu bỏ đi không. Yên lặng. Nghĩ đến Vittoria, anh thầm ước có thể làm gì đó để giúp cô gái.

Rồi một âm thanh khủng khiếp vang lên. Gần như không phải tiếng người mà là tiếng gầm gào lên gân lên cốt.

Chiếc quan tài đá bên cạnh Langdon bỗng nghiêng lên. Thấy khối đá hàng trăm cân sắp sửa đổ chụp xuống người, Langdon nằm bẹp xuống sàn. Trọng lực đã thắng lực ma sát, và nắp quan tài trượt xuống ngay bên cạnh anh. Tiếp đến là chiếc quan tài, nó trượt khỏi bệ đỡ, rồi úp xuống người Langdon.

Langdon biết hoặc là anh bị chụp vào bên trong cỗ quan tài, hoặc là sẽ bị nghiền nát dưới gô mép của nó. Thu đầu và chân lại hai tay ép chặt vào mạng sườn, Langdon nhắm mắt chờ đợi cỗ quan tài đá đổ sập xuống.

Rồi cỗ quan tài sập xuống, mặt đất rung lên. Mép trên của nó sập xuống chỉ cách đầu Langdon có vài li làm anh tê nhói đến tận chân răng. Cánh tay phải cứ tưởng sẽ bị nghiền nát, thế mà lại không hề hấn gì. Mở mắt ra, Langdon thấy một luồng sáng.

Cạnh bên phải của chiếc quan tài vẫn chưa trượt hẳn khỏi bệ đỡ và đang lơ lửng. Tuy nhiên, ngay trên đầu anh hiện ra khuôn mặt của thần chết, thần chết theo đúng nghĩa đen của nó.

Chủ nhân của mộ phần đang lơ lửng ngay trên đầu anh, những cái xác đã phân huỷ thường dính chặt vào đáy quan tài.

Bộ xương đung đưa như một người tình dịu dàng, rồi nghe có tiếng nứt gãy, nó đầu hàng trước trọng lực và đổ sụp xuống. Cái xác lao xuống, ôm ghì lấy Langdon, bộ xương mục đã mủn ra thành bột rơi như mưa vào mắt và miệng anh.

Langdon còn chưa kịp hoàn hồn thì đã thấy một bàn tay thò vào trong mép quan tài, lần mò, dò dẫm trên bộ xương mục, y như con trăn đói. Bàn tay ấy tiếp tục lần sờ cho đến khi chạm vào cổ Langdon, rồi siết chặt. Langdon cố sức chống cự lại những ngón tay cứng như thép đang siết chặt thanh quản của anh, nhưng tay áo bên trái của anh đã bị kẹp vào mép quan tài đá. Chỉ còn có tay phải được tự do, Langdon cuống quít chống chọi.

Langdon thu chân lên, tận dụng khoảng trống ít ỏi bên trong cỗ quan tài, cố đặt bàn chân lên đáy quan tài trên đầu. Đây rồi. Thu người, anh dận mạnh hai chân. Đúng lúc những ngón tay cứng như sắt bắt đầu siết mạnh hơn nữa vào cổ bọng, Langdon nhắm mắt, chống mạnh chân lên. Cỗ quan tài chuyển động rất ít, nhưng thế là đủ.

Có tiếng đá nghiến vào đá nghe lọng óc, rồi cỗ quan tài trượt hẳn khỏi bệ đỡ, và đổ hẳn xuống sàn. Mép quan tài nghiến vào bàn tay của hắn, kẻ giết người đau đớn kêu thét lên. Những ngón tay đang siết cổ Langdon rời ra, rồi biến mất trong bóng tối. Khi hắn rút được bàn tay ra, cỗ quan tài đổ phịch xuống, úp chặt xuống nền đá hoa cương.

Chỉ còn lại bóng tối mịt mùng.

Không một tiếng động.

Không thấy có tiếng đập phá cay cú trên cỗ quan tài đã bị lật úp Không có bàn tay nào cố lần mò sờ soạng. Chẳng thấy gì.

Nằm cạnh đống xương mục trong bóng tối, Langdon cố chống cự lại một thứ bóng tối khác đang muốn chụp lấy tâm trí, anh hướng ý nghĩ của mình về cô gái.

- Vittoria. Em còn sống hay không?

Nếu Langdon biết sự thật - cảm giác kinh hãi tột độ mà Vittoria sẽ phải trải qua khi hồi tỉnh lại - thì hẳn anh đã thương cô gái đến mức sẽ cầu cho Vittoria được chết đi.

***

Trong nhà nguyện Sistine, cùng với toàn thể Hồng y đoàn, Hồng y Mortati cố hiểu những gì vừa nghe được. Trước mắt đức cha, trong ánh sáng toả ra từ những cây nến, Giáo chủ Thị thần vừa mới nói về những mối cừu thù, về sự phản trắc, khiến cho đức cha thấy run lên. Giáo chủ Thị thần vừa kể về những vị Hồng y bị bắt cóc, bị đóng dấu sắt nung lên người và bị sát hại, về một hội kín cổ xưa có tên là Illuminati - chỉ riêng cái tên thôi cũng đã đủ gợi lại những lo lắng vốn đã chìm vào quên lãng. Illuminati vừa mới hồi sinh, và nguyền sẽ trả thù giáo hội. Với giọng nói đầy đau đớn, Giáo chủ Thị thần nói về cố Giáo hoàng... người đã bị Illuminati đầu độc. Rồi với giọng nói gần như thì thầm, vị thầy tu trẻ tuổi này nói về một thứ kỹ thuật mới thật đáng sợ, phản vật chất. Chưa đầy hai giờ nữa, nó sẽ tiêu huỷ toàn bộ Vatican.

Sau khi Giáo chủ Thị thần nói xong, toàn bộ dưỡng khí trong nhà nguyện tưởng như đã bị một con quỷ sa-tăng hút kiệt. Không một ai nhúc nhích. Những lời nói của Giáo chủ Thị thần như vẫn còn lơ lửng trong bóng đêm.

Tiếng động duy nhất mà Hồng y Mortati nghe thấy là tiếng sè sè của máy quay phim phát ra từ phía cuối nhà nguyện. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo hội, một thiết bị điện tử được đưa vào căn phòng này, do Giáo chủ Thị thần khăng khăng đòi như vậy.

Trước sự kinh ngạc của toàn thể Hồng y đoàn, viên thị thần này đã dẫn hai phóng viên BBC vào nhà nguyện - một nam, một nữ - và tuyên bố trịnh trọng rằng họ sẽ truyền hình trực tiếp cho cả thế giới được biết.

Lúc này, hướng thẳng vào ống kính máy quay, Giáo chủ Thị thần nói:

- Có một điều ta xin nói với hội Illuminati và với các nhà khoa học, - ngài hạ giọng xuống. - Các người đã chiến thắng.

Lúc này, sự im lặng tuyệt đối đã lan toả đến mọi ngóc ngách trong nhà nguyện. Mortati còn nghe được cả những nhịp đập tuyệt vọng trong lồng ngực mình.

- Bánh xe lịch sử đã bắt đầu lăn từ lâu lắm rồi. - Giáo chủ Thị thần nói - Chiến thắng của các người là hiển nhiên. Và giờ đây điều đó càng rõ ràng hơn bao giờ hết. Khoa học chính là đức Chúa mới.

Anh ta đang nói cái gì không biết! Hồng y Mortati thầm nghĩ. Hay là anh chàng này hoá điên mất rồi? Cả thế giới đang nghe cơ mà!

- Dược khoa, các phương tiện liên lạc hiện đại, du lịch trong không gian, biến đổi gene... chính là những phép màu nhiệm mà ngày nay chúng ta vẫn kể với con trẻ. Đó chính là nhung bằng chứng để tin rằng khoa học sẽ cho chúng ta những câu trả lời. Những huyền thoại cổ xưa về sự thụ thai trinh tiết, về những rừng cây bốc cháy, về những đại dương mới được hình thành không còn thích hợp nữa rồi. Chúa trời đã trở thành một khái niệm lỗi thời. Khoa học đã chiến thắng. Chúng ta thừa nhận điều đó.

Tiếng xì xầm kinh ngạc lan toả khắp nhà nguyện.

- Nhưng chiến thắng của khoa học, - Giáo chủ Thị thần nói tiếp, - đi kèm với một cái giá rất đắt. Cái giá mà tất cả chúng ta đều phải trả.

Im lặng.

- Khoa học có thể làm dịu những chỗ đau nhức trên cơ thể, giảm sự cực nhọc của con người, tạo ra những công cụ để giải trí, nhưng nó cũng khiến cho cuộc đời trở nên trần tục hơn nhiều. Hoàng hôn đã bị thay bằng những bước sóng và tần số. Sự kỳ diệu của vũ trụ bị chặt vụn ra thành những phương trình toán học. Thậm chí cả giá trị bản thân của mỗi chúng ta cũng bị huỷ hoại. Khoa học cho rằng trái đất và những sinh vật sống trên đó chẳng qua chỉ là những đốm nhỏ vô nghĩa trong vũ trụ bao la. Chỉ là một sự cố trong vũ trụ mà thôi. - Giáo chủ Thị thần ngừng giây lát:

- Thậm chí cả những kỹ thuật lúc đầu hứa hẹn khả năng kết nối chúng ta cuối cùng cũng khiến chúng ta bị chia rẽ. Mỗi chúng ta giờ đây được kết nối với thế giới bằng kỹ thuật điện tử, để rồi lại càng cảm thấy cô đơn hơn trước. Chúng ta phải chứng kiến biết bao cảnh bạo lực, sự chia rẽ, sự rạn nứt, và sự phản trắc. Thậm chí, giờ đây hoài nghi còn là một đức tính tốt. Sự nghi ngờ, sự đòi hỏi phải có bằng chứng giờ dây lại trở thành ý nghĩ thông thái. Phải chăng nhân loại đang cảm thấy tuyệt vọng và thất bại hơn bất kỳ một thời đại nào khác trong lịch sử? Khoa học có thể mang lại bất cứ thứ gì thiêng liêng không? Khoa học tìm câu trả lời bằng cách can thiệp vào những mầm sống chưa chào đời Khoa học còn dự định tái sắp xếp chuỗi ADN của chúng ta. Khoa học biến Chúa trời thành muôn vàn mảnh nhỏ nhằm khám phá bản chất của Người... nhưng rồi lại càng tìm thấy thêm nhiều câu hỏi khác nữa.

Hồng y Mortati kinh hãi quan sát. Lúc này Giáo chủ Thị thần gần như đã bị thôi miên. Chưa bao giờ đức cha thấy có ai nói một cách mạnh mẽ đến thế trước bàn thờ của Vatican.

Giọng nói của người tu sĩ này thấm đẫm cảm giác buồn bã và đau khổ.

- Cuộc chiến cổ xưa giữa tôn giáo và khoa học đã đi đến hồi kết. - Giáo chủ Thị thần nói - Các người đã thắng. Nhưng thắng lợi đó không hề công bằng chút nào. Chiến thắng này không phải là kết quả của những lời giải đáp. Các người đã chiến thắng áp đảo bằng cách biến những chân lý vốn được coi là linh thiêng trở nên không còn thích hợp nữa. Tôn giáo không thể theo kịp các người. Khoa học phát triển theo cấp số nhân. Nó tự nuôi lớn bản thân mình, y như những con virus. Mỗi bước đột phá lại mở đường cho những bước dột phá tiếp theo. Loài người phải mất hàng ngàn năm mới phát triển được cái bánh xe lên thành chiếc xe hơi. Nhưng chỉ sau đó vài thập kỷ, nhân loại đã có thể bay vào vũ trụ Giờ đây, sự phát triển của khoa học chỉ còn tính bằng tuần. Chúng ta đang lao rất nhanh,, đến mức không thể kìm giữ nổi. Sự rạn nứt giữa các cá thể đang lớn dần lên, tôn giáo thì đã bị bỏ lại đằng sau, loài người đối mặt với một khoảng trống trong tâm hồn. Chúng ta vật vã kiếm tìm ý nghĩa của cuộc sống. Và chúng ta đã bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng. Chúng ta trông thấy các vật thể bay không xác định (UFO), thử nghiệm thần giao cách cảm, tìm hiểu về những kinh nghiệm thoát xác... tất cả những thứ đó đều mang một lớp vỏ khoa học, nhưng thật ra đều vô nghĩa. Đó thực ra là những tiếng khóc tuyệt vọng của tâm hồn trong thời hiện đại, cô độc và bị giày vò, không thể tìm thấy ý nghĩa của bất kỳ hiện tượng nào nếu tách rời khoa học và kỹ thuật.

Hồng y Mortati nhoài người về phía trước. Cũng như ngài, toàn bộ Hồng y đoàn và tất cả mọi người trên trái đất đang lắng nghe từng từ một. Giáo chủ Thị thần không tỏ ra hùng biện, cũng chẳng đả kích. Không hề nhắc đến kinh thánh hay Chúa Giê-su.

Toàn những ngôn từ hiện dại, giản dị, không màu mè. Nghe như thể chính Chúa trời đang lên tiếng, và dùng một thứ ngôn ngữ rất hiện đại... để chuyển tải bức thông điệp cổ xưa của mình. Lúc này thì Hồng y Mortati đã hiểu vì sao cố Giáo hoàng lại ưu ái con người này đến vậy. Trong một thế giới đầy những hoài nghi, lãnh cảm và sự sùng bái khoa học kỹ thuật như thời nay, một người vừa rất thực tế, vừa có khả năng lay động hồn người như Giáo chủ Thị thần đúng là tương lai của giáo hội.

Lúc này, những lời nói của Giáo chủ Thị thần càng trở nên mạnh mẽ hơn.

- Các người nói rằng khoa học sẽ cứu rỗi chúng ta. Còn ta lại cho rằng chính khoa học sẽ tiêu diệt chúng ta. Từ thời Galileo, Giáo hội đã ra sức ngăn cản những bước tiến tàn nhẫn của khoa học, đôi khi bằng những phương thức sai lầm nhưng với một mục đích cao cả và từ bi. Bất chấp điều đó, sức cám dỗ của khoa học quá lớn, và con người không thể chiến thắng được nó. Các người hãy nhìn lại mà xem, khoa học có giữ lời hứa đâu. Hứa hẹn về sự đơn giản và hiệu quả, nhưng khoa học lại đẻ ra sự hỗn loạn và ô nhiễm. Chúng ta, một loài vật điên loạn và cô đơn, đang bước trên con đường tuyệt diệt.

Giáo chủ Thị thần ngừng lại giây lát, mắt hướng thẳng vào ống kính máy quay.

- Đức Chúa Khoa học này là thế nào? Chúa gì mà chỉ mang lại cho con người sức mạnh, nhưng không ban cho nhân loại một quy tắc đạo đức về cách thức sử dụng sức mạnh đó? Chúa nào mà đưa cho một đứa trẻ ngọn lửa để chơi, nhưng lại không cảnh báo nó về những nguy hiểm của trò chơi đó? Ngôn ngữ của khoa học không đề cập đến cái tốt và cái xấu. Những cuốn sách giáo khoa về khoa học tự nhiên dạy người ta cách chế tạo bom nguyên tử nhưng lại không có bất cứ chương nào bàn xem đặc tính của nó là tốt hay xấu.

Ta xin tuyên bố với giới khoa học rằng nhà thờ đã mệt mỏi rồi. Sau bao nhiêu nỗ lực để nhắc nhở về cái tốt và cái xấu, Giáo hội đã kiệt sức. Các nguồn lực của chúng ta đã cạn sau những chiến dịch để trở thành đối trọng cho những cố gắng của các người nhằm tạo ra những con chíp nhỏ hơn nữa, và những khoản lợi nhuận lớn hơn nữa. Chúng ta đã tự hỏi tại sao khoa học không thể tự kiềm chế bản thân nó, nhưng làm sao các người có thể làm được điều đó? Thế giới của các người tiến bộ nhanh đến nỗi nếu bất kỳ kẻ nào dừng lại để cân nhắc những hệ luỵ từ phát kiến của chính mình thì sẽ bị kẻ khác qua mặt ngay lập tức. Thế là các người cứ tiến về phía trước. Các người tạo ra những loại vũ khí giết người hàng loạt, để rồi chính Đức Thánh Cha phải đi khắp thế giới để khuyên nhủ các nhà lãnh đạo cố gắng kiềm chế.

Các người tạo ra các mầm sống trong ống nghiệm, để rồi nhà thờ lại phải nhắc các người về những tác động đạo đức của phát kiến ấy. Các người khuyến khích nhân loại liên lạc bằng điện thoại di động, máy tính, màn hình video, để rồi chỉ có nhà thờ mở rộng cửa và nhắc nhở các con chiên của mình hãy giao tiếp với nhau theo đúng cách mà đáng ra phải luôn luôn như thế. Các người thậm chí còn nhân danh y học để giết hại những mầm sống chưa chào đởi, để rồi Giáo hội lại phải chỉ ra tính nguỵ biện trong những luận cứ ấy.

Và các người cũng luôn cho rằng Giáo hội là dốt nát. Nhưng kẻ thực sự dốt nát là ai đây? Là người không thể định nghĩa được sấm chớp, hay là kẻ không biết kính trọng sức mạnh vĩ đại của hiện tượng ấy? Giáo hội luôn mở rộng lòng đối với các người, và với toàn nhân loại, thế nhưng chúng ta càng mở rộng lòng, thì các người càng đẩy chúng ta ra xa hơn nữa. Các người đòi hỏi phải có bằng chứng để chứng minh rằng có Chúa. Các người hãy dùng kính viễn vọng mà nhìn lên trời, chẳng thể thấy Chúa ở đó đâu! - Lúc này, hai mắt Giáo chủ Thị thần đã nhoà lệ. - Các người chất vấn là diện mạo của Chúa trông thế nào? Ta xin hỏi các người, câu hỏi đó xuất phát từ đâu? Câu trả lời chỉ có một mà thôi. Trong khoa học, các người không thấy Chúa đâu đúng không? Làm sao các người lại có thể không thấy Người cơ chứ! Các người tuyên bố rằng chỉ một thay đổi rất nhỏ của trọng lực hay trọng lượng một nguyên tử cũng có thể khiến cho toàn thể vũ trụ này biến thành một hoang mạc không sự sống, thay vì cả một thế giới vô cùng phong phú như chúng ta đang có hiện nay, chẳng lẽ các người không nhận ra rằng đó là nhờ bàn tay của Chúa sao? Như thế chẳng phải dễ dàng hơn nhiều so với cách giải thích rằng đó là một phần triệu xác suất may mắn hay sao? Chẳng lẽ tâm hồn các người đã trở nên cằn cỗi đến mức đặt trọn niềm tin vào một điều không thể xảy ra trên nguyên lý toán học thay vì tin vào một sức mạnh lớn lao hơn bản thân loài người?

- Bất kể các người có tin vào Chúa hay không, - Giáo chủ Thị thần hạ giọng từ tốn, - có một điều mà các người chắc chắn phải tin. Khi nhân loại từ bỏ niềm tin vào một thế lực lớn lao hơn bản thân chúng ta, thì chúng ta cũng đã từ bỏ ý thức tự chịu trách nhiệm. Đức tin... Tất cả mọi đức tin... đều răn dạy con người về một thế lực mà chúng ta không thể thấu hiểu, một thế lực luôn dõi theo từng hành động của chúng ta... Có đức tin, chúng ta sẽ chịu trách nhiệm trước chính bản thân mình và trước một đấng tối linh cao cả. Có thể tôn giáo còn nhiều thiếu sót, nhưng chẳng qua đó là vì bản thân loài người cũng không thể hoàn thiện. Nếu các người cũng nhìn Giáo hội với con mắt giống như ta... không chấp nhặt những nghi lễ đằng sau những bức tường này... thì các người sẽ thấy có phép nhiệm màu ngay giữa thời hiện đại... một tập hợp những linh hồn giản dị và không hoàn thiện nhưng sẵn lòng cất lên tiếng nói vị tha và yêu thương giữa một thế giới đang trượt ra ngoài vòng kiểm soát của bản thân nhân loại.

Giáo chủ Thị thần đang tay chỉ Hồng y đoàn. Theo bản năng, người kỹ thuật viên hình ảnh của BBC cũng lia máy theo, quay toàn bộ những người đang có mặt trong nhà nguyện.

- Chúng ta có lỗi thời không? - Giáo chủ Thị thần đặt câu hỏi. Những vị ngồi đây có phải là loài khủng long hay không? Ta có phải là khủng long không? Liệu thế giới này có cần một tiếng nói bênh vực cho những kẻ nghèo hèn, yếu ớt, những kẻ bị áp bức, những sinh linh không được chào đời? Liệu thế giới này có cần những người như chúng ta, dù không phải lúc nào cũng hoàn thiện, nhưng sẵn lòng hiến dâng cả cuộc đời để nhắc nhở nhân loại hãy lắng nghe lương tâm mình, để đừng bị lạc lối?

Lúc này thì Hồng y Mortati đã nhận ra rằng, không biết vô tình hay hữu ý, Giáo chủ Thị thần đã đưa ra một quyết định xuất sắc. Bằng cách để các Hồng y xuất hiện, Giáo hội đã được nhân cách hoá. Thành Vatican không còn đơn thuần là một công trình, mà nó là những con người - giống như chính bản thân Giáo chủ Thị thần, người đã dành cả cuộc đời để phụng sự cái tốt.

- Đêm nay, chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, Giáo chủ Thị thần nói tiếp - Không một ai trong chúng ta có thể thờ ở trước tình huống này. Dù các người có gọi tên chúng là quỷ Sa-tăng, - sự đồi bại, hay sự vô đạo, thì những thế lực đen tối vẫn đang tồn tại và phát triển từng giờ từng phút. Đừng thờ ở với điều đó!

Giáo chủ Thị thần hạ thấp giọng, gần như là thì thầm, và người kỹ thuật viên hình ảnh tiến sát lên một chút:

- Thế lực này, dù rất mạnh, nhưng không phải là vô địch. Cái tốt sẽ chiến thắng. Hãy lắng nghe trái tim mình. Hãy lắng nghe giọng nói của Chúa. Hãy sát cánh bên nhau, chúng ta có thể tránh được vực thầm này.

Đến giờ thì Hồng y Mortati đã hiểu. Hoá ra đây chính là lý do Mật nghị Hồng y đã bị cắt ngang, nhưng đây đúng là cách duy nhất. Đây là lời cầu cứu tuyệt vọng và khẩn thiết. Giáo chủ Thị thần đang hướng tới cả kẻ thù lẫn bằng hữu. Vị thầy tu này đang khẩn khoản kêu gọi tất cả, cả bằng hữu lẫn kẻ thù, hãy nhận ra chân lý và dừng ngay hành động điên rồ này. Chắc chắn trong số những người đang xem truyền hình trực tiếp, sẽ có người hiểu ra và ra tay hành động.

Giáo chủ Thị thần quỳ trước bàn thờ chúa.

- Chúng ta hãy cùng cầu nguyện.

Toàn thể Hồng y đoàn cùng quỳ xuống và hướng về bàn thờ Chúa. Ngoài kia, trên quảng trường St. Peter, trên khắp địa cầu... toàn thể nhân loại đang quỳ xuống cùng với họ.

***

Đặt cô gái đang bất tỉnh nằm sóng soài ở sau xe hòm, tên sát thủ dành một chút thời gian để chiêm ngưỡng chiến lợi phẩm của mình. Không đẹp bằng những cô gái mà hắn vẫn dùng tiền để mua, nhưng cô gái này có một sức mạnh rất hoang dại, khiến hắn thấy vô cùng phấn khích. Nước da sáng, thân thể ướt đẫm mồ hôi. Có mùi thơm của xạ hương.

Mải chiêm ngưỡng phần thưởng của mình, tên sát thủ quên hẳn vết đau ở tay. Vết bầm dập do bị cỗ quan tài bằng đá chèn lên, dù rất đau, nhưng chẳng có gì đáng kể... phần thưởng này đã bù lại tất cả. Hắn tự an ủi bản thân rằng tay người Mỹ kia chắc giờ đã chết hẳn rồi.

Trân trân nhìn tù nhân của mình, tên sát thủ mường tượng những gì sẽ diễn ra. Hắn lùa tay vào dưới vạt áo sơ mi của cô gái. Bầu ngực quả là hoàn hảo. Hay lắm, hắn cười mỉm. Cô em đáng đồng tiền bát gạo lắm đây. Cố kiềm chế ý muốn chiếm đoạt cô gái ngay lập tức, hắn đóng thùng xe lại, nổ máy phóng vụt đi trong đêm tối.

Không cần phải báo cho cánh báo chí về vụ hành quyết này... ngọn lửa sẽ thay hắn làm việc đó.

***

Tại CERN, Sylvie sững sờ nghe những lời phát biểu của Giáo chủ Thị thần. Là một tín đồ Cơ đốc, chưa bao giờ chị thấy tự hào đến thế. Là nhân viên của CERN, cũng chưa bao giờ chị cảm thấy xấu hổ đến mức này. Rời khỏi khu giải trí, chị thấy tất cả các phòng đều chung một bầu không khí nặng nề và buồn bã. Sylvie quay lại văn phòng của Kohler, tất cả bảy máy điện thoại đều đang đổ chuông. Điện thoại của báo chí không bao giờ được nối máy tới văn phòng của Kohler, nên chắc chắn những cuộc gọi này là vì cùng một lý do.

Vì tiền.

Kỹ thuật phản vật chất đã có người mua.

***

Trong thành Vatican, Gunther Glick như đang đi trên mây. Anh đang theo Giáo chủ Thị thần ra khỏi nhà nguyện Sistine. Glick và Macri vừa làm một buổi truyền hình trực tiếp để đời. Quả là một chương trình tuyệt vời. Giáo chủ Thị thần quả là một nhà hùng biện tài ba.

Ra ngoài hành lang, Giáo chủ Thị thần quay sang bảo Glick và Macri:

- Ta đã yêu cầu lính gác Thuỵ Sĩ chuẩn bị sẵn ảnh cho anh - ảnh các vị Hồng y bị đóng dấu sắt nung, cả ảnh của Đức Thánh Cha đã tạ thế nữa. Ta phải báo trước cho anh biết là những bức ảnh này không được dễ chịu lắm đâu. Những dấu sắt nung trông rất khủng khiếp. Những cái lưỡi đen sì. Nhưng ta muốn nhờ anh phát những bức ảnh đó đi cho cả thế giới được thấy.

Glick cảm tưởng như ngày lễ Giáng sinh đang kéo dài vĩnh viễn trong thành Vatican. Giáo chủ Thị thần yêu cầu mình phát đi những bức ảnh độc quyền chụp cố Giáo hoàng thật sao?

- Cha thực sự muốn làm điều đó ạ? - Glick hỏi, cố không để lộ sự phấn khích trong lòng.

Giáo chủ Thị thần gật đầu:

- Lính gác Thuỵ Sĩ cũng sẽ cung cấp cho anh hình ảnh camera của hộp phản vật chất đang đếm ngược thời gian.

Glick trợn tròn mắt. Giáng sinh! Giáng sinh! Giáng sinh!

- Illuminati sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng chúng đã cường điệu hoá khả năng của bản thân. - Giáo chủ Thị thần tuyên bố.

***

Giống như điệp khúc của một bản giao hưởng hãi hùng, bóng tối ngột ngạt lại một lần nữa quay trở lại.

Không có ánh sáng. Không có dưỡng khí. Không có lối ra.

Nằm trong cỗ quan tài đá lộn ngược, Langdon thấy tâm trí mình đang ở sát mép vực thẳm. Để kéo những suy nghĩ trong đầu khỏi bầu không gian chật hẹp và ngột ngạt xung quanh, Langdon ép mình phải nghĩ về toán học, âm nhạc hay bất kỳ thứ gì. Nhưng những ý nghĩ an lành không thể nảy nở nổi. Mình không thở được! Mình không cử động được!

May mắn là bên tay áo bị kẹt đã tuột được ra khi cỗ quan tài đổ sập hẳn xuống, lúc này Langdon có thể sử dụng cả hai cánh tay. Tuy thế, khi Langdon lấy cả hai tay đẩy mạnh, cỗ quan tài vẫn không hề suy chuyển. Quả là kỳ quặc, lúc này anh ước gì cánh tay trái lại bị kẹt như lúc trước. Ít ra thì còn có không khí để mà thở.

Giơ hai tay định đẩy thêm một lần nữa, Langdon chợt trông thấy anh bạn chuột Mickey đang phát sáng. Khuôn mặt màu xanh của chú chuột trong phim hoạt hình như đang chế giễu anh.

Langdon nhìn kỹ khắp cỗ quan tài để xem có luồng sáng nào không nhưng mép đá phẳng lỳ ăn sát xuống sàn nhà. Chủ nghĩa toàn mỹ kiểu Ý chết tiệt, anh thầm nguyền rủa. Giờ đây, Langdon đang bị đẩy vào tình thế hiểm nghèo, chính bởi sự hoàn mỹ trong nghê thuật mà anh vẫn dạy sinh viên của mình phải kính nể... những bờ mép hoàn hảo, những đường thẳng song song tuyệt đối và dĩ nhiên, trên một chất liệu duy nhất: đá hoa cương Carnara liền khối loại cứng nhất.

Sự chuẩn xác đến chết người.

Nhấc cái thứ quỷ quái này lên! - Langdon nói thành tiếng, tay cố đẩy mạnh hơn nữa. Cỗ quan tài hơi di chuyển chút xíu.

Nghiến răng, anh lại dẩy một lần nữa. Nặng kinh khủng, nhưng lần này nó nhích lên được khoảng nửa phân. Một luồng sáng le lói xuất hiện quanh Langdon, rồi cái hộp đá lại nhanh chóng rơi phịch xuống. Trong bóng tối, Langdon nằm thở hổn hển. Anh thử dùng hai chân để đẩy lên, nhưng lúc này cỗ quan tài đã nằm ngang hẳn xuống, chẳng còn chỗ để co chân lên.

Rồi cảm giác sợ bị giam hãm bủa vây lấy anh, Langdon nghĩ đến cảnh cỗ quan tài đá thu nhỏ lại và vây kín lấy bản chân mình. Kinh hãi, Langdon ráng sức huy động toàn bộ lý trí để xua đi hình ảnh kinh hoàng đó.

"Cỗ quan tài đá". Langdon nói lên thành tiếng bằng tất cả sự dõng dạc và minh mẫn anh có thể huy động được. Nhưng hôm nay, cả đến học vấn cũng trở thành kẻ thù. Từ này bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp, nghĩa gốc của nó trong tiếng Hi Lạp là "cái hộp ăn thịt". Mình đang bị kẹt trong một "cái hộp ăn thịt".

Những mường tượng về cái hộp sẽ ăn hết thịt và để lại bộ khung xương khiến anh càng nhớ đến bộ khung xương đang nằm ngổn ngang quanh anh. lúc này. Nghĩ đến sự thật đó, Langdon thấy buồn nôn và kinh hãi. Nhưng nó cũng khiến anh nảy ra một ý tưởng.

Quờ quạng, mò mẫm trong cỗ quan tài, Langdon tìm được một mầu xương. Có phải xương sườn không nhỉ? Chẳng cần quan tâm. Anh đang cần một cái nêm. Nếu có nhấc được cái hộp đá này lên chút xíu, rồi chêm khúc xương này vào, thì sẽ có đủ không khí để...

Vòng tay qua người, xếp đầu nhọn của khúc xương vào đúng chỗ cái khe giữa quan tài và nền đá, Langdon dùng tay kia ra sức chống mạnh lên. Cỗ quan tài không suy chuyển chút nào. Anh cố thêm một lần nữa. Trong tích tắc, hình như cái hộp đá nhúc nhích chút xíu. nhưng tất cả chỉ có thế.

Thiếu khí ôxi, lại phải chịu đựng mùi hôi thối nồng nặc, Langdon biết anh chỉ còn đủ thời gian để cố thêm một lần nữa.

Và cần phải dùng cả hai tay.

Lần này, Langdon gài sẵn đầu nhọn của khúc xương vào chỗ cái khe, dịch người sát vào, dùng vai để đẩy khúc xương. Thận trọng để khúc xương khỏi văng đi mất, anh giơ cả hai tay lên. Bắt đầu thấy ngạt thở, Langdon chợt thấy sợ hãi. Lần thứ hai trong cùng một ngày, anh không có đủ dưỡng khí để thở. Hô to một tiếng, Langdon ráng hết sức đẩy hai tay thật mạnh. Cỗ quan tài bị đẩy cao lên trong một tích tắc. Nhưng thế là đã đủ. Anh đã dùng vai đẩy được khúc xương vào dưới mép đá. Khi cỗ quan tài rơi phịch xuống, mẩu xương vỡ vụn ra. Nhưng dù sao mép quan tài cũng đã bị chống lên chút xíu. Một luồng sáng yếu ớt chiếu xiên vào cạnh Langdon:

Kiệt sức, anh nằm vật ra. Hy vọng cảm giác nghèn nghẹt ở cổ họng sẽ hết dần, anh kiên nhẫn đợi. Nhưng mỗi lúc cảm giác khó chịu đó càng mạnh thêm. Dù không khí có thể lọt qua cái khe, nhưng vẫn là quá ít. Không hiểu lượng dưỡng khí ít ỏi này có thể giúp anh tồn tại được không? Nếu được thì sẽ là bao lâu? Nếu anh không sống được, liệu có ai biết anh nằm ở đây hay không?

Hai cánh tay nặng như chì, Langdon cố xem đồng hồ: 10 giờ 12 phút. Cố giữ cho ngón tay khỏi run, Langdon nỗ lực thêm một lần nữa. Anh xoay một núm, rồi nhấn một nút. Đầu óc bắt đầu mụ đi, những bức tường đá xung quanh như thu hẹp lại, Langdon lại trải qua cảm giác kinh hãi thuở còn bé.

Như bao lần trước, anh cố tưởng tượng rằng mình đang ở ngoài bãi trống. Hình ảnh ấy hiện ra trong óc, nhưng chẳng có tác dụng gì. Cơn ác mộng ám ảnh anh từ thuở bé bỗng chốc quay trở lại...

Hoa đẹp như tranh vẽ, cậu bé nghĩ thầm, vừa cười vừa chạy băng qua thảm cỏ. Cậu nghĩ giá có bố mẹ đi cùng thì thật là tuyệt nhưng bố mẹ còn đang bận cắm trại.

Con đừng đi xa quá đấy nhé! - Mẹ chú dặn.

Chú bé tảng lờ như không nghe thấy lời mẹ dặn..

Chạy qua thảm cỏ thần tiên, cậu bé đến bên một đống đá xếp chồng lên nhau. Chắc là của một trang trại cũ. Không nên đến gần chỗ đó. Chú biết thế. Vả lại ánh mắt chú bé đã bị hút vào một bông hoa đồng nội tuyệt đẹp - giống hoa đẹp nhất và hiếm nhất ở New Hampshire mà chú chỉ mới được thấy trong sách mà thôi.

Trong tâm trạng đầy phấn khích cậu bé đến gần cây hoa và quỳ xuống. Mặt đất xốp và mềm. Hoá ra cây hoa này đã chọn được một chỗ đẩt rất màu mỡ. Nó mọc lên giữa một đám cây mục.

Háo hức với ý tưởng được mang bông hoa đẹp này về nhà, chú bé chìa tay ra... những ngón tay bé nhỏ vươn ra để chạm vào thân cây.

Nhưng chú không thể nào lưới tới được.

Nghe có tiếng nứt gẫy răng rắc, đất thụt xuống.

Trong ba giây đồng hồ khủng khiếp, lúc bị ngã nhào xuống, chú biết mình sẽ phải chết. Bị ngã lộn nhào, cậu bé tưởng sẽ bị va đập mạnh đến gãy xương, nhưng hoá ra chẳng hề đau đớn chút nào. Chỉ có cảm giác mềm mại.

Và lạnh.

Chú ngã vục mặt xuống vũng chất lỏng lạnh giá và tối tăm đó. Cuộn mình, quẫy đạp lung tung, chú sờ thấy xung quanh chỗ nào cũng là tường dựng đứng. Theo bản năng, chú bé ngóc đầu lên.

Ánh sáng.

Rất yếu ớt. Từ trên toả xuống. Dường như từ cách xa hàng dặm.

Hai tay chú bé khua khua trong làn nước lạnh, cố tìm một cái gờ hay mấu nào đó để bám vào, nhưng chỉ thấy toàn đá trơn tuột. Hoá ra chú bé đã ngã xuống một cái giếng nước bỏ hoang. Chú gào to kêu cứu nhưng chỉ nghe thấy tiếng vọng dội từ trong lòng giếng sâu hun hút. Chú bé gọi mãi, gọi mãi. Trên cao, cái miệng giếng nham nhở tối dần.

Đêm xuống.

Trong bóng tối, thời gian như kéo dài vô tận. Lạnh quá, chú bé vẫn đạp chân để giữ cho người nổi lên, chú gào khóc và kêu cứu. Mường tượng cảnh những bức tường xung quanh đổ ụp xuống đầu, chôn sống mình, chú cảm thấy thật kinh hãi. Hai cánh tay mỏi nhừ. Mấy lần cảm tưởng như nghe thấy tiếng người, cậu bé gọi thật to, nhưng chỉ phát ra được những tiếng kêu tắc nghẹn... như trong một cơn ác mộng.

Đêm về khuya, cái giếng như càng sâu thêm. Những bức tường như tiến sát vào nhau. Cậu bé cố đẩy người ra xa bức tường. Kiệt sức! Suýt nữa cậu bé đã đầu hàng. Nhưng mặt nước như đang đỡ lấy chú, làm dịu đi cơn hoảng loạn điên cuồng, cho đến khi toàn thân chú bé lạnh cóng.

Khi đội cứu hộ đến, chú bé gần như đã bất tỉnh. Chú bé đã quẫy đạp trong nước liên tục 5 giờ đồng hồ. Hai ngày sau, tờ Boston Globe chạy trên trang nhất một hàng tít lớn: "Thần đồng bơi lội bé nhỏ và dũng cảm".

***

Tên sát thủ mỉm cười đánh xe vào một toà nhà xây bằng đá trông ra dòng sông Tiber. Hắn mang cô gái lên cao... đi dọc theo một đường hầm xây bằng đá. May mà cô gái có vóc người mảnh khảnh.

Hắn đã đến bên cánh cửa.

Đền thờ ánh sáng, hắn lầm bầm. Phòng họp cổ xưa của hội Illuminati. Làm sao có thể ngờ được rằng nó ở ngay chỗ này cơ chứ.

Vào bên trong, hắn đặt cô gái lên một cái tràng kỷ bọc da sang trọng. Rất thành thục, hắn trói chặt hai tay cô gái ra sau lưng, rồi trói hai cổ chân lại. Những gì hắn thèm khát sẽ phải hoãn lại đến khi mọi việc được hoàn tất. Nước.

Nhưng hắn vẫn có thể tự dành cho mình chút xíu thời gian, tên sát thủ thầm nghĩ. Quỳ xuống bên cô gái, hắn vuốt ve cặp đùi thon dài và mềm mại. Bàn tay hắn lần lên cao hơn. Những ngón tay đen đúa lần lên trên gấu quần soóc. Cao hơn nữa.

Rồi hắn dừng phắt lại. Phải kiên nhẫn, chợt tỉnh ra, hắn tự nhắc nhở bản thân. Phải làm xong việc trước đã.

Hắn bước ra ngoài ban công mát rượi. Làn gió đêm nhanh chóng làm dịu đi cơn thèm khát man dại trong hắn. Tít dưới kia, sông Tiber vẫn đang chảy xiết. Hắn ngước nhìn mái vòm của Đại thánh đường St. Peter, cách hắn khoảng ba phần tư dặm, hiện ra rõ mồn một trong ánh sáng phát ra từ hàng trăm máy quay.

- Giờ khắc cuối cùng đã tới. - Hắn nói to thành tiếng, trong lòng nghĩ tới hàng ngàn chiến binh Hồi giáo đã bị sát hại trong cuộc Thập tự chinh. - Đêm nay, các vị sẽ được đoàn tụ với Chúa của mình.

Sau lưng hắn, cô gái bắt đầu cựa quậy. Tên sát thủ quay lại. Hắn cân nhắc xem có nên để cô gái thức dậy hay không. Nỗi khiếp đảm trong ánh mắt của phụ nữ luôn là liều thuốc kích dục tuyệt vời nhất đối với hắn.

Nhưng hắn chọn giải pháp chắc chắn hơn. Tốt nhất là cứ để cho cô gái nằm bất tỉnh trong khi hắn đi vắng. Dù cô gái đã bị trói chặt và không thể nào trốn thoát được, nhưng hắn không muốn để cho con mồi của mình mệt lả đi vì giãy giụa quá nhiều. Ta muốn cô em khỏe mạnh... để ta còn thưởng thức.

Nhẹ nhàng nâng đầu cô gái lên, hắn lần ngón tay tìm chỗ hõm ngay dưới xương sọ. Hắn đã từng điểm vào huyệt đạo kiểu này nhiều lần rồi. Với sức mạnh của loài mãnh thú, hắn nhấn ngón tay vào lớp xương sụn mềm, rồi ấn mạnh xuống. Cô gái nằm vật ra ngay lập tức. 20 phút thôi mà, hắn thầm nghĩ. Con mồi này sẽ là một kết thúc hoàn hảo cho một ngày tuyệt vời. Sau khi thưởng thức cô gái, chứng kiến cô ta chết ngay trên tay mình, hắn sẽ bước ra ban công để thưởng ngoạn pháo hoa trên bầu trời Vatican.

Để con mồi nằm nguyên trên đi-văng, hắn xuống cầu thang, bước vào một căn phòng tối tăm, chỉ có một cây đuốc duy nhất toả sáng. Nhiệm vụ sau cùng. Hắn bước tới bên bàn, kính cần nhìn con dấu thiêng bằng sắt đã được để sẵn ở đó.

Nước. Con dấu sau cùng.

Như ba lần trước, hắn rút cây đuốc trên tường; nung cho con dấu nóng đỏ lên. Khi toàn bộ con dấu đã nóng đỏ, hắn bước vào trong ngục.

Một người đang đứng yên lặng: Già nua và cô độc.

- Này Hồng y Baggia. - Hắn rít lên - Ông đã cầu nguyện chưa đấy?

Đôi mắt của vị Hồng y già người Ý không chút sợ hãi:

- Ta đã cầu nguyện cho linh hồn của ngươi đấy!

***

Sáu người lính cứu hoả đã nhận được lệnh dùng khí Halon để dập tắt ngọn lửa bốc cao trong nhà thờ Santa Maria Della Vittoria. Dùng nước đỡ tốn kém hơn nhiều, nhưng sẽ làm tổn hại đến các bức bích hoạ trong nhà nguyện. Vatican đã trả lương rất hậu cho các đội cứu hoả ở Rome để bảo vệ các công trình do Vatican sở hữu.

Do đặc thù công việc của mình, những người lính cứu hoả này gần như ngày nào cũng phải chứng kiến các bi kịch, nhưng những gì xảy ra trong nhà thờ này sẽ ghi dấu ấn rất đậm trong tâm trí. họ. Quang cảnh trong nhà thờ như được dựng lại từ những cơn ác mộng, phần giống như giàn thiêu, phần giống như một cái giá treo, phần như bị thiêu sống.

Rủi thay, như mọi khi, cánh nhà báo đã nhanh chân hơn họ. Những người này đã quay phim chụp ảnh rất nhiều trước khi đội cứu hoả bắt tay vào hành động. Khi những người lính cứu hoả cắt được sợi dây thừng và hạ cái xác xuống mọi người nhận ra ngay lập tức đó là ai.

- Hồng y Guidera, - một người thì thào. - Phụ trách giáo xứ Barcelona.

Nạn nhân bị lột hết quần áo. Nửa dưới cơ thể bị cháy đen sì, máu rỉ ra từ hai vết rách toạc trên đùi. Xương ống chân lòi cả ra ngoài. Một người lính cứu hoả nôn mửa ngay tại chỗ. Một người khác phải chạy ra ngoài để hít thở khí trời.

Tuy nhiên, đáng sợ nhất vẫn là dấu khắc nung trên ngực nạn nhân. Kinh hoàng, người đội trưởng xoay cái thi thể đúng một vòng. Chắc chắn là bàn tay của quỷ Sa-tăng, anh ta lẩm bẩm, và lần đầu tiên trong đời, người đội trưởng làm dấu thánh.

- Un altro corpol! - Một người kêu lên. Một người lính cứu hoả vừa phát hiện thêm một xác người nữa.

Nạn nhân thứ hai thì người đội trưởng nhận ra ngay. Người đội trưởng khắc khổ của đội lính gác Thuỵ Sĩ, vốn không được những quan chức trong ngành hành pháp ưa thích. Anh ta gọi điện đến toà thánh, nhưng tất cả các đường dây đều bận. Dù sao thì vài phút nữa tin này cũng sẽ được phát trên ti-vi, đội lính gác Thuỵ Sĩ sẽ biết ngay thôi.

Khi người đội trưởng đang đánh giá mức độ thiệt hại và cố mường tượng xem chuyện gì đã diễn ra trong thánh đường này, anh chợt nhìn thấy một cái hố chi chít vết đạn. Cỗ quan tài đá trong hốc đã bị lật khỏi bệ đỡ, rõ ràng là đã có một cuộc ẩu đả.

Mọi thứ tan hoang. Phần này thì để cảnh sát xử lý, người đội trưởng thầm nghĩ và định quay đì.

Đúng lúc ấy anh dừng ngay lại. Có một tiếng động phát ra từ trong cỗ quan tài lật úp. Thứ âm thanh mà những người lính cứu hoả không muốn nghe thấy chút nào.

- Bomba!(2) - Anh hét to. - Tutti fuori!(3)

Khi đội phá bom lật cỗ quan tài lên, họ phát hiện ra nguyên do của những tiếng bíp bíp ấy. Họ sững sờ, trợn tròn mắt.

- Gọi bác sĩ! - Cuối cùng một người kêu lên. - Gọi bác sĩ ngay!

Chú thích:

(1) Un altro copro: Một xác người nữa!

(2) Bomba: Bom

(3) Tutti fuori: Tất cả tránh ra.

***

- Có tin tức gì của Olivetti không? - Giáo chủ Thị thần hỏi. Khi hộ tống Giáo chủ Thị thần từ nhà nguyện Sistine về phòng làm việc của Giáo hoàng, đại tá Rocher thấy ngài có vẻ mệt mỏi.

- Không, thưa cha. Con sợ là chuyện tồi tệ nhất đã xảy ra rồi.

Về đến phòng làm việc của Giáo hoàng, giọng nói của Giáo chủ Thị thần có vẻ nặng nhọc:

- Ông đại tá này, tối nay ta chẳng còn làm thêm được gì nữa đâu. E rằng ta đã làm quá nhiều mất rồi. Ta sẽ cầu nguyện ở đây. Đừng làm phiền ta. Những gì còn lại xin phó thác nơi Chúa.

- Vâng, chưa cha.

- Muộn rồi đấy, ông đại tá ạ. Tiếp tục tìm cái hộp đi.

- Con vẫn đang tiến hành rà soát đấy ạ. - Rocher lưỡng lự. - Hình như cái hộp đó được giấu ở một nơi rất kín đáo.

Giáo chủ Thị thần chớp mắt, như thể ngài chưa hề nghĩ đến khả năng đó.

- Đúng thế. Đúng 11 giờ 15 phút, nếu vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm thì ông hãy sơ tán toàn bộ Hồng y đoàn. Ta tin tường ở ông. Chỉ yêu cầu ông một điều: Hãy để cho họ ra khỏi Vatican trong danh dự. Hãy đưa họ ra quảng trường St. Peter và để họ đứng sát cánh với toàn thế giới. Ta không muốn hình ảnh cuối cùng của toà thánh là những ông già hốt hoảng chạy ra đằng cửa hậu.

- Vâng, thưa cha. Còn cha thì sao? Đến 11 giờ 15 phút con đến đón cha luôn nhé?

- Không cần đâu!

- Cha bảo sao ạ?

- Ta sẽ rời nơi này khi linh hồn đến gọi ta đi.

Có lẽ Giáo chủ Thị thần định sống chết với con thuyền sắp chìm, Rocher thầm nghĩ.

Giáo chủ Thị thần mở cửa phòng làm việc của Giáo hoàng và bước vào trong.

- Thật ra thì... - ngài quay sang Rocher. - Còn một việc nữa. Đêm nay căn phòng này lạnh lẽo quá, ta đang run lên đây.

- Lò sưởi điện đã bị ngắt mất rồi. Để con nhóm lò sưởi cho cha.

Giáo chủ Thị thần cười mệt mỏi:

- Cảm ơn con. Cảm ơn con rất nhiều.

Rocher ra khỏi phòng làm việc của Giáo hoàng. Giáo chủ Thị thần đang cầu nguyện bên tượng Đức mẹ đồng trinh Maria, trước ngọn lửa. Một cảnh tượng kỳ dị. Một bóng đen đang quỳ bên một đốm sáng bập bùng. Rocher đi đến cuối hành lang thì thấy một người lính chạy đến. Trong ánh nến lờ mờ, ông ta nhận ra ngay thiếu uý Chartrand, trẻ măng, mặt tái mét, rất sốt sắng.

- Thưa đại tá. - Chartrand gọi lớn, chìa ra chiếc máy điện thoại. - Chắc là lời kêu gọi của Giáo chủ Thị thần đã có tác dụng rồi. Có một người gọi đến, nói rằng có thể giúp chúng ta. Người này gọi đến số máy nội bộ của toà thánh. Không hiểu thế nào mà ông ta lại có được số máy này.

Rocher dừng bước:

- Cái gì?

- Ông ta yêu cầu được nói chuyện với cấp chỉ huy.

- Có tin gì của Olivetti không?

- Không ạ.

Rocher cầm lấy điện thoại.

- Đại tá Rocher đây. Tôi hiện là cấp chỉ huy ở đây.

- Rocher, tôi sẽ tự giới thiệu về mình! - Đầu dây bên kia nói - Rồi tôi sẽ cho anh biết tiếp theo phải làm những gì.

Khi người ấy nói xong và cúp máy, Rocher kinh ngạc. Giờ thì viên đại tá đã hiểu ông ta đang nhận mệnh lệnh của ai.

***

Tại CERN, Sylvie Baudeloque đang ra sức ghi lại tất cả những tin nhắn được gửi đến số máy của Kohler về việc mua bản quyền phát minh. Đường dây cá nhân trên bàn bỗng đổ chuông, Sylvie giật nảy người. Không một ai có số máy này. Chị nhấc máy trả lời.

- Tôi nghe.

- Cô Baudeloque đấy à? Giám đốc Kohler đây. Hãy liên lạc với phi công của tôi. Bảo chuẩn bị máy bay riêng của tôi trong vòng 5 phút nhé.

***

Mở mắt ra, trông thấy mặt dưới của mái vòm nhà thờ được trang trí theo trường phái ba-rốc, Robert Langdon không biết anh đang ở đâu, và đã bất tỉnh trong bao lâu. Khói đang bốc lên. Miệng bị bịt. Hoá ra là mặt nạ ôxi. Langdon giật cái mặt nạ ra. Căn phòng này đặc quánh một thứ mùi khủng khiếp - như mùi thịt cháy.

Langdon nhăn mặt, đầu đau như búa bổ. Anh cố sức ngồi dậy.

Một người mặc bộ đồng phục màu trắng đang quỳ bên cạnh anh.

- Riposati!(1) - Anh ta vừa nói vừa đẩy Langdon nằm xuống.

Langdon phục tùng. Đầu óc choáng váng. Chuyện quái gì đã xảy ra nhỉ? Toàn thân anh đau nhức.

- Topo salvatore(2), người nhân viên y tế nói - Chú chuột đã cứu mạng anh đấy.

Langdon càng không hiểu gì. Chuột cứu mạng?

Anh ta chỉ tay vào chiếc đồng hồ có hình chuột Mickey đeo trên cổ tay Langdon. Anh bắt đầu hiểu ra. Anh nhớ rằng mình đã đặt chế độ báo thức. Lơ đễnh, Langdon nhìn đồng hồ. 10 giờ 28 phút.

Anh ngồi bật dậy.

Thế rồi Langdon nhớ lại tất cả.

Langdon đứng cạnh bàn thờ chúa, cùng với người đội trưởng đội cứu hoả và một số nhân viên của anh ta. Họ đã hỏi anh khá nhiều, nhưng Langdon như không nghe thấy gì. Anh cũng có những câu hỏi của riêng mình. Toàn thân đau như dần, nhưng Langdon biết cần phải hành động ngay lập tức.

Một người lính cứu hoả tiến lại bên Langdon.

- Tôi đã kiểm tra lại rồi, chỉ thấy có thi thể của Hồng y Guidera và chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ. Không thấy có thi thể phụ nữ nào cả.

- Cảm ơn anh. - Langdon đáp, anh không hiểu nổi mình đang cảm thấy nhẹ nhõm hay lo lắng thêm. Chắc chắn anh trông thấy Vittoria nằm bất tỉnh trên sàn. Lúc này thì không thấy cô gái đâu nữa. Nguyên do duy nhất nảy ra trong đầu anh lúc này chẳng dễ chịu chút nào. Trên điện thoại, tên giết người tỏ ra chẳng chút gì gượng nhẹ. Cô có vẻ mạnh mẽ đấy. Tôi thích thế. Có thể lúc nào xong việc tôi sẽ đi tìm có em. Và lúc đó thì...

Langdon nhìn quanh.

- Đội lính gác Thuỵ Sĩ đâu rồi?

- Vẫn không liên lạc được. Tất cả các số máy của Vatican đều bận.

Langdon cảm thấy kiệt quệ và đơn độc. Olivetti đã chết. Vị Hồng y cũng đã từ trần. Vittoria thì bị mất tích. Loáng một cái, anh đã để mất nửa giờ quý giá trong đời.

Ngoài kia, cánh nhà báo đã ùn ùn kéo đến. Chắc những hình ảnh về vị Hồng y Giáo chủ bị sát hại sắp được phát trên sóng, nếu không nói là bây giờ đã lên sóng rồi. Hi vọng Giáo chủ Thị thần đã sớm lường tới tình huống xấu nhất và đã kịp thời hành động. Phải sơ tán toàn bộ Vatican! Đủ lắm rồi! Chúng ta đã thua!

Langdon chợt nhận: thấy tất cả những gì đã thúc đẩy anh phải nỗ lực suốt ngày hôm nay - nghĩa vụ giúp Vatican tìm hộp phản vật chất, cứu bốn vị Hồng y, đối diện với một hội kín mà anh đã bỏ công sức nghiên cứu về nó bao năm nay - tất cả những thứ ấy bỗng nhiên không còn tồn tại nữa. Họ đã thua. Anh cảm thấy trong tâm trí một sự thúc bách mới. Một nhiệm vụ đơn giản. Nhưng quan trọng hơn hết thảy.

Tìm Vittoria.

Langdon chợt cảm thấy trống trải. Anh đã từng nghe nói rằng những tình huống hiểm nghèo có thể gắn kết hai con người lại với nhau mà quãng thời gian hàng chục năm cũng chưa chắc đã làm nổi. Giờ thì anh bắt đầu tin rằng chuyện đó là có thật.

Không có Vittoria, Langdon chợt cảm thấy một thứ tình cảm từ nhiều năm nay anh chưa một lần trải nghiệm. Sự cô đơn. Nỗi đau bỗng khiến anh trở nên mạnh mẽ.

Gạt khỏi tâm trí tất cả mọi thứ khác, Langdon tập trung suy nghĩ. Cầu cho tên sát thủ sẽ tập trung làm cho xong việc của hắn trước khi nghĩ đến chuyện hưởng thụ. Nếu không thì lúc này đã là quá muộn. Không đâu, anh tự an ủi bản thân, mình vẫn còn thời gian. Hắn còn việc phải làm. Hắn còn phải xuất hiện thêm một lần cuối cùng nữa trước khi biến mất mãi mãi.

Bàn thờ khoa học cuối cùng, Langdon thầm nghĩ. Tên sát thủ còn phải tiến hành một vụ hành quyết nữa. Đất. Khí Lửa. Nước.

Langdon xem đồng hồ. 30 phút. Băng qua những người lính cứu hoả, anh lao đến bên Khoảnh khắc đê mê của thánh Teresa của Bernini và chăm chú quan sát. Lần này thì Langdon biết chắc chắn mình cần tìm cái gì.

Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả...

Thiên thần của Bernini đang bay lượn ngay bên trên vị thánh, trên nến một lưỡi lửa mạ vàng. Trên tay thiên thần là một lưỡi giáo lửa, Langdon đưa mắt theo hướng cây giáo được giương lên cao, chỉ về bên tay phải thánh đường. Mắt Langdon chạm phải bức tường. Anh nhìn kỹ một lượt nhưng không thấy gì. Dĩ nhiên là lưỡi giáo này hướng về một địa điểm nữa bên ngoài bức tường này, trong màn đêm, đâu đó phía bên kia thành Rome.

- Đây là hướng gì nhỉ? - Lòng tràn đầy quyết tâm! - Langdon quay sang hỏi người đội trưởng đội cứu hoả.

- Hướng à? Anh ta liếc nhìn về phía tay Langdon đang chỉ, vẻ hơi bối rối. - Không rõ lắm... chắc là hướng Tây!

- Ở phía ấy có nhà thờ nào không?

Người đội trưởng càng có vẻ bối rối hơn.

- Hàng chục nhà thờ. Để làm gì?

Langdon nhíu mày. Dĩ nhiên là phải đến hàng chục rồi.

- Tôi cắn một tấm bản đổ thành phố. Ngay lập tức.

Người đội trưởng yêu cầu một nhân viên chạy về xe lấy bản đồ Langdon quay lại quan sát bức tượng Đất... Khí... Lửa... VITTORIA.

Yếu tố cuối cùng là Nước, anh tự nhủ. Nước của Bernini. Trong một nhà thờ nào đó, đâu đây trong thành phố này. Như một cái kim giấu trong đống cỏ khô, Langdon điểm lại trong óc tất cả những tác phẩm của Bernini anh có thể nghĩ ra được lúc này. Cần tìm một tác phẩm liên quan đến Nước!

Anh chợt nghĩ đến bức tượng Triton của Bernini - tượng thần biển của người Hi Lạp. Rồi lại nhớ ra rằng tác phẩm đó được đặt ở quảng trường ngay trước mặt thánh đường này, nhưng lại hoàn toàn sai hướng. Langdon cố tập trung suy nghĩ. Bernini đã tạo ra tác phẩm nào để tôn vinh nước nhỉ? Thần biển hay thần mặt trời nhỉ? Rủi thay, bức tượng đó đang được trưng bày ở bảo tàng Victoria và Albert ở tận London.

- Thưa ông, bản đồ đây. - Một người lính cứu hoả mang lại cho Langdon tấm bản đồ thành phố.

Sau khi cảm ơn người lính cứu hoả, Langdon trải rộng tấm bản đồ Ngay lập tức, anh biết mình đã hỏi đúng người cần hỏi; bản đồ thành Rome của đội lính cứu hoả quả là chi tiết.

- Giờ chúng ta đang ở đâu?

Anh ta đưa tay chỉ.

- Gần quảng trường Barberini.

Langdon lại quay sang nhìn theo hướng ngọn giáo giương cao của thiên thần. ước lượng của người đội trưởng quả là chính xác.

Theo tấm bản đồ này thì ngọn giáo chỉ về hướng Tây. Gần như ngay lập tức, hi vọng của anh giảm hẳn đi. Dọc, theo vệt tay đi của Langdon, cứ một hai phân lại thấy có một công trình được đánh dấu bằng một chữ thập màu đen nhỏ xíu. Nhà thờ. Thành phố này dày đặc những nhà thờ. Hết vùng nội đô, ngón tay Langdon đi ra đến vùng ngoại thành. Thở hắt ra, anh xem lại một lần nữa. Khỉ thật!

Quan sát bao quát bản đồ, Langdon xác định lại vị trí ba nhà thờ mà các vị Hồng y đã bị sát hại. Nhà nguyện Chigi... Quảng trường St. Peter... và ở đây...

Xác định xong cả ba vị trí, Langdon cảm thấy những địa danh này có gì đó đặc biệt. Lúc đầu anh nghĩ những địa điểm này sẽ nằm rải rác trong thành Rome, nhưng rõ ràng không phải thế.

Thật kinh ngạc, ba thánh đường này được bố trí ở những khoảng cách đều nhau, tạo thành một hình tam giác lớn trải rộng khắp thành phố. Langdon kiểm tra lại một lần nữa. Không phải là anh tự tưởng tượng.

- Cho tôi cái bút. - Anh nói, không ngẩng mặt lên.

Ai đó đưa cho Langdon một cây bút.

Anh khoanh tròn ba nhà thờ. Tim đập thình thịch. Rồi kiểm tra lại một lần nữa. Hình tam giác đều!

Thoạt đầu Langdon nghĩ đến hình con dấu vĩ đại trên tờ bạc một đô la - một hình tam giác bao quanh con mắt nhìn thấu suốt. Nhưng như thế không có nghĩa. Anh mới đánh dấu được có ba điểm. Cần phải có bốn điểm mới đủ.

Nước ở chỗ nào nhỉ? Thêm một điểm nữa vào bất kỳ chỗ nào thì hình tam giác đều cũng sẽ bị phá vỡ. Điểm duy nhất có thể bảo toàn được sự cân đối là ở trong hình tam giác, đúng vào tâm điểm. - Anh nhìn vào điểm ấy trên bản đồ. Không có gì. Nhưng ý tưởng đó vẫn khiến anh phải suy nghĩ. Bốn nguyên tố của khoa học được coi là đồng đẳng. Nước không có gì đặc biệt; nước không thể được đặt ở giữa ba nguyên tố còn lại.

Thế nhưng bản năng vẫn mách bảo Langdon rằng hình tam giác đều này không thể là sự ngẫu nhiên. Mình vẫn chưa thấy hết toàn bộ bức tranh cơ mà! Chỉ còn một lựa chọn nữa. Nếu bốn điểm không tạo ra hình tam giác thì phải là một hình khác nữa.

Langdon lại nhìn bản đồ. Biết đâu lại là hình vuông? Dù không hợp lý lắm, nhưng ít ra thì hình vuông còn có tính cân đối.

Langdon đặt ngón tay lên một điểm trên bản đồ để biến tam giác thành hình vuông. Anh lập tức nhận thấy rằng hình vuông là không hợp lý. Các thiên thần ở ba địa điểm này chỉ tay về những hướng chếch nhau, tạo ra một hình tứ giác rất méo mó.

Xem xét thêm một vài điểm nữa trên bản đồ, Langdon chợt phát hiện ra. Anh nhận thấy đường thẳng trước đó anh vừa vạch ra để chỉ theo hướng mũi giáo của thiên thần đi qua một trong những địa điểm anh phỏng đoán. Kinh ngạc. Langdon khoanh tròn điểm đó. Lúc này, anh quan sát bốn địa điểm được đánh dấu bằng bút bi, tạo thành viên kim cương hình cái diều khá kỳ dị.

Langdon nhíu mày. Kim cương cũng không phải là biểu tượng của Illuminati. Ngừng một lát. Thế nhưng...

Trong thoáng chốc, Langdon nhớ đến viên kim cương Illuminati nổi tiếng. Tuy nhiên, ý nghĩ này thật kỳ quặc. Bên cạnh đó, viên kim cương này trông như một cái điều - khó có thể là một ví dụ cho tính khuôn mẫu, đối xứng của viên kim cương Illuminati vốn rất được tôn sùng.

Cúi xuống để nhìn cho kỹ địa điểm vừa đánh dấu, Langdon ngạc nhiên thấy nó rơi đúng vào trung tâm quảng trường Navona nổi tiếng của thành Rome. Anh biết cạnh quảng trường này là một thánh đường, nhưng ban nãy Langdon đã đi ngón tay qua, và đã nghĩ đến nó rồi. Theo như anh biết thì trong đó không có tác phẩm nào của Bernini cả. Thánh đường này có tên là Nỗi đau của thánh Agnes. Thánh Agnes là một thiếu nữ trẻ xinh đẹp, đã chấp nhận kiếp sống khổ nhục của một nô lệ tình dục chứ không chịu từ bỏ đức tin của mình.

Chắc chắn trong nhà thờ này phải có cái gì đó! Langdon cố vắt óc mường tượng quang cảnh bên trong thánh đường. Anh chẳng nhớ ra tác phẩm nào của Bernini trong đó, liên quan đến nước thì lại càng không. Những sắp đặt hiện ra trên bản đồ cũng khiến Langdon băn khoăn. Hình viên kim cương. Đủ chính xác để không thể là ngẫu nhiên được, nhưng lại chưa đủ độ tuyệt đối để thể hiện bất kỳ ý nghĩa nào. Hay là cái diều? Hay là Langdon đánh dấu không chính xác? Mình đá bỏ sót chi tiết nào rồi!

Mất thêm 30 giây nữa anh mới nghĩ ra câu trả lời khi đã có câu trả lời, anh thấy vô cùng phấn khởi, chưa một giây phút nào trong sự nghiệp khoa học của mình khiến anh phấn khởi đến thế.

Dường như thiên tài của Illuminati không bao giờ bỏ qua chi tiết nào.

Đây không phải là hình viên kim cương. Bốn điểm này tạo ra hình viên kim cương chỉ vì Langdon mới nối những điểm lân cận với nhau. Illuminati tôn thờ sự đối xứng! Tay run run, Langdon nối hai cặp đỉnh đối diện. Trước mắt anh hiện ra hình cây thập tự khổng lồ. Là hình chữ thập! Bốn nguyên tố đầu tiên của khoa học hiện ra trên tấm bản đồ... nằm rải rác khắp thành Rome, tạo thành một chữ thập lớn trải rộng khắp thành phố.

Tròn mắt kinh ngạc, Langdon nhớ lại dòng thơ ấy... như một người bạn cũ, nay bỗng dưng mang một khuôn mặt mới.

"Nguyên tố huyền bí hiển hiện khắp thành Rome...

"Khắp thành Rome...

Sương mù bắt đầu tan. Hoá ra câu trả lời đã ở ngay trước mắt anh từ lâu rồi! Bài thơ của hội Illuminati đã mách bảo anh cách thức các nguyên tố này được bố trí. Khắp.

"Nguyên tố huyền bí hiển hiện khắp thành Rome...

Quả là lối chơi chữ thông minh. Lúc đầu Langdon không để ý lắm đến từ "khắp". Anh tưởng sự lựa chọn từ này chỉ là để đáp ứng yêu cầu về nhịp phách của dòng thơ. Hoá ra không chỉ có thế?

Lại thêm một đầu mối nữa hiện ra.

Hoá ra hình chữ thập trên bản đồ thề hiện tính đối ngẫu tuyệt đối mà Illuminati tôn sùng. Nó là một biểu tượng tôn giáo, được tạo nên bởi bốn nguyên tố của khoa học. Con đường ánh sáng của Galileo tôn vinh cả khoa học lớn Chúa trời!

Phần còn lại của câu đố hóc búa hiện ra gần như tức thì.

Quảng trường Navona.

Chính giữa quảng trường Navona, trước mặt nhà thờ Nỗi đau của thánh Agnes, là một trong những tác phẩm trứ danh nhất của Bernini. Tất cả những ai đến thăm thành Rome đều muốn chiêm ngưỡng tác phẩm này.

Đài phun nước. Bốn dòng sông!

Một cách thức tuyệt hảo để tôn vinh nước. Đài phun, nước. Bốn dòng sông của Bernini ngợi ca bốn dòng sông lớn của cựu lục địa - sông Nile, Ganges, Danube và Rio Plata.

Nước, Langdon thầm nghĩ. Đầu mối cuối cùng. Thật hoàn hảo.

Thêm một chi tiết tuyệt vời nữa, như một trái sơ-ri ngọt ngào trên chiếc bánh ga-tô, chính là toà Kim tự tháp bằng đá ngay giữa đài phun nước này.

Đứng phắt dậy, mặc kệ những người lính cứu hoả còn đang ngơ ngác, Langdon chạy tới bên thi thể của Olivetti.

10 giờ 32 phút rồi, anh thầm nghĩ. Vẫn còn thiếu thời gian. Lần đầu tiên trong ngày hôm nay, Langdon cảm thấy mình đi trước được một bước.

Quỳ xuống bên xác Olivetti, khuất sau mấy hàng ghế, Langdon kín đáo rút khẩu súng bán tự động và chiếc máy bộ đàm ở lưng ông ta. Anh phải gọi người ứng cứu, nhưng không phải ở đây.

Lúc này cần phải giữ bí mật về bàn thờ khoa học cuối cùng. Đám đông các nhà báo cùng với đội xe cảnh sát rú còi ầm ỹ lao về phía quảng trường Novona sẽ chẳng được tích sự gì.

Không nói không rằng, Langdon lẻn ra khỏi cửa, vòng ra sau lưng đám nhà báo lúc này đang lũ lượt kéo vào trong thánh đường.

Anh đi qua quảng trường Babernini, ra đến một góc tối, anh bật máy bộ đàm. Anh ra sức gọi nhưng chẳng thấy có tín hiệu. Một là anh đã ở ngoài vùng phủ sóng, hai là để sử dụng chiếc máy này cần biết một tần số đặc biệt nào đó. Langdon ra sức điều chỉnh những cái nút và cần gạt, nhưng chẳng tác dụng gì. Đột nhiên, anh nhận thấy kế hoạch gọi người đến trợ giúp không còn khả thi nữa. Langdon lập tức chạy đi tìm bốt điện thoại. Không có. Mà dù sao thì các đường dây của Vatican cũng đều bận hết rồi.

Đơn độc. Cảm giác tự tin lúc đầu nhanh chống biến mất. Langdon đứng lặng đi, nghĩ đến tình cảnh thảm hại của mình: người dính đầy vụn xương mục, bị thương, kiệt sức và đói.

Anh quay lại nhìn nhà thờ. Khói đen cuồn cuộn trên mái vòm sáng trưng dưới ánh đèn máy quay và xe cứu hoả. Anh phân vân không biết có nên quay vào đó nhờ người giúp đỡ hay không.

Nhưng bản năng mách bảo rằng sự trợ giúp của những người không có chuyên môn sẽ chi mang lại nhiều bất lợi. Nhỡ tên sát thủ trông thấy mọi người kéo đến... Anh nghĩ đến Vittoria, và biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để tóm được hung thủ.

Quảng trường Navona, anh nghĩ, thầm biết rằng còn đủ thời gian để đến đó và khoanh vùng địa điểm. Anh nhìn quanh tìm xe taxi, nhưng phố vắng tanh. Hình như cả cánh lái xe taxi cũng bỏ hết mọi thứ để ngồi trước màn hình ti-vi. Quảng trường Navona chỉ cách có một dặm nhưng Langdon không muốn phung phí sức lực bằng cách cuốc bộ đến đó. Anh lại nhìn nhà thờ, cân nhắc khả năng mượn xe của ai đó để đi.

Xe cứu hoả? Xe hòm của nhà báo? Phải cẩn thận.

Biết rằng càng do dự thì càng dễ để tuột mất cơ hội, Langdon nhanh chóng quyết định. Rút súng ra, anh hành động khác hẳn phong cách thường ngày của bản thân mình, khác đến mức Langdon nghĩ mình đã bắt đầu bị quỷ ám. Chạy đến bên một chiếc xe Citroen đang đỗ bên lề đường, Langdon chĩa súng vào người lái xe đang ngồi bên trong và hét lên:

- Fuori!(3)

Người lái xe run rẩy bước xuống.

Langdon nhảy ngay vào ngồi sau vô lăng và kéo cần ga.

Chú thích:

(1) Riposati: Nằm nghỉ đi.

(2) Topo salvatore: Chú chuột cứu mạng.

(3) Fouri: Ra ngoài!

Gunther Glick đang ngồi uống nước trong văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Anh đang cầu khấn tất cả các vị thần linh trên đời. Xin cho tối nay không phải là một giấc mơ. Glick đã đưa được một bản tin để đời. Bản tin mà mọi phóng viên đều ao ước.

Lúc này, tất cả các phóng viên trên khắp hành tinh đều mơ ước được ở vào địa vị của Glick. Mình đang tỉnh đấy chứ, anh ta tự nhủ. Và mình vừa trở thành một ngôi sao. Dan Rather lúc này sắp phát khóc lên rồi.

Macri ngồi ngay cạnh Glick, có vẻ kinh ngạc. Glick không trách gì cô ta hết. Ngoài việc truyền hình trực tiếp bài phát biểu của Giáo chủ Thị thần, hai người đã cho cả thế giới xem những bức ảnh kinh hoàng về Giáo hoàng và các vị Hồng y - cái lưỡi của Người! Và cả hình ảnh trực tiếp về chiếc hộp chứa phản vật chất đang đếm ngược thời gian. Không thể tin nổi!

Dĩ nhiên là tất cả đều do mệnh lệnh của Giáo chủ Thị thần, cho nên lúc này hai người mới bị nhốt trong văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Đội lính gác không hài lòng về những thông tin ngoài lề mà Glick đã đưa thêm. Biết rằng mình không được phép nghe cuộc đàm thoại đó, nhưng đó là cơ hội ngàn năm có một. Một hành động phi thường nữa của Glick!

- Nhân vật bác ái lúc 11 giờ đêm là thế nào? - Macri rên rỉ, có vẻ không thích thú chút nào.

Glick mỉm cười:

- Ý tưởng thông minh đấy chứ?

- Thông minh cái con khỉ.

Cô ta đang ghen, Glick biết thế. Không bao lâu sau khi truyền hình trực tiếp bài phát biểu của Giáo chủ Thị thần, Glick lại tình cờ có mặt đúng lúc và đúng chỗ. Anh nghe lỏm được những mệnh lệnh mới của Rocher. Rõ ràng là ông đại tá này đã nhận được một cú điện thoại của một nhân vật bí ẩn, người mà Rocher cho rằng có những thông tin có tính chất sống còn trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này. Nghe khẩu khí của Rocher thì người này có thể giúp họ, và ông ta ra lệnh chuẩn bị đón khách.

Dù thông tin này thuộc loại bí mật, nhưng Glick đã hành động như tất cả những phóng viên tận tâm khác - không đếm xỉa đến danh dự. Anh ta tìm một góc tối, bảo Macri bí mật bấm máy quay từ xa, và thông báo tin đó.

"Những tiến triển gây sốc bên trong thành phố của Chúa", Glick đã nói thế, anh ta lại còn nheo nheo mắt để tăng thêm độ biểu cảm. Sau đó anh ta thông báo rằng một vị khách bí ẩn sẽ đến cứu Vatican. Glick còn gọi người đó là nhân vật bác ái lúc 11 giờ khuya, cái tên thật thích hợp với một người giấu mặt xuất hiện vào phút chót, ra tay làm việc nghĩa. Tất cả các hệ thống phát thanh truyền hình khác lập tức chộp lấy tin đó, và lại một lần nữa Glick trở thành bất tử.

Mình quả là xuất sắc, Glick thầm nghĩ. Peter Jenning chắc phải ghen tị đến mức nhảy cầu tự vẫn mất thôi.

Dĩ nhiên là anh ta không chịu dừng ở đó. Nhân lúc cả thế giới đang chú ý đến mình, anh ta đã thêm mắm thêm muối vào cho mùi mẫn.

Xuất sắc! Vô cùng xuất sắc!

- Anh nói dối. - Macri nói - Đó hoàn toàn là điều bịa đặt.

- Cô nói cái gì thế Tôi cực kỳ thông minh chứ!

Macri trợn tròn mắt, tỏ vẻ không tin.

- Cựu tổng thống George Bush, ông ấy là thành viên của Illuminati thật sao?

Glick mỉm cười. Hiển nhiên đến thế còn gì nữa? Có vô số tài liệu về ông ta, Hội viên hội Tam Điểm, và là người đứng đầu CIA đúng vào thời gian cơ quan này quyết định dừng điều tra về Illuminati vì thiếu chứng cớ. Và những bài phát biểu về "một ngàn đốm sáng" và "một trật tự thế giới mới"... rõ ràng Bush là hội viên của Illuminati.

- Thế còn những chi tiết về CERN thì sao? - Macri nghiêm mặt. - Sáng mai anh sẽ phải đối mặt với hàng loạt luật sư đến kiện cáo đấy!

- CERN à? Thôi đi mà! Điều đó quá hiển nhiên rồi còn gì! Cô nghĩ mà xem! Illuminati biến mất vào những năm 1950, đúng vào thời điểm CERN được thành lập. Đó là nơi quy tụ những bộ óc sáng láng nhất hành tinh. Hàng núi tiền tài trợ từ các cá nhân. Họ tạo ra một thứ vũ khí có khả năng phá huỷ các thánh đường, và rồi đùng một cái... vũ khí đó bị mất cắp!

- Và anh muốn cả thế giới tin rằng CERN là trụ sở mới của Illuminati chứ gì?

- Dĩ nhiên! Các hội kín có bao giờ biến mất hoàn toàn đâu. Illuminati chắc chắn phải rút vào một địa điểm nào đó chứ. CERN là nơi ẩn náu lý tưởng cho họ. Biết đâu đó còn là hang ổ của hội Tam Điểm ấy chứ! Đa số các nhân viên bình thường thì có thể không biết gì, nhưng những cấp lãnh đạo thì...

- Anh đã bao giờ nghe nói tới tội vu khống chưa? Về các trách nhiệm pháp lý ấy.

- Thế cô đã bao giờ biết thế nào là nghề báo thực thụ chưa?

- Nghề báo cái gì? Anh đưa toàn những tin bịa đặt! Đáng ra lúc ấy tôi phải tắt ngay máy đi! Lại còn những điều lảm nhảm về lô-gò hợp nhất của CERN nữa chứ. Biểu tượng của quỷ là thế nào? Anh mất trí rồi hay sao đấy?

Glick mỉm cười. Rõ ràng là Macri đang ghen tị đây mà. Ý tưởng vế lô-gô của CERN hiển nhiên là ý tưởng thông minh nhất. Từ sau khi Giáo chủ Thị thần phát biểu trực tiếp, tất cả các kênh truyền hình đều nói về CERN và về phản vật chất. Một số kênh còn lấy luôn lô-gô của viện nghiên cứu đó làm phông nền. Thoạt nhìn thì biểu tượng đó trông khá chuẩn - hai hình tròn giao nhau tượng trưng cho hai máy gia tốc hạt, và năm đường tiếp tuyến tượng trưng cho các ống bắn hạt. Cả thế giới đang quan sát lô-gô đó, nhưng với tố chất của một nhà biểu tượng học, chính Glick là người luận ra được những biểu tượng của hội Illuminati ẩn trong đó.

- Anh đâu phải là nhà biểu tượng học. - Macri khiển trách - Anh chỉ là một gã phóng viên chết dẫm đang vớ bở. Đáng ra phải để câu chuyện về cái biểu tượng ấy cho anh chàng Harvard kia kìa.

- Anh ta có để ý đến nó đâu! - Glick đáp.

Ý nghĩa biểu tượng của hội Illuminati trên lô-gô đó quá rõ ràng rồi còn gì nữa!

Glick như mở cờ trong bụng. Dù CERN sở hữu rất nhiều máy gia tốc hạt, trên lô-gô chỉ có hai cái. Hai chính là con số chẵn được ưa chuộng của Illuminati. Mặc dù tất cả các máy gia tốc hạt chỉ có một ống bắn hạt mà thôi, trên lô-gô có những năm ống. Năm chính là con số tượng trưng cho ngôi sao năm cánh của Illuminati. Và thế là Glick đã táo bạo hành động - đó mới chính là điểm mấu chốt nhất. Glick chỉ ra rằng trên lô-gô có một con số 6 rất lớn - rõ ràng là một trong những vòng tròn và những đường thẳng đã tạo ra con số đó. Và khi xoay ngược lô-gô, lại một số 6 nữa hiện ra... đến số 6 thứ ba. Trên lô-gô có ba con số 6 tất cả! 666! Con số của quỷ!

Glick quả là thiên tài.

Macri có vẻ như đang muốn bóp chết anh.

Cảm giác ghen tị rồi sẽ hết thôi, Glick biết thế. Đầu óc anh lúc này đang mơ tưởng đến chuyện khác. Nếu CERN chính là đại bản doanh của Illuminati thật, thì không hiểu viên kim cương Illuminati được cất giấu ở chỗ nào? Glick đã từng đọc về viên kim cương đó trên mạng - một viên kim cương hoàn hảo, được tạo ra từ loại đá quý nguyên thuỷ, với sự chuẩn xác đến nỗi tất cả những ai được nhìn thấy nó đều phải trầm trồ thán phục.

Glick mơ màng, biết đâu tung tích của viên kim cương Illuminati là một bí ẩn nữa mà anh ta có thể khám phá trong đêm nay.

***

Quảng trường Navona. Đài phun nước Bốn dòng sông.

Đêm ở thành Rome giống như trên sa mạc, lạnh đến mức kỳ lạ dù sau một ngày nắng ấm. Langdon đang hối hả sải bước trên quảng trường, áo khoác quấn sát vào người. Ý như tiếng rầm rầm của xe cộ, tiếng lao xao của các bản tin được phát đi vang vọng khắp nơi. Anh xem đồng hồ. 15 phút. May mắn là còn vài phút để nghỉ ngơi.

Quảng trường vắng tanh. Đài phun nước, tuyệt tác của Bernini đang phun xì xì như có ma thuật. Đài phun nước tạo ra một đám sương, được chiếu sáng từ dưới bằng những ngọn đèn đặt ngầm dưới nước. Dường như một luồng điện lạnh lẽo nào đó đang bao trùm khắp không gian.

Đặc điểm được ca ngợi nhiều nhất của đài phun nước này chính là độ cao của nó. Chỉ riêng phần lõi của đài phun đã cao tới 7 mét - một tảng non bộ bằng đá cẩm thạch để thô, có vô số hốc nhỏ phun nước ra. Toàn bộ quả núi nhỏ này được trang trí bằng các hoạ tiết có tính ngoại đạo. Trên đỉnh núi là một Kim tự tháp cao 12 mét. Langdon ngước mắt nhìn lên. Trên đỉnh Kim tự tháp có một chú chim bồ câu lặng lẽ, đơn độc.

Hình chữ thập, Langdon thầm nghĩ, anh vẫn chưa hết kinh ngạc về cách thức bố trí các đầu mối của con đường trên khắp thành Rome. Đài phun nước Bốn dòng sông của Bernini chính là bàn thờ khoa học cuối cùng. Cách đây vài giờ đồng hố, Langdon còn đang đứng trong điện Pantheon, đinh ninh rằng con đường ánh sáng đã bị huỷ hoại, không ngờ giờ đây anh có thể đến được nơi này. Quả là một sai lầm ngớ ngẩn. Hoá ra toàn bộ con đường vẫn còn nguyên vẹn Đất, Khí, Lửa, Nước. Và Langdon đã lần theo dấu con đường này, từ đầu đến cuối.

Chưa hẳn là đến cuối, con đường này có năm điểm dừng, không phải là bốn. Đài phun nước thứ tư này sẽ chỉ ra cái đích sau cùng nới tụ họp bí mật của hội Illuminati. Đền thờ ánh sáng. Không hiểu địa điểm đó có còn tổn tại không? Không hiểu có phải tên sát thủ đã đưa Vittoria tới đó hay không?

Langdon quan sát kỹ đài phun nước, cố tìm một đầu mối nào đó dẫn tới điểm tụ họp bí mật kia. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả. Nhưng gần như ngay lập tức, anh nhận ra một điều không dễ chịu chút nào. Đài phun nước này không có thiên thần nào cả. Từ chỗ đứng hiện thời, Langdon không thấy thiên thần nào hết... và xưa nay anh cũng chưa bao giờ trông thấy. Đài phun nước Bốn dòng sông là một tác phẩm ngoại đạo. Tất cả những hình chạm khắc ở đây đều đậm nét trần tục - người, thú, thậm chí cả một con ta-tu thô kệch nữa. Nếu có thì thiên thần cũng sẽ rất cô độc ở nơi này.

Hay không phải là chỗ này? Langdon lại suy nghĩ về hình chữ thập với bốn Kim tự tháp đá ở bốn điểm. Anh siết chặt nắm đấm. Đài phun nước này quả là hoàn hảo.

10 giờ 46 phút, một chiếc xe hòm màu đen xuất hiện từ một con hẻm bên kia quảng trường: Langdon đã chẳng mảy may để ý đến nó, nếu như chiếc xe không bật đèn. Ý như một con cá mập đang tuần tiễu ở vùng vịnh sáng trăng, chiếc xe lượn một vòng quanh quảng trường.

Langdon khom người xuống, nép sát vào một góc tối dưới chân cầu thang nhà thờ Nỗi đau của thánh Agnes. Anh căng mắt nhìn ra quảng trường, tim đập mỗi lúc một nhanh hơn.

Sau khi lượn hai vòng, chiếc xe hướng vào đài phun nước của Bernini. Nó lượn sát vào, cho đến khi áp thật sát vào mép đài phun. Rồi chiếc xe dừng lại cánh cửa trượt bên hông xe chỉ cách mặt nước chưa đến một tấc.

Bọt nước vẫn bắn tung toé.

Langdon cảm thấy sự kiện này báo điềm gở. Hay là tên sát thủ đến sớm? Chẳng lẽ hắn đến bằng xe hòm? Anh những tưởng hắn sẽ đi bộ và dìu nạn nhân đến đây, y như lúc ở quảng trường St. Peter, như thế thì anh có thể ngắm bắn dễ dàng. Nhưng nếu hắn đi xe đến thì mọi thứ sẽ khác đi.

Bất thần, cánh cửa trượt bên hông thùng xe mở ra. Trên sàn xe, một người bị lột hết quần áo đang quằn quại đau đớn. Toàn thân người này quấn dây xích. Người đó đang cố quẫy ra, nhưng những mắt xích vừa to vừa nặng. Một mắt xích gang mồm nạn nhân, chắc để cho người này khỏi kêu cứu. Đúng lúc đó, Langdon trông thấy bóng một người nữa, trong bóng tối đang di chuyển phía sau nạn nhân, như thể đang chuẩn bị những chi tiết cuối cùng.

Langdon biết thời gian hành động của anh chỉ được tính bằng giây.

Súng cầm tay, anh thả áo xuống đất. Anh không muốn chiếc áo to nặng này cản bước, và cũng không muốn trang bản thảo của cuốn Diagramma bị đưa đến gần chỗ có nước. Trang tài liệu sẽ ở đây chỗ khô ráo và an toàn.

Langdon bò về bên phải. Vòng qua đài phun nước, anh hướng tới vị trí đối diện chiếc xe hòm. Hòn núi nhỏ giữa đài phun cản mất tầm nhìn. Đứng thẳng người dậy, anh chạy thẳng đến bên đài phun nước, hi vọng tiếng nước phun sẽ lấp đi tiếng chân chạy thình thịch. Đến dài phun, anh trèo qua mép tường, nhảy vào trong bể nước ngầu bọt.

Nước sâu đến ngang bụng và lạnh như băng. Langdon nghiến răng mà lội. Đáy bồn trơn nhẫy, đã thế lại phủ một lớp dày những đồng xu người ta ném xuống để cầu may. Langdon biết lúc này anh không chỉ cần đến sự may mắn. Bụi nước mù mịt khắp xung quanh, Langdon thầm băn khoăn, không hiểu vì lạnh hay vì sợ hãi mà khẩu súng lục trên tay anh run lên bần bật.

Vào đến gần giữa bồn nước, Langdon vòng qua bên trái. Anh cố lội thật nhanh, và luôn cố ẩn mình sau tảng núi đá nhỏ ở chính giữa đài phun nước. Nấp sau một chú ngựa đá ở trung tâm đài phun, Langdon nhìn ra quan sát. Chiếc xe hòm chỉ cách anh khoảng 5 mét. Tên sát thủ đang lom khom trên sàn xe, hai tay đặt lên người vị Hồng y đã bị trói chặt bằng dây xích, hắn sắp đẩy ngài qua cánh cửa trượt đã mở sẵn.

Trong bồn nước ngập đến ngang thắt lưng, Langdon giương súng, bước ra khỏi đám bụi nước mịt mù. Như thể anh chính là một chàng cao bối đang chọn điểm ngắm bắn.

- Đứng im.

Langdon hô to, giọng nói của anh nghe điềm tĩnh hơn bàn tay đang cầm khẩu súng.

Tên sát thủ ngước nhìn lên. Trong thoáng chốc, dường như hắn giật mình và không hiểu nổi những từ vừa nghe thấy. Rồi bĩu môi, hắn mỉm cười đầy xảo trá, giơ hai tay lên trời.

- Tay giơ rồi đây này.

- Ra khỏi xe mau.

- Ông bạn ướt hết rồi kìa.

- Mày đến hơi sớm.

- Vì tôi muốn sớm quay về với chiến lợi phẩm của tôi.

Langdon giương súng lên:

- Súng của tao không biết do dự đâu!

- Ông bạn đang do dự rồi đấy thôi.

Ngón tay Langdon siết chặt cò súng. Vị Hồng y Giáo chủ lúc này đang nằm bất động trên sàn xe. Trông ngài có vẻ đã kiệt sức, và dường như đang hấp hối.

- Cởi trói cho ông ấy mau.

- Quên ông ta đi, ông bạn đến để tìm con bé cơ mà. Đừng giả bộ làm gì?

Langdon phải cố kìm ý nghĩ muốn hạ thủ hắn ngay lúc này.

- Cô gái đâu?

- Ở một nơi an toàn, đợi tôi trớ về.

Vittoria còn sống. Langdon thấy có một tia hi vọng.

- Có phải trong Đền thờ ánh sáng không?

Kẻ giết người nhếch mép cười.

- Ông bạn làm sao mà tìm được!

Langdon thấy nghi ngờ. Hoá ra nơi gặp gỡ của họ vẫn còn tồn tại.

Anh chĩa súng vào người hắn.

- Ở đâu?

- Đó là một địa điểm bí mật từ nhiều thế kỷ nay. Thậm chí đến cả tôi cũng mới được biết chưa bao lâu. Có chết tôi cũng không tiết lộ bí mật đó.

- Không cần mày tao cũng tự tìm được.

- Ông bạn quá ngạo mạn.

Langdon hất đầu về phía đài phun nước:

- Tao đã đến được đây đấy thôi.

- Thì khối người khác cũng thế. Bước cuối cùng bao giờ cũng khó nhất.

Langdon tiến lại gần hơn, chân loạng choạng trong nước. Tên sát thủ có vẻ rất bình tĩnh, hắn đang ngồi xổm ở cuối xe, hai tay giơ lên. Chĩa súng vào ngực hắn, Langdon thầm băn khoăn có nên bắn một phát đạn để kết liễu đời hắn ngay lúc này hay không. Không nên. Hắn biết Vittoria ở chỗ nào. Hắn biết hộp phản vật chất giấu ở đâu. Mình thì đang cần thông tin.

Ngồi trong thùng xe tối tăm, tên sát thủ chăm chú nhìn kẻ uy hiếp hắn, và không nén nổi cảm giác vừa thương hại vừa khoái trá. Gã người Mỹ này thuộc loại dũng cảm, điều đó thì đã rõ.

Nhưng gã đúng là đồ gà mờ. Dũng cảm mà không có kỹ năng thì chẳng khác nào tự sát. Muốn tự vệ phải biết các quy tắc. Những quy tắc từ ngàn xưa. Và gã người Mỹ này đã vi phạm tất cả những quy tắc đó.

Ông bạn có một lợi thế - đó là yếu tố bất ngờ. Nhưng ông bạn đã lãng phí cái đó.

Gã người Mỹ này không quyết đoán... có lẽ gã đang đợi người đến hỗ trợ... hay đợi mình lỡ lời để lộ thông tin quan trọng nào đó.

Nếu chưa đánh bại được đối thủ thì chưa được phép tra khảo. Con mồi bị dồn vào chân tường chính là đối tượng nguy hiểm nhất.

Gã này lại nói tiếp, giọng dỗ dành.

Suýt nữa thì tên sát thủ cười phá lên. Đây đâu phải là một bộ phim tà giáo của Hollywood cơ chứ... chẳng ai đi tào lao mãi trong khi đang bị chĩa súng vào người. Thời điểm quyết định đã tới. Nào!

Vẫn nhìn thẳng vào mắt Langdon, tên sát thủ lần tay lên nóc xe cho đến khi hắn tìm thấy vật cần tìm. Vẫn chăm chăm nhìn thẳng về phía trước, hắn cắm vật đó gọn trong lòng bàn tay.

Rồi hắn bắt đầu hành động.

Hành động của hắn vô cùng bất ngờ. Trong một thoáng chốc, Langdon tưởng như tất cả các quy luật vật lý đều không còn tác dụng. Tên sát thủ đu người lên cao, hai chân hắn vươn dài ra, hất vị Hồng y đã bị trói bằng xích xuống nước. Nạn nhân của hắn rơi tõm xuống, nước bắn lên tung tóe.

Nước văng đầy lên mặt, Langdon nhận ra quá muộn màng. Kẻ giết người đã bám vào một thanh giằng trên nóc xe để đu người về phía trước. Trong bụi nước mịt mù, hắn lao thẳng vào người Langdon, chân choãi ra trước.

Langdon kéo cò, bộ phận giảm thanh kêu đánh cách một tiếng.

Viên dạn nổ đúng vào mũi giày bên trái của hắn. Nhưng ngay lập tức anh bị hai gót giày của hắn đá mạnh vào ngực, và bị hất về phía sau.

Hai người đàn ông ngã nhào xuống, nước lẫn máu bắn tung tóe.

Bị thứ chất lỏng lạnh kinh khủng ấy bao kín lấy toàn thân, cảm nhận đầu tiên của Langdon là đau. Bản năng sinh tốn trỗi dậy trước tiên. Anh nhận thấy khẩu súng không còn trên tay mình nữa. Nó đã bị đá văng đi. Lặn sâu xuống, Langdon mò mẫm quờ quạng dưới đáy bốn nước. Tay anh chạm vào kim loại. Hoá ra là một nắm tiền xu. Anh thả ra. Langdon mở mắt, quan sát đáy bốn. Làn nước lạnh buốt đang vây kín lấy anh.

Cố nhịn thở Langdon lặn xuống đáy bồn để khỏi bị tấn công. Không ngừng quẫy đạp. Không biết cú đánh tiếp theo sẽ từ hướng nào. Phải tìm cho được khẩu súng! Hai tay anh tuyệt vọng dò dẫm.

Mình đang có một lợi thế, anh tự khích lệ bản thân, mình đang ở trong môi trường của mình. Dù chiếc áo len sũng nước trở nên rất vướng víu, Langdon vẫn là một tay bơi nhanh nhẹn. Nước chính là môi trường của mình.

Tay sờ phải kim loại lần thứ hai, Langdon chắc mẩm vận rủi của mình đã kết thúc. Thứ anh cầm trong tay không còn là một nắm tiền xu nữa. Nắm thật chặt, lôi nó về phía mình, nhưng thay vì kéo được vật ấy, anh thấy mình bị kéo về đằng trước. Vật đó không hề xê dịch chút nào.

Còn chưa chạm vào thân thể đang quằn quại của đức Hồng y, Langdon đã nhận ra ngay, anh vừa nắm phải sợi dây xích đang kéo vị thầy tu này xuống dưới đáy nước. Trông thấy khuôn mặt đầy kinh hãi dưới đáy nước đang nhìn mình chằm chằm, Langdon đờ người, chùng chằng mất một khoảnh khắc.

Nhưng ngay khi thấy đôi mắt ấy vẫn ánh lên sự sống, Langdon lập tức hành động: Anh sục tay xuống, túm lấy sợi dây xích, rồi ra sức kéo ông già khốn khổ lên khỏi mặt nước.

Thân thể của nạn nhân nổi lên rất chậm chạp, chẳng khác gì cái mỏ neo. Langdon kéo mạnh tay hơn. Khi mặt nhô được lên khỏi mặt nước, vị Hồng y già thở hổn hển một cách tuyệt vọng. Rồi bỗng dưng thân thể của ngài lăn mạnh, khiến cho sợi xích trơn tuột vuột ra khỏi tay Langdon. Như một tảng đá nặng, Hồng y Baggia rơi xuống nước, rồi chìm nghỉm dưới làn nước ngầu bọt.

Langdon lặn xuống, căng mắt ra để nhìn xuyên làn nước tối âm u. Anh tìm được đức Hồng y Giáo chủ. Nhưng lần này, khi Langdon chạm tay vào, sợi xích ngang ngực nạn nhân bị kéo lệch đi để lộ ra thêm một vết thương đau đớn trên cơ thể nạn nhân... một dấu sắt nung làm cháy sém da thịt.

Trong giây lát, hai chiếc giày hiện ra trong tầm mắt Langdon. Một chiếc đỏ lòm những máu.

***

Là vận động viên môn bóng Polo nước, Robert Langdon đã từng chịu rất nhiều đòn chơi xấu ngầm dưới mặt nước. Trong lòng nước, nơi mà trọng tài không thể trông thấy, cuộc ganh đua có thể trở nên quyết liệt và bạo lực chẳng kém gì một trận đấu vật. Langdon bị đá, bị cào, bị ghì chặt, thậm chí có lần còn bị một cầu thủ hậu vệ phát khùng cắn cho đau điếng vì anh ta không thể túm được anh.

Tuy nhiên, Langdon biết những trận đấu Polo ở trường Harward còn lâu mới bì được với những gì đang xảy ra trong bồn nước buốt giá lúc này. Anh đang phải tranh đấu, không phải để giải trí, mà để bảo vệ mạng sống của mình. Đây là lần thứ hai anh phải đối chọi với hắn. Ở đây không có trọng tài, cũng chẳng có hiệp đấu thứ hai. Hai bàn tay của hắn đang ghì chặt đầu anh và dúi xuống nước thật mạnh, chắc chắn là với mục đích giết người.

Theo bản năng, Langdon xoay người như một quả ngư lôi. Phải bẻ gãy gọng kìm này! Nhưng hai bàn tay cứng ngắc xoay anh lại.

Kẻ đang tấn công Langdon có một lợi thế mà không một cầu thủ Polo nào có được - hai bàn chân vững chãi trên nền bồn nước.

Langdon vùng vẫy, cố chạm chân xuống đáy bồn. Dường như kẻ giết người này chỉ thích dùng một tay... nhưng bàn tay hắn cứng kinh khủng.

Lúc này, Langdon hiểu ra rằng anh sẽ không có cách gì để ngoi lên được. Thế là anh làm điều duy nhất có thể nghĩ ra được trong tình huống này. Anh không tìm cách ngoi lên nữa. Nếu không đi được về hướng Bắc thì hãy chuyển sang hướng Đông. Thu hết sức lực còn lại trong cơ bắp, Langdon co hai chân đạp thật mạnh rồi vươn hai tay xuống dưới, kiểu như một người đang tập bơi bướm. Thân thể anh trôi về phía trước.

Sự chuyển hướng đột ngột của Langdon khiến tên sát thủ bị bất ngờ. Hai tay hắn chới với, hai chân lảo đảo. Bàn tay túm cổ ánh hơi lơi ra, Langdon đạp mạnh một cú nữa. Cảm giác như sợi dây néo của con thuyền đột ngột đứt phăng ra, Langdon được tự do.

Nhả hết khí thải trong phổi ra, Langdon ngoi lên mặt nước. Anh chỉ hít được một hơi duy nhất. Tên sát thủ này rất khỏe, và hắn lại đã đứng sát bên cạnh, hai tay chộp lấy vai Langdon, rồi dồn hết sức lực dúi anh xuống một lần nữa. Hai chân Langdon chới với tìm điểm tì, nhưng hắn choãi chân ra, đẩy mạnh anh xuống.

Langdon lại bị chìm dưới nước một lần nữa.

Cơ bắp đau nhức, nhưng anh vẫn quẫy thật mạnh. Lần này chẳng có tác dụng gì. Anh nhìn xuống đáy nước, cố tìm khẩu súng.

Tất cả đều mờ mịt. Nước ngầu bọt. Một luồng sáng chói loà chiếu thẳng vào mắt Langdon khi hắn dúi anh xuống sâu, thẳng xuống một bóng đèn điện chìm dưới đáy đài phun nước. Langdon với tay túm lấy hộp đèn. Nóng rẫy. Anh bám chặt, cố thoát khỏi tay tên sát thủ, nhưng cái hộp được gắn bản lề, nó xoay một vòng trong tay anh. Lập tức Langdon bị mất đà.

Kẻ giết người lại dúi anh xuống sâu thêm.

Đúng lúc này, Langdon trông thấy một vật hình trụ nhỏ, màu đen nhô lên giữa lớp tiền xu phủ kín đáy đài phun, ngay trước mắt anh. Bộ phận giảm thanh trên khẩu súng của Olivetti!

Langdon với tay ra, nhưng khi chạm tay vào, Langdon nhận ra nó không phải bằng kim loại, mà chỉ là đồ nhựa. Lúc anh rút lên, cái ống nhựa mỏng bập bềnh như một cỏn rắn nhỏ. Cái ống này dài hơn nữa mét, một đầu có gắn ống tạo bọt. Thứ anh vừa tìm được không phải là khẩu súng, mà chỉ là một cái ống tạo bọt vô hại... một trong vô số ống tương tự ở đài phun nước này.

Cách đó chỉ mấy thước, Hồng y Baggia cảm thấy linh hồn mình sắp rời khỏi thể xác. Dù cả đời đã chuẩn bị tinh thần cho giờ phút này, vị thầy tu già vẫn không ngờ kết cục lại thế này.

Phắn xác thịt của ngài đang đau đớn... bị nướng bằng sắt nung, bị bầm dập, và bị vật nặng kéo xuống đáy nước. Hồng y tự nhắc nhở bản thân rằng thế này vẫn chưa thấm tháp gì so với những khổ ải mà Giê-su đã phải chịu đựng.

Người đã hi sinh thân mình để chuộc lỗi cho chúng con...

Hồng y Baggia nghe rõ tiếng hai người vật lộn ngay sát bên ngài. Tên giết người này sắp sát hại thêm một người nữa... một người có đôi mắt hiền từ, người đã tìm cách cứu giúp ngài.

Cơn đau trở nên dữ dội hơn, Hồng y Baggia nằm ngửa ra, nhìn xuyên qua làn nước, trông lên bầu trời đen kịt trên cao. Trong thoáng chốc, vị Hồng y già tưởng như vừa trông thấy những vì sao.

Đã đến lúc rồi.

Bỏ qua tất thảy mọi sợ hãi và lo lắng, vị Hồng y Giáo chủ mở miệng, thở ra, ngài biết đây là hơi thở cuối cùng. Ngài nhìn linh hồn theo những bọt nước nổi dần lên. Rồi như một phản xạ tự nhiên, ngài ngáp. Nước ộc vào hai lá phổi, như những mũi dao găm. Cảm giác đau dớn chỉ kéo dài trong giây lát.

Sau đó là... sự bình an.

Mặc cho bàn chân đau như xé, tên sát thủ ra sức dìm người đàn ông Mỹ xuống dưới nước. Làm cho xong mọi chuyện. Hắn siết chặt bàn tay, biết chắc lần này thì Langdon không thể thoát chết. Đúng như hắn dự đoán, nạn nhân quẫy đạp mỗi lúc một yếu đi.

Đột nhiên toàn thân Langdon gồng cứng lên, rồi co giật dữ dội.

Hay lắm, tên sát thủ thầm nghĩ. Hắn giãy chết. Nước bắt đầu chảy vào phổi. Hắn biết cơn giãy chết sẽ kéo dài khoảng 5 giây.

6 giây sau Langdon mới thôi co giật.

Sau đó, đúng như dự đoán của tên sát thủ, toàn thân nạn nhân mềm nhũn ra. Như một quả bóng bị xì hơi, Langdon rũ ra. Thế là hết. Tên sát thủ tiếp tục dìm anh xuống thêm 30 giây nữa, để cho nước vào đầy hai lá phổi. Rồi hắn từ từ thả tay, để cho thi thể nạn nhân chìm dần xuống đáy. Cuối cùng hắn buông hẳn tay ra. Cánh nhà báo sẽ tha hồ mà kinh ngạc khi kéo đến Đài phun nước Bốn dòng sông.

- Tabban!(1)

Kẻ sát nhân chửi thế, loạng choạng ra khỏi bồn nước, rồi nhìn bàn chân bê bết máu. Mũi giày của hắn nát bét và đầu ngón chân cái đã bị bắn văng mất. Cáu tiết vì sự bất cẩn của bản thân, hắn xé ống quần, nhồi mảnh vải vào mũi giày. Cơn đau buốt lên tận cẳng chân Hắn nghiến răng nhét mảnh vải vào sâu thêm nữa. Máu chảy chậm dần, cuối cùng chỉ còn nhỏ giọt.

Quên cả đau đớn, tên sát thủ nghĩ tới chuyện hưởng thụ, và leo lên cabin xe. Nhiệm vụ của hắn ở Rome thế là đã hoàn tất.

Hắn biết rõ phải làm gì để xoa dịu vết đau ở chân. Vittoria Vetra, bị trói chặt, đang đợi hắn. Dù đang bị ướt sũng và lạnh cóng, tên sát thủ cảm thấy cơ thể hắn lập tức cương cứng lên.

Ta đã giành được một chiên lợi phẩm.

***

Ở đầu bên kia thành Rome, Vittoria tỉnh dậy, đau nhức khắp toàn thân. Toàn bộ cơ bắp nặng như chì. Cứng ngắc. Căng dừ. Hai cánh tay đau dữ đội. Khi cố gắng cử động, cô gái thấy vai nhức buốt. Một lúc sau Vittoria mới biết mình đã bị trói trật cánh khuỷu về phía sau. Cô gái cảm thấy bối rối. Mình đang ngủ mơ hay sao? Nhưng khi bắt đầu ngẩng đầu lên, cảm giác đau buốt ở gáy nhắc nhở rằng cô đang tỉnh.

Từ bối rối chuyển sang sợ hãi, cô gái đưa mắt quan sát xung quanh. Vittoria đang ở trong một căn phòng xây bằng đá rộng rãi, có nhiều đồ đạc sang trọng, được thắp sáng bằng đuốc. Một kiểu phòng họp cổ xưa. Ngay gần đó là những chiếc ghế bành kiểu cổ xếp quây thành một vòng tròn.

Lúc này Vittoria mới nhận thấy một làn gió lạnh buốt đang thổi vào người ngay gạn chỗ cô nằm là một cánh cửa đôi mở rộng, trông ra ban công. Qua khe hở giữa các thanh lan can, Vittoria trông thấy Vatican.

Chú thích:

(1) Tabban: Câu chửi thề.

***

Robert Langdon nằm trên đống tiền xu phủ kín đáy bồn của Đài phun nước Bốn dòng sông. Miệng anh vẫn ngậm chật cái ống nhựa mỏng. Sau khi được bơm qua cái ống nhỏ này, luồng không khí vào đến phổi Langdon không còn tinh khiết nữa, khiến cố họng anh đau rát. Nhưng Langdon không mấy bận tâm. Anh đã giữ được mạng sống.

Langdon không dám chắc là màn đóng giả người chết đuối vừa rồi có giống thật lắm không, vốn ưa bơi lội, anh đã nghe kể rất nhiều chuyện. Langdon đã cố hết sức. Gần đến lúc cuối, anh còn thở hết không khí trong phổi ra và ngừng thở để cho toàn thân chìm dần xuống.

May mắn là hắn đã bị mắc lừa và buông tay ra.

Lúc này, nằm nghỉ xả hơi dưới đáy nước, Langdon cố đợi thật lâu Anh sắp sửa ngạt thở đến nơi. Không biết hung thủ có còn ở đó không, anh hít thêm một hơi thở nữa, thứ không khí đã trở thành cay xè sau khi chảy qua cái ống. Langdon vứt bỏ cái ống, anh bơi vào giữa đài phun nước, và dừng lại khi tìm thấy một chỗ đáy bồn dốc lên, sát tảng núi đá nhỏ ở chính giữa. Anh khẽ khàng trồi lên mặt nước, ở một góc khuất sau những hình khối trang trí được đẽo trên đá cẩm thạch.

Chiếc xe đã đi khỏi.

Langdon chỉ chờ có thế. Hít không khí tinh khiết vào đầy hai lá phổi, anh bơi lại chỗ Hồng y Baggia. Anh biết rằng lúc này thì chắc chắn vị thầy tu già đã bất tỉnh rồi, và cơ hội sống sót là rất mỏng manh, nhưng vẫn cần phải cố gắng hết sức. Khi tìm thấy nạn nhân, anh choãi rộng hai chân, khom lưng xuống, tay túm sợi xích sắt quấn quanh thân thể Hồng y. Rồi anh kéo mạnh lên. Đưa được vị thầy tu ra khỏi lòng nước, Langdon thấy hai mắt nạn nhân đã lồi ra và trợn ngược lên. Không phải là điềm lành. Không thấy có hơi thở, mạch cũng đã dừng.

Biết không thể nào nhấc được nạn nhân qua thành bồn nước, Langdon kéo vị thầy tu đến một chỗ nước nông gần trung tâm đài phun. Ở chỗ này đáy bồn hơi dốc lên, khá nông. Langdon ráng sức kéo thân thể Hồng y Baggia lên cao. Nhưng chẳng được bao xa.

Rồi anh bắt đầu hành động. Ấn mạnh ngực Hồng y đang bị quấn đầy xích, anh đẩy cho nước trong hai lá phổi chảy hết ra ngoài, rồi bắt đầu làm động tác hô hấp nhân tạo. Cẩn thận, từ tốn, từng thao tác một, cố không hà hơi nhanh và mạnh quá. Trong vòng 3 phút, Langdon làm tất cả để cấp cứu cho vị thầy tu già. Sau 5 phút, anh đành chấp nhận sự thật, không còn cơ hội nữa.

Người được ân sủng. Người đáng ra đã trở thành Giáo hoàng, giờ đã chết, ngay trước mắt Langdon.

Tuy nhiên, ngay cả vào giờ phút này, dù nằm sõng soài trên nền đài phun mờ tối, nước ngập ngang người, Hồng y Baggia vẫn toát ra một thứ uy lực nào đó. Nước vỗ nhè nhẹ lên ngực ngài, như thể muốn bày tỏ sự ân hận... như thể cầu xin được tha thứ vì đã huỷ hoại tấm thân của ngài... như thể muốn rửa sạch vết thương trên lồng ngực bị đóng dấu sắt nung...

Langdon vuốt nhẹ nhàng để đôi mắt của ngài khép lại. Đúng khoảnh khắc ấy anh thấy hai mắt mình nhoà lệ. Langdon ngạc nhiên. Rồi anh khóc, đã bao nhiêu năm nay anh chưa cảm thấy xúc động đến thế này.

***

Cơn xúc động dần qua đi, Langdon chậm chạp lội trở lại chỗ nước sâu, để thi thể của Hồng y Baggia nằm lại giữa đài nước.

Kiệt sức, cô độc, Langdon tưởng mình sắp đổ sụp. Thế mà một luồng năng lượng mới đã lại dâng lên trong anh. Mạnh mẽ. Không thể nào cưỡng lại nổi. Langdon thấy toàn bộ cơ bắp của anh chợt căng ra. Bất chấp cảm giác đau đớn trong lòng, tâm trí anh cũng đồng thời gạt quá khứ sang một bên, tập trung toàn bộ tinh lực vào một mục đích trước mắt.

Tìm điểm tụ họp của hội Illuminati. Cứu Vittoria.

Lại tập trung chú ý vào hòn núi nhỏ của Bernini giữa đài phun nước, Langdon thấy hi vọng lại nhen lên trong lòng. Anh bắt đầu tìm kiếm dấu hiệu chỉ đường cuối cùng của hội Illuminati. Đầu mối dẫn đến điểm tụ họp của họ nằm đâu đó trên tảng đá sần sùi này. Tuy nhiên, quan sát toàn bộ đài phun nước, tia hi vọng trong lòng anh nhanh chóng biến mất. Hai chữ đầu mối cử vang lên trong tâm trí như muốn trêu ngươi. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả. Langdon quan sát kỹ những hình trang trí khắc trên đá. Đài phun nước này hoàn toàn mang tính chất ngoại đạo! Chẳng thấy thiên thần nào cả!

Quan sát phần trung tâm đài phun xong, Langdon ngước mắt nhìn lên toà Kim tự tháp bằng đá nguyên khối cao ngất. Bốn đầu mối trải khắp thành Rome, anh thầm nghĩ, tạo thành một hình chữ thập khổng lồ.

Tiếp tục quan sát những hoạ tiết trang trí trên đài phun nước, Langdon nghĩ đến khả năng đầu mối anh cần tìm được thể hiện bằng các ký tự Ai Cập. Nhưng ngay lập tức, Langdon từ bỏ giả thuyết này vì lối viết tượng hình đó ra đời trước thời đại của Bernini những mấy thế kỷ, và mãi đến khi tìm được tảng đá Rosetta người ta mới phát hiện ra cách đọc loại chữ này. Langdon tiếp tục phỏng đoán. Biết đâu Bernini đã khắc thêm một ký hiệu nào đó lên hòn núi nhỏ này? Biết đâu ký tự đó nằm lẫn giữa những hoa văn trang trí dày đặc ở đây?

Cảm thấy có chút hi vọng, Langdon đi vòng quanh đài phun thêm một lần nữa, xem kỹ cả bốn mặt của Kim tự tháp. Mất 2 phút tất cả, và sau khi xem xong mặt cuối cùng cửa Kim tự tháp bằng đá, hi vọng lại tiêu tan. Không thấy có bất kỳ ký tự tượng hình nào cả. Còn thiên thần thì lại càng không thấy đâu.

Langdon xem đồng hồ. 11 giờ đúng. Chẳng biết thời gian đang trôi nhanh hay chậm nữa. Chân Langdon vẫn bước quanh đài phun nước, trong khi hình ảnh Vittoria và tên sát thủ cứ xoay đảo trong đầu. Cảm giác bực bội lại càng tăng thêm khi anh đi hết vòng thứ ba quanh đài phun mà vẫn chẳng tìm thấy gì. Kiệt quệ, thất thểu, Langdon như muốn đố sụp xuống. Anh ngửa cổ, mặt hướng lên trời cao và hét thật to.

Nhưng tiếng thét lập tức ngưng bặt trong cổ họng. Trên đỉnh Kim tự tháp có một thứ, lúc đầu anh đã trông thấy nó, nhưng rồi quên luôn. Đúng lúc này, nó lại bất ngờ hiện ra trước mắt.

Không phải là thiên thần. Một thứ hoàn toàn khác. Thậm chí lúc đầu anh còn tưởng đó không phải là một phần của công trình này. Anh cứ tưởng nó là một sinh vật sống, tường rằng một trong những con chim cô độc của thành phố đang đậu trên đó.

Một con chim cu.

Langdon nheo mắt nhìn lên, làn bụi nước dày quanh đài phun chặn tầm mắt. Có phải chim cu không nhỉ? Anh nhìn thấy rõ cái mỏ và cái đầu hiện lên giữa nền trời sao. Từ nãy đến giờ chú chim này không hề nhúc nhích, thậm chí cả lúc hai người vật lộn với nhau dưới nước. Lúc này con chim vẫn đậu nguyên đó, y như lúc anh mới đặt chân đến đây. Nó đậu trên đỉnh Kim tự tháp, bình thản nhìn về hướng Tây.

Langdon chăm chú nhìn con chim cu một hồi, rồi anh vục tay xuống nước, nhặt một nắm tiền xu, tung lên cao. Những đồng xu bay đến tận gần đỉnh Kim tự tháp. Con chim không nhúc nhích.

Langdon lại một lần nữa ném tiền xu lên. Lần này thì một đồng xu bay trúng đích. Có tiếng kim loại va vào kim loại.

Con chim cu quái quỷ này được làm bằng đồng.

Mình đang tìm thiên thần chứ có tìm chim cu đâu, Langdon nghe có lời nhắc nhở vang lên trong tâm trí. Nhưng đã quá muộn. Langdon vừa kịp nhớ ra. Anh nhận ra rằng đó không phải là chim cu.

Đó là một chú bồ câu.

Không chút do dự, Langdon lội ngay vào giữa bồn nước, rồi trèo lên hòn núi bằng đá hoa cương. Anh sải tay thật dài, đu người lên nhanh thoăn thoắt. Lên đến lưng chừng, vượt qua được đám bụi nước và bắt đầu nhìn rõ chú chim đậu trên đỉnh.

Không còn nghi ngờ gì nữa. Chim bồ câu. Màu sẫm của chú chim này chẳng qua là do lớp gỉ đồng bám bên ngoài. Rồi ý nghĩa tượng trưng của biểu tượng hiện ra trong đầu Langdon. Chiều nay anh đã trông thấy hai chú chim câu trong điện Pantheon. Một đôi thì không mang ý nghĩa biểu tượng nào. Nhưng chú chim này thì đứng một mình.

Con chim bồ câu đơn độc là vật tượng trưng cho Thần Hoà bình.

Dường như phát hiện này đã đang tay nâng Langdon lên đến tận Kim tự tháp trên đỉnh ngọn núi đá hoa cương. Bernini đã chọn một biểu tượng ngoại đạo cho hình ảnh thiên thần để có thể đặt nó lên trên một cái đài phun nước đầy những hoạ tiết trang trí ngoại đạo. Thiên thầm dẫn lối trên hành trình cao cả. Chú chim câu này chính là thiên thần! Chú đậu trên đỉnh Kim tự tháp cao chót vót, quả là không thể tìm được vị trí nào lý tưởng hơn thế.

Chú chim câu đang nhìn về hướng Tây. Langdon cũng quay nhìn theo hướng đó, nhưng bị các toà nhà cao tầng chắn mất tầm mắt. Anh leo lên cao hơn nữa. Một câu trích dẫn trong cuốn St. Gresory của Nyssa bỗng lóe lên trong óc Langdon. Khi một linh hồn được khai sáng... nó bắt đầu mang dáng dấp của chú chim câu xinh xắn.

Langdon leo thẳng. lên, nhìn theo hướng chú chim câu. Lúc này anh gần như đang bay. Lên đến đỉnh núi, tức là chân Kim tự tháp, anh dừng lại. Nhìn quanh một lượt, Langdon biết không cần thiết phải leo cao nữa làm gì. Toàn cảnh thành Rome đã hiện ra trong tầm mắt. Một quang cảnh thật kỳ vĩ.

Bên trái là những luồng sáng phát ra từ ánh đèn máy quay của cánh nhà báo đang tập trung ở quảng trường St. Peter. Bên phải là mái vòm cuồn cuộn khói của thánh đường Santa Maria Della Vittoria. Xa xa phía trước là quảng trường Del Popolo. Ngay dưới chân anh là điểm thứ tư và cũng là điểm cuối cùng. Một cây thánh giá khổng lồ được đánh dấu bằng những Kim tự tháp đá.

Langdon run run ngước lên nhìn chú chim bồ câu. Anh quay mặt về đúng hướng ấy, rồi dõi mắt ra xa.

Và anh trông thấy ngay lập túc.

Quá rõ ràng. Quá hiển nhiên. Vô cùng đơn giản.

Trợn tròn mắt, Langdon không thể tin rằng điểm gặp gỡ của hội Illuminati có thể bí mật được lâu đến vậy. Cảnh toàn thành phố như nhoà đi khi Langdon tập trung quan sát toà lâu đài xây bằng đá khổng lồ ngay bên kia sông. Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất thành Rome, toạ lạc ngay bên bờ sông Tiber, chéo góc với Vatican.

Hình khối của nó khá đơn giản - một toà lâu đài được thiết kế theo hình tròn, nằm lọt trong một pháo đài hình vuông, và một công viên hình ngôi sao năm cánh bao bọc cả lâu đài lẫn pháo đài.

Pháo đài cổ bằng đá này được chiếu sáng bằng các ngọn đèn đặt dưới chân tường. Trên đỉnh lâu đài là tượng một thiên thần cực lớn bằng đồng đỏ. Trong tay thiên thần là thanh kiếm chỉ thẳng xuống chính giữa lâu đài. Chưa hết, còn có cây cầu Thiên thần nổi tiếng dẫn tới cổng vào... cổng này được trang hoàng bởi 12 tượng thiên thần do chính tay Bernini tạc.

Thêm một chi tiết kỳ diệu nữa: Langdon nhận thấy hình chữ thập khổng lồ đánh dấu bằng Kim tự tháp của Bernini in đậm dấu ấn của hội Illuminati; tâm của hình chữ thập nằm đúng vào tâm điểm của cây cầu dẫn vào toà lâu đài chia cây cầu thành hai nửa bằng nhau.

Langdon nhặt áo khoác lên, cẩn thận giơ áo ra xa để khỏi chạm vào thân thề ướt sũng nước của mình. Sau đó anh nhảy vào chiếc xe tô vừa cướp được, dận mạnh cần số, lao vụt đi.

***

11 giờ ? phút.

Chiếc xe của Langdon lao vun vút trong bóng đêm. Chạy dọc con đường song song với bờ sông mang tên Tor Di Nona, Langdon bắt đầu trông thấy cái đích anh đang nhắm đến nhô lên cao vút như một dãy núi, ngay bên tay phải.

Castel Sant Angelo(1). Lâu đài của Thiên thần.

Bất thình lình, anh thấy hiện ra trước mắt con đường nhỏ dẫn vào cầu Thiên thần - Ponte Sant Angelo. Dận mạnh cần phanh, Langdon cho xe rẽ ngoặt sang. Xe của anh ngoặt vừa kịp lúc, nhưng lối lên cầu đã bị cản lại. Chiếc xe trượt lên thêm khoảng 3 mét nữa, va mạnh vào dãy cột xi măng trước mắt. Rồi chiếc xe hộc lên, máy chết, Langdon bị xô hắn về đằng trước. Anh đã quên mất rằng nhằm mục đích bảo tồn, cầu Thiên thần giờ đã được biến thành khu vực dành cho người đi bộ.

Run lẩy bẩy, bước ra khỏi chiếc xe bẹp dúm, Langdon thầm ước giá như lúc nãy anh chọn lối đi khác. Bị ướt sũng từ khi rời khỏi đài phun nước, Langdon lạnh run lên. Anh khoác áo choàng ra ngoài chiếc sơ-mi sũng nước, thầm ơn chúa vì đã chọn mua loại áo Harris hai lớp lót này. Trang sách Diagramma sẽ không bị ướt. Bên kia cầu, pháo dài bằng đá: hiện ra trước mắt anh như một chỏm núi. Kiệt sức, đau đớn, Langdon lê chân chạy.

Hai bên đường hiện ra hai hàng tượng thiên thần, như một đoàn hộ tống, đang chào đón anh đến đích cuối cùng. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả. Càng đến gần, anh càng thấy đỉnh tháp của pháo đài cao thêm mãi, thậm chí còn gây ấn tượng hơn cả quảng trường St. Peter. Vừa thở hổn hển, anh vừa chạy nhanh về hướng ấy, mắt ngước lên nhìn mái vòm hình tròn của toà lâu đài nhô cao, trên đỉnh của nó là một bức tượng thiên thần khổng lồ tay cầm kiếm.

Toà lâu đài vắng tanh.

Langdon biết rằng suốt bao thế kỷ qua, Vatican đã dùng địa điểm này như một khu lăng mộ, pháo đài, nơi nghỉ dưỡng của Giáo hoàng, nhà tù để giam cầm những kẻ tà đạo; và làm viện bảo tàng. Dĩ nhiên là trong toà lâu đài này còn có thêm một nhóm người nữa - hội Illuminati. Quả là kỳ lạ. Dù toà lâu đài này thuộc sở hữu của toà thánh, nhưng nó chẳng mấy khi được dùng đến, và trong quãng thời gian của mình, Bernini đã nhiều lần bỏ công tôn tạo công trình này. Ngày nay, người ta vẫn đồn rằng trong toà nhà này chằng chịt những lối đi ngầm, cùng vô số các căn phòng và cửa ra vào bí mật. Chắc chắn những pho tượng thiên thần và công viên hình ngôi sao năm cánh bao quanh nơi này cũng là tác phẩm của Bernini.

Đến bên cánh cửa đôi đồ sộ, Langdon xô thật mạnh. Đúng như anh dự đoán, cửa không hề nhúc nhích. Treo ngang tầm mắt là hai cái búa gõ cửa bằng sắt, nhưng anh chẳng buồn bận tâm đến chúng. Langdon lùi lại một bước, ngửa cổ lên và quan sát bức tường cao ngất bao quanh lâu đài. Những bức tường kiên cố này đã chặn bước biết bao toán cướp, bao đội quân người Moor và người Berber. Chuyện đột nhập vào bên trong có vẻ không khả thi chút nào.

Vittoria, Langdon thầm nghĩ. Em có ở trong đó không?

Langdon vội chạy quanh bức tường ngoài. Chắc phải có một lối vào khác?

Anh chạy về hướng Tây, và đến mảng tường thứ hai thì trông thấy bãi đỗ xe Lungoteve Castello. Có một lối vào nữa, nhưng nó là một cây cầu kéo bắc qua hào nước, lúc này đã bị kéo dựng hẳn lên bên bức tường bao cài khoá kỹ càng. Lại một lần nữa, Langdon ngước mắt nhìn lên cao.

Những bóng đèn duy nhất chiếu sáng cho toà lâu đài này được bố trí dưới chân mặt tiền, hắt ánh sáng lên cao. Tất cả các khung cửa sồ đều tối đen. Langdon ngước nhìn lên cao hơn nữa. Có một cái ban công chìa ra sát trên đỉnh toà tháp trung tâm, cách mặt đất khoảng 30 mét, thẳng dưới mũi kiếm của thiên thần. Hàng cột đá cẩm thạch ngoài lan can sáng mờ mờ, hình như có ánh đuốc.

Langdon dừng lại, toàn thân anh chợt run lên. Có phải là một bóng đen trên kia không nhỉ? Anh căng mắt ra để nhìn, vô cùng căng thẳng. Rồi bóng đen ấy hiện ra thêm một lần nữa. Langdon thấy lạnh sống lưng. Trên kia có người!

Không thể kìm lòng Langdon gọi lớn:

- Vittoria!

Nhưng dòng sông Tiber đang ào ạt chảy át mất tiếng gọi của anh. Langdon nhìn khắp xung quanh, băn khoăn không hiểu đội lính gác Thuỵ Sĩ đã biến mất đằng nào. Không hiểu họ đã nhận được tin nhắn của anh chưa?

Ở phía bên kia bãi đỗ xe, anh thấy có một chiếc xe hòm của báo chí. Langdon chạy tới đó. Trong ca-bin có một anh chàng bụng phệ, tai đeo ống nghe, tay đang điều chỉnh mấy cái cần.

Langdon đập thình thình vào cửa, khiến cho anh chàng giật nảy mình, ngẩng lên nhìn. Trông thấy bộ quần áo ướt rượt đang rỏ nước tong tong trên người Langdon, anh ta gạt ống nghe khỏi tai.

- Có chuyện gì thế anh bạn? - Anh ta nói giọng Úc.

- Cho tôi mượn điện thoại! - Langdon vội cuống cuồng.

Anh ta nhún vai:

- Không có tín hiệu đâu. Tôi cố gọi suốt từ tối có được đâu. Tất cả các đường dây đều bận.

Langdon chửi thề. Rồi anh đưa tay chỉ cây cầu:

- Anh có thấy ai vào kia không?

- Có đấy. Tôi thấy một chiếc xe hòm màu đen đi ra đi vào mấy lần rồi.

Ruột gan Langdon như lửa đốt.

- Thằng cha may mắn thật. - Anh chàng người Úc vừa bình phẩm vừa ngước lên nhìn toà tháp, rồi lại nhăn nhó nhìn vào màn hình máy quay trước mặt mình. - Đứng trên đó mà quay thì chắc chắn là được hình đẹp rồi. Quảng trường St. Peter đông quá nên tôi phải ra tận đây để bấm máy.

Langdon chẳng để tâm đến những lời kể lể ấy. Anh đang cân nhắc tìm giải pháp.

- Anh nghĩ thế nào? - Anh chàng người Úc hỏi. - Nhân vật từ tâm lúc 11 giờ khuya ấy.

Langdon quay lại:

- Cái gì cơ?

- Anh không biết à? Đội trưởng đội lính gác Thuỵ Sĩ nhận được một cú điện thoại. Có một người tuyên bố rằng anh ta có thông tin và sẽ bay đến Vatican ngay lập tức. Tôi chỉ biết là nếu ông ta cứu vãn được tình thế thì quả là... không thể mong gì hơn thế.

Anh ta cười.

Langdon chẳng hiểu gì. Một người hảo tâm sẵn sàng giúp đỡ ư? Liệu người đó có biết hộp phản vật chất đang nằm ở chỗ nào không? Nếu biết thì sao không thông báo luôn cho đội lính gác Thuỵ Sĩ? Tại sao lại phải đích thân đến tận nơi? Nghe có vẻ rất kỳ quặc, nhưng Langdon không có thời gian để nghĩ đến chuyện này.

- Này ông bạn. - Anh chàng người Úc đột nhiên nhìn Langdon chằm chằm. - Có phải chính anh là người đã xuất hiện trên ti-vi không đấy? Có phải anh đã cấp cứu cho vị Hồng y ở quảng trường St. Peter không hả?

Langdon không trả lời. Đột nhiên anh trông thấy bộ phận máy lắp thêm vào trên nóc chiếc xe thùng - chảo thu tín hiệu về tinh gắn trên một cái cần đỡ có thể gấp lại. Langdon lại quay sang nhìn toà lâu đài. Bức tường bao bên ngoài cao những 15 mét. Và tháp pháo đài trong kia còn vươn cao hơn nữa. Một địa điểm cố thủ lý tưởng. Đứng từ đây mà nhìn thì thấy nó cao quá chừng, nhưng nếu như có thể vượt qua được bức tường này thì...

Langdon quay phắt lại hỏi anh chàng phóng viên:

- Cái cần đỡ này vươn cao được bao nhiêu mét?

- Hả? - Anh ta có vẻ bị bất ngờ. - 15 mét. Để làm gì?

- Cho xe xích lên đi. Đỗ cạnh tường ấy. Giúp tôi một tay.

- Anh bảo cái gì cơ?

Langdon giải thích ý định của mình.

Anh chàng người Úc trợn tròn mắt:

- Anh có điên không đấy? Cái máy quay tê-lê này trị giá những 200 ngàn đô la cơ đấy. Không phải thang để trèo đâu!

- Anh có muốn nổi tiếng không? Tôi có một thông tin sẽ khiến anh danh nổi như cồn ngay lập tức. - Langdon đã bắt đầu thấy tuyệt vọng.

- Thông tin ấy có bõ 200 ngàn đô la của tôi không?

Langdon nói cho anh ta biết thứ thông tin mà anh ta sẽ có được.

90 giây sau, nước từ người Langdon đã nhỏ tong tong lên cái cần đỡ đắt tiền đang lắc lư trọng gió cạnh bức tường cao ngất.

Nhoài người ra, anh túm lấy gờ bức tường bao quanh pháo đài, rồi đu người lên, sau đó nhảy sang pháo đài.

- Bây giờ thì thực hiện lời hứa của anh đi. - Anh chàng phóng viên người Úc gọi to. - Ông ấy ở đâu?

Langdon cảm thấy hơi tội lỗi vì phải tiết lộ thông tin này, nhưng thoả thuận là thoả thuận. Mà biết đâu tên sát thủ cũng đã báo cho cánh nhà báo rồi cũng nên.

- Quảng trường Navona. - Langdon hét to. - Trong đài phun nước ấy.

Anh chàng phóng viên hạ cần đỡ chảo thu tín hiệu vệ tinh xuống, rồi cho xe lao vút đi. Đây sẽ là bản tin sốt dẻo để đời trong sự nghiệp của anh ta.

Trên cao, trong căn phòng lát đá, tên sát thủ tháo bỏ đôi giày sũng nước và băng chặt ngón chân bị thương lại. Đau, nhưng không đến nỗi không thể tận hưởng chiến lợi phẩm hắn đang có trong tay.

Hắn quay lại bên con mồi của mình.

Cô gái đang nằm ngửa trên đi-văng, hai tay bị trói quặt ra sau, mồm bị nhét giẻ. Tên sát thủ tiến lại gần. Lúc này con mồi của hắn đã tỉnh lại. Điều này khiến hắn hài lòng. Nhưng thật ngạc nhiên, trong mắt cô gái ta ngọn lửa căm hờn, thay vì vẻ sợ hãi.

Rồi cô em sẽ biết sợ ngay thôi.

Chú thích:

(1) Castel Sant Angelo: Lâu đài St. Angelo.

***

Langdon chạy như bay quanh bức tường bao, thật may là người ta đã cho lắp những ngọn đèn chiếu sáng đặt dưới chân tường.

Anh thấy khoảng sân bên trong bức tường bao này giống hệt như một viện bảo tàng về các cuộc chiến thời xưa - nào súng cao su, đạn súng thần công, và la liệt những cỗ máy trông hết sức kỳ dị.

Một phần toà lâu đài được mở cửa cho khách du lịch vào tham quan, và chắc hẳn người ta đã cho phục chế lại khu này.

Langdon đưa mắt nhìn qua bên kia khoảng sân rộng, anh quan sát phần trung tâm. Pháo đài hình tròn này cao khoảng 35 mét, hướng thẳng lên pho tượng thiên thần trên đỉnh. Ban công trên cùng vẫn có ánh sáng từ trong hắt ra. Langdon chỉ muốn gọi to, nhưng anh biết đó là điều không nên làm. Giờ cần phải tìm dường vào trong đã.

Langdon giơ tay xem đồng hồ:

11 giờ 12 phút.

Chạy xồng xộc xuống những bậc đá sát bên trong bức tường, Langdon ra giữa khoảng sân rộng. Xuống đến mặt đất, anh chạy xuôi chiều kim đồng hồ quanh pháo đài, thấy có ba cái cổng, nhưng tất cả đều bị khoá chặt. Tên sát thủ làm thế nào ma vào được nhỉ? Langdon tiếp tục chạy. Anh trông thấy thêm hai cái cổng mới xây, nhưng cả hai đều bị khoá bên ngoài. Không phải lối này. Langdon lại chạy tiếp.

Chạy gần hết một vòng khép kín quanh pháo đài thì Langdon trông thấy một lối đi cắt ngang qua khoảng sân rộng trước mặt. Cuối lối đi này là một cái cầu kéo dẫn vào trong. Đầu kia của con đường biến mất sau cửa pháo đài. Hình như lối đi này dẫn vào một đường hầm nào đó - một đường hầm dẫn vào tận trung tâm pháo đài. Đây rồi. Langdon đã từng đọc về lối đi hình xoắn ốc hướng lên trên, nó cho phép các vị tướng lĩnh cùng với ngựa chiến của họ có thể phi từ dưới đất lên đến tầng cao nhất một cách nhanh chóng. Kẻ giết người đã đánh xe lên đây! Cánh cổng dẫn vào lối đi ngầm này bỏ ngỏ, Langdon vào trong và hồ hởi chạy thẳng tới đầu đường hầm. Nhưng đến nơi, sự hào hùng trong lòng anh lập tức tan biến.

Con đường này dẫn xuống dưới.

Nhầm đường rồi. Chắc chắn đây là lối đi xuống khu nhà ngục, không phải lối lên trên.

Anh đang đứng trước miệng hầm tối om, đường hầm này có vẻ khá quanh co ngoắt ngoéo. Lưỡng lự, Langdon ngước lên nhìn bàn công trên cao một lần nữa. Rõ ràng anh nhìn thấy một bóng đen đang di chuyển. Quyết định đi! Không còn cách nào khác, Langdon lao xuống đường hầm tối om.

Tít trên cao, tên sát thủ đang đứng nhìn con mồi của mình. Hắn vuốt nhẹ một bên cánh tay để trần của cô gái. Làn da mịn như nhung. Nghĩ đến cảnh được thưởng thức tấm thân ngà ngọc trước mắt, hắn thấy sung sướng đến mê mụ cả người. Nên hãm hiếp cô nàng theo cách nào nhỉ?

Kẻ sát nhân biết rằng hắn đáng được hưởng cô gái này. Hắn đã phục vụ Janus vô cùng chu đáo. Đây chính là chiến lợi phẩm của hắn. Sau khi hành lạc trên đi văng, hắn sẽ lôi cô nàng xuống sàn, và bắt cô ta phải quỳ gối. Cô ta sẽ phải phục vụ hắn. Một lần cuối trong đời. Rồi sau đó, vào đúng giây phút ngây ngất đến tột đỉnh, hắn sẽ cắt cổ cô ta.

Niềm đê mê người ta vẫn nói thế. Niềm đê mê tột đỉnh.

Rồi tiếp đó, hắn sẽ đứng ra ngoài ban công để tận hưởng vinh quang, để thưởng thức thắng lợi to lớn này của hội Illuminati... một cuộc trả thù mà biết bao người đã chờ đợi từ lâu.

***

Đường hầm mỗi lúc một tối hơn. Langdon tiếp tục tiến sâu thêm vào bóng tối.

Sau khi vượt qua một khúc ngoặt sâu dưới lòng đất, anh không còn thấy có chút ánh sáng nào nữa. Lối đi có vẻ phẳng dần ra, Langdon bước chậm lại. Dựa vào tiếng vang của mỗi bước chân, anh đoán rằng đây là một căn phòng rộng. Trong vùng tối âm u trước mắt, hình như vừa thoáng hiện ra một tia sáng yếu ớt...

Langdon tiến về phía đó, hai tay giơ ra phía trước để lần đường và chạm phải một bề mặt trơn nhẵn. Nhôm và kính. Đó là một chiếc xe. Anh lần về phía mũi xe, mở cửa, vào trong.

Bóng đèn tròn trên mui xe đang toả sáng, và Langdon nhận ra chiếc xe hòm ngay lập tức. Ghê tởm, nhưng anh vẫn cố gắng quan sát bên trong, hi vọng tìm được thứ vũ khí nào đó để thay thế cho khẩu súng đã mất ở đài phun nước. Không có gì. Tuy nhiên, anh tìm được điện thoại cầm tay của Vittoria. Méo mó, vô dụng. Nhìn chiếc máy, anh chợt thấy lo sợ đến cháy lòng. Langdon thầm cầu nguyện rằng anh không đến quá muộn.

Anh nhoài người, bật đèn pha của chiếc xe hòm. Căn phòng lớn và giản dị lập tức tràn ngập ánh sáng. Cỏ lẽ trước kia đây là nơi nhốt ngựa và cất giữ khí giới. Đây cũng là một con đường cụt.

Không có lối ra. Mình chọn nhầm đường rồi!

Tuyệt vọng, Langdon nhảy ra khỏi xe và quan sát xung quanh. Không thấy cánh cửa nào hết. Cổng thì lại càng không. Không lẽ bức tượng thiên thần trên mái nhà chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Không thể nào! Anh nhớ lại những lời nói của tên sát thủ lúc ở đài phun nước. Cô nàng đang ở trong Nhà thờ ánh sáng... đợi tao quay trở về. Không lẽ đã đến được tận đây mà còn phải chịu thua. Tim Langdon đập thình thịch. Cảm giác căm hận và bực bội bắt đầu lan toả khắp cơ thể.

Rồi anh trông thấy có vết máu trên sàn, và anh nghĩ ngay rằng đó là máu của Vittoria? Nhưng khi quan sát kỹ, anh nhận ra đó chính là những vết chân nhuốm máu. Những bước đi sải dài. Và máu chỉ chảy ra từ bên chân trái. Tên sát thủ!

Langdon lần theo vết máu, đến một góc phòng, bóng anh đồ dài trên sàn nhà. Càng đi lại càng thấy khó hiểu. Dường như những vết chân này dẫn thẳng đến một góc phòng rồi đột nhiên biến mất.

Bước đến tận góc tường ấy, Langdon không dám tin vào mắt mình. Những phiến đá granite lát sàn ở đây không có hình vuông như ở những chỗ khác. Anh tiếp tục quan sát. Những phiến đá xếp khít vào nhau, tạo thành một hình ngôi sao rất cân đối, một cánh sao chỉ vào chính góc tường này. Một cánh cửa thoát hiểm được giấu sau những bức tường đan chéo nhau một cánh rất tài tình. Langdon bước qua cánh cửa và trông thấy một lối đi. Có cả một thanh chắn bằng gỗ đã bị gạt sang một bên.

Có ánh sáng phía trước mặt.

Langdon ra sức chạy. Anh vượt qua thanh chắn bằng gỗ, rồi chạy thẳng về phía trước. Lối đi nhỏ nhanh chóng dẫn tới một căn phòng rộng rãi. Một ngọn đuốc cắm trên tường đang cháy bập bùng. Langdon đang ở trong khu vực không có điện của toà lâu đài này... khu vực mà không một khách du lịch nào được phép đặt chân tới. Có thể căn phòng này sẽ rất sống động khi có ánh sáng mặt trời, nhưng trong ánh đuốc bập bùng, anh thấy nó kỳ dị và ma quái.

Xà lim.

Có khoảng 12 gian xà lim nhỏ với những chấn song sắt đã mòn gần hết. Nhưng vẫn còn một gian xà lim nguyên vẹn, và những gì trông thấy trên sàn khiến tim Langdon như ngừng đập.

Dây thừng đen và những chiếc áo choàng đỏ. Đây chính là nơi hắn. giam cách vị Hồng y.

Gần nhà giam nhỏ này có một cánh cửa sắt. Cánh cửa bỏ ngỏ, và Langdon trông thấy một lối đi. Anh lao bổ về phía đó, nhưng chưa đến nơi anh đã dừng phắt lại. Không thấy có vết máu trên lối đi này. Trông thấy những chữ viết trên tường, anh hiểu ra ngay.

Il Passetto.(1)

Langdon kinh ngạc. Đã nhiều lần nghe nói tới lối đi này, nhưng anh không biết rõ tên gọi của nó là gì. Il Passetto - Lối đi nhỏ là một đoạn đường hầm nhỏ dài gần một dặm, nối lâu đài St. Angelo và Vatican. Nhiều giáo hoàng đã dùng còn đường này để chạy thoát ra ngoài khi Vatican bị vây hãm... và một số vị giáo hoàng tha hoá cũng dùng con đường này để đi gặp người tình bí mật của mình, hoặc để xem kẻ thù của mình bị tra khảo.

Nghe nói ngày nay con đường này đã bị khoá cả hai đầu, và chìa khoá được lưu giữ trong nhà mái vòm bí mật. Langdon chợt hiểu ra vì sao người của Illuminati có thể ra vào toà thánh dễ dàng đến thế. Không hiểu kẻ nào đã phản bội nhà thờ và trao chìa khoá vào tay lũ bất lương nhỉ? Olivetti? Hay một người lính gác Thuỵ Sĩ nào đó? Nhưng đã đến nước này thì lả ai mà chả thế.

Vệt máu trên sàn nhà dẫn tới đầu kia của khu xà lim. Langdon lần thèo những vết chân ấy. Đến nơi, anh thấy một cánh cổng bằng gỗ treo đầy xích sắt. Khoá đã mở, và cánh cửa ở trạng thái khép hờ. Bên kia cánh cửa là những bậc thang hình xoắn ốc dẫn lên trên. Trên nền nhà cũng có những hình ngôi sao năm cánh.

Run rẩy, chăm chú quan sát, Langdon tự hỏi liệu có phải chính Bernini đã đích thân cầm đục để ghép những hình ngôi sao này hay không. Trên cao là hình ảnh những tiểu thiên sứ được chạm trổ rất cầu kỳ. Không còn nghi ngờ gì nữa.

Vệt máu kéo lên trên gác.

Trước khi lên gác, Langdon nhìn quanh để tìm một vật gì đó dùng làm vũ khí, bất cứ thứ gì. Anh tìm được một thanh chấn song xà lim bằng sắt dài khoảng hơn 1 mét. Một đầu bị gãy, gồ ghề, sắc cạnh. Dù nó khá nặng, những anh chẳng thể tìm được thứ gì khác tốt hơn. Hi vọng là yếu tố bất ngờ, cộng với vết thương ở chân, hung thủ sẽ mang lại cho anh chút ít lợi thế. Và hi vọng là anh không đến quá muộn.

Những bậc thang xoắn ốc mòn gỉ dựng đứng rất khó đi. Langdon vừa leo lên vừa nghe ngóng. Không thấy gì. Càng lên cao, luồng sáng toả ra từ khu xà lim càng yếu dần. Anh bị bóng tối bao vây tứ phía, Vừa đi, Langdon vừa dùng một tay để lần đường. Cao thêm nữa. Trong bóng tối dày đặc, anh cám thấy như có bóng ma của Galileo cũng đang hăm hở leo lên những bậc thang này, háo hức muốn chia sẻ quan điểm của mình về thiên đường với các nhà khoa học khác.

Langdon vẫn chưa hết kinh ngạc về vị trí của địa điểm tụ họp này. Hội Illuminati hội họp ngay trong một toà lâu đài thuộc sở hữu của Vatican. Chả trách trong khi đội lính gác của toà thánh đang ra sức sục sạo các tầng hầm và nhà riêng của các nhà khoa học danh tiếng thì hội Illuminati tụ họp ở đây... ngay trước mũi toà thánh. Tất cả các chi tiết bất chợt trở nên ăn khớp đến kỳ lạ.

Bernini, với tư cách là kiến trúc sư trưởng phụ trách công tác cải tạo có toàn quyền ra vào khu vực này... và có thể thực hiện bất kỳ hạng mục công trình nào mà không bị thắc mắc. Liệu bậc thầy về kiến trúc này đã cho xây thêm bao nhiêu lối đi bí mật? Và cho đặt bao nhiêu dấu hiệu kín đáo để chỉ đường?

Nhà thờ ánh sáng. Langdon biết anh đã rất gần cái đích cuối cùng.

Cầu thang hẹp dần, không gian chật hẹp trở nên thật tù túng. Những hình bóng của lịch sử đang thì thầm trong đêm tối, nhưng Langdon vẫn bước tiếp. Trông thấy luồng sáng hắt ngang trước mắt, anh nhận thấy còn vài bậc thang nữa thì đến một chiếu nghỉ giữa cầu thang, ánh đuốc hắt ra từ sau một khung cửa. Langdon khẽ khàng tiến lại gần.

Langdon không thể biết chính xác lúc này anh đang có mặt ở khu vực nào của toà lâu đài, nhưng sau khi đã leo nhiều bậc cầu thang đến thế thì chắc chắn anh không còn xa đỉnh toà tháp là mấy. Langdon mường tượng bức tượng thiên thần khổng lố trên nóc lâu đài, có lẽ thanh kiếm trong tay tượng đang chỉ ngay trên đầu anh cũng nên.

Thiên thần ơi, nhớ phù hộ cho tôi nhé, vừa nghĩ, Langdon vừa siết chặt thanh sắt. Rồi thật khẽ khàng, anh bước tới bên cánh cửa.

***

Ngồi trên ghế đi-văng, Vittoria thấy hai cánh tay đau nhức.

Lúc mới tỉnh lại và thấy hai cánh tay mình bị trói quặt về phía sau. Cô tưởng sẽ có thời gian để nghỉ ngơi và tự giải thoát bản thân. Nhưng thời gian đã hết. Con quái vật đã quay trở lại. Lúc này hắn đang đứng ngay trước mặt cô, bộ ngực trần to bè, đầy những sẹo, đôi mắt đen ti hí trông như hai đường kẻ chỉ, hắn đang nhìn cô chòng chọc. Dường như hắn đang mường tượng trong đầu những gì sẽ làm để hành hạ cô. Rất chậm rãi, như thể muốn chọc tức Vittoria, hắn cởi bỏ chiếc thắt lưng sũng nước, rồi quăng xuống sàn nhà.

Vittoria cảm thấy vừa ghê tởm, vừa kinh sợ. Cô nhắm nghiền mắt lại. Lúc mở mắt ra, trên tay hắn đã có một con dao gập. Hắn dí sát con dao vào mặt cô, rồi bật lưỡi dao ra, tách một cái.

Vittoria trông thấy vẻ mặt đầy kinh hãi của mình phản chiếu trong lưỡi dao bằng thép.

Tên sát thủ quay lưỡi dao lên trên, rồi đưa sống dao lướt dọc xuống bụng Vittoria. Chất kim loại lạnh buốt khiến cô gái rùng mình. Ánh mắt đầy khinh bỉ, hắn lách lưỡi dao vào trong cạp quần soóc của Vittoria. Cô gái hít một hơi thật sâu. Hắn lật qua lật lại lưới dao, chậm rãi, đầy hăm doạ... và tiếp tục lia xuống sâu hơn nữa. Rồi hắn nhoài hẳn người về phía trước, hơi thở hầm hập của hắn phả vào mặt Vittoria.

- Chính lưỡi dao này đã khoét mắt cha cô em đấy.

Vittoria chỉ muốn nghiền nát hắn ngay lập tức.

Kẻ giết người lại xoay lưỡi dao xuống, rồi tiếp tục lia lia dưới lớp vải ka ki của chiếc quần soóc cô đang mạc. Đột nhiên hắn dừng phắt lại, rồi ngẩng lên nhìn. Có ai vừa vào phòng.

- Tránh xa cô ấy mau. Từ ngoài cửa, một chất giọng trầm, dứt khoát vang lên.

- Không nhìn thấy người đó, nhưng Vittoria biết ngay là ai. Robert! Anh vẫn còn sống!

Tên sát thủ như vừa trông thấy: ma quỷ hiện hình:

- Ông Langdon, chắc là ông được thiên thần hộ mệnh rồi.

Chú thích:

(1) Il passetto: Lối đi nhỏ.

***

Trong chớp mắt, Langdon quan sát kỹ căn phòng, đây quả là một địa điểm thiêng liêng. Căn phòng hình ô-van, dù đã cũ kỹ, nhưng vẫn còn nguyên những chi tiết trang trí rất tinh tế, gồm những biểu tượng của Illuminati: gạch lát nền hình ngôi sao năm cánh, các bức bích hoạ vẽ hệ mặt trời, chim bồ câu và Kim tự tháp.

Nhà thờ ánh sáng. Đơn giản và thuần khiết. Anh đã đến được đích cuối cùng.

Ngay trước mặt Langdon, trên ban công, anh thấy rõ dáng đứng lừng lững của tên sát thủ. Ngực để trần, hắn đứng sát cạnh Vittoria, còn cô gái thì nằm trên đi-văng, bị trói, nhưng còn sống.

Trông thấy Vittoria, Langdon thở phào nhẹ nhõm. Trong tích tắc, ánh mắt hai người gặp nhau, trao gửi biết bao tình cảm - biết ơn, tuyệt vọng và sự thương cảm.

- Thế là chúng ta lại gặp nhau một lần nữa. - Tên sát thủ lên tiếng. Hắn nhìn thanh sắt trên tay Langdon rồi phá lên cười. - Và lần này ông bạn định dùng thứ đó để giết tôi đấy à?

- Cởi trói cho cô ấy mau.

Kẻ giết người dí dao vào cổ Vittoria:

- Tao sẽ giết con bé này.

Langdon biết hắn có thể làm như vậy ngay lập tức, không chút do dự. Anh cố tỏ ra điềm tĩnh:

- Tao cho rằng cô ấy sẽ thích thế... nếu so với những gì mày đang định làm.

Hắn mỉm cười trước lời xúc phạm đó.

- Ông nói đúng đấy. Cô nàng có rất nhiều thứ để mà dâng hiến. Giết ngay thì phí quá.

Langdon tiến lên một bước, hai tay siết chặt thanh sắt, hướng đầu sắt gẫy nham nhở về phía kẻ giết người. Vết thương trên tay anh buốt nhói.

- Thả cô ấy ra.

Trong thoáng chốc, dường như tên sát thủ cân nhắc yêu cầu của Langdon. Hắn thở dài, hai vai chùng xuống. Rõ ràng là đang nghĩ đến chuyện đầu hàng, nhưng cũng đúng vào lúc ấy, hai cánh tay của hắn bất thần vung lên. Những cơ bắp nổi lên cuồn cuộn, rồi một lưỡi dao thình lình xé không khí, lao thẳng vào giữa ngực Langdon.

Không hiểu do quá mệt mỏi hay vì bản năng, hai đầu gối Langdon bỗng nặng như chì, không nhấc lên nổi, lưỡi dao sượt qua tai trái anh, rồi cắm xuống đất. Kẻ giết người không chút lúng túng. Hắn nhếch mép cười, nhìn Langdon vẫn hai tay nắm chặt song sắt, quỳ trên sàn nhà. Vênh vang như thể chính hắn là chúa tể sơn lâm, tên sát thủ rời Vittoria tiến lại bên Langdon.

Lồm cốm bò dậy, cố nhấc thanh sắt lên, Langdon chợt thấy bộ quần áo ướt sũng của anh mới vướng víu làm sao.. Mình trần, đối thủ của anh di chuyển nhanh nhẹn hơn hẳn, vết thương ở chân rõ ràng là không bõ bèn gì đối với hắn. Hình như đây là một kẻ vốn rất dạn dày sương gió. Lần đầu tiên trong đời, Langdon ước gì anh có một khẩu súng thật to trong tay.

Thật chậm rãi, như thể đang rất thích thú, kẻ giết người di chuyển dần đến chỗ con dao rơi trên sàn. Langdon chặn đường hắn.

Tên sát thủ lại tiến gần đến chỗ Vittoria. Langdon chặn hắn lại.

- Thời gian vẫn chưa hết. - Langdon đánh bạo lên tiếng. - Hãy nói đi, cái hộp đó bây giờ ở đâu? Vatican sẽ trả công mày hậu hĩnh hơn nhiều so với hội Illuminati.

- Ông bạn khờ khạo quá đấy.

Langdon thọc mạnh thanh sắt, hắn né tránh. Anh bước vòng quanh chiếc ghế dài, dồn đối thủ vào góc tường. Căn phòng hình ô-van này lấy đâu ra góc cơ chứ. Điều lạ lùng là hắn chẳng tỏ vẻ sốt sắng muốn tấn công hay chạy trốn. Hắn đang chơi trò mèo vờn chuột, chờ đợi một cách lạnh lùng.

Hắn đợi gì nhỉ? Kẻ giết người vẫn tiếp tục di chuyển vòng quanh một cách rất bài bản, y như một ván cờ kéo dài vô tận.

Langdon chợt thấy thanh chắn song bằng sắt trên tay anh nặng trình trịch, và hiểu ra đối thủ của anh đang chờ đợi điều gì.

Hắn muốn vờn cho mình mệt lử trước đã. Và mánh khóe của hắn quả là có tác dụng. Langdon chợt thấy mệt mỏi kiệt quệ, lượng hoóc-môn adrenaline trong máu không còn đủ để giúp anh tỉnh táo được nữa. Đã đến lúc phải hành động.

Dường như đọc được suy nghĩ của Langdon, tên sát thủ lại chuyển hướng di chuyển một lần nữa, như thể muốn dồn anh về phía cái bàn ở giữa phòng. Trên bàn có một vật gì đó đang phản chiếu ánh đuốc bập bùng. Hay là một thứ vũ khí? Langdon chăm chú nhìn kẻ giết người, đồng thời bước lại gần cái bàn hơn một chút. Khi hắn quay sang nhìn vật để trên bàn, Langdon cố nén sự tò mò trong lòng. Nhưng rồi bản năng vẫn chiến thắng. Anh liếc trộm về phía đó. Và thế đã là quá nhiều.

Không phải vũ khí. Vật đó khiến Langdon chú ý.

Trên bàn là một cái hộp bằng đồng thau đã gỉ ngoét. Cái hộp hình ngôi sao năm cánh. Nắp hộp đã mở sẵn. Trong năm cánh của ngôi sao là năm nhánh biểu tượng. Năm biểu tượng được rèn bằng sắt, có cán gỗ rất chắc chắn. Và anh biết chắc chắn chúng tượng trưng cho cái gì.

ILLUMINATI, ĐẤT, KHÍ, LỬA, NƯỚC.

Langdon quay phắt lại, sợ rằng tên sát thủ có thể lợi dụng cơ hội để tấn công. Nhưng không. Hắn vẫn đang chờ đợi, và dường như còn lấy làm thích thú vì trò chơi này. Langdon gắng tập trung tâm trí vào thanh chấn song bằng sắt đang cầm trên tay, nhưng hình ảnh cái hộp đồng hình ngôi sao cứ lởn vởn trong đầu Đó là những biểu tượng hết sức quyến rũ - những đồ tạo tác mà thậm chí chỉ một số ít học giả trong hội Illuminati dám tin là có thật. Nhưng Langdon bất giác nhận ra rằng đáng ra trong hộp còn phải có một vật nữa, và hình như đây chính là điềm gở. Tên sát thủ lại đổi hướng di chuyển, Langdon liếc sang cái hộp thêm một lần nữa.

Lạy chúa lòng lành!

Năm cánh của ngôi sao là năm ô chứa các biểu tượng, nhưng tâm của ngôi sao còn là một ô nữa. Ô này thấy bỏ trống, nhưng chắc chắn cũng là để chứa một biểu tượng to hơn hẳn so với năm vật tạo tác còn lại, và có hình vuông.

Đòn tấn công của hắn thật bất ngờ.

Tên sát thủ bất thần lao vào như một con chim săn đang vồ mồi. Bị mất tập trung, Langdon cố gắng để đáp trả, nhưng thanh sắt trong tay anh nặng như chì. Đòn phản công của anh quá chậm, và hắn né người tránh được. Lúc Langdon đang thu cây sắt về, hắn liền giang hai tay, lúm lấy vũ khí của anh. Hai cánh tay của hắn khỏe kinh khủng, và vết thương ở tay rõ ràng là chẳng bõ bèn gì. Hai người vật lộn quyết liệt. Langdon thấy cây gậy sắt trong tay bị rút mất, bàn tay đau như xé. Chỉ trong nháy mắt, anh đã thấy đầu bị gãy tòe sắc nhọn của cây gậy giương lên ngay sát mặt mình. Người đi săn bỗng chốc biến thành kẻ bị săn đuổi.

Langdon cảm thấy như mình đang bị cuốn vào một cơn lốc xoáy. Kẻ giết người lượn vòng, cười đắc thắng, dồn anh vào chân tường.

- Người Mỹ các ông thường nói thế nào ấy nhỉ? - Hắn mỉa mai - Cái gì liên quan đến con mèo và sự tò mò ấy?

Langdon không thể tập trung được tâm trí, anh thầm nguyền rủa sự bất cẩn của mình. Đối thủ vẫn tiếp tục áp sát vào. Chẳng hiểu ra thế nào cả. Biểu tượng thứ sáu của Illuminati nghĩa là thêm nào? Bực quá, anh thốt lên:

- Tao chưa bao giờ thấy tài liệu nào viết về biểu tượng thứ sáu của Illuminati!

- Chắc chắn là ông bạn phải biết rồi chứ. - Kẻ giết người vừa cười khùng khục vừa dồn anh quanh phòng.

Langdon chẳng hiểu gì cả. Rõ ràng là anh chưa thấy tài liệu nào đề cập đến điều này. Illuminati chỉ có năm biểu tượng mà thôi. Anh lùi dần và đưa mắt quanh phòng tin thứ gì đó làm vũ khí.

- Nó là sự kết hợp hoàn hảo của các yếu tố nguyên thuỷ. - Tên sát thủ nói - Biểu tượng thứ sáu chính là nhánh đẹp nhất, nhưng e rằng ông bạn sẽ chẳng bao giờ được trông thấy nó.

Tự Langdon cũng có linh tính rằng anh sẽ chẳng còn cơ hội để nhìn thấy gì nữa. Anh vẫn đang phải lùi dần, vừa bước lùi vừa đưa mắt quan sát khắp phòng để tìm cách phản công:

- Thế mày đã trông thấy biểu tượng ấy chưa? - Anh cố kéo dài thời gian.

- Có thể là một ngày nào đó họ sẽ ban cho tôi vinh hạnh đó. Vì tôi đã chứng tỏ được bản thân. - Hắn thọc mạnh cây gậy sắt vào người Langdon, vẻ khoái trá.

Langdon lại tiếp tục bước lùi. Hình như hắn đang cố tình dồn anh quanh phòng để đến một cái đích đã chọn sẵn trong đầu. Chỗ nào nhỉ? Nhưng anh không thể quay lại mà nhìn đằng sau.

Langdon hỏi tiếp:

- Thế biểu tượng đó giờ ở đâu?

- Không ở đây. Chắc chắn là trong tay Janus.

- Janus à? - Langdon thấy cái tên này lạ hoắc.

- Người đứng đầu của Illuminati. Ông ấy sắp đến đây.

- Người đứng đầu hội Illuminati sắp đến đây thật sao?

- Để đóng dấu sắt nung cuối cùng.

Langdon lo lắng nhìn sang phía Vittoria. Điềm tĩnh một cách kỷ lạ, cô gái đang quan sát mọi thứ xung quanh, lồng ngực phập phồng đều đặn... hơi thở nhẹ và sâu. Chẳng lẽ Vittoria sẽ là nạn nhân cuối cùng? Hay chính là bản thân anh?

- Ngạo mạn quá đấy ông bạn. - Tên sát thủ nhìn theo ánh mắt Langdon, cười khẩy. - Các người chẳng có nghĩa gì hết. Các người đều phải chết, cái đó thì rõ rồi. Nhưng người cuối cùng phải chết là một đối thủ rất nguy hiểm của Illuminati.

Langdon không hiểu nổi. Một đối thủ nguy hiểm? Tất cả những vị Hồng y đáng kính nhất đều đã bị sát hại. Giáo hoàng thì đã tạ thế. Tất cả đều do hội Illuminati sát hại. Nhìn vào đôi mắt vô cảm của kẻ sát nhân, Langdon đọc thấy câu trả lời.

Giáo chủ Thị thần.

Giáo chủ Thị thần Ventresca đã mang lại niềm hi vọng lớn lao cho toàn thế giới trong giờ phút nguy khốn này. Chỉ trong một đêm, ngài đã khiến cho hình ảnh của Illuminati trở nên xấu xí hơn bội lần gõ ràng là ngài sẽ phải trả giá. Ngài chính là mục tiêu cuối cùng của Illuminati.

- Mày sẽ không thể làm gì được ngài. - Langdon nói với vẻ đầy thách thức.

- Không phải tôi. - Hắn trả lời, và tiếp tục dồn cho Langdon phải lùi lại phía sau. - Niềm vinh dự đó được dành cho chính Janus.

- Đích thân người đứng đầu của Illuminati định sát hại Giáo chủ Thị thần à?

- Đặc quyền phải đi đôi với đặc lợi chứ.

- Nhưng lúc này không ai có thể vào trong toà thánh!

Mặt tên sát thủ vênh lên đầy đắc ý:

- Trừ trường hợp người đó đã hẹn trước.

Langdon càng không hiểu ra thế nào. Người duy nhất đã hẹn đến toà thánh lúc này được giới báo chí gọi là Người từ tâm lúc 11 giờ đêm - chính là người mà Rocher cho rằng có những thông tin quan trọng có thể cứu được toà thánh.

Langdon dừng phắt lại:

- Chúa ơi!

Kẻ giết người cười đắc chí, lấy làm thích thú vì những lo lắng trong tâm trí Langdon.

- Ông bạn biết không, chính tôi cũng băn khoăn không hiểu Janus sẽ làm cách nào để lọt được vào trong toà thánh. Nhưng lúc ở trên xe, tôi nghe đài nói về nhân vật từ tâm lúc 11 giờ khuya. - Hắn nhếch mép cười - Toà thánh sẽ mở rộng cửa và nồng nhiệt đón chào Janus.

Langdon suýt ngã. Janus chính là Người từ tâm lúc 11 giờ khuya! Thật xảo trá! Người đứng đầu Illuminati sẽ đường hoàng tiến vào phòng làm việc của Giáo chủ Thị thần. Nhưng làm thế nào mà Ianus qua mặt được Rocher nhỉ? Hay chính Rocher cũng có dính líu đến việc này? Langdon thấy lạnh xương sống. Sau cú chết hụt trong nhà vòm bí mật, anh cảm thấy không thể tin được con người này.

Hắn bất thần xiên mạnh một nhát, cây gậy thọc trúng vào mạng sườn Langdon.

Langdon nhảy về phía sau và thốt lên:

- Nếu thế thì Janus sẽ không thể thoát ra ngoài được!

Kẻ giết người nhún vai:

- Được hi sinh vì lý tưởng là một vinh dự.

Có lẽ hắn nói nghiêm túc. Không lẽ Janus đến Vatican để hành động bất chấp tính mạng bản thân? Vinh dự? Trong thoáng chốc, Langdon điểm lại trong đầu toàn bộ mưu đồ khủng khiếp của hội Illuminati. Họ đã hoàn tất toàn bộ kế hoạch đề ra. Vị tu sĩ trẻ tuổi đã vô tình tiếp tay cho họ sát hại giáo hoàng bất ngờ trở thành một đối thủ lợi hại. Để đối phó lại, người đứng đầu của Illuminati sẽ đích thân xuống tay với con người tội nghiệp đó.

Đột nhiên Langdon không thấy bức tường sau lưng anh đâu nữa. Một luồng gió đêm mát lạnh ùa vào phòng, bước thụt lùi tiếp theo đưa anh ra tận ngoài trời đêm. Ban công! Giờ thì anh đã hiểu mục đích của hắn.

Langdon ngay lập tức mường tượng phía sau, ban công nhô ra ngoài, cách mặt đất hơn 30 mét. Trên đường vào, anh đã kịp quan sát kỹ. Tên sát thủ lão luyện này không bỏ phí chút thời gian nào.

Hắn tấn công ngay tức thì. Đầu gậy nham nhở đang lao thẳng vào bụng Langdon, anh nhảy lùi ra sau, đầu gậy đâm vào vạt áo. Ngay lập tức cây gậy lại nhằm thẳng vào đầu anh. Langdon tiếp tục lùi ra sau, đến sát hàng lan can. Chắc chắn Langdon sẽ không thể thoát được đòn tấn công tiếp theo, bởi anh đã ở thế cùng. Anh xoay người, nhoài ra, túm lấy cây gậy. Bàn tay bị thương đau như xé nhưng mặc, anh vẫn siết chặt tay.

Tên sát thủ không chút lúng túng. Hai đối thủ cùng lên gân lên cốt mặt đối mặt, hơi thở hôi hám của hắn phả thẳng vào mặt Langdon. Thanh sắc bắt đầu trượt xuống. Đối thủ của anh quá to khoẻ. Tuyệt vọng, Langdon liều lĩnh soài chân, chấp nhận mất thế cân bằng, định đạp vào bàn chân bị thương của hắn. Nhưng tên này quả là một sát thủ lão luyện hắn tránh đòn một cách dễ dàng.

Langdon đã chơi hết quân bài cuối cùng, và anh đã thua.

Tên sát thủ vung cao cánh tay, đẩy Langdon ra sau. Hàng lan can chỉ thấp đến bắp đùi Langdon, và tít bên dưới, cách khoảng 30 mét là khoảng sân rộng của toà lậu đài. Kẻ giết người vặn thanh sắt, dồn đầu gậy thẳng vào giữa ngực Langdon. Anh ngửa người ra sau để tránh, lưng uốn cong trên hàng lan can ngăn cách anh với vực thẳm chết chóc bên dưới.

- Tạm biệt ông bạn, - tên sát thủ cười khẩy.

Ánh mắt lóe lên hiểm ác, kẻ giết người ra đòn lần cuối. Mất điểm tựa, hai chân Langdon không còn trụ vững được nữa, anh chới với rồi ngã nhào. Langdon chìa tay túm lấy tay vịn, nhưng tay trái bị lỡ trớn, chỉ có tay phải bám được vào một thanh trụ đá. Kết quả là anh bị treo lơ lửng ở tư thế lộn ngược, một tay và một chân vẫn cố níu lấy tia hi vọng cuối cùng.

Đứng lù lù ngay sát anh, tên sát thủ vung cao cây gậy, sắp sửa xuống tay. Đúng lúc thanh chấn song bằng sắt chuẩn bị giáng mạnh xuống, Langdon bất thần trông thấy... Có thể đấy chỉ là một linh tính hay ảo giác gì đó trong lúc cận kề cái chết, nhưng anh chợt thấy một vầng sáng bao quanh kẻ giết người. Sau lưng hắn chợt xuất hiện quầng sáng chói loà... hệt như một quả cầu lửa.

Đang ra sức giáng mạnh cây gậy sắt, tên sát thủ đột ngột buông tay ra, miệng rú lên đau đớn. Cây gậy sắt sượt qua người Langdon, rơi xuống dưới. Kẻ giết người lập tức quay lưng lại, vừa đủ để anh nhìn thấy ngọn đuốc đang cháy trên lưng hắn. Đu người trèo lên lan can, Langdon thấy Vittoria đang mặt đối mặt với hung thủ, mắt rực lửa căm thù.

Cô gái đang cầm ngọn đuốc trên tay, lửa đuốc bập bùng soi sáng khuôn mặt đầy nộ khí. Giờ không phải là lúc hỏi xem cô gái đã tự giải thoát bằng cách nào. Langdon đu người qua tay vịn.

Cuộc vật lộn chẳng kéo dài lâu, Vittoria không thể chống chọi được với gã đàn ông lực lưỡng này. Hắn gầm lên tức tối, lao thẳng vào cô gái. Vittoria kháng cự, nhưng bị hắn hất ngã gần như ngay lập tức. Hắn đang cố giằng lấy ngọn đuốc. Không bỏ phí một giây, Langdon nhảy ngay vào, giơ cao nắm đấm, thụi thật mạnh vào đúng vết bỏng trên lưng hắn.

Tiếng rú của hắn vang tận sang Vatican.

Tên sát thủ đờ ra mất một lúc vì đau đớn, bàn tay cầm đuốc rời ra. Ngay lập tức, Vittoria lia thẳng ngọn đuốc vào mặt hắn.

Có tiếng thịt cháy xèo xèo, hình như bên mắt trái của hắn đã bị bỏng. Hắn lại rú lên lan nữa, đưa tay lên che mặt.

- Mắt đổi mắt. - Vittoria gằn giọng.

Lần này cô gái quật mạnh cây đuốc khiến cho hắn ngã dụi xuống ngay sát hàng lan can bằng đá. Cả Vittoria lẫn Langdon cùng đồng thời xông vào, ráng sức đẩy thật mạnh. Thân hình to lớn của kẻ giết người lăn qua hàng lan can, rơi vào khoảng không tối đen sâu hun hút bên ngoài. Không thấy có tiếng thét kinh hoàng. Chỉ nghe tiếng xương sống. gãy đánh rắc một cái khi hắn rơi đúng vào đống đạn súng thần công bên dưới.

Langdon bàng hoàng, quay sang nhìn Vittoria. Sợi dây trói vẫn còn mắc trên người và trên cánh tay, hai mắt cô gái rực lên giận dữ.

- Houdini có tập Yoga.

***

Cùng lúc ấy, tại quảng trường St. Peter, những người lính gác Thuỵ Sĩ đang ra sức gào thét để dầy đám đông lui về phía sau, đến một cự ly an toàn hơn. Nhưng chẳng tác dụng gì.

Người tập trung quá đông, và sự hiểu kỳ của đám đông đã hoàn toàn át hẳn những lo lắng cho sự an toàn của bản thân họ. Những màn hình rộng cao ngất ngưởng của các hãng tin lúc này đang phát đi cảnh chiếc đồng hồ đếm ngược gắn trên hộp phản vật chất - hình ảnh được truyền đi trực tiếp từ phòng điều phối an ninh của đội lính gác Thuỵ Sĩ, theo lệnh của Giáo chủ Thị thần. Rủi thay, những hình ảnh này không đủ sức khiến cho đám đông tản đi. Chắc hẳn những người có mặt trên quảng trường cho. rằng giọt chất lỏng có vẻ vô thưởng vô phạt trong cái hộp kia không đáng sợ như những gì người ta thông báo với họ. Vả lại họ cũng có thể đọc được các chữ số hiện lên trên mặt chiếc đồng hồ đếm ngược - gần 45 phút nữa mới đến giờ phát nổ. Vẫn còn khối thời gian.

Tuy nhiên, các thành viên của đội lính gác Thuỵ Sĩ đều nhất trí với nhau rằng quyết định đầy táo bạo của Giáo chủ Thị thần - cho cả thế giới biết sự thật, sau đó còn cung cấp những hình ảnh về hành động phản trắc của Illuminati cho các hãng truyền hình là một động thái rất khôn ngoan. Có lẽ hội Illuminati tưởng rằng như thường lệ, Vatican sẽ hành xử một cách lặng lẽ và kín đáo trong những giây phút cam go kiểu này. Nhưng không. Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca đã tỏ ra là một đối thủ đáng gờm của hội kín đáng ghét này.

Trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Giáo chủ Mortati mỗi lúc một bồn chồn hơn. Đã 11 giờ 15 phút. Nhiều vị Hồng y vẫn tiếp tục cầu nguyện, nhưng một số đã xúm lại bên cửa thoát hiểm, vẻ bất an. Một số vị thậm chí còn bắt đầu đấm cửa thình thình.

Đang đứng gác bên ngoài cánh cửa nhà nguyện, trung uý Chartrand nghe tiếng đấm cửa, chẳng biết phải xử sự thế nào.

Anh xem đồng hồ. Đã đến giờ rồi. Đại tá Rocher đã hạ lệnh là phải có lệnh trực tiếp của ông ấy thì mới được đưa các vị Hồng y ra ngoài. Tiếng đấm cửa càng lúc càng thúc bách hơn, khiến Chartrand thấy lo lắng. Kề từ khi nhận được cú điện thoại bí hiểm kia, chỉ huy hành xử khá thất thường.

Thế là Chartrand rút máy bộ đàm ra:

- Thưa đại tá, tôi là Chartrand. Đã quá giờ rồi. Chúng ta mở cửa nhà nguyện Sistine chứ?

- Nhất quyết không được mở! Tôi đã chỉ thị thế cơ mà?

- Vâng, thưa đại tá, nhưng mà...

- Vị khách của chúng ta sắp đến rồi. Anh cũng vài người nữa lên gác ở cửa phòng làm việc của Giáo hoàng cho tôi. Không để cho Giáo chủ Thị thần được đi bất kỳ đâu.

- Cái gì ạ?

- Nói rõ thế còn thế nào nữa hả, đại uý?

- Báo cáo, không có gì. Tôi xin thi hành ngay.

Trên gác, trong phòng làm việc của Giáo hoàng, Giáo chủ Thị thần đang ngồi trầm ngâm bên lò sưởi. Xin Chúa hãy ban cho con sức mạnh. Xin Người hãy ban cho chúng con một phép nhiệm màu. Đưa tay gạt những thanh củi trong lò, vị thầy tu trẻ tự hỏi lòng không hiểu ngài có thể sống sót qua một đêm thế này không.

***

11 giờ 23 phút.

Vittoria đang đứng lên ban công của lâu đài St. Angelo, run rẩy, ánh mắt nhoà lệ hướng sang phía bên kia thành Rome. Cô muốn được ghì chặt Robert Langdon trong vòng tay nhưng không thể. Toàn thân tê dại, cô gái cần thời gian để thích ứng, để huy động năng lượng dự trữ trong cơ thể. Kẻ đã sát hại cha có giờ đang nằm sóng soài tít dưới kia. Hắn đã chết. Và suýt nữa chính cô cũng trở thành nạn nhân của hắn.

Nhưng khi Langdon vừa chạm vào bờ vai, cô gái thấy một luồng hơi ấm kỳ diệu lan toả khắp cơ thể, băng giá tiêu tan hết. Vittoria run lên, lập tức cảm thấy sinh lực dâng đầy trong cơ thể.

Sương mù tan hết, cô gái quay sang nhìn Robert. Trông anh mệt mỏi quá, ướt sũng, rã rời, có lẽ anh đã phải khổ sở, vất vả lắm mới cứu được cô.

- Cảm ơn anh... - cô gái thì thầm.

Langdon mỉm cười nhìn cô gái, mệt mỏi, và nhắc Vittoria rằng chính cô mới là người đã tự giải thoát kịp thời và cứu nguy cho cả hai. Vittoria lau nước mắt vẫn giàn giụa trên mặt. Giá như hai người có thể đứng ở đây mãi mãi, nhưng họ còn có biết bao việc phải làm.

- Chúng ta phải ra khỏi chỗ này ngay. - Langdon nói.

Sự chú ý của Vittoria cũng đã chuyển sang một địa điểm khác. Cô gái đưa mắt nhìn sang toà thánh. Giáo quốc nhỏ bé ấy lúc này sáng trưng dưới ánh đèn máy quay, trông thật gần. Thật đáng kinh ngạc, quảng trường St. Peter vẫn chật cứng người! Rõ ràng là đội lính gác Thuỵ Sĩ đã cố hết sức nhưng cũng chỉ dẩy được đám đông lùi lại khoảng 50 mét - chưa được một phần ba quảng trường, ngay trước mặt thánh đường rộng lớn. Đám đông lớn đang vây kín thánh đường những người ở ngoài thì chen lấn xô đẩy để vào được gần hơn, còn những người ở trong thì không thể thoát ra nổi. Họ đứng gần quá! Vittoria thầm nghĩ. Thế thì quá gần!

- Anh sẽ quay lại đó. - Langdon điềm tĩnh nói.

Vittoria quay lại, ngạc nhiên:

- Vào trong thành Vatican ư?

Langdon kể cho cô gái nghe những gì anh biết về nhân vật được gọi là Người từ tâm lúc 11 giờ khuya, và về âm mưu của Illuminati. Người đứng đầu hội kín này, một người đàn ông có tên là Janus, sẽ đích thân đến đây để sát hại và đóng dấu sắt nung lên người Giáo chủ Thị thần. Bước cuối cùng trong âm mưu của hội Illuminati.

- Trong toà thánh không ai biết điều đó. - Langdon nói tiếp.

- Không thể nào liên lạc được với họ, còn nhân vật kia thì sắp đến nơi. Cần phải vào để báo cho đội lính gác biết trước.

- Nhưng làm sao mà vượt qua được đám đông này?

Langdon đầy vẻ tự tin:

- Có cách chứ. Cứ tin anh.

Thêm một lần nữa, Vittoria linh cảm rằng anh chàng chuyên gia sử học này lại biết điều bí mật nào đó.

- Cho em đi theo.

- Đừng, Tại sao lại phải liều mạng cả hai. Trong khi...

- Em cũng phải tìm cách giải tán đám đông kia chứ. Họ đang gặp nguy...

Đúng lúc ấy, cả toà lâu đài rung chuyển. Có tiếng sấm rền vang. Rồi một luồng sáng chói loà từ quảng trường St. Peter hắt sang chiếu thẳng vào mắt họ. Trong đầu Vittoria chỉ có một cách giải thích duy nhất. Chúa ơi! Giọt phản luật chất phát nổ sớm mất rồi!

Nhưng thay vì tiếng nổ vang rền, họ nghe thấy tiếng đám đông reo hò vang dậy. Vittoria nhìn về phía ánh sáng. Hình như toàn bộ đèn máy quay ở quảng trường đều đang chĩa thẳng về phía họ. Tất cả mọi người cũng quay lại, miệng hò reo, tay chỉ trỏ. Tiếng hò reo tiếp tục vang lên. Toàn bộ quảng trường bỗng dưng bao phủ một bầu không khí hồ hởi đầy lạc quan.

Langdon không hiểu nổi:

- Cái quái quỷ gì thế nhỉ?

Lại thêm một tiếng sấm rền từ trên trời vọng xuống.

Chiếc phi cơ của Đức Thánh Cha bất ngờ xuất hiện từ sau đỉnh tháp, tiếng sấm rền cách đám đông chừng 15 mét, ầm ầm, nó lao thẳng hướng toà thánh. Trong ánh sáng chói loà phát ra từ đèn máy quay, cả toà lâu đài rung chuyển. Tất cả các ánh đèn đều dõi theo chiếc phi cơ, và chỉ sau chốc lát, Langdon và Vittoria lại đứng trong bóng tối.

Nhìn chiếc phi cơ đồ sộ hạ cánh xuống quảng trường St. Peter, Vittoria chợt linh cảm rằng thời điểm để hành động đã qua mất rồi. Chiếc máy bay phản lực hạ cánh xuống khoảng trống ngay sát những bậc thang dẫn lên thánh đường St. Peter, hất lên một đám bụi khổng lồ.

- Xem nghi lễ đón tiếp nào đây. - Vittoria nói.

Một người trông y như một cái chấm nhỏ trên nền đá cẩm thạch màu trắng từ toà thánh bước ra, tiến đến bên chiếc phi cơ. Nếu không có chiếc mũ bê-rê đỏ thì cô gái đã không thể nhận ra ông ta.

- Trải thảm đỏ chào đón người từ tâm đây. Không ai khác, ngài Rocher.

Langdon đấm mạnh tay xuống hàng lan can trước mặt:

- Cần phải cảnh báo họ ngay lập tức. - Anh rảo bước quay đi.

Vittoria túm tay Robert.

- Khoan đã nào! - Cô vừa nhìn thấy thêm một chi tiết nữa, nhưng vẫn chưa dám tin vào mắt mình.

Tay run run, cô gái chỉ về phía chiếc máy bay trực thăng. Một bóng người nữa xuất hiện trên ván lên xuống... dáng dấp đặc biệt có một không hai đang di chuyển rất nhanh, dù từ xa cũng không thể nhầm. Trong tư thế ngồi, người này tăng tốc di chuyển qua khoảng trống một cách nhanh chóng và nhẹ nhàng đến mức đáng kinh ngạc.

- Một vị vua trên chiếc ngai điện tử.

Đó chính là Maximilian Kohler.

Sự sang trọng trong hành lang Belvedere khiến Kohler thấy mệt mỏi. Chỉ riêng tấm vàng lá dát trên trần cũng đủ để trang trải cho cả một năm nghiên cứu về bệnh ung thư. Rocher dẫn nhà khoa học ngồi xe lăn đi theo một con đường dốc dành riêng cho người tàn tật, đi theo dường vòng để vào cung điện Apostolic.

- Không có thang máy à? - Kohler hỏi.

- Không có điện. - Rocher đưa tay chỉ những cây nến đang cháy đặt rải rác khắp nơi. - Một phần trong nỗ lực tìm kiếm của chúng tôi đấy.

- Những nỗ lực chắc chắn không đem lại kết quả.

Rocher gật đầu...

Kohler lại chịu thêm một cơn ho nữa. Rất có thể đây sẽ là một trong những cơn ho cuối cùng trong đời ông ta. Dù sao thì Kohler cũng chẳng muốn thế chút nào.

Khi hai người lên đến tầng trên cùng và sắp sửa rẽ vào hành lang dẫn tới phòng làm việc của Giáo hoàng thì bốn người lính gác Thuỵ Sĩ hớt hải chạy đến:

- Thưa đại tá, ngài đang làm gì vậy? Chúng tôi tưởng là người này có thông tin về...

- Ông ấy yêu cầu được nói chuyện trực tiếp với Giáo chủ Thị thần.

Những người lính lùi lại, vẻ hoài nghi.

- Vào báo với Giáo chủ Thị thần ngay. - Rocher ra lệnh. - Giám đốc của CERN, ông Maximilian Kohler đã có mặt ở đây, và muốn gặp ngài ngay lập tức.

- Tuân lệnh. - Một người lính nhận lệnh, và lập tức chạy lên trước.

Những người lính còn lại vẫn đứng im. Họ chằm chằm nhìn Rocher, vẻ không hài lòng.

- Từ từ đã, thưa chỉ huy. Việc thông báo có khách vào tiếp kiến Giáo chủ Thị thần là của chúng tôi chứ.

Kohler không thèm dừng lại ông bấm nút, cho xe ngoặt hẳn sang một bên, tránh mấy người lính gác.

Mấy người cũng quay phắt lại và chạy theo chiếc xe lăn.

- Dừng lại đã, thưa ông!

Kohler chẳng ưa gì bọn họ. Thậm chí những người lính gác ưu tú nhất cũng không tránh khỏi cảm giác thương hại thông thường đối với những kẻ không may bị tàn tật. Nếu Kohler là người bình thường thì hẳn sẽ bị bọn họ tấn công ngay lập tức. Đã tàn tật thì còn được tích sự gì nữa, Kohler thầm nghĩ. Hay đúng hơn là người đời vẫn nghĩ thế.

Kohler biết thời gian không còn nhiều, và ông cần phải hoàn thành sứ mệnh của mình. Rất có thể đêm nay ông sẽ phải chết ở đây nhưng chẳng có gì đáng kể. Ông sẵn sàng trả giá bằng chính mạng sống của mình. Cả đời ông đã phải chịu đựng quá nhiều, và một người như Giáo chủ Thị thần Ventresca không được phép làm hỏng thành quả của ông.

- Thưa ông! - Những người lính chạy vượt lên trước. rồi đứng thành hàng ngang chắn trước chiếc xe lăn. - Ông phải dừng lại ngay! - Một người lính rút súng chĩa thẳng vào người Kohler.

Kohler dừng lại.

Rocher bước lên, vẻ hối lỗi:

- Xin lỗi ông Kohler. Chỉ chốc lát thôi ạ Không ai được phép vào phòng làm việc của Giáo hoàng mà không thông báo trước.

Nhìn sâu vào mắt viên đại tá, Kohler biết là không còn cách nào khác. Tốt thôi, ông thầm nghĩ. Chúng ta cùng đợi vậy.

Như thể những người lính này đã cố tình bắt Kohler phải dừng lại trước một cái gương lớn choán cả một mảng tường. Nhìn thấy hình ảnh méo mó dị dạng của mình, Kohler bất giác lùi lại.

Rồi ngay tức thì, cảm giác căm phẫn dồn nén bao lâu lại bừng bừng dâng lên, khiến ông thấy tràn đầy sức mạnh đối với kẻ thù của chính mình. Chính những kẻ này đã tước mất của ông sự uy nghiêm của một con người. Chính vì những kẻ này mà cả đời ông không một lần được gần gũi phụ nữ... và cũng chẳng một lần có thể đứng thẳng dậy để nhận những giải thưởng được trao tặng. Chân lý của các người là gì nào? Bằng chứng đâu? Một cuốn sách chỉ toàn những câu chuyện ngụ ngôn cổ lỗ sĩ ư? Những lời hứa hão về Phép màu nhiệm ư? Trong khi khoa học đang từng ngày mang lại biết bao điều kỳ diệu!

Kohler nhìn vào đôi mắt lạnh lẽo của chính bản thân mình. Đêm nay ta có thể chết trong bàn tay của tôn giáo, ông thầm nghĩ. Nhưng đây đâu phải là lần đầu.

Trong thoáng chốc, Kohler lại thấy mình là cậu bé 11 tuổi, nằm trên giường, trong biệt thự của cha mẹ tại Frankfurt. Tấm đệm trải giường hảo hạng nhất châu Âu dưới lưng cậu bé ướt sũng mồ hôi. Chú bé Max cảm giác như đang bị thiêu đốt, toàn thân đau như xé. Suốt hai ngày nay, cha mẹ vẫn quỳ bên giường và ra sức cầu nguyện. Trong góc phòng là ba người thầy thuốc giỏi nhất thành phố Frankfurt.

- Tôi khẩn thiết yêu cầu các vị suy nghĩ cho kỹ càng! - Một người lên tiếng. - Trông thằng bé kìa! Sốt cao thế kia cơ mà. Nó đang phải chịu đau đấy. Nguy cấp lắm rồi!

Chưa cần mẹ phải lên tiếng Max đã biết bà sẽ nói gì.

- Chúa sẽ che chở cho thằng bé!

Đúng thế, Max thầm nghĩ. Chúa sẽ che chở cho mình. Niềm tin mạnh mẽ của mẹ khiến chú thấy vững tâm. Chúa sẽ che chở cho mình.

Một giờ sau, Max cảm thấy như toàn thân đang bị nghiền nát, không còn đủ sức để khóc lóc, để hít thở nữa.

- Con ông bà bị đau quá. - Một vị thầy thuốc nói - Hãy để tôi làm dịu cơn đau cho thằng bé. Chỉ cần tiêm một mũi là sẽ...

- Không cần! - Thậm chí chẳng thèm ngước mắt lên, cha của Kohler gạt phắt, rồi lại tiếp tục cầu nguyện.

- Cha ơi, con xin cha! - Max muốn thét lên, - cha hãy đồng ý đi!

Nhưng tiếng kêu của cậu, bị một cơn ho dữ dội át đi. Một giờ sau, cơn đau càng tồi tệ hơn.

- Con trai ông bà có thể bị bại liệt đấy. - Một người thầy thuốc tỏ ra cáu kỉnh. - Thậm chí còn mất mạng ấy chứ! Thuốc thì có sẵn đây rồi!

Frau và Herr Kohler nhất định không đồng ý. Họ không tin vào y học. Các bác sĩ là ai mà dám can thiệp vào công việc của Chúa cơ chứ? Và hai người cứ ra sức cầu nguyện. Chúa đã ban cho họ thằng bé, hà cớ gì lại cướp nó đi cơ chứ? Mẹ của Max thì thầm vào tai chú, khuyên chú hãy can đảm. Bà nói rằng Người đang thử thách Max... giống như đã thử thách Abraham trong kinh thánh... để xem đức tin của cậu có mạnh mẽ không.

Max cố giữ niềm tin, nhưng cơn đau mỗi lúc một dữ dội thêm.

- Tôi không thể đứng nhìn cảnh này được nữa! - Cuối cùng một bác sĩ vừa nói vừa chạy khỏi phòng.

Đến bình minh, Max gần như đã bất tỉnh, toàn thân đau đớn.

Chúa Giê-su đâu rồi? Chú bé tự hỏi. Chúa không rủ lòng thương đối với mình sao? Dường như sự sống đang từ từ rút khỏi cơ thể bé nhỏ của cậu.

Mẹ đã ngủ thiếp đi, tay vẫn nắm chặt bàn tay cậu bé. Còn cha thì đứng bên cửa sổ, mắt trân trân nhìn lên trời, như thể đã bị thôi miên. Cha vẫn đang đọc kinh cầu nguyện.

Max thấy một bóng người tiến lại gần. Có phải là thiên thần không? Cậu bé gần như không còn nhìn thấy gì nữa, vì hai mắt đã sưng húp lên. Tai chú nghe thấy những lời thì thầm, của người, không phải của thiên thần. Giọng của một vị thầy thuốc... người đã có mặt trong phòng suốt hai ngày nay, đã ra sức thuyết phục cha mẹ cho Max dùng loại thuốc mới nhập về từ Anh quốc.

- Nếu không làm thế này thì ta sẽ không bao giờ có thể tha thứ cho bản thân mình. - Người thầy thuốc nói khẽ, rồi nhẹ nhàng nhấc cánh tay gầy guộc của Max. - Đáng ra ta phải làm thế này từ lâu rồi.

Max cảm thấy một mũi kim xuyên vào da thịt - chẳng thấm tháp vào đâu so với những đau đớn khủng khiếp chú đang phải trải qua.

Rồi vị thầy thuốc gói ghém dụng cụ. Trước khi ra về, ông còn đặt một bàn tay lên trán cậu bé.

- Liều thuốc này sẽ cứu được mạng sống của cháu. Ta tin vào sức mạnh của y học.

Chỉ mấy phút sau, Max cảm thấy một luồng hơi ấm kỳ diệu chạy khắp các huyết mạch, xoa dịu cảm giác đau đớn. Chú bé ngủ thiếp đi, giấc ngủ đầu tiên sau mấy ngày vật vã.

Khi Kohler dứt cơn sốt, cha mẹ sung sướng khẳng định rằng đó chính là phép màu nhiệm của Chúa, để rồi lại phải thất vọng khi nhận ra cậu bé đã trở thành tàn tật. Kohler được đặt lên xe lăn, đưa đến nhà thờ.

- Nhờ có phép màu của Chúa nên cậu bé này mới có thể vượt qua được cái chết. - Linh mục nói.

Max chỉ lắng nghe, không nói gì.

- Nhưng con của chúng con không đi lại được nữa rồi! - Frau Kohler chảy nước mắt nói.

Linh mục buồn bã gật đầu đáp:

- Phải. Có lẽ Người đã trừng phạt thằng bé này vì thiếu đức tin.

- Thưa ông Kohler. - Người lính gác ban nãy chạy vượt lên đã quay lại. - Giáo chủ Thị thần đã đồng ý tiếp ông.

Miệng làu bàu, Kohler lập tức di chuyển dọc hành lang.

- Ngài tỏ ra ngạc nhiên về cuộc viếng thăm của ông. - Người lính nói.

- Rõ rồi. - Kohler đáp. - Tôi muốn được gặp riêng ngài.

- Không được đâu. Người lính gác trả lời. - Không ai được phép...

- Trung uý! - Rocher lập tức ngắt lời - Cuộc gặp sẽ như ý ông Kohler.

Người lính tròn mắt nhìn chỉ huy, vẻ đầy hoài nghi.

Trước cửa phòng làm việc của Giáo hoàng, Rocher đồng ý cho những người lính gác làm thủ tục an ninh trước khi Kohler vào trong phòng. Thiết bị dò kim loại trên tay họ gần như bị vô hiệu hoá hoàn toàn bởi những thiết bị điện tử gắn nhằng nhịt trên xe lăn của Kohler. Những người lính cũng bật máy lên, nhưng vì thương hại thân hình què quặt cửa ông nên chỉ rà soát chiếu lệ.

Họ không phát hiện được khẩu súng lục giấu dưới ghế ngồi, cũng chẳng tìm thấy vật kia... Thứ sẽ đóng dấu chấm hết một cách hoàn hảo cho chuỗi sự kiện dày đặc trong buổi tối nay.

Khi Kohler vào phòng, Giáo chú Thị thần đang quỳ bên lò sưởi để cầu nguyện. Ngài không quay sang nhìn ông.

- Ông Kohler đấy à? - Giáo chủ Thị thần nói - Ông đến đây để biến ta thành một con chiên tử vì đạo phải không?

***

Trong lúc ấy, con đường hẻm chật hẹp mang tên Il Passetto vẫn đang trải dài ra trước mặt Langdon và Vittoria khi cả hai đang hối hả lao về phía toà thánh. Cây đuốc trên tay Langdon chỉ có thể toả sáng một cách yếu ớt. Lối đi rất thấp và hẹp.

Không khí âm u ẩm ướt. Langdon cứ thế lao thẳng vào vùng tối trước mặt, còn Vittoria thì theo sát gót anh.

Ra khỏi lâu đài St. Angelo, con đường bắt đầu hướng lên cao, hai người đi qua tầng hầm của một thành luỹ bằng đá na ná giống một cái cống dẫn nước thời La Mã. Sau đó, con đường lại thoải ra, bắt đầu dẫn họ vào bên trong toà thánh.

Vừa chạy, đầu Langdon vừa ong lên vì biết bao khuôn mặt cứ hiện ra, xoay đảo: Kohler, Janus, tên sát thủ, Rocher... lại còn biểu tượng thứ sáu nữa chứ! Chắc ông bạn chưa bao giờ nghe nhắc tới biểu tượng thứ sáu này chứ gì? Tên sát thủ đã nói với anh thế. Đó chính là biểu tượng tuyệt hảo nhất. Rõ ràng là Langdon chưa bao giở nghe nói đến nó. Thậm chí cả trong những tài liệu về các âm mưu bí mật của Illuminati, anh cũng chưa bao giờ đọc được bất kỳ thông tin gì về nó. Không hiểu là thật hay chỉ là huyễn hoặc, nhưng những lời đồn về một nén vàng khối hoàn hảo và viên kim cương Illuminati không một vết xước thì có tồn tại, còn về biểu tượng thứ sáu thì chưa một tài liệu nào nhắc đến.

- Kohler không thể là Janus! - Vittoria vừa chạy vừa tuyên bố. -Không thể có chuyện đó!

"Không thể" là từ mà tối nay Langdon đã tạm thời loại khỏi vốn từ vựng của mình.

- Chẳng biết nữa. - Langdon cũng vừa chạy vừa đáp - Kohler vốn rất ghét tôn giáo, và ảnh hưởng của ông ta cũng rất lớn.

- Cuộc khủng hoảng này khiến cho CERN trở thành quỷ dữ trong con mắt của công chúng. Mà Max thì không đời nào làm bất kỳ điều gì có thể gây tổn hại đến danh tiếng của CERN!

Ở một khía cạnh nào đó thì đúng là tối nay danh tiếng của CERN đã bị tổn hại nặng nề, tất cả là vì Illuminati cứ nhất mực muốn cho câu chuyện trở nên ầm ỹ. Tuy nhiên, cũng cần phải cân nhắc xem thực ra CERN đã bị tổn hại đến mức độ nào. Sự chỉ trích của nhà thờ vốn chẳng có gì là mới lạ đối với CERN. Càng nghĩ, Langdon càng phải thừa nhận rằng thật ra sự kiện này có thể đã mang lại lợi ích rất to lớn cho CERN. Đây đúng là một màn quảng cáo độc chiêu, và trong đêm nay, phản vật chất chính là một món hời cực lớn. Cả thế giới đang nói về nó.

- Em còn nhớ người sáng lập CERN, ông P. T. Barnum đã nói gì không? - Langdon vừa chạy vừa ngoái đầu lại hỏi. - "Tôi không cần biết các vị nói gì về tôi, điều quan trọng là lúc này cả thế giới đã biết đến tên tuổi của tôi!" Anh cá là lúc này khối người đang xếp hàng chờ mua bản quyền của công nghệ phản vật chất rồi đấy. Nhất là sau khi được tận mắt chứng kiến sức mạnh của nó vào lúc nửa đêm hôm nay.

- Không hợp lý. - Vittoria đáp. - Thể hiện sức mạnh huỷ diệt kiểu này đâu phải là cách thích hợp cho việc công bố một phát kiến có tính đột phá trong khoa học! Việc này sẽ rất có hại cho phản vật chất đấy!

Cây đuốc trên tày Langdon đang lụi dần.

- Nhỡ đâu mọi việc đơn giản hơn chúng ta tưởng. Nhỡ đâu Kohler lầm tưởng rằng Vatican sẽ giữ kín câu chuyện về hộp phản vật chất, rằng họ không muốn công khai mọi chuyện, vì làm thế có nghĩa là khẳng định với công chúng rằng Illuminati quả thực tồn tại và có một sức mạnh đáng gờm. Kohler đã lầm tưởng rằng Vatican sẽ giữ thói quen im lặng như mọi khi, nhưng không ngờ Giáo chủ Thị thần đã không làm thế.

Vẫn tiếp tục sải bước, Vittoria không nói gì.

Langdon chợt nghĩ ra.

- Đúng rồi! Kohler không thể ngờ Giáo chủ Thị thần sẽ phản ứng theo kiểu này. Ngài đã phá vỡ thông lệ của toà thánh, và nói toàn bộ sự thật cho công chúng được biết. Vì Chúa, Ngài lại còn cho truyền hình ảnh cái hộp phản vật chất trên ti-vi. Đó là một nước cờ tuyệt vời, và Kohler không thể ngờ được. Illuminati bị một vố gậy ông đập lưng ông, đã thế toàn bộ sự việc lại còn khiến cho Giáo chủ Thị thần bộc lộ tố chất tiềm ẩn của một vị thánh trong bản thân ngài. Thế là Kohler đến tận nơi để sát hại ngài!

- Max là đồ đểu giả. - Vittoria tuyên bố, - nhưng không thể là kẻ giết người. Và ông ta không thể nào dính líu vào âm mưu sát hại cha em.

Câu trả lời của Kohler vang lên rành rọt trong tâm trí Langdon. Nhiều nhà khoa học khác ở CERN cũng đồng ý rằng Leonardo là một thành phần nguy hiểm. Kết tội khoa học và Chúa trời là điều cấm kỵ về mặt khoa học.

- Biết đâu mãi gần đây Kohler mới biết sự thật về phản vật chất và không thích những hàm ý về tôn giáo của dự án này.

- Vì thế mà ông ấy cho người giết cha của em à? Lố bịch! Mà Kohler cũng không thể nào biết đến dự án của cha con em.

- Biết đâu trong lúc em không có nhà thì chính cha em đã phá vỡ quy ước và đến xin lời khuyên của Kohler. Chính em đã kể rằng ông rất băn khoăn về ý nghĩa đạo đức của phát kiến vĩ đại này.

- Xin lời khuyên của Kohler ư? - Vittoria khịt mũi. - Em không tin có chuyện đó!

Đường hầm bắt đầu. chạy chếch về hướng Tây. Họ phải ráng sức chạy thật nhanh, vì cây đuốc đang lụi dần đi. Không hiểu sau khi lửa tắt thì mọi thứ sẽ thế nào. Tối thui.

- Đã thế sáng nay Kohler còn mất công gọi điện cho anh nhờ giúp đỡ làm gì? - Vittoria nói tiếp, - nếu chính ông ta là người chủ mưu?

Langdon đã nghĩ đến điều này.

- Gọi cho anh là cách để ông ta che giấu hành động của mình. Ông ta không muốn bị buộc tội là tỏ ra bàng quan không hành động gì hết. Có thể là ông ta không ngờ chúng ta lại tiến được xa đến thế này.

Nghĩ đến khả năng mình bị lợi dụng một cách chủ tâm khiến Langdon cảm thấy đôi chút hãnh diện. Sự góp mặt của anh trong màn kịch này đã khiến cho thanh danh của Illuminati được tôn thêm đáng kể. Suốt cả buổi tối nay, bao nhiêu đài truyền hình thi nhau kề ra những công trình nghiên cứu và các sách xuất bản của cá nhân anh. Kể cũng buồn cười, sự hiện diện của một vị giáo sư đại học Harvard tại thành Vatican đã khiến cho những người hay hoài nghi cũng buộc phải tin rằng Illuminati không chỉ là một cái tên trong lịch sử, một sản phầm của những bộ óc hoang tưởng, mà là một thế lực thực sự tồn tại trong cuộc đời thật, một thế lực không thể xem nhẹ.

- Anh chàng phóng viên của đài BBC tin rằng CERN chính là sào huyệt thời hiện đại của Illuminati. - Langdon bảo Vittoria.

- Sao? - Vittoria vấp ngã. Cô gái lồm cồm bò dậy rồi chạy theo anh. - Anh ta nói thế thật sao?

- Trên làn sóng điện, anh ta so sánh CERN với đại bản doanh của hội Tam Điểm - một tổ chức đã từ lâu chứa hội Illuminati trong nội bộ mà không hề biết.

- Chúa ơi, thế này thì CERN sụp đổ đến nơi rồi!

Langdon không dám chắc như vậy. Nhưng dù sao thì giả thuyết đó cũng không còn quá hoang tưởng nữa. CERN chính là thiên đường của khoa học. Nó đã trở thành ngôi nhà chung của các nhà khoa học từ hơn một chục quốc gia trên thế giới, với những nguồn tài trợ bất tận từ khu vực tư nhàn. Mà Maximilian Kohler lại là người giữ chiếc ghế giám đốc.

Kohler chính là Janus.

- Nếu Kohler không liên can thì ông ta đến đây để làm gì? Langdon nói với vẻ thách thức. - Rất có thể chỉ để giúp một tay. Đề góp phần giải quyết khủng hoảng. Rất có thể ông ta chính là người Từ tâm thật sự! Biết đâu ông ấy đã biết sự thật về dự án phản vật chất và muốn chia sẻ thông tin...

- Tên sát thủ nói rằng ông ta đến để đóng dấu sắt nung lên người Giáo chủ Thị thần.

- Quá kỳ quặc! Đó sẽ là một hành động tự sát. Kohler không thể toàn mạng ra khỏi toà thánh được!

Langdon cân nhắc. Cũng có thể đây chính là mấu chốt của vấn đề.

Phía trước lờ mờ hiện ra một cánh cửa bằng thép chặn ngang lối đi xuống đường hầm. Tim Langdon gần như ngừng đập. Tuy nhiên, khi đến gần, hai người phát hiện ra khoá cửa đã được mở.

Cổng để ngỏ.

Langdon thở phào nhẹ nhõm. Anh đã phán đoán chính xác, đường hầm cổ xưa này vẫn còn được sử dụng. Cho đến tận gần đây, đặc biệt là trong ngày hôm nay. Lúc này anh gần như khẳng định chắc chắn rằng trước đó bốn vị Hồng y Giáo chủ đã bị đưa ra ngoài bằng lối này.

Họ tiếp tục chạy. Tiếng huyên náo trên quảng trường St. Peter vang vào đến tận dây. Họ đã đến rất gần nơi đó.

Lại có cánh cửa thứ hai, nặng hơn cái trước. Khoá cũng đã được mở sẵn. Lúc này tiếng ầm ỹ trên quảng trường St. Peter chỉ còn vọng vào một cách yếu ớt, Langdon đoán chừng họ đã vượt qua bức tường bao quanh toà thánh. Không hiểu con đường này sẽ dẫn đến địa điểm nào trong thành Vatican. Đến vườn chăng? Hay vào trong Đại thánh đường? Hay đến tận phòng của Đức Thánh Cha?

Thế rồi, bất thình lình, lối đi ngầm chấm dứt.

Hai cánh cửa chặn trước mặt Langdon và Vittoria trông chẳng khác gì một bức tường thép dày đặc những đinh tán. Trước khi ngọn đuốc tắt ngấm, Langdon còn kịp nhận thấy đây là loại cửa cực kỳ chắc chắn - không có tay cầm không quả đấm, không lỗ tra chìa khoá, không bản lề. Không cách gì mở ra được. Anh cảm thấy hốt hoảng. Theo cách nói của giới kiến trúc sư thì đây là loại cửa senza chiave - cửa mở một chiều, chỉ có thể mở được tử một bên - bên kia. Hi vọng của Langdon tắt ngấm, cùng lúc với ngọn đuốc trên tay anh.

Langdon giơ tay nhìn đồng hồ. Chú chuột Mickey vẫn đang sáng lấp loáng.

11 giờ 29 phúti.

Gào lên đầy bực tức, Langdon quăng cây đuốc, và bắt đầu đấm thình thình vào cánh cửa.

***

- Có điều gì đó không ổn.

Đứng gác trước cửa phòng làm việc của Giáo hoàng, trung uý Chartrand quan sát dáng vẻ bất an của người đồng đội đang đứng gác với mình. Cả hai đều cảm thấy có điều gì đó bất thường. Rocher đã nói rằng cuộc gặp rất riêng tư này có thể cứu nguy cho Vatican. Thế mà không hiểu sao linh tính cứ khiến Chartrand cảm thấy bồn chồn lo lắng. Mà tại sao Rocher lại hành xử lạ lùng đến thế không biết.

Rõ ràng là có gì đó không ổn.

Đại tá Rocher đứng bên phải Chartrand, mắt nhìn thẳng về phía trước, ánh mắt xa xăm một cách dị thường. Chartrand gần như không nhận ra người chỉ huy của mình nữa. Trong một giờ đồng hồ vừa qua, Rocher bỗng thay đổi hẳn. Tất cả những quyết định ông ta đưa ra đều hết sức vô lý.

Đáng ra phải có người vào trong mà gác mới đúng chứ! Chartrand thầm nghĩ. Anh nghe tiếng cài then cửa ngay sau khi Maximilian Kohler vào trong phòng. Tại sao Rocher lại cho phép điều này xảy ra cơ chứ?

Nhưng một chuyện khác còn làm cho Chartrand lo lắng nhiều hơn. Các vị Hồng y. Họ vẫn bị khoá trái trong nhà nguyện Sistine.

Đúng là điên rồ. Giáo chủ Thị thần đã ra lệnh sơ tán các vị ấy từ cách đây 15 phút. Nhưng Rocher không thi hành mệnh lệnh, cũng không hề báo cáo lại với Giáo chủ Thị thần. Và Chartrand đã suýt mất mạng vì dám đề cập đến chuyện đó. Theo điều lệnh của đội lính gác Thuỵ Sĩ, bất tuân thượng lệnh là điều bị cấm ngặt. Mà lúc này thì Rocher là người chỉ huy ở cấp cao nhất.

Nửa giờ nữa, Rocher thầm nghĩ, mắt kín đáo liếc nhìn chiếc đồng hồ đếm ngược đang đeo ở cổ tay. Làm ơn nhanh lên đi.

Chartrand ao ước giá anh có thể nghe được những gì đang xảy ra đằng sau cánh cửa này. Tuy nhiên, anh tin chắc rằng Giáo chủ Thị thần sẽ biết cách đối phó với mọi tình huống. Đêm nay, dù đã bị đặt vào một tình huống thật khó khăn, song ngài vẫn không hề nao núng. Ngài đã ngẩng cao đầu đối mặt với thử thách, đã phản ứng một cách bộc trực, chân thật, và đã toả sáng tuyệt vời. Chartrand cảm thấy tự hào được làm một con chiên của Chúa. Illuminati quả là đã sai lầm khi dám đối đầu với một người như Giáo chủ Thị thần Ventresca.

Nhưng rồi dòng suy nghĩ của Chartrand bị cắt ngang bởi những tiếng động rất bất thường. Tiếng đập cửa vang lên từ phía cuối hành lang. Những âm thanh vọng lại từ rất xa, nhưng liên tục không ngừng nghỉ. Rocher ngước nhìn lên. Ông ta quay sang ra hiệu cho Chartrand. Người trung uý trẻ hiểu ngay. Anh bật đèn pin và tiến về phía đó.

Tiếng đập cửa càng trở nên gấp gáp hơn. Chạy dọc theo hành lang được khoảng 10 mét thì Chartrand đến một chỗ ngoặt. Hình như tiếng động vọng ra từ một góc khuất, đằng sau Sala Clementina. Chartrand bối rối. Phía đằng ấy chỉ có một căn phòng duy nhất - thư viện riêng của Đức Thánh Cha. Căn phòng vẫn khoá im ỉm từ sau khi người tạ thế. Làm sao có thể có người trong ấy được!

Chartrand hối hả tiến đến bên hành lang thứ hai, rẽ ngoặt ở một góc, rồi lao vào cửa thư viện. Cánh cửa hẹp bằng gỗ đứng im lìm trong bóng tối, y như một người lính gác cần mẫn. Tiếng đập cửa vang lên từ đâu đó đằng sau cánh cửa gỗ này. Chartrand do dự. Giống như đa số mọi người trong toà thánh, anh chưa bao giờ vào trong thư phòng riêng của Đức Thánh Cha. Nếu không được đích thân Đức Thánh Cha dẫn vào thì không một ai được vào đây!

Ngập ngừng, Chartrand giơ tay cầm quả đấm cửa và xoay.

Đúng như dự đoán, cửa khoá. Anh áp tai vào cánh cửa. Tiếng đập thình thình nghe rõ hơn hẳn. Rồi còn có cả tiếng gì đó nữa. Tiếng người! Có người đang gọi!

Chartrand không nghe nổi từng lời, nhưng rõ ràng là những người này đang rất sợ hãi. Hay có người bị mắc kẹt trong thư viện? Hay là tại đội lính gác Thuỵ Sĩ sơ tán người không hết? Chartrand do dự, nghĩ đến khả năng quay lại báo cáo với Rocher. Gã chỉ huy chết tiệt. Người ta đã được huấn luyện để tự đưa ra quyết định, và giờ là lúc làm điều đó. Người trung uý trẻ tuổi rút cây súng đeo bên mình, bắn một phát vào then cửa. Mảnh gỗ văng tung tóe, cửa mở bung ra.

Bên trong tối om, chẳng trông thấy gì. Chartrand bật đèn pin. Căn phòng này hình chữ nhật, trải những tấm thảm phương Đông, hàng kệ đóng bằng gỗ sồi cao ngất chất nặng những sách, một chiếc giường bọc da, và một bệ lò sưởi lát đá cẩm thạch. Đã có vô số câu chuyện về căn phòng này được người ta truyền tai nhau - 3000 cuốn sách cổ cùng với hàng trăm loại tạp chí khoa học hiện đại, tất cả những gì Đức Thánh Cha yêu cầu. Trên bàn trà bày la liệt những tạp chí định kỳ chuyên về khoa học và chính trị.

Tiếng đập cửa lúc này đã nghe rõ hơn. Chartrand lia đèn về phía phát ra tiếng động. Từ mảng tường phía xa, đằng sau dãy ghế, là một cánh cửa sắt rất to trông hệt như một lô cốt, những bốn ổ khoá to tướng. Chính giữa cánh cửa là một hàng chữ nhỏ khắc bằng axít, những con chữ khiến Chartrand ngập thở.

IL PASSETTO

Chartrand trợn tròn mắt. Đường hầm thoát hiểm bí mật của Giáo hoàng! Anh đã nghe kể về đường hầm này, nhưng nó đã bị lãng quên từ mấy thế kỷ nay cơ mà! Ai có thể đứng ở bên kia cánh cửa mà đập cơ chứ?

Chartrand gõ gõ cây đèn pin lên cánh cửa. Những người bên kia có vẻ rất mừng rỡ. Tiếng đập thình thình ngừng lại, và tiếng người nói nghe rõ hơn. Cánh cửa sắt dày gắn như bóp méo tất cả mọi âm thanh.

- Kohler... nói dối... Giáo chủ Thị thần...

- Ai đấy? - Chartrand hỏi sang.

- Robert Langdon... Vittoria Ve...

Chartrand chẳng hiểu gì. Mình tưởng hai người này chết rồi cơ mà!

- Cửa... mở ra...!

Nhìn cánh cửa đồ sộ bằng sắt, Chartrand biết phải dùng đến thuốc nổ thì mới hi vọng phá được.

- Không được đâu! - Anh trả lời. Dày lắm!

- Cuộc gặp... chặn... thị thần... nguy hiểm...

Dù đã được tôi luyện qua nhiều tình huống hiểm nghèo, Chartrand vẫn sợ run lên khi nghe được những lời sau cùng. Mình có nghe nhầm không đây? Tim đập thình thịch, anh quay người định chạy về phòng làm việc của Giáo hoàng, rồi lại dừng lại ngay lập tức. Anh vừa nhìn thấy trên cánh cửa, một thứ còn đáng sợ hơn cả thông tin vừa nghe được. Chìa khoá cắm ở tất cả các ổ khoá trên cánh cửa. Chartrand trợn tròn mắt. Chìa khoá ở đây sao? Anh không dám tin vào mắt mình. Những chiếc chìa này đáng ra phải được cất giữ trong nhà vòm bí mật! Lối đi này có ai dùng bao giờ đâu! Từ mấy thế kỷ nay cơ mà!

Chartrand đặt đèn pin xuống đất. Anh xoay chiếc chìa thứ nhất. Ổ khoá đã gỉ, hơi rít, nhưng vẫn hoạt động. Có người vừa mới mở cánh cửa này. Chartrand xoay chiếc chìa thứ hai. Rồi chìa tiếp theo.

Khi cái then cuối cùng đã bật ra, anh đầy mạnh. Cánh cửa nặng nề xoay. Chartrand nhặt đèn lên, soi vào trong đường hầm.

Loạng choạng bước vào thư phòng, Robert Langdon và Vittoria Vetra trông chẳng khác gì hai con ma hiện hình. Mệt mỏi, tả tơi, nhưng còn sống.

- Thế này nghĩa là sao? - Chartrand hỏi. - Có chuyện gì thế Sao hai người lại ở đây?

- Max Kohler đâu rồi? - Langdon hỏi ngay.

Chartrand giơ tay chỉ.

- Ông ta đang gặp riêng Giáo chủ...

Langdon và Vittoria lao ngay ra ngoài hành lang. Chartrand quay phắt lại, theo bản năng anh ta chĩa súng vào lưng họ, để rồi lại hạ súng xuống và chạy theo. Chắc chắn là Rocher đã nghe tiếng chân chạy, nên khi họ vừa xuất hiện trước cửa phòng làm việc của Giáo hoàng thì ông ta đã đứng sẵn sàng, chân choãi ra, súng giương sẵn:

- Đứng lại!

- Giáo chủ Thị thần đang gặp nguy hiểm! - Langdon dừng phắt lại, giơ tay lên trời, miệng la lớn. - Mở cửa ra đi! Max Kohler sắp sát hại Giáo chủ Thị thần!

Rocher có vẻ rất bực bội.

- Mở cửa ra! - Vittoria kêu lên. - Ngay lập tức!

Nhưng đã quá muộn.

Một tiếng thét kinh hoàng vọng ra từ phòng làm việc của Giáo hoàng. Đó là giọng của Giáo chủ Thị thần.

***

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: