Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

thực tế tcqt thanhhuongd91

PHẦN 1: THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI

1. Pháp lệnh ngoại hối của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 13 tháng 12 năm 2005

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chính sách quản lý ngoại hối nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế; thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam; thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam; thực hiện các cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam. Cụ thể

CÁC GIAO DỊCH VÃNG LAI

Điều 7.

Thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ

1. Người cư trú được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép để thanh toán nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ.

2. Người cư trú phải chuyển toàn bộ ngoại tệ có từ việc xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ vào tài khoản ngoại tệ mở tại tổ chức tín dụng được phép ở Việt Nam; trường hợp có nhu cầu giữ lại ngoại tệ ở nước ngoài thì phải được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

3. Mọi giao dịch thanh toán và chuyển tiền liên quan đến xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ phải thực hiện thông qua tổ chức tín dụng được phép.

CÁC GIAO DỊCH VỐN

Mục 1 ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

Điều 11.

Đầu tư trực tiếp

1. Việc chuyển vốn đầu tư bằng ngoại tệ vào Việt Nam, việc chuyển vốn đầu tư gốc, lợi nhuận, trả lãi vay và các khoản thu hợp pháp ra nước ngoài phải được thực hiện thông qua tài khoản ngoại tệ mở tại một tổ chức tín dụng được phép.

2. Các nguồn thu hợp pháp bằng đồng Việt Nam được chuyển đổi thành ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài thông qua tổ chức tín dụng được phép.

Điều 12.

Đầu tư gián tiếp

1. Vốn đầu tư bằng ngoại tệ phải được chuyển sang đồng Việt Nam để thực hiện đầu tư.

2. Vốn đầu tư, lợi nhuận và các nguồn thu hợp pháp bằng đồng Việt Nam được chuyển đổi thành ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài thông qua tổ chức tín dụng được phép.

Mục 2 ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI

Điều 14

. Chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài

1. Người cư trú là tổ chức tín dụng được chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

2. Người cư trú là tổ chức kinh tế, cá nhân và các đối tượng khác được phép đầu tư ra nước ngoài phải mở một tài khoản ngoại tệ tại một tổ chức tín dụng được phép và đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để đầu tư phải được thực hiện thông qua tài khoản này.

Điều 15.

Chuyển vốn, lợi nhuận về Việt Nam

Vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư tại nước ngoài phải chuyển về Việt Nam theo quy định của pháp luật về đầu tư và các quy định khác của pháp luật có liên quan; vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập từ việc đầu tư khi chuyển về Việt Nam phải thực hiện thông qua tài khoản ngoại tệ mở tại tổ chức tín dụng được phép.

Mục 3 VAY, TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI

Điều 16.

Vay, trả nợ nước ngoài của Chính phủ

Chính phủ và các tổ chức được Nhà nước, Chính phủ uỷ quyền thực hiện vay, trả nợ nước ngoài trên cơ sở Chiến lược quốc gia về nợ nước ngoài và tổng hạn mức vay vốn nước ngoài do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hằng năm.

Điều 17.

Vay, trả nợ nước ngoài của người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân

1. Người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân được vay, trả nợ nước ngoài theo nguyên tắc tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ phù hợp với quy định của pháp luật.

2. Người cư trú là tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng và cá nhân phải tuân thủ các điều kiện vay, trả nợ nước ngoài, thực hiện đăng ký khoản vay, mở và sử dụng tài khoản, rút vốn và chuyển tiền trả nợ, báo cáo tình hình thực hiện khoản vay theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác nhận đăng ký khoản vay trong phạm vi tổng hạn mức vay vốn nước ngoài do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hằng năm.

3. Người cư trú được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép trên cơ sở xuất trình chứng từ hợp lệ để thanh toán nợ gốc, lãi và phí có liên quan của khoản vay nước ngoài và sử dụng các hình thức bảo lãnh, tái bảo lãnh và các hình thức bảo đảm khoản vay khác.

Mục 4 CHO VAY, THU HỒI NỢ NƯỚC NGOÀI

Điều 18.

Cho vay, thu hồi nợ nước ngoài của Chính phủ

Chính phủ quyết định việc cho vay, thu hồi nợ nước ngoài của Nhà nước, Chính phủ và các tổ chức được Nhà nước, Chính phủ uỷ quyền.

Điều 19.

Cho vay, thu hồi nợ nước ngoài của người cư trú là tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế

1. Tổ chức tín dụng được thực hiện cho vay, thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

2. Tổ chức kinh tế được cho vay, thu hồi nợ nước ngoài nếu đáp ứng được các điều kiện sau đây:

a) Được Chính phủ cho phép;

b) Thực hiện mở và sử dụng tài khoản, chuyển vốn ra và thu hồi vốn, báo cáo tình hình thực hiện cho vay và thu hồi nợ nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;

c) Nguồn thu vốn gốc, thu lãi và các khoản phí có liên quan phải được chuyển vào tài khoản ngoại tệ mở tại tổ chức tín dụng được phép.

SỬ DỤNG NGOẠI HỐI TRÊN LÃNH THỔ VIỆT NAM

Điều 22.

Quy định hạn chế sử dụng ngoại hối

Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.

Điều 24.

Sử dụng ngoại tệ tiền mặt của cá nhân

1. Người cư trú, người không cư trú là cá nhân có ngoại tệ tiền mặt được quyền cất giữ, mang theo người, bán cho tổ chức tín dụng được phép và sử dụng cho các mục đích hợp pháp khác.

2. Người cư trú là công dân Việt Nam được sử dụng ngoại tệ tiền mặt để gửi tiết kiệm tại tổ chức tín dụng được phép, được rút tiền gốc và nhận tiền lãi bằng ngoại tệ tiền mặt.

THỊ TRƯỜNG NGOẠI TỆ, CƠ CHẾ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI

VÀ QUẢN LÝ XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU VÀNG

Điều 28.

Thị trường ngoại tệ của Việt Nam

1. Thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao gồm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và tổ chức tín dụng được phép.

2. Thành viên tham gia thị trường ngoại tệ giữa tổ chức tín dụng được phép với khách hàng bao gồm tổ chức tín dụng được phép, bàn đổi ngoại tệ và khách hàng là người cư trú, người không cư trú tại Việt Nam.

3. Các đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ của Việt Nam được thực hiện các loại hình giao dịch theo thông lệ quốc tế khi đáp ứng các điều kiện do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.

Điều 30.

Cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam

1. Tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.

2. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác định cơ chế tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô cụ thể trong từng thời kỳ.

QUẢN LÝ DỰ TRỮ NGOẠI HỐI NHÀ NƯỚC

Điều 32.

Thành phần Dự trữ ngoại hối nhà nước

1. Ngoại tệ tiền mặt, tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.

2. Chứng khoán và các giấy tờ có giá khác bằng ngoại tệ do Chính phủ, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế phát hành.

3. Quyền rút vốn đặc biệt, dự trữ tại Quỹ tiền tệ quốc tế.

4. Vàng.

5. Các loại ngoại hối khác.

Điều 33.

Nguồn hình thành Dự trữ ngoại hối nhà nước

1. Ngoại hối mua từ ngân sách nhà nước và thị trường ngoại hối.

2. Ngoại hối từ các khoản vay ngân hàng và tổ chức tài chính quốc tế.

3. Ngoại hối từ tiền gửi của Kho bạc Nhà nước và các tổ chức tín dụng.

4. Ngoại hối từ các nguồn khác.

2. Tìm hiểu chính sách tỷ giá của Việt Nam từ năm 2010 đến nay

a) Chính sách tỷ giá của Việt Nam

Hiện tại, Việt Nam đang áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết và VND được neo theo USD. Theo IMF, cơ chế neo tỉ giá có điều chỉnh cho phép tỉ giá trung tâm được điều chỉnh thường xuyên với các bước nhỏ theo các chỉ số định lượng như lạm phát. Tỷ giá giữa VND so với các đồng tiền khác được quy đổi chéo giữa USD với đồng tiền đó và giữa USD với VND. Do vậy, việc VND mất giá so với USD và USD lại mất giá so với các đồng tiền khác làm cho VND càng mất giá mạnh so với các tiền tệ đó.

Đồ thị: Diễn biến thay đổi tỷ giá liên ngân hàng USD/VND

t

ừ

1/1/2010 đến 1/4/2012

Nguồn: www.sbv.gov.vn

Nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm chênh lệch giữa tỷ giá giao dịch liên ngân hàng và tỷ giá thị trường tự do là chính sách điều hành vĩ mô đúng đắn của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, việc Việt Nam thực hiện chính sách tiền tệ giảm giá VND nhằm kiểm soát thị trường tiền tệ được nhiều chuyên gia kình tế đánh giá là quá chậm trễ.

Việc điều chỉnh biên độ được thực hiện cùng với điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng đã tạo điều kiện đưa tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng phản ánh sát hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Việc thu hẹp biên độ tỷ giá là cần thiết nhằm hạn chế những biến động quá lớn của tỷ giá giao dịch trong ngày, góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt  động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng, đồng thời vẫn đảm bảo mục tiêu điều hành chủ động, linh hoạt như chỉ đạo của Chính phủ. Theo Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, do mức chênh lệch lớn về lạm phát giữa Mỹ và Việt Nam tiếp tục gia tăng trong năm 2011 nên tính đến tháng 9/2011, VND được định giá cao hơn 21,2% so với USD. Trong khi đó, nếu xét tương quan với rổ tiền tệ thế giới, VND được định giá cao hơn giá trị thực là 5%.

Từ tháng 9/2011 đến nay, tỷ giá khá ổn định, chỉ tăng khoảng 0,9%. Điều đó có nghĩa VND vẫn đang được định giá cao hơn so với giá trị thực. Việc VND được định giá cao hơn sẽ giảm bớt áp lực lạm phát từ bên ngoài khi giá hàng hóa nhập khẩu tính theo VND sẽ rẻ hơn. Nhờ đó, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội cũng như gia tăng niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, tình trạng này nếu kéo dài, nhà xuất khẩu phải chịu thiệt thòi, không đẩy mạnh xuất khẩu.

b)Các biện pháp ổn định tỷ giá trong thời gian qua

- Chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý chặt chẽ như

+ cấm kinh doanh ngoại tệ trên thị trường tự do,

+ cấm kinh doanh vàng miếng,

+ yêu cầu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải bán ngoại tệ cho tổ chức tín dụng,

+ điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ thêm 1 điểm phần trăm, từ 6% lên 7% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng,

+ lãi suất huy động tối đa bằng USD từ 1%/năm xuống còn 0,5%/năm đối với tổ chức và 3%/năm xuống còn 2%/năm đối với cá nhân.

Những giải pháp có phần hành chính trên đã khiến thị trường ngoại hối tự do liên tục giảm và xoay quanh tỷ giá chính thức với mức chênh lệch rất nhỏ (0.5%), thậm chí có thời điểm giao dịch thấp hơn tỷ giá bình quân của các ngân hàng thương mại.

- Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt kết quả khả quan, thực hiện tốt hơn các chỉ tiêu đề ra và tạo sự hỗ trợ lớn cho việc ổn định tỷ giá. Tỷ trọng nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm rất mạnh so với các năm trước và dưới khá xa so với mục tiêu phấn đấu do Quốc hội và Chính phủ đưa ra.

- Kiều hối cũng đang góp phần đáng kể trong việc cải thiện dự trữ ngoại hối, ước tính vừa công bố của Ngân hàng Thế Giới (WB) cho thấy lượng kiều hối chuyển về Việt Nam trong năm 2011 đạt gần 9 tỷ USD. Với con số này, Việt Nam thuộc top 10 các nước nhận được nhiều kiều hối nhất theo con đường chính thức (gồm Ấn Độ, Trung Quốc, Mexico, Philippines, Pakistan, Bangladesh, Nigeria, Ai Cập và Liban).

3. Đánh giá chính sách tỷ giá từ năm 2010 đến nay

3.1.Tác động tích cực:

Thứ nhất, tỷ giá tăng sẽ kiềm chế nhập khẩu và kích thích xuất khẩu. Tại Việt Nam, thuế đánh lên hàng hoá xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng ở mức 0% trong khi thuế đánh lên hàng hoá nhập khẩu là rất cao. Trong chiều hướng mở rộng thâm hụt cán cân thương mại thì có thể nhận định mức tăng tỷ giá này sẽ có tác động kiềm chế nhập khẩu.

Thứ hai, khi tỷ giá tăng mạnh ngang với mức giá mà thị trường tự do kỳ vọng thì sự mất giá lớn tiếp theo của VND sẽ giảm bớt. Hành động này của ngân hàng Nhà nước sẽ giúp cho Việt Nam thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài trong tương lai nếu như các ổn định vĩ mô khác được kiểm soát tốt.

Thứ ba, tỷ giá tăng mạnh đến 9,3% khiến tỷ giá liên ngân hàng gần hơn với tỷ giá thị trường sẽ giúp cho nền kinh tế không bị méo mó, giao dịch trở nên minh bạch hơn và giảm bớt những chi phí chìm cho nền kinh tế.

3.2.Tác động tiêu cực:

Thứ nhất, việc tăng tỷ giá là làm gia tăng chi phí của các nhà sản xuất. Giá các hàng hoá cơ bản như xăng dầu, phân bón, dược phẩm sẽ tăng mạnh sẽ làm hầu hết các hàng hoá đến tay người tiêu dùng bị tăng theo. Để tiếp tục kiềm chế lạm phát, lãi suất sẽ tiếp tục phải duy trì ở mức cao.

Thứ hai, việc phá giá VND sẽ khiến cho các doanh nghiệp nợ nước ngoài chịu thiệt thòi. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải ghi nhận mức nợ cao hơn từ ngày điều chỉnh tỷ giá. Nợ nước ngoài của bản thân Chính phủ Việt Nam cũng sẽ nặng nề hơn. Do nhu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng lớn nên Việt Nam chắc chắn sẽ phải tiếp tục vay nợ nhiều hơn của nước ngoài. Với tỷ trọng nợ trên GDP lớn hơn sẽ khiến cho những lần vay mới thông qua trái phiếu của Chính phủ mất nhiều chi phí hơn và áp lực trả nợ cũng cao hơn.

PHẦN 2: THANH TOÁN QUỐC TẾ

I. Một số phương thức thanh toán quốc tế do ngân hàng ở Việt Nam cung cấp

1. Thanh toán chuyển tiền

Thanh toán chuyển tiền là một phương thức thanh toán, theo đó Ngân hàng theo chỉ thị của Người yêu cầu thực hiện chuyển một số tiền cho Người thụ hưởng.

Có hai cách thức chuyển tiền: Phát hành Séc/Bankdraft và Chuyển tiền bằng điện.

a) Đặc điểm

• Phát hành Séc/ Bankdraft: Có hai hình thức phát hành Sec/bankdraft:

-Phát hành từ xa: Khách hàng (Người yêu cầu) nộp hồ sơ và đăng ký phát hành Sec/bankdraft. Ngân hàng đại lý tại nước người thụ hưởng sẽ trực tiếp gửi Sec/bankdraft tới cho người thụ hưởng

-Phát hành tại chỗ: Khách hàng (Người yêu cầu) nộp hồ sơ và đăng ký phát hành Sec/bankdraft và sẽ nhận Sec/Bankdraft tại nơi đăng ký.

• Chuyển tiền bằng điện:

Khách hàng (Người yêu cầu) nộp hồ sơ và yêu cầu chuyển tiền bằng điện. Ngân hàng sẽ lập điện yêu cầu Ngân hàng đại lý của mình chuyển tiền báo có vào tài khoản của Người thụ hưởng tại Ngân hàng của họ theo đúng như chỉ dẫn của Người yêu cầu

b) Tiện ích

•  Chuyển tiền thanh toán là phương thức thanh toán đơn giản với chi phí thấp

• Thời gian phát hành và xử lý chứng từ thanh toán nhanh chóng (tối đa 01 ngày)

• Người thụ hưởng nhận được tiền trong thời gian ngắn (tối đa là 2 ngày làm việc)

• Khách hàng có thể mở tài khoản một nơi nhưng có thể giao dịch chuyển tiền tại bất kỳ chi nhánh nào của ngân hàng.

• Với dịch vụ thanh toán đa ngoại tệ, khách hàng có thể thanh toán được 30 loại ngoại tệ khác nhau nên hạn chế tối đa rủi ro về tỷ giá

• Thủ tục nhanh chóng thuận tiện.

2. Thanh toán nhờ thu

Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán, sau khi giao hàng hoá hoặc dịch vụ cho người mua, uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền hàng hoá hoặc dịch vụ đó

a) Đặc điểm

• Thanh toán bằng phương thức nhờ thu sẽ giảm thiểu một phần rủi ro cho nhà xuất khẩu vì chứng từ chỉ được giao cho người nhập khẩu khi người nhập khẩu thanh toán tiền hàng hoặc đã ký chấp nhận hối phiếu (đối với nhờ thu chứng từ). Tuy nhiên thanh toán theo phương thức này người bán/xuất khẩu vẫn phải chịu rủi ro trong trường hợp người mua/nhập khẩu không chấp nhận chứng từ hoặc từ chối thanh toán hối phiếu khi đáo hạn

• Căn cứ theo thời hạn, có 2 loại Nhờ thu:

- Nhờ thu trả ngay (D/P): Phương thức này qui định người mua/người nhập khẩu phải thanh toán tiền ngay khi nhận bộ chứng từ.

- Nhờ thu trả chậm (D/A): Phương thức này cho phép người mua không phải thanh toán ngay nhưng phải ký chấp nhận thanh toán trên hối phiếu có kỳ hạn, được ký phát bởi người bán/người xuất khẩu. Thông thường hối phiếu đã chấp nhận sẽ được giữ tại nơi an toàn của ngân hàng nhờ thu (ngân hàng người nhập khẩu) cho đến ngày đáo hạn. Tới ngày này, người mua phải thực hiện thanh toán như đã chấp nhận.

• Căn cứ theo chứng từ, có 2 loại Nhờ thu:

-  Nhờ thu phiếu trơn: Bộ chứng từ Nhờ thu chỉ gồm Hối phiếu và Yêu cầu nhờ thu của Ngân hàng của người xuất khẩu

- Nhờ thu kèm chứng từ: Bộ chứng từ Nhờ thu ngoài Hối phiếu, Yêu cầu nhờ thu của Ngân hàng còn có bộ chứng từ gửi hàng. Khi đó người nhập khẩu nếu muốn nhận chứng từ thì sẽ phải thanh toán (D/P) hoặc ký chấp nhận hối phiếu (D/A)

b) Tiện ích

• Chi phí khá thấp (so với phương thức thanh toán Thư tín dụng (L/C))

• Giảm thiểu một phần rủi ro thanh toán cho nhà xuất khẩu vì chứng từ chỉ được giao cho người nhập khẩu khi người nhập khẩu thanh toán tiền hàng hoặc đã ký chấp nhận hối phiếu (đối với nhờ thu kèm chứng từ).

• Có sự hỗ trợ của Ngân hàng trong việc tra soát, yêu cầu thanh toán…

• Thời gian phát hành và xử lý chứng từ thanh toán quốc tế tối đa là 01 ngày.

• Chi phí cạnh tranh

• Khách hàng có thể chiết khấu chứng từ tới 95% trị giá bộ chứng từ

3. Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)

a) Đặc điểm

L/C là một cam kết thanh toán độc lập của ngân hàng phát hành khi những điều kiện quy định trong thư tín dụng được thực hiện đúng và đầy đủ, bảo đảm là người thụ hưởng sẽ được thanh toán và không còn bị phụ thuộc vào thiện chí thanh toán của người mua. Do đó người bán có được một cam kết chắc chắn từ phía ngân hàng phát hành, người mua có được những chứng từ như yêu cầu.

Hiện tại, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đang thực hiện việc mở các loại thư tín dụng sau đây cho khách hàng:

• Thư tín dụng trả ngay;

• Thư tín dụng trả chậm;

• Thư tín dụng xác nhận:

• Thư tín dụng chuyển nhượng;

• Thư tín dụng giáp lưng;

• Thư tín dụng tuần hoàn

b) Tiện ích

• Giảm thiểu rủi ro thanh toán cho nhà nhập khẩu vì nhà nhập khẩu chỉ có trách nhiệm thanh toán khi chứng từ phù hợp với các điều khoản quy định trong L/C. Giảm thiểu rủi ro thanh toán cho nhà xuất khẩu vì trong trường hợp bộ chứng từ hoàn hảo, ngân hàng phát hành sẽ phải thanh toán đúng thời hạn.

• Ngân hàng có trách nhiệm trong việc tra soát, yêu cầu thanh toán…

• Khách hàng có thể chiết khấu chứng từ tới 95% trị giá bộ chứng từ

• Ngân hàng có quan hệ hàng chục ngàn đại lý tại các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới tạo thuận lợi cho việc thông báo LC trực tiếp tới ngân hàng của người thụ hưởng

• Chi phí cạnh tranh

• Khách hàng có thể mở tài khoản một nơi nhưng có thể giao dịch tại bất kỳ chi nhánh nào của ngân hàng.

• Được tư vấn miễn phí về các quy tắc, tập quán thương mại quốc tế, về các điều khoản đặc biệt của L/C nhằm giảm thiểu rủi ro phát sinh trong quá trình giao thương.

II. Phương thức thanh toán L/C

Trong kinh doanh ngày nay, thanh toán quốc tế đang ngày trở nên phổ biến. Những phương thức thanh toán truyền thống như tiền mặt đã dần được thay thế bằng những phương thức thanh toán hiện đại hơn, nhanh chóng hơn, một trong số đó là phương thức thanh toán qua L/C.

Ví dụ: Công ty dược phẩm Traphaco mua dây chuyền sản xuất từ hãng Machine (Mỹ) của để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong hợp đồng thương mại, hai bên có thoả thuận điều khoản thanh toán bằng L/C.

Bước 1:

Đầu tiên Traphaco sẽ đến Vietcombank xin mở L/C (gọi là ngân hàng phát hành L/C).

Bước 2:

                 

Ngân hàng phát hành L/C sẽ thông báo cho một ngân hàng mà Machine mở tài khoản về kết quả mở L/C và nội dung L/C (gọi là ngân hàng tiếp nhận L/C).

Bước 3:

Ngân hàng tiếp nhận L/C sẽ tiến hành kiểm tra hình thức của L/C, sau đó chuyển nguyên văn nội dung L/C cho Machine mà không được phép ghi chú hay dịch thuật bất kỳ chi tíêt nào trên L/C.

Bước 4:

                 

Machine sau khi xem xét nội dung L/C, nếu thấy hoàn toàn phù hợp với những điều khoản của hợp đồng và những nội dung đã thoả thuận với Traphaco thì giao hàng. Nếu chưa phù hợp thì hai bên sẽ phải chỉnh sửa.

Bước 5:

Machine sẽ xuất trình cho Ngân hàng tiếp nhận L/C bộ chứng từ chứng minh đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.

Bước 6:

                 

Ngân hàng tiếp nhận L/C ngay lập tức chuyển bộ chứng từ trên cho Ngân hàng mở L/C.

Bước 7:

Sau khi kiểm tra chi tiết tính hợp lệ của bộ chứng từ và thấy Machine đã thực hiện đúng những quy định của L/C thì Ngân hàng mở L/C sẽ chuyển tiền cho Ngân hàng tiếp nhận L/C.

Bước 8:

                 

Ngân hàng tiếp nhận L/C chuyển tiền vào tài khoản của công ty Machine, còn Ngân hàng mở L/C thì gửi bộ chứng từ cho công ty Traphaco. Traphaco và Machine thanh toán chi phí thanh toán qua L/C cho các ngân hàng.

Thông thường, các công ty sẽ sử dụng L/C trong thời kỳ đầu của quan hệ kinh doanh khi các bên chưa hiểu rõ nhau. Thanh toán qua L/C được thực hiện theo nguyên tắc "thanh toán trước, khiếu nại sau", khi các chứng từ của người bán phù hợp với toàn bộ các điều kiện trong tín dụng thư (chứng từ hoàn hảo). Đó chính là sự đảm bảo thanh toán tốt nhất sau phương thức thanh toán trả trước. L/C thường là không huỷ ngang và luôn luôn được thanh toán (ngoại trừ trong trường hợp gian lận). Khi sử dụng thanh toán L/C, các công ty phải tuân thủ Quy tắc thực hành tín dụng thống nhất chứng từ (bản hiện tại là UCP 600) của Phòng Thương Mại quốc tế ICC.

III. Qui tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ UCP 600

Các họat động thanh toán thương mại quốc tế, đặc biệt là các hoạt động liên quan đến Tính dụng chứng từ đòi hỏi phải có sự hiểu biết thấu đáo và thống nhất trên phạm vi toàn thế giới. Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng và đẩy mạnh giao lưu thương mại quốc tế, giúp các công ty, các tập đoàn khác nhau ở các quốc gia khác nhau quan hệ buôn bán, thanh toán được dễ dàng, quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ của ICC UCP-500 được bạn hành năm 1993 đã được chấp nhận, được phổ biến và sử dụng rộng rãi trong buôn bán giữa các quốc gia trên phạm vi toàn cầu, đã phát huy tác dụng thúc đẩy thương mại quốc tế ngày càng phát triển.

Trong một thế giới mà công nghệ thông tin phát triển nhanh, các nền kinh tế khác nhau trên thế giới nhanh chóng hội nhập, quan hệ mật thiết và gắn bó, khi mà thế giới ngày càng trở nên "phẳng" hơn, nhiều quy định trong UCP-500 không còn phù hợp, trở nên cản trở các mối quan hệ thương mại quốc tế, việc định kỳ hoàn thiện, sửa đổi các văn bản mang tính quy tắc thống nhất trong thanh toán quốc tế đã trở nên cần thiết.

Để tạo điều kiện thuận lợi hơn và thúc đẩy giao lưu, thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ hơn nữa Phòng thương mại quốc tế đã sửa đổi và ban hành Quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng Chứng từ của ICC UCP-600, có hiệu lực từ 01/7/2007. Tiếp theo việc ban hành UCP-600, ICC đã ban hành một số văn bản hướng dẫn kèm theo.

·

       

UCP 600 - 2007 ICC - Các quy tắc và thực hành thống nhất về Tín dụng chứng từ

·

       

ISBP-681 2007 ICC - Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ theo thư tín dụng - phát hành số 681 sửa đổi năm 2007 của ICC tuân thủ UCP 600 2007 ICC.

·

       

eUCP 1.1 - Bản phụ trương UCP-600 về việc xuất trình chứng từ điện tử - Bản diễn giải số 1.1 năm 2007.

·

       

UR255 1995 ICC - Quy tác thống nhất về hoàn trả tiền giữa các ngân hàng theo thư tín dụng.

So với phiên bản cũ, UCP600 có nhiều điểm nổi bật hơn. Các từ ngữ trong thanh toán quốc tế được ghi ngắn gọn và rõ ràng hơn, các điều kiện giao dịch được cụ thể hóa hơn và không còn mơ hồ để có thể tạo ra tranh chấp giữa các bên. Cụ thể,  UCP 600 giải thích các quy định pháp lý trong tín dụng và bổ sung mới như cho phép dùng các thuật ngữ “hạng nhất”, thời gian xử lý chứng từ đã được rút ngắn từ 7 ngày xuống 5 ngày… UCP 600 quy định nếu xuất trình chứng từ phù hợp thì phải thanh toán; nếu xuất trình không phù hợp, ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận… có quyền từ chối thanh toán hoặc thương lượng thanh toán. Ở điều khoản 28, UCP 600 có quy định rõ ngoài đại lý, còn có thêm “người ủy quyền” tham gia bảo hiểm; quy định không gian bảo hiểm; quy định mức bảo hiểm tối thiểu: có thể bằng % của giá trị hàng hóa hoặc % giá trị hóa đơn…

Nội dung UCP 600 đề cập tới nhiều vấn đề, một trong số đó là chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, cụ thể như sau:

a) Các loại chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển

UCP 600 đã chia chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển thành 3 loại:

- Vận đơn đường biển (

Bill of Lading

)

- Giấy gửi hàng bằng đường biển không lưu thông (Non-Negotiable Seawaybill)

- Vận đơn theo hợp đồng thuê tàu (Charter Pary Bill of Lading)

Như vậy khi gửi hàng bằng đường biển, tùy theo yêu cầu của tín dụng chứng từ, các loại chứng từ trên đây đều được ngân hàng coi là chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển và chấp nhận để thanh toán.

b) Hình thức của chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển

Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển có thể phát hành dưới hai hình thức:

- Chứng từ giấy: Đối với chứng từ giấy thì bao gồm 2 mặt: mặt 1 sẽ chứa đựng những nội dung theo quy định, mặt 2 chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở.

- Chứng từ điện tử: Đối với chứng từ điện tử, UCP 600 không đề cập trong nội dung, mà sẽ có bản phụ trương hướng dẫn cụ thể kèm theo. Nếu phát hành dưới dạng điện tử thì không bao gồm 2 mặt mà bao gồm 2 bộ phận hợp thành: bộ phận thứ nhất gọi là chứng từ vận đơn điện tử (Electronic Bill of Lading text) và bộ phận thứ hai gọi là trang đăng ký chuyển đổi.

Song phát hành dưới hình thức nào cũng phải đảm bảo những nội dung được quy định trong UCP 600.

c) Nội dung của chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển

- Tên gọi của chứng từ

Chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cho dù được gọi như thế nào, UCP 600 không quan tâm, miễn là nội dung của chứng từ đáp ứng những quy định của UCP.

Ví dụ: Một chứng từ khi xuất trình tại ngân hàng có tiêu đề: “Bill of Lading or Seawaybill for Combined transport Shipment or port to port Shipment” chưa phải là cơ sở để ngân hàng chấp nhận hay từ chối, mà việc chấp nhận hay từ chối sẽ phụ thuộc vào nội dung chứng từ thể hiện theo quy định.

- Người phát hành và người ký chứng từ

+ Người phát hành chứng từ: Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, phải chỉ rõ tên người chuyên chở (indicate the name of the carrier), nhưng không được thể hiện và ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (contain no indication that it is subject to a charter party).

Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, không cần chỉ rõ tên người chuyên chở, nhưng có ghi là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu (containing an indication that it is subject to charter party).

+ Người ký chứng từ: Theo UCP 600, người ký các chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển cụ thể như sau:

Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, người ký chứng từ có thể là người chuyên chở hay đại lý hoặc người thay mặt người chuyên chở; thuyền trưởng hay đại lý hoặc người thay mặt thuyền trưởng.

Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, người ký chứng từ có khác đôi chút so với người ký chứng từ trên vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển. Cụ thể, người ký vận đơn theo hợp đồng thuê tàu có thể là thuyền trưởng hay đại lý hoặc người thay mặt thuyền trưởng; chủ tàu hay đại lý hoặc người thay mặt chủ tàu; người thuê tàu hay đại lý hoặc người thay mặt người thuê tàu (người thuê tàu thường gọi là người chuyên chở).

Người ký chứng từ, khi ký phải thể hiện rõ tư cách pháp lý của mình. Riêng đối với đại lý, khi ký, ngoài việc thể hiện là đại lý, còn phải ghi rõ đại lý cho ai, nghĩa là phải ghi rõ tên của người mà mình là đại lý cho họ.

- Xếp hàng lên tàu

Trên các chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, UCP 600 quy định rất cụ thể về hàng xếp lên tàu. Chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ hàng hóa đã được xếp lên con tàu chỉ định tại cảng giao hàng quy định trong thư tín dụng (indicate that the goods have been shipped on board a name vessel at the port of loading stated in the credit). Nội dung này trên chứng từ có thể được thể hiện bằng hai cách, hoặc là một cụm từ in sẵn (pre-printed wording) hoặc là một ghi chú là hàng đã được xếp lên tàu và có ghi ngày xếp hàng lên tàu (an onboard notation indicating the date on wich the goods have been shipped in board).

- Ngày giao hàng

Theo quy định của UCP 600 thì ngày phát hành vận đơn sẽ được coi là ngày giao hàng (the date of issuance of the Bill of Lading will be deemed to be the date of shipment), trừ khi trên chứng từ vận chuyển đã có ghi chú ngày xếp hàng lên tàu thì ngày xếp hàng lên tàu sẽ được coi là ngày giao hàng (the date stated in the on board notation will be deemed to be the date of shipment).

Như vậy, theo quy định của UCP 600, ngày xếp hàng lên tàu chính là ngày giao hàng. Còn ngày phát hành chứng từ vận chuyển sẽ được coi như ngày giao hàng nếu trên chứng từ không có ghi chú khác về ngày xếp hàng lên tàu. Trên thực tế cũng có những trường hợp ngày phát hành chứng từ vận chuyển có thể trước hoặc sau ngày xếp hàng lên tàu – Trong những trường hợp này không được coi ngày phát hành chứng từ vận chuyển là ngày giao hàng.

- Hành trình của hàng hóa

Theo UCP 600, hành trình của hàng hóa phải được thể hiện cụ thể trên chứng từ chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. Nghĩa là trên chứng từ vận chuyển phải chỉ rõ chuyến hàng được giao từ cảng xếp hàng tới cảng dỡ hàng đã được quy định trong thư tín dụng (indicate shipment from the port of loading to the port of discharge state in the credit). Còn trường hợp trên chứng từ vận chuyển chưa xác định rõ được cảng xếp hoặc ghi cảng dự định xếp hàng thì khi xếp hàng lên tàu phải ghi chú rõ tên cảng xếp như quy định trong tín dụng, ngày xếp hàng lên tàu và tên tàu hàng đã xếp lên.

- Chuyển tải

Vấn đề chuyển tải được UCP 600 đề cập đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu.

Ở Điều 20 và 21 của UCP 600, khoản b và c sau khi đưa ra khái niệm về chuyển tải, đã quy định là trên chứng từ vận chuyển có thể ghi hàng hóa sẽ hoặc có thể chuyển tải miễn là toàn bộ hành trình vận chuyển chỉ sử dụng một và cùng một chứng từ.

Nếu hàng hóa được giao bằng container, xe moóc hoặc sà lan tàu LASH ghi trên chứng từ, thì ngay cả khi tín dụng thư cấm chuyển tải (even if the credit prohibits transhipment) các ngân hàng vẫn có thể chấp nhận một chứng từ vận chuyển ghi việc chuyển tải sẽ hoặc có thể xảy ra (transhipment will of may take place).

- Chứng từ vận chuyển gốc

Trong chuyên chở hàng hóa bằng đường biển, khi nhận hàng để chở, người nhận hàng để chở thường phát hành cho người gửi hàng 01 hoặc 01 bộ chứng từ vận chuyển gốc - Ở nội dung này, UCP 600 cũng quy định cụ thể: Khi xuất trình chứng từ vận chuyển gốc tại ngân hàng có thể xuất trình một bản gốc duy nhất nếu phát hành một bản gốc, còn phát hành một bộ thì phải xuất trình trọn bộ chứng từ gốc đã phát hành.

- Điều kiện và điều khoản chuyên chở

Với điều kiện và điều khoản chuyên chở, UCP 600 chỉ đề cập đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, còn không đề cập đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu:

+ Đối với vận đơn đường biển và giấy gửi hàng bằng đường biển, UCP 600 quy định “không thể hiện phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu”. Vì vậy, trong nội dung của hai chứng từ này phải “chứa đựng các điều kiện và điều khoản chuyên chở hoặc phải dẫn chiếu tới các nguồn khác chứa đựng những điều kiện và điều khoản chuyên chở (trường hợp vận đơn hay giấy gửi hàng mặt sau để trắng). Về nội dung của các điều kiện và điều khoản chuyên chở, theo quy định của UCP 600, thì các ngân hàng không có trách nhiệm kiểm tra, xem xét.

+ Đối với vận đơn theo hợp đồng thuê tàu, UCP 600 quy định có ghi trên đó là phụ thuộc vào hợp đồng thuê tàu, mà hợp đồng thuê tàu đã đầy đủ các điều kiện và điều khoản chuyên chở, cho nên UCP 600 không đề cập tới điều kiện và điều khoản chuyên chở trên vận đơn. Về nội dung của hợp đồng thuê tàu, các ngân hàng cũng không có trách nhiệm kiểm tra và xem xét ngay cả khi hợp đồng thuê tàu phải xuất trình theo yêu cầu của thư tín dụng…

PHẦN 3: ĐẦU TƯ QUỐC TẾ

Nguồn vốn FDI có vai trò tích cực hơn vốn ODA nhờ đi kèm với vốn FDI là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và tạo điều kiện cho nước nhận vốn FDI tiếp cận được phương pháp quản lý hiện đại, cách thức tổ chức doanh nghiệp đa dạng và hiệu quả. Cho đến hiện nay vẫn tồn tại hai quan điểm về tiếp nhận và sử dụng vốn FDI thế nào cho có hiệu quả tại các nước đang phát triển và các nước kém phát triển.

Quan điểm thứ nhất cho rằng các nước đang phát triển vừa thiếu vốn, vừa nhập siêu trong thương mại quốc tế, nên FDI sẽ giúp họ khắc phục hai khó khăn này.

Quan điểm thứ hai cho rằng vốn FDI là khoản vay dài hạn và lợi nhuận của khoản này chính là lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp và các doanh nghiệp được quyền chuyển lợi nhuận này về nước. Điều này sẽ làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của các quốc gia đang phát triển.

Quan điểm thứ hai ngày càng được khẳng định khi các cuộc khủng hoảng liên tiếp xãy ra vào các năm 1997 và 2008 đã làm cho dòng lợi nhuận từ FDI trong nước chảy ra nước ngoài với khối lượng lớn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thanh khoản bằng ngoại tệ của các quốc gia có cơ cấu vốn đầu tư từ FDI lớn.

I. Tổng kết đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam năm 2011

1. Vốn đầu tư nước ngoài lũy kế

Tính đến ngày 15/12/2011, Việt Nam có 13.667 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 198 tỷ USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 54%. Singapore là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký 24 tỷ USD, tiếp theo lần lượt là Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút FDI với 32,67 tỷ USD còn hiệu lực, tiếp theo là Bà Rịa-Vũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương.

2. Về vốn đăng ký

Tính đến 15/12/2011, vốn đăng ký mới và tăng thêm tại Việt Nam đạt 14,7 tỷ USD, bằng 74% so với năm 2010. Riêng vốn đăng ký mới đạt 11,6 tỷ USD, bằng 65% năm 2010 nhưng đã có những chuyển biến theo hướng tích cực. Vốn đăng ký năm 2011 tập trung 76,4% vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, cao hơn hẳn tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực này năm 2010 (54,1%). Đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản năm 2011 chỉ chiếm 5,8% tổng vốn đăng ký (trong khi năm 2010 lĩnh vực này chiếm 34,3% tổng vốn đăng ký). Vốn đăng ký tăng thêm đạt 3,1 tỷ USD, tăng 1,65 lần mức vốn đăng ký tăng thêm của năm 2010 (1,89 tỷ USD). Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài vẫn có sự đánh giá tích cực về môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

3. Về vốn thực hiện và kết quả hoạt động của doanh nghiệp FDI

Vốn thực hiện của khu vực FDI tại Việt Nam năm 2011 ước đạt 11 tỷ USD, bằng với mức thực hiện của năm 2010 và đóng góp 25,9% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.

Xuất khẩu của khu vực FDI (kể cả dầu thô) ước đạt 54,5 tỷ USD, chiếm 59% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 39,3% so với năm 2010, cao hơn mức tăng trưởng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu khu vực FDI (không kể dầu thô) ước đạt 47,2 tỷ USD. Góp phần làm giảm gánh nặng cho cán cân thương mại. Nhập khẩu của khu vực FDI là 47,8 tỷ USD, tăng 29,3% so với năm 2010.

Thu nội địa từ khu vực FDI năm 2011 khoảng 3,5 tỷ USD, tăng 15% so với năm 2010 (3,04 tỷ USD). Thu từ dầu thô vượt dự toán năm gần 44% và ước đạt 4,8 tỷ USD. Khu vực FDI góp phần đáng kể tăng thu ngân sách và do đó, làm giảm bội chi ngân sách nhà nước.

II. Vấn đề chuyển giá trong FDI

Điều nhức nhối nhất hiện nay không phải là những con số ký trên giấy sụt giảm, cũng không phải là tỷ lệ giải ngân, mà là hiện tượng thua lỗ ngày càng phổ biến đến mức khó hiểu của giới FDI. Hiện tượng này thật không đúng với những gì mà Việt Nam đã mang đến cho các đầu tư FDI: nhân công rẻ, nhiều ưu đãi về  miễn giảm thuế, điều kiện xuất khẩu thuận lợi, dân số trẻ và đông... Chính các tổ chức quốc tế cũng luôn đánh giá Việt Nam là điểm đến hấp dẫn trong TOP 3 ở khu vực châu Á.

Nghiên cứu về thực hư hiệu quả làm ăn tại Việt Nam của cộng đồng FDI đã có nhiều. Các cuộc khảo sát doanh nghiệp FDI của Bộ Kế hoạch và đầu tư một số năm gần đây đều cho thấy, các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ hàng năm chiếm tỷ lệ trung bình tới trên 70%. Một số doanh nghiệp FDI có lãi nhưng tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cũng không đáng kể. Tỷ lệ đóng góp cho ngân sách quốc gia của khối này, không kể dầu thô là khá thấp, chỉ dao động quanh  9-10% tổng thu ngân sách quốc gia.

Kết quả khảo sát trên cũng khớp với các số liệu thanh kiểm tra từ cơ quan thuế. Đáng chú ý nhất là kết quả thanh tra thuế đối với 88 doanh nghiệp FDI trong 3 năm liên tiếp 2007-  2009 trên cả nước được công bố hồi năm 2011, có tới 90% số này báo lỗ.

Theo Tổng Cục thuế, tính tới năm 2009, tỷ lệ doanh nghiệp FDI lỗ liên tục 3 năm lên tới 56%. Phần đóng góp của các doanh nghiệp FDI giảm tới 11,2% so với kế hoạch trong khi khu vực tư nhân trong nước chỉ giảm 4,4%, còn doanh nghiệp Nhà nước tăng 6,2%. Ngay tại trung tâm vốn hưng thịnh nhất cả nước về kinh tế như thành phố Hồ Chí Minh, cũng có tỷ lệ gần 60% doanh nghiệp FDI lỗ hàng năm. Tại tỉnh Bình Dương, cũng có đến 50% doanh nghiệp FDI lỗ trong cả giai đoạn 5 năm 2006-2010, riêng năm 2010, có tới 200 công ty FDI bị âm cả vào vốn chủ sở hữu.Tại Đồng Nai, tỷ lệ lỗ này cũng quá bán, tới 52,2%.

Điều trái ngược là, các doanh nghiệp FDI kinh doanh thua lỗ hầu hết là làm ăn trong những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, tưởng như phải rất hấp dẫn về lợi nhuận như may mặc, da giày, chè, công nghiệp chế biến.

Tổng Cục thuế cũng chỉ ra những dấu hiệu khác thường về kết quả kinh doanh này. Đơn cử như ở lĩnh vực may mặc, trong khi hầu hết các doanh nghiệp ngành này trên cả nước đều phát đạt, làm ăn có lãi thì riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, lại có 90% doanh nghiệp FDI kêu lỗ. Và dù có lợi nhuận âm song số các doanh nghiệp này vẫn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất như bình thường. Tổng cục thuế đã thừa nhận, hoạt động chuyển giá đang ngày càng phổ biến, tinh vi và đa dạng, trở thành một thách thức lớn cho ngành thuế Việt Nam.

Tuy vậy, phải tới năm 2010, vấn đề chuyển giá này mới bắt đầu được chú trọng bằng các cuộc thanh kiểm tra dồn dập. Năm 2011, thanh tra 921 doanh nghiệp FDI lỗ, cơ quan thuế cũng đã giảm lỗ được 6.617 tỷ đồng, tăng 3,5 lần so với năm trước, truy thu thuế và phạt 1.669 tỷ đồng, gấp 4 lần so với năm trước. Đây là con số quá khiêm tốn so với hàng trăm doanh nghiệp đã trốn thuế hàng năm, hưởng thụ nhiều ưu đãi của Chính phủ Việt Nam để rồi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.

Hiện, có hơn 13.500 DN FDI mà hơn một nửa là lỗ và nợ thuế. Chúng tôi vào tiếp cận một doanh nghiệp thôi thì thấy vô cùng khó khăn. Bộ Tài chính và cơ quan liên quan đã họp rất nhiều lần về vấn đề này, rồi lập ra đề cương, kế hoạch hành động nhưng khi tiếp cận vấn đề thực tế thì không hề đơn giản.

Chuyển giá của FDI giống như chuyện mà ai cũng biết, cũng thấy, cũng rõ như ban ngày, nhưng với quân số, kỹ năng, kinh nghiệm của cán bộ rồi khung pháp lý Việt Nam  hiện nay, xem ra lại là bài toán hóc búa, lực bất tòng tâm. Khi nhận định một doanh nghiệp cụ thể, muốn kết tội, phải có bằng chứng cụ thể. Tìm được bằng chứng lại là việc không đơn giản. Khi có hành vi gian lận thì họ rất tinh vi. Ngay cả những cơ quan chuyên môn có nghiệp vụ như thuế cũng còn phải thừa nhận là vấn đề rất khó, không đơn giản.

PHẦN 4: TÍN DỤNG QUỐC TẾ

I. Đánh giá nợ nước ngoài của Việt Nam

Theo tin từ Bộ Tài chính, tính đến ngày 31-12-2011, nợ nước ngoài của Việt Nam ước tính ở mức khoảng 1.042 nghìn tỷ đồng (khoảng 50 tỷ USD), bằng 41,5% GDP năm 2011, nằm trong phạm vi giới hạn an toàn theo Nghị quyết của Quốc hội (kiểm soát dư nợ công đến năm 2015 dưới 65% GDP, nợ Chính phủ, nợ quốc gia dưới 50% GDP).

Theo đánh giá của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF, Việt Nam là nước có mức nợ nằm trong tầm kiểm soát và không nằm trong nhóm các nước có gánh nặng về nợ (HIPCs)

Xét về khía cạnh bền vững, Bộ Tài chính khẳng định trong cơ cấu nợ của Việt Nam thì nợ vay dài hạn, lãi suất ưu đãi là chủ yếu (vay ODA chiếm 75% tổng số nợ, điển hình là khoản vay của Ngân hàng Thế giới có thời hạn 40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn, mức lãi suất là 0,75%/năm, khoản vay của ADB có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn, lãi suất 1%/năm, các khoản vay của Nhật Bản có thời hạn 30 năm, 10 năm ân hạn và mức lãi suất khoảng từ 1-2%/năm).

Hiện nay, các khoản nợ đến hạn cả trong nước và nước ngoài đều được thanh toán đầy đủ, không có nợ xấu. Cơ cấu huy động vốn vay trong và ngoài nước đã có sự thay đổi theo hướng tỷ trọng nợ nước ngoài giảm và tỷ trọng nợ trong nước tăng lên (là xu hướng chuyển đổi cơ cấu vay nợ nước ngoài sang vay nợ trong nước của các nước đang phát triển, nhằm giảm dần sự phụ thuộc vào nợ nước ngoài của quốc gia) đây là chỉ tiêu an toàn. So với các nước đang phát triển có cùng hệ số tín nhiệm BB, chỉ số nợ của Việt Nam ở mức trung bình.

II. Đánh giá nợ công Việt Nam

1. Quy mô nợ tăng nhanh vượt dự báo

Theo Bộ Tài chính, đến 31/12/2009, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam (gồm nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ do Chính phủ bảo lãnh) là 27,929 tỷ USD, tương đương với khoảng 479,5 nghìn tỷ đồng; trong đó, nợ nước ngoài của Chính phủ là trên 23,9 tỷ USD. Đến 31/12/2010, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam lên tới hơn 32,5 tỷ USD, chiếm 42,2% GDP (so với mức 38,8% GDP mà Chính phủ dự kiến hồi cuối năm 2010) và tăng 4,6 tỷ USD so năm 2009, đạt mức nợ cao nhất kể từ năm 2005; trong đó, 62% là nợ nước ngoài của Chính phủ, 38% là nợ nước ngoài của doanh nghiệp. Đối với nợ của Chính phủ, 93% nợ là vốn ODA và nợ ưu đãi (trong đó 74% là vốn ODA). Đây là các khoản nợ dài hạn và có lãi suất thấp,chủ yếu có lãi suất cố định từ 1 - 2,99%/năm.

Tính đến 31/12/2010, tỷ lệ nợ Chính phủ là 45,7% GDP, nợ nước ngoài là 42,2%, nợ công là 57,3%. Trong kế hoạch trình Quốc hội, ước đến 31/12/2011, nợ công là 54,6%, đến 31/12/2012 là 58,4% GDP. Chỉ số này được tính trên cơ sở dự kiến kịch bản tăng trưởng 6%, nếu như kịch bản tăng trưởng đạt được mức 6,5%, tỷ lệ nợ công sẽ thấp hơn đáng kể.

Về phương pháp tính cũng có khác nhau, các nước phát triển tính tỷ lệ theo giá trị đồng tiền, Việt Nam tính theo phương pháp giá trị danh nghĩa. Nếu quy theo giá trị đồng tiền, tỷ lệ nợ công của Việt Nam còn thấp hơn. Tuy vậy, Chính phủ cũng tính toán cơ cấu này đã và sẽ có thay đổi khi mà khoản ODA và ưu đãi đang trả dần, khoản vay thương mại đang có xu hướng tăng lên vì Việt Nam đã được đưa vào danh sách là nước có thu nhập trung bình.

Ngày 8/11/2011, Quốc hội đã thông qua nâng trần Nợ công của Việt Nam đến 2015 không quá 65% GDP, dư nợ của Chính phủ không quá 50% GDP và dư nợ quốc gia không quá 50% GDP (so với mức đề nghị của Chính phủ là nợ quốc gia không quá 50%, nợ Chính phủ không quá 53%, nợ công khoảng 60-65% GDP).

2. Điều kiện nợ ngày càng ngặt nghèo hơn

Về cơ cấu nợ công, trong tổng nợ công của Việt Nam, nợ ODA chiếm 75%, vay ưu đãi khác 19%, vay thương mại chỉ 7%. Vay ODA có thời gian rất dài và lãi suất ưu đãi. Khi so với các nước cần chú ý cơ cấu này, nhất là đối với những nước đang phát triển và các nước đã thoát khỏi ngưỡng nghèo, tỷ trọng nợ công phần vay thương mại chiếm rất nhiều.

Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số có lãi suất thấp, trong tổng nợ cuối năm 2009 thì  vay ODA chiếm tỷ trọng 74,67%, vay ưu đãi chiếm 5,41%, vay thương mại 19,92%...

Sang năm 2010, vay nợ với lãi suất thấp 1 - 2,99%/năm chiếm khoảng 65,5% tổng dư nợ. Đặc biệt, các khoản vay có lãi suất cao từ 6 - 10%/ năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỷ USD, gấp hơn 2 lần năm 2009. Hiện các chủ nợ chính của Việt Nam vẫn là Nhật Bản, Pháp, ADB, WB... Các chủ nợ này đã nâng lượng nắm giữ trái phiếu Chính phủ Việt Nam lên hơn 2 tỷ USD trong năm 2010 (so với con số hơn 1 tỷ USD của năm 2009).

Lãi suất vay nợ của Việt Nam đang có xu hướng tăng lên cả do Việt Nam đã bị giảm mức nhận ưu đãi vì gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình, cũng như do ít nhiều giảm cả mức tín nhiệm quốc gia (theo một vài đánh giá cá biệt là từ BB+ xuống BB) vì những e ngại bất ổn của kinh tế vĩ mô và sự kiện Vinashin...

3. Dịch vụ nợ tăng nhanh, hệ số an toàn nợ giảm

Theo Bộ Tài chính, dịch vụ nợ nước ngoài của Việt Nam trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD, trong đó riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD, tăng gần 30% so với con số 1,29 tỷ USD của năm 2009...

Nợ nước ngoài của Việt Nam hiện tương đương 50 tỉ USD, lớn gấp 3 lần so với dự trữ ngoại hối (khoảng 14-15 tỉ USD). Năm 2011, dự kiến trả nợ 86.000 tỉ đồng, chiếm 12,5% tổng  thu NSNN; năm 2012 sẽ phải trả 100.000 tỉ đồng, chiếm 13,5% tổng thu NSNN.

Hiện nay tổng số dịch vụ nợ (trả nợ cả gốc và lãi) của Chính phủ chiếm khoảng 14% - 16% tổng ngân sách nhà nước. Trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, mức dịch vụ nợ an toàn là không quá 30% tổng thu ngân sách.

Đặc biệt, theo cảnh bảo của Bộ Tài chính, dự trữ ngoại hối của Việt Nam trong năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, giảm mạnh so với con số 290% và 2.808% của các năm 2009 và 2008; trong khi mức khuyến nghị của Ngân hàng thế giới WB là trên 200%.

Cần nhấn mạnh rằng, việc mua vào thêm 4-7 tỷ USD trong những tháng đầu năm 2011 ít nhiều đã cải thiện tỷ lệ an toàn nợ/dự trữ ngoại hối của Việt Nam. Song, việc mua vào này không phải là giải pháp bền vững xét dưới góc độ chống lạm phát tiền tệ, vì nó dễ trở thành nguồn xung lực làm tăng lạm phát tiền tệ ở nước ta, nhất là khi chậm thu hồi các khoản tiền đã chi thông qua bán trái phiếu Chính phủ .

Ngoài ra, cần thấy rằng khả năng trả nợ từ nguồn thu NSNN đang và sẽ có thể gặp căng thẳng trong bối cảnh mà, khác với thông lệ hằng năm đều vượt thu. Trong khi đó, theo Bộ KH&ĐT, với khu vực kinh tế tư nhân trong nước thì số doanh nghiệp giải thể, phá sản và dừng hoạt động không nộp thuế đã xấp sỉ con số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong năm 2011.

III. Thỏa thuận liên ngân hàng Basel

1. Tìm hiểu về Basel 1

Năm 1974, Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng được thành lập nhằm tìm cách ngăn chặn sự sụp đổ hàng loạt của các ngân hàng vào thập kỷ 80. Mặc dù vậy, mãi đến năm 1988, Uỷ ban Basel mới giới thiệu hệ thống đo lường vốn mà thường được đề cập là hiệp ước Basel 1.

- Thành công

+ Hệ thống này cung cấp khung đo lường rủi ro tín dụng với tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu 8%. Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt nhất là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn trầm trọng khi CAR < 2%.

+ Basel 1 là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế về các loại vốn của ngân hàng. Theo đó, vốn của các ngân hàng được chia thành 3 loại:

- Vốn cấp 1: là vốn sẵn có chắc chắn và các khoản dự phòng được công bố gồm: vốn chủ sở hữu vĩnh viễn (vốn điều lệ hoặc vốn cổ phần phổ thông), vốn dự trữ đã công bố (lợi nhuận không chia); lợi ích thiểu số tại các công ty con có hợp nhất báo cáo tài chính; lợi thế kinh doanh.

- Vốn cấp 2: là nguồn vốn bổ sung có độ tin cậy thấp hơn như: vốn tăng do đánh giá lại tài sản, các khoản dự phòng tổn thất chung, vốn bổ sung từ các công cụ nợ hỗn hợp (trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp), đầu tư tài chính vào các công ty con và các tổ chức tài chính khác.

- Vốn cấp 3: là các khoản vay ngắn hạn.

Rõ ràng, khả năng chủ động trong việc sử dụng các nguồn vốn nói trên để ứng phó với rủi ro giảm dần từ vốn cấp 1 đến vốn cấp 3, trong đó, độ tin cậy của vốn cấp 3 với việc ứng phó rủi ro là thấp nhất.

- Hạn chế

+ Về hệ số rủi ro của tài sản, Basel 1 đưa ra 4 mức rủi ro cho các loại tài sản là 0%, 20%, 50% và 100% tương ứng với các khoản cho vay chính phủ, ngân hàng hay doanh nghiệp. Với quy định như vậy, có thể thấy Basel 1 đo lường rủi ro một cách cào bằng và khá sơ sài vì tỷ lệ rủi ro này không phụ thuộc vào quy mô vốn vay, hệ số tín nhiệm của khách hàng vay...

+ Basel 1 chỉ tập trung vào một giải pháp quản lý rủi ro duy nhất là “yêu cầu vốn tối thiểu” mà không chú ý đến các biện pháp quản lý rủi ro khác, đặc biệt là chưa đề cập gì đến rủi ro tác nghiệp (rủi ro hoạt động).

2. Tìm hiểu về Basel 2

Quý 4/2003, phiên bản mới của hiệp ước Basel 1 đã được hoàn thiện (gọi là Basel 2) có hiệu lực từ tháng 1/2007 và kết thúc thời gian chuyển đổi đến năm 2010. Những điểm mới của Basel 2 so với Basel 1 là:

- Ngoài các mục tiêu của Basel 1, Basel 2 nhấn mạnh hơn vào việc đẩy mạnh thực thi các thông lệ được thiết lập nghiêm ngặt hơn trong lĩnh vực quản lý rủi ro, đặc biệt hướng nhiều hơn vào việc giám sát, kiểm soát và công bố thông tin, các số liệu nội bộ.

- Basel 2 dựa trên 3 trụ cột chính, trong đó, trụ cột thứ nhất liên quan đến việc duy trì vốn bắt buộc, trụ cột thứ 2 và thứ 3 liên quan đến quy trình đánh giá hoạt động thanh tra, giám sát và công bố thông tin

- Trụ cột thứ nhất

+ Việc xác định hệ số rủi ro của tài sản có sự thay đổi: Basel 1 quy định hệ số rủi ro từ 0% - 100% và ưu đãi hơn với các nước thuộc OECD, Basel 2 quy định hệ số rủi ro từ 0% - 150% và không còn đặc quyền nào với các nước OECD.

+ Hệ số rủi ro không áp dụng cứng nhắc như quy định của Basel 1 mà được chi tiết theo độ nhạy cảm rủi ro trong mỗi loại và phụ thuộc vào hệ số tín nhiệm của các đối tượng.

+ Theo Basel 2, mẫu số của công thức tính hệ số an toàn vốn CAR sẽ bao gồm 2 phần: tổng tài sản đã điều chỉnh theo hệ số rủi ro tín dụng cộng với 12,5 lần tổng vốn quy định cho dự phòng rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. Điều đó có nghĩa là ngân hàng đó phải cần nhiều vốn tự có hơn để thoả mãn tỷ lệ tối thiểu 8%.

- Trụ cột thứ 2 và thứ 3

+ Tuy không trực tiếp tác động đến việc tuân thủ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu song những quy định này đòi hỏi sự công khai, minh bạch, nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế. Vì vậy, các quy định này có ảnh hưởng gián tiếp đến việc phân loại tài sản, phân loại vốn, tỷ lệ rủi ro và đặc biệt là các chuẩn mực kế toán liên quan đến các khoản mục vốn và tài sản trên bảng cân đối cũng như các tài khoản ngoại bảng.

+ Các quy định này trước hết sẽ ảnh hưởng đến việc xác định các khoản mục và cách tính hệ số an toàn vốn của các ngân hàng thuộc các quốc gia là thành viên của WTO. Vì thế, việc đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel 2 về an toàn vốn tối thiểu cũng hoàn toàn không đơn giản.

3. Tìm hiểu về Basel 3

Trước những diễn biến phức tạp của khủng hoảng tài chính toàn cầu và hệ lụy lâu dài của chúng đối với hệ thống tài chính - ngân hàng toàn thế giới, Uỷ ban Basel một lần nữa lại dự thảo và thông qua phiên bản thứ 3 (Basel 3) về các tiêu chuẩn an toàn vốn tối thiểu. Các tiêu chuẩn của Basel 3 bắt đầu có hiệu lực từ năm 2013, được thực hiện theo một lộ trình đến hết năm 2018 và sẽ thực hiện đầy đủ vào ngày 1/1/2019.

Nội dung bao trùm là:

-

 

Nâng tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu (cổ phần phổ thông) từ 2% lên 4,5%.

- Nâng tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu từ 4% lên 6%.

- Bổ sung phần vốn đệm dự phòng tài chính đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu 2,5%.

- Tùy theo bối cảnh của mỗi quốc gia, một tỷ lệ vốn đệm phòng ngừa sự suy giảm theo chu kỳ kinh tế có thể được thiết lập với tỷ lệ từ 0 - 2,5% và phải được đảm bảo bằng vốn chủ sở hữu phổ thông (common equity). Phần vốn dự phòng này chỉ đòi hỏi trong trường hợp có sự tăng trưởng tín dụng nóng, nguy cơ dẫn đến rủi ro cao trong hoạt động tín dụng một cách có hệ thống.

Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển an toàn và vững chắc của hệ thống tài chính ngân hàng ở nước ta, hướng đến việc tuân thủ các chuẩn mực của Basel 3 trên cơ sở chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế, cần thiết thực hiện một số giải pháp sau:

+ Khảo sát toàn diện về khả năng tuân thủ các tiêu chuẩn của Basel 2, cao hơn nữa là Basel 3 nói chung và khả năng tuân thủ tiêu chuẩn an toàn vốn nói riêng theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế.

+ Tổng rà soát tiêu chuẩn đáp ứng vốn chủ sở hữu phổ thông theo thông lệ quốc tế trên cơ sở loại trừ các khoản vốn không đủ tiêu chuẩn và có biện pháp xử lý theo lộ trình của Basel 3 để đảm bảo sự phù hợp.

+ Tính đến khả năng có một tỷ lệ vốn dự phòng chống hiệu ứng chu kỳ kinh tế thích hợp với điều kiện của nền kinh tế nước ta nhằm chủ động đối phó với những diễn biến xấu từ nội tại nền kinh tế và từ những biến động ngoại lai.

PHẦN 5: VIỆN TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC

I. Đánh giá về quản lý sử dụng ODA từ năm 1993 đến năm 2011

a) Thành công

Thứ nhất, Việt Nam vẫn giữ được độc lập, tự chủ trong việc hoạch định và thực thi các chính sách cải cách theo lộ trình của mình, kể cả khi nhà tài trợ đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện các cam kết cải cách trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cổ phần hóa, tư nhân hóa,....Mặc dù trong cơ cấu viện trợ, vốn vay ODA ưu đãi chiếm khoảng 80% song Việt Nam vẫn được các định chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá nợ nước ngoài hiện ở trong ranh giới an toàn.

Thứ hai, mặc dù chiếm tỷ trọng không lớn trong GDP của Việt Nam, song ODA là nguồn vốn bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội của Chính phủ và là chất xúc tác cho các nguồn vốn đầu tư khác như vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư của khu vực tư nhân,....

Thứ ba, ODA có vai trò quan trọng hỗ trợ Việt Nam xây dựng và hoàn thiện khung thể chế, pháp lý (xây dựng và hoàn thiện các Luật, các văn bản dưới Luật) thông qua việc cung cấp chuyên gia quốc tế, những kinh nghiệm và tập quán tốt của quốc tế và khu vực trong lĩnh vực pháp luật đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Thứ tư, nguồn vốn ODA có vai trò tích cực hỗ trợ phát triển năng lực con người trong việc đào tạo và đào tạo lại hàng vạn cán bộ Việt Nam trong thời gian qua trên rất nhiều lĩnh vực như nghiên cứu cơ bản và ứng dụng khoa học, công nghệ, quản lý kinh tế và xã hội, thông qua việc cung cấp học bổng nhà nước, cử chuyên gia nước ngoài để đào tạo tại chỗ trong quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cung cấp trang thiết bị nghiên cứu và triển khai,...

b) Hạn chế

Thứ nhất, hệ thống văn bản pháp quy trong nước, đặc biệt giữa ODA và đầu tư công, chưa đồng bộ;

Thứ hai, quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và các nhà tài trợ còn thiếu hài hòa, năng lực cán bộ quản lý và sử dụng ODA ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng;

Thứ ba, công tác theo dõi và đánh giá các chương trình và dự án ODA trong bối cảnh phân cấp chưa được các Bộ, ngành và địa phương quan tâm đúng mức. Đây cũng là những nguyên nhân chủ yếu làm cho một số chương trình và dự án ODA chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.

II. Tình hình quản lý sử dụng ODA từ năm 2011 đến nay

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư

+ khẩn trương thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về tiến độ trình Chính phủ dự thảo sửa đổi Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 9/11/2006 của Chính phủ về quản lý và sử dụng ODA và dự thảo các thông tư hướng dẫn kèm theo

+ phối hợp với các nhà tài trợ và các cơ quan liên quan tổ chức các cuộc họp kiểm điểm tình hình thực hiện các chương trình, dự án ODA có nhiều vướng mắc, khó khăn, giải ngân chậm, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp cụ thể đối với từng dự án để tháo gỡ và đẩy nhanh tiến độ triển khai, thực hiện.

Đồng thời, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

+ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 6/2012 về việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của Tổ công tác ODA của Chính phủ.

+ trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc ban hành Hướng dẫn về phân bổ, quản lý, thực hiện và giám sát việc giải ngân vốn đối ứng cấp phát từ ngân sách cho các chương trình dự án ODA, vay vốn ưu đãi, trong đó có chính sách ưu tiên đối với từng ngành, lĩnh vực và địa bàn khó khăn theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 

8520/VPCP-QHQT

 ngày 30/11/2011.

Theo Đề án "Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, có 8 ngành và lĩnh vực ưu tiên thu hút và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ trong thời kỳ 2011 - 2015 gồm:

1- Hỗ trợ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện đại;

2- Hỗ trợ phát triển kết cấu hạ tầng xã hội;

3- Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức;

4- Phát triển nông nghiệp và nông thôn;

5- Hỗ trợ xây dựng hệ thống luật pháp và thể chế đồng bộ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;

6- Hỗ trợ bảo vệ môi trường và các nguồn tài nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh;

7- Hỗ trợ thúc đẩy đầu tư, thương mại và một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh;

8- Hỗ trợ theo địa bàn lãnh thổ.

Nguồn vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ giai đoạn 2011 - 2015 được dự kiến vốn cam kết khoảng 32 - 34 tỷ USD, vốn giải ngân khoảng 14 - 16 tỷ USD (tương đương khoảng 6% tổng đầu tư xã hội), trong đó khoảng 50% vốn giải ngân từ các chương trình và dự án ký kết trong giai đoạn 2006 - 2010 chuyển sang. Như vậy, bình quân hàng năm trong thời kỳ 2011 - 2015 vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân sẽ đạt khoảng 2,8 - 3,2 tỷ USD.

Hiên nay có rất nhiều các dự án, ở nhiều ngành, lĩnh vực khác đã kết thúc hoặc đang triển khai sử dụng nguồn vốn ODA. Tính đến cuối nay những dự án sử dụng vốn ODA sau sẽ hoàn thành

Bảng danh mục dự án kết thúc năm 2012

Đơn vị: Triệu đồng

Tên dự án

Nhà tài trợ

Ngày kết thúc

Tổng Vốn

Vốn ODA

ODA vốn vay

ODA không hoàn lại

Vốn đối ứng

Phát triển giáo viênTHPT+TCCN

ADB

31/12/2012

690,976

544,000

544,000

146,976

Tiểu dự án Nam Thạch Hãn, Quảng Trị - Dự án thủy lợi miền Trung

ADB

30/06/2012

344,444

278,665

278,665

0

65,779

Nâng cấp đô thị thành phố Cần Thơ

WB

31/12/2012

598,730

427,235

411,476

15,759

171,495

Phân cấp giảm nghèo tỉnh Hà Giang

IFAD

31/03/2012

322,651

249,597

205,969

43,628

73,055

Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 1

ADB

31/12/2012

33,614,496

28,572,622

28,572,622

0

5,041,873

Khôi phục các cầu trên QL1

JICA

15/09/2012

1,044,119

822,671

822,671

0

221,448

Phát triển đô thị vừa và nhỏ miền Trung ADB VIE

ADB

01/06/2012

285,654

227,855

227,855

0

57,798

Tăng cường mạng lưới phản hồi ý kiến cho chính sách phát triển nông thôn tại Việt Nam

IFAD

31/12/2012

3,600

3,600

0

3,600

0

Ký sinh trùng gây bệnh có nguồn gốc Thủy sản

DANIDA

31/05/2012

25,500

25,500

0

25,500

0

Cải thiện sự tham gia thị trường cho người nghèo tỉnh Trà Vinh

IFAD

31/12/2012

253,139

211,539

208,334

3,205

41,600

Chương trình lồng ghép dinh dưỡng và an ninh lương thực cho trẻ em và nhóm nguy cơ cao tại Việt Nam

FAO

31/12/2012

67,450

66,500

66,500

950

Phát triển đô thị vừa và nhỏ Miền trung, tiểu dự án tỉnh Đăk Nông

ADB

30/06/2012

253,615

202,198

202,198

51,417

Cấp nước thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

KOICA

30/12/2012

120,193

80,875

80,875

39,318

Nguồn: nmt.mpi.gov.vn

PHẦN 6: CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ

I. Tìm hiểu tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam

1. Thực trạng thâm hụt cán cân vãng lai từ năm 2009 đến năm 2011

Năm 2011 cán cân thanh toán tổng thể của Việt Nam ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể là sau hai năm liên tục thâm hụt, năm 2009 thâm hụt 8,9 tỷ USD, năm 2010 thâm hụt 1,6 tỷ USD, năm 2011 thặng dư 1,6 tỷ USD. Tuy nhiên cán cân vãng lai liên tục thâm hụt. Cụ thể, năm 2009 thâm hụt 6,0 tỷ USD, năm 2010 thâm hụt 4,2 tỷ USD, năm 2011 thâm hụt 3 tỷ USD.

Trạng thái cán cân vãng lai của Việt Nam chịu tác động chủ yếu từ trạng thái cán cân thương mại do các giao dịch về hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu và chi của tài khoản vãng lai.

Trong khi đó, cán cân chuyển giao vốn vãng lai ròng (bao gồm viện trợ và kiều hối) có tác động tích cực đến cán cân vãng lai.

Trong những năm gần đây, diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu tác động quá nhanh và mạnh mẽ từ việc gia nhập WTO. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng khá nhanh nhưng vẫn không sánh kịp với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu khi rào cản thuế quan dần dần được xóa bỏ, đã làm hàng hóa nước ngoài tràn vào Việt Nam trong khi để tăng tốc độ xuất khẩu không phải là việc đơn giản mà đòi hỏi phải có thời gian lâu dài. Sự gia tăng nhập khẩu tác nhân của nhiều nguyên nhân khác, như nhu cầu của kinh tế,...

Trong năm 2010, năm thị trường xuất khẩu chính là Mỹ, EU, ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc đã chiếm tới 71% tổng khối lượng hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Các mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào thị trường Mỹ là giầy dép, hàng dệt may và các sản phẩm về gỗ; vào EU là giầy dép, hàng dệt may và hải sản; vào ASEAN là dầu thô và gạo; vào Nhật Bản là dầu thô; vào Trung Quốc là cao su.  

Thị trường nhập khẩu của Việt Nam cũng tập trung cao ở các thị trường chính như ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản. Các thị trường này chiếm tới 65% tổng kim ngạch nhập khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ các nước ASEAN là xăng dầu các loại, máy móc thiết bị phụ tùng, máy vi tính và linh kiện, chất dẻo nguyên liệu; từ Trung Quốc là máy móc thiết bị phụ tùng, sắt thép và vải; từ Hàn Quốc và Nhật Bản là máy móc thiết bị phụ tùng, sắt thép.

Tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai được bù đắp đáng kể bởi nguồn thu nhập từ chuyển giao vốn vãng lai (viện trợ và kiều hối) và các giao dịch kinh tế khác thuộc cán cân vốn và tài chính. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam và các dòng vốn chảy vào Việt Nam đóng vai trò quan trọng để bù đắp thiếu hụt của cán cân vãng lai trong thời gian qua. Tuy nhiên, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, lượng kiều hối chuyển về nước có phần giảm sút mạnh thời gian qua tạo nên sức ép thâm hụt đối với cán cân vãng lai cũng như cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, đầu tư gián tiếp và vay nợ nước ngoài dài hạn, ổn định cũng là những hình thức được sử dụng để bù đắp cho sự thiếu hụt cán cân thương mại, cán cân vãng lai và có vai trò quyết định đến khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai trong thời gian qua. Đặc biệt là vai trò của nguồn vốn hỗ trợ chính thức ODA và FDI trong việc bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai và cải thiện dự trữ ngoại hối.

2. Nguyên nhân thâm hụt cán cân vãng lai

Thứ nhất, với chính sách tỷ giá được coi là “cố định linh hoạt” của Việt Nam gắn với USD, diễn biến tỷ giá một số thời điểm chưa theo kịp với thực tế của thị trường trong điều kiện chính sách tiền tệ nới lỏng, tỷ giá hầu như cố định đã góp phần làm giảm kim ngạch xuất khẩu, tăng kim ngạch nhập khẩu. Thực tế này một phần lý giải tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam trong thời gian qua trở nên lớn hơn.

Thứ hai, kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn đầu tư trực tiếp FDI chảy vào Việt Nam, đặc biệt là các dự án đầu tư bất động sản khi liên quan đến nhập khẩu mà không tạo ra giá trị gia tăng xuất khẩu trực tiếp, cũng đã góp phần làm cho tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai, cán cân thương mại trở nên nghiêm trọng trong thời gian qua.

Thứ ba, thâm hụt ngân sách cao cộng với nợ công (và nợ công có bảo đảm) tăng lên 45% so với GDP là minh chứng cho sự thâm hụt cán cân vãng lai ngày càng gia tăng của Việt Nam.

3. Quan hệ giữa thâm hụt cán cân vãng lai và lãi suất trên thị trường tiền tệ

3.1. Thâm hụt cán cân vãng lai mở rộng làm tăng lãi suất trong nước

Một trong những biện pháp để thu hút dòng vốn từ nước ngoài là tăng lãi suất trong nước. Quy luật ngang bằng lãi suất và sự chu chuyển tự do của các dòng vốn khuyến khích các dòng vốn chảy từ nơi có lãi suất thấp đến nơi có lãi suất cao. Do đó, mục đích thu hút vốn từ nước ngoài đã thúc đẩy lãi suất trong nước gia tăng. Bên cạnh đó, do nguồn vốn từ trong nước bị thiếu hụt cũng kích thích các chủ thể trong nước cạnh tranh để có thể tiếp cận được nhiều vốn hơn. Từ đó, tạo thành những động lực làm tăng cầu tiền và làm tăng lãi suất trong nước.

Khi CA mang dấu “-” (cán cân vãng lai thâm hụt) thì có nghĩa là tài sản có nước ngoài ròng của kỳ hiện tại ít hơn tài sản có nước ngoài ròng của kỳ trước đó. Sự suy giảm của tài sản có nước ngoài ròng sẽ làm giảm tổng phương tiện thanh toán (tổng phương tiện thanh toán = tài sản có nước ngoài ròng + tài sản có trong nước ròng), và do đó, thúc đẩy lãi suất tăng lên.

3.2. Lãi suất trong nước cao thúc đẩy gia tăng thâm hụt cán cân vãng lai

Theo lý thuyết ngang giá về lãi suất, đồng tiền của một quốc gia nào đó có lãi suất thấp hơn thì nhất định sẽ hình thành các khoản bù kỳ hạn cho hợp đồng kỳ hạn đối với đồng tiền của một quốc gia có lãi suất cao hơn. Hiệu ứng Fisher quốc tế lại chú trọng đến việc tỷ giá giao ngay của một đồng tiền sẽ thay đổi theo thời gian, khẳng định rằng tỷ giá giao ngay sẽ thay đổi theo chênh lệch lãi suất giữa hai nước.

Chính sách lãi suất cao có xu hướng hỗ trợ sự lên giá của nội tệ, bởi vì nó hấp dẫn các luồng vốn nước ngoài chảy vào trong nước. Nếu lãi suất trong nước cao hơn so với lãi suất nước ngoài sẽ dẫn đến những dòng vốn chảy vào. Điều này làm cho tăng cung ngoại tệ trên thị trường (cũng có nghĩa làm tăng cầu đối với đồng nội tệ), từ đó đồng ngoại tệ sẽ có xu hướng giảm giá trên thị trường, hay đồng nội tệ sẽ tăng giá. Trong trường hợp ngược lại, nếu lãi suất nội tệ thấp hơn so với lãi suất ngoại tệ, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá hay đồng nội tệ sẽ giảm giá.

Như vậy, chính sách lãi suất cao sẽ thúc đẩy đồng nội tệ tăng giá, khi đó sẽ kích thích nhập khẩu và làm giảm xuất khẩu, hay làm gia tăng thâm hụt cán cân thương mại và cán cân vãng lai. Ngược lại khi lãi suất thấp, đồng ngoại tệ có xu hướng tăng giá, tức là tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước và thúc đẩy thu hẹp thâm hụt cán cân thương mại, làm giảm thâm hụt cán cân vãng lai.

II. Tác động của FDI đến cán cân thanh toán của Việt Nam

1. Các nhân tố tích cực của vốn FDI

Dòng tiền FDI tăng giúp làm bội thu cán cân thanh toán tài khoản vốn. Tuy nhiên, so với các nước Đông Nam Á thì thu hút vốn FDI của Việt Nam chỉ đứng thức 4 sau Singapore (22,7 tỷ USD), Thái Lan (10,1 tỷ USD), Malaysia (8,1 tỷ USD); xu hướng dòng vốn FDI không tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến và nông nghiệp, mà tập trung vào các ngành bất động sản, khách sạn, nhà hàng (chiếm 63%) nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao. Sự dịch chuyển dòng vốn FDI như vậy cần được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ đi kèm với FDI và năng lực xuất khẩu trong tương lai.

2. Các nhân tố tiêu cực của vốn FDI

a) Tác động thông qua cán cân thương mại

Tỷ trọng xuất khẩu của khối đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao nếu trừ nguồn xuất khẩu dầu thô thì cán cân thương mại của khối đầu tư nước ngoài luôn thặng dư, còn tình hình cán cân thương mại của khối đầu tư trong nước

luôn thâm hụt.

Xu hướng tăng cán cân thương mại của khối đầu tư nước ngoài đặc biệt đối với các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã "chèn lấn" các doanh nghiệp trongnước bằng cách thực hiện các thương vụ sáp nhập và thôn tính (M&A) các doanh nghiệp trong nước nhằm độc chiếm lợi nhuận. Với tỷ trọng xuất khẩu cao của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có làm thúc đẩy tăng trưởng GDP trong nước, nhưng khi có biến động của nền kinh tế thì sự thoái lui của khối này sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của quốc gia; cuối cùng, về lâu dài các quốc gia chủ yếu phải dựa vào khối đầu tư trong nước để phát triển. Nên chính sách thu hút đầu tư trong nước và thúc đẩy hình thành các công ty đa quốc gia mạnh từ trong nước là chiến lược phát triển lâu dài của quốc gia.

b) Tác động thông qua chuyển lợi nhuận đầu tư ra nước ngoài

Khoản lợi tức từ trái phiếu ngoại tệ của chính phủ Việt Nam khoảng 3% đến 4%, của trái phiếu chính phủ Mỹ khoảng 2,5% đến 3%. Nhưng lợi nhuận từ FDI rất cao, tại Trung Quốc khoảng 13% đến 14%, tại các nước nghèo Châu Phi là 24% đến 30%, tại Việt Nam lợi nhuận của FDI không thấp hơn 15%.

Biện pháp để giảm tác động của các khoản lợi nhuận từ đầu tư chuyển ra nước ngoài, chính phủ các nước trong đó có chính phủ Việt Nam thường thực hiện các biện pháp như:

1) Giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các khoản tái đầu tư từ lợi nhuận của FDI nhằm giảm chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, xem ra giải pháp này không công bằng đối với các doanh nghiệp đầu tư trong nước;

2) Duy trì đồng nội tệ mạnh so với USD nhằm thu hút việc tái đầu tư các lợi nhuận từ FDI của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, xem ra giải pháp này không có lợi cho xuất khẩu;

3) trợ giúp các doanh nghiệp đầu tư trong nước gia tăng xuất siêu và đầu tư ra nước ngoài, giải pháp này là tích cực nhưng đòi hỏi các chính sách của Chính phủ phải phù hợp với những qui định của WTO và tùy thuộc vào năng lực của các doanh nghiệp đầu tư trong nước.

c) Tác động do tăng chi phí mua sáng chế và bí quyết sản xuất nhằm độc quyền kỹ thuật cao

Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thường mua các sáng chế và bí quyết sản xuất để độc chiếm công nghệ, nhờ đó gia tăng lợi nhuận từ đầu tư. Thông thường, các chi phí để mua các giấp phép này đựợc tính trên doanh thu bán hàng. Doanh thu của các doanh đàu tư nước ngoài càng lớn và xuất khẩu càng nhiều thì chi phí trả ngày càng lớn. Điều này ảnh hưởng đến dòng tiền trên cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.

Để hạn chế tác động này chính phủ các nước và Việt Nam thường có các giải pháp:

1) Thu hút các FDI có hàm lượng công nghệ cao và hạn chế các loại hình đầu tư 100% vốn nước ngoài (vì các doanh nghiệp loại này muốn giữ bí mật công nghệ và không muốn chuyển giao) mà phải liên doanh với doanh nghiệp trong nước nhằm thực hiện chuyển giao công nghệ, nhưng việc phân cấp thu hút vốn ĐTNN cho cấp tỉnh đã phá vỡ chiến lược này, như thời gian vừa qua thể hiện việc thu hút vốn FDI chỉ tập trung vào các lĩnh vực bất động sản, khách sạn và nhà hàng.

2) Tập trung nghiên cứu trong nước. Giải pháp này là tích cực nhưng ngân sách của chính phủ dành cho lĩnh vực này còn rất bé chỉ là 1,5% GDP; huy động các nguồn lực ngoài Nhà nước vào lĩnh vực này cũng rất bé, vốn đầu tư nước ngoài dành cho lĩnh vực này chỉ 0.6%, còn đầu tư trong nước dành cho lĩnh vực này hầu như không đáng kể.

3) Giảm ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài và tạo sự công bằng về chính sách ưu đãi giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước những vẫn đảm bảo thu hút mạnh vốn FDI. Giải pháp này cần phải được cân nhắc và kết hợp với các giải pháp khác như tháo gỡ các "nút thắt cổ chai" hiện nay đối với việc triển khai các dự án đầu tư nước ngoài như yếu kém về thể chế, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực có kỹ năng, thì mới có khả năng thu hút mạnh vốn FDI.

4) Nâng cao tỷ lệ kinh phí nghiên cứu phát triển của doanh nghiệp đầu tư trong nước, và nâng cao năng lực của doanh nghiệp đầu tư trong nước trong việc tự chủ sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật nước ngoài. Chính phủ đã cho phép các chi phí nghiên cứu được hạch toán vào giá thành; nhưng chỉ vậy chưa đủ, cần phải có chính sách đầu tư nghiên cứu tại các viện nghiên cứu, các trường đại học và thực hiện chuyển giao công nghệ có hiệu quả các kết quả nghiên cứu đến các doanh nghiệp trong nước.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com