Chương thứ XIII. Một nhà Nữ-thi-sĩ ở Thăng-long
Chương thứ XIII. Một nhà Nữ-thi-sĩ ở Thăng-long
(Tiếp chương thứ VIII)
Hôm ấy tôi đến chơi nhà Đặng Tiểu-thư, thấy ở trong cháp cô có một quyển Quốc-âm thi-tập, xem ra thì là ba-mươi bài Cung oán. Tôi hỏi: "Ai làm những bài thơ này?" Cô nói: "Quan Tiền-ninh soạn ra đó." Tôi nói: "Cô cháu xem ra thế nào?" Tiểu-thư nói: "Thơ này từ-điệu thanh-kỳ, nhưng nhiều những khổ-tứ lắm, chưa được tài." Tôi nói: "Cô cháu nói phải, thơ quí ở ý, ý quý ở xa, để cho người ta phải nghĩ mới tới, chứ không toàn ở lời, thế mới là thượng-cách trong nghề làm thơ." Tiểu-thư nói: "Thế mà ở trong Kinh này nhiều người truyển-tả, đã tuyển vào trong Nhạc-phủ rồi. Xin bác nghĩ một bài rõ tình-tứ hơn, chớ không để họ tranh tiên ta được. Nên chăng?" Tôi cười mà rằng: "Cũng vị-tất, nói thì dễ mà làm thì khó. Cô cháu xướng trước đi rồi chú sẽ họa sau." Tiểu-thư vâng lời, xướng trước một bài. Tôi nói: "Thơ của cháu gái chú thật là hảo-tứ thiên-nhiên không hổ làm một người con nhà thi-gia." Nhưng tiếc cho cái bài của Tiểu-thư, sau rồi tôi đánh rơi mất, nên không chép vào đây. Tôi cũng họa một bài ngay bấy giờ rằng:
Sáu cung thăm-thẳm lọn ngày nhàn,
Một tiếng cầm ve nhặt lại khoan.
Mây ruổi chẳng kinh vầng nhật xế,
Xuân về thêm tiếc cánh hoa tàn.
Xiêm nghê luống vóc quên đường nhạc,
Khúc phượng ngừng tay lần dịp đàn.
Tự nghĩ Thượng-dương mai với tuyết,
Rạng còn mảng-tượng vẻ long-nhan.
Tiểu-thư nói: "Thơ của bác, ý tại ngôn-ngoại, đáng làm mô-phạm cho nhà thi-học, ngày còn thầy con, con vẫn thấy nói, ra có thế thật." Tôi nói: "Chú ngồi đây, không được trông thấy anh chú, chú cũng đủ hả cái lòng vĩnh-biệt." Tôi lại nói: "Lúc còn mồ-ma ông tiên-huynh tôi, ông chán sự thịnh-mãn muốn bỏ quan về làm ruộng, cho được ưu-du nơi toàn-thạch mà nhàn-dưỡng tuổi trời, ông có bảo chú làm mấy bài thơ, chú xin đọc để cô cháu bình-duyệt cả lại xem." Tôi mới đọc cho cô xem như sau này.
Một bài "thất-ngôn luật":
誓却爲巾履草鞋
恾攩琴劍故山來
閉門種菜英雄毛
釣月耕雲曠逸懷
酌酒池邊雙月勸
撫琴窻下百花開
騎驢毎過斜陽嶺
牧笛辰聞唱落梅.
Cởi mũ thâm ra dận dép rừa,
Gươm đàn quẩy thẳng nẻo vườn xưa.
Anh-hùng gánh nước dăm rau cỏ,
Khoáng-sĩ câu trăng cuốc gió mưa.
Mời rượu trăng lồng bên mặt nước,
Họa đàn hoa nở trước song thưa.
Chiều hôm tiếng địch chăn trâu thổi,
Văng-vẳng đầu non dạo vó lừa.
Bốn bài "ngũ-ngôn luật":
I
但得閒爲[]
何須岩壑深
易窮知損益
理會見身心
池靖看魚躍
園幽許鳥尋
客來無可說
吹笛問知音.
Được nhàn là đủ thỏa,
Bất-tất suối rừng đâu.
Tổn ích suy lời Dịch,
Tâm-thân ngẫm lẽ mầu.
Xem chim truyền trại rậm,
Thưởng cá lượn ao sâu.
Khách vào không tiếp truyện,
Thổi sáo trả lời nhau.
II
近代高明士
甘心甘淡稀
酒殘彭澤菊
局變謝安碁
往事多如是
人情更覺非
閒尋鷗鷺迹
一笑且忘機.
Gần nay các cao-sĩ,
Đều chuộng sự thanh-nhàn.
Rượu hả cúc Bành-Trạch,
Cuộc đổi cờ Tạ-An.
Thế-sự xem rưa-rứa,
Nhân-tình nghĩ dở-dang.
Vong-cơ cười khúc-khích,
Âu-lộ bãi thênh-thang.
III
凡士各有志
心閒身自榮
文章千古重
去就一身輕
酒美花前色
琴增月下聲
應知幽逸趣
能榭世間名.
Sĩ mỗi người mỗi chí,
Tâm nhàn là thân vinh.
Văn-chương thiên-cổ trọng,
Khứ-tựu nhất-thân khinh.
Rượu ngon bên cảnh đẹp,
Đàn ngọt dưới trăng thanh.
Mới hay thú u-dật,
Tránh khỏi thế-gian danh.
IV
四辰有佳景
詩酒日茫茫
梅影橫新月
蓮池遞晚凉
香來半蘭菊
藾向雜松篁
還有幽閒韻
漁歌出夕陽.
Bốn mùa chơi bốn cảnh,
Thi-tửu suốt năm dòng.
Mai nhặt-thưa gối nguyệt,
Sen man-mát giải nồng.
Ngạt-ngào hương khóm cúc,
Xoang xoảng gió cành thông.
Còn những chiều thanh-vắng,
Ngư ca tiếng não-nùng.
Tiểu-thư xem rồi nói: "Thưa bác, Bác ở trong chốn Vân-hương đã lâu, trong bụng chứa-chan những cái khí-vị yên-hà, nên phát-lộ ra được những lời thanh-dật, tốt-tươi thú-vị. Thương thay cho phụ-thân con ở dưới cửu-toàn, có biết hay không?" Bấy giờ hai chú cháu chúng tôi đang bình duyệt từng bài từng vận với nhau, chợt thấy một tên gia-đồng của tôi đến bảo có người nhà quan Vũ-hiến phó đưa một phong thư đến ở nơi nhà trọ. Tôi cho về lấy đem lại, xem ra thì là một bài thơ tặng tôi, tôi đưa cho tiểu-thư mà rằng: "Cô cháu thử xem xem." Cô xem rồi nói: "Thơ này phóng-dật mà mềm-mại, thật là một tay lão-luyện." Tôi nói: "Ông này là một người danh-nho ở Hoan-châu, thơ hay lắm. Vì có cậu tư con ông mới đỗ tân-khoa Tạo-sĩ, ông vào Kinh chơi đợi đón con về vinh-qui. Ông vốn có cựu-tình với quan Chánh-đường, mỗi bận tôi đến yết quan Chánh-đường thường cùng ông tiếp chuyện cậu Quận-hầu, bởi vậy ông gửi cho tôi bài thơ này." Tôi bảo tiểu-thư rằng: "Cái kế qui-sơn tôi vẫn nhờ Quận-hầu giúp cho mà chửa xong. Nay ta cứ nhân nguyên-vận của bài thơ này mà họa ra một bài gửi đến." Tôi bèn ngâm rằng:
何日得歸烟水村
芒鞋竹杖出都門
書懐吟破三更月
入夢辰聞萬里言.
Nước mây bao trở lại quê mình,
Gậy trúc đi ra khỏi đế-thành.
Phòng cũ năm canh ngâm-ngợi nguyệt,
Mộng thường muôn dặm thở than tình...
Tôi vừa ngâm được bốn câu thì bảo tiểu-thư rằng: "Chú bỗng sực nghĩ đến cái thú vân-yên mà nay phải lận-đận nơi nghịch-lữ thế này, thành ra không còn nghĩ được một chữ nào nữa, nhờ cháu gái chú cứ theo vận này làm nốt bốn câu nữa cho thành một bài thơ hộ chú." Tiểu-thư trước còn giữ lễ từ chối, sau mới đọc nối lên rằng:
方便濟人舟與楫
舍弘載相德維坤
啣環結尊難爲報
地久天長大義存.
Phương-tiện đưa người qua hiểm-trở,
Bao-hàm đem đức sánh Khôn-trinh.
Thiên tràng địa cửu còn ghi nghĩa,
Kết cỏ khôn đem tỏ tấc thành.
Tôi nói: "Thơ cô cháu làm lời-lẽ thật là tương-tiếp lắm." Bèn cho vào phong-bì gửi lại đệ-trình Quận-hầu xem sao.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com