Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Nguyễn Trãi

Việt Nam trải qua một dòng lịch sử vàng, đến được ngày hôm nay qua bao nhiêu đêm đấu tranh. 400 năm và bao nhiêu triều đại, mỗi triều đại dưới bàn tay của những nhân tài đều có thời kỳ hưng thịnh. Trong những nhân tài xưa ta phải nhắc đến một ngôi sao của những ngôi sao, một niềm tự hào dân tộc: Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất vào ngày 19 tháng 9 năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở thôn Chi Ngại, phường Cộng Hòa, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Nhị Khê, huyện Thường tín Hà Nội.

Nguồn gốc dòng họ Nguyễn Trãi ở làng Chi Ngại có xuất xứ từ Nguyễn Bặc - Thái tể Định quốc công triều Đinh, sau đó đến đời con cụ Tiên Nghiêm đã dời mộ tổ từ Chi Ngại sang ngôi đất ở cánh đồng Trung. Một người con ở lại Nhị Khê lập nên ba chi họ Nguyễn. Theo gia phả chi họ Nguyễn Nhị Khê (khoảng năm 1455) thì cụ tổ sinh ra Nguyễn Ứng Long (Sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh)

Nguyễn Phi Khanh được Tư đồ Trần Nguyễn Hãn mời về dạy con gái, được gả con gái cho và sinh ra Nguyễn Trãi. Không bao lâu sau bà Trần Thị Thái mất, anh em Nguyễn Trãi nương nhờ ông ngoại Trần Nguyễn Hãn. 1390, Trần Nguyên Hãn mất, Nguyễn Trãi 10 tuổi từ đó lớn lên trong vòng tay của cha.

Nguyễn Trãi từ nhỏ đã rất ham học. Nhà sử học Phan Huy Chú nhận xét: "Ông tuổi trẻ đã văn chương nổi tiếng. Kinh sử bách gia, binh thư thao lược đều am hiểu cả"

Tuổi thơ Nguyễn Trãi là một thời kỳ thanh bần nhưng ông vẫn quyết chí gắng công học tập, nổi tiếng là người học rộng, có kiến thức sâu về nhiều lĩnh vực, có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân

Năm 1440, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, thành lập nhà Hồ. Năm đó, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, đứng thứ 4, được trao cho chức Ngự sử đài chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh cũng ra làm quan, làm đến chức Hàn lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám

Tuy là cháu ngoại của một đại quí tộc họ Trần nhưng Nguyễn Trãi không giữ thái độ chống đối mà còn hợp tác với chính quyền mới. nhưng rồi quân Minh xâm lược; sau nửa năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Minh do triều Hồ lãnh đạo thất bại, đất nước lâm vào họa diệt vong trước nguy cơ đồng hóa. Gia đình Nguyễn Trãi tan nát, cha bị đày sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi nghe lời cha ở lại đất lo cứu nước báo thù nhà. Sau đó, ông bị giam trong thành Đông Quan.

Tất cả những biến cố đó đã tác động sâu sắc vào nhận thức, tư tưởng của Nguyễn Trãi, thôi thúc ông suy tư ngẫm nghĩ tìm ra những lý do sâu xa của những sự kiện mang tính nghịch lý và rút ra những bài học bổ ích cho công cuộc cứu nước. Ngẫm nghĩ về nhà Hồ, ông viết trong Quan hải:

"Họa phúc hữu môi phi nhất nhật

Anh hùng di hận kỷ thiên nhiên"

(Họa phúc gây mầm không một chiếc

Anh hùng để hận mấy nghìn năm)

rồi như tìm ra câu trả lời:

"Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền

Trần gian thiết tỏa diệc đồ nhiên

Phúc chu thủy tín dân do thủy"

(Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển

khóa sông xích sắt cũng vậy thôi

Lật thuyền mới rõ dân như nước)

"Trải nhiều biến thì mưu kế sâu, tính việ xa thì thành công lạ" (Phú núi CHí Linh) rồi "ngẫm nay suy xét cũng mọi lẽ hưng vong" (Bình Ngô Đại Cáo), Nguyễn Trãi đã đúc rút các bài học thành bại của lịch sử, cố tìm ra con đường và phương thức cứu nước. Sau khi thoát khỏi thành Đông Quan, ông ẩn náu ở Côn Sơn rồi bôn ba nhiều nơi trong cảnh "thập niên chuyển thán bồng bình" (Quy Côn Sơn chu trung tác)

Bấy giờ khắp nơi trong đất nước đang bùng lên nhiều cuộc khởi nghĩa chống Minh nhưng Nguyễn Trãi không tham gia. Người minh chủ Nguyễn Trãi tìm kiếm và gửi gắm niềm tin là Lê Lợi, một hào trưởng đất Lam Sơn, xuất thân thứ dân nhưng tài chí cao cả. Nguyễn Trãi thấy ở Lê Lợi một minh quân có đủ tài đức đưa sự nghiệp giải phóng đất nước đến thắng lợi và Lê Lợi cũng coi Nguyễn Trãi như một "mưu sĩ", "nói tất nghe mà kế tất theo". Trong sự nghiệp bình Ngô, Nuyễn Trãi giữ vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến lớn lao trong việ đề ra đường lối cứu nước, khắc phục sai lầm của nhà Hồ, phò tá Lê Lợi trong trù hoạch mưu lược, đưa cuộc khởi nghĩa phát triển nhanh thành chuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng trên qui mô cả nước, hoàn toàn toại nguyện khi thấy Đại Việt lại hồi sinh trong độc lập và thanh bình với biết bao ước vọng

Dưới triều Lê, Nguyễn Trãi lại hăm hở mong đem tài sức phò vua, giúp dân, giúp nước. nguyễn Trãi được phong tước Quan phục hầu, giữ chức Nhập hội thành khiển, Thượng thư bộ lại kiêm coi công việc Viện khu mật, có lúc giữ chức Trung thư, coi việc Môn hạ sảnh và Tam quân. Tuy nhiên, giữa một triều đình mới bước vào buổi đầu, trọng võ hơn văn, tài năng của ông bị kềm chế, lại sinh hiềm khích với quan lại, ông bị nghi ngờ và bị hạ ngục. Nguyễn Trãi chứng kiến tất cả những bi kịch cung đình nhưng hoàn toàn bất lực. Dưới triều Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi tận dụng mọi cơ hội để hướng nhà vua vào mục tiêu xây dựng một đất nước cường thịnh, chăm lo đến cuộc sống muôn dân, được nhà mua tâm đắc phê lời công nhận trong Dư địa chí thế nhưng triều đình bị quyền thần, nịnh quan lũng đoạn, ông hoàn toàn bị cô lập. Chán nản đến thất vọng, Nguyễn Trãi từ quan về Công Sơn đến 1439 mới trở về, một lần nữa, một Nguyễn Trãi 60 tuổi vẫn hăm hở đem tài sức cống hiến cho đất nước.

Tai họa khủng khiếp xảy ra vào 3 năm sau đó. Ngày 1 tháng 9 năm 1442, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi chơi ở chùa Côn Sơn, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua trở về. ngày 7 tháng 9 năm 1442, vua đổ bệnh tại Lệ Chi Viên, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 mới phát tang. Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bắt Nguyễn Trãi cùng bà khép tội âm mưu ám hại vua. Ngày 19 tháng 9 năm 1442, Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc. Đến tháng 8 năm 1464, tức 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông chức hiệu Tấn trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan

Lê Quý Đôn trong Kiến Văn tiểu lục nhận định về Nguyễn Trãi: "Đứng vào bậc nhất một đời, chức vị Thương thư, cấp bậc công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn thường bị đè nén mà không từng chịu khuất...nhưng vì tối nghĩa về "chỉ, túc" thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót!..."

Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố và thăng trầm, trở thành anh hùng dân tộc rồi lại trở thành tội đồ của dân tộc...Cho đến nay, sử học còn mang món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn Trãi, đó là chưa khám phá ra sự thật của thảm kịch đã lấy đi tính mạng của Nguyễn Trãi. Con người ông, qua xuất thân và cuộc đời sự nghiệp làm quan có thể biết được một phần. Còn phần bỏ lại, ta hiểu nó qua sự nghiệp văn học của ông.

Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Trãi đã mang chí hướng tiên ưu - "Bình sinh độc bão tiên ưu chí". Tấm lòng ông suốt một đời dành cho nước và dân. Đất nước bị giặc ngoại xâm giày xéo, ông đau lòng. Sinh vào thời loạn, hơn ai hết, Nguyễn Trãi ý thức sâu sắc cứu nước là cứu dân khỏi cảnh lầm than. Suy ngẫm từ những người đi trước, Nguyễn Trãi nhìn ra sức mạnh "chở thuyền" và "lật thuyền" của dân, thấy được dân chính là chủ thể của lịch sử. Ông lấy "trừ bạo yên dân" làm nhân nghĩa, ông nhắc nhở những kẻ cầm quyền "những qui mô lớn lao lộng lẫy đều alf sức lao khổ của nhân dân". Người làm vua nên "thương yêu dân chúng, nghĩ ban chính sách khoan nhân". Kẻ làm quan thì phải "bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng","coi công việc của quốc gia là công việc của mình, lấy điều lo của sinh dân làm điều lo thiết kỉ"

Như Hoàng Trung Thông - Nguyễn Huệ Chi từng viết "Nếu như văn thơ Nguyễn Phi Khanh, Trần Nguyên Đán chỉ mới báo hiệu sự sụp đổ không cưỡng lại được của những triều vua trong thời đại của họ thì văn thơ Nguyễn Trãi, trong chừng mực giống nhau với các nhà thơ lớp trước, lại báo hiệu sự trăn trở sinh thành của thời đại sau, thời đại giành độc lập và tự chủ tự cường".

Ngoài những suy ngẫm về tư tưởng sống, ở Nguyễn Trãi, tình yêu thiên nhiên cũng rất mực đậm đà. Trong thơ chữ hán, những cảnh sắc núi sông hùng vĩ và thơ mộng hữu tình của đất nước đã trở thành nguồn thi hứng dạt dào cho nhà thơ. Cánh buồm của Nguyễn Trãi đã lướt qua bao thắng tích để từ con mắt đầy trìu mến tự hào, thiên nhiên hiện ra lộng lẫy, mới lạ:

"Liên hoa phù thủy thượng

Tiên cảnh trụy trần gian"

(Cảnh tiên rơi cõi tục

mặt nước nổi hoa sen"

_Dục Thủy Sơn_

vừa uy nghi, hùng vĩ:

"Kình phun lãng hống lôi Nam Bắc

Sáo ủng sơn liên ngọc hậu tiền"

(Cá kình phun thành sóng gầm như tiếng sấm động phía Nam phía Bắc

Núi liền hàng như giáo dựng trông tựa ngọc bày đằng trước đắng sau)

_Cửa biển Thần Phù_

lại duyên dáng, đẹp tươi:

"Giáp ngạn thiên phong bài ngọc duẩn

Trung lưu nhất thủy tẩu thanh xà"

(Sát bờ, ngàn ngọn núi bày ra như búp măng ngọc

Ở giữa, một dòng nước lượn ngoằn ngoèo như con rắn xanh)

_Qua biển cửa Thần Phù_

Với Nguyễn Trãi, cuộc sống gần gũi thiên nhiên thật tự do thú vị. "Quét con am để chứa mây", để thuyền cho trăng chở nhờ, dưỡng cây cối cho chim về làm tổ

Sự giàu có của nhà thơ thật đặc biệt, không mấy ai sánh được. Kể về điều này, lời thơ cất lên thật hào hứng, sảng khoái:

"Khi thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vạy theo"

_Thuật hứng bài 24_

Sản vật quê nhà không phải cao lương mĩ vị nhưng sẵn dành ưu ái cho con người nhà thơ thấy đầy đủ, hài lòng, thậm chí tự hào:

"Quê cũ nhà ta thiếu của nào

Rau trong nội, cá trong ao"

_Mạn thuật bài 13_

Không gian trong thơ  cao rộng mênh mông, có thể nó, vẻ đẹp của thơ ức Trai là vẻ đẹp của nhiều nhà thơ trong quá khứ, nhưng cũng vượt lên tất cả. Trong ông có cái hào hùng cảu Lý Thường Kiệt, có triết lý hồn nhiên thanh thoát của các nhà thơ thiền, có nỗi u hoài man mác của Chu An, có cái thung dung khoáng đạt của thơ Trần Quang Khải, có bình đạm trữ tình của thơ Huyền Quang, có tấm lòng yêu sống chan chứa của thơ Mạc Đĩnh Chi, có chút mỉa mai chán nản của thơ Nưỡng Sương và cũng có nỗi bi ai phẫn nộ của các nhà thơ chống giặc cuối thời Trần. Thế nhưng không ai chất đầy khắc khoải, suy tư trên vấn đề trách nhiệm đối với dân với nước và con người, và hình tượng hóa nó bằng vần thơ thiên nhiên hùng tráng như trong thơ Nguyễn Trãi

Công lao, sự nghiệp của Nguyễn Trãi rõ ràng là huy hoàng, vĩ đại, Nguyễn Trãi quả thật là anh hùng, là khí phách, là tinh hoa của dân tộc.Nguyễn Trãi đã đi vào lòng dân như một anh hùng cứu nước vĩ đại, một danh nhân văn hóa kiệt xuất. Biết bao tài năng đã chung đúc nên con người ưu tú đó.  và ông đã đem tất cả tài năng đó phục vụ cho công cuộc giải phóng dân tộc, cùng Lê Lợi lập nên thắng lợi của sự nghiệp bình Ngô. Trong cứu nước cứu dân khỏi họa đô hộ và đồng hóa ngoại bang ông đã thành công rực rỡ. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước ông cũng có rất nhiều cống hiến to lớn nhưng gặp rất nhiều gian nan, không thể thi thố hết tài năng, thực hiện hoài bão và lý tưởng cao đẹp cảu mình. Dù cuối cùng kết thúc bằng một bi kịch đau xót nhưng Nguyễn Trãi đã để lại cho lịch sử và hậu thế một tấm gương sáng về phẩm giá, một tri thức trọn đời vì nước vì dân, đấu tranh không biết mệt mỏi cho độc lập dân tộc, cho một đất nước giàu mạnh có vua sáng tôi hiền, có cuộc sống ấm no cho muôn dân và một sự nghiệp văn hóa đồ sộ với biết bao tác phẩm trên nhiều lĩnh vực phản chiếu lẽ sống, nhân cách và tài năng sáng tạo của ông

Ngày nay, tên tuổi và sự nghiệp củaNguyễn Trãi còn tỏa sáng vượt khỏi biên giới quốc gia, được UNESSCO công nhận là một Danh nhân văn hóa Thế giới.Nguyễn Trãi là một con người tiêu biểu ở đỉnh cao nhất là tâm hồn và trí tuệ của dân tộc, là tài năng và phẩm giá của con người Việt Nam được nhân loại trân trọng. Hình ảnh về một ngôi sao khuê mang tênNguyễn Trãi sẽ sống mãi với dân tộc Việt, tồn tại mãi mãi với thời gian và có ảnh hưởng tới mọi thời đại.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com

Tags: