(3)
Tôi bị ấn vào bàn làm việc, trong tầm mắt của tôi là tấm bản đồ tuyến phòng thủ vùng phía Đông màu vàng ngà, trải rộng trên mặt bàn gỗ sồi, trên bản đồ ngổn ngang la bàn, compa bằng thép không gỉ, bút chì, tẩy cùng đủ thể loại thước chia tỉ lệ với thước đo toạ độ. Đột nhiên tôi lại nhớ đến câu nói đó: "Không phải là loại sĩ quan ngồi sau bàn gỗ đánh dấu đỏ vào bản đồ."
Trên bàn có một cái gậy Zeigestab chỉ bản đồ, có một số khớp gập để dễ bỏ vào túi, chiều dài khoảng 60cm, đường kính rất mảnh, chỉ khoảng 0.5cm. Khi cha tôi cầm nó lên, tất cả những nỗi sợ hãi trong tôi bùng nổ. Mặc dù tôi đã cố tỏ ra ngoan ngoãn và khuất phục, nhưng điều đó thật khó khăn, thà rằng ông ấy cứ rút thắt lưng ra.
"Không... đừng làm thế..."
Tôi xoay người và ngẩng đầu nhìn cha tôi, trong khi lưng đang áp vào cạnh bàn. Cho đến tận khi đó, tôi vẫn không biết mình đã làm sai điều gì, tôi chỉ là người xui xẻo phải nghe cuộc đối thoại của họ mà thôi. Cha tôi túm lấy tóc sau gáy của tôi, kéo tôi đến gần, khi ông cúi đầu, đôi mắt trực tiếp nhìn thẳng vào mắt tôi: "Sao mày lại tỏ ra hoảng sợ đến như thế khi ở đó? Tao đã dặn mày thế nào rồi?"
"Thổi kèn đồng ở lễ duyệt binh, mày có hiểu không? Ý hắn ta là nhìn mày yếu ớt như đám quân nhạc ấy." Cha tôi buông tay ra khỏi đầu tôi, "Cúi xuống, Armin."
"Con xin lỗi. Đừng làm thế." Tôi run rẩy đứng ở đó, không biết phải nói gì khác. Tất nhiên là nó chẳng bao giờ có tác dụng cả. Nhưng ở thời điểm mà sự sợ hãi che lấp hết đầu óc, tôi vẫn luôn thốt ra những câu vô nghĩa. Vậy là cha tôi vung cây gậy lên và đánh vào bất cứ chỗ nào trên người tôi, với một lực khá mạnh. Tôi đã cố gắng dùng tay che chắn nhưng vô ích, ông ấy chỉ dừng lại khi tôi hét lên rằng tôi sẽ cúi xuống bàn ngay bây giờ.
Tôi xoay người lại, khuỷu tay đặt trên mặt bàn, và cơ thể từ từ hạ xuống. Khi cây gậy kim loại đặt ngang hông, tôi nhắm chặt mắt lại và nghiến răng. Cú đánh mạnh đến mức tôi cảm thấy nó xé tan lớp vải và sau đó xé rách cơ thể của mình.
"A..." Tôi vặn vẹo thắt lưng, cố hết sức để không dịch chuyển quá nhiều, nhưng không thể. Trận đòn mấy ngày trước vẫn còn làm tôi đau, đến đòn thứ mười bốn, tôi không thể chịu đựng được nữa.
"Đau quá... nó đau quá!"
Tôi ngồi sụp xuống ngay dưới chân cha tôi, liên tục gào lên và gọi mẹ. Trên thực tế, mẹ tôi chẳng bao giờ can ngăn những trận đòn, bà chỉ biết trốn tránh trong phòng, trốn tránh hiện thực và dối lừa rằng tất cả đều là điều nên làm. Điển hình của những bà mẹ thời Quốc Xã. Lúc mà tôi nghĩ rằng mình sắp chết, tiếng gõ cửa phòng làm cha tôi ngừng lại.
"Thưa cha. Con vào trong nhé?"
Tôi tìm thấy một tia hi vọng, ngay lập tức tôi hét lên: "Anh Heinrich!"
Anh ấy thậm chí không chờ cha tôi trả lời, mở cánh cửa đi thẳng vào trong và chậc lưỡi khi nhìn thấy tôi: "Chúa ơi, ai lại có thể làm điều này với một đứa trẻ đáng yêu như thế chứ?"
Cha tôi luôn nhượng bộ với những gì mà anh tôi nói, hay bất cứ yêu cầu gì của anh ấy. Đôi khi là vì ông ấy quá mệt mỏi khi phải nghe anh ấy nói quá nhiều. Có lẽ là một sự may mắn cho tôi, vì hôm nay anh ấy về nhà. Cha tôi đã gấp cái gậy chỉ bản đồ lại, ném nó lên bàn và bỏ ra ngoài, còn tôi vẫn ngồi ở đó khóc.
"Được rồi, đừng khóc nữa, ngoan nhé." Heinrich bế tôi lên, anh ấy thực sự rất khoẻ, nhấc tôi dậy dễ dàng như nhấc một con ếch và mang tôi về phòng. Tôi cứ ôm chặt lấy cổ anh cho đến khi mẹ tôi và chị Paula kéo tôi ra khỏi người anh ấy.
Cả buổi chiều, mẹ tôi ngồi ở bên cạnh giường và liên tục kiểm tra xem tôi có bị sốt không, đến tối thì tôi phát sốt và nhất quyết không chịu ăn gì cả. Mẹ tôi buồn bã, bà đặt tay lên má tôi và hỏi: "Đã xảy ra chuyện gì, Armin?" Tôi chỉ muốn ngủ, nhưng mẹ cứ hỏi mãi, cuối cùng tôi khóc và trả lời: "Con không làm gì cả mẹ ạ. Con nhìn thấy trại tập trung... con nhìn thấy họ bắn chết một phụ nữ, có những hố chôn tập thể, con đã nôn mửa... Otto Schwarz chứng kiến tất cả, ông ta còn tặng con một đứa trẻ Nga ở trại lao động mẹ ạ." Tôi thành thật kể lại mọi chuyện, cả cuộc đối thoại của cha tôi và Otto Schwarz, tôi liên tục nói rằng tôi đã cư xử tốt.
"Mẹ ơi, mẹ nói với con rằng mọi người trên thế giới đều giống nhau... Vậy tại sao những người đó không có quyền được sống và hạnh phúc?"
"Đừng nói về điều đó nữa, nó không được phép, Armin." Nhưng rồi mẹ tôi đau khổ, bà nắm chặt tay tôi và rơi nước mắt, "Mẹ hiểu, con là một đứa trẻ nhân hậu, con yêu." Giọng nói của bà tuyệt vọng và đầy sợ hãi: "Đó là một tội ác, rồi một ngày tất cả chúng ta sẽ phải trả giá."
Tôi hỏi mẹ rằng tại sao Otto Schwarz lại khiêu khích cha tôi. Bức màn quá khứ được vén lên, cuối cùng thì tôi hiểu ra tất cả. Ông ta là con của một người làm việc tại điền trang thuộc sở hữu của nhà von Hartenfels. Sau Thế chiến thứ nhất, Đế quốc Đức và Vương quốc Phổ sụp đổ, Cộng hoà Weimar đã xoá bỏ chế độ quý tộc trên pháp lý. Nhưng quyền sở hữu tài sản trước Thế chiến thứ nhất vẫn được giữ nguyên. Otto Schwarz không được nhận vào học tại trường dành cho con em quý tộc cũ, ông ta chọn con đường thăng tiến nhờ Đảng Quốc Xã. Cha tôi từng nói rằng, ông coi thường Otto Schwarz từ khi còn nhỏ, và kể cả đến bây giờ, điều đó không thay đổi.
"Nhưng dù sao, con cũng không làm gì sai, mẹ ạ." Tôi ủ rũ vùi mặt vào gối, hình như mẹ tôi đã cho hoa oải hương vào trong đó.
Tôi phải nghỉ học vài ngày vì sốt cao, chiều ngày thứ hai, tôi đã cảm thấy đỡ hơn nhiều, vì thế tôi bắt đầu tìm đến cây đàn của mình. Mẹ tôi có mang theo một cái rương chứa rất nhiều bản nhạc và đĩa nhạc của bà từ khi còn ở Hungary, đa số là của Rachmaninov và Beethoven. Nhưng sau này, cha tôi phản ứng gay gắt với chuyện tôi chơi dương cầm, mẹ tôi cũng không còn động vào đàn nhiều nữa. Khi ấy, tôi không chắc chắn về lý do cha tôi bài xích những gì liên quan đến niềm yêu thích âm nhạc của mẹ tôi, nhưng tôi nghĩ một phần nào đó liên quan đến cuộc hôn nhân không được chào đón của họ.
Sau này, mẹ tôi cũng đã kể rằng, bà gặp cha tôi ở bệnh xá trường Sĩ quan Chính trị Kaiserliche Kriegsschule. Bà là một y tá điều dưỡng thực tập, do thành thạo tiếng Đức, bà được cử đi trao đổi theo chương trình hợp tác y tế Đức - Áo - Hungary, nằm trong quá trình tái thiết hệ thống y tế dân sự từ sau Thế chiến thứ nhất. Lúc đó cha tôi bị chấn thương do ngã ngựa và phải nằm bệnh xá một tuần.
Họ hẹn hò hơn một năm, đến khi chương trình trao đổi kết thúc và mẹ tôi phải trở về Hungary. Họ hứa hẹn sẽ sớm gặp lại sau khi cha tôi tốt nghiệp. Nhưng khi trở về Hungary, mẹ tôi phát hiện mình đã mang thai, đó hẳn là một cú sốc lớn vì mẹ tôi còn quá trẻ, cha tôi cũng vậy. Một sĩ quan quý tộc cũ thường không kết hôn sớm, họ chỉ kết hôn khi đã có sự nghiệp ổn định và lựa chọn được một đối tượng phù hợp với gia tộc.
Khi đó cha tôi mới mười chín tuổi, chỉ là một học viên sĩ quan, và ông ấy phải nói với gia đình mình về việc sẽ kết hôn với một phụ nữ xuất thân từ gia đình truyền thống âm nhạc, còn là người Hungary chứ không phải Đức. Không cần phải nói cũng biết nhà von Hartenfels đã phản ứng dữ dội như thế nào. Ông tôi gọi đây là một sự sỉ nhục khủng khiếp, một hành động phá vỡ truyền thống gia tộc, coi gia đình của mẹ tôi là thấp kém, dù trên thực tế thì họ cũng là tầng lớp trung lưu trí thức của Áo - Hung.
Một ngày đông tuyết dày đặc, cha tôi bị tống cổ khỏi nhà, xoá tên khỏi danh sách thừa kế và cắt mọi khoản chu cấp, ông ấy không có gì trong tay. Mẹ tôi nói rằng bà nhớ mãi cái buổi chiều lạnh cắt da thịt, bà vẫn còn trong cơn sốt hậu sản và phải đi bộ hai cây số theo cha tôi đến nhà một người bạn. Cha tôi bế anh Heinrich mới sinh chưa đầy một tuần, quấn trong cái áo khoác trường quân sự. Người bạn của cha tôi đã lái xe và đưa họ đi tìm phòng ở một khu gần trường.
Mẹ tôi và anh Heinrich đã sống trong phòng trọ cũ giá rẻ với cái lò sưởi không hoạt động, mọi chi phí sinh hoạt chi trả bằng số tiền gửi từ Hungary, trợ cấp và học bổng của trường quân sự mà cha tôi dành dụm, vài đồng bạc vay mượn khắp nơi, hay tiền bán trang sức mà bà tôi lén gửi đến. Cuối tuần, cha tôi đi bộ từ trường đến phòng trọ để đưa tiền cho mẹ tôi. Có một buổi tối mẹ tôi ốm vật vã trên giường. Bà khóc lóc, nói rằng mình ghét nước Đức, ghét cha tôi và đòi về Hungary. Mẹ tôi không bao giờ tưởng tượng được điều chờ đợi bà ở Đức lại là cuộc sống như thế. Anh Heinrich ngủ say trong cái nôi cũ xin lại của người ta. Còn cha tôi ngồi đếm đi đếm lại từng đồng bạc, nhưng vẫn không đủ để trả tiền trọ và mua đồ trẻ sơ sinh. Đó là lần duy nhất mẹ tôi nhìn thấy ông ấy ôm mặt khóc.
Một năm sau, cha tôi tốt nghiệp Kriegsschule, còn người ông quý tộc cũ của tôi thì đã suy nghĩ lại và nhận ra rằng không thể vứt thằng con trai duy nhất của mình ra đường. Nhưng mẹ tôi nói rằng hẳn là cha tôi không bao giờ quên được quãng thời gian khó khăn ấy. Khi mà ông ấy phải vứt hết tự trọng để đi mượn tiền bạn bè, họ thậm chí nói rằng không cần trả lại tiền, có lẽ họ thấy chẳng còn gì tệ hại hơn một thằng nhóc quý tộc cũ giờ phải đi xin thuốc hạ sốt và vitamin ở chỗ giáo viên quân y, bán cả đồng hồ đeo tay để mua sữa bột.
Dường như mỗi khi nhìn thấy những bản nhạc hay những cây dương cầm và vĩ cầm, cha tôi lại nhớ đến xuất thân của mẹ tôi, thứ đã gây ra khoảng thời gian tăm tối nhất cho ông ấy trong quá khứ, và nó gợi nhớ đến cả mối quan hệ tệ hại giữa ông ấy và cha của mình.
Tôi lấy ra bản nhạc Appassionta và bắt đầu ngồi vào chiếc dương cầm. Khi chơi đàn, tôi thường không chú ý mọi thứ xung quanh, tôi chỉ muốn để âm thanh chạm vào khoảng lặng, đánh thức những rung cảm mỏng manh.
Chiếc dương cầm ở cạnh cửa sổ phòng, tay tôi ngưng lại khi phát hiện có người nhìn mình từ phía sân vườn. Tôi đứng dậy và nhìn xuống dưới, đó là đứa trẻ Nga mà tôi mang về từ chỗ Otto Schwarz. Cậu ta đứng cạnh chuồng ngựa, hình như cậu ta đã ở đó quan sát tôi một lúc, khi tôi bắt gặp, cậu ta vội vàng quay đi và tiếp tục làm việc. Căn nhà của tôi nằm trong khuôn viên điền trang mà cha tôi được thừa kế từ ông tôi, Đại công cuối cùng xứ Brandenburg. Mặc dù khuôn viên không rộng như dinh thự của Otto Schwarz, nhưng cũng có một trang trại và đồng cỏ. Cha tôi thậm chí không buồn quan tâm đến những thứ đó, tất cả mọi việc được giao cho quản sự và những người giúp việc.
Tính tò mò thôi thúc, tôi đã chạy xuống nhà và đi về phía chuồng ngựa. Đứa trẻ người Nga đó đang định kéo mấy bó cỏ lớn vào máng để cho ngựa ăn, tôi đến gần, cậu ta cúi đầu xuống và đứng im bất động, y hệt hàng người trong trại tập trung hôm ấy. Tôi hỏi: "Cậu biết tiếng Đức không?" Cậu ta trả lời: "Tôi chỉ biết một chút."
"Cậu tên là gì?"
"Tôi không có tên. Tôi mang số 106."
Tôi sững sờ đứng ở đó, quan sát cậu ta từ trên xuống dưới, một bên mắt và gò má cậu ta bầm tím, khi ở chỗ Otto Schwarz, tôi không hề nhìn thấy dấu vết đó, tức là nó xuất hiện từ khi cậu ta đến đây. Tôi nói: "Ai cũng có tên, nói cho tớ biết tên đi." Nhưng cậu ta nói rằng không hiểu tôi nói gì, tôi cũng không biết tiếng Nga. Tôi nghĩ đến Paula, thế là tôi hỏi: "Cậu biết tiếng Ba Lan không?" Cậu ta tỏ ra không hiểu. Tôi nhấn mạnh: "Tiếng Ba Lan ấy, hoặc tiếng Latinh?" Tôi bắt đầu bất lực với gương mặt ngơ ngác của cậu ta.
Nghe có vẻ câu hỏi hơi ngu ngốc, nhưng tôi đã hỏi: "Tiếng Anh?" Vậy mà cậu ta lại gật đầu. Tôi vui mừng và kinh ngạc, ngay cả ở Đức cũng không có nhiều người nói tiếng Anh, thậm chí nó bị coi thường, chỉ những trường học mang tính truyền thống dành cho con em quý tộc thành lập từ thời Vương quốc Phổ, ở đó họ mới dạy tiếng Anh như môn tự chọn. Tôi chọn nó vì nó có quan hệ gần gũi với tiếng Latin của La Mã cổ đại, và hơn hết là vì ngày xưa cha và anh tôi cũng học tiếng Anh, trước khi nó bị hạn chế ở Đệ Tam Đế chế.
"Ai cũng có tên. Vì thế hãy cho tớ biết tên đi." Tôi nói bằng tiếng Anh.
Cậu ta tỏ ra sợ hãi và chần trừ, tôi bèn nói: "Tớ sẽ không cho ai biết đâu."
"Stepan... Kozachenko."
"Còn tớ là Armin, Armin Wilhehm von Hartenfels." Tôi đưa tay ra, Stepan lại chần trừ, tôi vẫn chờ đợi, cuối cùng thì cậu ta cũng bắt tay tôi. Khi đối diện với cậu ta, tôi bỗng cảm nhận được một sự đồng cảm mãnh liệt vô hình mà tôi chưa từng cảm thấy trước đây. Có lẽ vì nhìn chúng tôi trạc tuổi nhau, có lẽ dù trong hoàn cảnh khác nhau, chúng tôi đều phải chịu đựng những nỗi buồn mà không thể trải lòng, cuối cùng, chúng tôi chỉ là những đứa trẻ.
Đó là lần đầu tiên tôi chủ động làm quen với người khác.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com