Chương 1: Tuổi Thơ.
Trong biển lửa mịt mù của chiến tranh, Hạ, cô quân y với trái tim khắc khoải khát vọng trở về, đã dũng cảm chạy về phía đồng bào, tìm lại cội nguồn máu thịt của mình. Ở thành cổ Quảng Trị rực cháy năm nào, cô gặp Trung, chàng lính trận mạc với đôi mắt sáng ngời như sao, nụ cười trong veo như chưa từng vướng khói bom đạn lửa, mang trong lòng niềm tin sắt đá rằng mai này đất nước sẽ hồi sinh từ tro tàn.
Giữa tiếng bom xé trời, giữa dòng sông Thạch Hãn đỏ ngầu máu, tình yêu của họ nảy mầm, lặng lẽ nhưng kiên cường. Không cần những lời hẹn ước, chỉ một ánh nhìn đã thành lời thề. Đó không chỉ là tình yêu của đôi lứa, mà còn là khúc nguyện thề hòa vào đất nước: cùng sống, cùng yêu, cùng hiến dâng cho Tổ quốc. Từ những câu trêu ghẹo hồn nhiên nơi chiến hào, đến những phút kề vai băng bó vết thương đồng đội, họ đã biến tình cảm riêng thành ngọn lửa âm ỉ, soi đường để mỗi bước ra trận không còn đơn độc.
Nhưng chiến tranh nào cho họ quyền được bình yên. Đất chưa yên, non sông còn giằng xé, họ buộc phải gác lại tình riêng, để giữ trọn nghĩa lớn. Một người ra tiền tuyến, một người ở hậu phương, dẫu xa ngàn dặm lòng vẫn tìm nhau. Tình yêu ấy chảy qua từng trang thư, qua tiếng gọi thầm trong giấc ngủ, dịu dàng mà day dứt, như mạch nguồn không bao giờ cạn.
Sau bao mùa chinh chiến, khi khói lửa đã lùi vào dĩ vãng, đất nước đứng dậy trong dáng hình thống nhất, non sông liền một dải, đất nước vẹn tròn như chính ước nguyện mà cả hai từng hằng ôm giữ. Người ta ngỡ rằng sau những năm tháng mất mát, họ sẽ được nắm tay nhau dưới bầu trời tự do. Nhưng định mệnh khắc nghiệt đã không cho họ kịp trọn một tình yêu.
Kết thúc của họ không tròn, để lại cho người ở lại nỗi đau thăm thẳm không ngày nguôi. Vậy mà khi ngoái nhìn, nỗi buồn ấy không còn là dang dở. Bởi chính trong những tháng ngày bão tố, họ đã yêu nhau bằng tất cả thanh xuân, tình riêng và lý tưởng đã vượt khỏi thân phận thường tình của hai con người để hòa vào tình nước, hóa thành bất tử.
Giữa máu và hoa, giữa mất mát và hy sinh, mối tình Trung và Hạ bừng sáng như một khúc tình ca bi tráng, ngân vang trong bản hùng ca của dân tộc. Ở đó có tình yêu đôi lứa hòa vào tình yêu Tổ quốc, có nước mắt hòa cùng hào quang, có cái riêng tan vào cái chung để làm nên một ánh sáng không bao giờ tắt.
Lưu ý: Truyện lấy cảm hứng và tham khảo từ
sự kiện, nhân vật có thật trong lịch sử tuy nhiên các tình tiết trong truyện đều là hư cấu và tưởng tượng, không có giá trị tham khảo. Vui lòng tìm hiểu ở những nguồn sách uy tín. (Lần đầu viết sẽ có những sai lầm không cố ý, hãy góp ý với tác giả để tác giả kịp thời sửa chữa, cảm ơn quý độc giả và chúc các bạn được truyện vui vẻ)
-------------------
Nhiều năm rồi, hòa bình đã về, mùa Xuân cuối cùng cũng trở lại trên mảnh đất Việt Nam dịu dàng như lòng mẹ, mảnh đất đã qua mùa lửa đạn mà vẫn thơm mùi rơm mới, ngọt tiếng chim ban sớm, vẫn ôm trọn bước chân của những người con trở về với quê hương. Tôi đã già, mắt mờ, tóc bạc, chân tay chẳng còn nhanh nhẹn như xưa, mà con đường trước ngõ vẫn cứ trống trơn. Mỗi khi có bóng người từ xa, tôi lại ngẩng đầu nhìn, dõi mắt theo con đường đất đỏ ngoằn ngoèo giữa hàng tre. Chỉ để... chờ những đứa con của tôi.
Chúng nó đi lâu quá rồi. Mấy mùa lúa đã gặt, mấy lượt bầy chim sẻ đến rồi bay, mà tôi vẫn chưa thấy bóng dáng nào trở về. Ba chúng nó, ba đứa con trai lớn, rồi cả đứa con dâu, tất cả đã nằm lại đâu đó ngoài chiến trường. Người ta bảo tôi thôi, đừng mong nữa... nhưng sao được. Lòng mẹ mà, thương con thì chẳng thể bảo thôi là thôi. Tôi đã góp cho kháng chiến cả một đời, không tiếc, không hối hận. Nhưng giữa cái tự hào lặng lẽ ấy, tôi vẫn ước giá như còn một đứa nào đó về với tôi, để tôi nghe tiếng gọi "má ơi" thêm lần nữa.
Ngồi tựa cửa, tôi thấy thằng Tí hàng xóm lon ton chạy ngang, cái quần đùi đỏ cũn cỡn, tóc cháy nắng vàng hoe, cái miệng sún cười toe, hai bắp chân tròn vo lấm lem bùn đất. Bất giác, tôi lại thấy thấp thoáng bóng thằng Trung hồi mới bốn tuổi , cũng cái dáng nhỏ xíu, chạy líu ríu như chim sẻ, mắt đen láy lúc nào cũng long lanh như đang cười. Ký ức như sợi dây mảnh buộc vào tim, chỉ cần khẽ kéo, cả một trời ngày xưa lại ùa về, rộn ràng, ấm áp... rồi se sắt đau như mới hôm qua.
...
Năm 1941, đất nước còn quằn quại trong xiềng xích, miền Bắc như một cánh đồng úa vàng dưới gót giày thực dân, bóng cờ tam tài của bọn Pháp phấp phới trên những đồn lính, những phố chợ, như một thứ ám ảnh lạnh lùng. Ba của Trung, ông Lê Thành, rời khói bếp quê nhà, rời cái ôm nghẹn ngào của người vợ bụng mang dạ chửa, ông khoác súng lên đường theo đoàn quân kháng chiến. Giặc Pháp bủa vây, đồn bốt mọc như nấm, cuộc sống chẳng còn yên. Rồi giữa những ngày giặc giã, bà gạt nước mắt, ôm bụng bầu, rời làng quê ngoài Bắc, xuôi tàu xe vào Nam nương nhờ quê mẹ đẻ, như một cánh chim lạc tổ tìm nơi nương náu. Đứa nhỏ trong bụng bà vừa gánh nặng và cũng là hy vọng.
Đến năm 1945, khi đất trời chuyển mình trong cơn bão lịch sử, Trung cất tiếng khóc chào đời ngày nào, nay đã tròn bốn tuổi. Hai người anh trai nối chí ba, bỏ lại mái nhà đơn sơ nơi có má và đứa em út, đi vào ngút ngàn kháng chiến. Đứa bé ấy trở thành tất cả những gì còn sót lại của người đàn bà ấy sau ngần cuộc chia lìa. Không nhà cao cửa rộng, không họ hàng gần gũi, chỉ có má với con, nương vào nhau mà sống, như hai nhánh lúa nhỏ cố trụ vững trong gió chướng, nuôi nhau bằng hơi ấm và niềm chờ đợi mịt mờ nơi biên ải xa xôi.
Trưa mùa khô. Nắng đặc quánh như mật, dội thẳng xuống mái ngói rêu phong rồi vỡ ra thành những vệt sáng vàng ong rót đầy sân đất. Trời cao vời vợi, trong veo. Gió lùa qua hàng tre kẽo kẹt, như tiếng thì thầm kể lại chuyện xưa.
Trong cái nhà cũ, ở làng nhỏ ven con sông đục phù sa, thằng Trung mới bốn tuổi, tóc nó xù như ổ quạ, dựng ngược hết lên, đôi mắt còn lèm nhèm ghèn, trên má hằn nguyên vệt gối. Nó bật ngồi dậy, ngơ ngác như kẻ vừa bị kéo khỏi một giấc mơ ngọt ngào ban trưa.
Nó ngồi thừ ra, lắng nghe tiếng gió thổi qua mái tranh, mùi khói bếp thoảng vào từ cửa sổ. Rồi ngáp một cái dài, cái miệng há to đến nỗi lúm đồng tiền cũng bị kéo ra thành một vết lõm dễ thương.
Má Lành vừa nhóm bếp vừa ngoái nhìn, môi mỉm cười: "Lève-toi, mon petit." Má Lành khẽ nói, giọng pha chút đùa.
Thằng nhỏ chớp mắt mấy cái, rồi lí nhí đáp lại, cái miệng móm mém kéo dài chữ "bonjour" như cố khoe vốn tiếng Pháp lận lưng: "Bonjour, má!"
Má lườm yêu nó: "Giỏi ha, mới bốn tuổi mà nói tiếng Tây sỏi quá."
Chỉ là mấy câu má dạy. Trung chẳng biết học để làm gì, bởi quanh đây đâu ai nói thứ tiếng đó ngoài má. Nhưng nó thích, thích lắm. Vì cứ mỗi lần thốt ra, lại thấy má cười, đôi bàn tay chai sần khẽ xoa đầu nó, dịu dàng như đang nâng niu một viên ngọc nhỏ.
Nó lồm cồm tụt xuống khỏi cái chõng tre ọp ẹp, cái quần đùi buộc hai đùm hai bên mà vẫn lỏng lẻo tụt khỏi rốn, để lộ cái bụng sữa tròn vo, trắng nõn như quả trứng gà vừa luộc. Hai chân ngắn cũn chạy lạch bạch trên nền đất, cái dáng hối hả chẳng khác gì con vịt con vừa mới nhảy xuống ao. Nó lao đến góc nhà, lục cái rương gỗ nhỏ đã mòn dẹt cạnh vì bao năm mở ra đóng vào.
Nó hì hục kéo nắp rương lên, đôi bàn tay bé xíu sờ soạng, lục lọi như đang tìm một bí mật lớn. Và rồi, ở tận đáy, hiện ra một chiếc mũ vãi bạc màu, đó là nón của ba nó, người lính ngoài mặt trận miền Bắc xa tít mù mà hình dáng trong trí nhớ thằng bé chỉ được ghép từ vài tấm ảnh ố vàng, được gửi sau một chuyến công tác, ba còn gửi kèm một quyển sổ tay nhỏ, mép sổ cột bằng sợi dây dù xanh sẫm.
Quyển sổ ấy với thằng bé chẳng khác nào kho báu. Giấy bên trong đã ngả màu, dày những trang chữ viết tay, nghiêng nghiêng mà cứng cáp. Thơm ngai ngái mùi cũ kỹ, lại phảng phất thêm mùi khói thuốc, mùi mồ hôi mặn của người đàn ông xa xôi như chắt lọc hơi thở của người lính nơi chiến trường gửi về.
Ba nghe má khoe trong thư rằng thằng Trung đã biết đọc chữ, nên mới gửi cả quyển nhật ký về, vừa để con tập đánh vần, vừa như một cách thủ thỉ với vợ và con qua từng trang giấy.
Nó bế quyển sổ lên bằng hai tay, nâng niu như ôm cả một gia tài. Đôi mắt sáng rực, nó chạy lon ton ra bậu cửa, ngồi thụp xuống, mở quyển sổ đặt ngay ngắn lên đầu gối, ngón tay trỏ di theo hàng chữ, nghiêng đầu đánh vần từng chữ, giọng ê a: "H...hôm nay, đơn vị... anh hành... quân... qua... cánh rừng già. Anh em... mệt lả, nhưng... vui lắm..."
Đọc đến đó, nó nhíu mày, cái trán nhăn lại thành mấy đường ngang ngắn ngủn. Thằng nhỏ ngước lên, gọi với vào trong bếp, giọng còn dính mùi ngái ngủ: "Má ơi, hành quân là đi đâu? Sao đi mệt mà cũng vui?"
Trong bếp, tiếng rơm lách tách cháy. Bàn tay đang cầm nhúm rơm của má Lành khựng lại. Một thoáng, đôi mắt thoáng đượm xa xăm, nhưng khi quay sang nhìn con, giọng đã trở về dịu dàng, nhẹ như khói bếp lan qua cửa sổ: "Là đi bộ nhiều ngày, mang súng trên vai. Đi để giữ đất, giữ quê. Vất vả lắm chớ, nhưng có bạn bè đi cùng, thấy bóng nhau trên đường, người lính vẫn thấy vui."
"Bộ đi xa lắm hả má? Sao ba cứ đi hoài mà không về?"
Má Lành khựng tay đang đảo nồi cơm độn khoai, làn khói bốc lên cay mắt. Đôi con ngươi thoáng sẫm lại như kéo bóng chiều về sớm. Giọng bà vang lên, mềm như khói nhưng ẩn nỗi nghẹn ngào:
"Ừ... ba con đi xa lắm. Nhưng đi để cho các con được ngủ yên, ăn no, được đến trường. Ở đâu có giặc, ở đó có ba con."
Trung gật gù, làm ra vẻ đã hiểu, rồi lại cúi xuống đọc tiếp. Môi nhỏ run run, từng chữ bật ra như ngọn gió non chưa kịp cứng cáp: "...Hôm nay... Bác Hồ... đến thăm đơn vị. Người hỏi có mệt không... Người nắm tay từng chiến sĩ... động viên, dặn dò... Rồi lấy kẹo lạc, thuốc lá... làm quà cho anh em..."
Nó dừng bặt. Đôi mắt mở to tròn xoe, long lanh ánh sáng. Trong trí tưởng tượng trẻ thơ, hiện lên một ông cụ hiền lành, chòm râu bạc phất phơ, đứng giữa hàng quân, bàn tay ấm áp siết lấy tay ba nó. Hình ảnh ấy bừng sáng trong tâm trí thằng bé như đốm lửa thắp giữa đêm rừng sâu.
Nó ngẩng phắt lên, đôi mắt tròn xoe: "Má ơi, Bác Hồ là ai? Sao Bác lại đi cho kẹo các chú vậy ạ?"
Giọng bà dịu dàng mà chậm rãi: "Bác Hồ là Bác của cả nước mình, thương lính như thương con. Bác là người soi đường, dẫn lối cho dân mình."
"Vậy mai mốt con gặp Bác, Bác cũng cho con kẹo hả má?"
"Có chứ, Bác Hồ thương các cháu thiếu nhi lắm."
Trung lại lật sang trang khác. Lần này chữ viết đậm hơn, rõ hơn, nặng hơn, như thấm cả một đêm dài thao thức: "...Đêm nay nằm võng nghe mưa rừng, mưa dội vào lá rừng nghe như tiếng ai thở dài. Thấy nhớ quá, nhớ nhà, nhớ tiếng con gọi "ba" quá, Lành ạ. Nhớ cả cái lúm đồng tiền của thằng nhỏ..."
Đọc đến đây, Trung ngẩn ngơ, ngón tay khựng lại trên trang giấy: "Má ơi, lúm đồng tiền là gì vậy?"
Má Lành đang cời nắp nồi cơm độn khoai, nghe con hỏi thì buông cái nắp nồi xuống khe khẽ, bà ra bậu cửa, ngồi xuống cạnh con, đưa ngón tay gầy gò khẽ chạm vào má nó, nơi cái lúm nhỏ xinh hiện ra khi nó cười: "Đây nè, cái này nè... ba nhớ cái này đó. Giống y như của má hồi còn con gái." Bà cũng đưa tay chỉ lên má mình.
Trung tròn mắt nhìn, chợt phát hiện trên đôi má sạm gió của má cũng có hai cái lúm giống hệt, nó cười toe, nụ cười làm lúm má nó hằn sâu, sáng như một giọt nắng trên gương mặt non tơ. Nó hớn hở như vừa tìm thấy một bí mật kỳ diệu. Nhưng má thì quay đi, bàn tay run run nắm lấy vạt áo nâu. Nỗi nhớ chồng, nỗi lo chiến trận, nỗi thương con dồn cả trong khoảnh khắc ấy, mà bà chỉ có thể kìm lại bằng cách đặt tay lên đầu con, thì thầm như gửi cả một trời yêu thương: "Con nhớ, ba con đi đâu cũng vì má con mình, vì đồng bào mình. Đừng buồn ba nghen, con."
Trung đáp liền, giọng lanh lảnh mà trong veo như con chim chào mào: "Con bỗng có buồn đâu, má!" Nói xong, nó lại cắm cúi vào mấy dòng chữ, mặt mày nghiêm trang như đang đọc kinh sách.
Có nhiều chữ nó không tài nào hiểu nổi, nhưng nó vẫn đánh vần, rồi chắp nối bằng trí tưởng tượng trẻ thơ, cái đầu óc bé con đã tưởng tượng ra nào là ba bắn giặc oang oang như trong truyện tranh, nào là ba cùng đoàn quân lẩn khuất dưới bóng rừng rậm, nào những người lính vai mang ba lô hát vang khúc ca giữa đêm hành quân... Trong cái đầu mới bốn tuổi, chiến tranh nghe vừa đáng sợ vừa lạ lẫm, mọi hình ảnh chập chờn như khói, nhưng riêng cái bóng dáng của ba thì oai hùng, sáng lòa hơn cả.
Đến đoạn: "Nhớ Lành với thằng nhỏ lắm. Dặn nó ngoan, học chữ, đừng quấy. Lành cũng nhớ giữ sức khỏe, đừng lo nghĩ chi cho anh. Gửi ngàn cái hôn về cho em và con..." Cặp mắt Trung tròn xoe như hai hòn bi ve, vành tai đỏ bừng như trái ớt chín. Trái tim thằng bé thì nhảy tưng tưng trong lồng ngực, chẳng khác nào con cá lóc mắc cạn đập loạn xạ. Trong đầu nó cứ văng vẳng mấy chữ "ba hôn má... ba nhớ con..." nghe vừa lạ, vừa ngọt, lại vừa... sến muốn chết!
"Ngàn... cái... hôn? Ba hôn gì dữ vậy trời? Hôn con thiệt hả? Hôn má nữa? Ủa mà... ba ở xa, hôn sao tới được?" Nó vừa hỏi vừa đưa tay che má, mặt đỏ gay mà ngây ngô đến thương.
Má Lành không nhịn được, cười bật ra mà nước mắt cứ dâng lên. Bà gạt vội đi, như sợ thằng nhỏ thấy mình khóc, nhưng bàn tay vẫn run run vuốt tóc con: "Ừ, ba con hôn từ xa đó. Con cứ tin đi, ba thương con, thương má hơn hết thảy. Thắng trận ba về nhà với mình."
Nó lại hỏi: "Ba nhớ má, vậy má nhớ ba không?"
Giọng nó trong veo, hỏi mà chẳng hiểu câu hỏi đó như mũi dao xoáy vào tim người đàn bà đang đứng trước mặt. Má Lành cười gượng: "Có, má nhớ chớ con. Nhớ từng bữa... từng ngày."
Trung gật gù, đôi mắt long lanh như bắt được một ý nghĩ mới. Nó ngẩng mặt, giọng ngây thơ vang ra giữa căn nhà vắng:
"Vậy... khi nào ba về, má cho con theo ba đi với Bác Hồ nghen. Trong này ba viết là ba gặp Bác rồi... con cũng muốn coi thử Bác cười có đẹp như nắng ngoài sân hông."
Má Lành khựng lại. Lời con thốt ra hồn nhiên, mà sao như một lời gửi gắm từ miền binh lửa mịt mùng, nghe vào tim người mẹ lại nặng như đá, dội lên một linh cảm mơ hồ. Nó chẳng giống một đứa trẻ chỉ tò mò về người vĩ nhân ấy, mà như thể con trai bà đã ngỏ ý muốn rời vòng tay mẹ, muốn bước vào cái cõi binh đao ngoài kia.
Ba nó theo cách mạng, hai đứa lớn cũng đã lần lượt khoác súng lên vai, nối nước ba nó mà đi. Con đường họ đi mịt mờ khói súng, chẳng biết ngày trở lại.
Một thoáng, bà thấy gai lạnh chạy dọc sống lưng, bà sợ lắm... sợ một ngày nào đó, chiến tranh, lửa đạn ngoài kia cũng sẽ giằng mất đứa con thơ bé cuối cùng này, để rồi bà chẳng còn gì để ôm ghì trong những đêm dài mong mỏi.
Bàn tay bà đang xoa đầu con khẽ run, trái tim thắt lại. Ngoài kia gió hun hút thổi qua vườn chuối, kéo theo tiếng ve ran như nỗi khát khô mùa hạn. Giữa cái mênh mông ấy, bà bỗng thấy mình nhỏ bé, như thể chẳng đủ sức che chở cho ánh mắt trong veo kia khỏi cơn bão dâu bể.
Bà hít sâu, để giọng mình đừng lạc đi: "Ừ... mai mốt con lớn, biết đâu cũng được gặp Bác. Lúc đó, con sẽ thấy... nụ cười của Người sáng như mặt trời, soi rọi cả đất trời quê hương mình."
Nghe thế, mắt Trung bỗng sáng rực. Nó gật đầu liên hồi, miệng cười ngoan ngoãn:
"Dạ! Mai mốt con lớn, con sẽ gặp Bác... con sẽ kể lại cho má nghe nha!"
Nói xong, nó vỗ tay cái "bốp" nhún người như muốn bật dậy ngay tức khắc, nhưng rồi lại rụt vào lòng má, cười khúc khích, hai bàn chân nhỏ cứ đung đưa trên nền đất như đếm từng nhịp mong chờ.
Má Lành chỉ cười không đáp, xoa đầu con rồi quay vào bếp, cặm cụi bên bếp rạ lo cơm nước. Còn Trung, mắt cứ dán chặt vào cuốn sổ, say mê đọc từng dòng nhật ký của ba, kể về những câu chuyện, những đoạn đời mà nó chưa hiểu hết, khiến nó được chạm tới hơi thở của một thế giới vừa xa lạ vừa thân quen, trong từng câu chữ, nó nghe như có giọng ba vọng về: kể chuyện ngoài rừng, chuyện đồng đội, chuyện những ước mơ chưa thành... và trên tất cả, là một niềm tin cháy bỏng mà ba nhắc đi nhắc lại.
Đọc được một lúc, thấy trang cuối đã gần kề, Trung giật thót, vội vàng gập cuốn sổ lại, hai bàn tay bé xíu giữ chặt như giữ một kho báu.
Con nít thường hay tò mò, đọc được bao nhiêu thì đọc cho đã, vậy mà nó lại sợ. Sợ nếu đọc hết, cái giọng của ba trong đầu nó sẽ lặng đi, rồi chẳng còn gì để nó nghe, để nó nhớ mỗi ngày.
Thư từ, quà cáp ba gửi về hiếm hoi lắm, có khi nửa năm, có khi trọn cả năm trời. Mỗi con chữ trong cuốn sổ, với Trung, chẳng khác nào hơi ấm ba còn sót lại, lấp lánh giữa những ngày dài vắng bóng.
Nó lấy cái mảnh vải con má cho ngày trước, cái mảnh vải bạc màu như khúc trời cũ, quấn quanh cuốn sổ, xong nhét lại chỗ cũ trong chiếc hòm gỗ ọp ẹp. Động tác của nó rón rén y như giấu một bí mật lớn, cái thứ nó tin là chỉ nó và má mới hiểu.
Nghĩ vậy, lòng nó vừa chùng xuống, vừa nao nao. Nhưng chỉ thoáng thôi, cái tính trẻ con nhanh như lửa rơm đã lại bùng lên. Mắt ngó ra ngoài hiên. Nắng trưa đã dịu đi, rớt xuống mảnh sân mấy vệt vàng hoe. Nó ngẫm nghĩ rồi đứng phắt dậy, chạy lại cái chỗ cái bậu cửa nãy ngồi, lấy cái nón vải cũ đã sờn chỉ. Chiếc nón màu cỏ úa, sờn mép, lâu ngày méo mó, một bên vành đã tóp xuống, có chỗ bạc trắng ra lổ những vết sờn như vết chém của thời gian. Má nói, nón này ba hay đội khi ở chiến khu. Mỗi lần đội lên, Trung thấy như mình lớn thêm cả chục tuổi, cái nón vải cũ không khác gì một báu vật, vừa đội vừa ngẩng mặt tự hào.
Trung đội cái nón chụp lên đầu mình, cái nón to quá, nó lọt thỏm dưới cái vành rộng, tụt xuống tận mí mắt, che lấp đôi tai nhỏ, vành nón chạm lưng. Nó cười hí hí, hai lúm đồng tiền lặn tít trên má, nhón chân chạy ra chái bếp. Cái nón lắc lư trên đầu nó rộng thùng thình, to gần bằng nửa người, làm nó chạy mà cứ chao qua chao lại như gà con đội rổ, vừa chạy nó vừa phải hất lên cho khỏi che mắt, suýt vấp vô cái bậc cửa nhưng vẫn không chịu bỏ nón ra.
Trung chạy ùa vào, như cơn gió nhỏ, chui tọt vào lòng má, giọng reo lên đầy háo hức: "Má ơi, cho con ra sân chơi nghe má? Nghe mà!!!"
Cái miệng nó toe toét, cười đến rạng rỡ, tưởng chừng nụ cười kia có thể làm dịu đi cả nắng trưa đang changchangngoài ngõ.
Má liếc ra sân. Nắng như rót lửa xuống sân, con đường trước ngõ vắng không một bóng người, chỉ có bụi đỏ lơ lửng trong không khí. Bà khẽ lắc đầu: "Thôi, chơi trong nhà đi út. Nắng vậy, bệnh lại thì khổ, hôm trước sốt uống thuốc đắng không nhớ hả?"
Thằng nhỏ bật dậy ngay, đôi mắt long lanh phản chiếu ánh sáng trưa hè:
"Con không bệnh đâu má, con chơi chỗ... chỗ không nắng mà... thiệt đó!!!"
Nó vừa nói vừa nhảy nhót, một tay giữ nón, một tay túm vạt áo má kéo kéo. Tiếng cười con nít vang giòn trong gian bếp vách đất, át cả tiếng nước sôi ục ục từ nồi cơm đang sôi trên bếp rạ.
Mặt nó đỏ bừng vì vừa chạy vừa cười, mắt long lanh như háo hức muốn thử ngay cái trò vui vừa nảy ra trong đầu mình. Cái nón của ba thì cứ trễ xuống gần chạm lông mày, làm nó phải ngẩng cổ thật cao để nhìn má. Nhìn nó lúc ấy, vừa ngây ngô vừa đáng yêu, má Lành cười khẽ.
Bà thấy con mình đội cái nón cũ kia mà bồi hồi, tim chùng lại. Tấm nón từng theo chồng đi kháng chiến, giờ lại ngả nghiêng trên đầu thằng nhỏ mới bốn tuổi, y như có một sợi dây vô hình nối hai cha con lại, nối liền hai thế hệ. Trong khoảnh khắc ấy, má thấy ba nó đang đứng trong hình dáng của con trai mình, cái tinh nghịch trẻ thơ hòa lẫn với cái bóng dáng người đàn ông xa vắng.
Má Lành không đáp vội. Bà chỉ đưa tay khẽ lau giọt mồ hôi lăn trên má con, rồi gật đầu, giọng vừa ấm vừa trầm như một tiếng ru: "Ừ, ra sân chơi đi... nhưng trời nắng gắt lắm, đừng chạy ngoài nắng nhiều, nhớ đừng nghịch cát nghe con."
Nói vậy, nhưng bà vẫn chưa để nó đi. Bà kéo nó vào lòng, ôm ghì, bàn tay run run áp lên tấm lưng nhỏ, như thể chỉ cần buông ra thì đứa bé sẽ lọt thỏm vào khoảng không rộng lớn, nơi đầy rẫy những nghiệt ngã ngoài kia. Trung cười khì, không hiểu sao má ôm riết như vậy, chỉ thấy ngột ngạt nên vùng ra, lon ton chạy ra sân, cái nón rộng vành lắc lư theo từng bước, rung rinh như đôi cánh nhỏ, khiến nó trông hệt một con sẻ non đang tập bay trong nắng.
Vừa chạy nó vừa la to, giọng trong veo vang cả xóm: "Bộ đội, hàng một, đi đều! Một! hai! một! hai!"
Má Lành ngồi lại trong gian nhà vách đất, nhìn theo bóng dáng con nhảy nhót giữa nắng. Trong lòng bà dâng lên một nỗi vừa buồn vừa kiêu hãnh, thứ cảm xúc chẳng thể gọi thành lời, như có gai nhọn chạm vào tim, mà cũng như có ngọn lửa thắp sáng ở đó.
Cái sân nhà Trung chẳng rộng gì cho cam, chỉ là một khoảnh đất nện trơ, nhưng từ ngày theo má vào Nam, nơi này đã thành chốn trú ngụ mới, thành một thế giới nhỏ vừa khép kín mà lại bao la trong mắt thằng bé.
Mùa này, đất khô nứt toác, từng vết nẻ ngoằn ngoèo như bàn tay ai vô tình vạch xuống mặt sân. Nắng trải xuống từng khoảnh, chỗ sáng thì vàng rực như mật ong vừa rót, chỗ râm thì mát rượi như giọt nước thấm vào da. Chiều về, gió từ cánh đồng xa lùa lại, mang theo mùi rơm rạ khô, mùi cỏ cháy nắng, lẫn cái hương ngai ngái từ đống rạ chất góc sân, nghe như mùi của ký ức còn sót lại đâu đó trong đất.
Trước ngõ, con đường đất phơi mình trong nắng, bụi đỏ lấp lánh như có ai vừa tung một nắm muối vào không trung. Trên mặt đường, dấu chân gà chen lẫn dấu dép của mấy bà hàng xóm, in hằn lên cái màu đất mùa khô. Ở góc sân, cái lu nước to bằng nửa người Trung lặng lẽ nằm đó, mặt nước sáng long lanh như tấm gương, con chuồn chuồn cứ chập chờn đáp xuống lại vụt bay lên, như thử soi bóng mình mà chẳng bao giờ đủ kiên nhẫn.
Đầu vườn, mấy bụi chuối xoè lá rộng như những chiếc quạt khổng lồ, gió thổi qua nghe phành phạch, vui tai như tiếng trống nhỏ. Bên hè, cây mận già oằn mình, thả xuống sân những vệt sáng lấp lánh, loang loáng như trăm ngàn con đom đóm bay giữa ban ngày. Con chó vàng nằm dài dưới hiên, cái bụng phập phồng theo nhịp thở, chốc chốc ngóc đầu sủa vu vơ vài tiếng rồi lại ụp xuống, thở phì phò như cũng mệt nắng.
Trung lon ton chạy ra sân, bắt gặp một bầy gà con chíu chít quấn quanh chân gà mẹ. Con nào con nấy tròn vo, vàng ươm như những cục bông biết đi, lạch bạch nối đuôi nhau, cái mỏ bé xíu chấm chấm xuống đất tìm mấy hạt thóc vương. Thằng nhỏ khoái chí cười rộ, hai tay chắp lại thành cánh, lom khom làm dáng con diều hâu rình mồi, rồi bất thần "quạc" một tiếng thật to. Cả đàn gà cuống cuồng tán loạn, cánh bay loạt xoạt, gà mẹ lập tức xù lông, xòe cánh lao tới bảo vệ con. Nó thì vừa chạy vừa ngặt nghẽo cười, đôi dép rơm mòn gót văng ra một bên, chẳng thèm nhặt, cứ chân đất mà phóng, đất cát bám vào kẽ chân đỏ au.
Chạy được một quãng, nó lại nghêu ngao hát, chẳng ra giai điệu nào, chỉ toàn mấy tiếng ư ử vô tư. Thấy mảnh gỗ khô vương bên bờ rào, nó nhặt lên làm gươm, làm súng, vừa múa may vừa "đoàng đoàng" vào khoảng không, tưởng tượng mình là ba , người lính oai phong , đang bắn giặc, đang đi giải phóng quê hương.
Xa xa, khói lam chiều bắt đầu bay lên từ những mái nhà xóm dưới, quyện cùng tiếng trâu gọi nghé, tiếng mõ trâu lốc cốc... tạo thành một bản nhạc quê nhà vừa yên bình vừa ấm áp.
Ngoài ngõ, tiếng bọn trẻ hàng xóm í ới gọi nhau: "Ê, đi ra bờ mương bắt cào cào hông!"
"Đi, đi lẹ!"
Cả đám ù té chạy, chân trần quẫy bụi, tiếng cười vang lảnh lót, để lại khoảng sân yên ắng. Trung đứng nhìn theo, cái bóng nhỏ của nó in dài trên sân nắng. Nhưng khi một đứa quay lại thấy Trung, nó chỉ liếc hờ, rồi cả bọn lại chạy đi, không đứa nào gọi nó, cũng chẳng đứa nào rủ. Trung đứng sững một chút, bàn tay khựng lại trên cánh gà con vừa chụp. Nỗi tủi thân len lén như mũi kim châm nhẹ vào ngực: nó cũng muốn đi, cũng muốn có bè bạn, nhưng quen rồi, từ lâu, người ta ít muốn chơi với thằng nhỏ nhà có ba đi đâu chẳng ai rõ, anh cả cũng đi biệt tăm.
Từ nhỏ đến giờ, Trung thường chỉ tự chơi với mình, với gà, với đất, với cỏ dại ngoài vườn, nó thấy vậy cũng vui, chẳng tủi thân gì, nhưng tận sâu bên trong, có một vệt buồn mỏng manh mà chính nó cũng không gọi tên được.
Thế là nó cúi xuống, lại chúi mũi vào đàn gà. Lũ gà chẳng bao giờ chê nó cả, chỉ cần có bàn tay nhỏ bé lùa nhẹ, chúng chạy tán loạn rồi quay lại ríu rít như cười với nó. Trung ngồi thụp xuống đất, lấy que vạch vạch lên mấy vết nứt trên sân, tưởng tượng đó là đường hào, là con sông, là biên giới. Rồi lượm mấy hòn sỏi tròn, xếp thành hàng ngay ngắn như lính đi trận, rồi dùng que tre chỉ huy: "Nghiêm! Nghỉ! Tiến lên!" Giọng ngây thơ mà oai phong ra trò.
Nắng chiều hắt lên đôi má trắng nõn, mắt nó cười híp lại, ngây ngô mà rạng rỡ. Nhưng cái buổi chiều hiền lành ấy bị xé ra làm đôi bởi tiếng dép lẹp xẹp và cái giọng the thé lạ tai:
"Ối chà! Thằng Trung nay lớn nhỉ?"
Người nói là bà Bảy bán dầu ở đầu chợ, cái miệng mỏng lét đỏ quạch trầu lúc nào cũng tươi cười nhưng nói toàn lời khiến người ta gai sống lưng. Bà chống nạnh, đảo mắt một vòng như tìm chuyện, rồi như tiện miệng hỏi, nửa cười nửa xoáy:
"Mấy tháng nay... người ta đồn hoài, không biết thiệt hông nghen. Hồi còn ở Bắc, nghe bảo anh hai Hoàng của mày... nghe là cán bộ, là Đảng viên gì ghê gớm lắm, rứa mà lại đầu hàng bọn Tây, vậy nên mới không thấy mặt mũi gì ở đây đúng không? Ngoài Bắc chắc dị nghị quá nên má con mày chạy vô đây ở à?"
Bà chưa dừng lại, còn hạ giọng, nhếch mép: "Mà... dạo ni, chiều chiều tao thấy bọn Tây, bọn lính lê dương tới nhà má mày. Bộ họ cho cái chi hả? Ba mày có biết chuyện không Trung? Ổng đi làm xa gì đó sao biết má mày ban đêm cho đàn ông vô nhà. Hay ba mày đi thật luôn với ai rồi nên má mày vậy mới không về."
Nó nhớ lại mấy lần trong đêm, quả thật có mấy ông Tây cao to tới nhà hạch hỏi, má ra tiếp, nhưng gương mặt căng thẳng, rồi má xua họ đi. Nhưng nó chỉ nhớ ánh mắt má khi đóng cửa lại, đỏ hoe, chứ chẳng hiểu gì hơn. Nó ngơ ngác, lắp bắp: "Dạ... con hông biết"
Bà Bảy lại hất cằm, giọng sắc như dao: "Mày thì không biết gì, nhưng người lớn tụi tao nghe hết. Má mày lại biết tiếng Tây, chắc làm cho tụi quan Tây cũng không chừng!"
Những chữ độc địa rơi xuống ngay trước mặt đứa trẻ mới bốn tuổi. Trung đứng ngẩn ra, tay nắm chặt cành tre, hai mắt tròn xoe, chẳng hiểu "làm cho tụi quan Tây" nghĩa là gì, chỉ nghe thấy tên anh hai và nhắc đến má thì tim bé xíu đập mạnh.
Nó chưa kịp mở miệng thì từ trong bếp, "Chị Bảy!" Tếng má Lành vang lên, dằn từng chữ. Má Lành đã bước vội ra, trên tay còn dính tro bếp.
"Chị Bảy, nói cái chi kỳ cục rứa?" Giọng má đanh lại, mắt nhìn xoáy vào bà Bảy.
Bà Bảy cười khành khạch, vội xua tay:
"Ối giời, tui có nói chi mô. Chỉ nghe người ta đồn rồi hỏi thử cho biết."
Má Lành nhìn thẳng vào mặt bà. Cái giận sôi lên tới cổ, nhưng bà nuốt xuống. Rồi bà quay sang, nắm lấy tay con: "Trung, vô nhà đi con."
Thằng nhỏ ngập ngừng, tay vẫn ôm chặt cành tre, nhưng thấy mắt má nghiêm quá, nó lặng lẽ đi vào, nhưng đôi mắt vẫn cố ngoái lại, vừa lo cho má, vừa muốn nghe hết.
Ngoài sân, bà Bảy vẫn cười giả lả, vặn vẹo: "Tui nói rứa chớ có ý chi đâu nghen. Tôi... tôi tính qua coi chị có ít gạo dư cho tôi xin, ông nhà tôi mới ốm dậy. Nghèo khổ mà, chị thương thì cho..."
Má Lành mím môi. Bà biết thừa cái tính lặt vặt của người đàn bà này: vay gạo mấy lần chưa trả, thậm chí còn lén hái trái trong vườn. Nhưng thôi, đã ở cái xóm chạy loạn với nhau, cái nghèo khiến con người ta thành ra như thế, bà chẳng nỡ làm to chuyện.
"Đợi đó đi." Má quay vô, bới một lon gạo đưa ra, kèm theo giọng lạnh như nước giếng: "Lần trước còn chưa trả đó. Nhà tôi cũng nghèo, gạo có phải từ trên trời rơi xuống đâu. Chị khó khăn thì tôi thương tình, nhưng ăn nói cho phải lẽ."
Bà Bảy lảng đi, cười cười, rồi ôm gạo ra cổng, bà Bảy vẫn nheo nhẻo:
"Thiệt tình, ai cũng nói chứ tui đâu có bịa... làm như oan lắm không bằng."
Má Lành đứng thêm một chốc ngoài hiên, mắt dõi theo cái dáng gầy của bà kia lủi thủi đi xa dần trên con đường đất, đôi vai còn run nhẹ như con chim vừa giãy ra khỏi nan tay ai bóp chặt. Cơn tức chưa kịp nguôi thì trong lòng lại dâng lên một nỗi chùng chình khó gọi tên. Giận thì có giận, nhưng cái cách người đàn bà ấy vừa nhắc đến chuyện bom đạn, nhắc đến cảnh đàn ông đi biền biệt ngoài trận mạc... khiến má nghe như có cả ngàn vết gai đâm vào trong tim, rút ra thì đau, mà để đó thì nhức nhối. Cái câu nói chát chúa vừa rồi vẫn còn đọng lại trong tai, dẫu bà cố gạt đi, vẫn như còn sót lại âm vang, lởn vởn trong đầu làm bà tức nghẹn nhưng đồng thời cũng chát đắng tận tim. Má cắn môi, bàn tay nắm lại, rồi thở ra, dặn lòng phải vững, má còn Trung, nhà này, dẫu thiếu vắng đàn ông, vẫn không thiếu cái điều cao hơn chính là lòng tin và nghĩa khí.
Lau vội khóe mắt, má xoay người vô nhà, định bụng sẽ tìm thằng Trung. Chẳng ai trong xóm này được quyền gieo vô lòng nó một hạt giống nghi ngờ nào với người thân ruột thịt của nó cả. Mà nó đâu rồi? Vừa nãy còn loanh quanh ngoài sân kia mà.
Ra đến gian bếp, má khựng lại. Trong cái khoảng tối mát rượi mùi khói bếp, má gọi khe khẽ: "Trung, con ơi."
Trung đang ngồi chồm hổm trước nồi cơm đang sôi ùng ục, hơi nước trắng xóa bốc lên đỏ cả mặt. Thằng nhỏ mới bốn tuổi, chân tay lách chách như con mèo con, cứ lom lom, đôi mắt tròn đen nhánh nghiêng nghiêng nhìn cho bằng được cái nồi như sợ nó trào ra ngoài, xem cái nắp nồi nhảy lách tách như chơi trò ú tim. Được một lát, nó tò mò, thò tay định nhấc hé nắp ngó thử cơm chín tới đâu, hơi nước phà ra làm bỏng rát cả bàn tay.
"Ái da!" Nó giật nảy, kêu nhỏ, rụt vội tay lại. Cái môi nó mím chặt, không khóc, không la, như sợ má mà nghe thấy thì buồn. Nó quen rồi, ba đi rồi, cái gì cũng ráng làm cho má để má đỡ cực.
Trung xoa xoa vào vạt áo, nhanh trí dúi vội bàn tay đỏ ửng vào giữa bụng và đùi, lấy cái vạt áo che lại, như thể chỉ cần giấu kỹ thì má sẽ không biết, làm bộ như không có chuyện gì.
Má bước vào, thấy nó lom khom như ông cụ non bên nồi cơm, liền hỏi: "Con làm gì đó Trung?"
"Con... con coi cơm cho má nè, không thì khê mất! Nó sôi vui lắm má, nó hát "bụp bụp bụp" nè!" Nó cười hì hì, giấu bàn tay đỏ ửng ra sau lưng, mắt long lanh như không có gì.
Bà vừa nhìn là biết hết. liếc xuống vạt áo nó còn dính vệt nước sôi, lòng thắt lại. Bà ngồi xuống bên con. Lòng vừa tủi vừa thương. Tủi cho phận mình, thương cho thằng con trai còn nhỏ xíu đã phải nghe những lời như dao cứa. Lại vừa nghẹn, cái thằng này, nhỏ xíu mà cứ như người lớn. Bà ngồi xuống bên cạnh, đưa tay kéo nó lại. "Nóng thì để đó cho má, con ráng giữ làm chi mà phỏng tay vậy hả? Đau không con?"
"Dạ... hổng có. Con lớn rồi mà." Trung giấu bàn tay ra sau lưng, mắt vẫn nhìn nồi cơm, làm như bận lắm.
Bà khẽ thở dài, bàn tay vuốt nhè nhẹ lưng con như dỗ một giấc mơ chập chờn. Một lát, đôi mắt thoáng ngập ngừng, bà cắn môi rồi cất giọng dè dặt, run run như sợ chính lời mình: "Trung nè... ngoài kia, người ta có nói gì với con không? Con có nghe, có tin chi không? Con có nghĩ... ba con, với anh hai con... lại như lời người ta đồn đại hông?"
Trung xoay xoay ngón tay vừa bị bỏng, đôi mắt tròn xoe, trong vắt như giọt nước giếng làng, ngây ngô mà sáng rực lạ thường. Nó ngồi lặng một chốc, mặt mày như đang ôm cả một mớ nghĩ ngợi vụn vặt trong đầu bé con. Rồi bất thần, nó lắc đầu cái rụp, mái tóc tơ rối bù tung bay loạn xạ. Chẳng hiểu giận hờn gì, thằng nhỏ bỗng chống nạnh, môi mím lại như cố nuốt cục tức, và ngay sau đó bật ra một tràng dài liến thoắng, quên bẵng luôn cái tật ngọng líu ngọng lô thường ngày.
"Con hổng tin đâu! Ba con đi xa có việc mà. Con đọc nhật ký của ba rồi, ba viết ba nhớ má, nhớ con lắm... Ba còn biểu má ráng ăn cơm cho khoẻ, chớ ốm riết má bệnh thì ba buồn. Người mà bỏ đi thì làm chi còn nhớ, làm chi còn dặn dò như rứa? Ba còn hứa mai mốt ba về sẽ bồng con chạy thi với tụi bạn nữa kìa. Ai mà nói bậy, con hổng chịu mô! Còn anh hai... anh ở ngoài Bắc học giỏi, anh bận việc lớn, nên mới chưa viết thư về cho má với con thôi!"
Vừa nói, nó vừa đưa tay vẽ vẽ mấy vòng trên không như muốn viết lại lời của ba, vừa nhảy cẫng một cái như đang chạy thi thật. Giọng non nớt mà chắc nịch, tỉnh queo, chân chất như thể đó là một lẽ hiển nhiên không thể bàn cãi.
Nghe tiếng con trẻ hồn nhiên mà má thấy nghèn nghẹn. Một thằng nhỏ mới tí tuổi đầu, cái đúng sai chưa thành hình, nhưng qua những dòng chữ nghiêng nghiêng của ba, nó đã tin tưởng vào điều ngay thẳng bằng cả tấm lòng non nớt.
Bà nhớ như in cái đêm ông trở về rồi đi ngay trong vội vã. Ông ôm ghì lấy bà, những cái hôn vội vàng xen trong lời trách móc và nước mắt nghẹn. Vai áo ông ướt đẫm, vai áo ướt đẫm như trĩu cả gió ngàn và mồ hôi đường xa và cả giọt nước mắt bà tuôn ra trong cơn run rẩy. Cuộc gặp gấp gáp, ngắn ngủi đến nao lòng, như ngọn lửa chợt bùng rồi vụt tắt, vậy mà từng câu ông thốt ra khi ấy vẫn còn nguyên hơi ấm, ngấm vào tim bà, đằm thắm, thiết tha tới tận bây giờ.
Ông chẳng kể gì nhiều về tình hình cách mạng, cũng chẳng nói mình sẽ đi đâu. chỉ nhìn bà thật lâu rồi dặn: "Anh đi đánh giặc, để mai sau con mình không còn phải sống kiếp nô lệ. Nhưng trong từng bước chân anh đi, anh vẫn nhớ em, nhớ con. Em ở lại, bền lòng vững dạ... chờ ngày thắng lợi. Trả xong nợ nước, anh sẽ trở về với mẹ con mình."
Nghĩ lại, bà vẫn thấy buồn cười. Ông vốn vụng về, ăn nói quê mùa, lắm khi sến sẩm như chàng trai mới lớn. Vậy mà hôm ấy lại cất được lời thiết tha đến thế. Chính những câu chữ mộc mạc ấy đã cho bà chỗ dựa để tin, để bám víu mà sống qua những tháng ngày dài đằng đẵng. Tin rằng, một ngày nào đó, trong khúc khải hoàn của chiến thắng, ông sẽ trở về, mở cánh cửa tre ọp ẹp này, lại gọi tên bà, tên con, như chưa từng có khoảng cách nào ngăn trở.
Trung thì vẫn hồn nhiên, túm lấy bàn tay má, đặt lên đầu mình, giọng líu lo: "Đợi ba về, con sẽ la to cho cả làng biết ba con đi làm việc lớn, đi với Bác Hồ! Oách ơi là oách!"
Má Lành bật cười, mà nước mắt lăn nóng rát. Thằng nhỏ ngây ngô quá, vô tư quá, nhưng cái vô tư ấy lại quặn xoắn tim bà hơn bất cứ lời người lớn nào. Nó chưa biết thế nào là một lời hẹn xa xôi, chưa biết ước mơ đôi khi tan như khói. Nó chỉ có một niềm tin trong vắt, tin ba nó, tin các anh nó, những người đàn ông trong đời nó, dù đi xa đến đâu, vẫn thương nó.
Bà kéo nó vào lòng, để đôi bàn tay bé bỏng nóng rực ấy áp lên gương mặt mình. Giây phút ấy, bà vừa nhẹ nhõm, vừa nghẹn ngào. Nhẹ vì con bà chưa vẩn đục, tin vào ba, tin vào các anh nó bằng tất cả sự hồn nhiên tuyệt đối. Đau vì bà biết, chính niềm tin trong sáng ấy một ngày nào đó cũng có thể bị chiến tranh quăng quật, thử thách, làm rạn nứt.
Trung áp vào ngực má, nghe tim bà đập thình thịch, trong lòng thấy yên. Rồi như có cái y tưởng nào đó nảy ra, nó hớn hở ngẩng đầu, thì thầm khoe: "Má, mai con kể cho tụi ngoài sân đình nghe ba con cũng có thư gửi cho má với con nha?"
Má giật mình, vội đặt ngón tay lên môi con, lắc đầu khẽ khàng nhưng dứt khoát: "Không được, con. Nhớ lời má dặn không? Ra ngoài, ai hỏi thì chỉ nói ba đi làm xa, anh đi học xa. Không được nói chuyện khác, nghe chưa?"
Đôi mắt Trung thoáng xịu xuống. Nó muốn lắm, muốn cho cả làng biết ba nó không hề bỏ đi, rằng ba vẫn đang làm chuyện lớn, vẫn thương mẹ con nó tha thiết. Nhưng nghe lời má, nó chỉ im lặng gật đầu. Trong ánh mắt nó, cái ngoan ngoãn sớm già dặn kia như vệt nắng cuối chiều: đẹp đến xót xa.
Nó ngẩng nhìn má thật lâu. Trong ánh chiều hắt nghiêng qua mái rạ, gương mặt má hiện ra rõ mồn một: những nếp nhăn mảnh như sợi chỉ, đôi mắt đượm một nỗi buồn âm thầm chẳng bao giờ nguôi, như thể lúc nào cũng dõi về một nơi xa thẳm. Trung bỗng thấy má mình vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, như một ngọn núi đã hằn vết mưa gió, lặng lẽ che chở mà cũng mỏi mòn.
Thằng nhỏ hiểu chuyện lắm, ngoan ngoãn như thể trong thân xác bé con ấy đã cất giữ tâm hồn của một người lớn. Nhưng sâu trong đầu nó, chợt bật lên một câu hỏi ngây ngô mà nó không dám thốt thành lời:
"Nhà mình có làm chi đâu... sao người ta lại ghét nhà mình đến vậy?"
Nỗi thắc mắc nhỏ bé ấy như nhát dao mỏng, cắt vào bóng hình má trong mắt Trung. Từ giây phút ấy, hình bóng người mẹ hiền không chỉ là chỗ dựa dịu dàng, mà còn là một dáng hình chịu đựng, gánh hết phong ba cho cả nhà.
Nó mới bốn tuổi, không sao hiểu được. Nó chỉ thấy, ngoài kia, gió thổi, lũ gà vẫn chạy quanh sân. Còn trong lòng nó, có cái gì ngổn ngang, vừa ngờ ngợ, vừa nhoi nhói.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com