VƯỢT LUÂN HỒI VÀO TỊNH ĐỘ
Vượt Luân Hồi Vào Tịnh Ðộ
Pháp Bảo Ấn tống – PL 2547
Sydney – Australia - 2003
Thích Phổ Huân
---o0o---
Mục Lục
Lời giới thiệu
Lời dẫn
Chương I: Quay cuồng trong sinh tử
Chương II: Hiểu lời Phât dạy, trong kinh A Di Ðà
Chương III: Phá vỡ chướng ngại, Trên đường Niệm Phật
Chương IV: Niệm Phật vượt lên nhân quả Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác
Chương V: Hành trang của người Niệm Phật
Chương VI: BỒ ÐỀ TÂM quyết định sự vãng sanh của hành giả niệm Phật
Chương VII: Niệm Phật đi vào đời
Chương VIII: Nghĩ về sự chết chắc chắn.
Chương IX: Những công đức, phước đức có công năng trợ giúp hành giả niệm Phật vãng sanh.
Chương X: Vượt qua sinh tử
Lời Bạt
Lời giới thiệu
Nhận được bản thảo cuốn "Vượt Luân Hồi Vào Tịnh Ðộ" của Thầy Phổ Huân gởi từ Úc qua Ðức bằng đường hàng không và nhờ tôi giới thiệu trước khi in thành sách. Dĩ nhiên là tôi rất hoan hỷ. Tôi đã bỏ ra mấy ngày để đọc tác phẩm này.
Sách gồm có 10 chương và mỗi chương như thế tác giả đã hình thành cho một chúng sanh và nhiều chúng sanh ở nhiều dạng thức khác nhau. Lúc thì làm Vua, lúc thì làm Trời, lúc làm người, lúc làm A Tu La, lúc làm súc sanh v.v... mãi sanh tử cuốn chìm trong biển nghiệp. Rồi cũng chính từ chúng sanh đó có nhân duyên nghiền ngẫm kinh A Di Ðà bằng nhiều lối nhìn qua niềm tin, tôn giáo và triết học. Sau đó tác giả phân tích thế giới qua hiện tượng và tuệ nhãn của Phật, để đi đến kết luận là ngoài thế giới nầy còn có vô vàn thế giới khác nữa, mà trong kinh Phật gọi là: Hằng hà sa số thế giới.
Chúng sanh khi phát tâm niệm Phật thì vượt lên khỏi những đối đãi thường tình, mà do Tín, Hạnh, Nguyện là ba điều căn bản để chúng sanh đó thành tựu đức tin và hạ thủ công phu, đi vào pháp môn niệm Phật để vượt khỏi luân hồi, đi vào Tịnh Ðộ. Khi đã đới nghiệp vãng sanh, quả vị ấy tuy nhỏ ở cõi Tịnh Ðộ; nhưng vượt qua khỏi cõi người và cõi Trời; nơi an ổn, gần bên Ðức Từ Phụ A Di Ðà để tiếp tục tu chứng Thượng phẩm Thượng sanh vậy.
Khi phát tâm niệm Phật cũng đồng thời phát tâm Bồ Ðề cầu được vô thượng chánh đẳng chánh giác, là quả vị Phật mà hành giả của Tịnh Ðộ Tông quyết trong một đời hay nhiều đời phải đạt đến.
Trong cuộc đời này ai trong chúng ta sinh ra rồi cũng phải chết. Vì thân nầy được cấu tạo bởi tứ đại: đất, nước, gió, lửa mà thành, thì khi tứ đại không còn hòa hợp nữa, phần nào sẽ được trả lại phần đó cho thiên nhiên, đất trời và vạn vật. Tuy nhiên nếu người biết tu, tạo những công đức, phước điền như bố thí, trì giới, niệm Phật v.v...thì đây là những công năng vi diệu giúp hành giả có thể vãng sanh về thế giới Tây Phương của Ðức Phật A Di Ðà.
Cuối cùng của sanh tử vẫn là chốn Phật hiện thân. Do vậy mà trong sanh tử đã có Phật tánh và từ tánh Phật nầy, mỗi chúng sanh đều có thể thành Phật; nếu nhất tâm niệm đến danh hiệu của Ðức Phật A Di Ðà trong khi sống cũng như trước lúc lâm chung. Ðiều nầy ai cũng có thể làm được hết trong đời mạt pháp nầy.
Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư, người đời Tống bên Trung Quốc suốt đời tu Thiền; nhưng cuối đời Ngài cũng đã hạ thủ công phu tu pháp môn Tịnh Ðộ. Trong sự quyết nghi của sanh tử ấy, Ngài có để lại đời sau bốn điều như vầy:
1. Trong đời mạt pháp nầy vạn người tu Tịnh Ðộ đều chứng hết cả vạn người.
2. Trong đời mạt pháp nầy mười người tu Thiền chỉ chứng được có một người.
3. Trong đời mạt pháp nầy nếu ai tu cả Thiền lẫn tu Tịnh Ðộ thì chẳng khác nào chúa tể sơn lâm có thêm hai sừng.
4. Trong đời mạt pháp nầy nếu chẳng tu Thiền lẫn chẳng tu Tịnh Ðộ, khi chết xuống, chỉ có cột đồng và nước sôi.
Ðây là 4 điều khẳng định của Ðại Thiền Sư đời Tống và những điều nầy đã được giảng giải rành mạch trong "Qui Nguyên Trực chỉ".
Ðời nầy tu Thiền vẫn có người chứng; nhưng so ra với Tịnh Ðộ thì khó hơn và ít chứng hơn. Chi bằng tu pháp môn Tịnh Ðộ, nương vào tha lực của Ðức Phật A Di Ðà là điều dễ làm nhất mà thành quả lại cao.
Tu Thiền giống như chúng ta biết bơi; nhưng liệu ta bơi được bao lâu? có lẽ chừng vài tiếng đồng hồ; nhưng sau đó thì sao nữa ? Tu Tịnh Ðộ thì khác, sau khi bơi mỏi rồi, có chiếc thuyền bên cạnh, ta có thể nương vào đó để nghỉ ngơi và đó là sự trợ lực của Ðức Phật A Di Ðà.
Tu Thiền cũng giống như một người đứng vững hai chân; nhưng đứng được bao lâu ? - Có lẽ chừng vài tiếng đồng hồ. Rồi sao nữa ? - có thể ngã quỵ lúc nào không hay biết; nếu tự lực mình không kham nổi. Còn tu Tịnh Ðộ ? Sau khi đứng mỏi chân rồi, ta có bức tường để dựa lấy sức và lần theo lực gia trì của Ðức Phật A Di Ðà cùng nhị vị Bồ Tát Quan Thế Âm và Ðại Thế Chí, ta có thể đi vào cõi Cực Lạc một cách an nhiên tự tại.
Thế thì không còn gì nữa để nghi ngờ. Các hành giả nên đọc sách nầy và từ đó có thêm một chút hành trang, một chút tín tâm để đi vào cõi Tịnh Ðộ như sách "Hương Thơm Niệm Phật" đã có lần Thầy Phổ Huân trao gởi đến quý vị độc giả xa gần lâu nay.
Xin trân trọng giới thiệu sách "Vượt Luân Hồi Vào Tịnh Ðộ"; sách dày 253 trang, nội dung rất phong phú, văn mạch rất lưu thông, dễ đọc, dễ hiểu. Sách do chùa Pháp Bảo ấn tống và Thượng Tọa Thích Bảo Lạc là Bổn sư của Thầy Phổ Huân đã tùy hỷ công đức.
Mong rằng mọi người, mọi loài đều phát tâm niệm Phật để hoa sen nơi thế giới Cực Lạc được mãn khai thì Ta Bà nầy chúng sanh không còn khổ ải nữa.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát
Vào một sáng mùa Xuân năm 2003
tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Ðức Quốc
Thích Như Ðiển
Lời dẫn
Ðường học Phật mênh mông nào ai tự hào quán triệt, nhưng khi ý thức Phật tại tâm mình, thì hiện pháp chẳng còn xa !
Nẻo về Như Lai Tạng lại chẳng lạ, chẳng thường duy cũng từ tâm phát khởi.
Nhân duyên khởi viết tập sách này, không ngoài ý thức mong rõ thấy con đường, mong thấy Như Lai tánh.
Thật vậy, đã bấy lâu rong ruổi trong đời trải qua bao thăng trầm thô tế, mà vẫn hoài trôi nổi si mê - con đường đi qua nào phải xa chánh pháp, nhưng sao lòng vẫn trĩu nặng chất tình xa!
Tình của người trong sáu nẻo!!
Trong sáu nẻo kia chỉ có một nẻo người, sao lại để tình người rơi vào khổ lụy!
Ðó vì biển động của tâm, không chống chỏi được pháp trần hữu lậu; nên biến động thành tình, tình vọng thức vô minh !
Niệm Phật chỉ là một trong muôn pháp, từ dòng sáng chân viên của chư Phật mà lưu xuất hóa thành. Và ngay đời này, pháp đó hiển lộ khởi sinh một cách nhiệm mầu; nhưng vẫn cụ thể rõ ràng, sinh động, năng dừng mọi vọng tưởng chúng sanh.
Người viết không biết tự nhân duyên bao giờ nay gặp được! Xin chân thành mến mộ kính ghi chia xẻ cùng tất cả bạn đường xa.
*
Thảng hoặc có chi khúc mắc trong văn ý, đó là do kiến thức của người viết hãy còn nông cạn, kính xin Quý vị thiện tri thức độc giả lượng tình mách bảo cho. Nhân cũng xin tri ân đến quý tác giả, dịch giả mà người viết đã mạn phép trích ghi sao lục.
Cuối cùng, nếu được duyên lành công đức chi từ nơi tác phẩm này, nguyện xin hồi hướng đến tất cả chúng sanh trong pháp giới đều sanh về Tịnh độ.
Nam Mô A Di Ðà Phật
Pháp Bảo tự năm 2003
TK. Thích Phổ Huân
Chương I
Quay cuồng trong sinh tử
-Không gian, thời gian quay cuồng trong sinh tử.
-Tìm kiếm và định đoạt.
Ngày đó, một ngày xa xưa lắm, những người vô minh say ngủ như chúng ta, trải qua không biết bao nhiêu biên cõi thế giới. Mỗi lần đi vào một cõi, mỗi lần phải tranh đấu sống còn; nhưng nào đâu có chết mà phải tranh đấu, vì ta đã ở ngay trong biển sanh tử! Và mỗi giọt nước của biển là một cõi, nên sự sanh tử chỉ là bọt nước lăn tăn gợn lên gợn xuống; nhưng ta lại cho là thật, chắc vì nơi ấy quá khổ, quá vui!
Trong những chặng đường lặn hụp mang đủ dạng hình tâm thức, ta đã kinh qua bao lần sinh tử và cuối cùng một ngày đã đến với chúng ta!!
Không gian, thời gian quay cuồng trong sinh tử.
...Có kiếp ta là vị vua anh minh hiền đức trị vì đất nước giàu mạnh. Chung quanh còn có những cận thần thông tuệ, trung tín thờ vua, giúp vua giải quyết mọi vấn đề trong, ngoài cung điện một cách trôi chảy. Hạnh phúc hơn, Hoàng hậu phu nhân vừa xinh đẹp nhân đức lại thông minh sáng suốt, là nguồn vui sáng lạn xóa tan nỗi bất bình phiền muộn một khi vua được phu nhân giải bày an ủi.
Hai vị chăn dân hiền đức như vậy, chắc chắn sanh ra quả vị ngọt ngào thơm mát. Thật đúng! Hoàng Thái tử người con cả, kế đến hai cô công chúa, ba vị như ba bông hoa rực rỡ của cung điện vàng.
Cuộc sống an bình thịnh vượng của triều đình lan tỏa khắp thôn làng dân giả, khiến nhà nhà hạnh phúc ái mộ những con người đức cao, giàu phúc đã ban rải cho dân chúng một đời sống an ninh hạnh phúc ấm no.
Rồi thời gian trôi qua, vị vua anh minh này già đi; tất cả những vẽ đẹp cùng thời với vua theo đó suy sụp. Ba đóa hoa đẹp của điện vàng cũng không còn như ngày đầu mới nở. Họ đã có gia đình, có con, đã cằn cỗi theo thời gian năm tháng.
Trước khi nhắm mắt, vua tuy hài lòng đã để lại mọi thứ cho vương triều đất nước, nhưng sự thương yêu say đắm vẫn không sao khỏi vấn vương. Thế là hai mắt nhắm đi, tưởng đâu rũ bỏ, nào ngờ thần thức nhà vua hãy còn mang theo bao nỗi tiếc thương!.
Do phước báu hãy còn đầy, thần thức lại tái sanh làm vua, nhưng vào quốc vương khác, bởi vì kiếp trước xa nữa, vua dệt nên say đắm ái nghiệp ở đất nước đó nhiều hơn, nên nghiệp lực khiến vua không trở về được nơi triều đình vừa bỏ xác.
Ðây là vấn đề nhân quả tinh tế, phức tạp khó thể nghĩ bàn, chúng ta vì chỉ hạn cuộc nhìn thấy một đời hiện báo nên có nghi ngờ thắc mắc. Tỉ dụ một người mắc nợ ít, họ sẽ không lo thanh toán trả trước, mà phải giải quyết món nợ nhiều hơn, dù nợ ít mới mượn hay đã mượn lâu.
Vậy chỉ là lần lượt thanh toán; nên khi sanh ở chỗ này chỗ kia khiến tìm cách gắn bó giao lưu, đó là cách giải quyết ân oán day dưa cũ mới.
Nơi tái sanh này cũng ngai vàng điện ngọc, khiến vua chẳng thấy xa lạ gì. Vua này thân cận với triều đình A, tiền kiếp vừa rồi, do tình thâm luyến ái vẫn còn đầy ở đó, và hai bên thường thâm giao qua lại.
Cứ thế thời gian trôi qua, kẻ say ngủ sắm vai vua cũng khá nhiều. Ðây do thiện nghiệp tạo ra trong quá khứ, nên hưởng quả lành mang được thân vua nhiều lần như vậy.
Cho đến một kiếp, trong cơn hấp hối, vì quá nặng tình, nặng của; thần hồn (thần thức) nhà vua ra đi mang đầy thương ái nhớ nhung, nhớ người tiếc của! Vua có thể không tham tiếc của cải ở một vài kiếp, nhưng trải nhiều kiếp làm vua, tâm thức càng dệt thêm niềm thương yêu sâu đậm. Và thế cho đến kiếp đây, vua chết đi không còn nhẹ nhàng êm ái nữa.
Cảnh tượng ra đi thật bi thương; vua ghì tay ôm hoàng hậu, hướng mắt về công chúa, cận thần, khiến họ không dằn được xúc động tạo nên âm thanh nức nở nghẹn ngào thảm thiết ...
Thần hồn nhà vua vừa thoát ra thể xác đã quay lại gào to: Không không, trẩm đâu có chết, trẩm còn đây mà! Nhưng cảnh tượng nào đâu thay đổi, họ càng gào khóc to hơn, và xác chết nhà vua phải rung chuyển theo sự lay động ghì kéo khóc than của người thân quyến...
Thân Trung Ấm người chết vì chứng kiến cảnh đau thương như vậy, càng tăng thêm bi lụy, đến nỗi không chịu nhìn lại xác chết kia là vật giả tạm, mà bây giờ thần thức đã thoát ra khỏi nó.
Cho đến khi kim quan nhà vua đặt vào lòng đất, Thân Trung Ấm vẫn chẳng tin mình chỉ là dòng ý thức sống mượn tạm thân ngũ ấm thô kệch này.
Sau khi bị nghiệp lực chi phối, không thể cưỡng lại và hãy còn ít phước báo, lần tái sanh này tuy không được làm vua, vẫn làm được thân quan lớn, quan thừa tướng trung tín của triều đình; triều đình mà kẻ say ngủ say đắm nhất trong quá khứ. Vị quan thần này lại phải đấu tranh bám vào chức vị, hầu được thời gian cơ hội ngắm người, nhìn vật mà quan thần đã sống trong tiền kiếp qua!
Thời gian lại tiếp tục trôi, vị thần già nua bấy giờ chuẩn bị ra đi, bỏ lại tất cả niềm thương tiếc. Trong niềm tiếc thương địa vị tài danh vật chất, lão thần có lần nhen nhúm phóng tâm ước ao mình sẽ được lên ngôi trị vì thiên hạ; nực cười thay, ước mơ đó đã thành tựu từ lâu và không những một lần trị vì thiên hạ, mà đã nhiều lần! Mĩa mai hơn, điện ngọc cung vàng nơi tiền thân làm vua của lão thần, vẫn hiện hữu đó, và nếu lão thần nhận ra điều này, thì sự kinh hồn hoảng sợ của việc tái sanh, sẽ làm lão chết đi không thốt nên lời!
Nghiệp thức say ngủ của kẻ lang thang trong giòng sanh tử, bây giờ tái sanh làm vị quan nhỏ, cai quản một thị trấn cách triều đình hơn 10 dặm. Giờ đây hiếm có cơ hội nhìn ngắm điện vàng, cung phi, mỹ nữ ...Giấc mơ vị quan nhỏ chỉ làm sao, thu đạt được nhiều bạc tiền, lấy lòng triều đình hưởng ân hưởng phước vua ban.
Tái sanh làm quan như vậy nhiều kiếp, rồi có một kiếp vì quá say mê sắc dục, muốn thỏa dục tình, cưỡng ép thường dân, hiếp kẻ thế cô chẳng còn liêm sĩ. Hành động như thế ngày càng làm dân oán hận, cho đến lúc chính người vợ của y phải điều tra sự thật, vì tai tiếng và ghen tức. Biến cố, hậu quả của vị quan tham sắc, lạm quyền đưa đến đổ vỡ tan nát gia đình; để rồi chỉ còn sống trên tước vị bằng màu sắc hào nhoáng chết lạnh, hợp theo tâm hồn cô lạnh của y.
Chuyện lại không đơn giản như vậy, cùng lúc có người trình đến vương triều, tội trạng lạm quyền hà hiếp lương dân - cuối cùng y bị truất phế tước vị, thành kẻ lang thang vô định, rồi chết đi trong oán giận, sân hờn.
Kiếp này kẻ say ngủ sanh vào gia đình bần cùng nghèo đói, đó là quả báo nghiệp tội phung phí tiền của, cậy quyền ép uổng sát phạt người thế cô. Quả báo làm hắn đau khổ hơn, khi phải sống một nơi không xa nhà vị quan huyện giàu có; để chứng kiến cảnh giàu sang dư tiền lắm của đối lại cảnh khổ, thiếu ăn thiếu mặc mà hắn phải đương đầu. Tình cảnh như thế giết lần tinh thần thể chất của hắn, và rồi chết đi trong mê mờ ngu muội oán giận cuộc đời.
Lần này kẻ say ngủ sắm vai kiếp sống lang thang vất vưởng, làm kẻ ăn mày thường bị người xua đuổi hà hiếp mà chính hắn không hiểu vì sao bất hạnh vậy.
Làm kẻ ăn xin đói khổ, trải qua nhiều kiếp, kẻ say ngủ tự nhận được điều gì oái oăm của kiếp sống! Ðiều đó khiến cho tánh chất hung hăng thô lỗ tự giảm dần; rồi cảm thương cho mình bất hạnh; suy nghĩ vì sao phải đến nỗi này! Ðau xót cảm động thương hại chính mình đến xúc động tột cùng, rồi lâm bệnh chết đi trong cô đơn lạnh lẽo .
Dù thần hồn đã hối lỗi nhận hiểu số phận mình, nhưng nghiệp nhân quá khứ vô tư nào đâu thiên vị. Hắn tái sanh nhiều lần làm kẻ bất tài yếu đuối, sống thiếu thốn lo âu. Nhiều kiếp lại sanh làm thân nữ, phải trả quả báo, bị người hiếp đáp, làm nhục, nhưng không đau đớn bằng kiếp súc sanh, cầm thú bị người đánh đập giết ăn.
Trong kiếp súc sanh, hắn phải đau khổ qua cảnh phân chia lìa đám xa bầy, thường khi trốn lánh, mất ăn bỏ ngủ. Kiếp thú đầu tiên lãnh chịu là kiếp nai, thỏ, loài thú không chỉ làm mồi cho con người, còn là món ngon của thú dữ. Ðó là những hành nghiệp mà kẻ say ngủ tạo nhân khiếp đảm tổn hại đến người và vật. Nhưng cũng có kiếp mang thân thú dữ như: hỗ, báo, sư tử do vì tập khí quá hung hăng dữ tợn của hành nghiệp quá khứ.
Dù thế, song hành với nhân quả báo ứng, kiếp thú dữ như vậy vẫn phải sợ hãi trước đám thợ săn hung tợn, vui đùa với lằn tên mũi đạn xuyên qua máu thịt của bất cứ loài thú nào bị săn đuổi. Ðôi khi thú càng dữ, thợ săn chuyên nghệ càng thích trổ tài lùng bắt. Kẻ say ngủ tưởng rằng với sức mạnh chúa sơn lâm chẳng còn lo sợ, nhưng rồi cũng bị phân thây lột da, cho loài người thưởng thức. Cũng không phải chỉ có loài người làm hại, loài thú dữ vẫn phải đau khổ do thiên họa trời đất, lắm lúc đành phải mang thân đói khát chết đi.
Xuống lên sanh tử không một cõi nào mà kẻ say ngủ không trải qua; mỗi lần trải qua, lại không một đau khổ nào không nếm đủ. Những tưởng, tuyệt đối cõi người toàn sung sướng, nào ngờ lắm khi đau khổ đến tột cùng; do con người là chúng sanh có hiểu biết, có suy nghĩ, phân biệt nhận thức nên đau khổ càng gia tăng. Loài súc sanh ngây dại sống thiếu tiện nghi, nhưng vì không trí thông minh như người, nên không nhận thức, và vậy đau khổ chỉ là thô kệch từ thân xác mà phần tinh thần lại rất ít cảm nhận!
Kẻ say ngủ mãi bị quả báo thiện ác đáp đền tương xứng.
Ðến nay, thế giới văn minh khoa học, dù được tái sanh làm người, nhưng do nghiệp báo hãy còn nên phải làm việc nặng nhọc khổ thân, rồi quả báo hiện đến phải ra đi với nghề đã chọn (sanh nghề tử nghiệp). Nhiều kiếp có khi làm đến giám đốc, hoặc viên chức cao cấp trong chính phủ; chức vụ này nào có xa lạ gì với quan tước triều đình mà hắn đã từng thọ nhận trong quá khứ. Dù được làm Tổng Thống, hay Thủ Tướng lại có khác gì ngôi vua. Nhưng tổng thống, thủ tướng thời nay so ra, sao được sung sướng, uy quyền bằng lãnh chúa ngày xưa!
Do vô minh say đắm cùng tánh chất tham sân khiến hắn không dừng nghiệp ác. Cậy quyền lực địa vị cao, gian xảo đoạt lợi cho mình, thỏa mãn dục vọng hả hê. Cứ thế phải bị quả báo trở lại làm kẻ lang thang vô gia cư, trong một xã hội giàu có dư thừa vật chất.
Ðau khổ đọa đày vạn kiếp mới có một kiếp tĩnh ngộ, tái sanh làm con người mới. Nhưng không được bao lâu lại rơi vào biển tham đắm. Tham đắm nhỏ, dần dần biến thành như quả núi dìm hắn xuống tận địa ngục, rồi trở lên sanh vào loài thú, rồi bỏ kiếp thú, chịu quả báo tật quyền ăn xin cùng khổ ở cõi người, đến khi hết, lại vô minh tạo nên nhân ác khác ...
Quả báo dội ngược vào thân đã là khổ, nhưng quả báo dày xéo tinh thần còn khủng khiếp hơn! Vì đương sự có giàu nghèo mặc kệ, một khi đối diện thì đau khổ tột cùng. Như là: đau khổ bất lực, vô phương bảo vệ người mình thương quý; vô phương thay thế nỗi đau khổ cho người mình thương!
Thực tế đó, là hình ảnh cha mẹ, chồng vợ con cái trong gia đình phải đối diện cảnh chia ly đột ngột không như ý muốn. Cảnh trạng có thể được xem đau khổ nhất khi mái ấm gia đình bắt đầu gầy dựng, thì phải chịu đựng biến cố người vợ xinh đẹp bất ngờ chết đi (bất đắc kỳ tử); chết đi đang lúc quá trẻ - hình ảnh ngược lại, đau thương cho người chồng gương mẫu chỉ sống được vài năm; và không biết bao nhiêu nước mắt cho những đứa con còn thơ dại lại từ biệt ra đi quá sớm - khủng khiếp hơn có khi cả gia đình ra đi một lượt để lại đương sự nỗi đau nghiến nát tinh thần.
Như vậy, như vậy đó! Toàn là khổ! Có được bao nhiêu vui!
Rồi một thoáng suy tư đau khổ kiếp người, kẻ say ngủ không còn ham muốn gì nữa trên cõi đời này! Vì bao cố gắng dành giựt cho bản thân mình cuối cùng chẳng hưởng được chi, so với công sức lao tâm lao lực từ bao nhiêu năm, và có lẽ từ bao nhiêu kiếp như vậy. Hắn thấm thiết nỗi đau chia ly cách biệt người thương, thì còn ý nghĩa gì mọi tiện nghi vật chất là vật vô tri vô giác.
Sống mà không người thương, không người đồng tình, sống như vậy còn buồn tẻ hơn loài vật, còn có bầy có loại.
Nhưng vật chất cũng là mối suy tư lo lắng giải quyết sự sống, vì dù hắn đã từng được thương yêu, nhưng nỗi ám ảnh đói nghèo đã làm chết hắn bao nhiêu kiếp qua! Ðến đây kẻ say ngủ không còn dám suy nghĩ nữa những oái oăm nghiệt ngã cuộc đời. Lần kiếp này nghiệp thức đưa hắn vào một thế giới (tâm trạng) nửa say nửa tĩnh.
Hắn không tìm được một giải đáp cho cuộc đời, trong khi bao câu hỏi trong đầu cứ tuôn ra. Dù rằng nỗi khổ trong kiếp này không thấm gì cái khổ trong quá khứ. Tất nhiên hắn không thể có Túc Mệnh Thông biết được quá khứ kiếp, nhưng lực cảm thế nào khiến hắn nhìn cái khổ của người chung quanh rồi linh cảm rằng mình từng đau khổ vậy. Hắn thấy cái đau của người mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất anh chị em. Cái đau đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng, cái đau anh chị em bất hòa, cái đau cha mẹ không dạy được con mình, cái đau của người con không thể phân trần với cha mẹ, cái đau tình bạn hiểu lầm, cái đau thương hóa thành hận. Cái đau của mọi người phải gánh chịu một phần tử bất chánh trong gia đình, xã hội, cái đau của kẻ bất chánh không có người cảm thông, cái đau của người tù ngục, và cái đau của tất cả mọi người chịu đựng nỗi khổ trần gian này.
Hắn tự không biết nguyên nhân nào lại cảm xúc như vậy, dù hiện thời hắn chưa nhận thức được điều gì là tôn giáo tín ngưỡng. Chỉ một điều mà hắn cho rằng, có lẽ vì quá khổ đau trong quá khứ, nên không thể tiếp tục nữa!
Tìm kiếm và định đoạt.
Mọi việc theo nhà Phật đều có nhân duyên; hắn bắt đầu nghiên cứu tìm hiểu vấn đề tâm linh. Vấn đề làm thế nào có thể giải đáp bao câu hỏi trong đầu hắn; cũng không phải tuyệt đối là tôn giáo, mà có thể bất kỳ việc gì ở thế gian khả dĩ mang lại an tâm cho đời sống hiện tại, và tất nhiên phải siêu việt tư duy của con người trong thế giới hữu hạn bằng ngôn ngữ thế gian. Hắn muốn nói, điều đó phải thỏa mãn cả hai mặt siêu hình và thực tại. Cuối cùng tín ngưỡng mà hắn ngừng lại để bắt đầu tìm học là đạo Phật. Vì hắn thấy rằng, đạo Phật không hẳn là một tôn giáo, cũng không phải là triết học, cũng không phải là bất cứ tên gì thế gian có thể đặt cho!
Hắn hiểu, tôn giáo tín ngưỡng chỉ để xoa dịu nỗi đau khổ khi con người bất lực không cứu được mình, và nếu con người có thể hiểu rõ con người, hiểu rõ nguồn gốc khổ đau thì con người đã vượt qua tôn giáo.
Nói một cách khách quan hơn, nếu con người là chánh nhân, nạn nhân cần xoa dịu, thì con người cũng là chánh nhân giải quyết những nguyên nhân đã làm con người thành nạn nhân. Cho nên con người không thể cầu cạnh một ai, nếu con người không nhìn thấy được chính con người. Ðiều nữa đấng tối cao hay thần linh cao cả là chỗ quy về, chỗ núp bóng theo ý nghĩa tôn giáo thì quá trừu tượng cao xa, mà xưa nay chưa thấy xuất hiện để mọi người thiết lập được cụ thể mà hành động theo.
Triết học cũng vậy, cũng là sản phẩm của con người, nhưng lại không giải quyết được thực tế hiện hữu sự đau khổ của nhân sinh; có chăng chỉ để làm đẹp cho đời bằng thú vui cao sang chữ nghĩa, hay nếu có cũng chỉ xoa dịu cho những tâm hồn trí thức, trong khi đa số con người trên trái đất là hàng bình dân.
Trong đạo Phật hắn không thấy như vậy, nghĩa là không có cầu cạnh một đấng thần linh hay đấng tối cao nào như định nghĩa của tôn giáo, và sự tôn kính, lễ lạy hiện bày ở nơi chùa chiền chỉ là việc tri ân, mến đức đối với một người học trò kính một bậc Thầy là đức Phật, đơn giản vậy thôi. Tất nhiên, tiếp theo hiểu rằng, nếu học trò đó tạo lỗi gây ác nghiệp, thì việc lạy lục cúng bái cũng thành vô ích! Trừ khi song hành với việc lễ bái sám hối, học trò nguyện sẽ không làm ác nữa và từ đó sẽ làm việc thiện đây mới ý nghĩa và hoàn toàn có ích.
Nói về triết lý, nếu đạo Phật được xem như một nền triết học, thì nền triết học này phải xuất phát từ trực giác trí tuệ do công phu tu hành, nên kết quả sẽ đưa đến an lạc giải thoát, chứ không là nghiên cứu theo lý trí (giác quan) phân biệt, để kết quả vẫn mãi là kiến thức, và nhất là kiến thức quá xa mờ trừu tượng không thể đưa mọi tầng lớp con người diệt được khổ hưởng được vui.
Ðó là nhận thức đầu tiên hiểu về đạo Phật, tuy nhiên những vấn đề siêu hình, huyền diệu và nhiệm mầu trong những con người tu sĩ đắc đạo, cũng như nơi thờ phượng tri ân Phật mà hắn chắc chắn rằng phải có. Do vì từ một con người hoàn toàn trong sạch thanh tịnh tâm, tất nhiên sẽ khác hẳn một con người nhiễm ô, bất tịnh. Từ sự khác biệt bên trong giữa Tịnh và Nhiễm, sẽ hiển bày tạo thành mỗi thế giới khác nhau. Và nếu thế giới bên trong nội tâm đã khác, nên thế giới bên ngoài cũng khác. Cụ thể tỉ dụ, lối sống của mỗi người, mỗi trình độ khác nhau chênh lệch, là do bên trong của họ chẳng đồng. Ðiều này mới thấy lối sống các vị chứng đạo, người thường không thể hiểu được.
Về mặt hình thức lễ nghi cúng kiến của đạo Phật, trông nhìn như tôn giáo mà chẳng phải, đó chỉ là phương tiện tùy duyên tiếp nhận phù hợp với mọi căn cơ. Nhưng điểm chính vẫn lấy nền tảng của từ bi và trí tuệ làm chuẩn, cho nên dù thấy rềnh rang nghi lễ nhưng không xa rời thực tế, là phá vọng hiển chân, là chỉ bày sự vật vô thường, đời sống giả tạm, chúng sanh đau khổ, và giải thoát an vui. Có lẽ rõ ràng hơn, trong nhà Phật hay nói: Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên, nghĩa là người hành đạo giải thoát phải biết tùy duyên khi tiếp cận với người và cảnh, nhưng khi tùy duyên như vậy lý tưởng giải thoát, giới học người tu sẽ không bao giờ thay đổi (bất biến).
Ðại khái hiểu được vậy là do hắn học hỏi từ kinh sách Phật, từ những người tu hành nghiêm cẩn nói ra; điều đó làm hắn cảm thông chấp nhận như một lối sống đáng tín ngưỡng hành theo, mà không phải là tín ngưỡng phản lại chánh tín, chánh tư duy.
Hắn lại thấy, không những đạo Phật đáp lại được hoài nghi thắc mắc của hắn mà còn vô số giải đáp khác mà hắn chưa bao giờ nghĩ ra. Ngoài ra còn nhiều điều lạ, hắn phải đam mê đeo đuổi.
Ðiểm độc đáo nhất, khi vị giáo chủ là Phật Thích Ca cũng chẳng cần ai đeo đuổi ngợi ca; điều này sẽ không xãy ra ở đạo giáo khác! Vị Giáo chủ Thích Ca chỉ tự cho mình là người chỉ đường hướng đạo! Ðây là điều mà hắn vô cùng kính phục. Hắn thầm suy nghĩ đến một đoạn kinh Phật dạy: "Hãy đến đây: người Kãlãma, không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghe nói lại (tỉ như nghĩ rằng ta đã nghe điều này từ lâu)không nên chấp nhận điều gì chỉ vì tập tục cổ phong truyền lại như thế (tỉ như nghĩ rằng điều này đã được truyền lại từ bao nhiêu thế hệ). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì có lời đồn đãi như vậy (tỉ như tin lời người khác mà không suy xét). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy đã được ghi chép trong kinh sách. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì mình đã ức đoán như vậy. Không nên chấp nhận điều gì mình suy diễn như vậy. Không nên chấp nhận điều gì theo bề ngoài. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hợp với thành kiến mình. Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì điều ấy hình như có thể chấp nhận được (tỉ như nghĩ rằng điều này phải được chấp nhận). Không nên chấp nhận điều gì chỉ vì nghĩ rằng vị tu sĩ thốt ra điều nầy đã được ta kính trọng từ trước (và như vậy lời nói phải được chấp nhận).
Một vị Giáo chủ khai sáng chủ trương đạo mình, lại khước từ những người nhẹ dạ tin theo, khước từ người vị nễ tin theo, khước từ tất cả dù là chân đế (chân lý, pháp giải thoát) nếu người tin theo chân lý mà không tư duy suy xét điều đó đúng hay sai, để thực hành phù hợp lý trí tư duy với chánh pháp, không tổn hại người và chính mình.
Quả thật là lời dạy cụ thể chân như, không một vết chấm dị đoan mê tín.
Và tất nhiên tiếp theo, Ngài dạy phải ứng xử thế nào với thắc mắc nghi ngại để thiết lập niềm tin.
"Tuy nhiên, khi tự các con hiểu rõ rằng - những điều nầy không hợp luân lý; những điều nầy đáng được khiển trách, những điều nầy bị các bực thiện trí thức cấm đoán, nếu thực hiện những điều nầy sẽ bị phá sản và phiền muộn - thì hẳn các con phải từ bỏ, không làm điều ấy.
"Khi các con hiểu rõ rằng - những điều nầy hợp luân lý; những điều nầy không bị khiển trách, những điều nầy được các bực thiện trí thức tán dương, nếu thực hiện những điều nầy sẽ được an vui hạnh phúc - thì hẳn các con phải hành động đúng như vậy." [1]
Ðiều nữa vị Giáo chủ lại dạy rằng không phải chỉ duy có Ngài là bậc siêu việt, mà ai ai cũng sẽ siêu việt như Ngài nếu hành động theo đúng chân lý. 'Ta là Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành' hay "Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh" (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).
Ngoài việc hắn khâm phục, kính mộ như vậy, lại có những vấn đề khiến hắn phải suy nghĩ, lo ra. Ðấng Ðại Giác có lần dạy đệ tử Ngài, bằng cách đặt vấn đề dẫn dụ: "lá cây trong tay Như Lai và lá cây trong rừng, số lá nào nhiều hơn?" Tất nhiên câu trả lời - lá cây trong rừng, số nhiều hơn không thể đếm được. Ðấng Ðại Giác liền dạy: Cũng vậy những gì Như Lai chỉ dạy các ông như số lá trong tay Như Lai, và những gì Như Lai hiểu biết ví như lá trong rừng.!
Ðây là vấn đề hắn phải hoang mang! Thế thì làm sao, chừng nào thành Ðấng Toàn Giác? Trong khi chỉ có lá cây trong tay Như Lai mà hàng đệ tử Phật từ xưa đến nay, có ai học hiểu hết đâu? Dù đã có nhiều vị chứng đắc từ thời Phật đến nay, thì bậc cao nhứt chỉ là quả vô sanh (A La Hán)! Vậy lời Phật dạy các người là Phật sẽ thành, thì chừng nào mới thành!!?
Khó hiểu như thế, nhưng hắn vẫn thầm kính phục Ðấng Toàn Giác, vì đã là Ðấng Toàn Giác thì không bao giờ nói sai, dù sai một li hào mảy may cũng không có! Hắn hứa với lòng mong sao tìm được câu trả lời này!
Ðiều nữa làm hắn giựt mình, khi Như Lai cũng đem tỉ dụ so sánh dạy các đệ tử "Ðất trong tay Như Lai so với đất đại địa, bên nào nhiều hơn ?" Cũng vậy, những người sanh được cõi trời và trở lại cõi người ví như đất trong tay Như Lai, và số còn lại rơi vào đường khổ dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh) như đất đại địa. Hắn phải toát mồ hôi; nhìn lại mình đang may mắn thọ thân người, và sự may mắn hơn là nghe được ‘bí mật’ này!
Một thoáng hiện qua hắn chợt nghi ngờ lời Phật dạy! Tại sao người trên quả địa cầu tính từ ngày Phật nhập diệt đến nay chỉ có tăng chớ đâu giảm; đến nỗi các nước đông dân phải báo động kế hoạch hóa gia đình, chỉ sanh một đến hai con. Thế, cớ sao Phật dạy, sanh trời, người ít như đất trên tay!
Thắc mắc thoáng qua thì giải đáp chợt xuất hiện; nhìn qua khung cửa sổ trước bàn kinh sách nơi hắn đang ngồi suy tư, một đàn kiến nối nhau bao quanh khung cửa tạo nên một vòng giây màu nâu đỏ, xê dịch chuyển động nhịp nhàng. Lượng kiến quá nhiều khó đếm được bao nhiêu con! Bất giác hắn cười lên. Thôi đúng rồi, Phật dạy quả không sai. Chỉ lấy số kiến đem so với người cũng đã hơn rồi, huống chi còn vô số loài khác. Vì kiến ở đâu không biết, nhưng nếu có vật ngọt mồi ngon vứt bỏ, tức thì chẳng bao lâu kiến xuất hiện. Rồi không phải chỉ có ở khung cửa sổ nhà hắn, mà khắp cả đất nước nơi nào cũng có. Lại nữa, không phải chỉ có quốc gia hắn đang ở, mà các nước Việt Nam, Thái Lan, Miến Ðiện, Nhật Bản, Nam Dương, Hoa Kỳ, Pháp, Ðức v.v...đều có kiến, hay nói đúng hơn tất cả phần đất trên cõi Ta Bà này hầu như đều có.
Tích chuyện xưa, Ngài Xá Lợi Phất chỉ cho ông Cấp Cô Ðộc xem một đàn kiến, đã chịu nghiệp kiến chết đi sống lại trải mấy thời Phật vẫn còn! [2]
Hắn nhóm người đứng dậy, thầm đọc bài kệ "uống nước", mà hắn đã nghe quý vị tu sĩ thường dạy:
Phật quán nhất bát thủy,
Bát vạn tứ thiên trùng
Nhược bất trì thử chú
Như thực chúng sanh nhục
Án phạ tất ba ra ma ni sa ha
Phật nhìn một bát nước
Tám vạn tư vi trùng
Nếu không trì chú nầy
Như ăn thịt chúng sanh [3]
Cả vi trùng nữa! Thật là Phật tế nhị chẳng nói thẳng ra, không khéo mình sẽ sanh vào thế giới vi trùng; và nơi đó số lượng làm sao đếm được! Vì có thấy đâu mà đếm!? Dùng kiếng hiển vi thì chỉ thấy phạm vi quá nhỏ; thế tính được bao nhiêu vi trùng trong một hồ bơi!!!
Ôi! Phật là đấng siêu việt không sai.
Sung sướng thay, may mắn thay làm được kiếp người! Một kiếp chúng sanh quá ít oi như đất trên tay Phật!
Hắn bắt đầu tìm hiểu, thực hành tu học theo từng bước, mong thành đạt con đường mà Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh.
Trước hết hắn phải quy y ba ngôi Tam Bảo là Phật Pháp Tăng, chính thức bước vào ngôi nhà giải thoát.
Nếu không quy y thì chỉ là học hiểu theo tâm niệm của người nghiên cứu, hay ngưỡng mộ tầm thường thôi.
Hắn hiểu, nền tảng quy y Tam Bảo là xây dựng tâm tưởng mình vào một lý tưởng giải thoát, cứu độ chúng sanh. Có quy y thì tất cả hành động thiện sẽ không dính mắc theo kết quả lời lỗ vay mượn; gọi đúng theo nhà Phật chỉ là phước báo hữu lậu. Phước báo đó tất phải vô thường, chưa nói, đôi khi phản lại hành động thiện ban đầu, do vì thọ báo sung sướng người ta hay dễ sanh tâm tham đắm ô trược, để rồi trôi lạc vào vòng đau khổ, lại mãi chạy vòng vòng mà không biết nguyên nhân, chưa Quy Y Tam Bảo. Ðó là hình ảnh chính kẻ say ngủ đã ngụp lặn từ vô thủy đến nay.
Quy y Tam Bảo, mọi hành động tự nó chiêu cảm vào tánh thức giải thoát, kết nạp mình vào dòng ý niệm duyên khởi xây dựng chủng tử thiện pháp, và thanh tịnh được mọi hành động hướng về kết quả siêu việt của chân thiện mà nhà Phật gọi là phước báo vô lậu vậy.
Không nên hiểu một cách hạn cuộc, tầm thường là quy y Tam Bảo thì trở thành con Phật và đệ tử của Thầy A, Thầy B, Chùa C, Chùa D v.v...Như vậy sẽ tạo nên phân biệt cố chấp, vô tình đánh mất tánh chất giải thoát, thanh tịnh của sự quy y, và lý pháp nhiệm mầu siêu xuất của pháp giải thoát - khiến người hiểu Phật pháp nhìn thấy buồn cho, cũng như chính bản thân mình khó uống được hương vị giải thoát của Tam Bảo. Trong khi, nên hiểu, Phật là sự giác ngộ tự tánh của mình, Pháp là dòng sống thánh thiện của chánh lý thiện pháp, và Tăng là thể hiện sự thanh tịnh của con người khi tỉnh ngộ dòng pháp chân lý kia. Nhưng dù nghe quy y đơn giản rõ ràng như vậy, ta vẫn không thể tìm được và tự mình biết được để giữ cho dòng ý thức lưu mãi hiểu biết này, do đó ta phải chính thức cầu xin quy y trên hình thức, qua lời thống thiết tác bạch, được chứng minh bằng lời kinh pháp, cùng với vị Thầy là đại diện pháp thân thanh tịnh chứng minh cho. Nói đúng hơn nếu không có sự xuất hiện của Ðấng toàn giác ta sẽ trôi lăn mãi trong vòng sinh tử, và hẳn nhiên không bao giờ biết Tam Bảo là gì, nói chi đến quy y! Do đó mà nói làm người là khó, lại nghe được Phật pháp còn khó hơn. Nhưng hiểu thêm ra, được quy y nương tựa Tam Bảo còn khó hơn nữa, bởi vì nhiều người đã nghe Phật pháp mà chưa thể quy y.
Vậy ai cũng nên quy y Tam Bảo, là việc đầu tư kho báu đời này và mai sau.
Sau khi được quy y Tam Bảo, kẻ say ngũ giờ đây phần nào thức tĩnh. Hắn bắt đầu học kinh, ngồi thiền, niệm Phật.
Việc đầu tiên mà hắn phải giải quyết để từng bước, bước vào pháp giải thoát. Ðó là năm giới của người học Phật
Giới đầu tiên, không sát sanh
Hắn suy tư lại dòng sống ngút ngàn của một chúng sanh trong sanh tử, phải chịu mọi khổ đau phiền não từ thân đến tâm. Dù sanh trong hoàn cảnh nào, dù mang hình thù chi chúng sanh đó cũng phải chịu mọi khổ đau thân tâm như vậy.
Chúng sanh hình thù càng lớn sự đau khổ càng nhiều, nhưng chúng sanh càng nhỏ ai lại biết cái đau khổ ra sao! Sự đe dọa của ngoại cảnh xúc tác vào thân thì thân nào chẳng đau đớn. Bộ óc nhỏ lớn ra sao cũng không ngoài cảm thọ khổ vui, nên dù lớn dù nhỏ sự cảm thọ khổ vui không khác; nghĩa là con vi trùng vẫn có thế giới của nó và trong thế giới đó nó vẫn đau khổ qua sự tranh dành miếng ăn, tránh né sự đe dọa tánh mạng, không khác gì con voi hay khủng long là loài động vật lớn hơn nó gấp bao triệu lần không tính được!
Như thế người học Phật hiểu rằng, bất cứ loài chúng sanh nào đều có sự xúc tác đến hoàn cảnh sinh tồn, đều đang trôi nổi trong một dòng sống ngút ngàn sinh tử và tất nhiên dòng sống ấy phải là đau khổ.
Do thế người học Phật chắc chắn đã biết, Phật dạy Khổ là chân lý [4].
Nhưng khổ có riêng ai không! Hẳn nhiên không của riêng ai - điều đó chỉ cho tất cả chúng sanh đang lặn hụp vậy.
Ðừng nói là chúng sanh ở cõi Ta Bà này khổ thôi, mà cả cõi trời cũng còn trong vòng khổ.
Vậy ra chúng sanh đang khổ, lẽ nào lại gây thêm khổ, như phải cướp đi sinh mạng chúng sanh.
Chúng ta chưa nói đến khổ về tinh thần, chỉ nói đến cái khổ thể chất mà thôi.
Một số người không học đạo giải thoát, vẫn biết thương người mến vật, huống gì người đang học Phật và đã quy y Tam Bảo! Do đó bằng cách nào phải trải lòng từ bi đến tất cả.
Thật ra phạm nghiệp sát sanh là do ta không đủ trí huệ nhận thấy, nên có sự phân biệt người vật, để rồi xem thường sự sống của chúng, biến thành phẩm vật cung dưỡng cho ta.
Với cái nhìn của bậc giác ngộ, chắc chắn các Ngài đã nghe và thấy sinh hoạt tất cả các loài chúng sanh. Như các vị Bồ Tát vì lòng từ bi, thị hiện vào loài người mang đủ hình dạng để cảm hóa cứu khổ chúng ta, không lẽ nào các Ngài lại không thị hiện vào loài súc sanh là hạng chúng sanh đang cần giải thoát hơn con người!.
Lòng từ bi cứu khổ của Bồ Tát chắc chắn không thể làm ngơ được. Ðộ bằng cách nào thì chúng ta chẳng rõ.
Loài người so với súc sanh hầu như hoàn toàn sung sướng hơn. Nói rằng hầu như chớ không tuyệt đối, vì vẫn có một ít con vật có đời sống sướng hơn cả một số người. Hình ảnh này hiện đang xảy ra nơi các nước giàu có văn minh.
Loài chó mèo ở đây (Úc Ðại Lợi) có con được may mắn săn sóc không kém một con người là bao; chúng cũng được Bác sĩ chẩn bệnh khi đau ốm, cũng được chọn lựa thực phẩm rẽ tiền hay đắc tiền từ nơi siêu thị, và nhất là loài chó thỉnh thoảng phải dẫn ra ngoài bách bộ để thư thả thần kinh; sợ ở nhà ăn uống ngủ nghỉ dinh dưỡng quá thành bệnh!
Ở nhà, có nhà riêng trong vườn, (doghouse) nhưng một vài chủ quá cưng cho ngủ luôn trong nhà. Khi chúng chết lại được chôn cất đàng hoàng nơi nghĩa trang dành riêng, một cách có hình thức thủ tục; và nghi thức hạ kim quan cũng trang nghiêm giống như người vậy. Người chủ cũng nhỏ lệ tiếc thương dựa đầu vào người bên cạnh ngậm ngùi, thương tiếc!
Hình ảnh như vậy không phải là cách bày vẽ lập dị của những người giàu có đơn độc thiếu tình thương với người mà mượn loài vật làm vui. Ðiều này cũng phần nào đúng, đối với những lão niên ở một mình tìm vật hủ hỉ làm bạn, tuy nhiên tự con vật đó đã thể hiện một sự gần gũi thông minh cảm tính như người.
Chắc chắn người sống ở xứ văn minh không lạ gì các chú chó hướng dẫn người mù đi lại qua đường. Và chuyện chó trung thành với chủ, nghe qua ai lại không cảm động! Rõ ràng loài chó có thế giới riêng của nó, và có thể phần nào ‘hội nhập’ cảm nhận được thế giới loài người. Thế thì các chú chó may mắn được gần gũi và đối xử phần nào giống người vậy, chắc chắn phải có sự liên hệ trong vòng luân hồi nhân quả mà giáo lý nhà Phật đã dạy.
Người và vật cảm hiểu được nhau, tức có nguyên nhân; minh chứng cụ thể, ta thấy các con vật trong đoàn xiết (circus). Nếu không, làm gì con người có thể thuần hóa được chúng một cách phi thường vậy!.
Bây giờ mới thấy rõ, sáu nẻo luân hồi Trời, Người, A Tu La, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh là những chặng đường mà một chúng sanh có thể sanh lên sanh xuống. Vậy thì tránh sát sanh hại vật là điều tự nhiên, khi thế giới loại vật ấy, một thời ta cũng từng trải qua; được như thế cũng là cách ngừng lại sự ân oán trả vay, vay trả.
Giới không được trộm cắp:
Sự sống cần nên hài hòa trung dung, cần nên chia xẻ xây dựng, kiến tạo môi trường sống hòa bình thịnh vượng. Từ xưa đến nay đó là nền tảng; như thế mới mang đến cuộc sống an vui gia đình hạnh phúc.
Một cá nhân nếu giữ được tâm rộng lượng chia xẻ với mọi người, cá nhân đó sẽ được người thương mến, và theo luật nhân quả sẽ chẳng bao giờ thiếu thốn dù sống bất cứ nơi đâu. Xã hội và quốc gia có được nhiều con người như vậy, nhất là được con người đó lãnh đạo chắc chắn quốc gia ấy không thể nào yếu kém được.
Ngược lại là cướp đi sự hài hòa trung dung tức gây mất mát đau khổ cho người khác. Người không học Phật cũng chẳng bao giờ làm điều này huống chi người muốn giải thoát.
Thử nhìn lại con người mình qua nhu cầu thọ hưởng đời sống vật chất đầy đủ; nhưng nếu phương diện nào đó bị khuyết điểm, thường hay tiêu hao, không thể đầy đủ như người khác, thì ta có thể đoán biết rằng trong những đời sống quá khứ ta đã không rộng rãi với ai, hoặc đã phạm giới trộm cắp. Dù rằng ta vẫn được phước báo ấm no như ngày nay, do tạo thiện nghiệp quá khứ, nhưng bên cạnh vẫn phải chịu ảnh hưởng của những tác nghiệp trộm cắp đời trước. Do đó nên cẩn thận, chớ tưởng rằng việc lấy cắp một vật gì, không ai thấy, không tổn thương ai sẽ không có quả báo.
Giới không được Tà dâm
Người cư sĩ tại gia, chỉ tìm hạnh phúc nơi gia đình chồng vợ của mình, tránh liên hệ gây khổ đau phá vỡ hạnh phúc gia đình mình và người khác. Như vậy hợp cách với tinh thần luân lý, và xã hội đất nước nào cũng vui mừng khi thấy hạnh phúc của mỗi gia đình được tôn trọng. Ðó là kết quả sanh ra những con dân ưu tú thông minh hạnh phúc.
Sự bất chánh giao du với người khác không phải là chồng vợ mình, chẳng những hậu quả phải cư xử lén lút không tự nhiên, mà hậu quả còn ảnh hưởng đến đứa con của hai người. Vì sự ra đời của đứa bé hẳn có liên hệ đến cả hai vợ chồng, nhưng đây lại không phải vợ chồng (chính thức) nên đứa bé sẽ không như ý mơ ước của hai người!
Giới không nói dối
Nhân cách của một người được điểm lên bằng hành động và lời nói. Cũng thế sự hủy hại thanh danh tư cách của mình cũng từ đây. Lời nói dù ít hay nhiều đều có ảnh hưởng, nhất là cá nhân nào có quyền hạn thì tác dụng lời nói sâu nặng hơn và kết quả sẽ tương ứng.
Phật dạy "nói năng trong chánh pháp, im lặng trong chánh pháp", điều đó cho thấy, lời nói để tạo ra chánh pháp không phải là dễ.
Ðời sống một ngày, bắt đầu từ khi thức giấc cho đến về phòng nghỉ lại, ta đã phát ra rất nhiều âm thanh. Những âm thanh nầy có khi vô tình cũng khi cố ý tạo ra không ít phiền não đau buồn đến người khác. Ngay đến con vật cũng hoảng hồn khiếp vía khi ta la hét đuổi xua chúng! Và chắc chắn rằng không ai lại chịu đựng sống chung với người thường hay thốt ra những lời cay cú, cộc cằn, gay gắt.
Nếu như con vật còn cảm được âm thanh im diệu, êm tai, thì con người làm sao không hạnh phúc khi được sống chung với người khẩu hòa, ái ngữ!
Nói năng trong chánh pháp, căn bản trước tiên là không nói dối, rồi sau đó mới trong sạch được ngữ ngôn của mình, cuối cùng mới phát được lời hay ý đẹp.
Hậu quả và lợi ích không nói dối đã quá rõ ràng mà ai cũng có thể nhận ra. Nhận định thêm về hậu quả, là ngay trong đời này mọi người sẽ xa lánh ta; ta không còn uy tín với ai dù với một đứa bé.
Mất uy tín rồi khó mà lấy lại, đây là niềm đau lớn, lớn hơn cả nạn nhân bị ta nói dối. Nếu ta bỏ xứ đi nơi khác, thì, do thói quen ta dễ tái phạm và đây lại là hậu quả do ta xem thường sự quan trọng của lời nói. Phương cách diệt trừ nói dối, là nhận định được lợi ích của sự thành thật thế thôi!
Không nói dối được người quý mến; lại có người tìm đến xin kết bạn mà chẳng cần tìm bạn, đó là lợi ích nhỏ nhứt và sơ khởi. Không nói dối nên có uy tín, vì có uy tín, đến đâu làm gì cũng được người giúp đỡ, ủng hộ. Không nói dối ảnh hưởng đến thành viên trong gia đình, nên các con cháu, em út đều noi theo. Và quan trọng hơn hết, đã thực hành phần nào nói năng trong chánh pháp; lợi ích này mới là lợi ích vĩnh hằng cho con đường thoát khổ đời sau.
Giới không uống rượu
Ðây là giới cuối cùng trong năm giới, và đó là căn bản của người đang quy hướng vào con đường học Phật. Giới đây xem ra thật quan trọng, dù thực tế nhận thấy, hành động uống rượu không gây tổn thương ai; nhưng một khi đã phạm vào giới này đến mức say sưa, thì lý trí, tâm bình tiêu mất, từ đó là tác nhân phá hết bốn giới trên.
Tuy nhiên, người cư sĩ học Phật hiểu vậy, vẫn khó tránh phạm, chỉ vì đang sống trong thế giới văn minh hiện đại ngày nay. Nhưng giáo pháp của Phật là dòng suối, tuôn chảy vào mọi hang cùng ngõ hẽm, nên dù hoàn cảnh nào người học Phật cũng có giải pháp hóa giải tiến tu.
Chúng ta phải hiểu qua tinh thần học đạo Ðại Thừa, phải "Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên". Khi người cư sĩ vì liên hệ với công việc, phải xả giao qua tiếng chào ly rượu, đó chẳng phải kẹt chấp gì; điều quan trọng chỉ cần ghi nhận, định vị được vị trí con người của mình đang là người học Phật, thì hành động xã giao kia sẽ có giới hạn và chấm dứt ngay khi việc đã dừng. Nếu không ý thức được như thế, chỉ còn cách xin thọ nhận bốn giới trên; tuy nhiên chân lý vẫn là chân lý, nghĩa là dù không thọ giới "không uống rượu", tác động của nó vẫn làm hư hại bốn giới trên, lẽ đó tốt hơn nên ý thức về việc uống rượu, cho dù có thọ giới hay không thọ giới.
Giới không uống rượu còn phải hiểu, những gì làm đê mê, kích thích mất đi lý trí, tâm tánh sáng suốt... những thứ như vậy không được dùng.
Khi đã hiểu qua căn bản năm giới, kẻ lang thang say ngủ cảm nhận được tương đối về những gì Phật dạy.
Hắn cố gắng xây dựng cho mình cách sống của người tĩnh thức. Không chỉ đọc sách nghiên cứu Phật pháp như bước đầu, mà thực hành là điều then chốt. Cuộc sống của hắn bây giờ phải gắn liền với Phật pháp, dù phải làm việc chi. Hẳn nhiên công việc sát sanh không thể có được.
Việc thực hành Phật pháp đầu tiên là Thiền, vì Thiền giúp sống trong chánh niệm ở mỗi động tác. Ðây đã mang đến kết quả, mà trước kia chưa tĩnh thức hắn hay miên man nghĩ ngợi đủ thứ trong khi làm việc, do thế công việc không thể đạt đúng chất lượng yêu cầu.
Từ đây sự kiện nào xảy ra hắn thường bình tĩnh, không phải phản ứng tức thời, không lo lắng bồn chồn vội vã. Ngay đây hắn đã thực hành áp dụng giáo lý Nhân duyên; rằng tất cả đều có nguyên nhân và nên dò theo nhân duyên mà xử lý. Khi xử lý phải sáng suốt nhẹ nhàng theo chánh niệm, tức áp dụng vào việc quán xét vấn đề trong Thiền học. Vì thiền là tư duy, là định tâm không vướng mắc nên xử lý vấn đề cũng cần định tâm, tức cố gắng đứng ngoài vấn đề để quán sát. Ðứng ngoài vấn đề mới thấy vấn đề, nhưng không có nghĩa không hội nhập, mà là hội nhập chẳng kẹt chấp.
Trải qua nhiều năm như vậy, cuộc sống và con người của hắn đã thay đổi phần nào, tuy nhiên hắn vẫn còn băn khoăn. Ðiều lo nghĩ của hắn là hoài bão muốn xây dựng một đời sống toàn thiện, một cuộc sống, có thể mọi người đều thực hành được như hắn! Dù rằng hắn mới đạt được thật sơ cấp của an lạc. Ðây nói lên Bồ Ðề tâm bộc phát thật mạnh trong người hắn.
Hắn nhận thấy, người học Phật cũng đông mà người thể hiện sự an lạc chứng đạo thì quá hiếm - tuy họ không nói ra nhưng người ta có thể thấy được, nhất là hắn đang dò xét để tìm mà cũng chẳng thấy. Hay vì các vị hành đạo, chứng đạo trong âm thầm! Nhưng tu Phật phải cứu độ chúng sanh, cứu chúng sanh phải thể hiện cụ thể, ít ra ở con người đó một vài hành vi liễu đạo giải thoát v.v...Thế là tìm một người còn khó gặp, thì thế giới hắn ước mong toàn người giải thoát làm sao có được!
Hắn không hoài nghi lời Phật dạy "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh", nghĩa chính xác là sẽ thành Phật. Nhưng đợi một người thành Phật quá lâu, trong khi thời gian tạo nghiệp ác của nhiều người chưa duyên học Phật càng chất chồng thêm.
Nhìn vào thế giới, con người lại đủ hạng lớp; số người già với trẻ nít tương đối nhiều hơn so với hạng bắt đầu hiểu biết và bậc trung niên. Vậy vấn đề làm sao có phương pháp tu nào để mọi trình độ, tất cả lớn nhỏ đều có thể thực hành! Vấn đề, làm sao tạo được cảnh thuận cho người phát được Bồ Ðề tâm, hay đúng hơn hoàn cảnh, nơi đâu không bị chướng duyên cho việc tu đạo.
Nhìn lại các tông phái tu Phật thịnh hành nhất hiện này là, Thiền tông, Mật tông và Tịnh độ tông - cho đến nay trong ba tông này vẫn không thấy được nhiều người đắc đạo; đó là ba tông thịnh hành tương đối được hầu hết Phật tử có thể hiểu được và thuận duyên tu theo.
Tuy vậy đặc biệt hơn, là Tông Tịnh độ; kết quả của việc tu theo pháp môn này thật kỳ diệu, người hành pháp môn đó trước khi chết hiện tướng an lạc nhẹ nhàng, có khi còn sanh hiện tượng siêu nhiên không giải thích được. Nhưng siêu nhiên hơn hết là ai tu cũng được, từ tu sĩ cho đến cư sĩ và thực hành được ở bất cứ nơi nào dù sơn dã hay thị thành. Với hai pháp tu Thiền, Mật vẫn là tuyệt diệu pháp môn không khác Tịnh độ, nhưng phổ cập vào nhân gian vào thế giới nhiễm tịnh bất đồng trong thời đại ngày nay, thì không thể nào so sánh và làm được như tông Tịnh Ðộ. Ðơn giản chỉ vì đòi hỏi hành giả tối thiểu một căn cơ từ bậc trung trở lên, và hoàn cảnh phải hoàn toàn thuận duyên cho hành giả. Và tất nhiên hành giả nào thực hiện và chứng đạo được, một trong hai Tông Thiền, Mật ngay xã hội rộn ràng này, đó là điều mừng lớn, không chỉ riêng vị hành giả kia mà chung cả hàng Phật tử mọi tông phái.
Nói riêng Mật tông, có điểm tương đồng như Tịnh độ, vừa tự lực nhiếp Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh, vừa nhờ vào thần chú chư Phật gia bị, tuy nhiên vì vừa dùng chú vừa nhiếp ba nghiệp, hành môn này sâu thẩm hơn, có công năng chứng được định giới, ngay trước khi xả bỏ thân, và cũng vì sâu thẩm vậy, cần phải có Thầy hướng dẫn tu nếu là cư sĩ, còn tu sĩ thì phải sống một nơi thích hợp mới dễ hành. Ðiểm tương đồng đó là vừa dụng công tự lực, vừa có tha lực chư Phật gia bị nhiếp thọ cho.
Thiền thật thịnh hành và hầu như căn bản nói về thiền, Phật tử không xa lạ. Ðặc biệt pháp tu đây phần lớn nhờ vào tự lực. Hành giả phải xả bỏ ngã chấp và pháp chấp, rồi thanh lọc thân tâm, nhận ra đâu là vọng đâu là chơn; thấy được tánh chân như, bản lai diện mục của các pháp. Hành giả đi vào được định và an lạc ngay tại đây. Tuy nhiên hành giả phải tiếp tục quán chiếu tự tâm cho đến rỗng rang không còn kẹt chấp bất cứ điều gì, kể cả điều mà hành giả đang quán chiếu. Chừng ấy hành giả sẽ lần lần diệt được hẳn bản ngã đắc quả Tu Ðà Hoàn nhập vào dòng Thánh - từ đây lại tiếp tục đi lên cho đến diệt hết cả Tư hoặc, vô minh hoặc, trần sa hoặc, Hành giả sẽ đắc quả vô sanh (A La Hán).
Ðại khái như vậy, nếu đi sâu vào chi tiết thế nào của niềm an lạc định tâm, không ai nói được, trừ khi vị đó đạt được kiến thức của Sơ quả Tu Ðà Hoàn (Thánh Tăng), nghĩa là có chứng có thấy mới nói hết được.
Như thế pháp tu Thiền, so ra thật khó hơn Tịnh Ðộ nhiều lắm, vì hầu như tự lực, bắt buộc diệt phá hết kiến hoặc, tư hoặc [5]- tuy nhiên người tu Thiền cơ bản dù chưa được chứng quả, kể cả Sơ quả, vẫn được phước báo an lạc, định tâm sơ cấp, chừng mất đi hưởng quả lành vào cõi Nhân, Thiên.
Kết lại, vấn đề sáng tỏ, chỉ có Pháp tu Tịnh Ðộ thật dễ dàng cho con người hiện nay, và đó cũng là cánh cửa hoài bão, hé mở cho kẻ say ngủ đang tìm kiếm một pháp môn tu.
Bấy lâu hắn đã nghe qua kinh A Di Ðà; không những thế, có lần còn đọc kinh này hộ niệm cho người mất. Nay làm hắn phải suy nghĩ về vấn đề lớn lại xuất hiện trong kinh đây.
Hắn suy nghĩ về một thế giới mà Phật dạy toàn vui, không một chút khổ! "Chúng sanh cõi ấy không có những khổ, chỉ hưởng những vui" !
Tại sao lại có một thế giới lạ lùng như thế!?
Suy ra, việc gì cũng phải đối đãi, nhân duyên mới thành; hễ có vui tức có khổ, nhờ khổ mới nhận ra vui - nếu không khổ ai lại biết vui, cũng như biết vui là vì có khổ!
Nhưng, sự kiện được tả trong kinh là chỉ toàn vui, và cảnh giới lạ lùng nầy, không phải chỉ có trong một quyển kinh A Di Ðà, mà tiếp theo hai bộ nữa, là Vô Lượng Thọ và Quán Vô Lượng Thọ.
Biết được, xưa nay người tu cầu sanh về Cực Lạc căn cứ vào ba kinh này làm gốc. Nhưng sự thật nữa, là các kinh khác thỉnh thoảng cũng nhắc về vị Giáo Chủ của cõi Cực Lạc, luôn cả tên cõi đó; như kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Bảo Tích...
Hắn thật bối rối! Tự nghĩ làm sao có một thế giới chỉ toàn là vui!
Lại suy nghĩ, đó là lời của Ðấng Toàn Giác nói ra, Hắn giựt mình. Phật là đấng vượt lên tất cả, Ngài không thể nào làm chúng sinh phải nghi ngại vấn đề gì. Nếu vì vấn đề bất lợi nhiều hơn có lợi, chắc chắn Ngài không bao giờ nói. Cả đời sống của Ngài là: nói năng như chánh pháp, im lặng như chánh pháp. Ngài lại nói đúng thời đúng cơ của một chúng sanh, của một thế giới. Và tuyệt đối một điều, việc làm của bậc Ðại giác chỉ có chư Phật với nhau mới biết, chúng ta không thể suy lường biết được.
Ðến đây, hắn im dịu phần nào những nghi ngại về một thế giới lạ lùng đó. Nhưng vẫn chưa tin tuyệt đối! Hắn nghĩ tiếp, Phật cũng thường dạy, vạn pháp do tâm tạo (Tam giới duy tâm, vạn pháp duy Thức) và truyền thuyết kinh kể lại, các bậc đệ tử chứng đạo của Ngài đã cảm nhận mọi an lạc giải thoát Niết Bàn tại thế, gọi là Hữu Dư Niết Bàn[6] - như vậy thế giới Ta Bà này lúc đó đã có Phật, đã có Bồ Tát Thánh Tăng, nhưng cũng còn nhiều người chưa giác ngộ, còn các ngoại đạo, còn người đau khổ...thì ở thế giới nào đó cũng phải như vậy; nếu khác hơn thì, chỉ số người đau khổ không nhiều bằng đây thôi, có đâu lại toàn vui như gọi là Cực Lạc!
Bất chợt hắn hiểu rằng, Phật xuất hiện ở cõi Ta Bà này là tự thị hiện do lòng từ bi, và đã thị hiện vào, thì đây không phải nơi trụ của Ngài; nên việc khổ ở đây là hẳn nhiên rồi! Bằng chứng đó, là việc tự phát nguyện vào cõi Ta Bà của Phật Thích Ca đã được chư Phật tán thán ca ngợi trong Kinh Ðại Phương Tiện Phật Báo Ân như sau: -Thiện nam tử! Ngươi đến thế giới Ta bà, nếu thấy Phật Thích Ca Mâu Ni, phải sinh lòng cúng dường cung kính, nghĩ tưởng khó gặp, bởi cớ sao? - Vì Phật Thích Ca Như Lai đã từng ở trong vô lượng trăm nghìn vạn ức A -tăng-kỳ kiếp, làm những việc khổ hạnh khó làm, phát đại bi nguyện: "Khi tôi được thành Phật, sẽ ở nơi cõi nước tệ ác, núi đồi gò đống, sành sỏi gai gốc, chúng sinh ở trong đó, đủ mọi phiền não, ngũ nghịch, thập ác, tôi sẽ tu hành thành Phật ở nơi đó, để làm những việc lợi ích, đoạn trừ tất cả khổ não cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh được tất cả vui, thành tựu pháp thân, hết không còn sót." [7]
Riêng cõi Cực Lạc là cõi Phật, là cõi trụ của Ðấng Ðại Giác A Di Ðà, thì làm gì có khổ! Hắn tự reo lên: Ðúng rồi, đúng rồi! Ðây là cõi nhiễm và kia là cõi Tịnh. Ngài A Nan Thánh Tăng há không nói: nơi khổ ác thế gian con xin nguyện vào trước để độ chúng sanh (ngũ trược [8]) ác thế thệ tiên nhập).
Hắn bình tỉnh để lòng lắng xuống, suy nghĩ
Tất cả những cảnh tượng do tâm thức con người tạo ra, hay gọi là chiêu cảm thành. Người mang tâm thức thấp sẽ sống với hoàn cảnh thấp tương hợp, gọi là Y báo. Chẳng hạn chúng ta sống ở cõi Ta Bà nầy, cảnh trí lồi lõm như tâm con người, tức tâm thiện, ác rối ren, tâm lao xao vọng động... do đó hoàn cảnh thuận theo chẳng thể yên bình.
Ðiều mà con người hoang mang, lo lắng, sợ hãi nhất cho đời sống là chiến tranh, nhưng việc chiến tranh cũng do con người gây ra. Theo lời dạy trong kinh, là lời của bậc chứng ngộ thông suốt các pháp cùng hiện tượng sinh tử chúng sanh, thì trong vũ trụ có hằng hà sa số thế giới, trong đó có vô số thế giới thanh tịnh. Nơi thế giới ấy hoàn toàn là những bậc vô nhiễm, vô phiền não; vì do tâm thức các Ngài như thế (chánh báo), và vậy thế giới các Ngài không có lồi lõm, thô kệch như thế giới chúng ta. Việc này cũng dễ nhận hiểu, vì luật nhân quả duyên sanh, chớ không thể nào tâm mọi người bình yên mà thế giới hỗn loạn chiến tranh được.
Nhìn xem thế giới Ta Bà, ta cũng nên nghi vấn; tại sao vẫn có các vị chứng đạo tại đây mà thế giới không thay đổi ?
Việc đã bàn qua, là do các Ngài từ tâm nguyện đại bi thị hiện độ sanh; vì từ bi thị hiện đi vào nên đây không phải nơi các Ngài chiêu cảm hóa hiện, nói rõ hơn nơi không phải các Ngài an trụ. Tuy nhiên bản thân tâm thức các Ngài không thấy khác ở bất cứ trụ xứ nào. Các Ngài đã vượt qua nhị biên[9] đối đãi, đã xô ngã bức tường Ngã, Pháp vi tế, nên các Ngài vẫn an nhiên tự tại nơi Ta Bà này. Tuy vậy sự an lạc tự tại của các Ngài, chúng ta khó thể nhận ra, vì các Ngài vẫn đóng tuồng đau khổ y như đau khổ của chúng ta, như mang thân bệnh, chịu nóng lạnh v.v...
Các Ngài diễn tuồng như vậy mục đích chỉ độ chúng sanh, tức phải sống như mọi người, chớ không thể biến thân hóa hiện mà độ được.
Thấy rõ cõi Ta Bà gồ ghề thô kệch, nguyên nhân chính là do tâm thức cộng nghiệp của tất cả chúng sanh hiện hữu chiêu cảm thành. Và vì cộng nghiệp chiêu cảm thành, nên một thiểu số không thể chiêu cảm biến đổi được một cộng nghiệp quá lớn.
Nếu một biệt nghiệp nào bằng tâm thức vô nhiễm, vô cấu, vô phân biệt đang đạt thành ở cõi Ta Bà, cá nhân biệt nghiệp đó vẫn an lạc và có thể xem cõi Ta Bà đây như là Tịnh Ðộ không khác, vì Tịnh hay Uế đều do tâm tạo ra. Và tất nhiên chỉ đối với vị đó mà thôi, còn lại chúng sanh khác chưa chứng đạo vẫn phải chịu đau khổ, chịu ảnh hưởng cảnh uế trược lồi lõm của Ta Bà nên không thể nào xem đây là Tịnh Ðộ được.
Tỉ dụ cụ thể, một vị tỉ phú giàu có, tài sản của ông có mặt khắp nước trên thế giới, cho nên ông sẽ đầy đủ khoái lạc dù ông đến ở bất cứ nước nào, và hẳn nhiên nơi ông đến, nơi ông ở, chỉ có mình ông vui sướng, còn lại người khác vẫn cày bừa cật lực mới có ăn.
Thế thì cõi Ta Bà này vẫn là cõi ô trược thật sự, vì một cộng nghiệp chúng sanh chưa chứng đạo đang sống trên đó. Và trong số lượng người sống khổ ở thế giới đây (Ta Bà), nếu một biệt nghiệp nào biết tu niệm, biết thực hành giáo lý giải thoát cá nhân ấy sẽ bắt đầu đi vào an lạc ngay ở cõi này. Rồi đến khi cá nhân ấy chết đi, tức khắc sẽ sanh về một thế giới thanh tịnh, nơi ấy là cộng nghiệp của toàn tâm thức vô nhiễm, và cõi đó chắc chắn không có lồi lõm, gồ ghề, chiến tranh máu đổ như thế giới phiền trược chúng ta. Ðây là luật nhân quả rõ ràng vậy.
Hắn nhẹ nhõm vui mừng hiểu được, và chấp nhận rằng, có một thế giới thanh tịnh đang hiện hữu một nơi nào đó ở vũ trụ bao la nầy.
Lần mở trang kinh A Di Ðà đọc lại, để lắng nghe Phật dạy Ngài Xá Lợi Phất về sự hiện hữu phương tây có một thế giới tuyệt đẹp.
[1] Trích trong "Ðức Phật và Phật pháp", Tác giả NARADA, dịch giả Phạm Kim Khánh.
[2] Kinh Hiền Ngu - Phẩm thứ bốn mươi ba. Thích Trung Quán dịch
[3] Tỳ Ni nhật dụng thiết yếu - HT Thích Trí Quang dịch .
[4] Tứ Diệu Ðế: Bài pháp đầu tiên Phật khai thị, từ đó hình thành Ba ngôi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Nghĩa của Pháp này: Khổ là chân lý, Tập (nguyên nhân) là chân lý, Diệt (khổ bị diệt hiện Niết Bàn) cảnh Niết Bàn an vui khi diệt trừ được nguyên nhân khổ. Và Ðạo (Bát chánh đạo) là con đường hướng dẫn làm thế nào để diệt khổ.
[5]Kiến hoặc, Tư hoặc: là những phiền não trược phiền sinh ra từ thân, tâm; phiền não đó là do vọng tưởng sai lầm đã chấp chặt từ nhiều đời quá khứ và ngay trong đời nay. Kiến hoặc: là những thấy biết sai lầm: như thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ kiến, Tà kiến. Tư hoặc: những phiền não sâu đậm vọng chấp lâu đời: như Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
[6] Hữu dư Niết Bàn: Hành giả đã đạt được cảnh an lạc giải thoát Niết Bàn tự tâm (bên trong không còn phiền não), nhưng bên ngoài vẫn còn mang xác thân ngũ uẩn. Chừng bỏ xác thân đi, sẽ đạt đến Vô dư Niết Bàn tức thân tâm giải thoát. Các bậcA La Hán thời còn Phật đều được Hữu Dư Niết Bàn.
[7] Kinh Ðại-Phương-Tiện Phật-Báo-Ân. -HT.Thích Quảng Ðộ dịch, Phẩm tự Thứ nhất
thêm về sự chiêu cảm và thành lập một thế giới, bằng sự hiểu biết cố gắng của hắn.
[8] Ngũ trược: Năm thứ ô nhiễm ở thế gian như: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược.
Kiếp trược: Tuổi thọ giảm dần theo kiếp số, và con người phải chịu đựng mọi phiền não trong những kiếp số nầy. Kiếp Tăng, con người thọ đến 8 vạn 4 nghìn tuổi, và đến Kiếp Giảm, xuống đến còn 10 tuổi. Trong thời Giảm, càng thấp con người càng khổ.
Kiến trược: Nhận định thấy biết sai lầm, không phân biệt được chánh pháp tà pháp.
Phiền não trược: Sự ô nhiễm của vọng tâm chất đầy mối Tham, sân, si, mạn, nghi.
Chúng sanh trược: Hoàn cảnh của những chúng sanh phải chịu khi xuất hiện ở cõi ô trược Ta Bà.
Mạng trược: Ô nhiễm trược phiền thân tâm khiến thân mạng giảm lần
[9] Nhị biên: hai nhận định về các Pháp Có và Không. Có là do nhân duyên nên hiện hữu. Không, là vì do nhân duyên nên không có tự tính, thành ra là Không.
Chương II
Hiểu lời Phât dạy, trong kinh A Di Ðà
Ngạc nhiên trước hết, sự cao siêu mầu nhiệm khó tưởng của kinh A Di Ðà,[1] do kinh này không ai biết để thỉnh cầu thưa hỏi. Kể cả các đại Bồ Tát cũng không biết và hiểu nổi; điều đó được xác nhận trong pháp hội, có nhiều đại Bồ Tát tham dự đến nghe kinh này.
Tiêu biểu hai đại Bồ Tát được nhắc đến là Văn Thù Sư Lợi và A Dật Ða. Các vị Thánh Tăng đương thời đông đủ, giống như các pháp hội trong những thời pháp lớn.
Ðặc biệt hơn, đức Phật chọn Ngài Xá Lợi Phất làm đối tượng giảng dạy. Biết rằng Xá Lợi Phất là vị đệ tử trí huệ bậc nhất trong hàng đệ tử Phật.
Mượn Ngài Xá Lợi Phất, chắc chắn Phật có dụng ý nhắc nhở người tu trong thời ngũ trược - muốn cảnh tỉnh cho ai đó không tin và xem thường pháp kinh này.
Tổng cộng tên Ngài Xá Lợi Phất được nhắc đến trong kinh A Di Ðà là ba mươi tám lần (38).
Kinh A Di Ðà lại thật ngắn chẳng bằng một vài chương của các kinh lớn như: Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Bảo Tích...Vậy mà tên vị đại Thánh được nhấn mạnh lưu ý đến ba mươi tám lần.
Hẳn chắc phải quan trọng, đáng suy nghĩ những gì Phật nói. Ngoài ra còn có các vị Vua ở cả cõi trời nữa, như vua Ðế Thích, và vô lượng các vị Trời đều tham dự. Xét xem như thế, pháp hội giảng nói kinh A Di Ðà, số thính chúng được xác nhận rõ ràng; điều này cho biết đích thực giá trị quan trọng lợi ích của thời pháp.
Với các thời pháp trước và sau kinh A Di Ðà, số Bồ Tát, Thánh chúng, trời, người tham dự tương tự đông như vậy; nhưng thử để ý xem, những thời pháp ngắn thường tác động mạnh đến người nghe. Vì, thứ nhứt dễ nhớ, nên dễ hiểu do đó dễ thực hành. Nếu đem so pháp hội Hoa Nghiêm làm sao nhớ nỗi, thậm chí pháp hội Pháp Hoa được xem là tối thắng quan trọng, được hàng học Phật luôn luôn nhắc đến nhưng có ai lại thuộc kinh này! Thành ra Kinh Pháp Hoa ít nhiều trở thành sự hiếu kỳ để mọi giới nghiên cứu, và việc thực hành khó mà trọn vẹn - cũng do đây, việc rút ra một phẩm lợi ích thiết thực cho hàng học Phật trì tụng tu hành, đó là phẩm Phổ Môn thứ hai mươi lăm, thật đúng khế lý khế cơ (hợp chân lý, đúng căn cơ).
Như thế mới thấy, càng về thời cách xa Phật, những kinh ngắn gọn có tính cách nhắc nhở đánh thẳng vào tâm dễ cứu độ chúng sanh hơn.
Phật nói cõi tuyệt đẹp an vui đó nằm ở Phương Tây, làm hắn phải suy nghĩ!
Trong vũ trụ vô cùng vô biên, thì trái đất nằm ở phương nào để làm chuẩn tìm phương Tây?
Nói phương Tây là căn cứ vào thái dương hệ thế giới chúng ta lấy mặt trời làm điểm, nhưng thái dương hệ này nằm trong giải ngân hà Milky Way, mà trong vũ trụ có đến hàng tỉ giải Ngân hà!
Về cõi Phật A Di Ðà cách thế giới chúng ta đến mười muôn ức Phật độ. "Từ phía Tây này, qua mười muôn ức cõi nước chư Phật, có một thế giới tên là Cực lạc..."(Tùng thị Tây phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viêt Cực Lạc...)
Theo Ðại sư Ngẫu Ích giải thích danh từ Phật độ: "là một khu vực của một vị Phật hóa độ, có một ngàn triệu Thái dương hệ, trong kinh Phật gọi là một Tam Thiên đại thiên thế giới .. "[2]
Phật Học Từ Ðiển Ðoàn Trung Còn, giải thích Tiểu thiên là một ngàn thế giới, Trung Thiên triệu thế giới và Ðại Thiên thì một ngàn triệu thế giới, tức một tỉ .
Vậy trong phạm vi của một cõi Phật bao gồm một tỉ thế giới; và cõi Cực Lạc lại đi qua hơn mười vạn ức Phật độ tức khoảng mười tỉ Phật độ [3]
Thế thì không biết bao nhiêu là thế giới; con số đã vượt qua sức tưởng tượng của hắn, và hắn đã quên mất, chỉ phạm vi giải ngân hà Milky Way của chúng ta thôi, con người đã không thể tưởng tượng được, có gì xãy ra trong đó, với vài trăm tỉ thế giới!
Nhìn lại hành tinh (trái đất) mình đang ở, đối với quỹ đạo của thái dương hệ đã quá nhỏ, nay so với một ngân hà Milky Way thì hình dạng trái đất có còn gì để nói!
Thế thì hướng Tây Phật dạy ở đây, không phải là cái hướng của con người cố chấp bé nhỏ, sống trong một thế giới bé nhỏ và ngay cả một giải ngân hà cũng bé nhỏ luôn!
Hắn không dám đi xa nữa, vì chẳng thể nghĩ được, cũng chẳng còn kẹt chấp vào Ðông Tây chi nữa; nhưng để xem kế tiếp thế nào, mà Phật phải nói một bài pháp lạ lùng liên hệ đến những cảnh giới quá sức tưởng tượng!?
Vấn đề chúng sanh không khổ chỉ thuần vui, bây giờ hắn đã mạnh dạn hiểu hơn, vì hắn cũng đã tự giải thích chính mình rồi (thế giới Phật, do Ðại bi tâm nguyện chiêu cảm ra chớ không phải thế giới cộng nghiệp của chúng sinh). Bởi vì muốn cho chúng sanh phát tâm cầu sanh về Tây phương Cực Lạc nên Ngài mới nói vui và khổ, chứ thật ra tự nó không khổ không vui. Chúng sanh đã thanh tịnh, hoàn cảnh phải thanh tịnh nên không có vấn đề khổ với vui - vì chuyển vọng thức thành thật trí thì cả danh từ khổ vui cũng chẳng xuất hiện! Cho nên đoạn kinh có nói: Này Xá Lợi Phất, "Cõi nước Phật kia, còn không có tên ba đường ác thay, huống là có thật".
Tuy nhiên, dù là Ðấng Ðại Giác, lời nói của Ngài cũng không thể không làm chúng sanh nghi ngờ, do vậy Phật phải kể rõ việc vui là vui thế nào, an lạc là an lạc ra sao?
Thật ra Phật không cần kể rõ như vậy; Phật có thể nói ngắn gọn rằng, nơi ấy có cõi Phật A Di Ðà, thật đúng nơi đáng cầu sanh về, thuận tiện con đường tu, các ông nên cầu sanh sang cõi đó. Chỉ cần vậy thôi cũng quá đủ, và các thính giả Bồ Tát, Thánh chúng...sẽ tin ngay mà không cần thắc mắc - do họ dư biết, với Ðấng Ðại Giác không có việc phải nghi ngờ, nhất là những gì Phật đang giảng dạy, đều là giáo pháp thoát ly sinh tử.
Vậy thì chỉ có lý do khiến Phật phải kể rõ ra vì, cho chúng sanh trong thời không có Phật tại thế; và thời điểm đáng nói, ngay thời này vậy (mạt pháp). Quả thật đấng Ðại Giác thương chúng sanh quá mức rồi!
Cảnh trí ở Cực Lạc Phật nói thế nào!
Phật nói, ở đó có những giậu rào, lưới chăng toàn thất bảo, có ao thất bảo, có nước bát công đức, có cát vàng óng ánh, lối đi bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xích châu, mã não.
Trong ao thì có Hoa sen: xanh, vàng, đỏ, trắng nhiệm mầu thơm sạch v.v. và v.v...
Thật ra không thể nào tả được cảnh ấy, Ðức Phật quá từ bi nên Ngài mới nói chi li cho người thế gian biết vậy; tuy nhiên nếu Ngài không nói thì còn mấy người tin! Vì thế gian ai cũng ham vui, sợ khổ!
Thử hỏi, nơi đây con người thân hình thô kệch, tâm tánh gần như toàn chứa trược phiền ưu não mà vẫn chiêu cảm dệt nên một chút y báo, biến ra ít vài quặng mõ, vàng bạc kim cương...vậy nghĩ xem các bậc Thánh nhơn ở cõi tuyệt đẹp kia, thân hình toàn ánh sáng vi diệu, tâm tánh lại tuyệt tịnh, an nhiên thì y báo chiêu cảm sẽ thế nào! Không lẽ cũng vài hình ảnh bạc vàng, kim cương, san hô mã não! Chắc chắn cái đẹp nơi đó con người không thể hiểu được; thành ra cảnh đẹp huyền diệu kia phải đành mượn cái đẹp nhất ở thế gian mà tỉ dụ!
Ðiều có thể nghĩ ra, việc tả cảnh đẹp thế nào, sẽ không thành vấn đề, vì tâm đã hoàn toàn trí chơn thanh tịnh, thế còn gì sung sướng giải bày! Ðức Phật há từng dạy "không có hạnh phúc nào bằng sự thanh tịnh của tâm"đó sao!.
Thực tế nghĩ xem, khi tâm người yên tịnh, an vui không dính một chút lụy phiền, thế nhìn cái gì chẳng đẹp; vậy có phải tất cả đều biến thành trân châu ngọc báu! Ngược lại khi ưu buồn khổ tâm phiền não thì còn chi nữa là cảnh, là người! (người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, ND)
Tả cảnh đẹp xong, Phật liền cho biết tất cả việc như vậy là do trang nghiêm công đức tạo thành. Tất nhiên công đức thù thắng dệt nên cảnh đó chính bởi Ðức Phật A Di Ðà; bằng lời nguyện của Ngài mà thế giới hình thành tươi đẹp. Do công đức tu niệm hằng kiếp, mới có thể lập thành một thế giới y báo trang nghiêm hợp theo chánh báo tuyệt đối thanh tịnh của Ngài.
Nhưng tại sao một mình Ngài lại tạo ra cả một thế giới, và thế giới đó không những tuyệt đẹp bất khả tư nghị, mà còn có thể tiếp thu dung chứa vô số chúng sanh ở các cõi khác đến sống!?
Một điều hiểu ngay, vì Ngài là Phật, là Ðấng Giải thoát vượt ngoài sinh tử, viên mãn hết thảy vấn đề, và vượt siêu cả ý niệm về vấn đề nữa, nên tự tại hiện thân thế giới thanh tịnh lưu xuất từ Ðại bi tâm của Ngài mà ra.
Tưởng tượng và suy nghĩ việc làm của đức Phật là một trong những điều không thể làm được đối với chúng sanh, kể cả chư Bồ Tát lớn - nên chỉ có thể cố hiểu một cách đơn giản như vậy.
Riêng nghĩ về một chúng sanh, tức nghĩ về tự ngã của mình, thì rõ ràng hoàn toàn không thể sánh được với bậc Giải Thoát, tuy nhiên mình cũng có một thế giới, thế giới phiền não Tham, Sân, Si!
Tự mỗi người mang theo ba nghiệp ô nhiễm dù mức độ khác nhau, nhưng dòng tâm thức bất tịnh chảy chung về hành khổ, do vậy không thể tự lực chiêu cảm thành một thế giới theo sở hạnh của mình, mà phải chịu lực kéo của nghiệp thức về chung, đồng tạo nên thế giới khổ.
Tỉ dụ đại khái, một đứa bé năm bảy tuổi phải luôn luôn sống theo hoàn cảnh của người lớn; người lớn làm thế nào chúng phải đi theo làm vậy (nghiệp lực phải chịu). Và dù chúng có đến trăm đứa, ngàn đứa chúng cũng không thể làm nên một xã hội, bởi vì chúng chưa đủ hiểu biết (chưa chứng đạo giải thoát). Với người lớn, dù một người cũng có thể hơn chúng đến hàng trăm, và có thể lập ra hoàn cảnh chỉ dạy cho chúng để trở thành một xã hội (Người tự tại giải thoát). Một người lớn trưởng thành, tự người đó đã có trong người một thế giới, vì có đầy đủ hiểu biết. (Ðó là vị Phật có đủ nguyện lực làm nên thế giới).
Ngoài cảnh tuyệt đẹp ở Cực Lạc, lại được tả, có nhiều loài chim hót múa, đặc biệt những lời hót ca đó là những bài pháp ca ngợi giáo pháp giải thoát của Như Lai. Tất nhiên, chúng ta hiểu ngay, loại chim đây không phải như các chú chim ở thế gian xuất hiện do nghiệp đọa tái sanh - chim đây (ở Cực Lạc) là phương tiện hóa hiện dệt nên cảnh trí tuyệt vời của giải thoát, mà như Phật đã phá nghi cho Ngài Xá Lợi Phất: "Này Xá Lợi Phất! Ông chớ cho rằng, những giống chim này thật do tội báo mà bị sanh ra. Tại vì sao thế?
-Vì cõi Phật ấy không ba đường ác.
-Này Xá Lợi Phất! Cõi nuớc Phật kia, còn không có ba đường ác thay, huống là có thật. Các giống chim đó đều là biến hóa, chúng đều do đức Phật A Di Ðà, vì Ngài muốn cho tiếng diễn nói pháp, lan khắp các nơi, nên biến hóa ra.
(Xá Lợi Phất, nhữ vật vị thử điểu thiệt thị tội báo sở sinh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ vô tam ác đạo chi danh hà huống hữu thiệt. Thị chư chúng điểu giai thị A Di Ðà Phật dục linh Pháp âm tuyên lưu biến hóa sở tác).
Hòa theo tiếng chim nói pháp, còn có gió thổi phát vào các hàng cây báu, những hàng lưới ngọc, tạo nên vô số âm thanh nhạc điệu nhiệm mầu, khiến tạo phương tiện phát khởi Bồ Ðề Tâm.
-Xá Lợi Phất! Cõi nước Phật ấy gió nhẹ thổi động những hàng cây báu và những lưới báu, thì cây và lưới vang tiếng nhiệm mầu cũng ví dụ như trăm ngàn thứ nhạc cùng lúc hòa tấu, người nghe tiếng này, tự nhiên sanh tâm niệm Phật, Pháp, Tăng.
- (Xá Lợi Phất, bỉ Phật quốc độ, vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng xuất vi diệu âm, thí như bách thiên chủng nhạc đồng thời cu tác; văn thị âm giả, tự nhiên giai sinh niệm Phật, niệm Pháp, niệm tăng chi tâm).
Những bài pháp được các loài chim phát ra như kinh nói: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phận, bát Thánh đạo phận và nhiều pháp khác.
Ðây là các pháp nằm trong phần Ðạo (37 phẩm trợ đạo)[4] của Tứ Diệu Ðế (Khổ, Tập, Diệt, Ðạo), vốn thật quan trọng và căn bản trên bước đường tu. Mỗi pháp, nếu y theo thực hành tinh tấn đủ đưa hành giả an tâm vào con đường giải thoát.
Ở đây có thể thấy, dù lý tưởng thực hiện được thế giới Cực Lạc qua sự kiện khó nghĩ bàn, nhưng phần nhiệm mầu chim nói pháp, gió hòa vui Tam Bảo lại khai ra con đường hành đạo thiết thực, cụ thể ở thế gian đó là ba mươi bảy (37) phẩm trợ đạo.
Tiếp theo Phật dạy, "Phật kia vì sao danh hiệu của Ngài là A Di Ðà? "(Bỉ Phật hà cố hiệu A Di Ðà?) và rồi giải thích, "Bởi vì quang minh (ánh sáng rực rỡ) của đức Phật ấy không có hạn lượng, soi các cõi nước ở khắp mười phương, không bị chướng ngại, cho nên hiệu Ngài là A Di Ðà "(bỉ Phật quang minh vô lượng, chiếu thập phương quốc vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A Di Ðà)
Nên hiểu, đã là Phật thì vô cùng diệu dụng trang nghiêm sáng lạn không thể nghĩ bàn được, tuy vậy phần thị hiện độ sanh mỗi vị Phật có thể mỗi nguyện lực khác nhau. Như Phật Thích Ca thị hiện vào thế giới nhiễm ô này để độ chúng sanh, và Ðức A Di Ðà lập nên quốc độ tiếp dẫn người vãng sanh. Lại còn không ít chư Phật, vì nguyện lực phương tiện gần gũi chúng sanh, mà cứ mãi hành nguyện như hạnh nguyện Bồ Tát. Cho nên chúng ta chỉ hiểu nơi đây, Phật tán thán nguyện lực của Phật A Di Ðà, chứ chư Phật mười phương cũng không gì khác. Hơn nữa Phật đang giảng dạy về cõi Cực Lạc Tây phương thì Ngài phải dạy riêng như vậy.
Ðến đây Phật nói, dân chúng ở cõi Cực Lạc. Việc khó tưởng là,"Thọ mạng Phật ấy và nhơn dân Ngài, lâu dài đến số vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp..."(bỉ Phật thọ mệnh, cập kỳ nhân dân vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp...)
Thọ mệnh của Phật A Di Ðà lâu là đương nhiên, nhưng người dân ở đó cũng lâu như Ngài quả thật là một điều huyền diệu không tưởng.
Nhận xét mà thấy mỗi một thế giới, sự hiện hữu của các chúng sanh hẳn phải khác nhau. Chúng sanh mang tình thức cao, thấp ra sao sẽ có lối sống thích hợp tương xứng.
Không thể lấy hiểu biết ở thế giới nào đó hội nhập vào thế giới kia và ngược lại.
Người (tạm gọi) sinh ra ở thế giới Cực lạc là do hóa sanh, hóa sanh từ hoa sen. Quả của hóa sanh vào liên đài do nhân phát Bồ Ðề tâm cầu được vãng sanh, gặp Phật thành đạo độ chúng sanh. Do tâm nguyện vậy kết nên giác thức biến hiện, chiêu cảm hòa nhập vào Từ quang là ánh sáng chân thức của Phật, thành ra trong khoảnh khắc bỏ xác thân liền thấy Phật cùng chư Thánh chúng hiện ra tiếp đón. Ðó tạm gọi chuyển mạng thân thành thức thân đi vào thế giới thanh tịnh.
Người thường, không hiểu, không tu trì, chẳng chuyển được gì cả; mạng thân mất đi vẫn nguyên vẹn tái tạo mạng thân khác, và kết quả của mạng thân mới là do nghiệp lực dẫn vào. Chúng ta xuất hiện thế giới này, do thai sanh; thai sanh là quả của nhân ái dục, nên ô nhiễm uế trược thành ra xác thân cục mịch thô phù[5]và tất nhiên tuổi thọ khác xa với các vị ở thế giới Cực Lạc, bằng sắc thân trong sáng như kim cương.
Ngay chính Phật Thích Ca Ngài đã giải thoát hoàn toàn, đã thanh tịnh thân tâm tuyệt đối, đã không khác chư Phật mười phương, nhưng với thế giới gồ ghề uế trược Ta Bà, thân phương tiện của Phật cũng phải già nua và cuối cùng không trụ thế được nữa.
Tuổi thọ Ngài ra đi cũng phải hợp theo kiếp số chu kỳ con người, mà không thể sống thọ như các bậc thượng nhân ở cõi Cực Lạc. Do đó ta thấy, Phật Thích Ca thọ tuổi như con người Ta Bà, và cũng thế, dân chúng Cực Lạc tuổi thọ như Phật A Di Ðà không khác.
Nhưng nếu hỏi, người ở Cực Lạc chưa thành Phật làm sao ngang tuổi thọ với một vị Phật?
Ta có thể biết, vì ngay khi hóa thân từ hoa sen đi vào cõi Phật, họ đã chắc chắn thành Phật tương lai, như Phật Thích Ca thường dạy ‘Ta là Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành’. Lại xin lưu ý, nói đức Phật Thích Ca tuổi thọ như con người là nói theo thế gian, trụ sắc tướng vô thường chớ đã là Phật thì bất cứ điều gì cũng không thể nghĩ bàn được. Trong kinh Niết Bàn [6]xác nhận điều này như sau:
"Nầy Ca Diếp! Ông chẳng nên ở nơi Như Lai có quan niệm là diệt tận.
Nầy Ca Diếp! Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, nhẫn đến ngoại đạo ngũ thông thần tiên, hạng được tự tại, hoặc sống một kiếp hay ít hơn, ở giữa hư không đi đứng nằm ngồi tự tại, nách tả phun lửa, nách hữu vọt nước, thân tuôn khói lửa, nếu muốn sống lâu thời được như ý muốn. Ðối với mạng sống, hoặc dài hoặc ngắn đều tự tại. Người được ngũ thông còn đặng thần lực tùy ý như vậy, huống là Như Lai đặng sức tự tại đối với tất cả pháp, mà lại không thể ở đời hoặc nửa kiếp, hoặc một hai kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc vô lượng kiếp sao ? Vì những nghĩa ấy phải biết rằng Như Lai là pháp thường trụ chẳng biến đổi. Thân của Như Lai đây là thân biến hóa chẳng phải thân tạp thực. Vì độ chúng sanh nên thị hiện đồng với chúng. Vì vậy nên thị hiện bỏ thân mà nhập niết bàn.
Vậy kết luận rằng, người dân ở Cực Lạc nhứt định thành Phật không sai, nên mới đồng mệnh tuổi thọ với Ngài.
"Phật A Di Ðà thành Phật đến nay đã mười kiếp "(A Di Ðà Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp). Ðức Phật dạy rõ như vậy, cho chúng ta hiểumột sự thật rằng, Phật A Di Ðà đang là giáo chủ ở đó(Cực Lạc).
Ghi nhận sự thật này đủ làm nền tảng không thoái chuyển cho việc nguyện sanh về thế giới kia. Riêng vấn đề kiếp số, ta chỉ tạm hiểu ít phần để biết phước báo công đức của hai cõi, Ta Bà và Tịnh Ðộ Tây phương chênh lệch khó tưởng. Theo Phật học ước tính, một tiểu kiếp là mười sáu triệu tám trăm ngàn năm,(16.800.000) [7]nhưng tuổi thọ của người dân Cực Lạc cùng với Phật A Di Ðà là vô lượng vô biên kiếp; vậy nên không cần phải suy tính, mà chỉ hiểu rằng phước báo công đức không thể nghĩ bàn được.
-Này Xá Lợi Phất! Ðức Phật ấy có vô lượng vô
biên đệ tử Thanh Văn toàn A La Hán, chẳng phải tính toán mà có thể biết số Thanh Văn ấy, các chúng Bồ-tát lại cũng như thế. (bỉ Phật hữu vô lượng vô biên Thanh văn đệ tử giai A La Hán phi thị toán số chi sở năng tri, chư Bồ Tát chúng diệc phục như thị).
Ðoạn này nhấn mạnh, người sanh Cực Lạc có đủ chúng hội, chứ không phải người ta thường nghĩ chỉ là hạng căn cơ thấp, nương nhờ Phật lực. Lại biết, tất cả chúng đệ tử của Ngài đều lấy Bồ Ðề tâm xây dựng tâm cảnh của mình, nên dù gọi Thanh Văn, Bồ Tát vẫn là tâm nguyện chung hằng mong cầu quả Phật trọn độ chúng sanh. Từ tâm Bồ Ðề vậy, các vị đều là bậc bất thối chuyển, do đó Phật dạy "..chúng sanh sanh về, đều là những bậc không còn thoái chuyển"
(chúng sanh sanh giả giai thị A Bệ Bát trí).
Hành giả tu niệm Phật tức liền đã tích lũy vào mình tâm nguyện tha thiết độ sanh, bởi khi sinh sang cõi kia dù là bật hạ phẩm thấp nhất cũng trở thành bất thoái chuyển.
Ðiều này, ngay tại quốc độ uế trược không thể tin, người niệm Phật đang mang tâm Bồ Ðề cao lớn như thế; vì thứ nhất, niệm Phật không hiện công phu khó khăn; thứ hai, người niệm Phật lại toàn đa số các cụ già, hay các sư thầy đang trong tuổi của vô thường kề cận.
Nhưng lời Phật dạy không bao giờ sai, cận tử nghiệp nói lên được một người chuẩn bị đi vào cõi sống khác.
Tuy nhiên cũng cần nhận định rõ thêm; một người chưa bao giờ niệm Phật, không bao giờ mở được một tiếng Phật ngay phút lâm sàng (Hiện rõ giờ phút đau đớn trên giường bệnh). Thậm chí có người đã là Phật tử đã biết đi chùa lễ Phật đã xem kinh cũng nhiều, vẫn tin Pháp môn niệm Phật, nhưng giờ lâm chung chẳng thể niệm được một câu. Không phải hoàn toàn do bệnh gây ra đau đớn niệm không được, mà phần lớn không đủ niềm tin, không đủ quyết tâm cầu Phật lực; lại do đương sự không tự lực tầm kiếm nên không đủ nhân duyên. Nhưng hơn nữa, có người đã tin niệm Phật, có thực hành, ấy vậy khi mất không hiện tướng vãng sanh; dù ít ra cũng hiện vài điều an bình khi ra đi, ngược lại không một dấu hiệu chi! Chính vài điểm này, người niệm Phật hay ái ngại có được sanh về nước Phật không!
Khi thần thức thoát ra từ ngũ uẩn hư hoại, việc còn lại phủ quanh thần thức là nghiệp lực; thần thức sẽ mất thăng bằng khi không có lực khác hướng dẫn ngoài lực chính mình chiêu cảm ra. Ví như lạc vào hoang đão không một bóng người, việc sinh tồn chỉ còn trông vào khả năng đương sự; nếu đương sự chỉ là người từ nhỏ đến lớn sống bằng sự nuôi nấng chăm lo của người khác, tất nhiên sẽ chết mất trong vài ngày. Nếu đương sự là người bươn trải lăn lóc kinh nghiệm cuộc đời, bằng kiến thức thực tế học đường, xã hội, chắc chắn đương sự kéo dài được mạng sống và có thể được người tìm ra cứu nguy.
Ðược sanh vào thế giới Phật, nghiệp thiện không chưa đủ, vì có thuần thiện cũng chỉ gieo duyên ở cảnh trời hay cảnh người giàu sang phú quý. Hẳn nhiên niệm Phật không ai lại mong làm người giàu sang, hoặc sanh cõi trời hưởng lạc. Vậy thần thức sẽ xuôi về ánh sáng do chính nghiệp của mình tạo ra, và nếu trong lúc sắp bỏ thân đi, câu niệm Phật sẽ theo thần thức tạo ra ánh sáng dịu dàng đượm màu giải thoát, từ đây chiêu cảm với ánh sáng Phật và Thánh chúng, nên nhẹ nhàng buông bỏ tất cả.
Ðó là tự lực niệm Phật của mình chiêu cảm vào thế giới Phật, chớ không phải Phật và Thánh chúng chỉ hiện ra với người thiện và không bao giờ đến với người ác. Nếu quả thiệt vậy Phật đâu có từ bi! Tất cả là do chính chúng ta quyết định, chuyển vọng thành chân, chuyển mê ra ngộ, chuyển thức thành trí. Do thế câu niệm Phật thật quan trọng ngay khi sắp lìa xác thân, chuẩn bị sáng suốt đi tìm ánh sáng của Phật và chư Thánh chúng. Và dù bên ngoài đôi khi mục kích không hiện tướng lành ra đi, nhưng bên trong của thân xác đó đã được an tâm qua danh hiệu Phật, vì thần thức bấy giờ rất tinh nhuệ có thể ghi nhận hết những diễn tiến linh hoạt chung quanh, do đó ta không thể tuyệt đối căn cứ bên ngoài, mà đánh giá, hay bỏ lỡ cơ hội trợ giúp hộ niệm cho người.
Việc nữa nếu khăng khăng chấp chặt phải hiện tướng vãng sanh, thì khi trường hợp tai nạn bất thần, làm sao niệm Phật!
Thời Phật tại thế, đệ tử Ngài cũng đưa ra câu hỏi như vậy. Và Ngài đáp lại bằng tỉ dụ - có một loại cây, khi lớn thân nó có khuynh hướng nghiêng về một bên, vì nghiêng như vậy nên gặp gió bão thổi vào, bất cứ hướng nào nó sẽ chắc chắn chỉ ngã về hướng đã nghiêng. Ðiều này ví người có tu hành khi chết biết được nơi mình ra đi; ngược lại thân cây đứng thẳng, ví người không tu, nó sẽ bị ngã bất cứ hướng nào mà không lường biết được.
Như thế điều chuẩn bị thực tế, hãy tạo cho tâm thức ta có khuynh hướng nghiêng ngã về một bên như tỉ dụ trên, tức hãy niệm Phật khi thân xác còn khoẻ mạnh; được vậy việc chứng kiến cảnh người biết niệm Phật ra đi thế nào sẽ không còn lo lắng nữa.
Ngược lại ra đi trông thấy nhẹ nhàng, nhưng không câu niệm Phật thì không thể đi vào thế giới Phật; chỉ trừ các bậc Bồ Tát với tâm nguyện trở lại độ sanh, hay các vị đã nhuần tâm đại bi gần như tâm Phật nên chẳng ngại thế giới nào, để rồi mục tiêu cũng trở về cõi Phật. Ngoài ra tất cả đều lọt vào quả báo hữu lậu, ở cõi trời, người, mà sau này không chừng lại là nhân khổ cho quả tương lai.
Phật cho biết với số lượng các bậc Bất thối chuyển, trong đó lại có nhiều vị Nhứt-sinh Bổ-xứ sanh sang cõi Cực Lạc thật không thể kể được. "Cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về, đều là những bậc không còn thoái chuyển, trong ấy có nhiều vị đại Bồ Tát Nhứt sanh bổ xứ, số này rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết cho hết. Chỉ có thể dùng con số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói mà thôi ". (Cực Lạc quốc độ chúng sinh sinh giả, giai thị A Bệ Bạt Trí, kỳ trung đa hữu Nhất sinh Bổ xứ, Kỳ số thậm đa, phi thị toán số sở năng tri chi đản khả dĩ vô lượng vô biên a tăng kỳ thuyết)
Các vị Nhứt-sinh Bổ-xứ, tại nơi Cực Lạc này các Ngài sẽ được thành Phật mà không cần phải sinh lại bất kỳ nơi đâu nữa (nhứt sinh), vậy đây là nơi các Ngài sanh đến để làm Phật.
Cũng hiểu rằng, riêng các thượng nhân khác dù sanh ở hạ phẩm cũng vẫn thành Phật tương lai, tuy nhiên thời gian thành đạo so với các vị Nhứt- sinh có phần chậm hơn.
Một vị Phật xuất hiện vào một thế giới, quả thật hiếm, khó vô cùng, như Phật Thích Ca thị hiện vào Ta Bà đến nay đã hơn hai ngàn sáu trăm năm (2600); thời gian này đối với cõi trời và thế giới Bồ Tát thì thật ngắn, nhưng đối với chúng ta quả thật dài. Nhưng nếu chờ vị Phật tương lai xuất hiện, kinh sách nói có thể cả triệu năm nữa!! Ðây cũng chỉ ức đoán thôi, tuy nhiên điều chắc chắn, khi nào không còn một lời kinh tiếng kệ của Phật hiện tại, Phật tương lai mới xuất hiện để quay lại chu kỳ độ khổ chúng sanh. Chừng ấy, không biết chúng ta sẽ là chúng sanh gì, và sanh ở đâu nếu như không tu! Và tu mà không sanh vào thế giới Phật thì biết đâu ta lại trải qua, vượt qua thời Phật tương lai đến 2600 năm, rồi lại thở than rằng bất hạnh sống đời mạt pháp y như ngày hôm nay! Ôi thật sợ, sợ lắm!
Biết rằng, quả thật hy hữu sanh được thời còn giáo lý giải thoát, vậy mà ở Cực Lạc số Phật tương lai (tương lai thật gần và chắc chắn) nhiều không thể nghĩ bàn; nếu sanh được về đó, ta sẽ may mắn dễ dàng gặp các Ngài, lại còn may mắn làm bạn nữa ‘các vị Bồ Tát bạn lành với ta’. Rồi mặc sức mà chọn một vị làm bạn thân! Ðể khi vị ấy thành Phật chúng ta sẽ là những đệ tử đắc đạo bên Ngài như các đại đệ tử A Nan, Ca Diếp ...của Phật Thích Ca vậy.
Thật ra ngay khi có mặt ở Cực Lạc, tất cả sẽ là Phật trong tương lai thật gần, vì thắng duyên đã đầy đủ, chỉ có vấn đề chờ thời gian tròn đủ phẩm hạnh, để hiện vai trò chư Phật, độ hóa chúng sanh.
Vì sao biết được sinh ở Cực Lạc tương lai chắc chắn thành Phật? Vì Phật Thích Ca dạy, các vị thượng thiện nhơn ở Cực Lạc, trong đó có nhiều vị nhất sinh bổ xứ; Nhứt sinh bổ xứ, có nghĩa một vị Bồ Tát đã đầy đủ phẩm hạnh sẽ được thọ ký lên ngôi Phật, từ đó tùy duyên thị hiện vào một thế giới nào đó độ chúng sanh. Và quả vị Nhứt sinh bổ xứ vậy chỉ là lần lượt mọi người dân ở Cực Lạc sẽ đi đến mà không bao giờ thối lui. Cho nên các vị thượng thiện nhơn, còn được gọi là Bất Thoái Bồ Tát.
Ý nghĩa và hành động của Bất Thoái, thật quan trọng thiết yếu trong việc tu hành dù ở bất cứ thế giới nào. Ngay thế giới Cực Lạc, các vị Bồ Tát trong tâm nguyện thành đạo cũng phải nương gần với nhau để tròn đủ Bồ Ðề Tâm, để được bất thoái; và hẳn mọi nơi thế giới, Bồ Tát cũng phải mong cầu thỉnh Phật lưu trú mới được trọn phần viên mãn chứng đạo giải thoát - nếu như không thể thỉnh Phật được, phải tìm cách đi đến chỗ Phật mà trang nghiêm thêm phẩm hạnh của mình. Bằng chứng kinh Vô Lượng Thọ Phật dạy: "Chẳng những ở cõi ta, mà các cõi khác cũng đều có các Bồ Tát vãng sinh sang cõi Cực Lạc",
Phật còn kể ra danh hiệu mười ba (13) cõi Phật, nơi có các Bồ Tát vãng sanh sang Cực Lạc như: Cõi Phật Viên Chiếu, Phật Bảo Tạng, Phật Vô Lượng Âm, Phật Cam Lộ Vị, Phật Long Thắng, Phật Thắng Lực, Phật Sư Tử, Phật Li Cấu Quang, Phật Ðức Thủ, Phật Diệu Ðức, Phật Nhân Vương, Phật Thượng Hoa và Phật Vô Úy.
Cụ thể sự thật này là Phật nói rõ số lượng Bồ Tát bao nhiêu ở mỗi cõi được vãng sanh. Và trong mười bốn cõi (14) (tính luôn cõi Ta Bà), thì hai cõi Phật Vô Thượng Hoa, và Phật Vô Úy, được tả nhiều nhất.
Phật lại dạy thêm: "Chẳng những chỉ có các vị Bồ Tát trong mười bốn cõi Phật ấy được vãng sinh, mà còn rất nhiều Bồ Tát ở mười phương thế giới cõi Phật số được vãng sinh, cũng nhiều như vậy. Nay ta chỉ nói lược danh hiệu chư Phật mười phương và các Bồ Tát, Tỉ Khưu, được sinh sang cõi ấy. Nếu nói rộng ra, thì suốt đêm ngày, trong cả một kiếp, cũng không thể hết được". [8]
Sự có mặt của đấng toàn giác (Phật) mới chắc chắn dễ dàng làm cho hành giả giữ được Bồ Ðề Tâm bất thoái. Thời Phật Thích Ca tại thế, các đệ tử luôn luôn tìm cách gần Ngài, cho dù chỉ nhìn thôi cũng thấy ‘ấm lòng’, đây không nói riêng các vị chưa đắc quả Thánh, mà hết thảy, từ người mới vào đạo đến các trưởng lão với quả Vô sanh (A La Hán). Do thế, khi nghe tin Phật tuyên bố sẽ vào Niết Bàn, một số đệ tử đã sám hối Ngài, xin xả thân trước, vì không chịu đựng nổi, còn sống mà thiếu vắng Ngài!
Nhưng tại sao các đệ tử lớn của Phật, kể cả chư Bồ Tát đã hiểu được sanh tử, đã lãnh hội được chân lý Phật dạy và thực tế với quả vị chứng đắc đã cao, lại phải luôn luôn muốn gần Phật?
Câu trả lời đơn giản, vì các Ngài muốn thành Phật cho mau mà thôi! Các Ngài muốn được nghe, từ kim ngôn Phật thọ ký xác nhận rằng, địa vị các Ngài sẽ thành Phật, dù dư biết các Ngài sẽ thành Phật tương lai. Hay nói đúng hơn các Ngài vẫn luôn luôn tự cho các Ngài không đáng gì cả, để khi gần gũi Phật mới thực tế học được điều Phật dạy. Và có lẽ đúng hơn nữa, là chỉ có quả vị Phật mới độ được mọi chướng duyên nghịch, thuận của chúng sanh, cho nên lý do đó mà các bậc Bồ Tát muốn thành Phật sớm - lại cộng thêm Bồ Ðề Tâm quá mạnh. Chứ không phải phàm phu chúng ta tưởng, rằng các bậc Bồ Tát lại còn sợ lo cho mình không thành Phật!
Thế nhưng vẫn có trường hợp lo sợ chính mình lâu thành Phật, nên các Ngài phải mong gần Phật, để sanh vào thế giới chỉ có tiến chớ không lui, như là thế giới Cực Lạc vậy.
Bây giờ xét lại thế giới chúng ta hiện thời; nếu muốn được tâm tu bất thoái phải làm thế nào; trong khi Phật Thích Ca đã tịch hơn hai ngàn sáu trăm năm (2600), và chư Thánh Tăng, Bồ Tát cũng không còn nữa - nếu có thì không biết các Ngài ngụ ở đâu! Khó tìm hơn, các Ngài lại không tự cho mình là Thánh, nên đã khó lại gặp khó thêm!
Âu vẫn còn duyên lành cho ta, đó là lời Phật trong kinh, và giới luật làm nền tảng học Phật. Vậy ta chỉ có thể trở thành tinh tấn học Phật qua việc, ôn đi ôn lại lời Phật dạy, và nhiếp tâm hằng sống với tâm niệm cầu sanh về nơi nào có đủ thắng duyên gặp Phật.
Ta phải dùng thân cầu thấy Phật bằng cách gần đạo tràng lễ Phật đọc kinh, và dùng tâm để cầu sanh đất Phật, là hằng tưởng niệm Phật mong được sanh về Cực Lạc. Ðó là điều cơ bản để giữ được tinh tấn, cũng là phần tạo cho ta không thối lui trước nghịch cảnh đang bủa vây trong đời.
-Xá Lợi Phất! Chúng sanh được nghe, hãy nên phát nguyện, nguyện sanh nước ấy. Tại vì sao vậy? - Vì được cùng với các bậc Thánh chúng thượng thiện như thế sum họp một chỗ. (Xá Lợi Phất chúng sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? Ðắc dữ như thị chư Thượng thiện nhơn câu hội nhất xứ ).
Rõ ràng là lời từ bi thương xót chúng sanh đang chìm đắm trong bể khổ, nên Phật khuyên ngay, rằng khi nghe, nên phát nguyện sanh về Cực Lạc. Rồi tiếp nói nguyên do, để người muốn sanh, hiểu được tại sao phải sinh sang nước đó. Hỏi và tự trả lời của Phật, nhấn mạnh cho người còn nghi ngờ, nhất là những người cảm thấy mình tội lỗi, nghiệp ác sâu dày làm sao sanh được vào nơi trang nghiêm thanh tịnh!
Phật nói: Vì được cùng với các bậc Thánh chúng thượng thiện như thế sum họp một chỗ. Phần trên đã có đề cập là số lượng chư vị Bồ Tát nhiều vô số, mặc sức mà ta tìm làm bạn; đến đây đoạn này thấy rõ, ta sẽ cùng chư Thượng thiện nhơn sống chung một nơi. Ðã sống chung một nơi lo gì không ảnh hưởng!
Ðời nay người tu, mà được sống gần một vị Thánh thì quá sung sướng! Chẳng hạn hiện thời thế giới chúng ta có Ngài Ðạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn (14), Ngài là vị Thánh Tăng sống thật đối với dân tộc Tây Tạng, nhưng lại vượt không gian quốc thổ, sắc tộc của Ngài, để được mọi người hầu như công nhận Ngài thật dễ thương đáng kính. Bằng chứng cụ thể, những buổi thuyết giảng của Ngài số người tham dự đến nghe, thường vượt khỏi con số mười ngàn; đặc biệt thính giả tham dự đó, tất cả đều chẳng màng gì tôn giáo! Bởi vì họ chỉ đến nghe một Thánh Tăng nói ra một chân lý!
Việc này thế giới ngày nay, chưa thấy có người thứ hai nào, có sức thu hút như Ngài. Nhưng Ngài nói Chân lý gì ? Chân lý tình thương và giải thoát. Và tình thương giải thoát đó chỉ là lời Phật dạy, mà Ngài đã biểu thị được một nhân cách của bậc đáng yêu, để người ta phải gọi Ngài là Thánh.
Thế thì thế giới Ta Bà hiện nay, chỉ xuất hiện không quá hơn một vị Thánh; (đây không kể thêm, chắc chắn còn có các bậc Thánh khác ẩn tu đâu đó chưa xuất hiện) mà con người đôi lúc cảm nhận thấp thoáng niềm vui, vậy thử hỏi được sống trong một đất nước toàn dân đều như Ngài Ðạt Lai Lạt Ma thứ XIV, thì niềm vui sẽ thế nào!
Nhưng nơi Cực Lạc, Phật dạy toàn các bậc Thượng Thiện nhơn! Ta hiểu điều này hẳn là sự thật, chứ không phải hoang đường, vì ít ra nơi đây, nơi Ta Bà uế trược này đã có Thánh sống.
Nếu như lại tưởng, ta khó hòa nhập nơi đất Thánh, thì kinh đã dạy ‘Phàm Thánh đồng cư’. Nơi đó không có phân biệt, kỳ thị, chỉ là sự dìu dắt tất cả hòa vào dòng suối thanh lương tươi mát của dòng Pháp vị giải thoát mà thôi.
Người mới vào, tâm còn thô, nhìn người khác với tâm thức nhẹ nhàng, thì tâm thô chuyển thành nhẹ. Người tâm không quá thô, cũng chưa thanh nhẹ lắm, nhìn chư Thánh Bồ Tát lại mau hóa thành tâm nhu nhuyển, siêu nhiên; cuối cùng tất cả là sự thị hiện từ bi để nâng đở hòa vào từ thô đến tế.
"Xá Lợi Phất! Chẳng thể dùng một nhân duyên, phước đức, căn lành nhỏ ít được sanh nước đó". (Xá Lợi Phất, bất khả dĩ thiểu thiện căn phúc đức nhân duyên, đắc sinh bỉ quốc)
Ðây Phật dạy được sinh về Cực Lạc không phải là dễ! Vậy có nghĩa chỉ niệm Phật không thôi chưa chắc đã đủ công đức; phải còn những điều kiện khác và điều kiện đó là làm sao cho có nhiều công đức, hay thế nào cho đúng ý nghĩa công đức mới được. Nếu niệm Phật mà chỉ lo cho mình, chưa bao giờ móng khởi tâm độ người khác thì khó thể vãng sanh. Tuy nhiên vẫn có công đức, nhưng việc được vãng sinh phải mất thời gian thật lâu xa, khi phải xoay vần theo phước báo hữu lậu, do chủng tử niệm Phật hóa thành nhân duyên phước báo trong đời tương lai.
Chúng ta hiểu rằng, một người sinh ra đời gặp Phật pháp, rồi tin nhận giáo lý đại thừa; tin có thế giới Phật, và nguyện được sinh sang không phải việc dễ! Bởi số lượng tu theo Phật thật đông nhưng thật tin Pháp tha lực, được Phật tiếp dẫn về Tịnh độ (đất Phật) thì chắc không nhiều.
Ðó là nói theo đúng nghĩa của thật tin, vì chúng ta đã chẳng thấy nhiều người tự tại vãng sanh, trong khi vẫn đang tu theo pháp tu niệm Phật. Vậy, vì không đủ niềm tin kiên cố, nên khi mất đi sẽ khó vãng sanh - một số có lẽ sanh về cảnh trời và một số lại trở về cảnh người hưởng phước.
Số vào cảnh người chắc chắn may mắn hơn vì không quá sung sướng như cảnh trời, nên chủng tử của kiếp vừa rồi còn đó, đủ khơi dậy dẫn họ vào Phật pháp.
Một số sanh cảnh người lại lặn lội trong việc nghiên cứu, nhưng cuối cùng cũng quay về pháp tu niệm Phật, do duyên đã niệm Phật kiếp trước; cứ như thế họ giữ được nền tảng Phật chất mãi trong kiếp sống, và mãi mãi cho đến khi niềm tin kiên cố chín muồi, bấy giờ niệm Phật sẽ đi ngay vào thế giới Phật.
Thời gian để được niềm tin kiên cố lâu mau không thể biết được, nhưng bao giờ chưa thật tin để thực hành theo niềm tin kiên cố, thì vẫn còn quay mãi trong vòng luân hồi của trời, người, hay tệ hơn lạc vào thế giới thấp khác.
Cũng chẳng nghi ngờ gì, tại sao biết Phật pháp lại đi lạc vào thế giới thấp khác! Vì có khi vừa tạo thiện lại đi đôi với việc ác mà không hay biết!
Còn trong cõi trược, còn mang thân phàm, còn đầy dục tình, còn đủ vọng tưởng... làm sao tránh không tạo nghiệp! Chúng ta ắt tin rằng dưới địa ngục vẫn có nhiều hạng chúng sanh, và không thể không có những chúng sanh cũng một thời là đạo sĩ! Tất cả đều do nghiệp thức thiện ác mà ra.
Ngoài niệm Phật kiên cố rồi, hành giả tự chu toàn các duyên thiện đức như lời Phật dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ: ‘ Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước: 1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành 2. Thọ trì tam quy, giữ trọn các giới, đừng phạm oai nghi 3. Phát lòng Bồ Ðề tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người tu hành. Ba điều như thế, gọi là tịnh nghiệp.’
Ðược như thế đã đủ thiện căn phúc đức, nhưng đây không phải việc dễ chu toàn; đó mới thấy không thể đơn giản sanh vào thế giới Phật.
Tuy vậy, thực hành niệm Phật vẫn nên một lòng kiên cố, giữ mãi niệm Phật trong tâm, các việc khác sẽ tự hoán chuyển, đó là điều mà chúng ta nghe Phật dạy tiếp sau: "Xá Lợi Phất! Nếu kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, được nghe nói đến Phật A Di Ðà, rồi nhớ giữ lấy danh hiệu của Ngài, hoặc niệm một ngày, hoặc hai ngày, hoặc là ba ngày, hoặc là bốn ngày, hoặc là năm ngày, hoặc là sáu ngày, hoặc là bảy ngày, một lòng chẳng loạn thì kẻ thiện nam, người thiện nữ ấy lúc sắp lâm chung, Phật A Di Ðà và các Thánh chúng hiện trước người ấy. Kẻ sắp mất này lòng chẳng điên đảo, liền được vãng sanh cõi nước Cực Lạc của Phật A Di Ða
(Xá Lợi Phất, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân, văn thuyết A Di Ðà Phật, chấp trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị nhật, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhật, nhược thất nhựt, nhất tâm bất loạn, kỳ nhân lâm mạng mệnh chung thời A Di Ðà Phật, dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền; thị nhân chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sinh A Di Ðà Phật Cực Lạc quốc độ,’
Dù không thể lấy ít công đức được sinh sang cõi Phật, nhưng phần này Phật dạy chuyên niệm từ một ngày hoặc cho đến hai, ba, bốn cho tới bảy ngày, người đó tâm không loạn sẽ được vãng sanh. Chúng ta hiểu, pháp tu niệm Phật chủ yếu nhờ vào tha lực của Phật gia bị và tiếp dẫn, thì phần nhiếp tâm, niệm theo thời gian như vậy có thể nhấn mạnh vào lúc gần lâm chung. Hoặc nhằm trường hợp, hành giả niệm Phật phát Bồ Ðề tâm tha thiết, nên dụng công chí tử quyết về Cực Lạc ngay, do cảm nhận duyên sự thế gian đến lúc phải từ bỏ; và mong vãng sanh sớm để trở lại với thệ nguyện độ tha của mình. Chỉ trường hợp như thế thì dù một ngày, hành giả cũng được thấy Phật cùng chư Thánh chúng hiện đến tiếp dẫn, nên ra đi ngay tức thời mà không bệnh đau chi cả; đây là bậc thượng căn.
Lại suy ra, tùy căn cơ trung, hạ mà được vãng sanh trong thời gian một đến bảy ngày.
Nếu không phải do nhân duyên đầy đủ, hay nguyện lực công phu, hoặc căn cơ tùy thuận, thì dù niệm đủ 10 ngày đến 100 ngày hay mười năm cũng không phải dễ vãng sanh; và ngay việc cần người hộ niệm cho mình cũng còn thấy khó.
Riêng trường hợp sắp lâm chung, có thể dễ dàng hơn nhiều, vì đương sự biết mình sắp chết chỉ mong cầu vãng sanh, do vậy mà niệm tha thiết trong một ngày cho đến bảy ngày. Tuy nhiên trường hợp biết gần lâm chung mà niệm được từ một ngày hay đến bảy ngày, là do nhờ lúc bình thường khỏe mạnh đã thường niệm Phật; nếu không thì, kể cả biết mình sắp chết cũng khó niệm được nhất tâm đến một ngày, huống chi bảy ngày!
Hiện nay có lẽ khó thấy trường hợp không bệnh niệm Phật được tự tại ra đi.
Do đó mới hiểu Kinh nói không sai; và việc thực hành tu niệm là do tâm cảnh con người sai khác, chớ điều Phật dạy bao giờ cũng là chân lý.
Dù vậy ta vẫn thấy vui mừng, vì ngoài pháp tu niệm Phật ra các pháp tu khác không cầu tha lực Phật, thì hành giả đó phải nhất định là bậc thượng căn mới có thể tự tại ra đi vào cõi thanh tịnh - chẳng hạn như cõi sơ thiền đến tứ thiền là cõi sắc giới, hay cao hơn nữa là vô sắc giới như Phi tưởng phi phi tưởng Xứ.
Ðây thật khá cao, tuy vậy vẫn còn trong tam giới chưa thể liễu sinh tử.
Ở cõi cao nhất của Vô Sắc giới tâm thức hành giả đạt đến mức thật sâu trong niềm an lạc; nhưng vẫn chưa liễu triệt các pháp sinh diệt của bản thể nhất như, Niết Bàn của chư đại Bồ Tát và chư Phật nên vẫn bị xoay mòn theo luật vô thường nhân quả, thế là cảnh giới an lạc đó vẫn phải mất đi, và bị dội ngược lại để quả báo phải tìm học lại từ đầu!
Chứng minh này, trong kinh Thủy sám có đoạn nhắc lại lời Phật dạy như sau: Phật bảo ông Tu Ðạt Ða: "Thầy ngươi là Uất Ðầu Lam Phất lợi căn sáng suốt, đã hàng phục được phiền não, đến cõi trời Phi phi tưởng rồi mà khi mệnh chung còn phải đọa vào đường súc sinh làm con phi ly, huống chi người khác."[9]
Còn như tự lực vượt qua được ba cõi, hành giả này phải là Bồ Tát tu lục độ (bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền đinh, trí huệ) vạn hạnh đến nhuần nhuyễn và theo đó đã đạt từng phần của Thập trụ [10]. Vậy ra chỉ có bậc thượng căn mới có thể tự tại nhờ vào tha lực rất ít.
Thật ra, ai đã tu Phật lại không nhờ tha lực! Vì có ai không nhờ vào kinh Phật, mà thấy được tánh mình và tánh Phật là một (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh); chính nhờ như vậy là nhờ vào tha lực.
Ta thử suy nghĩ vấn đề tha lực của Phật liên quan đến kinh điển!
Thật là huyền diệu khi kinh điển có thể dễ dàng tồn tại đến ngày nay, và huyền diệu hơn, ngay thời Phật còn tại thế, người ta đã chưa ghi chép gì, mãi tới khi Phật tịch.
Cho đến vài trăm năm sau, kinh Phật mới được ghi, và không ngờ ghi chép trọn vẹn chân lý của Phật, nhờ vậy người đời sau dù cách Phật cả ngàn năm, y theo kinh tu hành, đã liễu đạo chứng quả để lại bằng chứng nhiệm mầu cho nhân loại chứng kiến không phải là ít - như Lục Tổ Huệ Năng là một minh chứng tuyệt vời!
Như vậy có phải Phật lực, đã hằng gia hộ cho những người tin Phật để giữ được sự tồn tại kinh điển; và hành giả tu pháp môn nào lại không nhờ kinh mà ra! Cho nên bất cứ ai, hễ tu Phật là có được tha lực của Phật. Như thế hành giả tu Phật nào lại dám cho mình không nhờ tha lực!
Xét ra thấy rằng, người niệm Phật quả thật may mắn, liệu được sức mình, mong cầu tha lực Phật A Di Ðà tiếp dẫn vãng sanh.
Xá Lợi Phất! Ta thấy lợi đó, cho nên nói ra những lời trên đây, nếu chúng sanh nào nghe lời nói này, hãy nên phát nguyện sanh cõi nước ấy.
(Xá Lợi Phất ngã kiến thị lợi cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng sinh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sinh bỉ quốc độ).
Ðức Phật, Ngài đã xác nhận rõ ràng, việc sanh về Cực Lạc là một việc lợi ích, và ai nghe qua hãy nên phát nguyện sinh sang. Ðây là việc hy hữu vượt lên trên mọi hy hữu, bởi chính kim khẩu của Phật ân cần khuyên dạy chúng ta - hơn nữa, đó là sự thật minh bạch, xác nhận một nơi thuận duyên cho chúng sanh làm trụ xứ tu hành.
Thật đúng như thế, bằng không Phật đã cần gì nói ra điều đó, trong khi chính Ngài là đấng giác ngộ hiện diện ngay cõi Ta Bà này - nếu không phải lợi ích trên hết, Phật chỉ cần chọn ra một pháp môn tiện lợi nào đó thật dễ, cho chúng sanh tại nơi đây, cần gì phải nhắc đến một vị Phật đâu đó mà chúng sanh chưa từng thấy nghe!
Lại nữa, như Ngài biết rõ giáo pháp giải thoát vẫn còn tồn tại cả ngàn năm, thì những người tin Phật chỉ cần căn cứ theo vị Phật lịch sử Thích Ca ngay trong cõi này, dễ hơn là tin một vị Phật A Di Ðà ở xa tận mười vạn ức Phật độ! Nhưng, vì công hạnh và nguyện lực của Phật A Di Ðà quá lớn, quá vi diệu với phương tiện độ dẫn chúng sanh quá dễ dàng, do đó Ngài không ngại gì mà không khuyên chúng sanh nên tu theo pháp môn niệm danh hiệu Phật kia. Ðây là việc làm từ bi, thương yêu chúng sanh hết mức, để cố gắng nói ra một pháp tu mà chúng sanh thật khó tin. Thế thì hai tiếng lợi ích không thể đơn giản như thế gian thường hiểu, như là an lành, sung sướng, hạnh phúc, bình an, mà lợi ích đây sẽ dẫn đến giải thoát chấm dứt khổ đau trong sáu nẻo luân hồi.
Rồi lợi ích đó lại còn chia xẻ đến hàng chúng sanh khác, một khi một hành giả đã sanh về Cực Lạc. Nghĩa là sẽ thành Phật tương lai, sẽ độ vô lượng chúng sanh.
"-Xá Lợi Phất! Như ta hiện nay, khen ngợi Phật A Di Ðà, đó là lợi ích của một công đức chẳng thể nghĩ bàn.
Phương Ðông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu di Tướng, Phật Ðại Tu di, Phật Tu di Quang và Phật Diệu Âm...Có Hằng sa số đức Phật như vậy, Ngài nào cũng ở cõi nước của mình, đưa tướng lưỡi rộng dài, che khắp toàn cõi đại thiên thế giới, nói lời thành thật "Hỡi các chúng sanh! Nên tin công đức chẳng thể nghĩ bàn của lời khen ngợi về bổn kinh mà tất cả chư Phật đều cùng hộ niệm "
‘Xá Lợi Phất, như ngã kim giả tán thán A Di Ðà Phật, bất khả tư nghị, công đức chi lợi, Ðông phương diệc hữu A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Ðại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu âm Phật như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc, xuất quảng tràng thiệt tướng biến phú tam thiên đại thiên thế giới thuyết thành thật ngôn:
Nhữ đẳng chúng sinh đương tín thị: ‘xưng tán bất khả tư nghị công đức nhất thiết chư Phật sở hộ niệm kinh’. [11]
Ðức Phật tán thán ca ngợi công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Ðà; Ngài còn dạy không chỉ chính Ngài tán thán, mà còn có vô số chư Phật ở những phương khác cũng đều biết công hạnh Phật A Di Ðà, và tán thán khuyên chúng sanh hãy tin nhận.
Xác nhận sự thật và công đức lớn lao của Phật A Di Ðà, Phật phải kể ra hình ảnh Tướng lưỡi rộng dài của chư Phật sáu phương hiện ra đồng một lúc để xưng dương tán thán. Ðiều đó được hiểu là những lời nói vô cùng thành thật trong chánh pháp chân lý, nên có sức che khắp toàn cõi đại thiên thế giới.
Việc này chúng ta lại thấy nguyện lực của Phật A Di Ðà lớn thế nào! Lại nghĩ chỉ cần Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta tán thán thôi, cũng đã bất tư nghị rồi, huống chi Ngài dạy, còn những chư Phật ở sáu phương khác nữa, và những chư Phật ở mỗi phương đó lại nhiều như các sông Hằng, tất cả đều ngợi khen tán thán công hạnh của Phật A Di Ðà; nên hễ ai tin nhận sẽ được chư Phật hộ niệm như các Ngài hộ niệm bổn kinh này.
Lời nói của Phật Thích Ca quá từ bi, và lòng từ bi nhất của Ngài, là dạy chúng sinh nên tin nhận mà hành tu theo, tức nên cầu sanh sang nơi đó.
Ngài từ bi đến độ dùng phương tiện nói thật rõ, nêu ra các chư Phật ở những phương kia đều hiện ra tướng lưỡi rộng dài che khắp ba nghìn đại thiên thế giới nói lời thành thật rằng, chúng sinh nên tin kinh này.
Ðã là Phật, lời nói chẳng bao giờ đi ngoài chánh pháp, chỉ có mục tiêu khiến người nghe sinh tâm an lạc, chuyển thành tâm Bồ Ðề hóa thành tâm Phật. Nhưng Ngài cũng phải nhấn mạnh: là chư Phật ở những phương đó nói lời thành thật! Vậy quả là Ngài từ bi đến mức nào!
Vì thương cho chúng sanh, những chúng sanh vào hạng căn cơ quá thấp, hay nghi ngờ, cố chấp; chấp những gì thấy được mới tin, chấp những gì chưa hiểu thì chưa cho là chánh pháp. Nên Ngài không ngại phải nhấn mạnh, như là một sự thừa thải mặc nhiên; vì đã là Phật đâu cần phải nói, lời nói các Ngài thành thật!
Chúng sanh ở hàng mới phát tâm cầu đạo cũng đã sợ nói dối rồi, thì bậc Ðại giác, Ứng cúng, Chánh biến tri lại còn kẹt vào ngôn ngữ thiện ác, nhị biên sao!
Ðối với chư Phật không có việc nhị biên đối đãi như thế gian pháp; tất cả những gì mà chúng ta hiểu các Ngài, là do các Ngài ứng hiện quyền biến phương tiện để độ chúng sanh mà thôi; cho nên do quyền biến phương tiện nên mượn ngôn ngữ, mượn hoàn cảnh con người, thành ra Phật Thích Ca mới mở lời từ bi dạy cho chúng ta, bằng những tỉ dụ thật từ bi mà chúng ta cứ ngỡ là như thừa thải, hiển nhiên.
Nếu như chư Phật lấy cái biết vượt qua phạm trù của thế gian pháp thì ai lại hiểu!
Chúng ta lại biết pháp Phật, ứng hiện chuyển hóa đến những thế giới qua năm thừa: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ Tát thừa, do đó pháp luân chuyển hóa cũng đi theo từng trình độ, chính thế mà trong kinh Pháp Hoa có tả, khi chưa phải đủ duyên, trình độ hiểu biết, thì trước mặt đấng Thế Tôn một số thính chúng đệ tử vẫn tự động bỏ ra! Ðó là do mờ mịt chẳng hiểu gì.
Từ đây nên hiểu, Kinh Phật hiện thời lưu lại thế gian, chỉ là phần cho thế gian hiểu, chứ riêng cho hàng thượng căn thanh tịnh Bồ Tát, có lẽ còn thật nhiều, mà nhân duyên đó có thể đang được lưu giữ ở Thiên cung hay Long cung chẳng hạn! Ấy vậy mà kinh ở thế gian cho thế gian này, ai lại dám tự hào đọc hết! Xin thưa đọc còn chưa hết, nói chi hiểu hết!
Lẽ đó nên biết, hễ là kinh Phật thì không thể nghĩ bàn; và ai đó hiểu được phần nào người đó được lợi ích phần đó. Nếu hiểu mà thực hành theo điều hiểu của mình người đó sẽ đi vào chánh pháp giải thoát rất mau. Nói như thế, vì hầu như số người hiểu kinh Phật có thể thật nhiều, nhưng số người hiểu mà hành theo thì quả thật ít - ngay như kinh A Di Ðà này nói là khó tin, nhưng khi tin rồi quả là thật dễ, dễ cả luôn thực hành; tuy vậy cuối cùng vẫn còn là khó đối với người đã có niềm tin! Vì sao! Vì không luôn thực hành theo, thành ra không còn là dễ.
Với kinh Kim Cang không phải là dễ, nhưng tin mà thực hành theo thì cũng thành dễ, như Lục Tổ Huệ Năng; Ngài chỉ nghe có một đoạn kinh đã củng cố niềm tin, rồi thực hành theo ngay khi được ngũ Tổ (Hoằng Nhẫn) thọ nhận, để chứng đạt được pháp giải thoát, lưu lại cho đời một kỳ tích giải thoát sống động qua lời dạy trong Pháp Bảo Ðàn Kinh. Phi thường siêu tuyệt hơn nữa Ngài đã chuyển sắc thân ngũ uẩn thô kệch hóa thành xá lợi toàn thân hiện hữu đến hơn ngàn năm nay.
Thật ra kinh dạy về pháp tu niệm Phật cầu sanh cõi Phật A Di Ðà, không phải là một dạng kinh dễ tin và thực hành. Vì các kinh khác thường hay tạo cho người đọc suy nghĩ, tư duy so sánh rồi thể nghiệm vào tự thân và hoàn cảnh, cuối cùng xác quyết tin nhận thực hành theo. Những dạng kinh như vậy ta thấy, hầu như đều nằm trọn trong mười hai loại kinh của Phật (thập nhị bộ kinh) như: Trường hàng, Trùng tụng, Thọ ký, Cô Khởi tụng, Tự thuyết, Nhơn duyên, Thí dụ, Bổn Sự, Bổn sanh, Phương Quảng, Vị Tằng hữu và Luận nghị.
Nghĩa là Phật thuyết pháp qua những nguyên nhân chuyện tích tiền thân của chư Phật, Bồ Tát và chính thân Ngài. Hoặc gặp duyên thấy cảnh trước mắt liền lấy đó làm pháp dạy, hoặc cho nhân duyên đệ tử thưa thỉnh vấn nghi, và còn lại là vì muốn thọ ký, khai mở mà tự động nói ra - và đây cũng là việc khó cho hàng đệ tử, vì không nhận được nhân duyên đối với trình độ hiểu biết của mình. Ðây là loại kinh ‘vô vấn tự thuyết’, tức không ai hỏi mà tự nói. Chính tự nhiên như vậy, thường làm thính giả ngơ ngác, lại càng ngơ ngác hơn khi hình ảnh chủ đề nói đến, không nằm trong chánh báo, và y báo ở dạng của thính chúng đang nghe. Hay nói rõ hơn, không giống như những bài pháp, thường mà thính chúng và hoàn cảnh trước mắt được trải qua ở thế gian này.
Cho nên, có những bài pháp chỉ chư Phật với nhau mới hiểu được, và thật đúng kinh A Di Ðà này là loại pháp chỉ có chư Phật với nhau mới hiểu rõ.
Tuy nhiên ta cũng có thể hiểu được phần nào nguyên nhân Phật nói kinh, và sự liên hệ giữa chư Phật đều nhất quán với nhau trong việc độ sanh.
Phật nói kinh A Di Ðà, kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ ...kinh mà Ngài khuyên con người nên nhiếp thân khẩu ý thanh tịnh cầu sanh về cõi Phật, thật ra vẫn có nguyên nhân. Nguyên nhân qua hoàn cảnh của bà Vi Ðề Hi đau khổ trong cảnh sanh phải đứa con đại ngỗ nghịch, giết cha hại mẹ; dù bà lại là đệ tử tại gia của Phật.
Trong sự đau khổ đến mức cùng cực bà chợt nhớ Ðức Bổn Sư và từ đây, than oán cho hoàn cảnh; chỉ cầu chết đi mong sanh về thế giới nào không có sự khổ đau như vậy.
Phật thấy rõ hoàn cảnh bà, nên trải lòng từ bi dùng thần lực không thể nghĩ bàn, cho bà thấy cảnh trí trang nghiêm thanh tịnh của chư Phật mà cầu sanh về; và Thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà đã được bà nguyện chọn vãng sanh. Sự kiện này được kể trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Nhưng không có nhơn duyên này Phật vẫn nói, đó là trong kinh Vô Lượng Thọ, tuy rằng khởi đầu bằng câu hỏi của Ngài A Nan, thấy dung nhan Phật thay đổi trang nghiêm lạ thường; tất nhiên đây là Phật phương tiện từ bi, khiến Ngài A Nan thưa thỉnh, chớ A Nan không thể hiểu được Phật sẽ dạy gì.
Xét ra Bà Vi Ðề Hi không thể hiểu nỗi có một pháp tu lạ như thế, có thể hóa giải nỗi khổ con người, từ đó lại liễu đạo chứng quả tại nơi vãng sanh kia (Cực Lạc) - Ngài A Nan cũng vậy, cũng không hiểu nguyên nhân hình sắc Như Lai rực rỡ nghiêm tịnh hôm ấy, là khai mở một pháp tu chuyển sinh về thế giới của vị Phật tên A Di Ðà.
Thế thì, đây đúng hợp thời Phật phải khai mở pháp tu niệm Phật, vì lòng từ bi cho chúng sanh trong thời điểm đó, cả đến ngày nay. Và pháp Ngài nói ra cũng là tâm nguyện của Phật A Di Ðà đúng lúc cứu độ chúng sanh; vậy thì Phật Thích Ca vì lòng từ bi tự nói ra ứng theo tâm nguyện Phật A Di Ðà tự phát bốn mươi tám lời nguyện, và lời nguyện độ chúng sanh như vậy lại được Phật Thế Tự Tại Vương thọ ký.
Tóm lại để thấy, Pháp môn niệm Phật này, thật không ngạc nhiên khi chỉ Phật với Phật mới hiểu nhau; vì nhìn chung tâm nguyện chư Phật chỉ duy một nguyện độ sanh và phương tiện thế nào thì chỉ các Ngài mới liễu triệt.
-Này Xá Lợi Phất! Ông nghĩ thế nào ? Vì sao gọi là kinh pháp đã được tất cả chư Phật đều cùng hộ niệm?
-Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam người thiện nữ nào nghe đến kinh này rồi đem thọ trì, và nghe danh hiệu của các đức Phật, thì những thiện nam và thiện nữ đó, đều được tất cả chư Phật hộ niệm, đều được không còn thoái chuyển đối với Thánh đạo vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xá Lợi Phất, Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi: "Nhất thiết chư Phật chi sở hộ niệm"?
Xá Lợi Phất! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhơn, văn thị kinh, thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện nam tử, thiện nữ nhơn giai vi nhứt thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thoái chuyển ư A -nậu đa-la Tam miệu Tam Bồ-đề. Thị cố Xá Lợi Phất, nhử đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết.
Ðức Phật giải thích cho Ngài Xá Lợi Phất, kinh này được gọi là kinh mà được hết thảy chư Phật hộ niệm gia bị; bởi vì, nếu có bất cứ hành giả nào nghe danh hiệu Phật A Di Ðà và thọ trì nhớ nghĩ, cũng như nghe qua danh hiệu chư Phật sáu phương, hành giả đó sẽ tạo duyên được sanh về nước Cực Lạc - nơi ấy hành giả sẽ dần đạt được Thánh quả bất thối chuyển, mãi cho đến Quả vị cao nhất là trí tuệ cao thượng của Phật mà được gọi A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề. Ðó là một sự thật mà Ðức Phật đã giảng dạy cho Ngài Xá Lợi Phất.
Tất nhiên chúng ta hiểu, chỉ nghe tên Phật thôi, không thể đạt được giác ngộ, nhưng sẽ được kết duyên trong nhiều đời sau. Ở đây Phật dạy nghe qua rồi thọ trì, sẽ đạt được quả báo thành Phật.
Nhưng ta lại ngạc nhiên, rằng chỉ thọ trì danh hiệu Phật mà được thành Phật!
Sự việc sao dễ đến thế! Người học Phật có quyền thắc mắc, nghi ngờ; tuy nhiên có những sự việc vượt qua trí hiểu biết của mình, thì việc nghi ngờ đó trở thành bất lợi cho mình thôi.
Chúng ta nên nhớ, Phật đã nói, đây là pháp tu khó tin ‘nan tín chi pháp’, và đã khó tin, nên tất nhiên không dễ nhanh chóng chấp nhận. Tuy thế ta cũng vẫn đặt lại niềm tin, dù đây là niềm tin được Phật chỉ dạy nên tin.
Thứ nhất, điều này được Ngài A Nan kể rõ là lời Phật Thích Ca nói ra, chứ không phải vị đại đệ tử nào của Phật dạy, cũng không phải chư Phạm thiên hiện xuống giảng dạy; kể cả ngoài Phật Thích Ca không nghe nói có vị Phật nào xuất hiện lúc đó giảng dạy điều này.
Thứ hai, ngoài Phật Thích Ca và vô số chư Phật sáu phương biết được pháp tu này, không một vị Ðại Bồ Tát hay đệ tử lớn nào của Phật Thích Ca biết được.
Thứ ba đã không ai biết cách cõi Ta Bà mười vạn ức Phật độ có Thế Giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà, thì làm sao biết để dạy cầu sanh về nơi đó.
Ba việc này rõ ràng, xác định được sự kiện xảy ra thế nào và có thật hay không thật.
Bây giờ thử nhận định thêm, dựa theo lý, sự của pháp tu, xem ta có thành Phật được không, đây mới là vấn đề! Bởi đã có sự thật xuất xứ pháp tu thì phải có sự thật quả báo.
Chúng ta lại trở về tự hỏi như ban đầu; trí Phật đã khó nghĩ bàn, vì thế việc làm của Ngài ta không thể hiểu được. Nhưng ta cũng thử nghĩ xem, thọ trì danh hiệu Phật tác dụng đến đâu!
Niệm Phật là niệm tánh giác của mình, vì nghĩa của chữ Phật là tỉnh thức, sáng suốt, giác ngộ hết thảy các pháp. Khi tâm hành giả luôn thọ trì tánh giác, sáng suốt, ý thức, mọi hành động của mình, hành giả đã lọc sạch được những tánh vô minh ngu muội của vọng thức phiền não.
Khi trong sạch thanh tịnh bằng tánh giác, hành giả sẽ sống an định trong an lạc; bây giờ hành giả đã bắt đầu tạo nên giới hạnh trong đời sống. Nghĩa là hành giả đã sống trong giới phẩm của mình một cách thuần tịnh mà không cần cố gắng.
Hành giả là cư sĩ hay tu sĩ đều hài hòa cả hai mặt, giới tướng và giới thể. Hành giả không còn cố gắng để giữ giới mà đã thanh tịnh giới, vì tâm đã nhiếp vào hành động nên không thể sai ngược.
Giới là nền tảng, là nấc thang đầu tiên đưa đến thành tựu mục tiêu giải thoát, do đó thân tâm hành giả bây giờ mặc nhiên an lạc nhẹ nhàng, và tánh giác mà hành giả thọ trì, tức là danh hiệu Phật, giờ đây dễ dàng nhập tâm khi khơi lên; hành giả chính thức đạt được định. Cuối cùng hành giả sẽ thấy vấn đề sáng ra, giữa hành giả và pháp tu chỉ là một mà không có hai. Hành giả là Phật, Phật là hành giả, nói dễ chấp nhận hơn, hành giả là người giác ngộ, người giác ngộ chính là hành giả.
Ðến đây chúng ta thấy thế nào! Người thọ trì luôn niệm tánh giác, sáng suốt, ý thức mọi hành động theo chánh pháp - khi bỏ thân ngũ uẩn hẳn nhiên dòng ý thức sáng suốt sẽ chảy về nơi thanh tịnh. Hành giả sẽ từ bỏ vọng thức chuyển qua chân thức trong sự nương vào ý thức giác ngộ; và thân trung ấm bấy giờ thay thế cho thức giác sáng suốt, để quay về hình ảnh tươi đẹp của chân thức thanh tịnh, biến hiện hòa vào cảnh Phật (sáng suốt) - tự nhiên hành giả thấy dòng sáng thanh tịnh xuất hiện không khác niệm giác của hành giả, và đó là lúc mà chúng ta gọi là Phật A Di Ðà cùng chư Thánh Chúng hiện đến tiếp dẫn.
Như vậy khi ở nơi ít thuận duyên này (Ta Bà) mà hành giả vẫn tạo cho mình một thắng duyên thanh tịnh, thì nơi thanh tịnh là cõi A Di Ðà có vô số dòng sáng thanh tịnh, việc chuyển thành toàn chân thanh tịnh chắc chắn không khó. Thế là hành giả đã là Phật tương lai, đúng như Phật dạy tất cả sẽ đều được không thối chuyển với Thánh đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Vậy thì đúng là niệm Phật sẽ thành Phật, và ta sẽ thành Phật ở Cực Lạc, nhưng kết quả đó là do nhân duyên niệm Phật ở thế giới Ta Bà đây.
Xá Lợi Phất! Nếu có người nào, hoặc đã phát nguyện, hiện đang phát nguyện và sẽ phát nguyện, muốn sanh cõi nước Phật A Di Ðà, thì những người đó đều chẳng thoái chuyển nơi đạo vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nơi cõi nước ấy họ đã sanh rồi, hoặc hiện nay sanh, hoặc là sẽ sanh. Thế nên Xá Lợi Phất! Những kẻ thiện nam, những người thiện nữ, nếu có đức tin, hãy nên phát nguyện sanh cõi nước ấy.
Xá Lợi Phất, nhược hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sinh A Di Ðà Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư A -nậu đa-la Tam miệu Tam Bồ Ðề, ư bỉ quốc độ, nhược dĩ sinh, nhược kim sinh, nhược đương sinh. Thị cố Xá Lợi Phất, chư thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện, sinh bỉ quốc độ.
Pháp tu niệm Phật phần lớn nhờ vào tha lực, nhưng xét kỹ nơi đây ta lại là chánh nhân, vì nếu không nguyện, hẳn sẽ không thành và nguyện tất nhiên phải hành, và ai nguyện và hành đây!
Chính hành giả niệm Phật.
Phật đã ân cần dạy, nếu có đức tin hãy nên nguyện sanh cõi nước ấy. Một điều thật phi thường, là hễ có nguyện tức được sanh về đất Phật.
Phật đã thấy nhiều chúng sanh, đã sanh ở Cực Lạc hiện đang an trụ, và nhiều chúng sanh khác đang chuẩn bị được sanh, cũng như sẽ sanh.
Như thế từ quá khứ đến nay, cả đến tương lai, số hành giả nương về Cực Lạc của Phật A Di Ðà số lượng không thể nghĩ bàn. Chúng ta hiện là những chúng sanh đang ở vị trí hiện tại, đang thực hành pháp môn niệm Phật, đang mong muốn vãng sanh; như nếu chúng ta có thắc mắc, thật hay không chuyện được vãng sanh, thì hãy nhớ đoạn kinh trên.
Phật nhấn mạnh là số hành giả vãng sanh Cực Lạc, đã có thật nhiều trong quá khứ và hiện nay đang có cho đến tương lai.
Nhìn về quá khứ xa, ta không biết được; nếu có biết chỉ biết pháp tu cầu sanh vào cõi Phật, có từ khi Phật Thích Ca nói ra ở Ta Bà này, chớ số người được sanh sang cõi Phật thì ta chỉ nghe trong kinh, cũng như thời nay nghe không được bao nhiêu người! Hơn nữa, hiện tại chỉ là nghe, còn chứng kiến thì hiếm thấy. Chính điều này phần nào làm ta ái ngại, tương lai mình có được nằm trong số người ít oi may mắn đó không!
Bằng Phật nhãn, Phật thấy vô số hành giả được sanh về Cực Lạc, như trong kinh Vô Lượng Thọ, nói qua: Ngài Di Lặc thưa Ðức Thế Tôn: -Kính bạch Thế Tôn! Nơi thế giới này có chừng bao nhiêu Bồ Tát bất thoái sanh về cõi ấy? Ðức Phật đáp: -Thế giới này có sáu mươi bảy ức Bồ Tát bất thoái sanh về nước ấy, mỗi mỗi Bồ Tát đã từng cúng dường vô số đức Phật, kế đây đều sẽ đồng như Di Lặc, còn những Bồ Tát tu những hạnh nhỏ và những người tu chút ít công đức, số đó đông đảo không thể tính kể. Tất cả số ấy đều sẽ sanh về.
Thế thì tại ta chưa có thiên nhãn nên không biết, không thấy, chỉ hạn cuộc nhìn thấy vài việc hiện tại và nghe vài chuyện quá khứ, còn tương lai mù tịt, do vậy lo xa. Nay nghe Phật dạy mới hiểu, nên mừng cho mình nhất định sẽ vãng sanh, và vãng sanh theo trình độ trong số những Bồ Tát tu hạnh nhỏ hay ít công đức.
Lại nhớ đoạn Phật dạy, không thể lấy một ít công đức mà được sanh về Cực Lạc!
Thật vậy, vì sanh được vào tức sẽ thành Phật nên chẳng thể đổi chút công đức ít oi mà được. Nhưng gần về sau cuối kinh, Phật dạy hãy nên phát nguyện sanh về.
Nghĩ ra cũng dễ hiểu; dù là khó sanh nếu công đức ít, tuy nhiên lại chắc chắn được sanh nếu sanh tâm phát nguyện; như vậy công đức ít, nhiều có thể là phẩm vị đạt được từ hạ phẩm đến thượng phẩm - và được về hay không thì phải có nguyện mới thành. Do đó Phật mới dạy ‘...nếu có người nào hoặc đã phát nguyện, hiện đang phát nguyện và sẽ phát nguyện thì ...nơi cõi ấy họ đã sanh rồi, hoặc hiện nay sanh, hoặc sẽ sanh...’
Có lẽ ta cũng còn nghi ngại cụ thể thế nào, qua lời tả của Phật là: hiện nay sanh, hoặc sẽ sanh!
Trong kinh Hiền Ngu có một đoạn kể, ông Tu Ðạt làm phước cúng dường xây cất ngôi Tam Bảo. Bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất đã cho ông biết phước báo của ông thế nào! Và đây là mẫu đối thoại trong kinh:"...Cách mấy bữa sau, Ngài (Xá Lợi Phất) và ông Tu Ðạt, đo đất tại khu vườn Kỳ Hoàn, mỗi người cầm một đầu dây, thấy Ngài mỉm cười! Ông Tu Ðạt hỏi:
-Tôn giả cười gì ?
-Tôi cùng ông cầm dây đo, vừa hết một vòng vườn này, thì cung điện ở trên sáu cõi trời đã làm xong! Vì thế mà tôi cười!
-Vì lý do gì Tôn Giả cười ?
-Vì ông làm Tinh Xá cúng Phật nên phúc của ông được ở các cung điện cõi trời, hiện ra nhanh như vậy! Tôi sẽ cho ông mượn đạo nhãn mà coi!
Ông Tu Ðạt nhờ đạo nhãn, nhìn thấy những cung điện rất trang nghiêm đẹp đẽ, giành riêng cho mình lên sáu cõi trời, thưa rằng:
-Kính Tôn Giả trong sáu cõi này; cõi nào vui hơn nhất ?
-Ba cõi dưới đam hoang về sắc dục nhiều, đến cõi thứ tư, là những người ít dục biết đủ, thường có những Bồ Tát nhất sinh bổ xứ sinh tới, tiếng thuyết pháp không lúc nào ngớt. Trên còn hai cõi nữa, những chúng sanh ở đấy có tính kiêu mạn dật lạc; buông lung lu bù.
-Kính thưa Tôn Giả! Nếu vậy, đời sau con nguyện sanh lên cõi thứ tư!
-Ông nguyện xong, các cung điện kia đều diệt hết, mà chỉ nhìn thấy cung điện cõi thứ tư ... [12]
Qua đoạn kinh trên, cụ thể hiểu rằng, tại sao Phật lại thấy rõ, hiện nay đang có và sẽ có vô số chúng sanh vãng sanh! Vì chúng sanh hiện đang niệm Phật thì hoa sen đã hiện ra ở cõi Cực Lạc rồi. Ðã hiện ra nghĩa là đang sanh, và hoa sen khi chắc chắn, có nghĩa sẽ sanh vậy! Ðiều này có khác gì ông Tu Ðạt đang làm phước, mà lầu phước trên cõi trời cùng lúc đã sanh ra. Rồi ông Tu Ðạt nghe Xá Lợi Phất kể về cảnh nào là vui là thắng duyên, liền phát nguyện sinh vào cảnh tốt lành đó.
Người niệm Phật duy nhất một nguyện và thật rõ ràng, nên không sợ lạc. Nhân đây lại thấy lời nguyện vô cùng quan trọng. Nếu Ngài Xá Lợi Phất không chỉ dạy, Ông Tu Ðạt lần lượt chắc sẽ hưởng qua các phước báo ở nhiều cảnh trời, mà không rõ được cảnh nào có được pháp Phật, dù rằng ông tạo phước duyên với Phật pháp!
Chợt nghĩ mà tiếc! Giá như có Phật hiện thời, để được xin Ngài cho chút đạo nhãn mà xem hoa sen đang nở của chúng ta!
Xá Lợi Phất! Như ta hiện nay khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, thì chư Phật kia cũng đều khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta và nói lời này : ‘ Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể làm điều rất khó hiếm có, Ngài hay ở tại cõi nước Ta bà, nhằm đời xấu ác năm thứ ô trược, kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược mà chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, rồi vì chúng sanh, nói ra pháp môn mà cả thế gian khó tin tưởng này.
Xá Lợi Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công đức, bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công đức nhi tác thị ngôn: "Thích Ca Mâu Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta Bà quốc độ ngũ trược ác thế; kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung đắc A -nậu đa-la Tam miệu Tam Bồ Ðề, vị chư chúng sanh, thuyết thị nhứt thiết thế gian thuyết thử nan tín chi pháp.
Phật dạy rằng, chư Phật sáu phương ca ngợi công đức của Ngài, khi ở ngay cõi trược mà đắc quả Vô thượng Bồ Ðề, lại thêm ca ngợi, đã vì chúng sanh nói ra pháp môn khó tin này.
Chúng ta hiểu, việc Phật thành đạo ở cõi trược là việc khó được, mà việc nói ra pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh cũng khó không kém. Vì rõ ràng chư Phật sáu phương đã ca tụng tán thán như trên.
Như thế pháp môn niệm Phật cầu sanh về nước Phật, tuyệt đối không phải là điều dễ tin. Ðiều này không những người chưa quen Phật pháp đã không tin, mà cả đến không ít người trong Phật pháp cũng không tin.
Số người bên ngoài nếu có tin, thì tin niệm Phật cũng chẳng khác gì cầu thánh thần, thượng đế ban ơn cứu giúp.
Thật ra, không thể cho nhận xét như vậy là sai, bởi vì số người đó chưa học hiểu qua đạo giải thoát. Và một số người học Phật mà không tin pháp môn này là những người có nghiên cứu tìm hiểu, đây cũng chỉ vì không có duyên với pháp môn này thôi. Hay nói đúng hơn vì các pháp môn khác là tự lực, điều phục được tâm, ngộ chứng được đạo; trong khi pháp này hầu như hoàn toàn nhờ tha lực, giống như phó thác hết cho đức Phật A Di Ðà, hành giả chỉ cần niệm Phật mà không làm gì cả!
Chẳng làm gì, nghĩa là chẳng công phu thiền định thuần túy như lịch sử Phật Thích Ca!
Việc lý luận thế nào chỉ mang lại vọng tưởng tạo thêm vọng thức, làm lớn cái ngã của đôi bên, và đi xa Pháp nhất quán là cứu cánh thoát khổ. Chúng ta chỉ nên lắng tâm niệm Phật như lời Phật dạy.
Ngay như Phật nói ra Pháp môn này không một Thánh Tăng, Bồ Tát nào biết được, do vậy nếu không phải là Phật nói, không ai có thể tin được; và những vị không tin đó là ai trong thời điểm Phật nói? Là các vị Thanh Văn, Duyên Giác, và kể cả chư Bồ Tát lớn nữa - cũng may, sự thật kinh niệm Phật này do chính kim khẩu Ngài tuyên thuyết, thành ra chư Thánh chúng đều tin. Bằng chứng cụ thể chúng ta đã đọc thấy trong kinh, sự hiện diện trong pháp thoại kinh A Di Ðà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ đều tả lại sự tham dự vô số chư Thánh, Bồ Tát...để cuối cùng hoan hỷ phụng hành.
Thế thì ngày nay chỉ là nghe lại từ trong kinh, lại cách thời Phật gần ba ngàn năm (3000) thì việc chẳng tin đâu có gì là lạ!. Và càng không lạ hơn, là các vị không tin của thời nay hầu hết đều là phàm nhân.
Tuy nhiên một điều nên lưu ý, Phật nhắc việc liên quan đến cõi Cực Lạc, cũng xãy ra nhiều trong các kinh điển Ðại thừa, như kinh Pháp Hoa, Bảo Tích, Hoa Nghiêm ...
Tiêu biểu ba kinh này thôi, đủ minh chứng Pháp tu niệm Phật cầu sinh Cực Lạc là pháp tu do Phật nói; và chân giá trị đích thực của ba bộ kinh vừa kể, khiến biết thêm cõi Cực Lạc là nơi nên nguyện sinh về.
Tìm hiểu phần nào về cái khó, mà chư Phật sáu phương đều tán thán ca ngợi đức Phật Thích Ca!
Lời tán thán, là ở ngay đời ngũ trược mà thành đạo Vô Thượng.
Ngũ trược ở thế gian, nói lên năm nghịch cảnh chúng sanh phải chịu đựng, đó là: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sinh trược và Mệnh trược.
Trược là những gì ô nhiễm tác động não hại vào thân tâm con người, khiến con người không thể an ổn, yên hòa. Những điều khó chịu và ô nhiễm như vậy, luôn luôn quay phủ bao vây con người, nên thường làm bế tắc tánh chất chân thiện, và hầu như trấn áp tinh thần, khó làm người ta vươn lên những chân trời cao rộng nếu người đó không may, chẳng biết Phật pháp.
Nói rõ mỗi trược, đơn giản như sau:
Kiếp trược nói lên một kiếp sống vẩn đục phiền hà ô nhiễm; con người sanh vào kiếp này hiếm gặp được giáo pháp của đấng siêu nhân (Phật), và nếu gặp được cũng khó an lành thực hành đạt được thành quả như ý.
Con người sống trong thời kiếp trược, tuổi thọ không thể dài lâu để thực hiện những ước mơ cao đẹp; cộng thêm giao động bất an của ngoại cảnh đen ngòm của đời sống luôn luôn đe dọa, như thiên tai trời đất, do vậy hầu hết con người trong thời kiếp trược thường bị cuốn trôi theo dòng nước ô nhiễm trước khi tỉnh thức giác ngộ.
Chúng ta ngày nay đang sống thời điểm kiếp trược đây, và đang may mắn nghe được giáo pháp của bậc siêu nhân, cho nên hiểu biết được việc khó biết nầy, thật là vượt hơn hết trong cái may mắn.
Như ta không biết, không hiểu Phật pháp chắc chắn sẽ tiếp tục bị cuốn theo dòng nước vẩn đục đến bao giờ mới tỉnh ngộ!
Nhưng rồi tỉnh ngộ là tỉnh ngộ điều gì?
Người dù không tin luân hồi, không tin đời sau kiếp trước, nhưng nhất định họ không thể nào không tin đời là khổ - chính việc không tin có đời sau khiến họ đâu biết rằng cái khổ hiện thời có khác gì vô số đời trước họ đã từng khổ, và có thể khổ hơn nữa, cũng như tương lai nào khác!
Ðó là việc tỉnh ngộ về kiếp trược mà chúng sinh phải quằn quại trong đó. Và thời gian kiếp lại kéo dài lê thê so với mạng người quá ngắn ngủi; thành ra bị kẹt trong kiếp trược, gặp được Phật quả hết sức là may mắn.
Kiếp sống của chúng ta đây đang đi vào Kiếp Giảm, để rồi đây tuổi thọ con người chỉ còn không hơn mười tuổi; chừng ấy cái khổ cọ sát phủ đầu, không kịp ý thức về thiện pháp huống gì rảnh rang tư duy đạo pháp. Nhưng dù chúng ta có sống ở Kiếp Tăng, tuổi thọ đến tám mươi bốn ngàn tuổi (84,000), chưa chắc rằng ta lại dễ dàng gặp Phật pháp, vì với số tuổi như vậy ở cõi trời là chuyện quá thường và họ lại càng phiêu lưu hơn ta! Nghĩa là một số cảnh trời còn khó gặp Phật hơn ta nữa, nên quả báo trước mặt chắc chắn sẽ rơi rụng xuống những cảnh giới khổ đau hơn. Vậy thì ở Kiếp Tăng lại chẳng khác cảnh trời! Duy chỉ may mắn là còn có khổ trong cái tuổi thọ dài đó, nên có thể từ đó mới mong cầu đi tìm Phật pháp.
Kiến trược, là nói về sự mê mờ vụng dại của con người, không thể nhận định được chân lý, nên bị hấp lực của ngoại duyên phát sinh vọng thức; khiến tánh giác lu mờ, huệ căn suy giảm.
Phiền não trược, là tánh chất ưu phiền, khổ lụy do tham dục, luyến ái tự thân con người, khiến phải luôn luôn dằn vặt đau khổ trong mọi hoàn cảnh.
Chúng sanh trược, nói lên sự mê lầm đau khổ, từ sự khởi tác trần cảnh bên ngoài, nên sanh chấp chặt thân thể để rồi dễ tạo nghiệp ác, quay mãi trong đau khổ luân hồi.
Mệnh trược, cộng vào ô trược của thân, lại phải đối diện với tính vô thường của thân mệnh, nên sống bấp bênh trong sự sợ hãi mà chẳng biết được thọ mạng của mình.
Qua năm việc trược ở cõi Ta Bà này, mà một vị Bồ Tát đã vượt qua tất cả để cuối cùng thành đạo Vô thượng, quả là điều mà chư Phật sáu phương phải tán thán. Ðiều này mặc nhiên cho thấy hành giả Bồ Tát phải tích lũy thiện nghiệp hành Bồ Tát đạo vô số kiếp mới có thể chống chọi với mọi chặng đường cam go của ngũ trược.
Ở đây chúng ta không thể nào hiểu được việc làm của Bồ Tát trong địa vị tiến gần tới quả Vô Thượng. Chỉ cần nghe sự tán thán công đức của chư Phật sáu phương đủ thấy hành pháp khó nghĩ bàn của Ðại Bồ Tát, do thế mới gọi là việc khó làm.
Riêng việc nói ra pháp môn niệm Phật vượt thoát luân hồi, lại là việc khó nữa. Căn cứ vào ngũ trược suy ra; nếu không phải bằng trí huệ của một vị Phật thì không ai nói được pháp tu này. Và dù có biết cũng không thể nói, vì địa vị không đủ làm cho người tin.
Sự ô nhiễm của ngũ trược nặng đến nỗi, nếu không phải là bậc toàn giác nói ra, chúng sanh ở đời ngũ trược phải cam phận mãi vị trí khổ đau này! Tại sao?
Bởi vì một khi chúng sanh đã ở ngay thế giới phủ đầy ngũ trược, họ sẽ khó tin được có một thế giới hoàng kim (Cực Lạc). Do vì sanh ra đời ngũ trược, tất nhiên câu sanh phiền não [13] phải cưu mang theo nên không thể tin được có thế giới dệt bằng hoa sen, và ngũ uẩn trong suốt. Lại nữa, mọi thứ tà kiến dẫy đầy ấp phủ trên đầu người, nên không còn sáng suốt nhận ra chánh pháp giải thoát, khó nữa là pháp tu niệm Phật cầu vãng sanh này. Như thế mới thấy, vì sao sáu phương chư
Phật ca tụng Phật Thích Ca đã làm được việc rất khó.
-Xá Lợi Phất! Nên biết rằng ta ở vào thời buổi năm thứ ác trược làm sự khó đây: ấy là chứng quả
vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì khắp thế gian, nói ra giáo pháp khó tin thế này.
(Xá Lợi Phất đương tri ngã ư ngũ trược ác thế hành thử nan sự, đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam
Bồ Ðề, vị nhất thiết thế gian thuyết thử nan tín chi
pháp, thị vi thậm nan).
Một người chân thật ở thế gian, không bao giờcó tánh tự cao ngã mạn, huống gì một người Phật tử chân chánh, hiểu rõ các pháp là vô ngã. Ở đây lại là đấng toàn giác, tất nhiên ta hiểu mọi lời Ngài dạy đều vì chúng sanh, vì nhân duyên thời tiết. Phật nhấn mạnh sự việc chứng đạo Vô Thượng của Ngài, và việc nói ra pháp tu khó tin, cốt ý tác động vào tâm hàng hậu học, nhận rõ việc hy hữu, và từ việc hy hữu này, người học pháp nghe qua phải nên thực hành theo.
Ðức Phật nói kinh này rồi, Ngài Xá Lợi Phất và các Tỳ kheo, tất cả thế gian, các chúng trời người và A Tu la ... nghe lời Phật dạy, mọi người vui mừng tin nhận lời Phật, làm lễ lui bước.
Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá Lợi Phất cập chư Tỳ kheo, nhứt thiết thế gian, Thiên, Nhơn, A Tu La đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.
[1] -Nghĩa kinh A Di Ðà được trích dẫn trong sách này, do cố Thượng Tọa Thích Thiện Thông dịch - Ấn bản tại chùa Viên Giác, Ðức quốc 1999.
[2] -Kinh Phật Thuyết A Di Ðà Yếu Giải -Sa môn Trí Húc (Ngẫu Ích) giải thích những nghĩa thiết yếu trong kinh - Bồ Tát Giới Tuệ Nhuận dịch.
[3] (2) 10 x 10,000 x 100,000 = 10,000,000,000.
[4] Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo: Gồm bảy thành Phần: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Ðề Phần và Bát Chánh Ðạo, tất cả cộng lại là 37 phẩm.
Xin xem thêm Phật Học Phổ thông, của HT Thích Thiện Hoa.
-Ngươi viết tập sách này, cũng đã lược qua việc niệm Phật theo 37 phẩm trợ đạo trong tác phẩm "Hương thơm niệm Phật", đọc giả có thể tham khảo thêm.
[5] Thô phù: tướng căn bên ngoài của con người hợp theo trần cảnh ô nhiễm.
[6] Kinh Ðại Bát Niết Bàn - Phẩm Trường-thọ, HT. Thích Trí Tịnh dịch.
[7] 16.800.000 năm gọi là một tiểu kiếp, được tính từ Giảm Kiếp thấp nhất là 10 tuổi và cách 100 năm tăng lên 1 tuổi, cho đến cao nhất của Tăng Kiếp là 84.000 năm (tuổi). Xem thêm PHTÐ Ðoàn Trung Còn.
[8] Kinh Vô Lượng Thọ - Quyển hạ, Dịch giả Hòa Thượng Thích Tuệ Ðặng
[9]Kinh Thủy Sám - Trước thuật: Ngộ Ðạt Thiền sư - Dịch giả, Thích Huyền Dung.
[10] Thập trụ: mười địa vị an trụ của Bồ Tát Ðại thừa. Xem Phật Học Từ Ðiển Ðoàn Trung Còn.
[11] Các Phương tiếp theo như: Nam phương, Tây phương, Bắc phương, Hạ phương và Thượng phương đều mang một ý chung, nên xin không ghi lại
[12] Kinh Hiền Ngu -Phẩm thứ Bốn mươi ba, sđd.
[13] Câu sanh phiền não: là những phiền não đi theo mãi với một chúng sanh từ vô thỉ kiếp; chúng có mặt ngay khi con người xuất hiện, tánh chất của chúng là độc tố phá đi các thiện pháp, đó là Tham, Sân, Si
Chương III
Phá vỡ chướng ngại trên đường niệm Phật
Hắn gấp lại quyển kinh, nâng lên cao áp vào trán, giữ như vậy vài phút rồi đặt nhẹ xuống bàn; chấp hai tay lại thành kính xá vái thật chân thành ngưỡng mộ.
Như thế kẻ say ngủ đã tìm được vật quý nhất thế gian này, để từ đây không còn phải lo sợ cho đời này đời sau mãi quay vòng như tơ rối.
Từ khi bước vào nhà Phật, hắn đã đắn đo bao điều pháp học; phải thế nào để tìm được hướng đi cho mình, tránh việc lý luận suông mà thực hành thì quá ít.
Nhân duyên hiểu lời Phật dạy qua kinh A Di Ðà, giờ đây đã là cuộc cách mạng lớn - nó đã chính thức thay đổi cách nhìn về con người và cuộc đời của hắn. Hắn thật vui mừng, thầm nghĩ, từ đây tất cả còn lại, chỉ là chuẩn bị dọn đường chờ ngày về Tịnh Ðộ.
Bất chợt! Ngay trong lúc này, hắn cảm thấy một điều không vui, khi nghĩ đến một số người đã không có niềm tin niệm Phật, để rồi sẽ không bao giờ gặp duyên vào được một thế giới huy hoàng mà kinh A Di Ðà lược kể.
Hắn tự suy diễn tìm hiểu nguyên nhân rõ hơn.
Và đây có lẽ là những lý do:
-Vì con người đã quen rồi từ nhỏ, chưa từng nghe ai nói, ngoài trái đất lại có một thế giới tươi đẹp hơn. Nhưng nếu có một thế giới đẹp, thế giới đó không thể nào có những việc lạ lùng như kinh A Di Ðà kể.
-Vì cho đến nay nhân loại đã văn minh, đã phóng phi thuyền ra ngoài trái đất khám phá không gian vũ trụ, đã gởi đi nhiều tín hiệu, thăm dò tìm kiếm sự lên tiếng trả lời của "người" ngoài trái đất. Việc làm này đã gần nửa thế kỷ qua, mà đến nay chẳng được tín hiệu cụ thể, hình ảnh rõ ràng một thế giới đang sinh hoạt của một loài sinh vật nào.
Tuy nhiên việc tìm kiếm khám phá này hy vọng chắc chắn sẽ có; chỉ có điều, cảnh tượng và sinh hoạt thế giới đó không thể nào quái lạ như kinh A Di Ðà miêu tả.
Ðó là những nghi ngờ tổng quan, phủ nhận có thế giới Cực Lạc.
Về chi tiết diễn tả cảnh sinh hoạt của người cõi Cực Lạc, lại càng làm con người ở hành tinh này không tin hơn:
-Làm sao hoa sen có thể sanh ra người ?
-Làm sao thân người trong suốt; lại không có cấu tạo ăn uống, bài tiết như vô số sinh vật trên trái đất này?
-Làm sao có thể dùng ý tưởng mà muốn ăn là có ăn, muốn hóa thân đi đâu chẳng ngại?
-Làm sao ai cũng vui vẽ an lành không một mống niệm phiền não?
-Làm sao người ở đó không một ai mà không có thần thông?
Và còn nhiều việc lạ lùng nữa về con người ở thế giới Cực Lạc kia.
Về hoàn cảnh địa dư:
-Làm sao thế giới đó luôn luôn sáng mà không nhờ vào mặt trời, ngôi sao chiếu vào?
-Làm sao đất đai toàn ngọc báu?
-Làm sao cung điện nhà cửa ở thế giới đó đều không phải do xây cất bằng tay chân hay máy móc?
Vân và vân vân!
Ðại khái chỉ bao câu hỏi như vậy; càng đặt thêm người ta càng phủ nhận sự thật thế giới kia .
Từ kiến thức căn bản có được, qua nhân duyên hiểu được lời Phật dạy nói chung và kinh A Di Ðà nói riêng, hắn tạm tìm hiểu, tự trả lời cho mình những nghi ngờ trên.
-Ðiều mà người ta không tin, thật tình mà nói là đúng. Bởi vì: từ nhỏ tới trưởng thành hầu như chưa bao giờ nghe nói có thế giới lạ đó; lại càng chưa thấy ai nói đã chứng kiến cảnh nầy.
-Lại nghĩ rằng, nếu người tu niệm Phật cho là khó diện kiến với người dân bên đó; nhưng lại tin người ở Cực Lạc có thần thông vân du tự tại; vậy hỏi sao họ không đến thăm trái đất!
-Còn sự kiện đĩa bay UFO (Unidentified Flying Object - Vật bay chưa xác nhận được) xuất hiện đâu đó như một vài tin đã đăng tải mà loài người chúng ta nghe qua, nếu đây là người ở thế giới Cực Lạc, thì càng làm mọi người phủ nhận những gì trong kinh ca ngợi tán thán! Vì sao? Vì họ cũng phải nhờ bằng đĩa bay, và hình sắc dung nghi chẳng đẹp như người ở trái đất!
-Tương tự những sự lạ lùng trên, hầu hết con người ở trái đất này không chứng kiến và không có chứng cớ, nên không tin.
-Nguyên nhân người ta phủ nhận, bởi vì đã chấp chặt vào giác quan ngũ uẩn [1], chấp chặt vào truyền thống, phong hóa lâu đời, chấp chặt vào tình cảm, tâm, sinh lý của con người và hoàn cảnh chung quanh. Hay nói tóm lại do thân xác ngũ uẩn, là nguyên nhân chính, mới sinh ra tất cả rồi tự chấp dính vào; thế nên nhà Phật gọi là chấp ngã, chấp pháp - Lại nói theo thuật ngữ của Duy- Thức là "Câu sanh vô minh", nghĩa là sự sai lầm không sáng suốt (chấp ngã, pháp) đã đi với ta từ khi có mặt trong thai mẹ, rồi xuất hiện ra đời, dù không ai dạy mà ta đã có Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi.
Với con người của thế kỷ 21 cũng vẫn là câu sanh vô minh, và dù muôn thế kỷ tới nữa vẫn không khác, trừ khi con người tự quay về lại chính mình để tìm ra Phật tánh (Bản thể sáng suốt), chừng ấy mới thấy tất cả.
Chúng ta vẫn đồng ý rằng, sự thấy biết phải được kiểm chứng, và nền khoa học ngày nay có đủ tư cách nói lên việc miêu tả trong kinh A Di Ðà không thể thấy được và kiểm chứng được!
Nhưng chúng ta cũng có thể nói rằng, vì Khoa học chưa đạt tới trình độ để hiểu biết mà thôi. Rõ ràng như vậy; khoa học vẫn là mãi mãi đang dò tìm học hỏi, chớ không phải là chân lý, bất di bất dịch.
Tỉ dụ, cách đây năm chục năm có ai lại tin điện thoại nhỏ không dây (mobie phone) bây giờ, và điện thoại tại nhà có thể vừa nói chuyện vừa thấy hình người đầu dây bên kia!
Nếu thời điểm đó mà thấy một người cầm một vật nhỏ bằng nắm tay (Mobile phone), đưa lên giữa tai và miệng rồi nói chuyện một mình, chắc không ai lại không nói người ấy khùng. Khùng nặng hơn, nếu người đó dùng hệ thống nghe nói bằng dây (hand free) gắn qua điện thoại, trong khi điện thoại lại nằm gọn trong túi áo - người ấy nói chuyện mà chẳng cần cầm vật gì đưa lên miệng; người ấy thoải mái tự nhiên vừa cười vừa nói; thỉnh thoảng lại lắc đầu, rồi gật đầu đồng ý v.v... vậy chắc người chung quanh của thập niên năm mươi phải chào thua với anh điên nầy đã quá mức!
Thời gian cách đây của thập niên năm mươi, thật ra cũng đâu có xa gì lắm.
Hiện thì dân số trên địa cầu, người sống thọ hơn bảy mươi tuổi cũng còn rất nhiều, và chắc chắn họ đã thấy khoa học tiến bộ không thể tưởng được; bằng chứng những điều không tưởng của ngày trước ngày nay lại quá xem thường. Và rồi đây sẽ còn tiến mãi.
Thế thì khoa học vẫn tìm mãi những điều mới lạ và không thể khẳng định thành quả nghiên cứu trong thời điểm này là chân lý bất di bất dịch.
Về ngành thiên văn học, con người của thế kỷ hôm nay đã chấp nhận rõ ràng, thế giới có vô số thiên hà trong vũ trụ, chớ không phải đầu thế kỷ thứ hai thứ ba các nhà khoa học thiên văn chỉ đếm bằng cặp mắt thịt của mình, nên kết quả khám phá ngôi sao, ngân hà (Galaxy) trong vũ trụ xem như chẳng biết gì. Tuy nhiên họ đã có công khởi xướng một kỳ tích, khám phá vĩ đại cho thế kỷ ngày nay. Nhưng lại nhìn vào vũ trụ, rồi suy nghĩ, văn minh con người ngày nay khám phá được, có lẽ cũng sẽ thành chẳng biết gì về vũ trụ, nếu tương lai khoa học cứ đà phát triển cho đến ngàn năm sau!
Vì thực tế, hiện thời khoa học thiên văn còn chưa biết rõ ngay cả dãy ngân hà Milky Way là nơi trái đất nương tựa trong đó, có hay không có hành tinh giống mình ? Và nếu có thì được bao nhiêu? Trong khi vũ trụ có hàng tỉ tỉ ngân hà! Và chắc chắn tỉ tỉ ngân hà trong vũ trụ lại có cả triệu ngân hà lớn hơn gấp trăm lần hay ngàn lần ngân hà Milky Way. Do đó cái biết của khoa học ngày nay làm sao đã nói là biết những điều của tương lai!
Thế thì quả quyết phủ định sự kiện mà mình đang còn nghiên cứu tìm kiếm, như vậy đã sai rồi.
Với vũ trụ dãy ngân hà Milky Way có lẽ như hạt cát nằm trong bãi cát lớn; với chu vi thái dương hệ (Solar system) chúng ta, hạt cát đã bị nghiền nát ra cả triệu lần rồi! Và cuối cùng là trái đất so với vũ trụ, thì không còn ai tin là có cái vật gì đó gọi là trái đất (earth)! Nhưng, thật sự là có! Lại cuối cùng lần nữa! Ðối với kích thước con người sống trên trái đất so với vũ trụ, vậy có ai tưởng tượng thí dụ được không? Câu trả lời là hoàn toàn không! Có lẽ còn nhỏ hơn cả triệu lần 'cực vi trần' [2] mà kinh Phật thường nói!
Do đó thấy rằng, nền khoa học văn minh của loài người từ cổ chí kim quả thật nhỏ bé, nhỏ bé đến hết mức diễn đạt khi so với những gì chưa biết trong vũ trụ mênh mông. Và thảo nào, hình như Albert Einstein Khoa học gia lừng lẩy của thế kỹ 20 biết được điều này, nên ông rất khiêm nhường với những gì ông biết và chưa biết.
Ðó là một vài điểm của những sự kiện mà con người không biết được, không thấy được, dù tạm có đầy đủ những thiết bị kỹ thuật cực kỳ hiện đại.
Chẳng nói xa nữa, ta nghĩ đến gần và thực tế. Nếu căn cứ vào việc thấy mới tin, vậy có ai đã thấy ông bà tổ tiên cách đây vài trăm năm không?
Chắc là không rồi! Chỉ có vài trăm năm cũng không thấy, không biết! Nhưng thật sự ông bà tổ tiên đã từng sống trước đó, nếu không thì làm gì có chúng ta hôm nay!
Bàn thêm về giác quan con người, lại có vấn đề nữa!
Chúng ta đã chẳng hơn loài động vật chó, mèo, dơi, chim cú...Với chúng, ban đêm có lẽ chẳng khác ban ngày là bao, chúng có thể chạy nhảy bay lượn mà không sợ vấp phải vật chướng, và đặc biệt một số loài toàn sống về đêm. Còn loài người thì sao! Phải mò mẫm mà đi y như là mù, chớ đừng nói chạy. Nhưng lỡ ban đêm con chó nó thấy cái gì đó rồi sủa, tru, chúng ta cho là nó điên! Nguyên nhân vì ta không thấy nên không tin, vậy thật tội nghiệp cho con chó! Không chừng nó thấy cái gì vô hình (invisible) đó; vì Ðức Phật dạy có đến sáu cõi: Trời, người, A Tu La (loại thần) địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh. Dĩ nhiên Phật dạy như thế vì Phật đã thấy rõ, còn ta vì chưa thành Phật nên chỉ thấy có 2 cõi là người và súc sanh. Do vậy mắng la con chó thì tội nó lắm lắm!
Ðến ngay cả sản phẩm do con người tìm ra, rồi hóa giải nó, sai khiến nó vậy mà chính con người cũng không thấy mặt mũi nó, nói chi vũ trụ này còn biết bao nhiêu việc mà con người chưa tìm ra thì làm sao thấy!
Sản phẩm muốn nói đến, là điện năng và hơi khí.
Khi con người dùng những kỹ thuật cơ khí, điện tử, làm tác động mạch điện biến thành động cơ di chuyển vật; thì những làn sóng điện đó có ai lại thấy! Nhưng nếu ta không tin nó hiện hữu, vậy thử lấy vật ngăn che bộ phận tiếp sóng, tức sẽ thấy nó bị vướng mắc mà vô hiệu quả không làm việc được.
Hình ảnh lý thú, khi nhìn lên trời, một phản lực cơ dân dụng Boeing 747, đang lượn bay trên nền trời xanh thật đẹp, nhưng nào ai thấy vật gì làm nó di chuyển nhẹ nhàng đẹp mắt như vậy, trong khi sức nặng nó đến hàng ngàn tấn! Không phải giống như máy bay trực thăng, còn thấy có chong chóng phá lực hút trái đất nâng được lên không.
Ðơn giản, vì kỹ thuật hiện đại hơn; và máy bay không chong chóng kia vẫn đang dùng một lực đẩy kinh khủng xé nát không khí ngoài sau nó, mà mắt thường chúng ta nào thấy, duy chỉ còn nhận được âm thanh vang rền inh ỏi.
Về hơi khí là mạch sống của ta như Oxyzen, thì ai nào thấy! Như vụ tai nạn chiếc Tiềm thủy đỉnh Liên Xô xãy ra năm rồi (2002); khi tất cả máy móc hư hoại, vỡ tung, thì hầu hết số thủy thủ đoàn tử nạn, chỉ còn một ít người thoát được vào một phòng trống, nhưng lại đau thương hơn! Vì phải chứng kiến và chịu đựng thần chết đến từ từ, nguyên do dưỡng khí (oxyzen) đã kiệt dần.
Cảnh tượng ra đi đau đớn như vậy, nếu người của thời xưa chưa văn minh thấy được, sẽ phải hãi hùng vì không hiểu tại sao các thủy thủ nầy chết, trong khi thân thể không bị đâm chém đả thương!
Vậy đủ thấy rằng những gì con người không thấy rồi không tin phải cần xét lại.
Thế thì Hoa sen hóa sanh ra người cũng có thật, vì con người ở đó không phải là cái gọi con người ở đây. Thân thể họ không phải dạng vật chất nguyên tử; nay chúng ta so với thân thể chúng ta là những nguyên tố cấu tạo của đất, nước, gió, lữa, làm sao giống được!
Thế giới của những vị đó lại sống cách xa chúng ta đến hàng tỉ năm ánh sáng!
Chúng ta há không thấy ngay tại trái đất này đã có hàng ngàn loài sinh vật đâu giống loài người, nhưng sinh hoạt của chúng cũng vẫn là một tập thể chúng sanh có thế giới riêng biệt. Vì chưa có thiên nhãn thông, nên ta chưa thấy biết, chứ dưới mắt chư Phật, Bồ Tát chúng vẫn sống theo một xã hội trật tự lắm. Thử nghĩ, nếu không trật tự, làm sao ong, kiến, có thể điều hành lập tổ, chuyển tổ, dự đoán trước thiên tai, cũng như những đàn chim biết lập hình bay khi phải vượt qua những lộ trình dài như sa mạc và hồ biển!
Lại có những sinh vật sống vùi trong đất, và chắc chắn phải có một số loại cá dị thường sống sâu tận đáy biển! [3] Và việc chúng khổ hay vui chỉ có chúng mới biết! Nhưng chắc chắn là khổ rồi, căn cứ theo Phật dạy - ở cõi Ta Bà này tất cả chúng sanh chẳng tránh được khổ.
Vậy thế giới có muôn hình vạn trạng, chúng sanh ở vào cảnh nào mới hiểu được cảnh ấy; chỉ trừ những điều cơ bản có thể quan sát, phỏng đoán, ngoài ra đến chín mươi phần trăm không thể biết được. Như ta có thể cho lạ lùng, khi nghe trong kinh nói chư Thiên cõi trời không ăn uống tiêu hóa như mình; họ chỉ ăn bằng cách ngửi hương vị - ngược lại chư Thiên nhìn loài người cũng rất ngạc nhiên và không chừng còn gớm ghiếc nữa, khi thấy hành động ăn uống của con người, bằng cách bỏ cái gì đó vào thân trên, rồi lại tít tắc chẳng bao lâu thải ra ở dưới một cách bất tịnh!
Ðại thể thế giới Ta Bà nầy, có hàng ngàn loại chúng sanh, nên có hàng ngàn sự sống khác nhau, nhưng loài người lại là loài thông minh, tuyệt đẹp và được ưu đãi nhất.
Cũng vậy vũ trụ có vô vàn thế giới; mỗi thế giới lại có sinh hoạt khác nhau và cõi Cực Lạc là cõi thật đẹp và thanh tịnh nhất như các cõi Phật khác vậy.
Suy ra chúng ta ngạc nhiên cũng đúng, vì cả đến những cõi trời cũng phải ngạc nhiên khi nghe nói đến cõi Cực Lạc, nhưng xin nói nhỏ chỉ chúng ta nghe thôi; họ (cõi trời) không được may mắn như ta đâu! Vì chưa nghe nói Phật Thích Ca thuyết pháp môn Niệm Phật ở cõi trời nào! Và nếu có đi nữa thì rất hiếm rất hiếm!
Ðến đây phần nào đã hiểu, và có thể an tâm rằng, việc lạ lùng ở cõi Cực Lạc cũng bình thường thôi! Tuy nhiên, ta thử diễn đoán thêm một vài điểm.
Khi các vị đã từ Hoa sen tinh khiết sanh ra, tất nhiên thân thể quý vị đó phải là trong suốt thanh tịnh. Thân thanh tịnh thì ý thanh tịnh, ý thanh tịnh đã là định rồi, vậy đã đi vào diệu dụng của an lạc tự tại; thế là chỉ còn chờ nhân duyên dự vào hải hội thấy và nghe Phật A Di Ðà khai mở Phật tuệ thì hoàn tất việc tu.
Nhận định trên hiểu rằng, họ thanh tịnh được ý một cách dễ dàng khi hoa khai, bởi vì họ đã thanh tịnh trước khi bỏ thân phàm ở cõi kham nhẫn (Ta Bà); thành ra một khi hành giả được vãng sanh tâm ý đã thanh tịnh ngay tức khắc.
Thế thì niềm an lạc từ tâm, diệu dụng ra tất cả, vậy sá gì muốn ăn có ăn, muốn ở cung điện có cung điện... Những việc nầy nói ra chỉ để phương tiện khuyến tấn hành giả cầu sanh mà thôi, chứ niềm an lạc định tâm mới là cứu cánh.
Khi đã dự vào ao sen thất bảo, chánh báo tất nhiên phù hợp với y báo. Nghĩa là hành giả sẽ không còn là hành giả của sáu căn, sáu thức ở Ta Bà; mà giờ đây là hình sắc của chơn tâm, tuệ trí sống nơi thế giới Cực Lạc. Cho nên y báo lại đẹp ra phù hợp với chánh báo của hành giả; đó là cấp độ phẩm trật mà do công phu của hành giả được dự vào, như Thượng Phẩm, Trung Phẩm và Hạ Phẩm.
Cũng xin phân định rõ, hành giả niệm Phật bỏ xác thân sanh về thế giới Cực Lạc qua phương tiện hoa sen, đó là trình độ ở phẩm thứ thấp, tức là hạ phẩm - riêng Trung phẩm và Thượng phẩm, sẽ tiếp nhận cảnh giới Cực Lạc ngay khi hành giả xả thân Ta Bà. Hành giả sẽ thấy Thánh chúng và Bồ Tát, thanh tịnh hiện ra tiếp đón, và tùy vào các phẩm Trung, Thượng mà diện kiến ngay Ðức Phật A Di Ðà, tức liền nhập vào thanh tịnh cảnh (Cực Lạc thế giới). Tuy nhiên thời gian ở Hoa sen cảnh, chờ khai hoa kiến Phật, vẫn an trụ trong diệu tâm lạc hạnh, sung sướng mà kinh nói còn nhẹ nhàng tươi nhuận hơn cả trăm lần cảnh trời.
Suy ra, sanh vào Cực Lạc cảnh thấp cao đều do công phu của hành giả, và không thể một người chỉ niệm Phật bình thường đến giờ phút lâm chung có thể sanh được Trung Phẩm hay Thượng Phẩm. Vì tâm thức của họ chưa đủ thuần chân, chứa đầy chủng tử Phật (thức giác). Họ vẫn nhứt định vãng sanh nhưng phải ở Hạ Phẩm. Tuy nhiên dù ở hạ Phẩm vẫn còn hơn tất cả trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới) bởi vì Hạ phẩm ở ngay trong thế giới thanh tịnh của Phật A Di Ðà thì việc kiến Phật chắc chắn không xa.
Kết lại vấn đề thắc mắc nghi ngờ của tất cả phần còn lại: Tại sao mọi người đều không có phiền não (khổ); ai cũng có thần thông v.v... sẽ không còn khó hiểu nữa, vì tâm đã hoàn toàn thanh tịnh chẳng còn mọi vướng mắc các pháp hữu vi, sanh diệt đối đãi. Vậy đó là thần thông, là tự tại chu du khắp pháp giới.
[1] Ngũ uẩn: còn gọi là ngũ ấm, là năm thành phần tạo nên con người như, Sắc (thân hình, ảnh sắc bên ngoài), Thọ (cảm thọ, vui, khổ), Tưởng (tưởng ghi, tưởng tượng các hình ảnh...), Hành (sự tác động, thao tác của tâm và thân, tạo nên những hành động từ thân đến tâm) Thức (nhận thức hiểu biết). Năm phần này, Sắc thuộc về thân và bốn phần còn lại thuộc về Tâm.
[2] Cực vi trần là danh từ diễn tả một vật có mức nhỏ không thể thấy và nghĩ được, mà Phật thường dạy trong kinh. Giống như Khoa học hiện đang nghiên cứu thành phần nguyên tử (Atom)- và lại khám phá ra Tiềm nguyên tử (Quark) còn nhỏ và vi tế hơn nữa!
[3] Cho đến bây giờ, văn minh con người vẫn chưa khám phá nổi những vùng biển sâu nhất của đại dương
Chương IV
Niệm Phật vượt lên nhân quả Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác
Kẻ say ngủ giờ đây thấy mình không còn say ngũ nữa; tự có thể cho mình tỉnh thức cuộc đời, tỉnh thức giấc mộng dài từ vô thỉ kiếp đến nay. Và ngay giờ phút này thầm gọi mình là người tỉnh thức.
Bây giờ người tỉnh thức chuẩn bị định vị, vị trí của mình để bắt đầu xem lộ trình niệm Phật phải tuần tự thế nào:
Không phải tự nhiên, một người lại có cảm tình và thú vị với một điều chi; thường thì phải có liên hệ từ những kiếp xa xôi trong quá khứ.
Chúng ta chẳng thấy rằng có nhiều việc thật khó khăn, khó chịu với mình, nhưng với người khác họ xem tỉnh bơ, không chừng lại say đắm nữa! Ngược lại cũng thế, việc mình ưa chuộng, người khác chán ghê!
Quan sát đời sống trong xã hội, thấy rõ điều này. Chẳng hạn một số nghề nghiệp như sau: Người thích làm việc ở nơi đông chúng, thích lấy nơi ồn ào làm vui, thích nghe nhiều âm thanh tạp nhạp giữa người này với người kia... Số người ấy là người bán hàng nơi phố, người nghệ sĩ hát rong, người làm việc quảng cáo v.v...Ngược lại những người trên, một số lại thích nơi yên tịnh, chỉ muốn tiếp xúc ít người và có thể làm việc một chỗ như là văn phòng riêng, kéo dài tháng này qua năm nọ. Hình như họ cố tránh hoàn cảnh náo động ồn ào ảnh hưởng đến tinh thần, nên thú vị với tình huống yên bình, đối lại với số người trước luôn luôn hoạt náo, cảm thấy không khí yên lặng nặng nề thê thảm, chắc chắn ảnh hưởng tâm tư của họ; thành ra chỗ càng đông người, tinh thần họ lại phấn chấn tươi sáng ra.
Rồi có những nghề hầu như người trong xã hội ít muốn, ít quan tâm, nguyên nhân có thể là nguy hiểm, khiến đời sống cá nhân bị đe dọa, đó là nghề an ninh, cảnh sát, quan tòa trạng sư. Tuy vậy công việc này lại quan trọng không những cho xã hội mà cả quốc gia toàn nước. Nếu không có nghề này, sẽ ảnh hưởng không hay đến tất cả nghề nghiệp khác, hay khẳng định mà nói nếu không có nghề này thì không còn nghề nào khác tồn tại được. Và nghề giữ an ninh vẫn có nhiều người tự động đeo đuổi, hưởng ứng tha thiết với công vụ của mình.
Ðến những nghề mà xã hội phải mang ơn như là binh nghiệp, ngày đêm bảo vệ quốc gia đất nước; có thể sẵn sàng hy sinh tánh mệnh, mong đem đến đời sống thanh bình cho người khác; đây vẫn có nhiều người vui sướng tự hào vì lý tưởng đã chọn.
Tóm lại, hành động nào cũng là nguyên nhân hay kết quả nối dài từ những kiếp sống trước đến hiện tại và tương lai. Người nào trong quá khứ chưa quen biết hay hành động vấn đề nào đó, hiện tại họ sẽ vất vả để theo, hay không thể theo được đành bỏ dở dang. Nhưng việc dỡ dang đây lại làm nhân cho đời sau tiến lên nhiều bước, rồi quen dần và từ từ đến lão luyện.
Pháp tu học giải thoát cũng y như vậy. Có người mới bước vào đạo, liền thật say mê; họ trầm mình nghiền ngẫm hết sách kinh này đến hàng kinh khác; rồi thực hành thử qua mọi thứ, cũng như gia công tinh tấn ngày đêm !. Nhưng cuối cùng mệt nhoài, chẳng đạt được như tâm muốn, bởi 'dục tốc bất đạt', muốn nhanh không thể được. Khi về già công trình tham cứu đó trở thành kiến thức phổ thông Phật pháp; tuy cũng có ích, nhưng để mà vui, hoặc khá hơn gieo duyên cho đời vị lai học tiếp!
Nhưng nếu không may, không dứt khoát chọn cho mình một pháp tu giải quyết ngay thời điểm đang nằm trên giường bệnh, quả là uổng tiếc và cũng hơi nguy hiểm!.
Nếu vị học giả như trên gặp được thiện trí thức vào giờ chót cuộc đời thì may mắn lắm; sẽ đúc kết những pháp học đã biết thành một bài học VÔ NGÃ, mới có thể tiến dần đến pháp giải thoát rồi tự tại ra đi. Nhưng thật là chướng, thường thì học nhiều lại ít chịu phục tùng nghe ai, dù là nghe từ một Thiện trí thức; nhưng lại cũng không dễ, vì Thiện trí thức không thể có nhiều, thành ra thật là tội nghiệp vị học giả kia!
Có lẽ đúng hơn do không xử lý được kiến thức quá cao, nên sinh ra ngã mạn cố chấp mà nhà Phật gọi là sở tri chướng, đây là cái nạn lớn trong tiến trình hành đạo giải thoát, cho nên nhân nào thì quả nấy vậy.
Chắc chắn người học Phật nào cũng hiểu; dù tu pháp môn chi mà còn quá chấp NGÃ sẽ vô hiệu quả; chẳng có thể thành được cái gì. Bởi vì ngã, còn quá chấp làm sao buông được pháp ra! Hễ chấp ngã tức chấp pháp, vì do thấy mình có học và pháp được học!
Muốn tự tại không kẹt vào pháp chấp, phải xả cái tôi (ngã) học pháp đó.
Không chấp nhiều về ngã, tự nhiên sẽ thấy pháp học của mình trở nên nhẹ nhàng, vì chính con người học pháp, còn vô ngã thế làm sao pháp có ngã (bản thể) !
Pháp học trở nên nhẹ nhàng, tức xem chúng chỉ là phương tiện giúp hành giả trên đường đi đến cứu cánh.
Vị học giả trên, ham thích đạo giải thoát như thế không phải là điều dễ làm, vì chẳng có mấy người trong thời mạt pháp nầy ham thích như vậy. Và tất nhiên đó là nhân trong quá khứ cũng đã mê say Phật pháp.
Trường hợp cũng có một số người, vừa đặt chân vào đạo giải thoát, gặp được một pháp môn rồi tinh tấn, thuận duyên với pháp ấy đến trọn đời; khi ra đi kết quả được nhẹ nhàng an lạc với tâm trạng hoan hỷ hài lòng. Việc này cho thấy, đời trước hành giả đó đã chuyên trì một pháp tu nhưng chưa thành tựu, nay đời này chủng tử còn lưu giữ và hiện hành trở lại, tiếp tục con đường đã chọn.
Thế thì chẳng ngạc nhiên, người thích tu Thiền, kẻ thích tu Tịnh, người mê Mật tông, và kẻ chỉ ham say nghiên cứu v.v...
Tuy nhiên, có trường hợp hành giả lại đổi hướng chuyển tu ngay đời này, khi căn cơ tâm lực không thể đeo đuổi nổi pháp tu đời trước, hoặc giả tìm ra thuận duyên với pháp tu mới đời nay.
Chúng ta hôm nay sanh ra biết được Phật pháp, cuối cùng chọn pháp tu niệm Phật, chắc chắn rằng trong đời quá khứ đã mến mộ hay đã thực hành Pháp tu nầy rồi .
Nhưng tại sao bây giờ ta vẫn là người của thế giới Ta Bà mà không là người (bậc thượng nhân) của thế giới Cực Lạc ?
Vấn đề niệm Phật rơi vào quả Nhân, Thiên.
Niệm Phật sanh trở lại cõi người hay cõi trời có lẽ rất nhiều, nhưng có lẽ cõi người thì nhiều hơn. Cũng dễ đoán, nếu sanh cõi trời tất nhiên sẽ không còn nhớ câu niệm Phật, do cảnh giới quá sung sướng. Và khi hết phước báo cõi trời sẽ trở lại làm người, vì đã có công đức niệm danh hiệu Phật và diệu dụng đó không đến nổi phải rớt thẳng vào cảnh khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Nếu sanh cõi trời, do từ những phước báo công đức bình thường, như làm lành tu phước (không có niệm Phật) thì khó được duyên lành quay lại cảnh giới người, ý thức được khổ mà hướng về tu, khi thời gian thiên cảnh đã hưởng hết phước báo công đức.
Niệm Phật gây chủng tử Phật huân tập vào tâm thức, nếu chỉ được quả báo ở cõi trời nhưng nhờ diệu dụng của danh hiệu Phật có thể năng biến sanh khởi mãi với hành giả, nên tương lai sẽ được thành tựu vãng sanh, duy chỉ có vấn đề là thời gian sớm muộn.
Chẳng hạn một người thật ác, nhưng trong đời họ có nhân duyên một lần niệm ít câu Phật, dù họ có chịu quả báo làm thú; đến khi hết kiếp thú thành người, họ sẽ có duyên hưởng được diệu dụng từ công đức niệm Phật của thuở kiếp xưa.
Không ai niệm Phật lại muốn cầu sanh cõi người hay cõi trời, dù sanh lại cõi người làm vị chân tu thanh tịnh thuận duyên đầy đủ hoằng hóa lợi sanh. Ðiều này thoáng nghe qua đúng, hợp tinh thần Bồ Tát đạo, nhưng sự thật khó thể thực hiện. Bởi thế gian hiện thời đang vào sâu thời mạt pháp, con người càng lúc càng đối diện với những cảnh tượng giao động do nhân họa thiên tai. Xã hội văn minh đã giúp cải thiện đời sống con người đến mức tuyệt vời, tuy vậy luật bù trừ ngược lại điều tuyệt vời đó, con người lại phải sợ cái mà sản phẩm con người tạo ra - vì khoa học có thể tạo đủ thứ máy móc tinh vi, thì vũ khí chiến tranh giết người cũng tăng theo cấp độ khó tưởng được. Nếu chiến tranh thứ ba diễn ra bằng tất cả vũ khí nguyên tử, hạch tâm, vi trùng, hơi độc đồng công phá một lúc thì hành tinh xanh của con người trở thành một hành tinh chết.
Ngay khi Ðấng giác ngộ nhập Niết Bàn, vài trăm năm sau các đệ tử Thánh Tăng của Ngài đã cố công hoằng hóa, duy trì đạo giải thoát. Một số đoán biết trước, rằng ngay nơi sinh Bậc giác ngộ sẽ bị biến cố lung lay đến chánh pháp, nên đã tìm cách đem đạo vàng vượt biên giới đến những chân trời xa hơn. Và lịch sử đạo vàng đã được duyên lành khởi xướng đến thời tượng pháp (hơn 1000 năm sau) - qua các quốc gia như Trung Hoa, Tây Tạng, Nhật Bổn, Việt Nam, Tích Lan, Thái Lan ...do vậy thời này vẫn còn xuất hiện nhiều Thánh Tăng.
Ðến ngày nay, hơn 2600 năm thực tế cho thấy, phương tiện tìm hiểu Pháp học thật hoàn mỹ so với ngàn năm trước, nhưng Pháp hành chẳng thấy đáng được ghi tâm, nếu không nói gần như biến thành ngành triết học giải thoát, tức chỉ lý thuyết suông khó thể thực hành. Suy diễn như vậy là vì thiếu bóng Thánh Tăng.
Cho nên nguyện trở lại làm Thánh Tăng, chắc có lẽ đã nhiều người nguyện, nhưng rồi chẳng thấy có được bao nhiêu vị chân tu đắc đạo để người nương tựa; hay là các vị cảm thấy bất lực với thời đại bây giờ, nên đã âm thầm chuyển hướng phát nguyện lại: Phải từ cõi Phật quay về mới đủ oai lực độ sanh!
Trong Từ Bi Thủy Sám, chúng ta đã nghe qua những lời thống thiết của một bậc cao Tăng; nhân duyên tạo kinh sám cũng là do quả báo của Ngài (Ngộ Ðạt Quốc sư). Theo phần duyên khởi trước khi vào Sám, người đọc sẽ biết, Ðại sư không phải là vị Tăng thường, vì đức hạnh Ngài đầy đủ đến nổi vua thời bấy giờ tôn vinh làm Thầy, để thỉnh vào cung mà dạy đạo. Ngay khi gặp nạn lại được Bồ Tát hiện thân giúp đỡ.
Ta lại biết một người mà được chư vị Long Thần Hộ Pháp thường hộ trì, đã là chân phước, huống gì Ngài được kết bạn với Ðại Bồ Tát. Ðây không phải ngẫu nhiên do lòng từ của Ngài giúp đỡ người bệnh cùi, rồi trúng ngay Bồ Tát, rồi được trả ơn. Ðiều này dưới mắt phàm nhân thấy như thế, nhưng với Ngộ Ðạt Ðại sư thì không.
Có lẽ Ngài đã thấy được chân tướng bên ngoài của một người, mà người thường không thấy! Và dù không phải vậy, thì như đã nói, việc tu niệm của Ngài đã được chư Bồ Tát gia trì, điều này chắc chắn đúng hơn. Vì công đức quá đầy, đã có đến mười kiếp làm cao Tăng, đó là lời của kẻ thù hiện lên báo oán mách cho Ngài biết vậy.
Thế thì ta thấy, vị trí của Ngài Ngộ Ðạt, đã là Thánh Tăng, vì vua còn thỉnh mời thuyết dạy huống gì quần chúng ai lại không tôn sùng ái mộ. Nhưng cuối cùng Ngài đã chẳng độ được bao người lại phải vất vả vì quả báo của chính mình. Do đây vị trí Thánh Tăng đời nay lại có thể hơn được Ngài chăng !!
Tuy nhiên, đứng về lý tánh giải thoát và nhân duyên giải thoát, mọi tác động nghịch thuận đều đưa con người về Phật tánh, nếu hành giả thanh tịnh được ba môn Giới Ðịnh Tuệ - vậy cũng có thể nói hiện hữu đời nay vẫn có Thánh Tăng hoạt động dưới nhiều hình thức. Các Ngài cũng có thể là người từ cõi Tây phương, Ðông phương, Bắc phương... quay lại không chừng, nhưng tùy theo đạo hạnh của các Ngài mà hành đạo có sâu cạn v.v...Cũng như chính ngay chuyện Ngộ Ðạt Quốc sư, đâu lại biết chừng đó là phương tiện cảnh tỉnh mọi người, để ra đời Kinh Thủy Sám!
Do đó an tâm hơn hết, ta hãy nhập vào thế giới thanh tịnh để được thanh tịnh, trước khi vào cõi uế trược độ sanh.
Ðọc kinh Phật, ta biết được chư vị Thanh Văn, Duyên Giác là những bậc thanh tịnh thường hay đi gần Phật để học giải thoát; đến khi được quả vô sanh (A La Hán), chư vị vẫn còn muốn sống gần Phật. Xem thế đủ thấy Phật lực là sức mạnh mà ai cũng cần nương theo.
Các Ngài Thanh Văn, Duyên Giác đã là A La Hán mà còn muốn gần bóng mát của Ngài, thì ngày nay, bóng Phật không còn ta phải nương vào ai?
Chúng ta chỉ còn có Thầy bổn sư (Thầy thế phát xuất gia cho mình) và chư vị Tôn Ðức; nhưng chư vị Bổn sư và quý Tôn Ðức hiện nay lại chắc gì là Thánh Tăng, vì trên đã nói Thánh Tăng đâu dễ tìm được đời này; lại nữa các Ngài đó cũng còn phải tìm bóng Phật mà nương! Thế thì người say ngủ như chúng ta mới được may mắn tỉnh thức phải tìm vào đâu và nương vào ai?
Nói như thế để thấy, niệm Phật duy chỉ có mục đích về được nước Phật, mà không phải nương tựa mong mỏi một quả vị nào như là Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát.
Kinh pháp và ảnh tượng của Phật duy nhất là nơi cho ta nương tựa, khi bóng dáng Thế Tôn không còn nữa. Nhưng hình dáng Tăng đoàn là thực sống, thể hiện được hành pháp, nên ta lại phải nương theo. Và lý nghĩa Phật là thanh tịnh, là tỉnh thức giác ngộ các pháp sanh diệt vô thường, vậy ta không thể nào tìm được Phật nếu ta còn chấp ngã chấp pháp. Do thế Thánh Tăng hay Phàm Tăng vẫn là nơi ta thấy được pháp yếu giải thoát.
Thế thì quả vị vượt hơn cõi người và trời, là quả vị của bậc Thanh Văn, Duyên Giác cho đến quả Bồ Tát thập địa ta vẫn không mong cầu. Ta chỉ duy cầu quả Phật, đúng theo thâm ý của Phật trong kinh Pháp Hoa "Các đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sinh khai tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri kiến Phật cho chúng sinh mà hiện nơi đời: vì muốn cho chúng sinh tỏ ngộ tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng sinh chứng vào đạo tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời" . (Phẩm Phương tiện)
Chương V
Hành trang của hành giả Niệm Phật
Người tỉnh thức như thấy trước mắt ánh sáng vàng tươi nhuận, quyện tỏa bao trùm muôn vật, biến tất cả chung quanh lấp lánh lung linh một màu vàng kim dễ chịu, tựa như tia nắng buổi bình minh.
Pháp tu, niệm danh hiệu Phật, không chỉ ước nguyện xây dựng một thế giới tương lai cho chính cá nhân hành giả, mà còn nhân duyên xây dựng một nguyện lực độ sanh như Ðức Giáo chủ Phật A Di Ðà.
Có phải Thế giới Cực Lạc hiện hữu từ nguyện lực đại bi của Ngài! Vâng chính vậy, thì người nguyện sanh về Cực Lạc đã mặc nhiên thiết lập cho mình không khác Ngài vậy. Người đã vãng sanh tất nhiên không thoái chuyển tâm giải thoát, và do tâm bồ đề không thoái chuyển, lại đành bỏ mặc nơi mình đã từng đau khổ với muôn vàn chúng sanh !
Thật ra tất cả đều do tâm tạo; tâm tạo Ta Bà, tâm tạo Tịnh Ðộ; diệu dụng của Tâm thật khó nghĩ bàn. Thế giới Ta Bà là khổ, nhưng cũng có người vui sướng, thế giới Ta Bà là đau thương thù hận, nhưng ở đó đã xuất hiện biết bao vị Thánh nhân mà cõi trời phải mơ ước được gặp. Nhưng vì một ít Thánh nhân ví như đất dính vào tay của Phật Thích Ca, nên không thể nào tỉnh thức được tâm phiền trược của chúng sanh ví như đất đại địa. Thậm chí đến cả Ðức Phật là viên ngọc vàng, rực rỡ chiếu rọi khắp mười phương thế giới, còn chưa thể chan hòa rọi hết lượng số của chúng sanh đang phiền trược khổ đau (Phật có thể độ vô số chúng sanh chớ không thể độ hết chúng sanh).
Vậy thì tâm diệu dụng giải thoát, nhưng vẫn nằm sâu vào tiềm thức (A Lại Da) chân như, và nó phải được khơi dậy, phải được lay động mới trở về bản tánh chân như của nó, nghĩa là nó mới diệu dụng được sự tỉnh thức giác ngộ mà quay về Phật tánh, thành Phật không khác.
Bậc Giác ngộ rõ biết tâm diệu dụng nên quyết thị hiện vào cõi Ta Bà nơi đau khổ mà không ngại chướng duyên, để làm công việc khơi dậy tánh giác cho chúng sanh.
Thị hiện vào Ta Bà, như đi vào cõi mê tình, vọng thức điên đảo để làm sáng ra ánh sáng chân như, chân thức - và chúng ta thực hành niệm Phật là chuyển di tâm thức vào một thế giới thanh tịnh trang nghiêm, không khác gì ánh sáng chân thức, chân như Niết Bàn. Cho nên dù diệu tâm vô hình không chướng ngại nhưng, nếu ta không nhờ vào lời dạy của Phật Thích Ca và nguyện lực của Phật A Di Ðà ta vẫn mãi sống nơi mê tình của vọng thức dù ở thế giới này hay bất cứ nơi đâu. Do đó nên hiểu, thế giới thô phù ô nhiễm ở đây là do vọng thức điên đảo biến hiện ra mà thôi. Thế thì cầu sanh vào thế giới thanh tịnh là việc cụ thể, cho dù thế giới đó cũng là do diệu tâm sinh ra; nhưng đây là một việc tối quan trọng, vì nơi đó ta khám phá ra được diệu tâm của ta giống như diệu tâm của Phật Di Ðà không khác.
Như không tin, ta thử tìm diệu tâm A Di Ðà nơi đây có được không? Nếu có, thì kính xin chúc mừng hành giả đó, vì hành giả đã thành Phật tại đây! Nhưng xin thưa, vì hiện còn giáo Pháp Phật Thích Ca thì ta không thể nào thành Phật tại đây. Vậy ta chỉ thành Bồ Tát mà thôi. Nhưng lại xin thưa, Bồ Tát nơi đâu cũng phải cầu mong gần gũi đấng Ðại giác (Phật), để tiếp tục học hỏi mà thành Phật như tất cả bằng chứng trong các kinh, thời kinh nào cũng có vô số Bồ Tát tham dự. Vậy niệm Phật ở đây để thành Bồ Tát, sao không cầu niệm Phật sanh về Cực Lạc cũng là Bồ Tát, nhưng gần đấng Ðại Giác A Di Ðà có sướng hơn không!
Bây giờ người tỉnh thức đã an tâm vững chải, ổn thỏa nghi vấn cõi lòng, nên bắt đầu thiết lập hành trang cho việc Niệm Phật.
Có ba hành trang mà người tỉnh thức phải mang theo, cho đến khi về nơi Liên cảnh.
Thứ nhứt là Tín, thứ nhì là Nguyện và thứ ba là Hành
Hành trang thứ nhứt
Tín là niềm tin, tin vào một sự việc, sự kiện, vấn đề, là thật hay giả. Tín không đủ tiềm lực mạnh mẽ, tất việc làm không thể thành tựu như ý.
Người tỉnh thức đến đây, đã có đủ niềm tin. Không phải chỉ tin cõi Phật A Di Ðà là thật, người tỉnh thức còn tin: vũ trụ có hằng hà sa số cõi Phật ở mười phương đang hiện hữu và, đang diễn ra những diệu âm giải thoát, những diệu cảnh huy hoàng, những chân thức tuyệt đối, những chân như vô ngại và lìa khỏi ngôn ngữ diễn bày của chúng sanh.!
Ðiều cơ bản niềm tin đó sẽ không thay đổi cho đến khi hành giả niệm Phật sanh về cõi Phật, và chắc chắn khi sanh về đó, hành giả lại có niềm tin mãnh liệt hơn nữa! Vì sao ! Vì hành giả sẽ phát tâm vân du cúng dường chư Phật ở mười phương.
Bên cạnh niềm tin mãnh liệt tuyệt đối như vậy, người tỉnh thức lại giựt mình khi tin rằng vô số thế giới đang đau khổ cũng đã hiễn bày ra đó. Vì có thế giới tịnh ắt có thế giới ô nhiễm; có thế giới vui như Cực Lạc, hẳn có thế giới phiền hà đau khổ như sáu cõi luân hồi.
Ngay thế giới Ta Bà này, kẻ tỉnh thức phải hốt hoảng, khi mục kích những loài thú vật sống trong sự đe dọa đầy đọa của loài người, lại còn bị đe dọa với thiên nhiên vũ trụ. Ðau khổ nầy ập lên đau khổ khác. Chúng chẳng thể nào biết được, thế giới chúng đang ở, còn có thế giới loài người, là loài thông minh, hạnh phúc hơn chúng gấp triệu lần; nói cả triệu lần hạnh phúc, là ý nghĩa con người có cơ hội vươn lên những thế giới còn đẹp hơn vô số lần cõi Ta Bà nầy.
Dù với cặp mắt chúng, vẫn thấy loài sinh vật hai chân lạ lùng đang sai khiến mình, nhưng cái thấy vô trí (ví con số thông minh hết sức hạn hẹp) của loài súc sanh, chỉ biết giới hạn qua hiện tượng hình ảnh cử động mà thôi. Ôi thật tội nghiệp!
Nhìn chung lại, không một con vật nào mà không khổ trong cõi phiền trược nầy; dù là con vật nuôi trong nhà được cưng chìu hay được tự do bay, lội, chạy, nhảy giữa thiên nhiên. Nhưng có lẽ và chắc chắn, khổ đau nhất là chúng không thể nào biết được Phật pháp!
Nếu duyên lành nào, được chủ nuôi là người thực hành Phật pháp, rồi bố thí kinh cho chúng nghe thì con vật này quả là đại phước. Chúng sẽ kết được duyên đời sau; mặc dầu không hiểu lời kinh, nhưng do linh diệu, thần lực nhiệm mầu của kinh sẽ giúp chúng ghi nhận được. Tuy nhiên số con vật được như vậy, giống như một giọt nước nhiễu trên ngón tay so với nước đại dương.
Riêng con người, cảnh khổ hiện ra cũng lắm đau buồn, khiếp hãi !
Nỗi đau khổ về thân bệnh day dưa, khổ vì tật nguyền bất lực, khổ vì nghèo đói cơ hàn, khổ vì địa vị thấp kém, khổ vì thất học dại khờ, khổ vì tình cảm yêu thương, khổ vì tình thù dằn vặt, khổ vì ý nguyện bất thành và còn rất nhiều nữa. Những đau khổ nầy thuộc cả hai, thể chất và tinh thần. Ðây là cụ thể hiển hiện mà người tỉnh thức trực diện trải qua, chớ không phải nghe ai kể lại [1]
Như thế, cảnh giới Ta Bà này đâu cần đức Phật Thích Ca buộc chúng ta phải tin là khổ! Sự thật hiển nhiên này rõ ràng hiện chân ra đó! Tuy thế rõ biết nguyên nhân và tận nguồn gốc khổ chỉ có Phật mới rõ, nên dạy cho ta. Phật dạy rõ khổ phát xuất từ Tham, Sân Si, và cảnh giới ô nhiễm như vậy cũng từ duyên khởi của ba độc này.
Con người (chánh báo) thế nào hoàn cảnh (y báo) thế đó. Vì do một cộng nghiệp vọng thức Tham, Sân, Si khổng lồ nên kết thành một thế giới to lớn đủ chứa vô số những vọng tình ô nhiễm, rồi hình thành một thế giới dục (dục giới), là thế giới Ta Bà chúng ta đây.
Có thể nói bất cứ chúng sanh nào (trừ chúng sanh đã và đang chứng đạo giải thoát), mang hình thù chi, hễ ngụ ở Ta Bà là vọng tình ô nhiễm. Nhưng hỏi tại sao phải đủ loại hình chúng sanh?
Là vì nghiệp thức điên đảo, vì phiền não vô minh nên tạo tác vô số NGHIỆP, để quả báo hiện thành vô số hình tướng. Ðó là chân lý, là cảnh tượng sự thật trước mắt, mà ta vừa là nạn nhân vừa là nhân chứng.
Thế thì sự thật nơi đây, thế giới này ta đã tin trăm phần trăm lời Phật dạy, thì cảnh giới Cực Lạc cũng do Phật nói ta lại há không tin!
Nếu Phật không xuất hiện, cái khổ Ta Bà nầy ta phải mù mờ chịu đau khổ mãi, mà chẳng bao giờ biết khổ là do đâu! Và dù biết khổ chăng nữa, ta chắc chắn cho rằng chỉ có loài người khổ, chứ không biết còn vô số chúng sanh khác còn khổ hơn ta - từ đó là nguyên nhân nghiệp sát chất chồng, để kết quả không bao giờ thoát lên cảnh giới tươi sáng huy hoàng được.
Ngày nay con người đang sống vào thời đại có thể nói hoàng kim của văn minh điện tử, thì việc củng cố niềm tin thế giới Cực Lạc lại dễ dàng hơn! Ðây há không phải đại duyên biết được pháp tu niệm Phật ở thời đại này!
Phải nói rằng dù thời tượng pháp nhiều người niệm Phật vững vàng được vãng sanh, nhưng niềm tin của họ chỉ đơn thuần tin Phật, mà khó giải thích Thế giới Cực Lạc bằng kiến thức văn minh thời đó. Do thế chỉ lấy sự tu hành làm chứng có thế giới Cực Lạc (tức là vãng sanh), riêng về phần lý giải khó được người tin. Với hiện nay, vừa lấy sự niệm Phật vãng sanh làm chứng, vừa lấy kiến thức xã hội con người ngày nay làm chứng.
Minh chứng kiến thức ngày nay là ngành thiên văn học.
Ngày nay nhìn lên bầu trời con người đã không thấy xa lạ như con người cách đây một ngàn năm; ngày nay con người có thể phóng phi thuyền lơ lững ở ngoài trái đất cả tháng trời để thám hiểm nhìn ngắm không gian vũ trụ; và ngày nay dưới mắt các nhà khoa học thiên văn, họ xem mặt trăng cũng chẳng khác gì một tỉnh lỵ ở không gian, có thể dụ lịch thường xuyên chẳng trở ngại gì. Sự kiện được như vậy là do con người đã lên thăm mặt trăng từ hơn ba thập niên qua ;[2] và so với kỷ thuật không gian ngày nay thì thời điểm đánh dấu vàng son đó chỉ là một chuyến đò nhỏ vượt qua con sông thật ngắn.
Ngày xưa con người cứ tưởng chỉ có thế giới này (trái đất) số một, còn lại tất cả chỉ là những hộ tinh (hành tinh phụ quay quanh theo) quay chung quanh; kể cả mặt trời cũng chẳng làm được gì!
Nhưng rồi chẳng bao lâu các Thiên văn gia khám phá ra sự thật, thế giới chúng ta chỉ là một trong nhiều thế giới giữa vũ trụ mênh mông nầy. Thiên văn gia nói là nhiều chớ không nói vô số, vì có thể xấp xỉ đếm được, đó là đầu thế kỷ 19 với viễn vọng kính (telescope)tương đối kỹ thuật cao.
Bây giờ thì không còn đếm được nữa, khi viễn vọng kính hiện đại càng phóng xa bao nhiêu, thế giới muôn hình hiện ra càng nhiều chừng nấy. Ấy vậy khoa học vẫn nói là hàng tỉ; hàng tỉ cũng có thể mường tượng là trăm ngàn tỉ cũng quá nhiều, tuy nhiên với Phật dạy, phải dùng đến "hằng hà sa số". Hằng hà sa số là biểu tượng đến cát sông hằng (Hằng tên sông, hà nghĩa là sông), vậy nhiều như cát sông Hằng, thế thì đếm làm sao được! Nên gọi bất khả thuyết !
Ðó là lời Phật dạy từ xưa (cách đây hơn 2600 năm), và thiên văn học ngày nay mới biết, hay biết sớm nhất, cũng khoảng đầu thế kỷ 19 (đầu thế kỷ 19 mới tạm đủ phương tiện nghiên cứu).
Ngành Thiên văn cho biết, chỉ trong dãy ngân hà Milk Way thôi, đã có đến hàng trăm tỉ ngôi sao mặt trời, và "mười tỉ hành tinh giống như hành tinh của thái dương hệ [3]". Trái đất chúng ta thuộc thái dương hệ nằm trong Ngân hà này. Nhưng Khoa học lại cho biết, vũ trụ có vô số ngân hà với những dạng hình khác nhau như: hình bánh xe, hình con bướm, hình nước xoáy, hình thai tạng, hình đám mây, hình bông hoa, hình chim phượng, hình con cua v.v... và cứ mỗi ngân hà (Galaxy) lại lớn nhỏ không đồng; có ngân hà đây lớn gấp trăm lần ngân hà kia, và mỗi cái lớn nhỏ đều chứa ít nhất ngàn triệu hay trăm tỉ ngôi sao .
Một điều tất nhiên, các ngân hà, thiên hà lớn như vậy chúng phải cách nhau một khoảng cách cũng khá xa!!
Nói đến khoảng cách thật khó mường tượng nổi, bởi chúng ta chỉ quen đo lường trên bề mặt hay bề cao của một vật trong giới hạn tương đối, đằng này là không gian, lại vượt khỏi hành tinh mình đang sống! Tuy nhiên, văn minh khoa học thiên văn đã tính được phần nào, và tất nhiên cũng có giới hạn.
Từ trái đất chúng ta đến mặt trăng Khoa học tính được khoảng 384.400 cây số (kilometre), đây thì quá gần rồi ! Từ mặt trời đến trái đất khoảng cách tương đối là 93,000,000 dặm (mile) tương đương 150 triệu cây số, và sức khoa học vẫn cho là gần. Nhưng từ Thái dương hệ nầy đến thái dương hệ khác khoa học tính bằng quang niên (danh từ Ðơn vị thiên văn - Astronomical Unit) tức theo ánh sáng đi một năm. Một quang niên [4] bằng 5.88 tỉ dặm.
Chẳng hạn Thiên hà hình sông M81 cách xa trái đất 10 quang niên; đó là đại khái thấy từ ngân hà nầy đến ngân hà kia là xa như vậy. Nhưng vũ trụ lại có vô số ngân hà chưa biết được, vậy vũ trụ sẽ lớn chừng nào ?
Thế thì điều ta tin, chỉ có trái đất chúng ta là có chúng sanh còn vô số hằng hà sa thế giới khác không thể nghĩ bàn, thì sao !!
Ta sẽ như đứa bé mẫu giáo cầm trên tay cuốn sách đại học !
Vậy kết lại, những gì Phật dạy đã vượt xa khoa học; tuy nhiên, cũng nhờ khoa học nhất là ngành
Thiên văn đã chứng minh được một sự thật, có vô số thế giới trong vũ trụ mênh mông - và thế giới Phật A Di Ðà cũng chẳng còn gì lạ, trong khi vũ trụ có hằng xa số cõi Phật.
Thật không thể tả được nỗi mừng khi Phật Thích Ca dạy niệm Phật nhất định sẽ sanh về thế giới Cực Lạc.
Xác định hiện hữu thế giới Cực Lạc chuẩn bị hành trang làm niềm tin tìm về, ta mới có vài quan sát nhận định trên; nhưng để có một khái niệm về thế giới thật nhỏ ta cũng cần nêu ra để thấy rằng với trí huệ của Phật, không một thế giới nào ra ngoài huệ nhãn của Ngài. Ðiều này lại giúp ta vững vàng thêm niềm tin Cực Lạc.
Ðúng như vậy, nếu ta cho Phật chỉ nói những gì cao xa khó thấy, thì khi Phật nói những gì gần gũi bên cạnh ta, và ngay cả trước mắt hay trong người chúng ta, ta cũng chẳng thấy nốt!
Phật nói về vi trùng, là những chúng sanh thật nhỏ, nhỏ đến nổi mắt thường không thấy được, phải nhờ đến kính hiển vi (microscope).
Phật nói thế nào! Phật dạy, hãy nên chú nguyện mỗi khi uống nước, phải ý thức mỗi khi di động, tránh vô tình sát hại chúng sanh. Duyên cớ đó mà một lần vài tháng trong mỗi năm, Ngài dạy đại chúng đệ tử nên lưu lại trú xứ, giảm chế việc di chuyển khất thực, hoặc Phật sự bên ngoài vì thời tiết côn trùng sinh nở. Ðó là truyền thống định kỳ an cư kiết hạ Phật chế ra.
Ly nước sạch trong có thể uống được mà Phật còn thấy vô số vi trùng, thử hỏi sau trận mưa dầm, đất cát sền sệch ứ đọng móc meo thì đừng nói chi vi trùng, vô số sinh vật lớn hơn vi trùng cũng đã tràn ngập; vậy dưới huệ nhãn từ bi của Ngài đành nào dẫm đạp, khi chứng kiến quá rõ ràng vô số chúng sinh đang đau khổ !
Ðó là thế giới hữu tình cực nhỏ. Ðến thế giới vô tình, thuộc vật chất cực nhỏ, lại càng cho thấy huệ nhãn của Phật không chỗ nào giấu che được.
Trong giáo lý giải thoát, chúng ta hẳn biết mọi vật đều do nhân duyên sinh. Nói về vật chất, tất cả do vô số nguyên tử kết thành. Tùy vào duyên ra sao vật chất đó sẽ tồn tại tương xứng. Nhìn cái bát bằng sành, cái ly bằng thủy tinh sẽ biết tuổi thọ quá ít oi so với cái chuông đồng hay thanh sắt. Tuy nhiên, những nguyên tử cấu tạo nên những vật nào, đều có thời gian hữu hạn của nó, thành ra sau thời gian ngắn hoặc dài, chúng cũng phải ra đi để kết vào duyên khác, tức đồng phải rỉ, và sắt cũng sét tiêu.
Những nguyên tử nhỏ như vậy, khoa học phải nhờ phương tiện kỹ thuật hiện đại phân tích chứng minh và điều đó được thấy qua năng dụng của nó; lại khi tiến đến cực nhỏ, nhỏ hơn nguyên tử nhiều nữa, bây giờ nó có tên khác; nhưng dù đặt tên chi, cũng không làm khoa học ngỡ ngàng cho bằng, mức độ càng quá nhỏ đó, không biết chúng có thật hay không ! Vì độ nhỏ của chúng đến mức khó thể quan sát tin được! [5]
Thế thì tại ta không thấy được, chớ nào đâu không có!
Vật nhỏ thì thuật ngữ của kinh đã nhắc qua gọi là vi trần, cực vi trần... Và nhỏ đến nổi, mà ta há chẳng nghe "Sắc bất dị không",(sắc chẳng khác không) tức hình sắc kia nào đâu phải thật, chúng chỉ do vô số cực vi nguyên tử kết thành, và tự mỗi nguyên tử đó cũng phải bị hư hoại, thế cái Có như vậy đâu khác gì Không (không thật có)!
Tóm lại, đó là những chướng ngại của những người chưa chứng đạo như chúng ta, nên cái thấy từ xa đến gần đều chẳng hoàn bị, và sẽ không bao giờ hoàn bị, trừ khi ta được huệ nhãn như Phật.
Niềm tin về thế giới Nhiễm, Tịnh đã có căn cứ, đến đây niềm tin có được sanh về thế giới Tịnh (Cực Lạc) hay không!
Qua những điều dẫn chứng, sự thấy biết của đấng giác ngộ, so với hiểu biết con người phàm phu; chúng ta thấy rằng, xưa hay nay nếu chưa chứng đạo vẫn là cái thấy phiến diện, cái biết nhị biên [6], do thế cái thấy của người chưa chứng đạo thật là mù mờ, hạn hẹp.
Tuy nhiên con người ngày nay, dù không duyên thấy đấng giác ngộ, hay gần chư Thánh Tăng, nhưng lòng tin Phật pháp và sự kiểm chứng theo nền văn minh tiến bộ của loài người, khiến ta không những thoái tâm bồ đề mà còn xác định lập trường giải thoát của giáo lý Phật đà vững chãi hơn.
Kết lại mà nói, thế giới Tịnh và thế giới ô nhiễm thật sự đã hiện hữu.
Phật và hàng Bồ Tát là nhân chứng thế giới Thanh tịnh, và chúng ta những người còn ô nhiễm phiền não là chứng nhân của thế giới uế tịnh này.
Nhưng Chư Phật, Bồ Tát là quả của nhân tu chứng từ chúng sanh; thế thì thế giới Thanh Tịnh, tức thế giới Phật chỉ là thế giới tương lai cho chúng sanh sinh về mà thôi. Vậy còn gì phải thắc mắc có được sanh về hay không!
Huống chi chính kim ngôn của đấng Ðại Giác xác nhận cho ta điều này. Quả là Phật đại từ đại bi, việc hiển nhiên như thế mà Ngài vẫn thương chúng sanh mà nhắc nhở.
Hành trang thứ hai
Nguyện là khắc ghi vào tâm một tư duy, một ý tưởng, một hoài bão, một ước ao...để rồi tha thiết chân thành, cảm kích trọn đời sự việc đeo đuổi đó.
Cuộc đời thật rối ren, phức tạp, con người phải vất vả đương đầu vượt qua, tuy nhiên mỗi người trong mỗi hoàn cảnh đều thao thức ưu tư nuôi dưỡng ý niệm lẽ sống cho mình; chính nhờ như thế tạo nên thế giới biệt lập cho riêng mình (thế giới riêng) mà ung đúc nuôi dưỡng lẽ sống năng động hơn.
Từ đây, có một số người thao thức chung một ý tưởng, một tư duy, hóa thành dòng sống nhịp nhàng đồng điệu làm đẹp cho đời. Ðó là sự hình thành các tổ chức, hội đoàn, đoàn thể chuyên môn về một chức năng phục vụ đời sống, cho đến vấn đề tinh tế như triết lý, siêu hình qua hình thức gọi là tôn giáo đạo giáo vậy.
Lẽ đó khách quan mà nhìn, tác dụng của ý tưởng, tư duy có một sức mạnh ảnh hưởng đến nhân sinh vũ trụ. Và tất nhiên nhân sinh và vũ trụ quan của một số người nào đó sẽ trở thành tốt hay xấu đều do nhận thức hiểu biết riêng của một số người.
Hành giả tu niệm pháp môn nào, tất phải tha thiết pháp môn đó; tha thiết bằng lời hay hành động, tùy theo sở năng của mình. Sự tha thiết bằng lời, khiến hành giả ca tụng tán dương, nhưng ca tụng tán dương là để phô diễn điều ưa thích hướng đến bên ngoài, và điều mà hành giả phải ca tụng tự trong sâu thẩm của tâm hồn đó là NGUYỆN vậy.
Hẳn nhiên có phô diễn được bên ngoài cũng do bên trong, nhưng ở đây chưa thể gọi là nguyện. Vì nguyện thường tự đeo đuổi mãi trong lòng, cho dù sự nguyện đó có được phô diễn hay không phô diễn, tâm nguyện vẫn không chấm dứt, không ngừng nghỉ, thành ra nó phải là sâu nhiệm.
Nguyện chân thành tha thiết, là hòa nhịp vào hết cả thân tâm, không phải bị một chướng ngại gì làm rung chuyển. Có nghĩa, thân trong tình huống hoàn cảnh nào vẫn luôn giữ lời nguyện, không làm sai trái phản lại.
Tất nhiên thân giữ được lời nguyện là do tâm. Nhưng nên cẫn thận vì cũng dễ thấy; nhiều khi Tâm vẫn giữ nguyện mà thân chẳng làm! Do vậy công phu giảm sút đạo lực yếu dần.
Tại sao Tâm có nguyện mà thân chẳng thể hiện! Vì không tha thiết. Không tha thiết nên chỉ có nguyện bằng âm thanh nơi khí quản, nên không khác âm thanh đối thoại hằng ngày! Dù vẫn có tác dụng tạo ra công đức, nhưng không đủ lực thu kết lại con đường đi tới mau hơn. Do đó người ta thường châm biếm là nói suông chẳng làm; ở đây là nguyện rỗng chẳng có cảm ứng!
Nguyện có tha thiết chân thành, hành động sẽ dần dần biến đổi từ thô đến tế, từ ngoài vào trong, và từ tác động nhẹ nhàng nhưng nghiệp dụng thật vững bền kiên cố.
Niệm Phật hòa vào được sự gia trì của Phật lực là do Nguyện tha thiết này. Nhưng Phật lực là gì, là Niệm Phật trong nguyện lực vậy. Niệm Phật trong nguyện lực tha thiết là tự tánh Di Ðà hiển lộ, là phát được tánh chân thiện, tánh giác ngộ, tánh từ bi tỏa ra chiếu đến khắp nơi.
Những tánh chân thiện như vậy là tánh huệ là tánh Chân Như, tánh Niết Bàn hay nói thẳng đó là tánh Phật.
Tánh huệ đó tạo nên dòng sáng, hòa vào từ quang (dòng sáng hào quang) của đức Phật Di Ðà, và ảnh Ngài xuất hiện. Hành giả sẽ thấy Ngài qua hai ảnh lực một là tự tánh của hành giả chiêu cảm ra, vì tánh huệ của hành giả ứng hợp với tánh Phật; hai là kim tướng của đức Di Ðà tỏa hiện từ những hào quang vô lượng phóng khắp mười phương.
Ðến đây đã tạm đầy đủ, và hẳn nhiên hành giả đã biết mình phải nguyện thế nào, nguyện ra sao.
Hành giả niệm Phật, duy nhất chỉ nguyện sanh về Cực Lạc, điều này không thể sai khác.
Lại nguyện khi chứng đạo giải thoát nơi Cực Lạc, liền quay lại cõi trược phiền để độ chúng sanh. Phải cần nguyện độ chúng sanh tâm hành giả mới thuần với tâm Phật, và mới mong được sanh Cực Lạc chóng được thành chánh giác.
Hành giả lại nhớ nguyện, là kể từ đây cho đến ngày rời bỏ xác thân ngũ uẩn này, mọi công đức gì, hành giả chỉ cầu hồi hướng sanh về Cực Lạc mà thôi.
Hành giả cũng nguyện cho tất cả chúng sanh đủ nhân duyên gặp được pháp môn Niệm Phật để tương lai sanh về Cực Lạc.
Ðó là một vài điểm phát khởi Nguyện lực cầu sanh Cực Lạc trong hành trang thứ hai vậy.
Hành trang thứ ba
Hành trang cuối cùng này, là những gì thành tựu của hai hành trang trên, giống như vật dụng, lương thực, đã đủ đầy trong ba lô, người du mục chỉ còn mang lên vai tiến bước.
Kẻ du mục không thể ra đi khi trên ba lô chẳng có món gì; lại không thể đến nơi nếu ba lô chưa đủ đầy phương tiện cần thiết. Như thế người du mục khôn ngoan, không những rõ biết trong ba lô chứa đựng món gì, mà còn biết rõ hành trang như thế sẽ mất bao ngày tới đích. Có như vậy sự lên đường mới được phấn khởi và ngày tới điểm sẽ huy hoàng.
Tuy nhiên hành trang thứ ba này xem ra vô cùng quan trọng, vì dù hai hành trang đầu (tín, nguyện) có đầy đủ, hay dư thừa chăng nữa cũng thành vô dụng. nếu đôi chân của hành giả hãy còn nằm yên một chỗ.
Hành giả phải đứng lên bước tới, hãy vững mạnh mà đi. Nếu hành giả không thể đi được! Vì sao? Vì hành giả chưa đủ niềm tin, chưa có lập nguyện. Chỉ có vậy thôi, ngoài ra không gì cả. Nhưng nếu hành giả đã tin rồi, đã có lập nguyện, sao lại không đi !
Ðó là phần còn lại, quyết định cho người niệm Phật đi về thế giới Cực Lạc vững vàng.
Có lẽ, chúng ta đã biết niệm Phật không phải chỉ mới trong đời nay, mà đã từng trong quá khứ, nhưng vì những bước niệm Phật của ta ngập ngừng do dự, nên đã chẳng đến nơi, thành ra đời này sanh ra còn duyên niệm Phật, nhưng lại bước đi quá khập khễnh.
Cũng không ít người thật có tin, thật có nguyện, và còn nguyện tha thiết nữa kìa, tuy thế vẫn hãy uể oải bước đi! Nói như thế, không phải mâu thuẩn với hành trang thứ hai (nguyện), mà nói như thế để chúng ta biết động lực vô hình của vô minh, sinh từ ái dục quá mạnh khiến người niệm Phật dù đủ hành trang trên vai mà vẫn ngoái đầu tiếc thương, tiếc rẽ cuộc đời!
Tiếc thương gì? Luyến lưu chi?
Ta dư hiểu điều này, đó là bao việc quay bủa chung quanh đời sống. Ðó là năm món ham muốn: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ (tài, sắc, danh, thực, thùy) - chúng đã trì trệ bước chân của ta từ vô thỉ đến nay.
Công phu niệm Phật chỉ được nhất tâm tinh tấn, là khi ta trực nhận sự giả dối vô thường của chúng, tức ý thức, xem chúng là việc chẳng cần phải quan tâm; lại xem chúng là chân lý vô thường trong dòng pháp giải thoát.
Hiểu rõ năm món ham muốn như vậy, người niệm Phật mới đi vào sâu thẩm tự tâm, sáng suốt phát ra danh hiệu Phật. Ðây chính là phương pháp nhận ra vọng tưởng và xem nhẹ vọng tưởng. Xin thưa rằng tại sao chúng ta lại xem nhẹ vọng tưởng mà không nói là diệt vọng tưởng!
Thật tình để nói, diệt vọng tưởng là việc vô cùng khó khăn, điều này chắc chắn ai cũng đồng ý; với căn cơ của người thời nay sống trong hoàn cảnh không Phật, xa Thánh Tăng, cái khó chỉ có tăng không giảm!. Trong khi biết rằng tâm chúng sanh lại vô thường, làm sao diệt hết vọng tưởng! Không thể diệt được trong một ngày, mà chắc chắn một giờ cũng không được.
Nhưng vẫn có người diệt được; sự diệt được này phải đòi hỏi hành giả hài hòa giữa tâm cảnh bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Trước hết hành giả phải điều thân, sống trong giới hạnh oai nghi, rồi tư duy thiền định, vậy mới sinh ra được định tâm thanh tịnh; tuy nhiên thuận duyên để làm được thế, hành giả phải sống trong cảnh yên tịnh, an bình tránh nơi khích động, huyên náo. Và khi thành tựu điều thân và tâm, bấy giờ hoàn cảnh mới hài hòa tâm cảnh hành giả; đó là lúc hành giả có thể rời nơi yên mà đến cảnh ồn cũng vẫn an tâm.
Nơi đây, ta là người công phu niệm Phật, và niệm Phật trong mọi hoàn cảnh, nên chẳng giống người quán tâm thiền định; cho nên chẳng lo vọng tưởng diệt, hay không diệt, mà chỉ tập trung vào danh hiệu Phật, thế mới nói là xem nhẹ vọng tưởng đi.
Suy ra nữa, nếu ta không xem nhẹ chúng, lại không diệt được chúng, ta không thể niệm Phật nhất tâm. Thế thì không diệt được vọng tưởng lại quá quan tâm vọng tưởng, chỉ làm phân tâm niệm Phật mà thôi.
Ðến đây thấy rằng, bước đầu học Phật, buộc phải hiểu cơ bản giáo lý, vô thường, vô ngã, nhân quả duyên sinh, để có thể là những tác duyên hòa thuận giúp người vượt qua những chặng đường cám dỗ trong đời sống.
Niệm Phật trong mọi hoàn cảnh là tạo mãi chủng tử Phật vào A Lại Da thức (thức thứ tám theo Duy thức học), là nơi sâu thẳm của tâm, là nơi tàng chứa tích tụ muôn duyên sự. Có thực hành như vậy ta mới bớt đi sự khuyến dụ khích động hấp dẫn của dòng đời; mà chúng là nguyên nhân chính làm đầy vọng tưởng trong tâm.
Ta không quan tâm đến năm thứ dục lạc kia, nghĩa là ta sống mà không hệ lụy quá đáng với nó, để thành thái quá sa lầy; ta vẫn sống với nó nhưng trong dè dặt răn đe, và hưởng ứng nó bằng tâm người tỉnh thức - biết chuyển hóa thế nào là phương tiện tùy duyên để sanh về cõi Thanh tịnh là cứu cánh.
Hành trang người niệm Phật đã đầy đủ; hành trang thứ ba cũng đang trên đường về đích. Người tỉnh thức không còn chút nào lo lắng, mĩm cười mời gọi mọi người đi theo.
[1] Những nỗi khổ căn bản nhất của con người, được nhà Phật dạy là Bát khổ: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
[2]Ngày 20 tháng 7 năm 1969, Phi hành gia Hoa Kỳ lần đần tiên đặt chân lên mặt trăng, đánh dấu kỳ tích thành công nền văn minh nhân loại (Phi thuyền lịch sử đó mang tên Apollo 11).
[3] (The) Milky Way: Giải Ngân Hà. Là một tập hợp của những Hành tinh và Thiên Hà, gồm có 400 tỉ Sao Mặt trời (Star-like planets). Và 10 tỉ Hành tinh giống như những Hành tinh của Thái Dương Hệ. Chiều dài bằng 100,000 quang niên (một quang niên bằng 5.898 tỉ dặm)...
Ðịnh nghĩa trên được trích từ sách "Ðạo Phật Siêu Khoa Học", của Minh Giác Nguyễn Học Tài, trang 366.
[4] Quang niên (năm ánh sáng): Ánh sáng truyền đi trong chân không 186,000 dặm hay 300.000, cây số trong một giây đồng hồ. Một quang niên bằng 5 tỉ 88 dặm. (Ðạo Phật siêu Khoa học - Minh Giác Nguyễn Học Tài, trang 169 )
[5] nguyên tử vẫn còn lớn hơn ba thành phần chính của nó là: Dương điện tử (Proton), Trung hòa tử (Neutron), và Âm điện tử (Electron).
Cũng trong sách "Ðạo Phật siêu Khoa học" Tác giả có viết: "Gần đây, Vật lý gia Murray Gell-Mann cho rằng dưới Proton và Neutron còn có những hạt vi phân Tiềm Nguyên tử vi tế hơn mà ông đặt tên là Quark... "trang 18 - 19.
[6] Nhị biên: cái thấy đối đãi của Có, Không - Tịnh, Nhiễm - Thánh, Phàm - Ðắc, Ðọa v.v...
Chương VI
BỒ ÐỀ TÂM
quyết định sự vãng sanh của hành giả niệm Phật
Người tỉnh thức bấy giờ quá đổi vui mừng không sao kể xiết; gặp ai cũng cố khuyên nên niệm Phật, nên lo vãng sanh Cực Lạc, nên xem thường đời sống giả tạm này, và nên tìm về đời sống vĩnh hằng tự tại vượt siêu mọi chướng ngại đối đãi của các pháp hữu vi.
Một số người nghe theo liền thực hành, lại một số dè dặt nghi ngờ sự thật, và điều làm kẻ tỉnh thức phải lưu tâm, là một số cho rằng pháp tu quá dễ như vậy, mà đây gọi là Pháp huyền diệu, sâu nhiệm sao!!!
Người tỉnh thức giựt mình! Nhưng, tri ân ghi nhận điều nghi ngờ này! Vì đã khơi dậy vào tâm bao duyên xưa quá khứ.
Từ một kẻ say ngủ, người đã lạc loài trong điên đảo vọng tưởng, trong vọng thức mê tình, trong cuồng si nghiệp báo, nên chẳng nhận ra quay về phát tâm học Phật - rồi khi học Phật lại phải nghi ngờ hằng bao kiếp, nên chẳng thể vói tay đụng vào thật cảnh để kết quả mịt mờ vô định trong biển khổ trầm luân.
Học Phật mà vẫn còn vô minh, chuyện vẫn là sự thật! Nếu không, sao ta phải sinh đi sinh lại, kết duyên rồi buông duyên, nhận quả rồi buông quả!
Pháp Phật muôn đời chân lý (giải thoát), chỉ người không hiểu sinh ra nông nỗi vậy thôi! Nhưng đôi khi, vì nghi ngờ giáo pháp lại giúp người mở mắt sáng ra!
Ở đời, nếu ai nói gì tin vậy, mà không hỏi vì sao, thế nào, làm sao học hỏi chi được!
Hỏi tức là học, và do nghi mới hỏi. Cho nên nghe rằng, nghi nhỏ hiểu nhỏ, nghi lớn hiểu lớn.
Pháp tu vượt thoát luân hồi qua danh hiệu Phật quả thật dễ dàng, tuy thế pháp tu dễ mà ngoài Phật nói ra, lại không một ai biết! Không ai biết vậy có dễ không!
Chính Phật biết điều khó này, nên khi nói ra đã phải nhấn mạnh "...Xá Lợi Phất cùng với các ông đây (vô số Thánh phàm Tăng, và Trời, người) đều nên tin lời ta và lời của chư Phật thuyết" (...Xá Lợi Phất nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ cập chư Phật sở thuyết).
Phật tự nói đã là đầy đủ, lại còn minh chứng thêm rằng, chư Phật ở phương khác cũng đều nói như Ngài vậy.
Bây giờ người tỉnh thức nhận ra rằng, vì quá sốt sắng buộc người tin, huống nữa tin một pháp môn khó tin nhất, nên người ta mới e dè, nghi ngại như vậy.
Việc có được sáng tõ, là phải biết niệm Phật để làm gì! Khi biết để làm gì, những nghi ngại so sánh trên đường tu sẽ được giải tỏa.
Niệm Phật được vãng sanh về Cực Lạc, đó là câu trả lời quá thường tình, không chút suy nghĩ.
Về Cực Lạc làm gì ?
Ðể tiếp con đường tu cho đến thành Phật rồi độ chúng sanh. Ðây là điểm quan yếu nhất mà người niệm Phật phải biết và cũng chính đây lại chỉnh trang, sửa sai quan điểm cho rằng niệm Phật chẳng có gì cả, và tệ hơn lại cho pháp môn này quá dễ, nên không tin, không đáng học.
Hẳn biết, tất cả phương tiện sinh hoạt trong thế gian đều nhất quán phục vụ cho con người sinh tồn trong xã hội. Từ đó theo từng khía cạnh phương diện vấn đề, mà liên hệ sinh ra bao số công việc nhịp nhàng diễn tiến, điều khiển đời sống con người ngày phát triển hơn. Tuy vậy, chung quy phải lấy nền tảng tinh thần mang tính thiện để tồn sinh, đó là chân lý hài hòa đời sống.
Cũng vậy giáo lý giải thoát mà đức Thế Tôn dạy, lấy nền tảng Giới, Ðịnh, Huệ làm phương tiện đi đến giải thoát; nhưng lý tưởng giải thoát phải phát xuất bằng tâm Bồ Ðề tức tâm làm Phật.
Xét cho cùng, trong Phật pháp, không một pháp môn nào ngoài ba môn học này (Giới, Ðịnh, Huệ) mà được giải thoát; lại nói cho cùng phải có tâm cầu thành Phật mới khỏi lạc mất tâm Bồ Ðề.
Thế thì niệm Phật là một pháp môn trong 84000 pháp môn cũng không ra ngoài chân lý ấy. Cho nên niệm Phật, mà thiếu Bồ Ðề Tâm không thể đi về cõi Phật. Và vậy pháp môn niệm Phật này có sâu hay cạn, dễ hay khó, đối với hành giả niệm Phật cũng phải phát Bồ Ðề Tâm; đây là việc đáng ghi nhất mà người niệm Phật phải biết. Nói tóm lại người tu các pháp môn khác như Thiền, Mật, Luật... cũng chẳng thể thiếu Bồ Ðề Tâm mà thành tựu được. Vậy ra vấn đề nói dễ hay khó, tin hay không tin, sẽ biến mất nơi đây, vì tất cả hành giả ai là người con Phật phải cùng nhau phát BỒ ÐỀ TÂM để thành Phật cứu chúng sanh.
Niệm Phật thế nào gọi là phát Bồ Ðề Tâm?
Trước hết nên hiểu thêm về Tâm, và thế nào gọi là tâm Bồ Ðề!
Tâm được giảng theo chuyên môn bác học như môn Duy thức quá tinh vi, khúc chiết, chẳng hạn gọi là Tâm vương và tâm sở. Tâm vương là tám thứ tâm, gọi là "Bát thức tâm vương", như: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức, Mạt na thức và A lại da thức [1]Tâm sở gọi đủ tên là "Tâm sở hữu pháp", Tâm sở này được khám phá, phân định đến năm mươi mốt (51) thứ, được lập thành sáu nhóm có tên: Biến hành, Biệt cảnh, Thiện, Bất thiện, Tùy phiền não, Bất định.
Những thứ này mang hành tướng nghiệp dụng tâm lý tinh thần và thể chất của con người một cách phức tạp, tinh vi.
Và Tâm vương lại là nơi sai khiến chúng, nhưng lại có khi bị chúng gây mê! Có thể hiểu tám thứ Tâm này (Bát Thức Tâm vương), là nơi khởi lên sự liên hệ chằng chịt, gây ra nguyên nhân dấy tác nghiệp thiện, ác của một chúng sanh.
Ðại khái theo nghĩa triết học Duy thức là vậy, tuy nhiên, hiểu một cách đơn giản, chỉ có hai phần: Vọng tâm và chơn tâm.
Con người chúng ta đã say sưa bám theo uẩn thân từ vô số kiếp, nên chẳng thể tỏ rõ được chân tâm, đành sống với vọng tâm ngũ uẩn. Nhưng chân tâm cũng nhờ ngũ uẩn thân mà hiện hữu, và sự hiện hữu này lại quá vi tế, quá mầu nhiệm sâu xa nên khó thể nghĩ bàn, do đó một số người không tin là ngoài cái thân thô kệch và cái tư tưởng kiến thức (vọng tưởng {tâm} điên đảo) này lại còn cái gì nữa!. Nhưng lạ lùng thay chính ngay cái biết (thức) như vậy, dù là cái không tin, họ đã đi gần đến chân tâm, lý do họ đang gần như đứng ngoài chủ thể và đối tượng tư tưởng mà thẩm định. Tuy nhiên cái biết hãy còn rất mờ, vì chưa thể dùng tâm vô phân biệt, tâm không đối đãi qua nhận thức các pháp đều do duyên sinh và cũng do duyên diệt.
Vậy hỏi ai đã được chân tâm? Tất nhiên chơn tâm khó nhận diện, khó đạt thành; chỉ có các vị chứng đạo mà thôi.
Vấn đề rõ ràng là tất cả đều nhờ vào việc học Phật mà suy ra. Nếu không ta lấy đâu làm nguyên tắc tiêu chuẩn để học và hành, nhận diện được chân tâm!
Kết lại, những gì của tư tưởng hành động ngược lại hướng đi giải thoát, đây là do vọng tâm sai khiến; và những gì xuôi thuận theo giải thoát là chân tâm vậy. - Thế thì chân tâm sẽ xuất hiện dưới mọi hành tướng mà không phân biệt người tu tại gia hay xuất gia.
Ðến đây đã thấy chân tâm là Bồ Ðề Tâm, là tâm hướng về giải thoát; tâm cầu thành Phật để độ chúng sanh.
Hành giả niệm Phật dù chẳng thể nhất tâm trong mỗi thời niệm, nhưng ý tưởng tâm niệm độ sanh khi thành tựu đạo nghiệp nơi Liên cảnh, chắc chắn sẽ là lực tác động vững vàng cho con đường vãng sanh Cực Lạc.
Ngược lại niệm Phật chỉ có cầu sanh Cực Lạc mà không có ý nguyện thành Phật độ sanh, sẽ là trở ngại cho phẩm cao nơi Liên cảnh. Cũng từ đó có thể dễ dàng rơi vào cõi người hay cõi thiên hưởng phước hữu lậu, nếu giờ phút cuối không xác định được niệm lực của mình là duy chỉ độ sanh.
Sở dĩ phải cầu thành Phật độ sanh khi công phu niệm Phật, do vì thế giới Cực Lạc thuần chất Bồ Ðề Tâm, là nơi chư vị thượng thiện nhân bất thoái chuyển hay nói đúng hơn là nơi của chư Phật tương lai - chính do đồng hành tâm niệm Bồ Ðề như thế mới hòa hợp một chỗ, và đó là tương hợp với hạnh nguyện Phật A Di Ðà.
Vậy phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật là dùng tâm lực và Phật lực; tâm lực là công phu tinh tấn chuyên nhất vào sự hành trì của hành giả, Phật lực cũng là nguyện lực của chính hành giả, chuyển từ tâm thô của một chúng sanh tục nhiễm hướng về chân tâm mầu sáng của Ðức Phật A Di Ðà, để hòa quyện thành thế giới nhiệm mầu thanh tịnh, đó chính là thế giới Cực Lạc vậy.
Ðại lược như trên trình bày, đó là lý mầu tự tâm theo nghĩa của Bồ Ðề Tâm giải thoát; nhưng sự sâu nhiệm bằng tâm Từ Bi hiện ngay cảnh giới khổ đau này lại càng giúp ta phát mạnh thêm Bồ Ðề Tâm.
Hành giả niệm Phật trong cảnh giới phiền trược, chắc chắn phải vì nhận thức cuộc đời là khổ. Do hiểu như thế mới cầu sanh thế giới Tịnh. Nhưng sự nhận thức khổ đây, lẽ nào hành giả không khởi từ bi tâm khi nhìn thấy hành giả là một trong muôn người khổ! Trong muôn sự khổ kia lại càng khổ hơn nếu chẳng biết được có một thế giới để quay về. Thông cảm như vậy hành giả càng tinh tấn niệm Phật vì thấy muôn người đang đau khổ, khổ hơn cả chính mình.
Hành giả quan sát gần hơn, thấy rằng bao nhiêu sự tranh chấp của con người trong thế giới trược phiền này, càng làm nỗi khổ chỉ có tăng mà không giảm, thấy như thế hành giả lại quyết chí niệm Phật nhất tâm hơn.
Hành giả quan sát thêm nữa về những chúng sanh không phải là người, nỗi khổ này thật càng cay nghiệt đáng thương hơn; hành giả càng niệm Phật không ngừng.
Tóm lại tất cả vì từ bi thương nghĩ đến mọi người mọi vật mà niệm Phật càng tinh tấn; để có thể cứu cánh vãng sanh, quay về cụ thể hóa niềm thương nghĩ đó.
Người chưa hiểu nguyên lý pháp tu niệm Phật thường hay ngộ nhận, cho niệm Phật, ích kỷ chỉ cầu riêng mình sanh Cực Lạc, chẳng đoái tưởng đến người khác !.
Ðiều này không cần xác định thêm nữa về tâm nguyện của người niệm Phật, vì chỉ cần Bồ Ðề Tâm nói lên đủ nguyện lực của hành giả niệm Phật rồi.
Việc người niệm Phật chiếu cái nhìn từ bi đến muôn loài chúng sanh, trong đó có luôn cả hành giả, tất nhiên phải là cái chiếu nhìn trí huệ.
Từ bi phải có trí huệ mới là từ bi của Phật. Thương người chỉ thương trong nhất thời bồng bột, trong biến dịch của tư duy thô thiển, cái thương đó không phải trí huệ.
Thương người đúng với chánh pháp, vẫn là cái thương bình thường qua xúc cảm tinh thần, qua vật chất thỏa hợp, nhưng những tác dụng này phải mở bày ra sự thật của chân lý; phải cho người thương thấy được mặt thật cuộc đời, và sự mầu nhiệm của con người giác ngộ ý thức được sự thật này. Ðó là cái thương sáng suốt và trí huệ của người tu Phật, và nơi đây, chính là cái thương của người niệm Phật vậy.
Khi hành giả càng quán chiếu vào đời sống chúng sanh đa dạng, càng phát được Bồ Ðề Tâm, đó là sự mầu nhiệm của người niệm Phật. Vì sao? Vì cảnh tượng muôn hình muôn dạng, do tâm thức biến hiện chiêu cảm ra (Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức); nói cho dễ hiểu vì nghiệp duyên quá phức tạp của từng loại chúng sanh mang trong người muôn động niệm. Cho nên cảnh trí mới muôn màu muôn vẽ, chúng sanh mới đủ loại dị hình. Cũng như do chánh báo, y báo của thế giới này, duy vì nặng dục ái mà ra, thành thử phải khổ nhiều hơn vui.
Vì dục ái vốn từ ba độc Tham, Sân, Si nên chúng sanh ở đây khó lòng sáng suốt giác ngộ, khó lòng thoả mãn thèm khát, thế đó trở thành cảnh giới khổ nhiều hơn vui .
Nhìn được như thế người niệm Phật càng phát tâm sợ cho cái tâm thức phiêu lưu này, và cảnh trí khổ đó nào đâu ra ngoài tâm thức! Thế càng sợ thì càng thương cho muôn loài chúng sanh, cuối cùng càng phát tâm Bồ Ðề để sớm cứu độ chúng sanh.
[1] Cái biết của mắt, của tai, của mũi, của lưỡi, của thân, của ý thức, của thức thứ bảy, và thức thứ tám.
Chương VII
Niệm Phật đi vào đời
Ðới nghiệp vãng sanh
Người tỉnh thức mỉm cười chiêm nghiệm lại cuộc đời đã qua; từ khi còn là kẻ lang thang đây đó trong ba cõi, sáu đường, rồi mệt nhoài tỉnh thức quờ quạng tìm được con đường tương đối sáng, để dần dần tiến đến ngày nay và giờ đây thấy được ánh sáng vàng tuyệt đối
Tâm người tỉnh thức dào dạt niềm hân hoan, niềm hỷ lạc của Bồ Ðề giác ngộ. Giác ngộ cuộc đời và giác ngộ giáo lý.
-Giác ngộ cuộc đời:
Là những chuổi thời gian kết nối nhau vô tận; là những cảnh tượng không gian mắc dính theo thời gian thay đổi đến vô chung.
Thời gian và không gian là những gì của khái niệm mà ý thức con người đặt định ra; qua đó nó được quan sát nhận định là lớn, nhỏ, xa, gần diễn tiến theo hoàn cảnh tâm cảnh con người.
Không gian, thời gian cõi Ta Bà này đặt định tùy thuộc vào vị trí, tầm cở kích thước của trái đất, và sự hiện hữu của mặt trời, trong quỹ đạo hấp dẫn nhau gọi là Thái dương hệ. Và giả dụ cõi Ta Bà chúng ta đổi lại vị trí, cũng như chu vi diện tích của Mộc Tinh (Jupiter) [1] vậy thời gian và không gian lại thay đổi hẳn so với hiện nay. Chừng đó cái nhìn về cuộc đời có thể khác hơn! Tuy nhiên dù con người ở Mộc tinh có khác con người ở đây thế nào, cũng không ra ngoài chân lý khổ. Bởi vì, thế giới đó vẫn còn trong cõi dục.
Thế thì cuộc đời được quan niệm thế nào cũng chẳng ra ngoài vòng lẩn quẩn của Thành, Trụ, Hoại, Không; tức cái chu kỳ quỹ đạo của những hành tinh quay quanh mặt trời rồi có ngày cũng chấm dứt. Hoặc chấm dứt vì trái đất lệch đi đường quay, hoặc đường quay chưa lệch mà bị thiên thạch hay vật lạ ngoài không gian làm cho lệch, hay mặt trời thay đổi vị trí đột ngột, bởi vì mặt trời cũng vẫn là những ngôi sao lang thang trong vũ trụ mà thôi.
Ðánh giá cuộc đời thế này thế kia chỉ là những kiến thức đối đãi tùy cảnh tùy tâm mà ra; dù nó được hội ý, đồng tình với hết những con người trên trái đất này, nó vẫn không là gì cả, khi nói đến chân lý tột cùng của sự vô thường sinh diệt. Nhưng con người lại tuyệt vời siêu việt, ý thức được chân lý này, nên vẫn có thể tiếp nhận hay từ chối trong sự thăng hoa đời sống.
-Giác ngộ giáo lý
Ðời sống văn minh nhân loại ngày nay đã minh chứng, và đạo giáo lại nói lên sự vượt bực của văn minh tinh thần.
Trong những nền văn minh đạo giáo của nhân loại, một số người lại tìm thấy một đạo giáo văn minh vượt trên tất cả. Nhưng đạo giáo này lại không cho mình là vượt trên hết, vì tự giáo lý của đạo này nói lên điều đó! [2]
Ðiểm chính của đạo giáo đó, không thể tách ly với con người, nghĩa là có người thì có, không người không có!. Tuy nhiên phương tiện hành động đạt đến đích thành tựu của đạo giáo này rất tinh vi quyền biến, và kết quả đạt được cũng muôn vàn, do thế người hành theo có thể tùy vào khả năng và trí huệ đều được thỏa đáng.
Ðạo giáo đó là đạo giác ngộ, là đạo Phật.
Thật tình mà nói, đạo Phật không phải là tôn giáo, cũng không phải triết học, chỉ đơn giản là một pháp học giúp người nhìn rõ cuộc đời và con người trong sự thật chính nó, qua tiến trình tư duy sáng suốt, từ đó hành động đạt đến hạnh phúc rốt ráo.
Ðiều này cụ thể rõ ràng, không chút gì huyền hoặc mê tín.
Tuy nhiên nền tảng đạo Phật là từ bi, nên tùy duyên thế giới thế nào, mà xuất hiện thế đó để tùy thuận độ sanh. Ðiều này nói đến việc du hành của chư Bồ Tát nhập cuộc vào đời. Như là, chúng sanh đang khát vọng, ngưỡng cầu một nơi thờ phượng qua ảnh tượng Thánh thần, qua hành động lễ cúng van xin; Bồ Tát liền nhập cuộc để làm duyên tiếp độ [3]
Và bao giờ thấy được thời duyên, liền giảng giải - Bồ Tát sẽ khai thị chánh pháp đưa chúng sanh quay về tự tánh, khiến chúng sanh đó tự biết thế nào là đạo trạng thanh tịnh. Nếu có chúng sanh nào vào được đạo tràng thanh tịnh tự tâm, bấy giờ Bồ Tát lại từ bi khai phóng cho chúng sanh đó vào thêm đạo tràng của chân như tuyệt đối, tức tỉnh ngộ ra tất cả chỉ là phương tiện. Cuối cùng Bồ Tát sẽ chuyển tâm "Bồ Tát mới phát tâm" làm tâm Phật để cùng nhau hành động như mọi người nhưng trong chánh pháp nhiệm mầu, huyền diệu.
Thế nên chưa nhận rõ pháp mầu của Phật, ta hay ngộ nhận những nghi thức, lễ nghi mà cho không khác tôn giáo thờ lạy, van xin!
Ðạo Phật lại càng chẳng phải là những ngôn từ văn chương, những kỹ thuật chuyển vận ngữ văn theo một cấu trúc văn điệu có tính cách tận dụng đề cao trí thức diễn đạt ngôn ngữ con người, mà hay thường gọi là triết lý. Ðiều này chỉ có ích cho cuộc sống qua một vài khía cạnh, duy trì làm đẹp văn hóa. Tuy nhiên đạo Phật cũng không phủ nhận và tất nhiên đã biết, đạo Phật xuất hiện từ con người, từ nhân sinh quan trong đời sống, do vậy tất cả định nghĩa cho triết học cũng phải quay về mà hành động theo giáo lý giải thoát. Và tuyệt nhiên nếu nhìn về nhân sinh, vũ trụ chỉ bằng ngôn từ hay ra ngoài chân lý nhân quả, duyên sinh, vô ngã... thì chẳng phải là đạo Phật, tức chẳng giúp gì được con người thoát khỏi luân hồi đau khổ, ngược lại chỉ rối rắm thêm trong cái vòng lẩn quẩn vốn đã rối ren.
Trong niềm tư duy đó, người tỉnh thức nhận ra niệm Phật là cách dễ nhất đi vào đời. Người niệm Phật quan sát thấy rằng, từ xưa con người ngoài những việc phát triển kiến tạo, mưu sinh như lịch sử từ hàng thế kỷ qua, nay lại chẳng khác gì! Rồi tương lai hàng lớp thế hệ trẻ lại tiếp tục. Ðiều đó có phải vì, người trước hay người nay chưa bao giờ quay lại chính mình để tìm thấy một thế giới Phật; thế giới thanh tịnh, niết bàn! Nếu thế giới vật chất được mãi xây dựng thành tựu là do phát xuất manh nha từ tâm ý, thì thế giới siêu vật chất, đó là thế giới tâm linh cũng không ngoài phát sinh từ tâm ý con người mà ra.
Niệm Phật là manh nha cho mình ý tưởng xây dựng thế giới siêu vật chất; niệm Phật mãi mãi là cụ thể hóa thế giới tâm linh, sẽ biến hiện ngay con người một thế giới an lạc và bình an trong lòng. Thế giới thanh tịnh tâm, là thế giới bình an lưu xuất bên ngoài con người niệm Phật.
Bao nhiêu người biết niệm Phật, thì bấy nhiêu người được bình an.
Có phải chúng ta đã bất an trong đời sống! Có phải chúng ta ao ước được yên thân!
Ðiều này nói lên đời sống đã không thanh tịnh nơi tự tâm rồi. Chỉ có niệm Phật mới giải quyết được những dằn vặt bất an trong đời sống; chỉ có niệm Phật mới toại nguyện được niềm ao ước vĩnh hằng.
Nhưng điều gì đã làm con người bất an?
Ta đã thấy ngay câu trả lời căn bản, là do thế giới nhiễm ô này.
Một khi hoàn cảnh không chân thật, không nhẹ nhàng thanh tịnh, chúng sanh sống trong hoàn cảnh đó tất phải không an. Thế giới đó không tránh khỏi thiên tai đe dọa.
Thiên tai trù dập vào đời sống như: núi lửa phát phún, sóng thần cuốn hút, động đất lấp vùi, lũ lụt cuốn trôi, hay nắng khô đồng cháy...thế đó cũng đã quá khổ, nhưng còn cái khổ bên trong nào đâu thua kém.
Chúng ta dư thấy ở thế giới văn minh giàu có số người tự vận, quyên sinh chẳng kém gì các nước lạc hậu. Và lạ thay kẻ tự vận có khi lại là triệu phú hay đang trong danh vọng cao sang. Sự thể như vậy, cho thấy bên trong người ấy hết sức kinh động đến mức không thể chịu đựng đành tìm cái chết! Tìm hiểu đoán được, họ có thể vì thất bại phá sản nơi thương trường, hay lỡ làm việc gì ô danh, nhục tiếng, do thế đau thương, hay nhục nhã mà quyên sinh.
Nhưng cũng không hiếm trường hợp tự vận chết đi vì những dằn vặt nội tình chưa đến nỗi phải trầm trọng như trên. Và đau thương hơn, chỉ vì thấy đời không thú vị nữa nên không thích sống!
Những nỗi bất an bên trong như thế là quá rồi, và còn lại vô số người như chúng ta vẫn đang đối diện và chịu đựng bao bất an khác! Dù chúng không đến nổi xúi giục ta chết đi, nhưng vẫn đủ sức giết lần ta, nghĩa là ta sống trong sự héo mòn đau khổ, và cuối cùng dẫn ta tái sanh đến hằng kiếp.
Một vài bất an thường tình mà ta phải đối diện như: không toại nguyện sống với người thương, không ưng lòng sống với người ghét, và không thuận lòng vừa ý những gì mong đợi. [4] Chỉ ba điều này thôi đời sống đã không an rồi.
Ðó là những bất an trong đời, mà hễ là người tất phải đối diện.
Nhưng xưa nay vẫn xuất hiện các vị Thánh, sống trong hoàn cảnh và tâm cảnh như chúng ta mà chẳng bao giờ phải bất an! Do vì chư vị biết niệm Phật trong tâm.
Ðây muốn nói, dù bao nhiêu pháp tu khác nhau nhưng chẳng khác gì niệm Phật. Ðứng về mặt tướng, còn có tọa thiền, tụng kinh, niệm chú, nhưng về mặt tánh thì nhất quán, trừ hoặc hiển chơn, tồi tà phụ chánh (trừ phiền não phát trí chân, dẹp tà ngụy xiển dương chánh pháp).
Ngồi thiền là an thân, để tâm được định và cứu cánh nhận rõ bộ mặt mình, quay về với chân tánh là chân như là Phật tánh.
Tụng kinh, niệm chú, niệm Phật là đọc, niệm lên pháp ngữ, mật chú, danh hiệu Phật để thanh tịnh lắng nghe mà nghiêm thân tịnh ý, để rồi tâm được an và cứu cánh thân tâm hòa vào lời kinh, mật chú, danh hiệu Phật như hòa vào chân tánh Như Lai.
Chính lẽ đó thế gian vẫn còn nhiều người an tâm do thực hành tha thiết lời Phật dạy. Vậy nơi đây nếu hành giả niệm Phật luôn luôn, trong mọi hoàn cảnh, hành giả đã đi lần đến con đường chư Thánh đi.
Tiếc rằng nhiều người không duyên nên chẳng tin niệm Phật.
Niệm Phật lại chẳng khó, và điều để tin rằng ta sẽ niệm Phật được luôn luôn là do chính tâm ta vô thường; chính tâm ta vô thường, nên dù tâm có vọng tưởng đến đâu, nó vẫn có lúc ngừng nghỉ, vì không thể vọng tưởng hoài; và ngay lúc nghỉ này ta liền nhớ câu niệm Phật!
Vấn đề lại đưa ra, làm sao ta nhớ niệm Phật!
Vì sợ làm sao ta nhớ, nên ta phải tập cho nhớ, tức phải niệm Phật ngay bây giờ; ngay khi thức tỉnh cuộc đời như đã quán sát - thức tỉnh rằng, pháp môn đang đeo đuổi đây, là pháp thù thắng hợp với thời đại nguyên tử ngày nay.
Khi tâm hằng ghi nhớ danh hiệu Phật, hành giả vừa giảm được nỗi bất an thường tình, vừa chuyển hóa vào tâm niềm an lạc. Công hiệu và thần lực của danh hiệu Phật có thể chuyển tâm thức ta về thế giới Thanh tịnh, xá gì lại không chuyển nỗi những bất an thường tình hiện tại! Do vì ta chưa đặt hết niềm tin vào Phật lực để hóa thành tâm lực nên còn vướng động vọng niệm để kết quả chưa đủ duyên hiện ứng.
Hành giả niệm Phật vào đời, nhất định lạc quan vui vẻ; không vì thấy rõ cuộc đời là bất an rồi sinh tâm cầu thoát ly xa lánh. Dù rằng việc niệm Phật cấp bách, công phu ngày đêm, vẫn hợp cho việc thoát ly, tuy nhiên phẩm vị vãng sanh cao, chắc chắn cho người phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật. Chung quy lại người niệm Phật vào đời vẫn được vãng sanh, không khác gì nhập thất tịnh tu một chỗ.
Với lý tánh tâm nguyện Bồ Ðề, hoàn cảnh nào cũng không trở ngại, cho nên phải phát tâm Bồ Ðề mà hành mọi Phật sự; do đó nên hiểu người nhập thất mà không phát Bồ Ðề Tâm niệm Phật chưa chắc đã được phẩm cao, bằng người đi vào đời niệm Phật phát Bồ Ðề tâm . Vậy hành giả nào vì nghiệp duyên chưa thể dứt bỏ thế tục, vẫn an nhiên thực hành pháp tu niệm Phật mà chẳng lo rằng ta được vãng sanh hay không!
Ðới nghiệp vãng sanh.
Nhân đây người niệm Phật lại nghĩ, những hành nghiệp thiện, ác cùng lúc không ngừng phát ra khi niệm Phật! Và đây là vấn đề nói đến sự kiện Ðới Nghiệp Vãng Sanh
Chính nơi nghĩa " Ðới nghiệp vãng sanh" mới thấy, niệm Phật là tuyệt diệu pháp môn. Nói như thế vẫn không mâu thuẩn, trong ý niệm tất cả pháp tu đều đưa về nhất quán, thanh tịnh thân tâm, giải thoát luân hồi. Nhưng thực tế liễu thoát sinh tử một đời, thì việc dễ, khó, hiện thể rõ ràng khác nhau ở mọi pháp tu.
Người tu Thiền, tất nhiên ai cũng hiểu phải trải qua cấp bực giải thoát từng phần, để đoạn dần kiến tư hoặc; rồi mới đắc quả vị Thánh. Khi đã thành Thánh việc tu vẫn còn gian nan, bởi vì có tới tứ Thánh quả. Và khi giải quyết tứ quả xong, bây giờ vị Thánh đó bắt đầu chuyển qua con đường Bồ Tát để hành Bồ Tát đạo là đoạn đường cuối thành Phật - tất nhiên đối với quả Thánh Vô Sanh (đã đắc tứ quả) việc hành đạo so với ta thật dễ muôn lần, nhưng đó là so với ta, chứ quả vị Phật hãy còn dài, do vậy mà thấy trong kinh, Phật phải dùng mọi phương tiện nhắc nhỡ quý Ngài tiếp tục tu [5], nếu không lại ngỡ mình đã đến đích (thành Phật).
Cho nên trình độ chứng đạo nào cũng cần nên gần Phật; đến những vị có túc duyên gặp Phật trong quá khứ, nhưng vì một nghịch duyên nào đó mà chưa thành, phải chịu rơi vào thế giới không Phật, vị này có thể tu đến quả Bích Chi (Duyên Giác: quán 12 nhân duyên), nhưng lại phải cần sự xuất hiện của Phật, thì nhân duyên chứng đạo Vô thượng mới thành, nếu không cũng dễ lầm, rằng đã đến đích (Phật quả).
Thế thì thiền định mà chưa đạt quả Thánh thì chỉ là phước báo của nhơn thiên, mà quả giải thoát chỉ gieo vào duyên xa chưa biết chừng nào. Ðiều này mới thấy, trong kinh thường tả vô số Bồ Tát thường hiện diện trong lần Phật thuyết kinh, để chỉ mong sớm học được giải thoát.
Vậy thì niệm Phật là giải quyết ngay vấn đề gần Phật, và cầu thành Phật ở tại bất cứ thế giới nào.
Khi nương tựa vào Phật, tâm không rời, tất nhiên ta đã thiết lập cho mình Phật tại tâm, để cuối cùng sanh đi nơi nào cũng còn chủng tử Phật.
Nhưng pháp tu niệm Phật, Phật Thích Ca dạy, kết quả của hành giả niệm Phật sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc A Di Ðà.
Phật lại dạy, bất cứ thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào khi lâm chung tâm không tán loạn niệm được mười câu hiệu Phật sẽ được vãng sanh; đây bao gồm cả cư sĩ và tu sĩ. Thế thì cho thấy còn có pháp môn nào vượt qua được sự mầu nhiệm này.
Do vậy người cư sĩ chẳng cần phải lo vị trí của mình chưa thanh tịnh, chưa yên ổn, chưa nhất tâm v.v...Ðiều mà hành giả cư sĩ đáng lo, là có phát được Bồ Ðề Tâm hay không!
Ðới nghiệp vãng sanh, không phải nhấn mạnh vào giới cư sĩ mà nói chung cả hai giới, vì khó ai có thể dứt khoát được một đời tịnh nghiệp mà vãng sanh, cho nên không rơi vào thô thì cũng tế. Người tu sĩ trọn một đời tu đến ngày ra đi vẫn chưa thể giải quyết được những bất thiện nhân-nghiệp trong một đời, dĩ nhiên là bất thiện vi tế; do đó nếu nói phải sạch nghiệp mới vãng sanh thì ai lại làm được! Cho nên trừ nghiệp tội thật ác (ngũ trọng tội) ra, khi lâm chung biết sám hối đều được vãng sanh về cõi Phật.
Ðây chúng ta thấy, do nguyện lực của Phật A Di Ðà và diệu dụng thần lực của tự tâm chính ta, nên hoán chuyển tức khắc cảnh giới tự tâm, để hòa hợp vào cảnh giới Phật mà khoảnh khắc được vãng sanh.
Tuy nhiên, dù đứng trên mặt lý nhận định thật rõ ràng, và sự vẫn xãy ra như thật, vậy mà số người được vãng sanh chẳng thấy là bao! Lý do hoặc người niệm Phật ỷ lại, hoặc giờ phút cận tử nghiệp gặp chướng duyên!
-Ỷ lại, mình sẽ mang nghiệp vãng sanh nên hay tạo nghiệp bất thiện; dù bất thiện này không nghiêm trọng, nhưng khiến tâm thức xem nhẹ câu niệm Phật để giờ lâm chung không thể tha thiết nhất tâm.
Nghiệp bất thiện đây liên hệ đến việc, quên mất Bồ Ðề Tâm, tỉ dụ xem thường việc ăn chay, việc bố thí giúp người, hay nói lời vọng ngữ.
-Chướng duyên vào giờ phút lâm chung, có thể đến từ người trong gia đình hay bạn bè thân quyến. Thay vì khuyên ta niệm Phật, hoặc niệm Phật cho ta nghe, ngược lại chỉ gợi lên những việc thế gian luyến ái buồn thương, hoặc khơi nhắc chuyện đau thương làm ta xúc động quên mất câu niệm Phật.
Xét cho cùng, do chính người niệm Phật chủ động chứ chẳng để ai quyết định cho mình; khi đã hiểu ÐỚI NGHIÊP VÃNG SANH là thù thắng, thì ngay trong lúc lâm bệnh phải có chuẩn bị sắp xếp, có thế mới thắng được chướng duyên.
Người cư sĩ vì gia duyên thế sự ràng buộc, nhưng nếu giữ được tâm niệm hằng thẩm vào sự cầu sanh về thế giới thanh tịnh, thì danh hiệu Phật dù niệm ít vẫn hằng chuyển mạnh vào tâm. Và muốn giữ được tâm niệm sâu như vậy, tất phải ý thức việc làm, sự sống của mình hiện tại. Phải xem rằng tất cả những tác nghiệp này trong công việc hiện tại, đều ngoài ý mình muốn, nhưng vì đã lỡ duyên nghiệp đời sống nên phải giải quyết, hành xử.
Ngoài ý muốn, nghĩa là không muốn những nghiệp nhân này ngày một dính mắc; không muốn phải tiếp tục mâu thuẩn vừa tạo thiện lại tạo bất thiện, duy chỉ có cái muốn là dứt luân hồi, dứt vay nghiệp, để được sanh về thế giới Vô Lượng Quang. Ðiều đó mới là ý muốn, còn lại hiện thời, tất cả ngoài ý muốn.
Như thế công phu niệm Phật của hành giả cư sĩ này, dù niệm ít nhưng lại thẩm sâu, và tất nhiên chỉ chính hành giả này biết rõ hơn ai.
Lại thêm một điều mầu nhiệm, có thể giải quyết luôn việc ngoài ý muốn đó mà chẳng chút gì là ngoài hay trong. Nghĩa là hành giả cư sĩ niệm Phật này, vừa thầm niệm cầu sanh Tịnh Ðộ, vừa giới thiệu pháp tu đến mọi người, như thể tạo thêm công đức giúp hoằng dương giáo pháp Phật Ðà, và nhất là pháp tu tối thắng mà hành giả đang âm thầm thực hiện.
Vậy thì bao việc làm đó, hẳn nhiên trở thành phương tiện đem giáo pháp mầu nhiệm đến gần chúng sanh hơn, và ngày ra đi của hành giả chắc mọi người sẽ ngạc nhiên, sao lại vãng sanh được; trong khi với người hiểu được Niệm Phật đới nghiệp vãng sanh sẽ thấy sự thật phải là như vậy! Và hơn ai hết chính hành giả niệm Phật sẽ mỉm cười nơi Liên Ðài Lạc cảnh.
[1] Mộc tinh: một trong chín hành tinh quay chung quanh mặt trời; là hành tinh lớn nhất trong thái dương hệ chúng ta. Thời gian ngày đêm ngắn hơn Trái đất, nhưng một năm thì gấp 12 lần, tức 12 năm ở quả đất.
[2] Giáo lý cao siêu vượt lên tất cả được diễn giải trong Kinh Kim Cang: Kinh chỉ người biết, kẹt chấp vào ngã và pháp là chướng ngại trên đường giải thóat, nên người đắt đạo chẳng cho mình đắc đạo mới là đắc đạo! Ðoạn kinh nói lên điều huyền diệu như sau: -Tu Bồ Ðề, ý của ông nghĩ thế nào? Vị Tư Ðà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng quả Tư Ðà Hàm không ? Tu Bồ Ðề bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, không thể được. Vì sao ? Vì vị Tư Ðà Hàm gọi là bực Nhứt Vãng Lai, mà thật không có vãng lai, nên gọi là Tư Ðà hàm ". (dịch giả Thích Thiện Thanh)
[3] Kinh Pháp Hoa - Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn, thứ hai mươi lăm, nói lên điều này.
[4] Một trong những bát khổ: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ.
[5] Kinh Pháp Hoa - Phẩm Hóa thành dụ thứ bảy
Chương VIII
Nghĩ về sự chết chắc chắn.
Đã có hành trang, đã vững tâm Bồ Ðề, người tỉnh thức vui vẽ an nhiên với danh hiệu Phật, bước đi vào đời không sợ chướng ngại.
Giờ đây người đã quá lục tuần (hơn 60 tuổi); đã niệm Phật hơn hai mươi năm; và công phu tu niệm đến nay càng tinh tấn.
Nhìn bên ngoài hình tướng, sinh hoạt, có thể chẳng thấy người tỉnh thức công phu nhiều như hồi còn trung trẻ, nhưng thật sự bên trong đã nhiếp tâm sâu thẩm. Danh hiệu Phật bây giờ không chỉ đi với người qua những giờ công phu lần chuổi hay thiền tọa niệm Phật, mà đi với người qua những thao tác hằng ngày. Dù làm việc gì người tỉnh thức vẫn không quên, nhưng nếu quên lại trở về nhẹ nhàng gần như không cần cố gắng.
Phật hiệu bây giờ trở thành chất liệu sống; tuy nhiên thâm tâm của người hãy còn tự nhủ, cho mình vẫn còn vọng động vào những giấc ngủ say, vì không có danh hiệu Phật ở đó. Người lo ngại rằng, lúc ngủ mê, lỡ phải bỏ xác không hay, thì phẩm vị làm sao làm chủ! Nói như vậy, cho thấy người tỉnh thức đã biết mình chắc chắn vãng sanh nhưng phải vãng sanh ở phẩm cao kìa! Nghĩa là tự tại ra đi trong câu niệm Phật.
Người tỉnh thức bất chợt lo ngại về sự chết. Nhưng lại mĩm cười, vì chính sự kiện này mà con người mới thức tỉnh lo tu.
Hành giả niệm Phật, sau khi hiểu rõ được ba tư lương quan trọng làm hành trang, hiểu rõ Bồ Ðề Tâm là lực đưa người niệm Phật vãng sinh tịnh độ. Hiểu rõ như thế, nhưng hành giả thường hay quên rằng, việc thực hiện sự tin hiểu đó rất hạn hẹp với thời gian của một đời người. Vì đời người luôn nằm trong thúc ép, giày vò của đời sống nên thời gian gần như chiếm trọn công phu của hành giả - nếu nói, dùng ý thức để quán sát vô thường mà ghi nhận, rồi tinh tấn niệm Phật hơn, hay để khắc sâu vào tâm, chờ ngày đới nghiệp vãng sanh có lẽ cũng không phải dễ. Vì ngoài ngoại cảnh phải đối đầu, mà nội cảnh tức thân ngũ uẩn, lại khiến ta trầm trệ khi đau bệnh kéo đến.
Do đó thật chẳng có nhiều cơ hội công phu, và rõ ràng để nói, đời người quá ngắn, quá mong manh!
Nói đến đời người quá ngắn, là nói đến ngày chết sẽ đến với ta một cách chắc chắn, chắc chắn y như là ăn phải no, không ăn thì đói.
Như vậy ta chỉ có thể công phu một cách tinh tấn, một cách sâu nhiệm, một cách vững vàng và một cách quyết tử, là khi nghĩ rằng, ta đây sắp chết đến nơi rồi!
Ta chết đến nơi rồi! Ðây nói quá đáng không?
Ai là Phật tử hẳn phải đồng ý, không gì quá đáng cả! Ðó là căn cứ vào giáo lý giải thoát; các pháp hữu vi đều vô thường, có sanh tất có diệt.
Thành thật mà nói, có khi cái chết xãy đến còn nhanh hơn con người ý thức. Ðây là sự thật.
Sự việc xãy ra, khi ta vừa tin một người thân, ngã bệnh, hay người láng giềng lâm bệnh nan y hoặc tai nạn chết đi! Họ chết đột ngột, hay cái tin chết đột ngột đó không phải nhanh hơn ta ý thức sao!
Chính ngay trong gia đình ta cũng vậy; thử để tâm suy nghĩ xem, ta có ngờ thành viên trong gia đình của mình bây giờ, còn lại mấy người ! Ðó cũng nhanh hơn ta ý thức vậy ! Thậm chí nhìn lại ngay thân thể ta đây, cũng đã và đang đi dần đến chết, vì thân thể đây đã khác hơn mười năm qua !
Thật may cho ta, còn ý thức kịp, nếu không ta chỉ còn là thân trung ấm sống lưng chừng giữa dòng nghiệp thức kéo lôi; giữa hai bên dương gian, âm cảnh. Chừng ấy ngu ngơ đứng nhìn ngũ uẩn hư hoại, và câu chuyện nghiệp báo luân hồi sẽ đưa ta vào vai tuồng khác; lúc ấy vì không thể tự chủ nên chẳng biết vai tuồng tiếp của ta sẽ là vai người hay vai thú!
Có nhiều quan niệm ý thức về sự chết, khiến người ta vượt qua sự thật mà cố sống, như là:
-Chẳng gì sợ cả vì rồi ai cũng chết.
-Chết thì cũng sợ nhưng không cần phải lo vì nó chưa đến, và ta vẫn còn khoẻ đây!
-Từ xưa đến nay có ai sống hoài đâu, ta già rồi phải chết có gì thắc mắc!
-Con người chết đi còn 'linh hồn', nên sẽ trở lại con người mà thôi, chớ đâu chết luôn !
-Thân thể là vật chất, tinh thần nương vào vật chất, khi phần vật chất hư hoại chết đi, tinh thần cũng mất, vậy đâu còn cái gì nữa mà lo; chỉ một lần sống này thôi rồi biến tiêu tất cả.
-Biết chừng đâu, đời này chết đi, đời sau sung sướng hơn!
Ðại lược như vậy.
Nguyên lý căn bản, con người phải có lý tưởng quan niệm sống, điều đó tạo thành sức mạnh duy trì nuôi dưỡng cơ thể và tinh thần. Và những suy nghĩ trên đều hợp lý với ai đó đã nghĩ vậy. Tuy nhiên, chân lý vẫn là chân lý; chân lý về Khổ về nguyên nhân Khổ về cảnh giới an lạc sau khi khổ được diệt tiêu đi, và phương cách thực hành chân lý, vẫn là muôn thuở xuất hiện ở thế gian này, để ai đó nếu có thể nhận ra rồi thực hành sẽ được kết quả không còn khổ nữa.
Sở dĩ chân lý xuất hiện như vậy, vì đối tượng của chân lý là khổ, nếu không có khổ không có chân lý này (Tứ Diệu Ðế). Như thế cuộc đời phải là khổ nên có chân lý, và ai đó lại có thể cho đời không khổ thì việc đã được giải quyết, mà không cần đến sợ chết!
Người học Phật nói chung và hành giả tu pháp niệm Phật nói riêng, tất có lập trường rõ rệt. Sợ chết của người học Phật không giống thế gian, và không sợ chết cũng lại khác quan niệm bên ngoài.
-Sợ chết xãy ra với người học Phật, là khi công phu tu hành chưa trọn, việc tu niệm chưa thành, đường tu vẫn chưa thông suốt. Lở khi chết đi, lại phải lần nữa làm người tìm học lại từ đầu; nhưng trên đường học Phật lắm việc gian nan thử thách, đâu gì bảo đảm đời sau tốt hơn đời này. Ðến như Ngộ Ðạt Quốc sư chín đời làm bậc cao Tăng, ấy thế không khỏi đời thứ mười sinh tâm tham đắm ngã mạn lợi danh, nên bị quả báo hiện ra mà điếng hồn khiếp vía, nếu không nhờ Bồ Tát giải bày cứu đỡ, mạng mất chẳng còn, lại ô danh, nhục tiếng. Người học Phật sợ chết là lý do vậy.
Ngược lại, sẽ không sợ chết khi rõ biết đường tu của mình, và lúc nào cũng sống nơi chánh pháp. Lại rõ biết hơn nữa, chết chỉ là tiến trình sanh tử của một tác nhân trong vòng duyên khởi luân hồi của kiếp sống. Người học Phật có thể chuyển hóa đời sống vượt khỏi quả báo luân hồi, thì việc bỏ thân này chỉ để vượt lên giải thoát.
Người niệm Phật luôn nghĩ về sự chết là việc giúp cho mình gia công tu niệm tinh tấn hơn. Hơn nữa ý thức một đời không thể giải quyết thành tựu đạo nghiệp, trong khi pháp tu niệm Phật lại chuyển được tâm thức hành giả sanh về thế giới hoàn toàn thuận duyên để tiếp tục lộ trình thành Phật thì phải lo nắm bắt.
Xưa nay không biết bao người chết đi bỏ lại mọi sự nghiệp còn dang dỡ, điều này há không phải là bài học ngàn vàng cảnh tỉnh cho ta!
Thử nghĩ, đã được bao nhiêu việc có thể gọi là giải quyết xong ở thế gian này? Chẳng có là bao! Và con người vẫn còn khiếm khuyết mãi!
Không thể nào xong, là vì lòng người không dừng lại, hay nói đúng hơn vì nghiệp tánh chúng sanh ở cõi dục này hầu như toàn chứa ba độc Tham, Sân, Si. Nếu nói giải quyết được, thế sao con người lại phải mưu cầu mãi đến nỗi tạo ra chiến tranh giết chóc!
Do đó còn sống cũng chưa giải quyết xong, mà chết rồi việc vẫn còn nguyên đó; thế là ra đi trong đau tiếc, rồi tái sanh lại trong tìm kiếm tham cầu. Tham những gì đã chưa xong trong quá khứ, mà không biết rằng mãi mãi sẽ chẳng xong.
Ðến như người tu cũng vậy, nếu còn chấp ngã, chấp pháp, thì mãi chẳng giải quyết xong! Ðời này tu pháp này, đời sau tu pháp khác và sẽ mãi mãi là vị tu sĩ ham say Phật pháp nhưng kỳ thật chẳng hiểu gì Phật pháp! Kết quả cũng chết đi sống lại trong luân hồi.
Người học Phật đúng pháp, thật sợ cái chết như trên, và người niệm Phật lại càng sợ lâm vào tình cảnh này. Niệm Phật mà chẳng vãng sanh giống như cái chết trong luân hồi của thế gian mà thôi.
Ý thức được sự mong manh của đời người, sự khó khăn vất vả trong đời sống qua những biến động chập chùng phức tạp của tâm thức, người niệm Phật phải kinh hãi lo sợ cái chết ập đến bất cứ lúc nào, trong lúc tâm thức quên đi danh hiệu Phật
Chương IX
Những công đức, phước đức có công năng trợ giúp hành giả niệm Phật vãng sanh.
Cuộc đời đã hiển bày chân tướng, người tỉnh thức sẵn sàng trong niềm an lạc chờ đợi ngày vãng sanh.
Các pháp thế gian đều giả tạm, kể cả thân này chẳng phải là vật quý báu nhất mà con người đã vọng kiến nhận lầm. Thân này được xem quý nhất khi biết ý thức, hiện thể chuyển vào dòng pháp giải thoát.
Tuy nhiên, thế nào đi nữa, chẳng thể phủ nhận mang ơn thân này, tức mang được dòng thức chân như, sanh diệt thật nhiệm mầu.
Người tỉnh thức vui mừng tận dụng hết sức những gì có thể làm được trước khi xả bỏ huyễn thân. Và việc làm của người tỉnh thức hiện nay, phải là công đức, phước đức có công năng hồi hướng trở thành phước báo vãng sanh.
Việc làm trước nhất phải từ thân, rồi đến ngoài thân.
-Từ thân phải buông bỏ chấp trước.
-Ngoài thân phải hành hạnh bố thí xả ly.
Phải chăng vì đã đã ôm chấp, giữ gìn ngũ uẩn thân một cách si mê thái quá, nên chẳng có công đức, phước đức mà vượt khỏi luân hồi!
Công đức là công phu tu niệm, là việc tác duyên tu thiện ngay tự bản thân, mà không ai có thể giúp mình được. Nói dễ hiểu, là công sức của hành giả phát được đức tánh thiện, sinh ra các pháp lành đó là công đức.
Hành giả niệm Phật chính ngay tự thân đã là công đức, do điều khiển được ba thân khẩu ý thanh tịnh, và nếu hành giả có thể tự điều khiển mình công phu niệm Phật hằng thẩm như thế suốt đời, thế đã quá đủ mà không cần phải làm gì nữa.
Nhưng không! Hành giả khó thể làm được; nguyên nhân, hành giả còn phải liên hệ với sự sống, còn phải chấp tác, còn phải đi lại, còn phải đương đầu với hoàn cảnh phức tạp chung quanh trước khi xả báo thân - nên phan duyên bên ngoài tác động vào tâm khó mà giữ câu niệm Phật mãi được.
Khó nhất nữa, hành giả lại đang sống trong thời xa Phật như hiện nay (hơn 2600 năm), chính vậy nên phải cần tạo thêm công đức, nghĩa là công phu thêm nữa ngoài giờ công phu niệm Phật.
Công phu nhiều ít, sâu cạn tùy do sức lực căn cơ hành giả, chẳng hạn lạy Phật, tụng kinh mỗi ngày. Nhất định là phải mỗi ngày, dù hành giả chỉ rảnh lạy có một lạy! Nhưng nếu hành giả vì cơ thể không thể lễ lạy, hay thậm chí đọc không được chữ, thì thay thế công quả chấp tác làm việc.
Hoặc hành giả cũng không tạo được duyên chấp tác tại chùa, kể cả ở nhà riêng; bây giờ hãy quán chiếu vào mỗi công tác đi đứng ăn uống ngủ nghỉ của mình, tất cả phải là điều có lợi cho chúng sanh, tức phải sinh ra thiện pháp, nghĩa là nhất tâm vào việc làm không để tâm vọng tưởng.
Phải như vậy, những tác động đó mới giữ hợp hòa với tánh Phật, là danh hiệu Phật mà hành giả đã và đang thực hành, như thế đó là công đức.
Thật ra đối với người không thể lễ lạy, tụng kinh, chấp tác mà chỉ ý thức với sinh hoạt thường tình thôi, như thế mặc nhiên đã công phu niệm Phật đến nhất tâm rồi.
Suy ra, khi danh hiệu Phật ngưng nghỉ trong tâm hành giả, vì phải ăn cơm, uống nước, vệ sinh v.v...nhưng trong những động tác đó không có vọng tưởng, đây cũng chẳng khác gì đang niệm Phật, bởi vì có niệm thanh tịnh, mà niệm Phật là niệm thanh tịnh vậy. Tuy nhiên lưu ý rằng, đây nhắm vào hành giả đang tu pháp niệm Phật, chứ không có nghĩa hễ ai ý thức được việc mình làm, thì đồng với công phu niệm Phật, điều này hoàn toàn khác, vì việc làm của hành giả niệm Phật là hồi hướng đến cảnh giới Phật là rốt ráo của Bồ Ðề Tâm, chứ không phải làm mà chẳng có tâm Bồ Ðề chẳng có ý thức!
Nhấn mạnh hơn, chúng ta đang luận về pháp tu niệm Phật, không phải các pháp tu khác, và càng không phải so sánh đến các bậc thượng căn Bồ tát đốn ngộ, đốn tu.
Người niệm Phật không cần lo lắng rằng, mình bị kẹt vào pháp tu, hay dính mắc vào cảnh giới Cực Lạc. Dù hành giả vẫn hiểu tất cả phải xả bỏ không chấp trước, bởi các pháp đều do duyên sinh, nên vô ngã.
Việc này người học Phật có lẽ ai cũng hiểu; còn chấp là còn kẹt, còn chấp là còn khổ, và những cái chấp đó bao gồm luôn cả pháp tu niệm Phật!
Hành giả niệm Phật không cần luận thêm nhiều nữa, vì đã hiểu và tin, ở phần nhận thức về cảnh giới thật hay giả của Ta Bà, Cực Lạc và nguyên nhân của sự thị hiện giữa Phật Thích Ca, và A Di Ðà.
Tuy nhiên nếu người học Phật sợ chấp rồi phá chấp, mà không biết rõ căn cơ của mình, vị trí của mình, nghiệp tánh của mình, và sự chứng đắc của mình thì thật nguy hiểm, vì sao? Vì chỉ là nói suông mà tạo ra nghiệp luân hồi. Rồi không chừng trở thành mâu thuẩn bởi chính mình, khi phải sống chấp vào hằng hà sa số nhân duyên trong vũ trụ, hay nói cho gần là trái đất này, lại nói gần hơn là xã hội đất nước này, nói gần hơn nữa là gia đình của mình, công việc của mình...và ngay trên con người của mình kẹt chấp đủ thứ để sinh tồn. Thế là biến thái, thành người không được bình thường, đơn giản cũng vì không giải thích nổi cái chấp kia thật hay không thật!
Chưa đạt đến cái nhìn của Ðại Bồ Tát, của Phật, ta chỉ sống trong mộng mị mà thôi, và xét cho cùng nên chấp có, hơn là chấp không! Chấp có ta còn làm công đức, còn đóng kịch tu trong cuộc đời huyễn v.v..., nhưng chấp không thì vô phương cứu chữa. Ðiển hình, loài người từ man khai đến giờ, nhờ chấp có mà đến nay mới văn minh, nhờ chấp có đến nay mới khám phá được không gian là mênh mông rộng lớn, và nhờ chấp có mà ta mới bắt đầu suy nghĩ lại việc chấp của ta có đúng hay sai.
Chúng ta hãy thử nhận định lời Ðại Sư Tế Tỉnh trả lời cho một người, gặn hỏi về các pháp là huyễn, vậy việc cầu sanh Cực sẽ thế nào! Ðây cũng tựa như chấp không.
Hỏi: Tất cả các pháp đều như mộng huyễn. Cõi Ta Bà cố nhiên vẫn huyễn, song cảnh Cực Lạc cũng lại là mộng. Như thế niệm Phật cầu về Cực Lạc nào có ích chi ?
Ðại sư đáp: Không phải thế đâu! Các bậc Bồ Tát từ đệ thất địa trở về trước, đều tu hành trong huyễn mộng. Ðến như bậc Ðẳng Giác vẫn còn ở trong mộng lớn vô minh. Duy có Phật mới là bậc Ðại Giác, hoàn toàn thức tỉnh. Ðang lúc còn trong mộng, thì cảnh vui cũng khổ vẫn uyển nhiên! Như thế cam chịu cảnh khổ ở Ta Bà, sao bằng về hưởng cảnh mộng vui nơi Cực Lạc ? Phương chi mộng ở Ta Bà là từ mộng vào mộng, lần lượt đi sâu vào chỗ chìm mê. Mộng ở Cực Lạc là từ mộng ra khỏi mơ, lần lượt đến ngôi đại giác. Cho nên mộng cảnh tuy vẫn đồng mà kết quả ở đôi nơi khác xa, vì thế phải niệm Phật cầu về Cực Lạc! [1]
Thế thì việc niệm Phật, nếu có sợ chấp, là sợ chấp vào tánh nghiệp vô minh của mình, mà tự cao ngã mạn cho người khác tu sai, cho tất cả đạo giáo khác trên thế giới là hạ cấp không bằng mình .v.v...Chấp như vậy mới đáng sợ, và sẽ khó vãng sanh, vì phá đi Bồ Ðề tâm, là tâm độ chúng sinh. Chúng ta há không nghe kinh Phật dạy, Bồ Tát lớn thường thị hiện vào mọi nơi và nơi ấy bất kể con người nào hay tôn giáo chi.
Nói về phước đức ngoài thân.
Phước đức ngoài thân, thật ra cũng là trong thân, do trong tâm có suy nghĩ, bên ngoài mới hiển lộ, dù có hiện qua trung gian cũng vậy. Hiểu cơ bản, phước đức không phải do công sức tự thân, mà chỉ do những vật phẩm, những ngoại duyên bên ngoài, thành ra đối với công đức không so sánh được; do đó một người triệu phú phát tâm cúng dường một triệu đồng, so với phước báo của người đem công sức của mình tạo đức cúng dường, người triệu phú kia khó thể hơn được.
Tuy vậy cũng tùy vào sự phát tâm; nếu người triệu phú, phát tâm tha thiết quên mình là triệu phú, quên luôn số tiền, chỉ biết chánh tâm cung kính hồi hướng vãng sanh hay hồi hướng thành đạo, phước đức này quả không kém gì công đức.
Ðiều muốn nói đây, là phước đức Bố Thí của hành giả niệm Phật.
Phải nhận rõ vấn đề bố thí và phải bố thí như thế nào để được lợi ích, để thành công đức hồi hướng vãng sanh.
Bố thí mà không cầu vào pháp hữu vi, không chấp kẹt vào tự ngã và pháp thí, duy chỉ mong đạt được đạo giải thoát và giúp người đạt giải thoát, đạt đến trình độ vậy gọi là cùng cực của Bố Thí hay có thể gọi là Bố thí Ba La Mật.
Nhưng ta hiểu thế nào, khi một người bố thí giúp người, giữ tâm bình thản không cầu gì, mà họ là người không hiểu Phật pháp, vậy có phải đã hành bố thí Ba La Mật! Tất nhiên là không, và tuyệt nhiên sẽ không phải. Người đó vẫn còn mãi dạo chơi trong luân hồi cho dù có bố thí như vậy suốt đời và nhiều đời chăng nữa, nếu không nhận hiểu Phật pháp.
Ðơn giản để hiểu vì sao, vì người này làm với tâm không tu Phật, và tâm mà không tu Phật làm sao hiểu được Phật pháp để biết: các pháp là vô ngã, tâm người vô thường. Chính không biết như thế, người này chắc chắn thế nào cũng có ngày quay về chấp ngã, chấp pháp, nghĩa là không sớm thì chày người này cũng sẽ từ từ chấp vào việc làm bố thí của mình, dù thời gian có lâu bao nhiêu đi nữa. Và cho dù được phước báo sanh lên cõi trời, cõi người hàng tỉ lần, nhưng rồi cũng phải cạn phước, để kết quả sanh ra kẹt chấp đủ thứ.
Bố thí như thế cũng đáng ca ngợi, duy chỉ tiếc chưa hiểu Phật pháp có thể chuyển nhẹ ý thức qua việc làm của mình thì ngày thành Phật chẳng xa.
Bố Thí Ba La Mật nhìn qua, tương tự lối bố thí bình thản trên, chẳng thấy cầu chi, nhưng thật ra có nguyên nhân, phát xuất từ tâm đại bi, trí tuệ của người mang tín lực Bồ Ðề tâm. Chỉ có như thế mới làm được những việc bố thí phi thường mà xem rất nhẹ nhàng thanh thoát.
Với thế gian bố thí chỉ là phước báo nhỏ nhoi, hơn nữa bố thí của thế gian vẫn còn nhiều giới hạn, bởi không thể bố thí được thân mình. Nếu lại bố thí được thân, xem như quá giỏi, nhưng sự giỏi đó trở thành tiếc cho, vì không hồi hướng công đức thành đạo độ cho muôn người, mà lại kẹt chấp chỉ vì bố thí một người hay vì lưu danh, vang tiếng (mà thí thân).
Cho nên Bố Thí Ba La Mật hoàn toàn khác hẳn với người thế gian, và người hành được thường là các bậc Bồ Tát lớn [2]
Có ba cách bố thí căn bản, giúp người Phật tử tiến đến sự nghiệp tu đạo chóng thành. Ðó là bố thí tài, bố thí pháp và bố thí vô úy (sự không sợ hãi).
Bố thí Tài.
Người có tài sản với việc bố thí tài thật thuận duyên, nhưng phải là người biết phát tâm nghĩ tưởng người khác, nếu không vẫn là việc khó làm dù gia sản có đến bạc triệu. Nhưng, giá mà người triệu phú này biết được, sở dĩ mình giàu có đây, là do đời trước biết bố thí, biết tu thiện họ chẳng dám làm ngơ. Tiếc rằng tất cả đều quên hết!
Như đã hiểu các pháp hiện hữu trong vũ trụ, đều do vô số nhân duyên, duyên khởi tạo thành, thì mọi việc: nghèo, đói, giàu sang, xấu hèn, cao đẹp v.v...cũng phải có nhân duyên. Nhân duyên đến từ: ích kỷ, hà tiện hay rộng lượng, từ tâm của chúng ta từ những kiếp trước.
Không thể khẳng định rằng ngày nay kiến thức được như vậy, giàu sang được như đây là do chính ta tạo ra, hay có chăng đáng nói là do sự giúp đở hỗ trợ của cha mẹ, Thầy cô ở trường ngoài ra đều do ta tạo ra.
Nhận định như vậy chỉ đúng một phần, một phần rất nhỏ. Hãy quan sát, suy nghĩ kỹ xem, bao nhiêu người cũng có cha mẹ như ta, cũng học hành như ta, thậm chí cũng tốt nghiệp ra trường cùng lúc như ta ,và có khi đã học vượt hơn ta nữa, thế mà họ vẫn khổ, không phải cái khổ tinh thần đâu, vì đó là đương nhiên, họ đang khổ về vật chất đấy!.
Chứng minh điều này, xảy ra vào thời chiến tranh; bấy giờ hoàn cảnh xoay chuyển phức tạp. Số người chết vì đói trong đó không thiếu gì người giàu và học vị cao. Sự việc lại còn xảy ra ngay thời bình, cũng không hiếm gì người giàu có hôm qua mà ngày nay phá sản trở thành tay trắng; còn người kiến thức cao vẫn long đong với công việc chẳng thể xoay xở hợp đúng với danh vị, kiến thức của mình.
Ðó là lý do gì? Chắc chắn người học Phật phải biết! Và sự thành tựu của ta ngày nay bất cứ phương diện gì, đều là do nhờ ơn của vô số người chung quanh. Nếu tính kể hết ai là người chịu ơn, có lẽ ta sẽ tiêu mất sự tự cao của mình và thấy mình còn nhỏ hơn phân nửa hạt cát trong sa mạc.
Do vậy ta không những mang ơn chúng sinh hữu tình, mà còn cả vật vô tình nữa. Vật vô tình mà nói, chỉ nội ngôi nhà ta ở thôi cũng đã có hàng ngàn nhân duyên tạo thành, mà nhân duyên đó há là tự nhiên sao! Thành ra ta phải mang ơn vô số những vật vô tình vậy. Còn hữu tình, đâu phải tuyệt đối là loài người; nếu không có những côn trùng sống ẩm thấp dưới lòng đất kia chưa chắc gì ta lại tồn tại cho lâu, vì phần lớn ta sống nhờ vào thực vật, mà các loài chúng sanh đó phần nào là duyên làm nên đất đai mầu mỡ. Nếu nói đến những quốc gia sống nhờ vào nguồn lợi tức chăn nuôi động vật, thì nợ của hữu tình thôi, còn cao hơn núi Tu Di.
Cho nên ta phải khiêm hạ, đối xử với tất cả bằng sự đáp lại, đó là thực hành việc bố thí. Và sự đáp lại cụ thể là tài vật hiện thời của ta.
Ðối tượng của bố thí là những người kém may mắn, là những nơi chốn đất nước hay bị thiên tai hoành hành.
Hành đúng pháp bố thí rốt ráo, là phải thực hiện trong sự hoan hỷ, thậm chí còn mong mỏi để bố thí nữa, có vậy sanh ra nơi đâu lại chẳng gặp duyên lành, và luôn luôn làm người đầy đủ.
Bố Thí Pháp
Bố thí tiền tài vật chất, ta còn có thể khiếm khuyết, chứ Pháp có lẽ ai cũng dư. Tuy nói vậy cũng thành không dễ, nếu gặp phải nghịch duyên, vì không thuận duyên sẽ không thực hiện được.
Nhưng pháp là gì.?
Ðây chỉ nói thuần theo nghĩa bố thí pháp - đó là ngôn ngữ hoặc diễn ra bằng lời hay viết thành sách giúp người chuyển hóa nhận ra chân lý chánh pháp.
Vậy bố thí pháp là dùng mọi phương tiện khéo léo dẫn giải cho người hiểu thế nào để tu hành lần về giác ngộ giải thoát.
Nhưng ai có thể làm việc này! Tất nhiên ai cũng có thể, nhưng chỉ e người ta có làm được hay không! Chính lẽ đó mới gọi là bố thí!
Người ta không làm được, hoặc vì ngộ nhận, tưởng là những gì cao siêu, hoặc cảm thấy mình còn chưa xong, có đâu giảng cho người khác! Nhưng nếu vì nghĩ vậy, vẫn còn đỡ hơn người đủ khả năng mà không nói ra giúp người thì đây ảnh hưởng rất lớn đến việc tu niệm của hành giả đó.
Việc này kinh nói sẽ bị quả báo do giấu nhẹm chánh pháp; cũng không khác quả báo để hình tượng Phật khuất ánh sáng, chưa từng lễ lạy.
Trong pháp Phật có năm thừa: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa, và Bồ Tát thừa.
Tùy trình độ nào của mình, hãy nói lên hiểu biết đó. Ta không thể mới hiểu về Nhân, Thiên mà giảng về Thanh Văn, Duyên Giác và ngược lại vì quá hiểu đại thừa Bồ Tát, mà không muốn nói cho người biết những căn bản ở cõi người!
Xét như vậy, hai thừa Nhân, Thiên, Phật tử nào cũng có thể bố thí. Vì sanh cõi trời hay trở lại cõi người, không ra ngoài những nghiệp nhân căn bản như: hiếu thảo cha mẹ, thương yêu gia đình, làm công dân tốt; với thầy dạy của thế gian và đạo giáo cư xử tử tế lễ nghi v.v...
Nền tảng của giải thoát đến từ năm giới: không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Ðó là bước đầu học giới lần đưa người tiến tới những bước cao hơn.
Bằng hoàn cảnh nào đó, ta uyển chuyển đón nhận ý kiến của người để giúp họ nhận ra con đường căn bản giải thoát. Có người vì không giữ được một giới trong năm giới, như uống rượu mà từ chối quy y Tam Bảo; ta phải cảm thông, và vẫn khuyên quy y. Việc không giữ giới rượu được, thì thôi còn bốn giới chẳng có sao, cả đến mất thêm một giới 'không sát sanh' nữa, ta cũng khuyên nên quy y, vì ta biết lợi ích của quy y Tam Bảo.
Trường hợp, không thể giữ được giới nào lại hỏi có quy y được không, ta cũng phương tiện mà giúp họ. Ðiều này chắc chắn Phật cũng từ bi mà gia bị. Bởi vì quy y chỉ là nương về một con đường sáng, mà kẻ kia đang còn trong tối vậy là điều cần thiết. Dù rằng kẻ kia cứ mãi mê không chịu chạy ra bóng tối (không thọ giới), nhưng hắn vẫn còn tin là hắn đang ở trong tối (chịu quy y), và bên ngoài kia là ánh sáng, vậy quá tốt rồi. Chỉ sợ là không bao giờ chịu quy y Tam Bảo, có nghĩa không bao giờ tin có con đường giác ngộ giải thoát.
Người bố thí pháp lại chẳng ra ngoài chánh pháp khi không đề cập đến quy y hay thọ giới, đó là trường hợp đối tượng quá xa lạ với Phật pháp. Bấy giờ người bố thí hãy nói nhân quả, làm lành tránh ác, và những gì gần gũi với đối tượng để dần dần giúp họ hiểu được nền tảng quy y.
Từ nền tảng quy y Tam Bảo là căn bản, tuần tự đến những con đường cao hơn, (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát) mà hành giả lượng sức được mình cũng như căn cơ đối tượng, để bố thí một cách trọn vẹn.
Bố thí vô úy (không sợ hãi)
Bố thí không sợ hãi, tựa như bố thí Pháp; có điều bố thí không sợ hãi nghe gần gũi và dễ nhận ra hơn; vì đối tượng đang trong tình trạng lo lắng sợ hãi, được gặp người giúp đỡ cứu nguy.
Sự kiện lo sợ trong đời đại lược như: sợ nghèo đói, sợ cô đơn, sợ bóng tối, sợ thiên tai, sợ nhân tai v.v...Nói chung, những lo sợ xung đột từ thân tâm tiếp xúc ngoại cảnh qua hai vấn đề vật chất và tinh thần.
Nhận xét thấy rằng, bố thí vô úy là ý nghĩa sâu được khai triển ra từ Bố thí tài và pháp. Vì như đã nói, chỉ có hai vấn đề sợ hãi, vật chất và tinh thần; nếu đầy đủ vật chất, tinh thần thì không còn lo sợ nữa. Tất nhiên tinh thần đây phải hiểu đúng theo chánh pháp; chỉ có hiểu đúng chánh pháp mới thấy tất cả, ngược lại khó thể tránh được sợ hãi khi còn ôm giữ cái tôi (ngã) và các thứ chung quanh (pháp).
Thế thì theo nghĩa đen của bố thí không sợ hãi, ai cũng có thể làm được trong giới hạn khả năng của mình; chẳng hạn giúp người sợ nghèo đói bằng cách tìm giúp việc làm cho họ. Giúp người diệt tánh sợ hãi bóng tối, và những chuyện lo nghĩ bông lung, bằng cách giải thích hiện tượng trời đất tự nhiên trong vũ trụ; chẳng hạn hoạn họa thiên tai thuộc về sự vận hành của vật lý thiên nhiên, và cuối cùng cho biết, nhân loại ngày nay đã quá văn minh, nên chắc chắn tìm được phần nào phương pháp chống đỡ, nếu so với người xưa thật mới đáng sợ!
Tuy nhiên, sự thật mà nói, người ta không khỏi lo sợ khi chưa giải quyết được những bí ẩn cuộc đời. Do vậy khi được nhân duyên giúp đỡ đối tượng hiểu về Phật pháp, đây mới đầy đủ ý nghĩa bố thí vô uý. Bởi vì những sợ hãi như trên vừa kể sẽ không chấm dứt, và nhân loại văn minh tới đâu, vẫn không tránh được thiên tai hoạn họa. Người ban cho sự vô uý, có giải thích hay giúp đỡ thế nào cũng chỉ an ủi nhất thời, trong khi đối tượng lại mang một thứ bệnh nan y của sợ hãi!
Vì do nghiệp tánh tham sân si của con người đang trong cõi ái nhiễm, làm sao không bồn chồn lo sợ! Chỉ có giảm trừ nghiệp độc tham, sân, si mới trừ được không sợ hãi. Và như cõi Ta Bà này tìm đâu thấy phương thuốc nào ngoài Phật pháp!
Phật pháp không những giải thích, trả lời xác thực cụ thể nỗi lo sợ của con người, lại còn giúp họ dứt sự lo sợ, an sống yên vui đến cuối cuộc đời.
Với hiện tượng thiên nhiên, thiên tai trời đất, Phật pháp giải thích y như khoa học, nghĩa là do áp suất của bốn chất đất, nước, gió, lửa, không quân bình nên tạo ra sự đắp đổi bên này sang bên kia, nhân đó trở nên xáo động thành ra, động đất, núi lửa, sóng thần.v.v...Nhưng Phật pháp còn nói xa hơn, là sự kiện như vậy chỉ là hiện tượng của Thành, Trụ, Hoại, Không (Sinh, Trụ, Dị, Diệt) của hết thảy các pháp, không khác gì con người mới sanh ra chập chững, rồi già đi chết mất (thể xác). Trái đất hiện ta đang ở cũng vậy, cũng có một số tuổi giới hạn của nó, chẳng hạn 200 tỉ năm! Và bây giờ nó đã mấy tỉ tuổi rồi, thế chắc chắn nó sẽ chết trong một ngày gần đây; và triệu chứng báo chết, là những cơn bệnh như chúng ta gọi là thiên tai địa đất đó.
Về tinh thần sợ hãi mông lung, thì thuốc chửa trị của Phật phải là thần diệu; không những cứu người bệnh đời này, lại cứu đến nhiều đời sau nữa; và cứu cho đến khi chẳng còn sợ hãi! Tưởng không cần giải thích nhiều thêm toa thuốc của Phật, vì đến đây chắc con bệnh đã hiểu.
Hiểu rằng ba độc Tham, Sân, Si là nguyên nhân tác nghiệp khiến chúng sanh phải luân hồi, để sinh ra đủ thứ chuyện! Nhưng do đâu có ba độc tham, sân, si ? Vì chấp ngã và pháp; nhưng sao chấp ngã, pháp ? Vì vô minh! Hay vì đơn giản rằng, con bệnh chưa gặp Phật pháp thế thôi! Gặp Phật pháp, bấy giờ mới thấy Tứ Diệu Ðế là chân lý cuộc đời, và Tam Pháp Ấn [3] là phương pháp hành xử Tứ Diệu Ðế, và giải quyết Ngã, Pháp .
Tóm lại thấy rằng, Bố thí không sợ hãi, có thành tựu trọn vẹn hay không đều do hành giả khôn khéo đưa người vào chánh pháp .
Ðến đây hành giả niệm Phật đã thấy, việc bố thí là công đức không thể thiếu, và càng phải thực hành hơn. Người Phật tử mới quy y hiểu đạo, ít có nhân duyên thường xuyên thực hành công phu tu niệm, chỉ có quy y nương về chánh đạo khỏi sợ lạc đường, mà còn được khuyên tu bố thí, huống gì một hành giả đang tín tâm tu niệm!
Những phước báo công đức từ nơi niệm Phật dù đủ đưa hành giả về Cực Lạc, nhưng phước báo bố thí Tài, Pháp, Vô úy, lại bồi thêm phẩm vị vãng sanh, và nếu Pháp thí kia được thành tựu khuyên người niệm Phật, thì hành giả đã chắc chắn vãng sanh ở phẩm vị thật cao.
[1] Mấy Ðiệu Sen Thanh tập I của HT Thích Thiền Tâm. Ðại sư Tế Tỉnh được tôn là Tổ thứ mười hai tông Tịnh Ðộ.
[2] Ở Việt Nam có Bồ Tát Thích Quảng Ðức, thiêu thân bố thí cúng dường, cầu cho pháp nạn được tiêu (.20-4-1963)
[3] * Chư hành vô thường (1), chư pháp vô ngã (2), Niết Bàn tịch tĩnh (3)
(1) Mọi diễn tiến các pháp hữu vi, từ ngoại giới cho đến tâm cảnh con người đều biến đổi xê dịch.
(2) Tất cả các sự vật đều không có thật thể, chúng hình thành hiện hữu là do nhân duyên sinh.
(3) Lìa khỏi sự đối đải, thấy rõ các pháp do duyên sinh thì an vui tịch tĩnh.
Chương X
Vượt qua sinh tử
Bao thăng trầm biến động cuộc đời đã trở thành quá khứ, người tỉnh thức giờ đây chỉ biết an trú vào diệu pháp chân như qua hồng danh Phật; còn lại tất cả chỉ là những giả pháp duyên sinh quay cuồng trong pháp giới.
Ðã quá tuổi xế chiều, đã nhìn cuộc đời thật rõ và đã niệm Phật chẳng rời, từ khi nhân duyên biết qua dòng pháp giải thoát - trong đó chính sự là bản kinh thật nhỏ A Di Ðà nhưng công năng siêu việt.
Nhiều lần, người tỉnh thức phát lên cười hoan hỷ ! Sao lại may mắn vậy! Sao lại giữa thế gian chìm nổi bấp bênh này có thể tìm được một con thuyền kim cương! Ðúng là thuyền kim cương chẳng sai; chỉ có kim cương mới chịu đựng được sóng to gió lớn; chỉ có kim cương mới khiến hành giả đặt trọn niềm tin rắn chắc.
Dù dòng đời là giả, dù biển lớn mênh mông chỉ là giấc mơ, dù vô số con thuyền cứu vớt kẻ đắm chìm chỉ là phương tiện, nhưng giấc mộng cuộc đời có phải là điều làm ta thổn thức bất an!
Ai sinh, ai tử, ai lặn hụp biển đời và ai đó đưa tay cứu vớt!
Có phải tự ta là chính nhân chìm đắm, và tự ta có thể cứu vớt ta chăng!
Vâng! Tất cả do ta, tất cả từ nơi ta quyết định. Nhưng biển trầm thức qua không gian vô tận, thời gian vô cùng khó mà biết được tự bao giờ ta đã trôi lăn, và tự bao giờ ta lại có duyên được ngày hôm nay. Ðó là sự liên hệ khởi lên từ dòng pháp duyên khởi trùng trùng mà kinh Hoa Nghiêm đã nói.
Do thế không phải hôm nay ta mới gặp Phật pháp, không phải hôm nay ta mới biết giáo lý siêu việt này! Ta đã biết lâu lắm rồi, nhưng vì do chưa thể thành Phật, nên vẫn phải đi đi về về qua những cảnh giới say mê của một chúng sanh ngây dại.
Và điều huyền diệu của Pháp Phật không một lực nào có thể che ngăn, nên vẫn hằng hữu trong vũ trụ và chư vị Bồ Tát vô số vô biên đi vào mọi thế giới để hóa độ chúng sanh, nhưng do ta chỉ thấm nhuần quá ít, lại do thần lực của Bồ Tát so với Phật không được khắp trùm, để chỉ là những hạt mưa nhỏ an ủi nhất thời mà không thể ướt sủng giúp ta vượt hẳn qua bờ giải thoát.
Ngày nay, lại một lần nữa trong vô số lần ngụp chìm trong dòng sinh tử, ta gặp được giáo Pháp, gặp được vô số con thuyền, dù thuyền nào cũng là kim cương rắn chắc, nhưng có một con thuyền, thuyền này không buộc ta phải đơn độc tự lực lài léo con thuyền đến bến; mà cả hai, ta tự lực và tha lực của chư Thánh chúng Bồ Tát.
Tuy là vô số con thuyền tiếp vớt chúng sanh, nhưng nào chúng sanh hay biết! Giáo pháp là chân lý hiện hữu sờ sờ trước mặt nhưng nào có được bao người nhận ra; để rồi thuyền chân lý vẫn lặng lẽ trôi, mà nào đếm được mấy ai đoái hoài cần đến.
Riêng con thuyền đi thẳng bến bờ Cực Lạc, lại không dễ dàng làm khách say đắm biển mê tin nhận, nên rồi cứ mãi mà trôi!
Quả thật lực nghiệp sâu dày của chúng ta đáng sợ !
Thoáng trong suy nghĩ tự tâm, người tỉnh thức thấy mình quá hạnh phúc, vì đã đón được con thuyền Cực Lạc tây phương.
Người tỉnh thức nhẹ nhàng vững tâm ngồi xuống trong tư thế kiết già thiền định; bắt đầu theo dõi hơi thở thật đều và từ trong tâm tuôn ra hàng hàng danh hiệu Phật.
Người tỉnh thức lắng nghe, lắng nghe thật rõ danh hiệu Phật A Di Ðà, và bất chợt người đi vào định.
Trong định người thấy một hoa sen thật đẹp, thật tinh khiết vượt lên thật cao, vượt lên trên ba cõi, vượt lên cả ý thức của người, nhưng kỳ diệu hoa sen ấy vẫn ở trước mắt người tỉnh thức !
Người lại tiếp thấy một hoa, hai hoa, bốn hoa, sáu hoa đến mười, đến vạn đến vô cùng không thể đếm được, nhưng kỳ thật vô số hoa sen đó thật gần trước mắt của người.
Rồi người tự tại dạo chơi trên hoa sen trong niềm an lạc, thanh tịnh vô biên. Người thử sức dạo chơi thật nhanh để xem chu vi diện tích của hoa, nhưng nào đo lường được sự to lớn vô ngần đó. Thế là người ngừng lại ý tưởng dạo chơi, liền tức khắc người ra khỏi hoa sen và trở lại ngắm nhìn hoa như ban đầu; nhưng niềm an lạc vẫn còn vô biên ngây ngất.
Người thử phóng ý dạo chơi trở lại, tức khắc lâu đài hoa sen sáng rực, và người đang đứng vào đó; hóa ra người là sen, hay sen cũng chính là người!
Cảnh tượng xãy ra thật nhẹ nhàng, an lạc, người cảm thấy dễ chịu, không phải thắc mắc đặt ra thật hư, hư giả.
Bấy giờ một ánh sáng hực vàng hiện ra, ánh sáng thật mạnh, có thể xuyên thủng hết tất cả vật thể, nhưng không làm tổn hại đến vật nào. Ánh sáng có thể đi thật xa, xa đến ba cõi, vượt qua ý thức của người. Người tỉnh thức bấy giờ thấy mình hòa vào ánh sáng, vượt theo ánh sáng, đi qua ba cõi và đi vào vô số thế giới, nhưng người chưa ý thức được thế giới người vào là cõi Bồ Tát hay cõi Phật.
Ánh sáng thật nhanh, thật xa, thật sáng, nhưng kỳ thật người vẫn thấy được người thật gần với ánh sáng! Rồi cũng như tâm trạng vào hoa sen, người cảm thấy an lạc thanh tịnh vô biên. Người lại thử cho tâm đi vào ánh sáng, rồi đi ra, đi vào một cách dễ dàng tự tại, hóa ra người ý thức được người cũng là ánh sáng, và ánh sáng đó cũng chính là người.
Cảnh tượng xãy ra trong nhịp nhàng êm dịu tuồng như sóng nhạc lạ lùng mà người chưa từng nghe được ở thế gian; rồi người cũng chẳng thắc mắc chẳng nghi ngại, hình như bấy giờ người an định sâu hơn!
Ðến đây một đạo hào quang hiện ra rực rỡ bao trùm tất cả, vượt xuất muôn phương suốt thông ba cõi; hào quang phóng chiếu phủ lên toàn thân người tỉnh thức, hóa người thành một màu vàng óng ánh trong suốt như pha lê. Người tỉnh thức bấy giờ cảm thấy trang nghiêm thanh tịnh và an lạc vô cùng, người nhận ra một diệu dụng, một từ quang tận đáy tâm người !
Liền đó người thấy tiếp vô số hào quang quyện theo, hòa theo ánh hào quang lớn, lại tỏa ra ánh sáng vạn mầu, dường như làm người phát mạnh tâm bồ đề hơn, và cho người một niềm yêu thương sâu đậm nhất.
Những hào quang nhỏ từ từ đi sâu vào toàn thân người tỉnh thức, rồi phóng tỏa ra, cứ thế vào ra trong niềm an định tuyệt vời. Bấy giờ hào quang lớn phóng ra thật xa và hút theo các hào quang nhỏ, và hào quang nhỏ lại kết tụ phía sau hào quang lớn; lúc này người tỉnh thức trọn vẹn niềm chân tín an lạc nhứt, khi nhìn thấy hình sắc dung nghi kim tướng của hào quang lớn kia... !
Người tỉnh thức xúc động quỳ xuống, kính dâng lên niềm tri cảm sâu xa thanh tịnh và nơi đây, giây phút này, người tỉnh thức nhẹ nhàng ra định trong danh hiệu Phật - rồi hoan hỷ mĩm cười, nhắm đôi mắt lại; thầm hẹn trở lại Ta Bà trong niềm yêu mến. Và ngay lúc này, một mùi hương, một nhạc lạ nhẹ vang, tiễn người về Tịnh độ.
Nam Mô Cực Lạc giới Di Ðà hải hội,
Vô Lượng quang Như Lai .
Thích Phổ Huân
Kính phụng
Lời Bạt
Những ý tưởng (tâm thức) biến hiện chập chùng trong suốt tiến trình lang thang, gặp đạo, tu đạo của kẻ lữ hành đơn độc, đã được diễn tả qua hình ảnh thâm trầm buồn vui lẫn lộn.
Buồn cho sự ngủ vùi chẳng thức tỉnh từ bao kiếp xưa, và vui khi thức tỉnh gặp được đạo vàng.
Vậy kẻ say ngủ, rồi tỉnh thức đó là ai !
Có lẽ chính chúng ta, những người hoài bão đã và đang đi tìm nghĩa lý cuộc đời trong dòng khổ mênh mông này. Hay thân tình để nói, đó là anh, là em, là Thầy là trò, là cô bác là tất cả người thân sơ đang tỉnh thức ngay giờ phút này.
Giờ phút sẽ trở nên linh thiêng nếu ta ý thức được! Vì có gì linh thiêng cho bằng cuộc đời ! Có gì linh thiêng cho bằng đời sống!
Ý thức tồn tại trong đời là ý thức tối trọng; sự tối trọng phải là mạng sống con người !
Con người làm đẹp cuộc đời, con người là hiện thân tất cả !
Ý thức trong sáng rốt ráo hơn, khi con người có thể vượt lên khỏi cuộc đời, để nhìn cuộc đời trọn vẹn không dính mắc; nên chẳng bị đời vùi dập khổ đau, và như thế mới thấy chân thiện cuộc đời!
Thấy được chân thiện cuộc đời, sẽ chuyển hóa cuộc đời theo ý ta, nhận ra cuộc đời chỉ là lớp lớp nhân duyên tạo tác, duyên khởi tạo thành, nhưng tất cả từ do con người chủ động sinh ra (như là thức biến).
Cuối cùng thể hiện niềm hân hoan ôm trọn cuộc đời vào tâm, chuyển mọi ô nhiễm thế gian hóa thành thanh tịnh. Tự thấy tánh mình hằng giác, hằng còn trong vô cùng pháp giới đồng thể với pháp thân thanh tịnh. Và động lực phát khởi nhân duyên đi vào pháp thân thanh tịnh đó chính là niệm Phật vậy.
Người học Phật chỉ có một điều, trên lộ trình hành đạo, là tìm được sự an tâm, tìm được cái nhìn an nhiên trước mọi hoàn cảnh hiện tại. Niệm Phật, một trong những vô số phương tiện pháp môn giúp người an tâm, giúp người an nhiên tự tại nhìn rõ cuộc đời !
Sở dĩ ta không thể an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh, chính vì tâm chẳng được an; tâm chẳng an vì thiếu chánh niệm. Niệm Phật là chánh niệm, là sáng suốt tự tâm. Nếu Thiền quán đạt được sự an định trong đời sống qua thực tập theo dõi những thao tác của tâm, lộ hiện ra thân tướng - thì niệm Phật cũng hằng nhắc ta đang nhiếp thủ tánh giác hằng xuất ra Phật hiệu thanh tịnh nơi tâm.
Và vì đời sống hiện thời lại quá văn minh, sinh ra nhiều vấn đề phức tạp, nên việc thực hành pháp môn ghi niệm danh hiệu thanh tịnh Phật Ðà, có lẽ dễ nhắc nhở con người hơn!
Nhắc con người trong lúc say mê đắm đuối quên hẳn chính mình; quên mất ngoài vườn còn nở một nụ hoa!
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai [1]
(Mãn Giác Thiền sư)
Nụ hoa chánh niệm đó! Nụ hoa mà mọi người đều có, nhưng bị che khuất đi, nhất là ngay đời sống của thế kỷ 21 này.
Thế kỷ mà con người hiện hơi ái ngại cho nền kỷ nguyên văn minh quá tuyệt !
Cách đây hơn mười năm, người viết có dịp được đi Âu Châu, mục kích sững sờ lượng người làm việc tấp nập, đi đi lại lại tại những trung tâm thành phố các nước văn minh như Luân Ðôn, Ba Lê, nhưng rồi gần mười năm sau, trở lại Luân Ðôn ghé thăm Ba Lê cảnh tượng vẫn y như vậy, nếu không nói còn bận hơn! Họ bận đến nỗi, tận dụng cả thời gian chờ đợi chuyến bay ở phi trường, mà chăm chú làm việc trên máy vi tính xách tay (Laptop) ngay giữa đông người qua lại!
Tuy nhiên ta phải công nhận kỹ thuật hiện đại hóa, ngày càng thay thế việc làm con người một cách hoàn hão tốt đẹp; nhưng lại e rằng; dân số thế giới rồi đây chẳng tránh được nạn 'nhân mãn thất nghiệp', cũng do từ nguyên nhân phát triển này !.
Thế ra thời đại văn minh quá tuyệt bây giờ, mà con người vẫn phải lu bù bận rộn !. Nhưng lại mỉa mai và lạ lùng thay, một số lớn công dân trong nước văn minh sẽ thành thất nghiệp, nếu cứ đà văn minh máy móc cơ khí thay thế hết việc làm con người !
Như vậy đủ thấy, thời đại hôm nay tâm người khó thể được an! Vì người có việc làm lại quá bận làm sao tâm an ! Ngược lại người sợ thất nghiệp, hay đã đang thất nghiệp còn lo lắng bất an hơn nữa !
Là người học Phật, hiểu rõ giáo lý nhân duyên, nhân quả, nên không thể bình phẩm đánh giá lỗi khuyết do ai ! Huống gì đó là luật duyên sanh, nhân quả của dòng pháp hữu vi !
Tuy nhiên, đối diện với sự sinh diệt khởi lên của hoàn cảnh, người học Phật phải sáng suốt nhận định căn tánh của mình, mới có thể vượt qua khỏi vòng nhân quả trả vay, vay trả.
Thực hành pháp tu niệm Phật trong thời đại này phải nói đúng lúc, để không bị gió nghiệp cuốn hút đi, vì những lay động xúc tác của vô vàn nhiễm pháp đã và đang xâm nhập vào tâm!
Kết lại hành trình của kẻ say ngủ đã chấm dứt khi tìm lại được tự tánh mình là Phật, tự tánh mình là Như Lai Tạng, là Chân Như, là Niết Bàn, là Viên Giác, là tất cả đồng hiện xuất ra từ danh hiệu Phật A Di Ðà.
Cuối cùng người viết ước mong rằng, đoạn kết của người tỉnh thức trong tập sách này, sẽ là hiện thực một ngày đến với chúng ta.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô A Di Ðà Phật
TK Thích Phổ Huân
Chùa Pháp Bảo - Sydney
Úc Ðại Lợi ( AUSTRALIA)
Ngày 11 tháng 3 năm 2003
[1] Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua, sân trước, một cành mai.
(Ngô Tất Tố dịch)
Cùng một tác giả:
1. Hương Thơm Niệm Phật ( ấn hành 1998)
2. Nhân duyên vào Đạo Phật ( 2000)
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com