Truyen2U.Net quay lại rồi đây! Các bạn truy cập Truyen2U.Com. Mong các bạn tiếp tục ủng hộ truy cập tên miền mới này nhé! Mãi yêu... ♥

Chương 19. Chiêu dụ*

* Dùng lời lẽ ngọt ngào để thuyết phục người khác theo mình.

Lưu Lăng chạy ra đến cửa, trông thấy thị vệ đứng gác mới sực nhớ ra buổi tối trong cung cấm tùy tiện đi lại. Nó đắn đo giây lát, sau đó tìm một góc khuất mà ngồi nhìn vẩy trăng đánh xuống nền gạch. Chẳng mất bao lâu để Lưu Cơ tìm thấy em, cậu toan gọi, rồi nghĩ lại nên lặng lẽ đến ngồi bên cạnh.

Dù đã nguôi ngoai nhưng vì tự ái, Lưu Lăng vẫn làm ngơ huynh trưởng. Đợi mãi chẳng thấy anh nói gì, nó bèn lén lút dòm xem, phát hiện Lưu Cơ đang cầm một viên đá viết xuống nền gạch: Thời lên đỉnh ngút cao...

"Câu sau là gì?" Nghe anh đột ngột hỏi, Lưu Lăng giật mình, theo phản xạ đáp: "Thấy con con núi dưới*."

* "Hội đương lăng tuyệt đính, nhất lãm chúng sơn tiểu", trích "Vọng nhạc" – Đỗ Phủ, ("nhạc" chỉ ngũ nhạc – năm ngọn núi lớn linh thiêng, ở đây là đang trông núi Thái). Đỗ Phủ làm bài thơ này sau khi thi trượt ở Lạc Dương, rồi quyết định du ngoạn vài năm.

Nhìn những nét chữ mờ nhạt trên nền gạch, nó tư lự rơi vào trầm mặc. Cha từng lấy lời thơ ấy để dạy nó tập viết tên mình, người nói sau khi trưởng thành, nó có thể đi khắp muôn phương, thấy núi cao hơn núi, thấy người tài hơn người, thấy "ngắn dài phân biệt lẫn nhau, trên dưới nương tựa vào nhau, thanh âm hòa hợp với nhau, sau trước đi cùng nhau*".

* Trích Đạo Đức Kinh, câu văn này nêu lên các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng nhằm kết luận mâu thuẫn luôn luôn tồn tại trong vạn vật thành một chỉnh thể: điều tốt có thể thành xấu và điều xấu có thể thành tốt trong những hoàn cảnh khác nhau, và tùy theo cách ta xem xét.

Lưu Cơ biết em đã hiểu ra nên mỉm cười. Dưới ánh trăng sáng rõ, bấy giờ Lưu Lăng mới nhận ra huynh trưởng cũng mệt mỏi và bất lực như nó vậy, tức thì rất ân hận, nó vỗ vai Đại ca, nói cả hai quay về chăm sóc cha. Sau đó, Lăng không cố nài ép cha phải theo ý mình nữa.

Trong tuần (mười ngày) cử hành nghi thức, để tránh việc quan lại chung đụng với đàn bà rồi không cầm giữ được mình thì tất cả phải ngủ lại trong cung. Bọn họ được phân đến các nơi tùy vào phẩm hàm, một phòng ăn uống sinh hoạt và trải chiếu nằm chung. Rủi sao ở phòng Từ Diễm có hai kẻ không ưa nhau ra mặt, thường thường nói móc rồi còn lôi người khác vào cuộc, do đó, hắn luôn tránh đi mỗi khi hai tên ấy bắt đầu "giở quẻ". An ổn trôi qua tám ngày, đêm thứ chín, đương khi Từ Diễm thắp nến ngồi trên hành lang đọc sách thì có ai đó từ trong sân ngó vào. Vừa trông thấy y, hắn đã đoán ra danh tính nhưng vẫn lịch sự hỏi thăm: "Chẳng hay tôi đã gặp đồng liêu chưa?"

"Ngài không biết tôi thật à?" Y tỏ ra ngạc nhiên hơn cả hắn, một tay nắm lan can, tiêu sái thảy mình vào trong hành lang, tặc lưỡi: "Hiếm khi tôi về kinh, đúng là không ai còn biết Chiêu lang tôi rồi!"

"Thì ra là Đổng Vệ úy." Từ Diễm đặt sách xuống xưng tên tuổi rồi hỏi: "Nếu Vệ úy ở đây thì sao tám ngày qua tôi chưa từng gặp Vệ úy, còn nếu không phải thì sao bây giờ ngài lại ở đây?"

"Đã biết nhau rồi thì chúng ta ngồi xuống nói chuyện chứ nhỉ?" Đổng Húc tươi cười xếp bằng trên chiếu: "Bạn tôi than mình ngủ không ngon vì tiếng ngáy của bạn cùng phòng to quá, tôi mới đề nghị đêm nay bọn tôi đổi chỗ cho anh ấy được một giấc yên lành. Tôi mới từ phòng đó trở ra đây, phải thừa nhận gã kia là con cháu Lôi Công hay gì mà ngáy hơn cả trống trận! Còn Thái bộc sao lại quạnh quẽ ngồi ngoài đây hứng gió lạnh thế này?"

Từ Diễm bật cười kể cho y nghe lý do mình ngồi ngoài này. Đổng Húc 'xì' một tiếng: "Mấy tay đấy thật là chẳng bao giờ để cho lỗ tai người ta được yên, hễ gặp ai bất đồng ý kiến là phải tranh miết cãi mãi, nói lắm đến độ lưỡi dài ra như rắn, xì xà xì xồ chẳng đâu vào đâu! Tôi cũng không rảnh chấp bọn họ!"

Do quanh năm đóng tại biên thùy nên cách dùng từ của Đổng Húc lai tạp với nhiều ngôn ngữ ngoại quốc. Dầu chỉ mới quen biết Từ Diễm mà trông y tự nhiên và vô tư hết sức, hết ngồi kể phiền về các sĩ phu trên triều rồi hồ hởi nói sang chuyện trong kinh có quá nhiều luật lệ nhưng được cái đồ ăn ngon tuyệt và rượu thì đúng là thượng hạng. Liên miên một hồi, Đổng Húc than khát, liền trở vào phòng cầm ra một ấm trà và hai cái chén con, rót mời Từ Diễm. Hắn khách khí nhận lấy, Húc sực giật mình: "Đấy, lại cái tính lắm chuyện của tôi! Nãy giờ bắt Thái bộc nghe toàn thứ ba láp, quấy rầy lỗ tai của ngài rồi."

Từ Diễm nói không sao, y chuyển sang hỏi về hắn: "Ngài có phải người kinh kỳ không? Hay từ nơi khác đến?" Biết hắn từ xa lại, y phấn chấn hỏi tiếp: "Vậy ở quê ngài có đặc sản gì thú vị không? Khi nào tôi có dịp đi ngang qua thì chắc chắn sẽ thử cho bằng hết."

Hắn cười hờ hững: "Quê tôi từng ở Đạp Châu."

Đổng Húc bặt thinh. Hơn mười năm trước, sau khi Ngụy chiếm đóng Đạp Châu, dầu Thiên tử có lòng giành lại đất nhưng nhận thấy tiềm lực quân sự không đủ: nhiều lần nội loạn đã khiến triều đình mất đi các vị tướng tài và sĩ khí binh lính giảm sút trầm trọng, chưa kể đến giặc giã thường xuyên cướp bóc biên cương. Do vậy, khi chúa Ngụy ngã giá thương lượng: lấy Đạp Châu để đổi lại việc liên minh quân sự giữa hai nước, đồng thời hứa hẹn sẽ tăng thêm cống nạp hàng năm để biểu lộ lòng thành, Dụ Đế đành chấp nhận mất đất cho Ngụy.

Bấy giờ, người dân Đạp Châu không muốn theo giặc buộc phải bỏ lại nhà cửa, ruộng đồng, mồ mả cha ông mà lìa bỏ quê hương. Đổng Húc nghe cha nuôi kể rằng ngoài mặt chúa Ngụy tỏ vẻ rộng lượng nhưng thực chất chỉ thả cho đàn ông và người già rời khỏi Đạp Châu, vì chúng nói phụ nữ và con trẻ là tài sản của người chồng, những ai quyết tâm bỏ lại tất cả gia tài thì cũng không được dắt theo vợ con. Trước tình hình đó, đã có vô số gia đình ly tán, rất nhiều đàn bà ôm con nhỏ tự sát vì không muốn chồng phải theo giặc. Còn Ngụy thì liên tiếp "bù đắp" cho nước ta bằng hàng trăm cỗ xe chất đầy vàng ngọc, sản vật quý hiếm, gấm lĩnh và đồ sứ; xoa dịu triều đình bằng những lời hứa bùi tai... Phía Tây từng có câu ca dao: "Ngọc lăn đầy đất, máu vẩy nền nhà. Chúa cất cung nguy, mẹ ôm con khóc" để ám chỉ chuyện này, về sau đã bị triều đình cấm lưu hành.

Trong một lúc, bọn họ không nói gì, ánh trăng phủ trên lan can đong đưa mờ ảo, rồi Từ Diễm cất tiếng: "Sau khi rời quê, tôi không biết đi đâu, bèn xin vào một gánh hát mà rong ruổi đây đó, tôi nghe đâu là Vệ úy cũng có cái thú phong lưu này?"

Đổng Húc vội cười hùa theo: "Tôi cũng chuộng vài món kỹ nhạc để làm vui cho mình với bạn hữu. Thái bộc biết đó, trong quân toàn là bọn đàn ông thô kệch nhìn nhau phát ngán, nhất là trong lúc hành quân đường dài, suốt ngày phơi nắng mệt nhọc đã đành, nhiều tuần liền còn chẳng kiếm đâu ra một bóng hồng để lòng mình trộm mừng vui. Bởi vậy, trong các huynh đệ mới cần tìm ra vài anh biết đàn hát để giúp cho mọi người khuây khỏa. Tôi không có tài cán gì mấy, chỉ đành đem ngón đàn mọn ra xin chút huân công vậy."

Từ Diễm hiếm thấy ai biết vui hưởng như Chiêu lang này, không khỏi mỉm cười, nhớ lúc còn trong quân ngũ, bọn họ luôn rất thích những cậu lính trẻ, vì giọng các cậu hãy còn cao và trong, hát lên nghe tình tứ hơn bọn đàn ông đã nếm máu giặc giã đến khàn đục tiếng. Nếu không có đàn thì lấy bát và đũa làm phách, cuốn lá xanh làm kèn, chọn lấy một anh xướng giọng nam, một cậu xướng giọng nữ, rồi quây quần bên đống lửa mà ca hát cho vơi nỗi nhọc nhằn.

Đánh một cái ngáp dài, Đổng Húc cười nói thất lễ rồi đứng dậy từ biệt. Từ Diễm thẽ thọt cuốn chiếu về phòng vì các bạn đã ngủ. Giữa giấc chập chờn, hắn như thấy lại một gương mặt quen thuộc. Hoa điền trâm cài ngát hương, người cầm quạt lụa phe phẩy, dáng xinh như bươm bướm, nhưng bờ mi hoen ướt ánh lệ, mòn mỏi ngóng trông phương nào.

Thoắt, tan tác. Cảnh mộng hóa hư không. Giấc chiêm bao ngắn ngủi đọng lại trên trán Từ Diễm những mồ hôi lạnh toát. Hắn vùng dậy niệm đi niệm lại Bát Nhã Tâm Kinh, tiếng tụng đan xen với câu hát lẩn quẩn trong đầu: Ngọc lăn đầy đất, máu vẩy nền nhà. Chúa cất cung nguy*, mẹ ôm con khóc, hỡi ôi...

* Chữ "nguy" (nguy nga) được đọc trại đi từ chữ "Ngụy", vì người dân không dám gọi tên vua chúa.

Nàng hát chừng hụt hơi, âm ngân vụt tắt, tỳ bà đứt dây, ngoảnh đầu trông về quê nhà, lệ tuôn lã chã: Lang quân, em và chàng biết về đâu đây...

Năm ấy, hắn mười lăm tuổi, trẻ người non dạ, mơ mộng viển vông: A Tự, ta muốn lên đế kinh. Ta muốn tìm đường sống cho mình. Tìm đường sống cho người dân Đạp Châu.

A Tự vốn là ca nương trong phủ công chúa, thuở xưa rất được công chúa ưa thích gọi đến hát cho người nghe. Từ Diễm thường xuyên đi theo thầy đến thăm người nên cũng tương đối có thiện cảm với nàng Tự. Khi hắn thoát khỏi tay Ngụy, vô tình gặp lại cô đào thân thương, cả hai đều không cầm được xúc động mà ôm nhau khóc nấc, sau đó, để nương tựa vào nhau, hai người họ cũng thuận tình nên vợ nên chồng.

Để kiếm sống và dành dụm tiền lên kinh, Từ Diễm thuyết phục một ông bầu họ Trịnh thu nhận họ vào đoàn. Bầu Trịnh vốn căm ghét giặc Ngụy, vừa nghe đã rơm rớm nước mắt trước hoàn cảnh của họ, thấy cả hai đàn hát cũng ra nghề nên ông không chỉ nhận mà còn đối đãi với hắn có phần hậu ái. Một lần, gánh hát được mời đến dinh cơ Tri châu biểu diễn, trong buổi tiệc có mấy vị Khâm sai triều đình phái xuống giám sát việc phân phát quân lương. Thấy Tri châu lôi kéo các cô đào, Từ Diễm bực tức, cố ý hát vài câu móc mỉa lão ta. Binh bộ Thị lang Bạch Xưởng nghe thấy vui nên gọi hắn lại hầu chuyện. Biết Từ Diễm từng là tùy tùng của Lý phò mã, Bạch Xưởng muốn chiêu mộ làm môn sinh (học trò) nên nói hắn bỏ nghề ca hát, lại còn khuyên hắn hãy bỏ vợ, vì không người đọc sách nào lại lấy ca kỹ làm vợ.

Thấy hắn khăng khăng không chịu, Bạch Xưởng bèn bày kế khác: dụ hắn cưới cháu gái gã làm vợ, còn A Tự thì hạ xuống bậc lẽ. Bấy giờ Từ Diễm giận lắm rồi, không những không nghe, còn nói thẳng rằng: "Đại nhân là mệnh quan triều đình, vốn nên làm gương cho muôn dân, vậy mà giờ đây ngài lại dạy tôi làm kẻ phụ bạc, bỏ hèn lấy sang, loại chuyện bất nhân bất nghĩa dường này tôi khuyên đại nhân nên để dành cho người nào có cái 'đức độ ấy'."

Bạch Xưởng nghe vậy thì phẫn nộ chỉ tay mắng: "Cái ngữ không biết chui ra từ hang hốc nào mà dám lên mặt dạy đời bản quan à! Mi chỉ mới bám váy công chúa hít chút khí phái hoàng gia mà đã tự xem mình là thanh cao quý hiển đấy phỏng! Lý Đông Đình chẳng qua là thằng đánh xe* cho đàn bà, mi cùng lắm xứng làm đứa rửa chân cho ta!" Nói rồi, gã sai lính đuổi đánh hắn. Từ Diễm sợ Bạch Xưởng lùng giết mình nên trong đêm viết vội phong thư từ biệt bầu gánh, vớ lấy cung tên, đánh thức A Tự rồi cùng nhau bỏ trốn.

* Nguyên xưng của từ "phò mã" là chức vụ sửa soạn đội xe hộ tống cho vua, về sau có quy định con rể vua sẽ giữ chức này, qua thời gian thì "phò mã" trở thành danh từ chỉ chồng của công chúa.

Chính trên đoạn đường trốn chạy này, bọn họ bắt gặp một chiếc giỏ đan trôi trên sông. Nghe thấy tiếng khóc nỉ non, Từ Diễm lội xuống vớt lên, thấy bên trong có một đứa bé, ngay dưới đôi chân nhỏ là một mảnh giáp mũ binh sĩ còn vương vết máu, có lẽ đây là con cái của một người lính xấu số. A Tự thương cảm muốn chăm đứa bé, nhưng Từ Diễm thấy thân mình còn lo chưa xong nên dự tính sẽ bỏ nó lại nơi nào đó an toàn dọc đường. Sau cùng hắn nhượng bộ, A Tự đặt tên cho đứa bé là "Quán", dựa trên miếng giáp mũ*.

* Chữ "Quán" ở đây vừa có nghĩa là cái mũ, vật đội đầu (nhược quán), vừa có nghĩa là người đứng đầu (quán quân).

Địu thêm một đứa bé, họ tiếp tục tiến về đất vua nhờ số tiền dành dụm. Khi đến vùng phụ cận kinh kỳ, Từ Diễm giúp một vị Tri huyện họ Cao xử một vụ án khó, Cao đại nhân biết ơn mời cả nhà ở lại mấy ngày, lắng nghe đầu đuôi câu chuyện của hắn. Ông thấy lai lịch của hắn đặc biệt, liền thưa với Tri phủ để tâu về triều đình. Nửa tháng sau, Từ Diễm được lệnh tiến cung, hắn để vợ con lại nhà Cao đại nhân, một mình lên kinh, gặp gỡ Hoa Du Khiêm, chịu ân tấm áo rồi diện kiến thánh nhan.

Dù được Thiên tử truyền gọi, ấm ân áo mũ cân đai, tưởng như một bước lên mây, từ nay có thể tìm đường xoay chuyển vận mệnh. Nhưng rồi hắn chẳng thoát khỏi vòng xoáy tranh đoạt ngoài thân, bị quật cho ngã nhào, đầy thương tích, rốt cuộc nhận ra sức mọn nào bì lại quyền thế vô chừng. Mạng này đã mỏng như con sâu cái kiến, dầu không chịu khuất phục thì cũng có ích gì? Thế mới thấm thía những lời thầy dạy: "Thiên tử đã không trọng dụng ta thì ta còn biết làm sao? Hoa lan nơi hang sâu không người đến ngắm*, chỉ có thể vui hưởng phận mình, bao dung thế đạo bất công này..."

* Khổng Tử gia ngữ: "Hoa lan nở nơi hang sâu không ai biết đến nhưng vẫn tự mình tỏa hương."

Hết tuần nghi thức, Từ Diễm xuất cung. Bấy giờ mây giăng đầy trời, chiều tà đỏ quạch như ám khói, A Nô đỡ hắn lên xe, Từ Diễm nhìn xuống chân con ngựa kéo, bảo: "Móng ngựa lỏng rồi." Lão gật đầu nói sẽ đóng lại rồi đánh xe về nhà. Sau khi dùng bữa với các con, Từ Diễm nói thị nữ đặt một mâm cúng ở sân trước, thắp hương đốt tiền giấy, đoạn lấy một bầu rượu và cái chén con, dựa trên kháng tự rót tự uống.

Nếu thầy có thể hiện về, chắc chắn sẽ trách hắn sao làm cỗ cúng thầy mà lại dùng thứ rượu lạt lẽo như nước này, sau đó tự mình đi đào hai vò Trúc Diệp Thanh hắn giấu dưới giường lên, thách hắn có giỏi thì uống say rồi bọn họ cầm cung lên thi bắn. Công chúa nghe thấy sẽ cười mắng phò mã gì cứ hơn thua với trẻ con, rồi nói đã có rượu có thịt, chỉ còn thiếu một ca nương sắc nước hương trời, đoạn gọi A Tự đem tỳ bà đến hát. Rượu quá ba lượt, công chúa sẽ ngà ngà chống gò má vương nét son, trêu hắn: Cẩn An, ngươi cũng biết hát, lên hát cùng con bé đi...

Từ Diễm mân mê chén rượu, nghiền ngẫm ảo mộng vô hình, nâng tay áo che mặt khỏi cơn gió tạt vào, nói: "Người đã đến, sao còn băn khoăn chưa vào?"

Sợi khói trên nén nhang uốn cong, một bóng hình thảy mình vào sân, y bận áo tay hẹp, dáng thẳng như trúc, ngại ngùng bảo: "Tôi không cố ý thậm thụt trước nhà ngài đâu. Chuyện là hôm nay tôi rất muốn gặp ngài để nói đôi lời nhưng không tìm được cơ hội, do đó mới định bụng đến nhà để nói."

Từ Diễm lấy một cái chén khác, hòa nhã mời Đổng Húc vào. Y ngồi xuống cạnh bàn, cặp mắt đảo quanh, hơi dừng lại ở tấm thiếp chữ 'Hòa' treo trên tường rồi thoải mái uống cạn chén rượu. Hàn huyên đôi câu, y cười nói: "Điện hạ của tôi trông mong Thái bộc đến phát ốm rồi, bởi vậy mới sai tôi đi dò hỏi tấm lòng của ngài đây."

"Được điện hạ xem trọng là phước phần của tôi." Từ Diễm khách khí chắp tay: "Thế nhưng con người tôi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, chẳng mạnh chẳng yếu, cũng không màng so bì hơn thua, sợ rằng chỉ làm ngáng chân điện hạ."

"Thái bộc khiêm tốn rồi." Đổng Húc dùng lời ngọt mà thuyết phục: "Năm xưa có Tiêu Hà dưới trăng tìm Hàn Tín*, nay có điện hạ tôi nhớ thương người hiền đến mất ăn mất ngủ. Tôi biết Thái bộc ưa sống đạm bạc, không màng danh lợi, nhưng từ trong cốt cách nào giấu được khí phái sâm nghiêm. Lý Đông Đình sinh tiền không có con cái, chỉ thu nhận một học trò để dốc lòng bồi dưỡng. Thái bộc đây thừa hưởng chí hướng Lã Vọng câu cá* của phò mã, tâm nguyện của ngài và điện hạ tôi vốn cùng một đường, nếu được ngài giúp sức, điện hạ ắt sẽ không còn chi phải ngần ngại."

* Điển tích "Tiêu Hà dưới trăng tìm Hàn Tín": Hàn Tín là vị danh tướng có công giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang lập ra nhà Hán, thời trẻ ông phục vụ quân Sở nhưng không được Hạng Vũ xem trọng, sau đó Trương Lương chiêu mộ ông về phe Hán. Chờ mãi không thấy Lưu Bang dùng mình nên Hàn Tín bỏ đi. Tiêu Hà hay tin thì vội vàng thúc ngựa đuổi suốt đêm để thuyết phục Hàn Tín ở lại. Dưới sự tiến cử của Tiêu Hà, Lưu Bang mới nhận ra tài năng của Hàn Tín và trọng dụng ông.
Điển tích "Lã Vọng câu cá": khi nhà Thương suy bại, Khương Tử Nha thường đem cần câu ra sông để chờ thời cơ. Tây Bá hầu Cơ Xương nghe danh đến diện kiến, thấy lưỡi câu của ông thẳng lì nên hỏi. Khương Tử Nha đáp lưỡi câu như thế để chờ người có lòng cắn câu. Nghe vậy, Cơ Xương thán phục thỉnh ông về dưới trướng. Dưới sự giúp sức của Khương Tử Nha, Cơ diệt Trụ, lập ra nhà Chu.

Ngữ điệu của Đổng Húc hết sức tha thiết chân thành, từng câu từng chữ vỗ về mời gọi. Vả chăng, dung nhan y còn khiến người ta bất giác liên tưởng đến những viễn cảnh tươi sáng rộn ràng, như đồng lúa vàng óng dập dờn dưới cơn gió thu se lạnh hay ánh rạng đông lẫy lừng nhú lên trên đỉnh cồn cát cao xa. Thấy Từ Diễm mím môi tư lự, Húc không vội vã, nhâm nhi rượu lạt rồi nói tiếp: "Lâu nay mỗi lần tôi có dịp về kinh thì luôn kiếm những nơi cao sang đắt đỏ mà thử món cao lương, vậy mà hôm nay ở chỗ Thái bộc cạn chén này, chí khí đã tự nhiên thấm vào ngũ tạng."

Nghe vậy, Từ Diễm không khỏi bật cười: "Vệ úy nói quá rồi, rượu này chỉ là thứ rẻ tiền tôi lấy uống cho đỡ thèm thôi." Dứt lời, hắn hạ lệnh tiễn khách. Đổng Húc vui vẻ hẹn hôm khác nói tiếp rồi nghênh ngang rời khỏi.

"May mà ta chuẩn bị rượu lạt." Từ Diễm than với lão bộc: "Nếu ta chếnh choáng thêm chút nữa, chưa biết chừng đã gật đầu đồng ý."

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com