Chương 22. Bùn yến
Tâu xong, Từ Diễm cầm hốt lui về hàng ban văn, nhường vị trí cho viên quan Thái Thường* bẩm cáo trình tự lễ nghi trong việc tống táng Liệt Đế. Đoàn đưa linh cữu gồm trăm voi nghìn ngựa, cung tần nội thị bưng mâm gánh đòn mấy trăm tráp hòm đậy đồ cúng và vật tùy táng làm bằng nhung lụa vàng ngọc bài trí cho lăng tẩm, cảnh tượng bề thế vô chừng sắp sửa tiễn đưa chặng đường cuối cùng tiên vương còn trên nhân thế. Trong số châu báu tùy táng, thứ đặc biệt nhất là tám nghìn quyển kinh điển Phật giáo được thợ thủ công ghép từ lá vàng, xây thành một tòa phù đồ* nguy nga đặt trên quan quách.
* Thái Thường tự là một cơ quan trong quan chế Lục tự, trực thuộc bộ Lễ, có trách nhiệm quản lý và điều hành lễ nghi nói chung, đồng thời coi sóc đình thờ miếu mạo.
Tòa tháp cất giữ xá lợi, tro cốt của Đức Phật hoặc các vị cao tăng.
Xuất xứ của bộ kinh vàng này rất đáng chú ý. Độ trước khi phát tang, Dụ Đế triệu kiến các nội thần có công hầu hạ Tiên hoàng ở hành cung đến để tấn chức ban thưởng, một hoạn quan lớn tuổi có tiếng là được đức ông yêu mến tên Vương Bỉnh Khác đã hầu chuyện với ngài rất lâu. Vương Bỉnh Khác thổn thức không thôi kể lại lúc lâm chung đức ông luôn miệng ngậm ngùi nhắc đến Thái hậu và các di phi* rồi không cầm được nước mắt. Dụ Đế nghe mà não nùng, sau khi cho lui Vương Bỉnh Khác thì hỏi quan viên Tư Thiên Giám* rằng: 'Mỗi việc tụng kinh làm sao an ủi được nỗi cô hàn của đức ông, khanh nghĩ trẫm nên làm thế nào?'. Chuyện này truyền đến cung Ninh Thọ làm Thái hậu khiếp nhược. Lo sợ Thiên tử sẽ bắt mình tuẫn táng theo Liệt Đế nên đức bà sai người xúi giục hai vị di phi Ninh thị và Chu thị viết thơ xin được 'nối gót' bầu bạn với đức ông.
* "Di" được lấy từ di sương (quả phụ), di phi tức là vợ lẽ của vị vua đã qua đời.
Cơ quan chuyên trách liệu đoán khí hậu, quan sát thiên văn, tính toán lịch pháp âm dương bói toán.
Sau khi xem thơ của hai vị di phi, Thiên tử lại gọi viên quan Tư Thiên Giám đến hỏi han, sau đó hạ lệnh cho Trung Thư Môn Hạ Tỉnh tăng thêm số lượng châu báu tùy táng. Thái hậu thấy vậy thì ngầm hiểu ý sai phủ Nội Vụ đưa xiêm y trang sức, dầu thơm phấn son đến cho Ninh thị và Chu thị "sửa soạn sẵn sàng". Tuy nhiên, giữa đường nội thị qua lại giữa hậu cung và điện tiền phục mệnh thì chạm trán nghi trượng Đông cung. Thái tử tra vấn bọn chúng đang làm gì? Chúng ấp úng thưa trình. Vừa hay sự thể, Lưu Dung tức thì xoay phắt, rảo bước đến điện Cần Chính cầu kiến Thiên tử.
Dụ Đế cho vời, Thái tử Dung bái lạy xong thì quỳ nguyên tâu rằng: "Từ thời Thương, Chu, tục lệ tuẫn táng thịnh hành khiến dân lành khổ sở khôn xiết, từ đó lại làm nảy sinh ra các cách cưỡng bức người sống chôn theo người khuất vô cùng tàn nhẫn, tiếng oan lay động đất trời. Bệ hạ, trên được như Nghiêu Thuấn*, dưới ắt được dân an. Trời cao có đức hiếu sinh, Tiên hoàng và bệ hạ đều là con của Trời, hằng thuận theo thiên ý thừa hành đạo nghĩa, bởi thế không nên làm chuyện kinh động đến bậc quỷ thần. Huống hồ đức ông sinh tiền ăn chay niệm Phật, há có thể chấp nhận việc thất đức như thế?"
* Hai vị vua nổi tiếng tài giỏi và đạo đức trong huyền thoại Trung Hoa, được xem là mẫu mực của các hoàng đế.
Thiên tử hổ thẹn, lập tức sai người đi ngăn cản hai vị di phi tự tận, đoạn gọi quan viên hai tỉnh Trung Thư Môn Hạ đến trước điện, giận dữ khiển trách: "Đến Thái tử còn biết tuẫn táng là việc thất đức! Tại sao chư khanh không ai khuyên can trẫm sớm hơn!"
Nói đoạn, ngài cắt chức hai vị Trung thư xá nhân, còn định đuổi Ngự sử trung thừa Trần Củng khỏi kinh vì tội "can gián chậm trễ". Song, Phạm Anh Hoa khuyên nhủ: "Xưa nay Trần Củng làm quan thanh liêm thận trọng, nhờ vậy mà giảm hẳn việc tấu oan các quan viên bị đài gián đàn hặc, thần khẩn thiết nài xin bệ hạ giữ lại ông ấy." Thiên tử nghe vậy mới không đòi đuổi Trần Củng nữa, chỉ giáng ông xuống làm Thiêm đô ngự sử. Bên cạnh đó, ngài muốn khôi phục chức vụ của Thái tử trong Hàn Lâm viện và Nội các, Phạm Anh Hoa tiếp tục can rằng: "Bệ hạ đã bãi Thái tử ra khỏi Nội các một lần, bây giờ lại công nhiên đưa Thái tử vào lại lần nữa thì chư thần sẽ nhìn nhận Đông cung như thế nào?" Ngài ngẫm thấy ông nói có lý nên từ bỏ ý định.
Sở dĩ Phạm Anh Hoa không muốn Thái tử trở lại Nội các là do vài năm gần đây, chức trách của Nội các đang có chiều hướng tiếm quyền Trung Thư Môn Hạ, gây ra tình trạng các chức Trung thư lệnh và Thị trung quản lý hai tỉnh này dường như chỉ còn mang tính danh dự. Thực chất, mọi chính sách và chiếu lệnh quan trọng của Thiên tử đều do hội đồng Nội các họp bàn thẩm định. Đây chính là lý do khi Phạm Anh Hoa được bổ làm Tham tri Chính sự thì nhóm ngôn quan Viên Thủ Trung đã kịch liệt phản đối. Cho đến nay họ vẫn chưa yên lòng với ông, song việc ông khuyên nhủ Thiên tử lần này thực là đã hợp ý bọn họ.
Bẵng qua đôi tuần, Dụ Đế lại hỏi Tư Thiên Giám rằng nên làm gì an ủi hương hồn tiên vương nơi chín suối, Hàn Lâm viện Thị giảng kiêm Linh đài lang Vương Trản mới hiến kế đúc sách vàng, xây phù đồ cho đức ông. Thiên tử liền mừng rỡ phê chuẩn, lệnh cho Công bộ xúc tiến kế hoạch sao cho hoàn thiện sớm nhất.
Năm ngày sau, Công bộ nộp lên kế hoạch sơ bộ, bấy giờ các hoàng thân cũng có mặt tại Ngự Thư phòng. Đông cung xem qua bản tấu thì thưa rằng: "Phụ hoàng, việc đúc phù đồ cần tiêu tốn lượng lớn nguyên liệu và sức người, nhi thần thiết nghĩ thời gian không nên quá gấp rút, cần thư hoãn ra thêm để trên dưới kịp thời dàn xếp trình tự, từ đó tiến hành đồng nhất nhịp nhàng; tránh tình trạng đốc công thúc ép các thợ lao động quá sức, kẻo việc xây tháp Phật vốn mang ý thiện lành mà lại hóa ra làm khổ cho dân."
Thiên tử hãy còn lâng lâng trong viễn cảnh tháp vàng nguy nga, nghe vậy thì mất hứng đáp lại: "Trần Củng không còn là Ngự sử trung thừa, bây giờ Thái tử muốn thay thế vị trí của ông ấy sao?"
Thái tử Dung nhất thời bặt thinh. Văn Tuyên vương vội đỡ lời giúp người: "Bệ hạ, Đông cung chỉ là đang nghĩ đến dân tình..."
Nhưng Lưu Anh còn chưa nói xong, Dụ Đế đã ngoảnh mặt làm ngơ, sau đó không đề cập đến việc này nữa. Sang kỳ họp hằng tháng của Tam tỉnh tại Chính Sự đường thì vấn đề hôm ấy mới lần nữa được đưa ra thảo luận. Cuối cùng, quan chức ba tỉnh thống nhất ý kiến rồi đồng tâu hạ bút: "Từ thuở lập quốc, Thái Tổ ban lệnh dùng nhân đức trị vì muôn dân. Nay chúa thượng mong ước đúc nên tháp vàng để làm tròn chữ hiếu, thật là tấm gương giáo hóa trăm họ, chúng thần không ai là không cảm phục. Song, đức Thiên tử vốn mang lòng nhân của đất trời, nhẽ nào chẳng nhớ đến sự vất vả của nhân dân?" Dụ Đế đọc rồi phê duyệt kiến nghị, lệnh Công bộ dựa trên ý đó mà làm lại.
"Tiên hoàng có linh thiêng, chư khanh liệu mà cân nhắc." Ngài phê trong sớ. Thượng thư bộ Công Quách Quỳ nghe mà sợ hãi khuỵu gối, không dám làm ẩu nữa.
Trước tình hình này, Viên Thủ Trung rút ra lời nhận xét: "Lần đầu bệ hạ tiếp nhận lời can gián của Thái tử là vì nhận thấy quan viên Tam tỉnh có chiều hướng lấy lòng Thái hậu; lần hai bệ hạ không tiếp nhận lời can gián của Thái tử là vì không muốn quan viên Tam tỉnh nghiêng theo chiều gió. Nói tới cùng thì bệ hạ vẫn cứ bắt chúng ta dụng tâm nhìn mặt đoán ý ngài, chớ có vịn cớ Ninh Thọ hay là Đông cung để mà xu nịnh."
Nhưng Từ Diễm lại nghĩ khác: Cái mà bệ hạ thực sự kiêng kỵ, chính là việc Đông cung có ý bình phẩm các đại thần trong triều.
Sự thể hãy còn chưa kết thúc tại đây, chẳng bao lâu sau, một tin tức truyền về kinh: nội thần Vương Bỉnh Khác được Tiên hoàng yêu mến, sau khi lĩnh thưởng và cáo lão hồi hương thì đột ngột bạo bệnh qua đời. Bạn bè và thân quyến của ông thương tiếc không thôi. Thiên tử cũng lấy làm bùi ngùi hạ chỉ cho phép mai táng Vương Bỉnh Khác dưới nền móng lăng tẩm Liệt Đế để người khuất được tiếp tục hầu hạ tiên vương dưới suối vàng.
Ý chỉ này đối với người còn sống là ân sủng lớn lao, là vẻ vang biết mấy. Nhưng đến Từ Tuyển còn không cầm lòng nổi thầm thì với cha anh: "Mấy mươi năm cuộc đời ông ấy đã phải khom lưng uốn gối hầu hạ người trên, khuất bóng rồi vẫn bị đày ải ở kiếp tôi tớ, di hài còn đặt nằm ở nơi không được mặt trời sưởi ấm, chẳng thân bằng quyến thuộc có thể viếng thăm. Tình cảnh như thế chẳng phải bi thảm lắm sao?"
Từ Diễm vuốt tóc con: "Lời này chớ nên nói ra ngoài."
"Phụ thân..." Thằng bé khẽ tựa đầu vào vai hắn, lần lữa hỏi tiếp: "Cho dù chúa thượng có thưởng hay phạt thì chúng ta đều phải xem là ân huệ sao?"
"Con định nghĩa Thiên tử thế nào?" Từ Diễm hỏi ngược lại. Tuyển nghĩ ngợi đáp: "Sách Trung Dung viết: 'Vẹn đức hiền là Thánh nhân, đáng tôn kính là Thiên tử', ý nói bậc quân tử tu dưỡng đức tính vẹn toàn thì được Trời phú cho ngôi cao. Bởi thế, Thiên tử là người con do trời đất chung đúc, nhật nguyệt kết tinh, có trách nhiệm thay Trời hành đạo, dùng đức hạnh giáo hóa tứ phương."
"Cẩn lòng nhớ đến (lời dạy của) thánh nhân, muôn dân tự cảm đức ấy mà theo về*. Con đã biết vậy thì còn hỏi ta làm gì?"
* Trích Luận Ngữ, chương Học Nhi: "Thận chung truy viễn, dân đức quy hậu hĩ." Nghĩa đen nói đến việc con cái làm tang ma cho cha mẹ cẩn thận, lại thường xuyên kính nhớ thì từ đó đạo đức của xã hội sẽ dần dần đi lên.
Từ Tuyển suy tư, không biết nghĩ miên man gì lại nói tiếp: "Đông cung đức hiền tỏa rạng, phẩm hạnh tốt đẹp không ai là không ca ngợi. Giả sử thiên hạ thái bình một trăm năm, phụ thân có nghĩ Đông cung sẽ trở thành một Thiên tử mẫu mực như thánh nhân không?"
Từ Diễm ngắm nhìn tà dương kéo bóng, lác đác cánh quạ bay ngang, trả lời: "Bậc chí tôn trong thiên hạ có được đức hiền minh đã là quý không gì bằng, còn về phần thánh nhân thì ta không nghĩ từng có ai được sinh ra trong thời cuộc này."
Tuyển hỏi vì sao, hắn chỉ lên trời: "Con xem, chim chóc bay lượn còn trông hướng, lối đi của Thiên tử và thánh nhân không thể là cùng một đường được."
Bóng quạ vừa ngấp nghé trên ngọn cây thì bất đồ rú lên thảm thiết, mất đà vụt xuống đất. Nhìn lại, trên xác quạ bị đâm xuyên qua bởi một mũi tên đính lông cắt. Mất đi đồng bọn, bầy quạ kêu la vài tiếng buồn khổ rồi nhanh chóng rút đi, để lại vài sợi lông vũ tung bay giữa thinh không.
Trong Quân Tử Hiên, sắc mai hãy còn thắm độ, lá xanh chêm hoa vàng, từng đóa trong trẻo óng ánh tựa sáp ong, hương thơm nồng nàn. Thái tử đứng trước đình, tư thế giương cung hãy còn chưa thu lại, gió lùa tay áo dài rộng phất lên đôi mắt khép hờ đang tận hưởng tia nắng cuối ngày lặn về Tây.
Lưu Dung vừa vuốt ve hoa văn trên cánh cung vừa nhàn nhã chờ gã thanh niên ngồi trong đình. Chân mày gã khóa vẻ tư lự, cẩn trọng sắp đặt từng nước. Lát sau thấy đã được, Ninh Sùng mới thỉnh Thái tử về ghế. Y nhặt một quân trắng, liếc nhìn bóng tà chênh vênh trên mép ngói lưu ly, thờ ơ hạ xuống. Sùng tiếp liền một nước, chặn đầu cắt đuôi, chẳng có ý nhường. Ngô Cư xem họ đấu đến say mê, lật đật cầm que đồng khêu tim đèn, mắt không sao dứt nổi khỏi thế trận đang đà gay gắt. Trời Tây tắt ngấm bóng tà, ván cờ tiến vào cuộc thu quan*, trắng đen đắp lũy vây thành, từng mục* tranh chấp không tha. Cuối cùng, Ninh Sùng buông tay, uể oải nói: "Chấp ba nước, vậy mà vẫn không thắng nổi điện hạ."
* Thuật ngữ cờ vây, "thu quan" là giai đoạn giao tranh trước khi kết thúc ván, lúc này hai phe đã định ra những "vùng lãnh thổ" trên bàn cờ, cuộc chơi đòi hỏi kỳ thủ phải phân bổ trí lực để đánh nhiều trận cờ cục bộ thuộc các vùng lãnh thổ đó.
"Mục" là các giao điểm dòng kẻ trên bàn cờ.
Ngô Cư rót trà cho hai vị đấu thủ. Ninh Sùng gom cờ cất vào tráp, động tác chán nản tùy tiện, làm những viên ngọc dẹt trượt lên nhau phát ra tiếng rào rào ồn ã. Lưu Dung nhấp một hớp trà, hỏi: "Tử Tô sao rồi?"
"Sau lần truyền tin cuối cùng, thần vẫn chưa tìm được dấu vết của anh ấy." Ninh Sùng nghiêm trang rủ mắt, cử chỉ khẽ khàng hơn: "Ngạn Công đã huy động bộ hạ ở vùng phụ cận kinh kỳ, mở rộng truy vết về hướng Châu Doanh, Bộ Nga. Nếu tin tức Tử Tô đưa về là thật thì thần đoán sẽ mất khoảng mười ngày để đuổi kịp anh ấy, bằng không... chúng ta nên xem như đã mất người này rồi."
Nghe vậy, Ngô Cư không khỏi thít chặt trái tim, khẩn trương nhìn Thái tử. Người vẫn chưa động dung, nhặt lấy một quân cờ nắm trong tay, nói: "Từ Tư, Tử Tô theo ta đã ngót mười năm, ta từng giương cung để thử hắn, hỏi hắn có sợ không? Tử Tô đáp: 'Đã theo điện hạ, còn biết sợ là gì nữa', tức khắc ta thả tay, mũi tên vọt qua đỉnh đầu hắn, hắn cũng chẳng buồn chớp mắt. Ở bên ta trước giờ không thiếu người, nhưng người như Tử Tô thì ta không muốn mất."
"Thần chắc chắn sẽ tận sức." Ninh Từ Tư cam đoan rồi cười cạn mỏng: "Tử Tô không sợ điện hạ vì đã sớm chiều hầu hạ người thành thói quen, nhưng nếu cung của điện hạ nhắm vào thần, nói thật, thần sẽ sợ chết khiếp. Kính mong điện hạ đừng bao giờ thử thần bằng cách tương tự." Đoạn gã tằng hắng, "Năm năm trước thần lên Công Chính đường* kêu oan, quan lớn nhạo cười chửi rủa thần, chư dân ai cũng cho là thần bị điên, chỉ có điện hạ bảo: 'Kẻ dám ở trước mặt ta nói lời điên khùng, nếu không phải hạng gàn dở thì trong đó có phân nửa là thật'. Nếu điện hạ không ngại thần ngớ ngẩn điên khùng thì thần có một chuyện muốn bẩm."
* Tòa án của Tam Pháp Ty, cơ quan được tạo thành từ bộ Hình, Đại Lý tự và Ngự Sử đài, chuyên tiếp nhận, hội thẩm xét xử án oan trong dân.
Thái tử cho phép, gã tâu: "Tháng trước thần nhiều lần chiêm bao thấy bùn rơi khỏi tổ yến, nghĩ mãi không hiểu ra sao, bèn lên Bi Hoa viện nhờ phương trượng hóa giải. Phương trượng tung tiền đồng gieo quẻ, sau đó bảo: 'Xéo sương, váng rắn tới', thần lại hỏi: 'Thế còn bùn yến nghĩa là sao?', phương trượng đáp: 'Thế đất nhu hòa, vì vậy người quân tử lấy đức dày mà nâng đỡ vạn vật'."
Hai câu của phương trượng Bi Hoa viện đều lấy từ quẻ Khôn trong Kinh Dịch, 'xéo sương, váng rắn tới' tức là âm thịnh, sắp có họa tiểu nhân, ghép cả hai câu lại thì giải ra ý của phương trượng là: "Tiểu nhân sắp xuất hiện, quân tử bền chí thì vượt qua được."
"Tượng quẻ nửa giả nửa thật, ai mà tin cho nổi." Lưu Dung thờ ơ đáp.
Ninh Sùng chắp tay, không giải thích gì thêm. Bọn họ trở về Đông cung, Ngô Cư đứng hầu suốt từ đầu buổi, thấy các vị không trao đổi gì nhiều nên cứ ngỡ hồi cung thì Thái tử và Từ Tư tiên sinh sẽ vào thư phòng đóng cửa bàn bạc tiếp cho kín đáo. Nào ngờ Ninh Sùng ăn tối xong thì đi nghỉ luôn, Thái tử cũng chẳng hỏi han đến gã, Ngô Cư mờ mịt hết sức: chẳng nhẽ điện hạ gọi Từ Tư tiên sinh vào cung chỉ để đấu cờ?
Ban đêm, nó lén lút hỏi Hành Chi chuyện ấy, cô dí trán nó: "Khờ quá, tận mắt xem mà còn chưa hiểu à? Những gì cần nói họ đã nói hết trong ván cờ rồi."
Hôm sau là triều hội mười lăm, các hoàng thân đều lên triều. Thái tử bận áo bào đỏ thẫm thêu rồng, thân vương khoác mãng bào sắc tía, tay chắp ngọc khuê chầu bên tả bệ rồng. Vốn Yên vương có chiến công nên được phép giắt kiếm lên điện, song Lưu Trang biết Thiên tử thử mình nên chủ động từ chối: 'Phàm là khí giới, dù có để cùn đeo làm hình thức, nhưng đã chầu lạy vua, há lại mang theo làm gì cho vướng víu?'. Dụ Đế hài lòng, ban thưởng cho Yên vương một chiếc roi thuần ngựa.
Tấm trướng sa vàng vẫn chắn trước ngự tọa, mơ hồ in cái bóng bận Cổn Miện cao lớn bệ vệ của đức Thiên tử, tua ngọc trên mũ ngài thi thoảng va vào nhau phát ra âm thanh trong veo nhỏ vụn, lại tựa giọt sương hắt xuống thấm lạnh lòng người. Lưu Dung bắt gặp trong mắt chư thần những cái bóng bất an lay động theo tầng vải sa ngăn cách, bởi tôn nhan chúa thượng của bọn họ vốn đã vời vợi ngất cao nay lại càng thêm vô thường khó đoán.
Chợt, Lưu Dung chạm phải một đôi mắt phiếm sắc xanh đen chẳng chút kiêng kỵ chĩa thẳng vào mình. Suốt nhiều năm qua, chỉ có kẻ đó dám nhìn y ngang tàng như thế. Do nể công trạng của Đổng Trực nên Thiên tử ban cho kẻ chẳng có máu mủ gì với Đổng thị áo mũ đai hốt trang trọng chẳng hợp lẽ với gã. Họa chăng, mặt mũi gã xem chừng cũng chấm phết thêm cho bộ xiêm y hoa lệ ấy. Gã trơ tráo soi y chằm chằm, khóe môi cong lên nét cười lịch lãm. Y chẳng tránh chẳng từ, dùng dáng vẻ cao ngạo hờ hững đáp lại Đổng Húc.
Bãi triều, chư thần theo phẩm cấp lần lượt rời điện, chỉ duy Đổng Chiêu Nhuận nghênh ngang vượt qua người khác để bám gót Yên vương. Áo gã tối màu, lướt qua tấm mùng u ám giăng sau cánh cửa sơn đỏ đinh vàng, tựa như một cái bóng thoắt bại lộ dưới ánh sáng.
Gã là đứa con hoang do Đổng Trực nổi hứng nhặt về, không có tài cán, cũng chẳng được ưa thích, bất quá dựa hơi Lưu Trang để hưởng lây công trạng làm rạng rỡ vẻ mặt nhất thời. Trong Đổng thị, gã là một kẻ lạc loài, cũng như trong số chư thần. Húc chẳng thân chẳng kính, chẳng vâng chẳng nịnh ai, chỉ sắm vai một con rối chạm trổ hoa lệ, rúm ró giả dối trong lòng bàn tay Lưu Trang.
Lưu Dung khinh thường loại người như gã, đến việc bị gã nhìn cũng khiến y cảm thấy nhơ bẩn.
Một bóng đen sượt qua khóe mắt làm Lưu Dung ngoái đầu trông theo, dải nắng chính ngọ lăn dài trên sống mũi rọi lóa tầm nhìn. Ngoài Húc ra, còn có một kẻ cũng xem như lạc loài trong các chư thần. Từ Cẩn An đứng cách y không xa, áo bào xanh sẫm, thắt đai sừng tê, đang ngẩng mặt nhìn lên tường Đông, ở đấy có một chạc tùng ghé vào mái hiên. Y chưa biết thứ gì thu hút hắn thì bất đồ một con yến lao vút qua bọn họ như chớp giật, chao liệng đậu lên nhánh tùng.
Thì ra ở dưới mái hiên có một lớp bùn vun lên quây thành tổ yến.
Trong một khoảng thời gian, Lưu Dung vẫn luôn nghĩ y chính là con yến đậu trên cành cao, nhưng đến ngày bốn bể dấy lên ba đào, y mới sực hiểu mình chỉ là cục bùn rơi ra từ một tổ yến mục nát.
Sau đó được Từ Cẩn An nhặt lên,
nâng trong tay.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com