Chương 31. Tạc núi
* Từ đầu đến giờ, các điệu từ và thơ ca dẫn vào truyện được phỏng dịch cốt để nghe xuôi tai, không tuân theo đúng luật bằng trắc.
Lần thứ hai Tương vương nghe tên Từ Diễm là vào dịp Tết Nguyên Đán năm Cảnh Diệu thứ mười, sứ thần phiên bang tiến cung triều kiến. Thết yến xong, Thiên tử cố ý hậu đãi, ban tọa và trà nóng giữ sứ Ngụy lại đàm đạo với các hoàng thân.
Bấy giờ Yên vương không ở trong kinh, các vị Mục vương, Văn Tuyên và Tương vương đều thiện văn hơn võ, không am tường việc binh. Sứ Ngụy đối đáp một hồi, ngậm cười thưa với Thiên tử: "Vận nước tôi không yên ổn như nước của bệ hạ, khi chúa tôi lớn khôn thì tiếng đàn hát có lẽ còn chẳng nghe nhiều bằng tiếng binh đao. Bởi vậy, chúa tôi xem việc con trai học binh lược võ nghệ là nòng cốt để vệ quốc an dân. Thứ cho tôi nói thẳng, những món cầm kỳ thi họa suy cho cùng chỉ là thú nhã của người đọc sách, chứ chưa thực cần thiết để nam nhi kiến công lập nghiệp."
Ấy là một lời châm chọc trắng trợn: Ở thời buổi này, các hoàng tử nước tôi luôn sẵn sàng ra quân dẹp loạn, còn các vị thì chỉ biết tới những chuyện bút mực.
Dụ Đế không vui, song nhất thời chưa nghĩ ra lời đáp trả. Lúc này một trong các dịch quan tiến lên nói một lời, sứ thần nghe rồi lộ vẻ lúng túng.
Một dịch quan khác chuyển ngữ lại rằng: "Anh ấy nói: 'Sứ thần là người ngoại quốc, làm sao biết hoàng thân nước tôi không luyện tập võ nghệ? Thế mà ngay đến một kẻ bộ hạ như tôi cũng biết chúa Ngụy từng dùng ngàn lượng hoàng kim để chiêu dụ Văn Hiến hầu Lý Đông Đình. Nếu hoàng tử nước ngài đồng lòng với nhau thật, nhẽ nào lại để đích thân chúa thượng phải hạ mình đi tìm người hiền từ ngoại quốc như thế?'."
Sứ thần không trả lời được, đành bưng bít cầm chung trà lên uống. Mục vương Đán thuận thế nói tiếp: "Ta cứ lời sứ thần mà nói: hiện tại vận nước ta yên ổn, đàn ông lo cày cấy làm nông, đàn bà khéo đưa thoi canh cửi, ấy là cái phúc thần linh thưởng hậu cho đức độ cai trị của vua cha. Vì vậy, anh em ta thân là con cái, tự biết chú trọng việc trau dồi lễ nghĩa, lấy sự hòa hiếu của Thiên gia làm tấm gương cho chư dân nhìn vào học hỏi."
Thế là sứ Ngụy không dám nói lời quá trớn nữa. Thiên tử hỏi han nhiều điều rồi mới cho sứ thần về nghỉ. Vua đi rồi, ba đức vương ngồi lại với nhau. Lưu Đán ngó quanh tìm kiếm viên quan đã đối đáp với sứ thần nhưng không thấy, bèn cất tiếng hỏi. Một dịch quan khác trả lời: "Người đó là Lễ bộ Lang trung, Tứ Dịch quán Từ Cẩn An, năm nay hai mươi mốt tuổi."
Lưu Thục nhận ra cái tên này, cũng ngoái nhìn, nhưng người đã đi từ lâu nên không thấy nữa.
.
Số là sứ thần đã ngỏ lời hòa thân làm bảo chứng cho tình hữu hảo giữa hai nước. Dụ Đế định tấn phong con gái tông thất rồi gả đi theo lễ nghi công chúa, song sứ thần không chấp thuận, lại biện luận rằng triều đình đã nhận vô khối châu báu và chiến lợi phẩm của họ, muốn con gái ruột của Thiên tử hòa thân. Dụ Đế vừa nghe đã gạt đi, bất kể thế nào cũng không đồng ý.
Sau khi đàm phán thất bại, đoàn sứ Ngụy trở về quê hương. Chỉ một tháng sau, chúa Ngụy đặc phái con trai trưởng là Xích Hoàn vương đích thân ra biên giới tuần du, khích lệ binh sĩ. Triều đình nhà Lưu Tấn tất không thể nhẫn nhịn việc này, cũng khẩn cầu Thiên tử phái thân vương đi trấn an các nơi.
Dù vậy, việc phái ai đi lại gây tranh luận gay go. Về thân phận, Lưu Đán là trưởng tử; về phẩm chất, tuổi tác và kinh nghiệm của Lưu Trang quá chênh so với Ngụy thân. Vả chăng, dưới thời cải cách tô thuế, cố nhiên không phải tất cả quan viên đều ủng hộ quyết định này, Hàn Lâm viện Thừa chỉ học sĩ Trần Củng là một trong những người phản đối chính sách mới, lại còn mạnh mẽ lên án Thủ phụ* Lý Hậu Xuân tiếm quyền Trung Thư, tự ý ra lệnh cho ty lại. Các quan viên đối địch căm ghét Trần Củng nên vu khống ông và bạn quan tội biển thủ. Tuy Thiên tử đã hạ lệnh tống giam Trần Củng, song ý ngài hãy còn chưa quyết.
* Gọi Đại học sĩ đứng đầu Nội các.
Trước tình cảnh đó, Lý Hậu Xuân hết sức đắn đo: Mục vương cậy vào công việc cải cách, rất được chư thần theo lối canh tân ủng hộ; về phía Yên vương thì được lòng chúng võ quan, vì chính Đổng Tướng quân cũng đã bảy tỏ lòng căm trước sự trơ tráo của Ngụy. Vì thế, ý kiến trong Nội các chia thành hai luồng đối lập, mỗi lần họp bàn đều rơi vào bế tắc. Hôm nay cũng vậy, nghị sự xong mọi người đều về, chỉ còn Lý Hậu Xuân nán lại tìm sách lược ứng phó. Ông không rành sử nước Ngụy, hỏi các học sĩ trực trong viện không thấy ai am hiểu, bèn sai người đi mời dịch quan ở Tứ Dịch quán đến giảng.
Hôm ấy lại là hưu mộc, ở Tứ Dịch quán chỉ có ít người, Từ Diễm nói bọn họ ngồi làm để mình đi qua. Thấy hắn, Lý Hậu Xuân tương đối bất ngờ. Từ Diễm đặt sách sử xuống, chắp tay nói: "Hạ quan có thể giúp được gì cho ngài?"
Tuy nhánh của Lý Hậu Xuân đã tách khỏi Hoàng Sơn lập nghiệp, song vốn cùng một ngành, làm chỗ cậy dựa cho nhau trong quan trường là điều đương nhiên, vì thế sinh tiền Lý Đông Đình từng qua lại với nhà ông. Do Từ Diễm luôn đi theo thầy mình nên hắn và Lý Hậu Xuân cũng tính là người quen cũ. Trong lúc trao đổi, Lý Hậu Xuân thấy Từ Diễm đối đáp vào đúng trọng tâm, thái độ điềm đạm ít lời, bèn hỏi thẳng ý kiến của hắn về vấn đề nan giải hiện tại.
Từ Diễm ngẫm rồi chắp tay thưa: "Tôi cứ lời thật mà nói: việc tô thuế là việc tô thuế, việc Ngụy thân là việc Ngụy thân, một việc là đối nội, một việc là đối ngoại. Vả chăng, dù là Mục vương hay Yên vương thì đều là con của Thiên tử, mỗi người có lợi thế riêng, trong việc này chẳng ai phải chịu thiệt thòi."
Lý Hậu Xuân cau mày: "Ý anh là ta hãy khuyên bệ hạ phái đi cả hai vị thân vương?"
"Việc đó tôi không dám nhận. Vốn tôi đâu phải là người đáng cho đại nhân lời khuyên. Song, vì đại nhân hỏi nên tôi mới trả lời. Những năm này Ngụy Chiêu Nhung Hạ bốn phương đều không yên ổn, chỉ có nước ta vẫn mưa gió thuận hòa, xa gần bình yên, ấy là vì Thiên tử của ta xem trọng nhân nghĩa, kính sợ quỷ thần, không lơ là việc hiếu kính Thượng hoàng Thái hậu. Vì vậy, hiềm khích giữa hai vị điện hạ nói nhỏ là gia sự, còn nói lớn chính là quốc sự. Việc nhà thì chỉ cần trong nhà biết, còn việc nước thì cốt làm sao cho chư dân thấy rõ."
"Anh không gặp Thiên tử, lại tự cho là hiểu Thiên tử!" Ngài Thủ phụ lắc đầu.
Từ Diễm khiêm nhường xá tay: "Cả tôi lẫn ngài đều không dám nhận mình hiểu Thiên tử, nhưng vì tôi là bề tôi của Thiên tử nên mọi suy nghĩ của tôi đều là nghĩ cho Thiên tử. Việc tín nghĩa ở đời nói hẹp là giữa người với người, nói rộng là giữa các quốc gia với nhau. Hiện thời triều ta và Ngụy đều không có lý để động binh đao, nhưng từ xưa việc cai trị bằng sức mạnh chỉ dẫn tới lòng người oán hận, nay chúa Ngụy quen thói diễu võ giương oai, ấy là cái lợi để triều ta thực thi ân uy, thu phục chư dân làm căn cơ về sau."
Nghe vậy, Lý Hậu Xuân lâm vào trầm tư. Nếu bây giờ vua Tấn giúp đỡ chư hầu, giả như có ngày chúa Ngụy lật mặt, lân bang tất cũng sẽ ra quân tương trợ triều ta, ấy mới là mưu sự lâu dài.
Tiếp thu ý kiến, Lý Hậu Xuân suốt đêm soạn tấu, đích thân trình lên Thiên tử. Dụ Đế xem rồi hết sức vừa lòng, lập tức truyền hai đức Mục vương và Yên vương vào cung, răn dạy một hồi, sau lại giải giảng, cuối cùng ban dụ rằng: "Trẫm xem thấy: bờ cõi nước ta rộng lớn, các châu đều có quan trông, tuy nhiên lòng người có xa có gần, chỉ sợ bách tính tai nghe không nhớ, mắt thấy chẳng tin; lại nhớ thời cổ vua Thuấn thường xuyên đi tuần, nhân dân thấy rõ thánh đức, mới vui vẻ an cư. Nay trẫm bị việc triều chính cầm giữ, muốn mà chẳng được, nên giao phó cho tông thất. Mục vương thân là trưởng tử, tất phải lãnh nhận trọng trách trước nhất; lại mệnh Yên vương theo hộ tống đến vùng Nghi Hoa Nghi Bình thì tách thành hai đoàn đi về hai hướng. Dọc đường chư khanh thăm viếng các châu, tế lễ thần núi, lại răn dạy quan viên, động viên binh sĩ, xét lại nỗi oan của dân lành."
Cả hai đức vương kinh sợ lĩnh dụ, lại phải đợi Trung Thư Môn Hạ mang chiếu thư tới thì mới được cho về. Đối với Lưu Trang thì việc tuần du không phải là kết quả tồi, nhưng về phần Lưu Đán lại không khỏi bực tức ôm hận. Con người gã ta hà khắc, thường xuyên ghi thù. Biết vậy, Lý Hậu Xuân không bảo với ai về đóng góp của Từ Diễm trong việc này, nhược bằng Lưu Đán mà biết, ắt sẽ rắp tâm hãm hại Từ Diễm.
Tuy ông ấy không bẩm lên, song trong quán các có người thân với Tương vương, mới kể cho ngài nội tình. Vì Lưu Thục người yếu, không ganh lại Lưu Đán, nay nghe nói có người sửa trị anh Cả, vui mừng đến tận mấy ngày liền, lại càng ghi nhớ Từ Diễm hơn nữa.
.
Qua mấy hôm là Đoan Ngọ, trong cung thết tiệc trưa theo thông lệ, tiệc xong quốc chủ cùng quốc mẫu di giá đến điện Hàm Hi ngắm hoa đào nở, tán gẫu với hoàng thân.
Thiên tử truyền cho Tương vương thổi tiêu trợ hứng, nghe rồi hỏi tên khúc nhạc là gì. Thục thưa: "Lễ Ký – Nhạc ký chép: 'Lòng người vốn tĩnh, nhưng vì tình động nên sinh ra ý niệm, ý niệm biểu hiện bằng âm điệu'. Vốn nhi thần không chuẩn bị khúc này từ trước, nhưng trông cảnh vui mừng nên tự nhiên thổi thành bài, phải thỉnh phụ hoàng ban tên."
Thiên tử trầm tư ngắm muôn cánh hoa trong làn gió, phán rằng: "Vương Kinh Công có câu: 'Mải đếm hoa rơi lười đứng dậy, ham tìm cỏ lạ chậm ra về(1)', chẳng bằng đặt tên là 'Tầm phương khúc'."
Lưu Dung còn bé nên ngồi cách Thiên tử không xa, lúc này đang ăn một lát đào, nghe vậy liền ngẩng lên góp ý: "Con nhớ thơ ông Lý Nghĩa Sơn cũng có câu: 'Lùng hoa dưới ráng say túy lúy, dựa cội buông chiều ngủ mê man(2)', hay gọi là 'Say dưới hoa' ạ?"
Thiên tử cười nói: "Ý của Diệu Đức cũng hay, ba tiếng 'Hoa hạ túy' nghe đáng mừng hơn 'Tầm phương khúc' của ta. Tương vương nghĩ sao?"
Trước khi Trần hậu lâm bồn, từng chiêm bao thấy một con sư tử đá giơ vuốt chạm vào bụng mình, vì vậy Thượng hoàng đã đặt cho Hoàng tử Dung nhũ danh là "Diệu Đức*."
* Xuất xứ từ phiên âm tiếng Phạn của Văn Thù Bồ Tát, ngài được mô tả dưới hình người cầm kiếm cưỡi sư tử.
Lưu Thục bèn đáp: "Dùng ba chữ 'Hoa hạ túy' e rằng sẽ trùng thơ ông Lý Nghĩa Sơn. Về từ phẩm, Án tướng đời Tống cũng có hai câu: 'Khuyên chàng chớ cô thân tự tỉnh, kìa số buộc muôn người say hoa(3)'. Nhi thần nghĩ lấy tên 'Túy hoa gian'."
Nghe lời này Lưu Đán bật cười, nửa thành ý nửa châm biếm liếc nhìn Nhị đệ: "Từ của Án Đồng Thúc uyển chuyển thê lương, tương tư đa tình, ngay đến ta cũng chỉ lâu lâu mới lấy vài câu: 'Vô tình chẳng thấu đa tình khổ, một tấc tơ vương vạn cuộn sầu' hay: 'Bóng nguyệt chẳng tỏ người đơn chiếc, canh thâu rọi sáng cửa son không' đem ra ngâm cho vui miệng. Vẫn là Nhị đệ am tường nhất, hiểu được cái sâu diệu ẩn trong câu từ của Án tể tướng."
Dưới thời Nhân Tông, vua từng nghe lời gièm pha mà biếm truất rất nhiều trọng thần, trong đó có Án Thù. Lời của Mục vương cốt muốn ám chỉ Tương vương bất mãn về chuyện của nhóm Trần Củng.
Lưu Thục luống cuống đỏ mặt: "Tiểu đệ thật nghe không hiểu lời của hoàng huynh."
Lưu Đán cười: "Không hiểu thì càng tốt. Chẳng là ta cũng muốn hiến cho Nhị đệ cái tên 'Quy yến', lấy ý từ hai câu: 'Chẳng biết làm sao, hoa tàn rụng; trông như chốn cũ, én lượn về(4)' của Án tướng. Nhị đệ thấy thế nào?"
* (1)Vương An Thạch, tể tướng đời Tống, từng thụ phong tước Kinh Quốc công. Đây là câu trong bài "Bắc sơn": "Tế sổ lạc hoa nhân tọa cửu, hoãn tầm phương thảo đắc quy trì", Nguyễn Đôn Phục dịch thơ. "Tầm phương" nghĩa là kiếm tìm hương thơm.
(2)Bài "Hoa hạ túy" của Lý Thương Ẩn: "Tầm phương bất giác túy lưu hà, ỷ thụ trầm miên nhật dĩ tà.".
(3), (4)"Hoa mộc lan" của Án Thù: "Khuyến quân mạc tác độc tỉnh nhân, lạn túy hoa gian ưng hữu sổ". ("Túy hoa gian" tức là say trong hoa.) "Hoán khê sa": "Vô khả nại hà hoa lạc khứ, tự tằng tương thức yến quy lai."
Cuối xuân hoa tàn, tiết trời ấm lên, đàn én lại quay về phương Bắc, đây là quy luật sinh sôi của tự nhiên. Mà ngụ ý của Mục vương cũng rất rõ ràng: không có đám người Trần Củng thì sẽ có đám người khác thay thế.
Nhất thời mọi người không có bất cứ lời lẽ gì, ai nấy đều vô tình cố ý, trong sáng ngoài tối quan sát vẻ mặt ngôi cao. Chẳng ngờ cuối cùng lại là Lưu Dung bày tỏ ý kiến. Y nghiêng qua kéo tay áo rồng, hỏi Thiên tử: "Phụ hoàng, hai câu: 'Một tấc tơ vương vạn cuộn sầu' và: 'Canh thâu rọi sáng cửa son không' nghĩa là gì?"
Giọng y không lớn nhưng đủ để mọi người nghe rõ. Bấy giờ Dụ Đế khoan thai rủ ống tay táo chạm đất, lời ít ý nhiều trả lời Lưu Dung: "Những điều ấy, lúc này con chưa cần hiểu."
Mục vương Đán bước ra nhận tội: "Hôm nay nhi thần lỡ quá chén, đã làm phụ hoàng mất hứng."
"Vẫn chưa chọn được tên cho khúc nhạc của Tương vương đâu." Thiên tử lái về chủ đền ban đầu, trực tiếp ngó lơ Lưu Đán. Song, chính ngài cũng chẳng hề nhìn đến Lưu Thục. Ngài lại bảo: "Diệu Đức nhỏ tuổi nhất, không biết thiên tư, hãy để Diệu Đức chọn một trong số các tên vừa rồi."
Lưu Dung dáo dác nhìn lên vua cha rồi mẫu hậu. Trung cung khẽ gật đầu khích lệ, y mới ngẩng đầu nhìn qua các người anh của mình, cuối cùng ánh mắt trong trẻo của y trở về trên Thiên tử, nói: "Ở đây phụ hoàng là lớn nhất, chắc chắn cũng am hiểu nhất, vậy con chọn tên 'Tầm phương khúc' của người."
"Quyết định vậy đi." Thiên tử nói ngắn gọn, để người nghe tự hiểu lấy.
Nhằm vỗ về Trường Bình hầu và Quý phi, sau đó Dụ Đế vẫn cách chức nhóm Trần Củng, điều đi địa phương. Lưu Thục biết là Lưu Đán xúi giục, vừa giận vừa buồn, một mình ngồi trong thư phòng đến chiều, lúc đi ra ngoài, hai mắt vẫn còn đỏ.
Lưu Anh sang thăm trông thấy, thở than: "Ta đã khuyên đệ tránh cho xa những việc liên quan đến Đại ca. Sắp tới ngày rời kinh, tâm trạng huynh ấy sẵn bực dọc, đệ lại đi thò tay vào ổ kiến lửa. Đệ cũng chẳng cần phải lo cho Lưu Trang, nó mạnh hơn chúng ta, vả chăng, chỉ cần Đổng Húc còn mang họ Đổng thì Đại ca chỉ nói mát mẻ chứ có làm được gì? Việc chẳng can hệ, cứ lơ đi.
"Sắp tới ta phải về thái ấp, các cháu của đệ còn thơ dại, chị dâu đệ cũng vất vả nhiều. Thấy đệ ủ dột thế này thì làm sao ta yên tâm? Đệ là người thông minh, vì thế thường có nhiều việc không như ý, thành ra để bụng lo nghĩ. Ta khuyên đệ nên tránh để mình rỗi rãi, kiếm lấy công việc bổ ích mà làm, việc biên soạn quốc sử trong quán các luôn thiếu người làm chủ, nếu đệ hứng thú, ta đi thưa bệ hạ một lời."
Lưu Anh lại khuyên thêm vài câu rồi ra về. Thấy Tương vương ngồi buồn, nội thị gợi ý ngài gọi con hát đến tiêu khiển. Linh nhân bái lạy, hỏi đức vương muốn nghe bài gì, Thục nói gì cũng được, nó bèn hát "Bồ tát man": "Rừng yên khói lả dệt mây mờ, núi xanh nhuốm lạnh ánh thê lương. Ám ảnh tới lầu cao, hiển lộ bóng người sầu. Thềm ngọc trơ trơ đứng, đàn chim vội về cội. Đường về là đường nào? Trường đình lại đoản đình*."
Lại hát "Giá cô thiên": "Xe hương yên gấm gặp qua đường, tiếng ai văng vẳng gieo đoạn trường, tiếc không chắp cánh như loan phụng, lòng này vẫn một niềm vấn vương. Vàng cất ốc, ngọc xây lồng. Xe như nước chảy, ngựa như rồng, chàng Lưu hận nỗi Bồng sơn cách, nào hay núi Bồng cách trùng muôn."
* Từ phẩm của Lý Bạch và Tống Kỳ.
Bài của Tống Kỳ có điển cố: Có lần Tống qua Vệ Nhai gặp một chiếc xe trong cung, có cung nữ vén rèm nhận ra nói: 'Tiểu Tống kìa!'. Tống Kỳ rung động làm bài này, bài từ truyền tới tai vua, Tống Nhân Tông bèn tìm cho ra cung nữ kia, gọi Tống Kỳ đến cười: 'Trẫm thấy Bồng Lai chẳng cách xa khanh đâu!' rồi ban nàng cho ông.
Tương vương nghe vậy, ảo não thở dài: "Thế còn Bồng Lai của ta đang ở đâu!" Rồi sai người đến nhà họ Lý.
Bấy giờ đã tối hẳn, Lý Ức nghe biết, tưởng là có chuyện gấp, sai thư đồng sửa soạn vài thứ rồi đi ngay. Tương vương uống thuốc xong, mệt lả nằm xây lưng trên giường. Nội thị đứng trực không dám gọi, lại đi ra ngoài báo đức vương đã ngủ, ngày mai Lý công tử hãy lại đến.
Viên nội thần trưởng quản dinh liền mắng nó: "Đồ ngu! Ngày thường quen được điện hạ khoan dung, bọn bay chỉ chực kiếm cớ làm biếng! Ta lại vả cho nát miệng bay!" Rồi vào phòng kiểm tra. Thấy đức vương ngủ thực, ông ta trở ra nói: "Lúc này đã muộn lắm, ra ngoài chỉ sợ người ta tưởng nhầm là phường bất lương hoặc những hạng ăn chơi xỏ lá. Nếu công tử bằng lòng, tôi xin dọn một cái buồng cho công tử ở."
Đêm đó Lý Ức nghỉ lại dinh. Hôm sau Lưu Thục ngủ dậy, còn đang thẫn thờ thì nghe thị nữ nói người đến từ tối qua, suýt thì nhảy dựng lên: "Phản chủ cả rồi! Tại sao không biết gọi ta dậy? Có lý nào ta lại bắt Ngũ lang phải chờ đợi suốt đêm!"
Nói rồi chải đầu thắt lưng, vội đi ra sảnh. Lý Ức nghe tiếng định hành lễ, song Tương vương cầm tay đỡ y dậy, vui mừng bảo y cùng dùng bữa.
Ăn sáng xong, thị nữ trải đệm lên kỷ, sắp cỗ trà và hoa quả. Ban đầu Lý Ức ngồi ghế dưới, Tương vương phải năn nỉ, y mới chịu lên trên. Lưu Thục còn mệt nên dựa vào gối, mải ngắm nhìn y. Lý Ức đành phải lên tiếng trước: "Nghe bảo điện hạ không khỏe, đến nay bệnh tình đã đỡ chưa?"
"Hiện tại còn thấy hơi mệt, nhưng có Ngũ lang bầu bạn, trong lòng ta thư thái, lát nữa tự khắc sẽ khỏe lên."
"Tôi chưa bao giờ nghe nói đến kiểu chữa bệnh như thế."
Lưu Thục bật cười: "Ngũ lang không biết đâu, bệnh này của ta dù có uống bao nhiêu thuốc cũng bất lực, phải gặp được đúng người thì mới có cơ may khỏe lại."
"Ồ, chứng bệnh này lạ thật."
"Bệnh này tuy nói không có phương thuốc chữa dứt, nhưng thực ra cũng không tới nỗi nan giải. Trong y thư viết thế nào thì ta không rõ, vậy mà trong thi ca thì nhiều lời diễn giải tỉ mỉ lắm, không nói đâu xa, ngay trong Kinh Thi đã có chép: 'Khi em đã gặp được chàng, làm sao lại chẳng vơi sạch sầu mong*', lại có ông Lâm Bô viết bài từ: 'Núi Ngô xanh, núi Việt xanh, hai dải non quanh cùng đưa đón, biệt ly ai thấu tình*', xem chừng các ông này còn hiểu bệnh tình của ta hơn cả Ngự y."
* Bài "Phong vũ kỳ 02" và "Trường tương tư" của Lâm Bô.
Lý Ức không nhịn được cười ra tiếng: "Xem ra điện hạ đã khá lên nhiều nên mới có tinh thần nói nhăng nói cuội."
Tương vương đã gần một năm không gặp y, trong lòng vui vẻ, kể lại chuyện tối qua nghe "Giá cô thiên" rồi nhớ tới y thế nào, vả chăng, không khỏi có vài phần trách cứ y lên kinh từ bao giờ mà không báo với ngài.
Lý Ức lấy làm lạ hỏi: "Ngài không nhận được thiếp thư của tôi sao?"
Sau đó mới rõ lý do thiếp không tới được tay Tương vương là vì bên trên ghi tên của Lý Ức từ Hoàng Sơn Lý thị chứ không phải từ nhà Lý Thủ phụ. Viên thư ký không biết y, tưởng là người mới lên kinh nên sắp thư vào kệ danh thiếp xin trình diện đức vương. Lưu Thục lại ít ngó qua mớ thư đó nên chẳng hay biết.
Do tối qua đi gấp rồi ở qua đêm, sợ người nhà lo lắng nên Lý Ức không ở lại lâu, ra về cho Tương vương nghỉ ngơi.
Lưu Thục tiễn chân y một đoạn, ai ngờ chứng huyết hư* tái phát, ngã vật xuống. Lý Ức dang tay đỡ kịp, gọi vài tiếng nghe ngài đáp thều thào, sờ thấy tay chân lạnh run. Y ném phăng gậy trúc, như thể đột nhiên hai mắt sáng ra, nhanh chóng bế bổng đức vương trở lại nhà trong, vào tận giường. Cả dinh cơ nhất thời nháo nhào, Tương vương phi lập tức sai người đánh xe vào cung mời Thái y.
* Bệnh về thiếu hụt khí huyết.
Thái y nhìn nghe sờ nắn theo trình tự, bấm huyệt một lúc đức vương mới hồi tỉnh. Thục hỏi một số câu rồi thưởng cho Thái y ra về, trông thấy Lý Ức, lại có sức cười đùa: "Nhìn xem, Ngũ lang vừa muốn đi, ta liền ốm trở lại..."
Nói đoạn ngài nhớ ra gì đó, truyền lời xuống: "Đừng báo tin này cho mẫu hậu."
Lý Ức hỏi: "Ngài là con của trung cung, vì sao lại không muốn báo lên?"
"Ngũ lang có điều chưa biết, chứng huyết hư của ta có từ lâu, lúc nhỏ đã uống biết bao nhân sâm, yến sào, bạch truật, phục linh... làm rầy rà khắp nơi. Bây giờ ta lớn thế này rồi, bệnh tật vặt vãnh đâu có đáng để làm phiền lòng cha mẹ nữa." Tương vương lại thở dài: "Huyết hư thường là do tỳ khí không đủ, tục ngữ nói: 'Bệnh ở tỳ vị thì ba phần chữa, bảy phần dưỡng', ta đương tráng niên, ráng dưỡng một thời gian là sẽ khá lên. Ngũ lang đừng lo lắng."
Lý Ức cau mày, xưa nay y ở Hoàng Sơn rất mực nhàn nhã nên những tài nghệ gảy đàn viết chữ, pha trà chế hương gì cũng thông thạo. Nhờ trời sinh thông minh, y cũng tìm hiểu sâu sắc các sách y khoa, tuy chưa gọi là thực học, song cũng bắt ra một số bệnh đơn giản.
Vì vậy, y suy nghĩ rồi nói tiếp: "Bị huyết hư đúng là cần bồi bổ tỳ vị, nhưng để trị dứt bệnh thì phải nói rõ gốc nguồn. Ngoài tiên thiên bất túc (di truyền, bẩm sinh), ngài không có bệnh gì mạn tính, bình thường ăn uống đầy đủ, hẳn không thiếu tinh chất từ thực phẩm, lại chắc chắn không phải lao động cực nhọc thương tổn nguyên khí, thế thì có lẽ chỉ còn bệnh từ trong tâm mà ra."
Quả thật từ đợt Đoan Ngọ Tương vương bị Mục vương làm bẽ mặt, trong lòng đã sẵn buồn bực, nay nghe biết những người thanh liêm bị cách chức chuyển đi thì càng thêm u uẩn cay đắng. Chứng huyết hư tái phát hẳn là do vậy.
Song, Lưu Thục không muốn kéo y vào hiềm khích giữa mình và Lưu Đán nên không nói gì. Lý Ức hỏi không ra bệnh, cũng đành thôi.
Qua thêm mấy hôm là ngày hai đức Mục vương và Yên vương khởi hành đi tuần du, Tương vương gắng dậy sớm ra tiễn chân. Lưu Trang bận giáp cưỡi ngựa, đang điểm binh, thấy cỗ kiệu thì lập tức nhảy xuống, lại gần rèm nói: "Huynh đã không khỏe, còn tới đây làm gì?"
Lưu Thục cười mắng hắn: "Còn chưa đi lập công mà lớn lối quá nhỉ, chưa biết chừng lúc trở về còn định quản lý cả việc đi đứng của ta đấy!"
Đổng Húc cũng xuống ngựa chạy đến, sôi nổi pha trò: "Ắt phải quản lý rồi! Lỡ chúng tôi đi mất hai ba năm, lâu ngày thấy nhớ Tương điện hạ, trở về phải nhốt ngài luôn trong dinh để chơi bời uống rượu đã đời mới thôi!"
Mọi người ở đó đều cười. Lưu Trang trừng Húc một cái cảnh cáo, còn Lưu Thục xua tay: "Riêng mi thì không cần trở về đâu, thứ miệng lưỡi láo toét, chỉ giỏi lấy chúng ta ra làm trò đùa. Giá mà Xích Hoàn vương bắt luôn mi về Ngụy thì quân ta bớt được một con tiểu yêu láu táu hỏng việc!"
Mọi người lại cười một trận. Lưu Đán ở trong kiệu lớn nghe thấy, liên tục sai người thúc giục. Lưu Trang còn trẻ, tính khí xốc nổi, cũng cố tình mặc kệ anh Cả. Tương vương biết Lưu Đán là tay xảo quyệt nên khuyên nhủ Tam đệ phải biết nhẫn nhịn, chớ có hấp tấp mà sa bẫy. Lưu Trang luôn miệng hứa hẹn, sợ anh thương tâm nên không dám bịn rịn nữa, nói Đổng Húc lên ngựa chuẩn bị đi.
Chàng Chiêu không biết nghĩ cái gì, không nghe lời Yên vương, cứ đứng nài nỉ Tương vương làm cho mình đôi câu ngâm dọc đường. Lưu Thục ngẫm nghĩ, đọc lên:
"Quan san mấy ải, tấc gươm báu, tấc nhung bào, trùng trùng;
Chí nguyện muôn hồi, này gan vàng, này dạ sắt, niệm niệm(5)."
Lưu Trang vỗ đùi khen: "Câu này hay lắm! Rất có sĩ khí!" Rồi truyền cho người ta dạy các quan quân học thuộc. Vì vậy, lúc hai đức vương khởi hành từ cổng cung ra ngoài cổng thành, quan quân đi tới đâu thì nơi đó rền vang tiếng đọc 'trùng trùng, niệm niệm'. Âm thanh như núi lở thác đầm, chớp giật bốn phương, chim chóc rào rạt kinh sợ, muông thú chui rúc hầm hào, nhân dân vui mừng hợp tiếng ca ngợi, hào hùng không kể xiết được.
(5) "Nhung bào" là áo lính mặc khi ra trận, "gan vàng dạ sắt" chỉ sự can đảm kiên trung. "Trùng trùng" mang tính tả thực sự đông đúc của đoàn người, đối với "niệm niệm" là lời khẳng định về ý chí của họ.
Chỉ riêng Lưu Dung chưa từng ra khỏi nội đình, nghe lời truyền tụng trong cung, không khỏi ao ước: "Giá đệ sinh sớm vài năm, hôm ấy đi tiễn chân thì cũng được chứng kiến quang cảnh đó rồi."
Lưu Thục đáp: "Việc ấy có gì mà lạ, chẳng qua chỉ là quang cảnh nhất thời, năm nay nhớ, năm sau quên. Vậy nên mới có câu: 'Đao kiếm ra biên ải, phấn bảng tạc Bồng sơn, thời lên chẳng mất sức, thời xuống vẫn thung dung*', từ xưa công hầu khanh tướng có vô số dòng họ, người này vừa ngã, lại có kẻ khác lên thay. Quang cảnh người ta xem là tốt đẹp đều có thời vận, rồi đến lúc 'cây đổ bầy khỉ vượn tan' thì còn ai nhắc tới nữa?"
* Từ của Lưu Quá đời Tống, "phấn bảng" tức là dùng phấn viết bảng thay cho giấy bút, nói cổ nhân tạc văn chương lên núi đá để truyền cho hậu thế.
"Huynh viết hay như thế, quán các Hàn Lâm đều ghi chép tường tận, thường xuyên lấy ra phân tích, sao lại cho rằng người ta sẽ không nhớ?" Y suy tư đôi chút, lại nói tiếp: "Hay là đợi đến khi đệ lớn sẽ tìm cho huynh một ngọn núi để tạc điển cố hôm nay lên nhé?"
Đức vương bật cười: "Học từ đâu cái lối nói 'phong hỏa hí chư hầu*' đó đấy?"
Thế mà Lưu Dung nghiêm túc đáp: "Huynh là ca ca của ta, lúc này ta chưa làm gì được cho huynh. Đợi đến khi ta lớn, biết đi xa rồi, ta gặp ngọn núi nào thì sẽ dựng bia tạc một hai bài của huynh ở đó. Thế là huynh không cần sợ người ta quên mất nữa đâu."
* Thời Chiến quốc, vua Chu vì muốn làm nàng Bao Tự cười nên giả vờ đốt đài phong hỏa để chư hầu hiểu lầm là có chiến tranh chạy đến, sau vài lần bị lừa, chư hầu không tiếp ứng nữa dẫn tới việc Tây Chu bị Tần đánh bại. "Đốt lửa đùa chư hầu" chỉ việc làm rình reng lên để lấy lòng ai đó mà không nghĩ đến hậu quả.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com