Chương 33. Ấm cúng
Để dẹp yên mối nguy từ Ngụy, các sứ quan năm đó được tuyển chọn cẩn thận hơn mọi năm.
Lý Ức từ hành cung trở về hay tin tức, liền sang nhà họ Từ. Ngoài lễ lạt và những dịp cần tiếp khách thì cổng chính luôn đóng, ngày thường Từ Diễm lên triều đều đi cửa hông. Vì vậy, y vừa vào đã nghe Từ Lương la ầm lên: "Mẹ ơi, chú Hữu đến!"
Tự Nương và hai đứa thị nữ đang ngồi ngoài hè may vá, nghe nói, liền đi đón khách. Từ Tuyển đang ngủ trưa ở nhà sau, bị tiếng anh đánh thức, lồm cồm bò dậy ngó nghiêng. Vú em vén mùng bế cậu bé đi rửa mặt rồi ra chào chú.
Một lúc sau Từ Diễm cưỡi ngựa đón A Quán về, đứa gác cổng cầm bọc sách rồi bế công tử nhỏ xuống ngựa. Cậu bé lễ phép đến chào mẹ và chú, lấy bánh trái đã mua ra mời. A Lương định thò tay bẩn vào bốc bánh, mẹ nó cầm đũa gõ cho, bắt đi rửa ráy. Từ Diễm thay áo trở ra, ngồi tán dóc vài câu thì đến giờ cơm tối. Cơm nước xong, bọn trẻ về buồng với mẹ.
Lúc này Lý Ức mới hỏi về chuyện đi sứ. Từ Diễm đáp: "Còn chưa định đoạt, nhưng khá chắc bảy tám phần là tôi sẽ đi."
"Anh đi sao được? Bỏ lại nhà cửa con cái cho ai trông? Chị dâu người yếu quanh năm, không thể nào lo xuể đâu."
"Tôi toan tính thế này: tôi sẽ tìm một ông thầy đáng tin cậy về, một là để dạy dỗ cho A Quán và A Lương, tránh việc đưa rước mỗi ngày làm rầy rà; hai là nhờ ông thầy để ý trông nom giúp, lỡ có sự cố xảy ra, người này có kiến thức sẽ biết cách lo liệu. Tôi đã bàn với A Tự, chúng tôi chẳng tiếc vài lạng bạc để nuôi ăn và trả cho người này xứng đáng với công việc, quan trọng là phải tìm được người có lòng dạ ngay thẳng và xuất thân trong sạch."
Lý Ức nói: "Anh muốn nhờ tôi tìm trong số môn sinh của ông Xuân chứ gì? Anh hay nhỉ? Trước thì vạch rõ quan hệ* với ông ta, bây giờ lại muốn tôi nhờ cậy."
* Việc Từ Diễm từ chối mang họ Lý.
Từ Diễm cười nhạt: "Chúng ta nói việc nào ra việc đó. Hạng người ăn lộc vua, ăn thuế dân như chúng tôi chẳng quan hệ thì không nói, nhưng đã có 'mắc mớ' thì không nhờ cậy nhau thì còn nhờ cậy ai? Tôi không có thân thích trong kinh, mà ở ngoài kinh cũng không có nốt. Trong nhà thì vợ trẻ con thơ, mũ ô sa trên đầu cao một tấc thì lưng tôi cũng phải khom một trượng. Ngày thường tôi đi đứng nói năng đàng hoàng, chưa bao giờ tôi làm hại hay dẫm đạp lên ai, người có ân với tôi thì tôi báo ân, người oán hận tôi thì tôi sẽ xa lánh. Nếu anh cho là tôi lá trái lá phải, đội trên đạp dưới, anh thấy khinh, thấy chê tôi đều mặc anh. Còn việc tôi tôi cứ làm, lương tâm tôi không có gì cắn rứt."
Lý Ức lúng túng vì đã lỡ lời, im lặng giây lát rồi bảo: "Anh thường xuyên nói tôi nóng tính, thế mà anh bốc lên thì cũng như ngọn lửa rừng rực tợp người ta. Hai ta biết rõ đối phương không phải là hạng người bội nghĩa, con cái anh cố nhiên cũng là con cháu của tôi."
Từ Diễm lại xua tay: "Anh không cần nói nhũn, tôi biết anh ở nhà kia cũng bị vô số cặp mắt dòm ngó. Nói chung hai ta đều 'có vảy ông Long*', việc này để tôi tìm cách khác."
* Tương truyền dưới cổ rồng có vảy ngược, chạm vào vảy này rồng sẽ tức giận. Ở đây nói hai người đều nóng tính.
Lý Ức bèn không nói nữa. Sau đó Từ Diễm tìm được một ông thầy họ Phượng thông qua lời giới thiệu của Hoa Du Khiêm. Nhân nói đến mối duyên này: Hoa Du Khiêm là con trai thứ của Thượng thư bộ Lễ Hoa Bảo Nguyên, năm đó giữ chức Quang Lộc tự Thiếu khanh kiêm Thị giảng ở Tập Hiền viện – ở đầu hai mươi mà được như thế thật không có mấy người. Lần đầu Từ Diễm tiến cung, nguyên Thiên tử chưa hề tính đến chuyện bổ ấm cho hắn, sau đó ngài nghe biết Hoa Du Khiêm đã cho hắn mượn áo vào hôm yết kiến nên thuận tiện lấy việc này để gán cho hắn danh phận 'môn khách nhà họ Hoa tiến cử'. Cố nhiên Từ Diễm chẳng hay biết chúa thượng đã dàn xếp với Hoa Thượng thư thế nào, song từ khi hắn vào bộ Lễ, Hoa Bảo Nguyên ít nhiều cũng hỏi han qua.
Bởi vậy, Từ Diễm buộc phải mang ơn hai cha con Hoa Bảo Nguyên. Hôm đón thầy Phượng, Hoa Du Khiêm cũng sang thăm, trông thấy Lý Ức, anh ta ngạc nhiên hỏi. Y lịch sự giới thiệu tên tuổi và nói: "Tôi là bà con với ông Thủ phụ, hiện đang ở nhờ nhà ông ấy. Anh Cẩn An với tôi là chỗ quen biết từ lâu."
"Thì ra anh Từ có người bạn phong nhã dường này, thế mà lâu nay giấu không cho tôi biết." Hoa Du Khiêm cười trách Từ Diễm rồi hỏi thăm Lý Ức vài thứ lặt vặt.
Sau đó thầy Phượng đến, người đứng tuổi, nói năng nhũn nhặn. Từ Diễm mời mấy lần thầy mới ngồi lên ghế trên để hai anh em Từ Quán dâng trà bái sư. Dâng xong, A Lương kéo tay áo thầy nhòm vào nói: "Tay áo thầy dài quá chừng, con chui vào còn được nữa!"
Mọi người bị nó chọc cười, riêng mẹ sắp nhỏ trừng mắt lên, gọi nó lại đét tay mấy cái.
Trong lúc mấy người đàn ông bàn chuyện học vấn, Từ Tuyển chạy lại xem, tuy còn chưa hiểu gì nhưng đã nhận ra vài mặt chữ, vì vậy thằng bé phấn khởi trỏ tay vào giấy đọc to. Riêng Từ Quán rất nghiêm trang lắng nghe, được hỏi đến thì mới rành rọt trả lời.
Thầy Phượng thấy ba cậu học trò khôn lanh, trong bụng rất vui, kín đáo nói với Từ Diễm: "Tôi bảo thật đại nhân, ngay cả con em các nhà thế tập cũng chưa bằng ba cậu nhà."
Qua bữa trưa, Hoa Du Khiêm cáo từ, thầy Phượng cũng cáo từ, mấy hôm nữa sẽ sang sắp xếp phòng ốc rồi ở lại luôn. Lý Ức ngồi thêm một lúc rồi về.
Thời gian tiếp theo, ngoài việc sắp xếp cho ông thầy, Tự Nương chỉ lo sắm sửa hành trang cho Từ Diễm đi xa. Ngày xuất hành được định vào mười tháng Mười một, trước khi những ngọn đồi phương Bắc thay áo bằng trận tuyết đầu tiên. Tự Nương thật quá hiểu về cái ác nghiệt của mùa đông biên thùy, vì thế việc chuẩn bị quần áo ấm và khăn choàng, cũng như ủng đi tuyết được nàng ưu tiên trên hết. Nhiều đêm nàng lẩn mẩn khâu vá đến tận canh năm, sau khi Từ Diễm lên triều mới vật xuống ngủ bù, do vậy người vốn ẻo lả lại thêm mệt nhọc.
Từ lúc có thầy đến đôn đốc, hai anh em Từ Quán cứ đúng giờ thức dậy, ăn điểm tâm rồi đi học với thầy, ngủ trưa dậy lại tiếp tục tập viết chữ, không còn dám ỷ cha bận rộn mà tót đi lông nhông. Riêng Từ Tuyển còn bé, sẵn tính tò mò nên thầy Phượng cho xếp thêm một cái bàn để cậu bé ngồi nghe giảng cùng các anh, nhớ được đến đâu hay đến đấy, hoặc không thích nghe thì ngồi tập viết, không ngồi yên được thì thầy cho 'nghỉ học' đi nô đùa.
Vì Tự Nương người mệt khó ở nên Từ Diễm dọn qua thư phòng ngủ riêng, một mặt lo liệu việc nước, một mặt thu xếp việc nhà, đi sớm về khuya, bận không kể xiết.
Lý Ức phần vì ân hận trước đó không chịu hiểu cho nỗi vất vả của Từ Diễm, phần vì y luôn cảm thấy mình mắc nợ hắn những chuyện quá khứ, nên sau đó đã đề nghị ở lại kinh để giúp hắn trông nom gia đình.
Từ Diễm cũng đồng ý, lại nói đùa rằng: "Tôi nghe kể anh ở Hoàng Sơn cứ ru rú trong nhà, chẳng thiết tha việc gì, thế mà anh vừa đặt chân lên kinh là như khai mở 'Thuận phong nhĩ*' nắm bắt tin tức bốn phương. Tôi còn đang chưa biết gì cả mà anh đã chạy đến lo hộ cho tôi rồi."
* Tai nghe thấy mọi tin tức trong gió.
"Anh đã giúp ông Xuân giải quyết một việc lớn, có lẽ nào ông ta lại không muốn nâng đỡ anh? Anh dám nói bản thân không có lòng riêng thì tôi mới phục."
"Đã làm quan, không trèo lên cao thì chẳng lẽ lại muốn tuột xuống?"
Qua thêm vài chén, Lý Ức nói: "Bây giờ tôi mới hiểu vì sao cậu Đình lúc trước đi đâu cũng phải dẫn anh theo, người lại còn nói đùa: 'Ta mà làm vua Hán thì sẽ phong Từ Cẩn An làm Đại tư đồ*'. Dám chắc cậu Đình còn chưa lắp tên lên cung thì anh đã ở đằng trước thắng yên cương cho ngựa hoang rồi*."
* "Đại tư đồ" là chức tể tướng dưới thời Hán Ai Đế, mà vua này chỉ biết ăn chơi chè chén, không biết trị dân. Ý của Lý Đông Đình là có Từ Diễm thì ngồi chơi xơi nước cũng được, còn Lý Ức thì bảo hắn hay vô tình làm việc lấn át mặt chủ.
Từ Diễm nghe vậy bật cười: "Hiện tại không thể so với lúc tôi ở cùng thầy, tôi mà dại dột thì đầu sẽ rơi khỏi cổ ngay."
Hai người uống rượu đàm đạo đến khuya mới về phòng nằm.
Những ngày sau đó, Lý Ức chỉ ở lì trong nhà lọc lấy nước mưa thu, dùng lá sen, nhị sen cùng một số nguyên liệu để ngâm, chế ra mười hai lọ nước thơm, bốn lọ biếu các bà họ hàng, bốn lọ cho gia đình Từ Diễm, bốn lọ đem đến dinh Tương vương kèm lời nhắn: "Tuy nhân sâm, nhục quế ích khí bổ thần nhưng cũng không nên dùng vị nóng quá. Can hỏa* mà bình thì không khắc tỳ thổ, vị khí đầy đủ thì tiêu hóa mới tốt. Bốn lọ nước thơm này là tôi làm chơi, điện hạ muốn bỏ vào món ăn để tăng khẩu vị, hoặc bỏ vào bánh trái cho thơm đều được. Còn các thứ củ sen, hạt sen tôi gửi thì mỗi tuần điện hạ bốc hai lạng nấu canh, chia làm hai lần uống, đều đặn như vậy sẽ vừa giúp an thần vừa bổ khí huyết."
* Can chủ mộc, tâm chủ hỏa. Mộc sinh hỏa, khắc tỳ thổ.
Nội thần mở ra kiểm tra củ sen và hạt sen, cười nói đều là loại tốt nhất. Hai năm nay trong kinh thiếu hàng, đến những nhà phú hào cũng khó mà mua được loại khá, thế mà Lý Ức lại có mà đem tặng Tương vương.
Lưu Thục rất vui sai người cất trữ cẩn thận, ngắm nghía nước thơm đựng trong lọ pha lê, bỗng chạnh lòng nói: "Mấy năm nay mưa lụt thất thường khiến nhiều đầm sen chết héo, giả có cho bông thì cũng chỉ cho ra những hàng kém chất lượng. Ngũ lang tìm được những món này hẳn rất tiêu tốn, nhưng ta lại chưa biết nên đáp lễ thế nào. Ngũ lang tâm tính thanh cao, chẳng ngó đến những vật phù phiếm ngoài thân mà chỉ hứng thú với đàn cầm nhạc phổ. Các ngươi mở kho tìm kiếm, có bao nhiêu sách vở chép nhạc hay đàn sáo thì sắp hết ra đây."
Đầy tớ vâng mệnh bày bốn cái bàn dài, nửa trên xếp nhạc phổ, nửa dưới xếp nhạc cụ tìm được trong kho. Nhạc cụ làm từ cây gỗ, từ tre trúc, từ bạc, từ sừng, từ ngà, từ sứ, từ ngọc, thứ nào cũng sơn mài chạm trổ, đẹp đẽ quý báu; hoặc là vật ngự tứ, hoặc là vật mua về, hoặc là vật hiến tặng, vì không hay dùng nên cất trong kho. Lưu Thục dụng tâm xem xét, trỏ vào một cây đàn tiêu vĩ*: "Cất đàn này đi, ta sẽ đem cho A Dung. Thằng bé học gảy đã rất khá, đáng thưởng."
* Thời Đông Hán, Thái Ung chạy nạn thấy người Ngô đốt gỗ ngô đồng nên xin về, sau đó làm ra một cây đàn phát ra âm thanh tuyệt diệu, do đuôi đàn còn vết cháy xém nên gọi là "tiêu vĩ". Ở đây nói đến đàn tốt.
Đức vương lựa tiếp một vòng, cất đi vài thứ rồi nói: "Đám còn lại ta không dùng đến, mà cũng chẳng định cho ai, hãy đưa đến các hiệu đổi lấy tiền, sau đó lập danh sách những trại, những vườn bị mất mùa nặng nhất rồi phát chẩn cho họ."
Hôm sau Tương vương đem đàn vào cung cho em trai, nói y đặt tên. Lưu Dung ngẫm ngợi đáp: "Gọi là 'Lưu Quang'."
"Từ điển cố nào?"
"Trong Cốc Lương truyện có câu 'đức hậu lưu quang*', huynh luôn dặn ta đàn cầm là thứ trong sạch dùng để tu tâm dưỡng tính, vậy thì đàn tốt nên tạo ra tiếng thơm cho người."
Lưu Thục kéo Lưu Dung lại nhéo miệng: "Mồm mép học đâu mà lắm thế, các hoàng huynh của đệ còn chưa dám ăn to nói lớn thế đâu. Hôm qua đệ đòi tạc núi, hôm nay đòi lập miếu*, ngày mai đòi bắn mặt trời, ai mà chịu cho nổi."
* Hán Ngữ Đại Tự Điển: "Thiên tử lập bảy miếu, chư hầu lập năm miếu, đại phu lập ba miếu, kẻ sĩ lập hai miếu, do đó người đức cao lưu truyền rộng ("đức hậu lưu quang"), kẻ đức bạc, mỏng lưu truyền hẹp." Nguyên từ "lưu quang" chỉ ánh sáng trôi đi như dòng nước, ngụ ý thời gian thấm thoắt.
Lưu Dung gục vào lòng anh mà cười, sau đó nhắc đến việc sứ đoàn sắp khởi hành. Vì y rất muốn đi xem nên Lưu Thục phải xin phép quốc chủ và quốc mẫu cho dựng bình phong và trướng ngự, lấy cớ là mình chưa bình phục để ngồi cùng em trai ở đó.
Hôm ấy Thiên tử ở trung tâm, Hoàng hậu buông rèm ngồi với các phi ở bên Đông, đức Tương vương và hoàng tử ngồi sau trướng ngự bên Tây nghe đàn nhạc lễ xướng, bái tế đất trời, sau đó xem bắn cung khích lệ sĩ khí. Lưu Dung không thấy có gì quá đặc sắc nên cúi đầu tách hạt sen. Thình lình có tiếng 'ồ' lên, y vội vàng hỏi: "Chuyện gì vậy?"
Nội thần đứng trực liền đáp: "Vị quan vừa rồi bắn gãy cả mũi tên của người trước đó ạ!"
Lưu Dung nóng lòng định ghé lại gần trướng nhìn cho rõ, nhưng Lưu Thục kéo lại bảo: "Ở yên!"
Y đành phải ngồi về, ngước mắt trông theo, thấy một người trẻ tuổi tuấn tú hiên ngang, bận giáp mềm màu đỏ, giương cây cung bịt sừng, mũi tên trong tay hắn như ánh chớp xẻ từ đầu Đông sang đầu Tây, để lại vết rạn trong mắt người xem. Thiên tử rất hài lòng, lễ xong ban thưởng rượu ngự rồi tiễn sứ đoàn ra đi.
Chứng kiến quang cảnh vừa rồi, Lưu Dung kéo tay anh trai: "Huynh bói hay quá."
Thục ngạc nhiên hỏi: 'Bói cái gì?', y đùa: "Bữa trước huynh bảo đệ muốn bắn mặt trời, thế mà hôm nay đã xuất hiện một Hậu Nghệ trong sứ đoàn! Coi chừng sau này người đó bắn mặt trời cho đệ thật đấy!"
Tất nhiên Lưu Dung chẳng hề biết 'Hậu Nghệ' y trông thấy chính là viên quan trẻ Từ Diễm. Vả chăng, việc cần thiết của y không phải là biết đến hắn mà là bài vở học hành. Khi đông về, vì sáng sớm trời rét nên Lưu Dung dậy muộn. Trần Thiện Gia và Trần Thiện Kim theo hầu y đi học. Thiện Kim mới lên chín, vì cha mẹ mất sớm nên phải ở với vợ chồng ông Biểu, ông ta xin Hoàng hậu cho nó vào hầu đích tử. Lưu Dung thấy nó còn bé mà đã mồ côi nên luôn dung túng chiều chuộng.
Hôm ấy giữa trưa đổ mưa tuyết nên cả ba được nghỉ học cưỡi ngựa. Lưu Dung nổi hứng đến điện Hàm Hi chơi tuyết, hai cậu Trần vui vẻ đồng ý. Ba cậu bé sai người đốt lò sưởi làm ấm phòng trước, lại nói Ngự Thiện cục chuẩn bị bánh trái sắp sẵn ở cung điện. Lưu Dung và Thiện Gia ngồi đánh cờ, còn Thiện Kim xem họ chơi chán thì tụ họp mấy đứa nội thị và cung nữ nhỏ tuổi lại nghịch tuyết, cười đùa ầm ĩ.
Sau bữa tối Thiện Kim bị đau bụng, mọi người nghĩ trưa nay nó ham ăn bánh nên giờ khó tiêu, không cho là việc nghiêm trọng. Lưu Dung nói bà vú đút nó ăn một chén nước gừng rồi cho đi ngủ. Đến đêm Thiện Kim bị đau nặng hơn, nằm cuộn trên giường khóc oà lên. Lúc này người ta mới sốt sắng. Vì đã khuya, Lưu Dung không dám làm ồn nên sai nội thị nói dối với Thái y là bà vú khó ở để họ xem cho Thiện Kim. Cậu bé khóc sướt mướt, cầm tay y nói: "Ca ca, đệ đau quá."
Do là anh em họ ngoại và cả ba còn nhỏ, đôi khi đùa giỡn sẽ gọi nhau là 'ca ca, đệ đệ'. Lưu Dung an ủi nó: "Không sao, các ca ca ở với đệ."
Thái y bốc thuốc, Thiện Kim uống vào dần dần thấy êm. Lưu Dung ngủ chung với nó đêm ấy.
Hôm sau Hoàng hậu biết chuyện, cũng cho người đến hỏi han. Thiện Kim bị ốm, nằm nghỉ hai ngày tiếp theo, sau đó cứ sốt mãi, nổi ban, tức ngực thở khò khè. Người lớn sợ là bệnh truyền nhiễm, vội đưa nó về nhà cách ly.
Bấy giờ mọi người nhận ra có gì đó không đúng, trung cung cắt cử ty cung lệnh đi điều tra. Mấy người Thái y am hiểu về độc đến khám cho bệnh nhi, đều kết luận là trúng độc. Còn các bà thượng cung thì tra ra trong đĩa bánh a giao sáu ngày trước có vấn đề. Trung cung thịnh nộ, lệnh tóm tất cả những kẻ hầu thân của Lưu Dung điệu đến trước Thiên tử để đức ngài tra xét.
Ở đây phải biết: vì phòng những mưu kế hạ độc vào đồ ăn thức uống, sở thích của các tần phi, hoàng tử, hoàng nữ đều được giữ bí mật. Vì vậy, mỗi lần gọi món thì luôn gọi hai ba món trở lên, chia ra các bếp để nấu hòng hạn chế việc hạ độc đến mức thấp nhất. Bánh a giao là món Lưu Dung thích ăn. Hôm đó y không ăn là do Thiện Kim thấy y đánh cờ hăng say quá, nổi tính nghịch ngợm muốn trêu y nên cố ý ăn hớt trên. Y chỉ cười rồi cho nó đĩa bánh luôn.
Hoàng hậu nghe biết, cấm ngặt cung nhân tiết lộ việc này với đích tử. Sau khi Thiện Kim mất, Lưu Dung khóc nghẹn, muốn đi viếng tang. Nhưng vì y còn bé nên Lưu Thục nhận lời đi thay. Vợ chồng ông Biểu cùng đám bà con hết sức buồn rầu, người thì than thằng bé số khổ, người thì nói được các vị điện hạ yêu quý dường này đã là phúc cho nó.
Sau đó Lưu Thục hồi cung thăm em, thấy Thiện Gia lo lắng đứng bên cạnh, còn hoàng tử thì úp mặt vào tay áo trắng, tưởng chừng như khóc. Nghe anh gọi, Lưu Dung ngẩng mặt lên, không có nước mắt, chỉ còn vệt lệ in hằn.
Y đi rửa mặt chải đầu, thay áo rồi trở lại mời anh ra ghế, nói với Thiện Gia: "Kể từ nay, ta ăn uống thức gì thì cậu ăn uống thức đó, bất kỳ đồ vật nào trước khi đưa tới chỗ cậu sẽ được người của ta kiểm tra trước. Chỉ cần cậu một lòng với ta, ta nhất định sẽ bảo vệ cậu chu toàn."
Thiện Gia đáp: "Anh em tôi ở đây mặc dù không có cha mẹ kề bên nhưng xưa nay điện hạ đối với chúng tôi không khác nào người thân trong gia đình. Chúng ta uống cùng chén, ngủ cùng chăn, cùng học, cùng chơi, có thứ gì cũng chia xớt. Chuyện đến nước này chẳng một ai ngờ tới, Thiện Kim có linh thiêng chắc chắn sẽ không trách điện hạ. Xin điện hạ đừng dày vò chính mình."
Lưu Dung gật đầu: "Ta chính là chủ nhân của cung điện, nếu không mạnh khỏe thì lấy ai trông coi các cậu? Ta sẽ không làm việc ngu xuẩn như thế."
Lưu Thục thấy em hiểu biết, lòng cũng nhẹ nhõm, nói chuyện một lúc rồi về.
Còn tại Khôn Ninh, Hoàng hậu vừa đau xót vừa buồn phiền, lại thấy lũ hầu hạ đích tử chỉ cố đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, bo bo giữ mình. Đức bà giận quá, dâng tấu với Thiên tử muốn cho đánh đòn rồi đuổi hết đi.
Dụ Đế không muốn làm rộn nên gọi Tương vương đến nói: "Lũ đầy tớ đều là con cái bình dân, vì nhà cửa không có ruộng đất cày cấy hoặc do người thân căm ghét nên mới đem bán chúng vào cung. Chúng là bọn tiểu nhân không biết chữ nghĩa đạo lý gì, chính chúng ta phải độ lượng dạy dỗ chúng nó biết điều. Việc gì tha được thì cứ tha, ra ơn hơn là trách phạt."
Lưu Thục vâng lời, khuyên nhủ mẫu hậu không nên làm dữ kẻo mang tiếng ác. Trần hậu gạt phăng: "Có mang tiếng ác ta cũng mặc, nhất định phải tống khứ chúng đi! Ta đã lớn tuổi, khó khăn lắm mới có được một mụn con, từ lúc đẻ ra cứ nơm nớp lo sợ có kẻ ganh ghét làm hại nó. Nay Trời cao có mắt giữ gìn Diệu Đức bình an nhưng cháu trai ta đã chết oan chết uổng. Chúng vẫn còn đủ mắt, đủ tay, đủ chân, dù có bị người nhà hắt hủi thì cũng phải liệu mà kiếm lấy công ăn việc làm, nếu thành quân trộm cắp vô luân thì đã có quan phủ xử lý."
"Mẫu hậu nói phải, bọn bất lương đã có các quan xét xử. Nhưng 'bớt một việc hơn là thêm một việc'. Thiện Kim chết oan là chuyện đã rồi, thủ phạm còn chưa bị bắt, nay mẫu hậu đuổi người sẽ lại gây ra mối thù hằn. Cổ nhân nói: 'Thà đắc tội quân tử, không đắc tội tiểu nhân', những bọn ấy có màng gì đến nhân luân lễ nghĩa, chỉ chực cắn trả lúc ta khó khăn. Người cũng biết, mối quan hệ giữa bọn cung nhân hết sức lằng nhằng, kẻ thì họ hàng, kẻ thì anh em, kẻ thì kim lan, kẻ thì đỡ đầu, chẳng ai kể rõ được. Mẫu hậu quản lý hậu cung, không thể không cần đến bọn người này để thu thập tin tức, theo ý con thì người cứ cho đánh đòn răn đe nhưng chỉ đuổi ra khỏi cung Trùng Hoa thôi. Như vậy chúng sẽ biết thân biết phận hơn trước."
Các bà ty cung lệnh cũng khuyên như vậy, Hoàng hậu mới chịu nghe. Do đó, đám cung nhân rất biết ơn Tương vương.
Trong lúc chờ người hầu mới, Lưu Dung dọn qua ở với mẫu hậu. Vì Mục vương, Yên vương vắng mặt, chính cung và con trai nhỏ thì gặp biến cố nên Dụ Đế thể tất dành thời gian đến quây quần với bọn họ, cùng ăn bữa cơm, dạy con ngâm vịnh, rất là đầm ấm. Còn Tương vương bôn ba mấy bận, gặp trời trở gió nên ốm lại. Ngài nghe nói cha mẹ và em trai đương ở cùng nhau nên giấu kín bệnh tật, không dám làm phiền.
Một ngày, cảm thấy đỡ bệnh, Lưu Thục sai người đi mời Lý Ức rồi ra bao lơn ngồi ấn tuyết đọng trên lan can. Y đến, ngài đề nghị: "Chúng ta đi cưỡi ngựa nhé?"
Bình thường chắc chắn Lý Ức sẽ khuyên can, nhưng hôm đó y cảm ứng được điều gì nên đồng ý ngay. Đầy tớ sắp ngựa xe, Tiểu Hồng mang ra cho đức vương cái nón da vượn và áo choàng lông cáo. Hai người ngồi xe ra trang trại ngoại ô, thấy cỏ bò lan đất, tuyết rắc như hoa. Hoan Nhan dẫn Tàng Vân đến, Lý Ức choàng tấm áo kết từ lông ngỗng, trắng át sắc tuyết, cầm tay đỡ Tương vương lên ngựa rồi ngồi sau lưng ngài. Ban đầu họ để ngựa đi tùy hứng, chẳng để ý gì. Sau đó ngài hỏi: 'Đi nhanh chút nhé?', y từ chối: 'Tôi không quen cưỡi chung'.
Thục cười: "Đã lỡ đi ra ngoài thì cũng phải cho Tàng Vân được thỏa thích chứ!" Đoạn không chờ y đáp lại, đánh cương cái 'chát', ngựa nhận được lệnh, hớn hở cất bước chạy ngay. Lý Ức giật mình vòng tay ghìm lấy eo người trước, ấn cả lưng ngài vào lòng y, một mặt ghìm cương, một mặt quát: "Dừng ngay!"
Tàng Vân chạy thêm mấy bước rồi dừng hẳn, lúc lắc đầu. Lý Ức bốc nóng lên giật lấy dây cương, hằm hằm quay ngựa lại. Lưu Thục bật cười chạm vào cằm y: "Gương mặt của Ngũ lang lúc này giống hệt như Tam đệ của ta lúc điểm binh vậy."
Y giằng tay ngài xuống; đại khái lo lắng người này có thể gây chuyện tiếp nên cứ thế kìm chặt. Đầy tớ tưởng bọn họ sẽ đi chơi lâu nên tản ra tìm chỗ râm mát đứng hoặc ngồi, đột ngột thấy người trở về nên hớt hải chạy lại, hầu bọn họ trở về.
Về dinh, Lưu Thục thay áo trở ra, thấy người kia đứng cạnh bức tường khảm gỗ sờ lên thanh kiếm treo dọc, chuôi kiếm bịt bạc, vỏ chạm cá đùa hoa sen, có khắc hai chữ "Tiềm Ngư" (cá lặn xuống). Y đương rút kiếm, Thục sợ y bị thương nên vội nói: "Ngũ lang cẩn thận, tuy là đồ cổ trang trí nhưng vẫn bén lắm."
Ngài từ tốn giãi bày: "Kể ra thì thanh kiếm này cũng có lai lịch, lúc Phương thị bị tra xét, một số đồ gia truyền của họ đã bị tham quan chiếm làm của riêng hoặc tuồn ra ngoài mua bán đổi chác, thanh kiếm này là một trong số đó. Biết vậy nên ta chuộc nó từ tay bọn gian thương, kẻo chúng làm ô nhục vật tùy thân của Phương Đại tướng quân.
"Nhưng thật trớ trêu khi biết nó từng góp vào nguyên nhân làm Phương thị chịu tội. Trên kiếm khắc hai chữ 'Tiềm Ngư', mà người xưa có câu: 'Rồng trời ẩn làm cá*', vì vậy bọn tiểu nhân dựa vào đó xúi Thượng hoàng rằng Phương Vân Đình mang thanh kiếm này chính là huênh hoang xem mình bằng với Thiên tử. Có biết đâu 'người tài chờ thời như rồng ẩn, cá chép vượt cửa hóa rồng bay', kiếm bén đến mấy cũng chỉ là thứ chết, lại cứ đổ oan lên đồ vật."
* "Ngôn chí" của Tào Thực: "Vân long tiềm tác ngư."
Lưu Thục thở dài, bước đến đỡ kiếm đưa cho Lý Ức: "Ta giữ gươm này cũng chẳng để làm gì, nếu Ngũ lang thích thì cứ lấy về đi."
"Tôi nào dám chứ." Y toan treo về chỗ cũ. Lưu Thục cầm lấy tay y, thiết tha nói: "Từ lúc quen biết đến nay, ta mang tiếng là rộng rãi mà chưa cho được Ngũ lang thứ gì. Mãi mới thấy Ngũ lang hứng thú với vật này, lẽ nào lại không cho ta đáp lễ chuyện tặng củ sen sao?"
Lý Ức không đáp lại được, đành nhận lấy "Tiềm Ngư". Đức vương giữ y lại ăn tối, sau đó cho bày cái kỷ dài và bàn nhỏ dưới hiên, sắp hoa quả và rượu nóng để ngồi thưởng tuyết.
Lý Ức hay làm bộ tránh rượu nhưng thực ra y uống rất khá, Từ Diễm đã choáng mà y còn dốc thêm được nửa vò. Nhưng khi ở với Tương vương, y thường chỉ uống dấp môi. Ngài lại tưởng nhầm y uống kém, sợ y say quá sẽ bị cóng nên dắt vào nhà sưởi ấm. Rượu vào bụng, tà hỏa cũng bốc lên, ngài ngồi sát lại bên y nói khẽ: "Ngũ lang gọi Ấu Đạo đi."
Chắc chắn Lý Ức chưa hề ngấm rượu, thế mà hôm nay mặt mày dịu dàng khoan khoái lạ thường, liền gọi: "Ấu Đạo."
"Ngũ lang."
"Ấu Đạo."
"Ngũ lang." Ngài cười khúc khích.
Y lại gọi 'Ấu Đạo'. Gọi qua gọi lại thêm vài lần nữa, đức vương đổi: "Lý Ức."
Y cũng chẳng nhường, gọi thẳng: "Lưu Thục."
"Phạm húy rồi, phải phạt." Ngài cười kéo tay y, thấy y không tránh, nói tiếp: "Ta phạt Ngũ lang đút rượu cho ta."
Lý Ức chẳng hề gì. Nội thị dâng chén, y bưng qua đút Tương vương uống hết, sau đó bảo: "Ngài cũng phạm húy, phạt dốc một chén."
Lưu Thục vừa cười vừa uống, tiếp tục kiếm chuyện đánh đố lẫn nhau, ai thua thì dốc rượu phạt. Nghiễm nhiên là kèo tửu lệnh này Lý Ức thắng chắc, Thục say mềm, nằm gục trong lớp áo choàng dày. Lý Ức gọi thử mấy tiếng, ngài chỉ phát ra tiếng ậm ừ nỉ non, bèn chống gậy lên, tự mình lần mò đi ra bao lơn hứng lấy gió đông.
Lúc y trở lại, người tỏa ra hơi lạnh toát làm Lưu Thục bừng tỉnh, ngơ ngác hỏi: "Ngũ lang, sao lại lạnh thế?"
Y cách lớp áo choàng xoa vai ngài: "Không có gì, tôi thấy hơi nóng thôi."
Ngài tin thật, gượng ngồi dậy đòi canh giải rượu, tỉnh ra đôi phần lại cảm thấy xấu hổ nói: "Hôm nay ta say quá, Ngũ lang đừng trách ta thất lễ."
Thế mà Lý Ức quả quyết đáp: "Ngài không làm sai gì cả, tôi mới là người thất lễ." Rồi giục ngài đi nghỉ, mình cũng ra về.
Sang tháng Chạp, Thiên tử cho xe loan rước Thượng hoàng về kinh đón Tết. Đức ông giữ nghiêm phép tu, không ăn món mặn, chỉ nhấp môi chút nước quả ướp, mới nghe một hai vở hát đã nói mệt, muốn đi nghỉ. Thiên tử dẫn con cháu đưa ngài về cung, hiếu thuận hỏi ngài có gì sai bảo. Thượng hoàng thấy năm nay ít người chép kinh, bỏ qua đám cháu nhỏ, nói hai anh em Lưu Thục ở lại trắc điện chép kinh thay cho phần của Lưu Đán và Lưu Trang, còn các công chúa thì về cung chép.
Bọn họ vâng lời rồi cáo lui, hai anh em Lưu Dung qua trắc điện sửa soạn. Đến chiều hai người dâng kinh cho Thượng hoàng. Đức ông nói đích tử về trước, để Tương vương kiểm tra lại kinh. Lưu Dung đi rồi, ngài xếp bằng trên giường, thình lình quát lên: "Đứng đấy làm gì? Còn không mau quỳ xuống trước Đức Phật ngươi vừa mang đến! Dạo trước ngươi đã làm những chuyện xằng bậy thế nào ở hành cung! Thật nhơ nhuốc, vô liêm sỉ, không còn để trời đất thánh hiền vào mắt! Đừng tưởng ta sẽ làm ngơ!"
Tính khí của Thượng hoàng có thể tóm gọn trong câu: nóng như lửa thiêu, giận như sấm sét, dữ như hổ rừng, ác như giao long. Ai nghe tiếng ngài cũng kinh hồn táng đởm, tay chân rụng rời, quỳ mọp hết xuống.
Lưu Thục nghe vậy, biết chuyện ở hành cung Thái Thủy đã bại lộ, sợ tái mặt. Đức ông đã cao niên, quát tháo rồi phải dừng lại thở lấy hơi, sau đó tiếp tục đay nghiến thậm tệ, hặc hỏi cái tội "không biết luân thường đạo lý" của Tương vương.
Giữa lúc ấy, Lưu Dung bất ngờ quay lại, xin vào lấy ngọc bội hình con cá đã làm rơi. Đức Thượng hoàng bị cắt ngang nên chưng hửng, không tiện tra vấn tiếp, liền bắt cháu lớn đi ra tìm đồ cho em.
Lưu Thục gắng gượng đứng dậy, hàm răng nghiến chặt nhưng do bị kinh hãi quá, tâm hỏa bốc mạnh, khí huyết không đi theo đường, vừa tiến được mấy bước đã gục đầu thổ huyết, ngã xuống bất tỉnh.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com