Chương 132: 8-4 quái vật
Vốn dĩ toàn thân Lâm Dị còn cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng tiếng mèo kêu thê lương ấy lại khiến máu trong người cậu bùng lên một nhịp.
Dây thần kinh căng cứng suốt từ nãy... bỗng chùng xuống.
Ban đầu Lâm Dị tưởng tiếng kêu kia chỉ có nghĩa: mèo do tử vong quy tắc của Tôn Tịnh Văn gọi tới đã tìm đến cửa và đang nấp trong tủ chờ vồ. Chạm vào lông mèo ngay khoảnh khắc đó, cậu suýt nữa chuẩn bị... viết di chúc.
Trong tủ đúng là có một con mèo.
Nhưng còn sống.
Lâm Dị khẽ thở phào. Không cần viết di chúc nữa—mà thật ra cậu cũng chả có tài sản gì. Cái thẻ "ăn cơm vô hạn mức" kia còn là của Tần Châu.
Mèo còn sống, vậy con mèo trong tủ không phải con bị Tôn Tịnh Văn dùng để hiến tế trong nghi thức miêu trớ. Dẫu tiếng kêu rền rĩ khiến người ta sởn gai ốc, Lâm Dị vẫn nghe ra được trạng thái của nó: một con mèo hấp hối sẽ không kêu vang đến thế. Con trong tủ đang khỏe.
Nhưng thế không có nghĩa được phép lơ là. Mèo khỏe xuất hiện trên mái tường hay phơi nắng dưới hiên là chuyện bình thường; có bất thường là con mèo đen này lại chui vào tủ đúng lúc này.
Lâm Dị vừa định rút tay về thì con mèo bất thần vồ thẳng vào cậu.
Cậu vội đưa cánh tay lên đỡ. Nhưng vì áo đang trùm kín đầu, tầm nhìn bị hạn chế; mèo lại quá lanh lẹ—Lâm Dị bị nó đánh úp.
Vả lại là rất thê thảm: trên cánh tay, hông và bụng dưới bị cào toét thành vệt, còn mô dưới ngón cái thì bị mèo cắn một phát; răng xuyên qua da.
Cậu nghe rõ tiếng da bị xé và cảm giác hàng răng xẻ miệng vết thương. Khi hàm răng buông ra, máu lập tức trào khỏi vết rách.
Nhưng cậu chưa rảnh để đau. Con mèo ra đòn trước cũng dừng trước; nó nhảy lên bệ cửa sổ. Đến lúc đó Lâm Dị mới để ý kính cửa sổ bị đập vỡ.
Con mèo có lẽ chui vào từ đây. Nhưng nó không lập tức rời đi; nó quay đầu nhìn ngược vào, rít lên một tiếng não nề, rồi mới thu mình chui qua lỗ vỡ ra ngoài.
Lâm Dị nhìn theo.
Cậu buông thõng cánh tay, máu từ đầu ngón tí tách rơi xuống nền.
Đợi con mèo chui hẳn ra, Lâm Dị chạy tới cửa sổ. Cậu kịp thấy nó nhảy khỏi tầng, thoắt cái mất hút.
Nhưng Lâm Dị không rời mắt ngay. Cậu dán ánh nhìn theo cái bóng đen rời đi.
Ngay khoảnh khắc con mèo quay lại nhìn, Lâm Dị đã chú ý. Cậu chắc rằng nó không nhìn cậu, mà theo ánh trăng mờ xuyên qua ô cửa, nó đang nhìn về phía cái tủ nơi nó vừa nấp.
Quan sát thêm một nhịp, Lâm Dị cúi xuống khung cửa bị vỡ.
Dấu nứt vỡ như thể bị ném đá từ bên ngoài. Lâm Dị lục trên nền và quả nhiên nhặt được một hòn đá bằng nửa nắm tay.
Cậu nắm hòn đá, ngước nhìn ô cửa sổ vỡ, rồi cất nó vào túi quần. Vài bước quay về trước bảng đen, cậu lại đưa tay mò vào trong tủ.
Lần này trống trơn—không còn gì.
Lâm Dị rút tay, mím môi suy nghĩ.
Con mèo khỏe, thật; mắt cũng còn.
Nó tấn công cậu, nhưng giống một cú phản xạ sợ hãi hơn là chủ ý sát hại.
Vậy vì sao nó lại xuất hiện ở đây, xuất hiện trong tủ, rồi lúc đi còn quay đầu "nhìn" tủ—chi tiết đó hẳn có ý.
Ý gì, Lâm Dị quyết định về hỏi Trình Dương.
Cậu chưa từng nuôi mèo, nhưng Trình Dương từng kể nhà cậu ấy có một con. Biết đâu có thể dựa vào tập tính để gỡ lớp sương mù này.
Lâm Dị dọn qua những dấu vết mình để lại trong lớp, rồi ra ngoài.
Khóa cửa lại xong, cậu nhanh chân về ký túc.
Trời vẫn đêm, Lâm Dị ước chừng khoảng bốn giờ sáng.
8-4 là giữa hè, ngày dài đêm ngắn, nhưng lúc này vẫn tối. Cậu không dám lảng vảng ngoài sân, vọt qua quãng đường giữa khu dạy học và ký túc, leo bậc thang, chui vào trong.
Cậu đi hơi gấp.
Đèn phòng thư vẫn tắt, nhưng cửa hờ. Khi Lâm Dị bước lên hành lang, cánh cửa mới khép lại.
Sắp sáng, bầy mèo do nguyền rủa thư gọi đến đã tan. Toà nhà lại như ngủ vùi. Lâm Dị gõ cửa phòng 204.
Tĩnh lặng đến mức có thể nghe được tiếng kim rơi, nhưng Lâm Dị không lo. Sau cái chết của Hạ Huy, tầng hai hầu như không còn ai lạ.
Gõ xong, cậu đợi Trình Dương ra mở.
Dù vào giờ buồn ngủ nhất, Lâm Dị đoán Trình Dương cũng khó mà ngủ.
Hai giây sau, giọng Trình Dương vọng ra:
"...Lâm Dị huynh?"
"Ừ."
Tiếng bước chân hồ hởi áp sát lại gần. Vì cửa phòng mở ra ngoài, Lâm Dị lùi một bước. Đang chờ, mắt cậu vô thức dừng ở dòng sơn tên trên cửa:
Hạ Huy.
Cửa bật mở. Trình Dương thấy cánh tay đẫm máu của cậu thì đứng hình:
"What the— cậu bị thương?!"
Lâm Dị trượt vào phòng. Đứng nói chuyện ngay cửa là ngu nhất.
Cậu định quay lại đóng cửa, Trình Dương đã nhào tới:
"Để tớ!"
Cửa khép, mùi tử khí tràn vào xoang mũi, Lâm Dị mới thở ra. Tạm an toàn.
"Chuyện gì xảy ra?" Trình Dương lật tay cậu xem. Trông thấy vết cắn toạc thịt, cậu hốt hoảng:
"Mèo cắn cậu à?"
"Không phải con ngoài cửa sổ." Lâm Dị ngước nhìn rèm: "Con ngoài kia còn không?"
"Hết rồi." Trình Dương đáp.
Cậu đã chờ đứt ruột mà không thấy Lâm Dị về, vừa sợ vừa sốt ruột, định hé rèm xem cậu có trở lại chưa thì trông ngay cảnh đôi mắt xanh phát quang kia của con mèo quay lưng nhảy đi. Lúc đó cậu cứ tưởng nó đi tìm Lâm Dị, sợ đến mức lục lọi tìm đồ, định trèo cửa sổ lao ra cứu. Chưa kịp tìm được thứ gì, Lâm Dị đã về.
"Chắc vì sắp sáng." Lâm Dị giải thích lý do mèo rút. Biết Trình Dương nóng ruột về kết quả, cậu không đợi bạn hỏi mà kể hết những gì đã diễn ra, rồi nêu thắc mắc của mình:
"Mèo có bản năng thích chui vào tủ không?"
"Tay cậu phải xử lý ngay đi, trời ạ." Trình Dương kéo tay cậu lại, thấy vết thương sâu hoắm, tức khắc toát mồ hôi:
"Vết này sâu quá! Cắn tới tầng cơ rồi, lỡ đứt dây thần kinh thì sao?"
"Không sao. Vẫn cử động được."
Lâm Dị rút tay về. Dù Trình Dương là thẳng nam và hai người thân, cậu vẫn không quen kiểu tiếp xúc này.
"Không sao cái gì mà không sao?" Trình Dương vẫn nhăn mặt:
"Cậu phải tiêm uốn ván, ít nhất cũng khâu vài mũi."
"Ở đây không có phòng y tế." Lâm Dị nói: "Trừ chết ra, các vết thương rời Quy Tắc là khỏi hết."
Như lần 7-7, mông cậu bị bình hoa đâm một cú, rời thế giới là lành.
"Trình Dương huynh, mèo có thiên hướng nấp trong không gian kín như tủ không?" Lâm Dị hỏi tiếp.
Cậu từng nghe người ta nói mèo hay chui tủ; chủ gọi tìm ức chế thì mèo ngồi trong tủ nhìn chủ đi qua đi lại. Với thùng carton, mèo cũng đam mê. Ở góc độ nào đó, tủ và thùng giống nhau.
Trình Dương nghĩ một lúc:
"Chắc không phải thiên tính. Mẹ tớ nuôi một con—nó không thế. Chỉ bị tớ rượt thì nó mới phóng vào tủ. Nhất là lúc mẹ tớ đi vắng, chỉ còn tớ ở nhà, nó cứ trú trong phòng để đồ không thèm ra."
Nói tới đây Trình Dương thoáng nhớ nhà:
"Nó rụng lông ghê lắm. Mỗi lần chui tủ, quần áo của mẹ tớ là xong đời. Mẹ lại lôi tớ ra cằn nhằn, bắt đền đồ. Không cần tiền, chỉ cần đồ. Quần áo của bà toàn bản giới hạn, tớ biết mua đâu ra? Tớ nghi mẹ kiếm cớ để đánh tớ. À mà cậu đừng cười, có con mèo khôn như quỷ—nhà tớ ấy. Nhìn mẹ tớ đánh tớ vài lần là học theo, cứ vô cớ chui tủ. Ánh mắt nó gian cực, sáu con số dưới tủ nó không thèm chạm, toàn chọn mấy cái đắt!"
Lâm Dị khựng lại một giây.
"Gì thế? Tớ lại vừa gợi ý cho cậu à?" Trình Dương cười.
"Không." Lâm Dị đáp, nhưng trong đầu thầm lẩm bẩm: sáu con số... chục, trăm, nghìn, vạn, trăm nghìn...
Khỉ thật. Giàu đúng là gây khó nghĩ.
Trình Dương tiếp tục kể chuyện mèo nhà, ai mới là đại ca trong nhà: người thua mèo. Rồi chuyện mèo ăn thịt tươi nhập New Zealand, mẹ thương mèo thế nào. Có lần mèo u uất cả tuần, mẹ lo tới mức bỏ ăn.
"Mẹ tớ nghe đâu đó bảo mèo đẻ một lứa rồi triệt sản thì sức khoẻ tốt hơn. Kết quả mèo nhà tớ đẻ non mấy con, tội lắm, cả ngày kêu gào, tiếng kêu thảm cực, tớ nghe còn đau lòng."
Lâm Dị chợt dừng:
"Kêu gào?"
"Kêu liên hồi ấy, còn đi khắp nơi tìm." Trình Dương gật.
Lâm Dị đột ngột hỏi:
"Con mèo ngoài cửa sổ hồi nãy to cỡ nào?"
Đã quen với cú nhảy tư duy của Lâm Dị, Trình Dương chỉ khựng một nhịp rồi giơ tay ước lượng:
"Chừng này. Nhìn như khoảng hai tháng tuổi."
Chính vì nó còn bé, đôi mắt xanh sáng như hai cái chuông, lệch hẳn so với thân thể—thành ra mắt to bất thường, đáng sợ.
Lâm Dị nhìn động tác ước lượng của Trình Dương, suy nghĩ một thoáng rồi hỏi tiếp:
"Trình Dương huynh, cậu thấy con mèo đen tớ gặp trong lớp tối nay có thể cũng đang tìm con của nó không?"
Ý nghĩ đó nảy từ câu chuyện của Trình Dương, nhưng Lâm Dị lại thấy nó quá đơn giản: chỉ dựa vào tiếng kêu và chuyện nó xuất hiện trong lớp mà kết luận là đi tìm con?
Cậu hơi thiếu tự tin—bởi sự xuất hiện của mèo nhìn thì không liên quan đến bao thư nguyền rủa.
"Có chứ." Trình Dương gật đầu liền: "Cậu kể xong thì tớ đã nghĩ tới khả năng mèo mẹ tìm con rồi."
Thấy Lâm Dị còn đắn đo, Trình Dương bảo:
"Mấy người như các cậu IQ cao, giải bài thì giỏi, nhưng dễ làm phức tạp chuyện đơn giản."
Lâm Dị nghĩ lại thấy cũng đúng. Cậu nói:
"Trình Dương huynh, tớ có vài chỗ vướng. Cậu thử dùng cách nghĩ của cậu trả lời tớ nhé?"
"Khách sáo gì, cậu cứ hỏi."
"Cậu thấy bầy mèo bị nguyền rủa tin hút tới có thể cũng là lũ mèo con của mèo đen không?"
"Không biết." Trình Dương đáp thẳng.
"..." Lâm Dị nghẹn.
"Không phải tớ không muốn nói," Trình Dương nhún vai, "tớ chưa nhìn bầy mèo đánh hơi cậu nên không chắc."
Lâm Dị ước lượng bằng tay:
"Bọn đó xấp xỉ cỡ này."
"Thế thì có thể." Trình Dương gật.
Câu "có thể" kiểu này... chung chung thật. Lâm Dị bỏ qua chuyện mèo, chuyển sang hỏi về Tôn Tịnh Văn:
"Trình Dương huynh, cậu nghĩ Tôn Tịnh Văn học miêu trớ từ đâu?"
Cậu đoán Trình Dương sẽ nói "trên mạng", bèn nhắc trước:
"Đây là trường thị trấn, không có phòng máy đâu."
Cả khu dạy học chỉ có một dãy, nhìn tủ treo trên bảng đen là hiểu: nếu từng có TV, cũng là loại dày cộp đời cũ. Thiết bị dạy học lạc hậu, thì cả thị trấn chắc cũng kém phát triển.
Hỏi xong, Lâm Dị nhìn chằm chằm Trình Dương, chờ câu trả lời.
Câu này với Trình Dương quá dễ; cậu chẳng cần nghĩ:
"Trong nhà có người làm nghề ấy."
Lâm Dị im bặt.
Đáp án nghe vừa hoang vừa không bằng chứng.
Thấy cậu hoài nghi, Trình Dương nói tiếp:
"Thật đấy Lâm Dị huynh. Cậu nghĩ xem: cao thủ internet như tớ còn không biết miêu trớ. Một đứa nữ sinh cấp ba ở cái trường quê này thì học từ đâu? Chắc chắn là người nhà. Càng lạc hậu càng mê tín, báo chí vẫn nói hoài còn gì. Người ta đau ốm không vào bệnh viện, lại đi bà cốt. Nhà Tôn Tịnh Văn chắc có bà cốt. Không thì một cô bé dù có nghe tới miêu trớ, dám ra tay không? Ngay phát đầu đã năm con mèo. Tai nhiễm mục nhuộm từ nhỏ chứ còn gì. Không thì sao lòng dạ lại đen đến mức đem thứ này đi nguyền người khác."
Lâm Dị vừa suy nghĩ vừa chốt gọn:
"Mưa dầm thấm đất."
"Chuẩn luôn." Trình Dương cười: "Tai nhiễm mục nhuộm với mưa dầm thấm đất khác gì đâu."
Lâm Dị gật nhẹ.
Bực thật, Trình Dương nói nghe... có lý. Cậu không tìm được điểm nào để bắt bẻ.
Cậu hỏi tiếp:
"Trình Dương huynh, theo cậu thì năm người kia đã làm gì để chọc giận Tôn Tịnh Văn, khiến cô ta phải dùng đến loại nguyền rủa độc như thế?"
Thấy Lâm Dị như đồng tình với lý lẽ của mình, Trình Dương lập tức lên tay:
"Ở trường thì chỉ có một thứ thôi: bạo lực học đường. Nếu không, chuyện nguyền rủa xảy ra ở đâu cũng được, sao 8-4 lại đặt bối cảnh trong trường?"
Lâm Dị há miệng.
"Thế nào Lâm Dị huynh?" Trình Dương hỏi.
"Chuẩn thật." Lâm Dị gật—đơn giản mà trúng.
"Nhưng dựa vào đó, cộng với ngữ cảnh, tớ đo là kiểu bạo lực châm chọc và bài xích. Năm người kia là đầu têu." Trình Dương nói liền mạch.
"Nói rõ hơn?" Lâm Dị thúc.
Đổi vai, Trình Dương bất giác đắc ý. Cậu hắng giọng:
"Trường học là nơi học khoa học, tôn sùng duy lý, bài mê tín. Tớ đoán năm người với Tôn Tịnh Văn cùng làng (không thì láng giềng). Họ biết gốc gác cô ấy. Vừa hay năm người và Tôn Tịnh Văn học cùng trường, thậm chí cùng lớp. Học tri thức xong thì hiểu cái gì là khoa học, cái gì là mê tín—thế là họ đem chuyện nhà Tôn Tịnh Văn có bà cốt đi rêu rao, khiến cô ấy bị cười nhạo và xa lánh. Nhưng Tôn Tịnh Văn không hiểu theo cách của họ—như tớ nói—từ nhỏ mưa dầm thấm đất, hệ giá trị đâu dễ đổi. Thế là cô ấy quyết định dạy cho bọn kia một bài học. Ban đầu có khi chưa nặng, nên mới viết 'trong trường có quỷ, chạy mau' để doạ cả lớp. Nhưng không xi nhê, cô ấy nổi đoá thật."
Không nghĩ mình có thể xâu chuỗi một đống manh mối rời rạc như vậy, Trình Dương càng nói càng phê, tự thấy rất có lý—hệt chủ tuyến của 8-4. Cậu đập tay hào hứng:
"Tôn Tịnh Văn bèn dùng tới miêu trớ—độc nhất trong ba đại nguyền—vừa trả thù bạo lực học đường, vừa cho người ta biết 'tao không hiền'."
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com