Bản Giao Hưởng Sắc Màu
Trên đường họ chạy, khoảng cách giữa họ và những cây cổ thụ cao vút càng lúc càng thu hẹp và chúng duyên dáng uốn cành về phía bầu trời. Ánh hoàng hôn nhẹ nhàng bay nhảy giữa những chiếc lá, lướt dọc theo những cành cây và xuôi xuống theo những thân cây, rồi cuối cùng đọng xuống đất thành những vệt sáng ấm áp, lung linh. Không khí tràn ngập một thứ ánh sáng dịu nhẹ khiến tất cả mọi vật trở nên sắc nét, gần gũi như thể chỉ với tay ra là chạm được.
Alec chạy tới trước, vừa cười vang vừa hò reo, nhưng chẳng mấy chốc đã gặp phải những khó khăn nghiêm trọng; bởi vì, dù luôn có thể nhìn thấy cái cây đằng sau cây tiếp theo, cậu lại không thấy được chính cái cây đó, nên cứ liên tục đâm vào cây. Sau vài phút hối hả lao đi, tất cả phải dừng chân để lấy hơi.
"Tôi nghĩ chúng ta bị lạc rồi," Bọ Bịp hổn hển nói, ngã nhào vào một bụi dâu to.
"Vớ vẩn!" Alec quát từ trên cành cây cao nơi cậu đang ngồi.
"Bạn có biết chúng ta đang ở đâu không?" Milo hỏi.
"Chắc chắn rồi," Alec đáp, "bọn mình đang ở ngay đây. Hơn nữa, bị lạc không phải là không biết mình đang ở đâu; mà là không biết mình đang không ở đâu – và tôi chẳng quan tâm gì đến chuyện mình đang không ở đâu."
Câu này quá phức tạp nên con bọ không thể luận ra được, còn Milo mới chỉ đang nhẩm lại thì Alec đã nói, "Nếu bạn không tin tôi thì hãy hỏi người khổng lồ ấy," rồi cậu chỉ về một căn nhà nhỏ nằm gọn giữa hai cây cổ thụ lớn nhất.
Milo và Tock đến trước cửa, cánh cửa có gắn một biển tên bằng đồng chỉ đề ba chữ NGƯỜI KHỔNG LỒ, rồi gõ cửa.
"Xin chào," người đàn ông ra mở cửa nói, ông ta có kích cỡ hoàn toàn bình thường.
"Ông là người khổng lồ à?" Tock hỏi vẻ nghi ngờ.
"Chắc chắn rồi," người kia tự hào trả lời. "Tôi là người khổng lồ nhỏ bé nhất thế giới. Tôi có thể làm gì giúp các bạn?"
"Có phải chúng cháu đã bị lạc không ạ?" Milo hỏi.
"Câu hỏi khó thật," người khổng lồ nói. "Sao các bạn không đi ra sau nhà và hỏi người lùn nhỉ?" Rồi ông ta đóng cửa lại.
Họ đi ra sau nhà, nơi đây trông cũng y hệt như phía trước nhà, và gõ lên cánh cửa có gắn biển tên NGƯỜI LÙN.
"Các bạn khỏe không?" người đàn ông hỏi, nhìn ông ta giống hệt người khổng lồ.
"Ông là người lùn à?" Tock lại hỏi với một thoáng băn khoăn trong giọng nói.
"Dĩ nhiên," ông ta trả lời. "Tôi là người lùn cao nhất thế giới. Tôi có thể giúp gì cho các bạn đây?"
"Ông có nghĩ là chúng cháu đã bị lạc không ạ?" Milo nhắc lại.
"Đó là một vấn đề hết sức phức tạp," ông ta nói. "Sao các bạn không đi sang bên hông nhà và hỏi người béo nhỉ?" Rồi ông ta cũng lập tức biến vào trong nhà.
Bên hông nhà nhìn cũng giống hệt đằng trước và đằng sau, và cửa mở ngay khi họ vừa gõ.
"Rất vui vì các bạn đã đến chơi," người ra mở cửa reo lên, trông ông ta như thể là anh em sinh đôi của người lùn.
"Chắc hẳn ông là người béo," Tock nói, nó đã học được cách đừng trông mặt mà bắt hình dong.
"Người béo gầy nhất trên thế giới," ông ta vui vẻ trả lời; "nhưng nếu các bạn có câu hỏi, thì tôi đề nghị các bạn hãy thử hỏi người gầy ở hông nhà bên kia xem sao."
Đúng như họ đoán, hông nhà bên kia cũng giống hệt như đằng trước, đằng sau, và hông nhà vừa rồi, và cửa lại được một người nhìn chẳng khác gì ba người kia ra mở.
"Thật là một bất ngờ thú vị!" ông ta vui sướng kêu lên. "Đã lâu lắm rồi tôi chưa có khách đến chơi."
"Lâu lắm là bao lâu ạ?" Milo hỏi.
"Tôi cũng chẳng biết nữa," ông ta trả lời. "Giờ thì xin phép các bạn; tôi phải ra mở cửa đã."
"Ông vừa mở cửa rồi còn gì," Tock nói.
"À ừ nhỉ, tôi quên mất."
"Ông có phải là người gầy béo nhất trên thế giới không?" Tock hỏi.
"Cậu có biết ai béo hơn không?" ông ta bực dọc hỏi.
"Cháu nghĩ các ông đều là cùng một người," Milo nói thẳng thừng.
"SSSSSUỴTTTT," ông ta vội nạt, đặt một ngón tay lên miệng và kéo Milo lại gần. "Cậu muốn làm hỏng mọi thứ à? Cậu thấy đấy, với người cao thì tôi là người lùn, với người lùn thì tôi là người khổng lồ; với người gầy thì tôi là người béo, còn với người béo tôi lại là người gầy. Như thế tôi có thể làm bốn việc cùng một lúc. Các bạn thấy đấy, tôi không cao kều không lùn tịt, cũng chẳng gầy gò chẳng béo bự. Thật ra, tôi là người rất bình thường, nhưng có quá nhiều người bình thường rồi nên chẳng ai hỏi ý kiến họ về bất kỳ chuyện gì. Nào, các bạn hỏi gì?"
"Có phải chúng cháu bị lạc không ạ?" Milo lại hỏi.
"Hừmm," người đàn ông gãi đầu nói. "Đã lâu lắm rồi tôi chưa gặp phải câu hỏi nào khó như vậy. Cậu có thể nhắc lại được không? Tôi quên mất rồi."
Milo nhắc lại câu hỏi lần thứ năm.
"Ôi trời ơi," người đàn ông kia lẩm bẩm. "Có một điều tôi biết rõ; nói xem các bạn có đang bị lạc không sẽ khó hơn nhiều so với việc nói xem có phải các bạn đã bị lạc không, bởi vì, trong nhiều trường hợp, nơi bạn đang tìm đến chính là nơi bạn đang ở. Nhưng trái lại, các bạn sẽ thấy là nơi các bạn đã đến lại không phải là nơi bạn cần tới, và vì tìm đường về từ một nơi bạn chưa từng rời khỏi thì sẽ khó hơn nhiều, nên tôi khuyên các bạn nên đến đó ngay lập tức rồi hãy quyết định. Nếu còn câu hỏi gì khác thì hãy hỏi người khổng lồ ấy." Rồi ông ta đóng sập cửa lại và kéo rèm xuống.
"Hy vọng là các bạn đã hài lòng," Alec nói khi họ đã từ căn nhà quay về, rồi cậu đứng bật dậy, cúi xuống để đánh thức Bọ Bịp đang ngáy khò khò, và lại đi tiếp, lần này chậm hơn, về hướng một khoảng đất trống rộng rãi.
"Có nhiều người sống trong rừng này không?" Milo hỏi trong khi cả bọn cùng sánh bước.
"Có chứ, họ sống trong một thành phố tuyệt vời tên là Thực Tại," Alec nói, đâm đầu vào một cây nhỏ, làm quả và lá rụng lả tả xuống đất. "Đi đường này là đến."
Sau mấy bước, khu rừng mở rộng ra trước mặt họ, và ở bên trái hiện ra một thành phố tuyệt đẹp. Các mái nhà bóng lộn như gương, tường nhà gắn hàng nghìn viên đá quý lấp lánh, và mặt đường toàn lát bạc.
"Có phải là nó đấy không?" Milo reo lên, lao về phía những con phố sáng rực.
"Ồ không, đó chỉ là Ảo Ảnh thôi," Alec nói. "Thành phố thật ở kia cơ."
"Ảo Ảnh là cái gì?" Milo hỏi, vì đó là thành phố đẹp nhất cậu đã từng nhìn thấy.
"Ảo Ảnh cũng giống như là ảo giác ấy," Alec giải thích, rồi, khi thấy lời giải thích đó chẳng giúp được mấy, cậu nói tiếp: "Ảo giác là những thứ không có thật nhưng ta vẫn thấy rất rõ."
"Làm sao ta có thể thấy điều không có thực được?" Bọ Bịp ngái ngủ ngáp dài.
"Đôi khi nhìn những thứ không có thực lại đơn giản hơn nhìn những thứ có thực," Alec nói.
"Ví dụ nhé, nếu một thứ có thực, ta chỉ có thể nhìn thấy khi mở mắt, nhưng nếu nó không có thực, ta có thể nhắm mắt mà vẫn nhìn thấy. Chính vì thế nhìn những thứ tuởng tượng dễ hơn nhìn những thứ có thực."
"Thế Thực Tại đâu?" Tock sủa.
"Ngay đây," Alec vẫy tay nói. "Các bạn đang đứng giữa Phố Chính đấy."
Cả bọn thận trọng nhìn quanh. Tock khịt mũi đánh hơi trong gió, vẻ nghi ngờ, còn Bọ Bịp rón rén đưa gậy chọc chọc không khí, nhưng quanh họ chẳng có gì để nhìn cả.
"Đây là một thành phố rất dễ chịu," Alec vừa đi dọc phố vừa chỉ trỏ các cảnh vật, dù chúng không có đó, và ngả mũ chào người qua đường. Có những đám đông vội vã cúi đầu đi phăm phăm, hình như họ biết rõ mình cần đi đâu khi họ lượn đi lượn lại giữa những con phố không tồn tại và những tòa nhà không hiện hữu.
"Tôi chẳng thấy thành phố nào cả," Milo khẽ nói.
"Họ cũng có thấy đâu," Alec buồn bã đáp lại, "nhưng chẳng quan trọng gì, vì họ chẳng hề thấy thiếu nó."
"Sống trong một thành phố mà ta không nhìn thấy được chắc là khó lắm nhi," Milo nói, nhảy sang bên để tránh một loạt ô tô và xe tải chạy qua.
"Không hề, một khi bạn đã quen với nó," Alec trả lời. "Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe chuyện đã xảy ra như thế nào." Thế là, vừa thả bộ trên con phố tấp nập người qua kẻ lại, cậu vừa bắt đầu kể.
"Rất nhiều năm trước, trên chính nơi này, có một thành phố rất đẹp với những ngôi nhà xinh xắn, những cảnh đẹp, và không ai sống ở đây phải vội vã. Trên các phố luôn có vô số thứ tuyệt vời để ta ngắm nhìn, và người ta thường dừng lại để ngắm chúng."
"Thế họ không phải đi đâu à?" Milo hỏi.
"Có chứ," Alec nói tiếp; "nhưng, như bạn biết đấy, lý do quan trọng nhất đế đi từ nơi này đến nơi khác là để xem ở giữa hai điểm đó có những gì, và những người dân ở đây rất thích thú với việc này. Rồi một ngày kia, có một ai đó nhận ra là nếu đi thật nhanh và đừng nhìn vào cái gì khác ngoài giày mình thì ta sẽ đến được đích nhanh hơn nhiều. Chẳng mấy chốc tất cả mọi người đều làm như vậy. Họ lao đi trên đường, vội vã trên các đại lộ, và chẳng hề nhìn thấy những cảnh đẹp và những điều kỳ diệu của thành phố mình."
Milo nhớ có nhiều lần chính cậu cũng đã làm như vậy; và có những thứ trên con phố cậu ở mà cậu cũng không nhớ được, dù có cố gắng đến mấy.
"Không ai chú ý đến mọi vật nữa, và khi họ đi càng nhanh thì mọi thứ càng trở nên xấu xí và dơ dáy hơn, mà mọi thứ càng xấu xí và dơ dáy hơn thì họ lại càng đi nhanh hơn, và cuối cùng một điều kỳ quái đã xảy ra. Vì không ai quan tâm đến nó nữa nên thành phố bắt đầu biến mất. Ngày qua ngày, những tòa nhà mờ dần đi, các con phố trờ nên nhạt nhòa, cho tới khi tất cả biến thành vô hình. Chẳng còn lại gì để nhìn ngắm nữa."
"Thế họ đã làm gì?" Bọ Bịp hỏi, đột nhiên lại tỏ ra chú ý đến câu chuyện.
"Chẳng làm gì hết," Alec nói tiếp. "Họ vẫn tiếp tục sống ở đây như trước kia, trong những ngôi nhà họ không nhìn thấy và trên những con phố đã biến mất, bởi vì chẳng ai nhận thấy điều gì nữa. Và họ cứ sống như vậy cho tới tận ngày nay."
"Không ai cho họ biết ư?" Milo hỏi.
"Chẳng ích gì đâu," Alec trả lời, "vì họ sẽ không thể nhìn thấy được cái mà họ không có thời giờ tìm kiếm."
"Sao họ không sống ở Ảo Ảnh nhỉ?" Bọ Bịp gợi ý. "Ở đó đẹp hơn nhiều."
"Rất nhiều người sống ở đó đấy," Alec nói, lại bước về phía khu rừng, "nhưng sống ở nơi mà những thứ ta thấy được đều không có thật cũng tệ như sống ở nơi mà những thứ ta không thấy được lại có thật."
"Có lẽ một ngày kia các bạn sẽ có một thành phố dễ thấy như Ảo Ảnh và khó quên như Thực Tại," Milo nhận xét.
"Chuyện đó chỉ có thể xảy ra khi bạn đưa được Vần Điệu và Lý Tính trở về thôi," Alec mỉm cười nói, vì cậu đã nhìn thấu được kế hoạch của Milo. "Giờ thì đi nhanh thôi, không ta sẽ lỡ buổi hòa nhạc tối nay đấy."
Bọn họ vội vã theo cậu lên một cái cầu thang không ai nhìn thấy và qua một cái cửa không tồn tại. Chỉ một lát sau họ đã rời khỏi Thực Tại (dù đôi khi ta cũng không thể phân biệt được) và đến một phần khác hẳn trong rừng.
Mặt trời đang từ từ lặn xuống, và trên những rặng đồi phía xa là các dải màu tím, cam, đỏ, vàng.
Những tia sáng cuối cùng kiên trì đợi một đàn chim hồng tước tìm đường bay về đến tổ, và một chòm sao bồn chồn đã vội hiện ra thế chỗ chúng.
"Đến nơi rồi!" Alec reo lên và khoát tay một vòng để chỉ một dàn nhạc giao hưởng khổng lồ. "Cảnh tượng kỳ vĩ quá, phải không?"
Phải có ít nhất là một nghìn nhạc công ngồi thành một hình vòng cung lớn trước mặt họ. Ở bên phải và bên trái là những người chơi vĩ cầm và xen lô, với những chiếc vĩ múa lượn như sóng, còn đằng sau họ là vô số các nhạc công chơi sáo kim, sáo trúc, kèn clarinet, kèn ô boa, kèn pha gôt, kèn co, kèn trumpet, kèn trombon, và kèn tuba đang cùng thổi. Ở tận tít phía dưới, cách xa đến nỗi gần như không nhìn thấy, là các nhạc cụ bộ gõ, và cuối cùng, xếp theo hàng dài dọc theo một con dốc đứng, là những người chơi contrabass nghiêm trang.
Đứng trên cái bục cao chính là nhạc trưởng, một người đàn ông cao gầy với đôi mắt thâm quầng và đôi môi mỏng được bố trí tùy tiện giữa cái mũi khoằm và cái cằm nhọn. Ông ta không dùng đũa mà chỉ huy dàn nhạc bằng cách vung tay lên xuống thật rộng, những động tác của ông nhạc trưởng dường như bắt đầu từ ngón chân, từ từ đưa qua thân mình rồi dọc theo cánh tay khẳng khiu, cuối cùng thì dừng lại ở các đầu ngón tay thanh mảnh của ông ta.
"Tôi chẳng nghe thấy tiếng nhạc gì cả," Milo nói.
"Đúng thế," Alec bảo, "buổi hòa nhạc này không phải để nghe, mà để xem. Chú ý kìa."
Khi nhạc trưởng vung tay lên, ông nhào nặn không khí như nặn đất sét, và các nhạc công thận trọng làm theo từng chỉ dẫn của ông.
"Họ chơi cái gì thế?" Tock tò mò ngước nhìn Alec hỏi.
"Tất nhiên là buổi hoàng hôn rồi. Tối nào vào khoảng giờ này họ cũng chơi bản đó."
"Thật à?" Milo kinh ngạc hỏi.
"Tất nhiên rồi," Alec trả lời; "họ cũng chơi cả bản buổi sáng, trưa hoặc đêm nữa, tất nhiên là vào buổi sáng, buổi trưa, hoặc buổi đêm. Nếu họ không chơi thì trên thế giới sẽ chẳng có màu sắc gì hết. Mỗi nhạc cụ chơi một màu khác nhau," nó giải thích, "và tất nhiên, tùy thuộc vào mùa và thời tiết mà nhạc trưởng sẽ chọn bản nhạc rồi chỉ đạo dàn nhạc chơi cho từng buổi trong ngày. Nhưng xem kìa: mặt trời sắp lặn rồi, và một lát nữa bạn có thể hỏi đích thân ngài Sắc Độ đấy."
Những mảng màu cuối cùng mờ dần đi trên bầu trời phía Tây, và cùng lúc đó, các nhạc cụ từ từ dừng lại, cho tới khi chỉ còn lại những nhạc công chơi contrabass, với những động tác chậm rãi nghiêm trang, để chơi buổi đêm, cùng vớỉ một chùm chuông bạc để giúp những chòm sao tỏa sáng. Nhạc trưởng buông thõng tay xuống và đứng yên trong khi bóng tối bao trùm lên khu rừng.
"Một buổi hoàng hôn rất đẹp ạ," Milo bước lên bục nhạc trưởng nói.
"Phải thế chứ," nhạc trưởng trả lời, "chúng ta đã tập dượt từ lúc thế giới mới ra đời mà." Rồi ông cúi xuống nhấc Milo đặt lên giá nhạc. "Ta là Sắc Độ Vĩ Đại," ông nói tiếp, hai tay dang rộng, "người chỉ huy các màu sắc, nhạc trưởng của các sắc tố, và người chỉ đạo toàn bộ quang phổ."
"Dàn nhạc chơi cả ngày ạ?" Milo hỏi, sau khi đă tự giới thiệu về mình.
"À phải, cả ngày, ngày nào cũng vậy," nhạc trưởng ngân nga và duyên dáng xoay người một vòng trên bục. "Ta chỉ nghỉ khi đêm xuống, và ngay cả khi đó họ vẫn tiếp tục chơi."
"Chuyện gì sẽ xảy ra nếu các vị dừng lại ạ?" Milo hỏi, cậu không tin là màu sắc lại được sinh ra như vậy.
"Cậu hãy tự nhìn mà xem!" Sắc Độ hét to và giơ tay lên cao quá đầu. Lập tức các nhạc cụ đang chơi liền dừng lại, và các màu sắc liền biến mất. Cả thế giới nhìn như một cuốn sách tô màu khổng lồ chưa bao giờ được ai động đến. Mọi thứ chỉ còn lại đường viền đen ở ngoài, và nếu ai có hộp màu to bằng cái nhà và một cây bút vẽ cũng rộng ngang như vậy thì chắc sẽ tha hồ bận bịu hàng mấy năm trời ở đây. Rồi sắc Độ hạ tay xuống. Các nhạc cụ lại bắt đầu, và các màu sắc quay trở lại.
"Cậu thấy thế giới sẽ nhạt nhẽo ra sao khi không có màu sắc chưa?" ông hỏi, cúi đầu chào cho tới khi cằm gần như chạm đất. "Nhưng thật sung sướng làm sao khi được chỉ đạo những chiếc vĩ cầm chơi một dạ khúc màu xanh lá tươi rói, hay nghe những cây kèn trumpet thổi ra một đại dương xanh thẳm, rồi ngắm đội kèn ô boa tưới lên tất cả một lớp nắng vàng rực. Cầu vồng là tuyệt hơn cả – và cả các biển hiệu neon sáng lóa, những chiếc xe taxi kẻ sọc, và những màu sắc dịu nhẹ trầm lắng của một ngày mù sương nữa. Chúng ta chơi tất cả."
Milo mở to mắt nhìn Sắc Độ nói, còn Alec, Tock và Bọ Bịp cũng sững người ngước lên.
"Giờ ta phải đi ngủ thôi." Sắc Độ ngáp dài. "Mấy đêm vừa rồi chứng ta đã có sấm chớp, pháo hoa và diễu hành, nên ta phải thức để chỉ đạo dàn nhạc. Nhưng đêm nay chắc chắn là sẽ yên tĩnh." Rồi, đặt bàn tay to lớn lên vai Milo, ông nói, "Cậu có thể làm ơn trông chừng dàn nhạc đến sáng giùm ta được không? Và nhớ đánh thức ta lúc 5 giờ 23 phút để còn kịp lúc mặt trời mọc. Chúc ngủ ngon, chúc ngủ ngon, chúc ngủ ngon."
Nói rồi ông nhẹ nhàng nhảy từ trên bục xuống, và chỉ với ba bước dài là đã biến vào rừng.
"Ý hay đấy," Tock nói, tìm chỗ nằm trên bãi cỏ trong khi con bọ vừa lầm bầm vừa ngủ thiếp đi, còn Alec cũng duỗi người ra trên không trung.
Còn Milo, trong đầu rộn ràng bao suy nghĩ và câu hỏi, thì cuộn tròn lại trên bản nhạc cho ngày mai và nóng lòng đợi bình minh ló rạng.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com