Trôi và Lặng
Cũng như bao đứa trẻ khác, tôi được sinh ra và lớn lên giữa những tiếng gọi yêu thương, và không ít kỳ vọng đặt trên đôi vai mình
Hồi ấy, tôi luôn muốn lớn thật nhanh. Tôi nghĩ: lớn lên sẽ được tự do, được làm điều mình thích, kiếm nhiều tiền, nuôi lấy bản thân và phụ giúp gia đình.
Đó là những gì... tôi đã từng tin.
“Này, làm gì thế?” – tiếng Hùng cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi.
Tôi giật mình. “Hả? À… không, không có gì.”
Hùng kéo tay tôi, mắt sáng rỡ: “Qua nhà con An ngoài kia chơi đi!”
“Chơi gì?” – tôi hỏi.
“Qua mới biết chứ!” – Hùng cười toe.
Thế rồi tôi và nó lại chạy ù qua nhà An. Chúng tôi chơi đến tận chiều muộn, đến khi bóng nắng đã nghiêng hẳn về phía sau vườn nhà.
Một buổi sáng bình thường như bao buổi sáng khác, tôi được mẹ gọi dậy:
“Chắc hôm qua chơi mệt quá hay sao mà ngủ trương thây đến giờ hở? Này, dậy đi ông tướng, sắp muộn học rồi!” – mẹ vừa nói với vào phòng vừa bước ra ngoài.
Mẹ tôi là người phụ nữ giản dị, ít nói, nhưng luôn chu toàn mọi việc trong nhà. Dậy từ sớm, lo bữa sáng, chăm vườn, rồi lại tất bật ra chợ kiếm thêm đồng ra đồng vào.
Không hay la mắng, mẹ thường dặn tôi bằng giọng nhẹ nhưng kiên quyết. Như thể... mẹ đã quá quen với việc phải gồng gánh cả nhà nên không còn dư năng lượng để nổi giận nữa.
Tôi từng nghĩ mẹ cằn nhằn quá nhiều. Nhưng càng lớn lên, tôi càng hiểu: không phải mẹ muốn cằn nhằn, mà vì nếu mẹ không nói, thì sẽ chẳng còn ai nhắc nhở tôi nữa.
Tôi uể oải ngồi dậy, vươn vai vài cái rồi lết xuống nhà đánh răng, rửa mặt.
Nhà tôi là căn nhà cấp bốn đơn sơ, có hai gian: một gian dùng để ngủ và tiếp khách, gian còn lại là bếp, nhà tắm và khu vệ sinh – tất cả đều nối liền nhau bằng một lối đi nhỏ lát gạch cũ.
“Nay học môn gì thế con?” – bố hỏi khi tôi đang rửa tay bên vòi nước.
“Dạ… toán, thể dục mỹ thuật với tiếng Anh ạ.” – tôi đáp rồi ngồi vào mâm cơm.
“Ừm, đi đứng cẩn thận, học hành chăm chỉ nhớ chưa.” – bố dặn dò.
“Vâng, vâng…” – tôi đáp cho có lệ, mắt vẫn dán vào đĩa trứng chiên trên bàn.
“Hôm nay lại nắng to đấy thôi.” – mẹ nói khi bưng đĩa thức ăn ra, giọng có chút lo lắng.
“Anh đâu rồi hả mẹ?” – tôi hỏi, vừa gắp thức ăn vừa liếc nhìn quanh nhà.
“Anh con ăn xong đi trước rồi. Trường nó xa mà.” – mẹ đáp. “Thôi, ăn nhanh lên còn đi học kẻo muộn.”
Ăn xong, tôi vội vàng đánh răng lại lần nữa, đeo cặp rồi bước ra khỏi nhà. Trường tôi ở gần, chỉ cần đi bộ vài phút là tới nên chẳng cần ai đưa đón.
Ngoài đường, nắng đã lên cao. Tôi thấy những bông lúa chín vàng thơm mát đang được các bác gặt ngoài ruộng. Hồi ấy, máy gặt chưa phổ biến như bây giờ, người ta vẫn còn gặt bằng tay. Những nhát liềm lướt qua nghe xoèn xoẹt, thoắt ẩn thoắt hiện giữa đồng lúa ngút ngàn.
Tôi bước đi giữa con đường làng quen thuộc, hai bên là ruộng lúa mênh mông đang vào mùa gặt. Mùi rơm mới thơm nức, tiếng chim chiền chiện líu lo đâu đó trên cao. Gió sáng sớm thổi nhè nhẹ, đủ làm mát cái trán còn ngái ngủ.
Dù không thực sự thích đi học, nhưng sáng nào cũng thế, tôi vẫn đi. Có lẽ... đó là thứ duy nhất mà tôi chắc chắn mình phải làm, khi còn là một đứa trẻ.
Tôi đến cổng trường khi tiếng trống vừa dứt. Vài đứa bạn đang hớt hải chạy vào, tay còn cầm nửa ổ bánh mì. Sân trường rợp bóng cây phượng, hoa đỏ đã rơi lác đác trên bậc tam cấp trước cửa lớp.
Lớp tôi nằm ở dãy sau cùng, tường quét vôi vàng, cửa gỗ kẽo kẹt mỗi lần mở ra đóng lại. Mùi phấn bảng và giấy vở cũ cũ trộn lẫn với nắng mai, tạo ra thứ không khí mà tôi đã quen từ lâu.
“Tới giờ rồi! Vô ngồi đi tụi bây!” – lớp trưởng la lên, giọng lanh lảnh.
Tôi bước vào lớp, ngồi xuống bàn thứ ba cạnh cửa sổ. Hùng đã có mặt từ lúc nào, đang hí hoáy vẽ vẽ gì đó vào mặt sau tập toán. Thấy tôi, nó nháy mắt:
“Ê, hôm nay cô kiểm tra Toán đấy, nhớ không?”
Tôi lắc đầu nói : biết nhưng mà chưa học gì
Nó chỉ cười rồi lại hì hục vẽ
Vẫn là những buổi sáng như mọi buổi sáng khác. Nhưng không hiểu sao… hôm nay tôi có cảm giác hơi khác một chút.
Có thể là vì nắng, cũng có thể là vì giấc mơ tối qua – một giấc mơ mơ hồ, nhưng cứ ám lấy đầu óc tôi suốt từ lúc thức dậy.
Ngoài sân, những tia nắng đầu ngày đã bắt đầu chênh chếch qua kẽ lá phượng. Gió lùa nhẹ qua cửa lớp, mang theo mùi lúa mới gặt thơm dịu.
Tùng!
Tiếng trống đầu tiên vang lên, dứt khoát. Trong đầu tôi bỗng vang vọng:
“Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào.”
Tùng!
“Học tập tốt, lao động tốt.”
Tùng!
“Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt.”
Tùng!
“Giữ gìn vệ sinh thật tốt.”
Tùng!
“Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.”
Tôi không rõ vì sao tiếng trống hôm ấy lại vang lên rõ đến thế. Như thể mỗi tiếng đều gõ vào đâu đó trong trí nhớ tôi, trong những điều tôi từng tin là đúng. Hồi đó tôi cứ nghĩ chỉ cần mình thuộc 5 điều này là có thể trưởng thành trở thành người lớn được rồi. Nhưng rồi khi lớn lên tôi mới biết...thành người lớn đâu có dễ đến như vậy
Những tiếng trống lại vang lên, lần này không gõ vào trí nhớ nữa mà gõ vào đôi chân – báo hiệu giờ ra chơi đã đến.
Cả lớp đồng thanh chào cô, rồi như bật khỏi lò xo, đứa nào đứa nấy nháo nhào chạy ra sân. Mấy đứa con gái túm tụm lại chơi nhảy dây miệng cười khúc khích. Đám con trai thì chia phe đá cầu, chơi trốn tìm hay đuổi bắt quanh sân
Lúc đó, việc có ti-vi trong lớp học thì chỉ lớp chọn hay lớp có điều kiện mới lắp thôi. Còn giờ ra chơi với chúng tôi không phải là lúc nghỉ ngơi, mà là lúc thật sự “sống” – nơi những trò chơi tưởng chừng nhỏ nhặt lại là cả một thế giới.
Không có điện thoại, không có internet. Tất cả chúng tôi đều ngóng chờ tiếng trống thứ ba – tiếng gọi trở lại lớp, cũng là tiếng báo hiệu kết thúc những phút giây tự do ngắn ngủi nhất trong ngày.
Nắng đã ngả màu vàng sẫm khi tiếng trống tan học vang lên.
Cả lớp lại đồng loạt đứng dậy, chào cô, rồi lục tục thu dọn sách vở, tiếng ghế kéo xịch xịch vang lên khắp phòng học. Có đứa xếp sách gọn gàng, có đứa nhét vội vào cặp như chạy trốn khỏi ngày học dài.
Tôi đứng dậy chậm hơn mọi người, tay còn nghịch cái bút chì cụt đầu. Hùng đã ra sân từ lúc nào, đứng đợi tôi dưới gốc phượng quen thuộc.
“Về luôn không?” – nó hỏi.
Tôi gật đầu.
Trên đường về, gió đồng chiều lùa qua làm mái tóc tôi rối tung. Những bông lúa gặt dở vẫn nằm thành đống dọc bờ ruộng, thơm ngai ngái mùi rơm mới. Xa xa, tiếng cuốc kêu lẻ loi giữa cánh đồng vắng, nghe như một câu hát cũ bị bỏ quên.
Chiều nay chắc tao phải bê nước cho mẹ - Hùng nói khi đá hòn sỏi ven đường
Thế à? - tôi đáp- chắc chiều tao cũng phụ ông bà mấy việc
Lũ trẻ quê như tụi tôi, tan học xong đâu phải đã hết việc. Nhưng chẳng ai than vãn gì cả. Bọn tôi cứ đi như thế, men theo con đường đất lấm lem bùn vừa đi vừa vặt mấy bông hóa vẹn đường
Không ai nói thêm câu nào, nhưng tôi lại thấy nhẹ lòng – vì có Hùng đi bên cạnh, vì chiều hôm ấy trời không oi như mọi hôm, và vì… tôi vẫn còn là một đứa trẻ.
Khi đi ngang cánh đồng cuối làng, tôi chợt thấy dáng mẹ đang đạp xe từ phía trước ngược lại.
Mẹ mặc áo bà ba cũ, đầu đội nón lá, phía sau xe là cái làn đựng rau với mấy thứ lặt vặt mua ở chợ. Bánh xe nghiêng nghiêng dưới ánh chiều loang nắng.
“này, Hùng, tao về trước đây.” – tôi nói rồi vẫy tay, chạy lại bên xe mẹ.
Mẹ khẽ quay đầu, thấy tôi thì chậm chân lại. Tôi leo lên ngồi phía sau, ôm lấy làn đựng rau để khỏi rơi.
“Này, học hành sao rồi con?” – mẹ hỏi, giọng đều đều như hỏi cho có.
“Cũng… bình thường.” – tôi đáp, mắt nhìn hàng lúa đang đung đưa theo gió.
Mẹ im một lát rồi nói, như thể đang nói cho chính mình nghe:
“Cố mà học cho giỏi, nhớ chưa. Chỉ có học sau này mới sướng được thôi… Không học thì—”
“Rồi rồi mà...” – tôi cắt lời, giọng hơi lí nhí.
Mẹ thở nhẹ, không nói gì thêm. Chiếc xe lại tiếp tục lăn đều trên con đường đất gồ ghề. Gió chiều lùa qua, cuốn theo mùi rơm rạ, mùi mồ hôi mẹ, và cả những câu nói cũ rích mà tôi đã nghe đi nghe lại suốt bao năm.
Nhưng không hiểu sao hôm đó, khi nghe mẹ nói vậy, tôi lại không thấy bực như mọi khi.
Có lẽ vì nắng chiều dịu hơn mọi hôm.
Cũng có thể… vì tôi bắt đầu hiểu: mẹ không nói những điều đó để bắt tôi “phải học”, mà vì mẹ chẳng có cách nào khác.
Một hôm nọ, bà hàng xóm đem qua cho tôi một cây súng đồ chơi bằng nhựa đen bóng.
“Của thằng cháu bà, nó chán rồi, giờ bà đem cho mày nghịch.” – bà nói, rồi cười, mắt híp lại như hai sợi chỉ.
Tôi thích lắm. Cây súng là loại súng lục nhỏ, có cò bấm, lên đạn được, nhưng không có đạn sẵn. Cầm trong tay mà cứ tưởng mình là cảnh sát, là anh hùng, là ai đó rất oai phong.
Từ hôm đó, đi đâu tôi cũng cầm theo. Ngay cả lúc ăn cơm cũng để cây súng cạnh chén. Bà tôi thấy thế chỉ lắc đầu:
“Chơi thì chơi, nhưng nhớ đừng có bắn vào người khác nhớ chưa"
“Dạ con biết rồi!” – tôi gật mạnh, tay vẫn xoay xoay cây súng như thể đang lên nòng.
Bà luôn như vậy, luôn là người hiền nhất trong nhà, cả giọng nói, bàn tay, lẫn cách bà nhìn tôi đều nhẹ nhàng như thể sợ làm tôi tổn thương.
Từ nhỏ đến lớn, tôi chưa bao giờ thấy bà lớn tiếng với ai, cũng chưa từng thấy bà than thở điều gì. Mỗi sáng bà dậy sớm hơn tất cả, nhóm bếp, rồi lại nấu cơm, rửa bát, nhặt rau.
Tôi thích ngồi bên hiên nhìn bà làm việc. Mùi mồ hôi quyện với mùi khói bếp, mùi gừng sả trên tay bà... những mùi quen thuộc mà đến sau này, tôi mới thấy nó quý giá thế nào.
Có lúc tôi nghịch phá, làm bể cái chén, bà chỉ thở dài: “Vỡ rồi thì thôi, đừng chạy nhảy nữa là được.”
Hồi đó tôi không hiểu sao bà lại hiền thế. Giờ lớn rồi, tôi mới biết – người từng trải qua nhiều mất mát thì thường chọn cách sống dịu dàng.
Khi đi học, tôi sợ mấy đứa khác mượn rồi làm mất, nên sáng nào cũng ghé ngang nhà ông bà, lén giấu cây súng dưới cái gối trên giường ông. Cái gối mỏng mỏng, vỏ đã ngả màu cháo lòng, nhưng đối với tôi, nó giống như cái hộp kho báu. Mỗi lần tan học về, tôi lại chạy vụt vào nhà, thò tay lôi cây súng ra như một bí mật chỉ riêng mình biết.
Có lần, tôi còn xin mẹ mấy đồng ra quán đầu ngõ mua một túi đạn bé – loại đạn nhựa tròn, màu vàng nhạt, nghe người ta gọi là “kẹo đạn”. Mỗi lần bắn trúng vào tường, nó kêu tách! một tiếng giòn giã, khiến tôi khoái chí vô cùng.
Nhưng rồi, như bao món đồ chơi khác, cây súng cũng dần trở nên… bình thường.
Tôi không nhớ rõ mình bắt đầu chán nó từ khi nào. Có thể là sau lần bắn hết túi đạn mà không được mẹ mua thêm. Cũng có thể là do đã thuộc lòng từng tiếng tách khô khốc mỗi khi bóp cò, đến mức không còn thấy gì mới mẻ nữa.
Rồi một hôm, tôi lật gối tìm như mọi khi thì… không thấy.
Tôi lật tung cả chiếc chăn mỏng, cúi xuống gầm giường, rồi hỏi bà:
“Bà có thấy cây súng của con không?”
“Súng gì? À qua hình như thấy con Tâm cầm cầm, không biết nó có lấy không…” – bà đáp, giọng thản nhiên.
Tôi đứng sững vài giây, rồi… cũng chỉ thở ra một cái.
Không hiểu sao tôi lại thấy bình thản đến lạ.
Có lẽ vì đã chán. Có lẽ vì trong lòng tôi lúc ấy, cây súng cũng chỉ là một món đồ chơi cũ như bao món khác – thích đấy, quý đấy, nhưng mất rồi… thì thôi.
Trẻ con hay vậy mà – thứ gì mới thì thích, quen rồi thì quên. Tôi cứ tưởng mình sẽ khóc nếu mất cây súng, vậy mà hôm ấy… chẳng có giọt nước mắt nào rơi.
Sau khi mất cây súng, tôi không buồn như mình tưởng. Chỉ là… từ hôm ấy, tôi không còn chơi súng nữa. Cũng chẳng tìm kiếm hay nhắc đến nó. Có lẽ vì tôi bắt đầu lớn thêm một chút.
Và khi lớn lên, người ta dễ quên đi vài thứ để đối mặt với những điều khác – lớn hơn, thật hơn, và... nặng nề hơn.
Như con số đỏ lòm xuất hiện trong bài kiểm tra Toán tuần sau chẳng hạn.
Ba điểm.
Con số đỏ lòm nằm chễm chệ trên góc bài kiểm tra Toán năm lớp 7 khiến tôi chết lặng. Tôi chớp mắt liên tục, vẫn không tin đó là sự thật.
Không hiểu sao lại thấp đến vậy. Tôi nhớ mình làm gần hết mà… hay là mải chơi quá nên sai tùm lum? Tôi quay sang hỏi Hùng:
“Ê, mày được bao nhiêu?”
Hùng cười hề hề, đưa tờ giấy lên khoe:
“Tao được 8. Chắc mày hơn tao chứ hả?” – nó vừa nói vừa cố với tay qua bàn tôi.
“Đưa đây xem nào.”
Vừa thấy con số góc bài, mặt nó đổi sắc:
“Gì vậy? 3 điểm hả? Sao thấp thế?”
Tôi chỉ cười cười, gập bài kiểm tra lại, nhét vào ngăn bàn nói: cho tao muộn bài mày đi mai tao trả
Cũng không biết mình cười vì ngại, vì bất ngờ… hay chỉ để cho qua chuyện.
Lúc nhỏ, tôi cứ nghĩ chỉ cần đi học đều, chép bài đầy đủ là sẽ làm được tất cả.
Nhưng bài kiểm tra đó giống như một cái tát nhẹ vào mặt – không đau, nhưng khiến tôi bắt đầu tự hỏi:
Phải chăng mình... không giỏi như mình tưởng?
Trên đường về, tôi cứ nhìn tờ bài kiểm tra trong cặp mà thấy bứt rứt. Con số đỏ lòm cứ nhảy múa trong đầu. Về đến nhà, thấy không ai chú ý, tôi len ra sau vườn, đi tới bờ ao.
Tôi nhìn xung quanh một lần nữa, rồi rút bài kiểm tra ra, vo lại ném xuống ao. Tờ giấy nổi lềnh bềnh một lúc, rồi thấm nước, từ từ chìm xuống đáy, như chưa từng tồn tại.
Tôi thở phào.
Nhưng tôi đâu có ngờ, tối đó, khi mẹ ra vườn tưới cây, múc nước từ cái ao ấy, lại thấy tờ giấy mắc kẹt trong chiếc gàu sắt cũ.
Lúc tôi đang ngồi lau bàn, mẹ từ ngoài bước vào, tay cầm tờ giấy nhăn nheo ướt sũng:
“Học hành kiểu gì thế này hả? Kiểm tra từ bao giờ đây? Sao được có 3 điểm?”
Tôi đứng sững, tim đập thình thịch. Không biết trả lời sao, tôi bèn giả vờ ngơ ngác:
“Bài nào hả mẹ? Con có làm bài nào đâu…”
Mẹ đưa tờ giấy sát mặt tôi, chữ mực nhòe nước nhưng vẫn còn thấy rõ: tên tôi, nét chữ tôi, và con số đỏ chót:
“Đây này! 3 điểm! Rõ ràng thế này mà còn chối à?”
Tôi lí nhí:
"Lớp con có đứa trùng tên… có khi nó ném giấy vụn, rồi lẫn đâu vào gàu nước…”
Mẹ nhíu mày, giọng bắt đầu gắt:
“ thế bài kiểm tra của con đâu?”
Tôi lúng túng vài giây, rồi vội vàng nói:
“Con… đang làm việc nhà mà. Chốc con lấy cho mẹ.”
Rồi tôi lẻn vào phòng, mở cặp, lấy bài kiểm tra của thằng hùng ra.
Ngồi xuống bàn học, tôi rút tờ giấy mới, nắn nót chép lại y chang bài nó, xong tôi ghi điểm giả lên góc bài: 8 điểm.
Gập tờ giấy lại, tôi thở dài.
Không hiểu sao trong lòng vẫn thấy nặng nề. Không phải vì sợ bị phát hiện... mà vì lần đầu tiên, tôi dối mẹ – và dối chính mình.
Hồi đó tôi tưởng chỉ cần giấu được một con điểm là xong chuyện. Nhưng càng lớn, tôi càng hiểu: có những thứ, mình giấu đi được một lần... nhưng không thể giấu mãi mãi.
Sau chuyện bài kiểm tra đó, tôi không còn dám mải chơi như trước nữa.
Tôi bắt đầu chịu ngồi vào bàn học sớm hơn, bớt vẽ vời lung tung trong giờ, thậm chí còn tập viết chữ đẹp lại – vì mẹ bảo: “Người có nết, chữ cũng phải có nết.”
Có hôm bà thấy tôi ngồi học bài sớm, còn khen:
Ái chà! Nay học sớm quá ta
Tôi cười, thấy trong lòng có gì đó ấm lên một chút.
Bà tôi ít khi khen ai, nhưng lúc khen lại hiền lắm, vừa nói vừa xoa đầu tôi. Tay bà đầy vết nhăn, móng tay cắt sát, hơi sần sùi vì làm ruộng từ nhỏ.
Từ đó, tôi học siêng hơn không hẳn vì sợ mẹ nữa, mà vì muốn bà vui.
Năm lớp 8, khi vừa bắt đầu chăm học hơn một chút, cũng là lúc bà bắt đầu yếu đi.
Một ngày nọ, bà bảo thấy hơi mệt. Mẹ nói chắc do bà dầm sương mấy bữa gặt lúa, nên để bà nằm nghỉ ít hôm. Tôi không để ý nhiều, chỉ nghĩ mai mốt bà sẽ lại khỏe, lại ngồi nhặt rau, lại gọi tôi vào ăn cơm như mọi khi.
Nhưng… bà không ngồi dậy nữa.
Bà tôi nằm li bì mấy ngày liền, không còn dậy sớm nấu cơm như mọi khi. Mẹ bảo tôi đừng ồn, để bà nghỉ.
Tôi vẫn nghĩ rồi bà sẽ khỏe lại. Mấy lần tôi vào phòng, thấy bà nằm quay mặt vào tường, chăn phủ ngang ngực. Tôi khẽ gọi:
“Bà ơi… con học xong rồi này.”
Bà không trả lời. Tôi tưởng bà ngủ.
Đến sáng hôm ấy, tôi vừa định ra ngoài đánh răng thì nghe mẹ hét lên từ trong buồng:
“Mẹ ơi! Mẹ… mẹ làm sao vậy?”
Tôi chạy vào. Bà nằm im.
Mắt nhắm lại. Tay lạnh ngắt.
Tôi đứng như trời trồng. Không hiểu chuyện gì xảy ra. Trong đầu tôi chỉ lặp đi lặp lại một câu:
Sao bà không mở mắt? Sao bà không nói gì?
Người lớn bắt đầu đến. Mẹ khóc. Họ hàng gọi nhau. Ai cũng bối rối, mỗi người một việc. Căn nhà nhỏ bỗng chật chội, ngột ngạt, và đầy tiếng lạ.
Tôi thì không khóc. Tôi chỉ ngồi bên mép giường, nhìn chằm chằm vào đôi dép bà để lại dưới gầm.
Lúc ấy tôi vẫn không tin bà đã mất. Tôi cứ nghĩ… có thể lát nữa bà sẽ tỉnh dậy, lại xoa đầu tôi, lại cười và hỏi:
“Hôm nay học được mấy điểm?”
Nhưng bà không tỉnh lại nữa.
Hôm đó trời không mưa, cũng chẳng nắng.
Chỉ có gió nhẹ. Thổi qua sân. Thổi qua tóc tôi.
Nhẹ như một cái vuốt tay cuối cùng.
Tôi đã từng tưởng một cây súng bị mất là mất mát.
Tôi đã từng tưởng 3 điểm là điều tồi tệ nhất đời mình.
Nhưng chỉ đến khi bà đi rồi… tôi mới biết:
Có những mất mát… không bao giờ lấy lại được.
Sau khi mọi người tiễn bà đến nơi an nghỉ cuối cùng, người lớn lục tục ra về. Nhà dần vắng. Tiếng khóc cũng lặng.
Tôi vẫn đứng đó, trước nấm mộ mới đắp còn thơm mùi đất ẩm.
Không ai gọi tôi, không ai chú ý. Cũng chẳng ai hỏi tôi có buồn không.
Tôi cũng không biết mình có buồn không – chỉ thấy trong lòng trống rỗng, như thể vừa để rơi mất thứ gì đó mà chưa kịp nhận ra.
Tôi cứ đứng như thế, mắt nhìn vào bia mộ, tay nắm chặt một chiếc lá khô.
Mãi đến khi mẹ gọi từ xa:
“Về thôi con, muộn rồi.”
Tôi mới giật mình, quay lại, rồi lặng lẽ đi theo.
Trên đường về, gió chiều se se. Cái se lạnh ấy không làm tôi rùng mình, nhưng tôi thấy… lặng.
Chỉ đến lúc ấy, tôi mới hiểu:
Bà đi thật rồi.
Năm lớp 8 – năm cuối cùng tôi còn được nghe bà gọi tên mình mỗi chiều tan học.
Và kể từ ngày đó, trong tôi có một cái gì đó… không còn như trước nữa.
Rồi thời gian cứ thế trôi. Năm lớp 9 – năm cuối cấp – cũng là lần đầu tiên tôi biết yêu là gì.
Hôm đó là một ngày trời mát, gió nhẹ thổi vào lớp khiến mấy tờ giấy trên bàn tôi rung khẽ.
Tôi đang ngồi lơ đãng, mắt dán ra cửa sổ thì bỗng thấy một bóng hình vụt qua — mái tóc dài, mượt, ánh nắng phản chiếu lên khiến nó trông như phát sáng.
Tôi không biết mình bị hút vào điều gì: là bước đi nhẹ nhàng ấy, hay là cách bạn ấy nói cười
Chỉ biết khi bạn ấy quay mặt lại, nhìn vào trong lớp qua cửa sổ, ánh mắt vô tình ấy lại khiến tim tôi đập nhanh thêm một nhịp.
Bạn ấy không hẳn là người xinh nhất lớp, cũng không phải là người học giỏi nhất. Nhưng trong mắt tôi lúc đó, bạn ấy lạ lắm.
Lạ đến mức tôi cứ để tâm tới bạn ấy mà không nhận ra.
Lạ đến mức khi bạn ấy ngồi cùng tổ, tôi cứ thấy tim mình thình thịch mỗi khi bạn nói chuyện.
Tôi không biết đó có phải là “thích” không, nhưng tôi biết… tôi muốn được bạn ấy chú ý.
Một lần, cô giáo phân công tôi và bạn ấy cùng trực nhật.
Lúc đầu, tôi thấy hơi run. Tôi chẳng biết nên nói gì, nên làm gì. Tôi chỉ biết cúi mặt quét lớp, tay lia chổi nhanh hơn mọi ngày, chẳng dám ngẩng đầu lên.
Nhưng rồi, bạn ấy chủ động lên tiếng:
“Này… cậu có hay làm việc nhà không?”
Tôi hơi bất ngờ, ậm ừ trả lời: “Cũng… thỉnh thoảng thôi.”
Bạn ấy cười, ánh mắt hơi nheo lại: “Thỉnh thoảng mà quét như chuyên nghiệp ấy.”
Tôi bật cười nhẹ, rồi lần đầu tiên ngẩng lên nhìn thẳng vào bạn ấy.
Không hiểu sao, chỉ một câu đơn giản vậy thôi… mà tôi thấy tim mình đập nhanh thật nhanh.
Cái cách bạn ấy cười, cái giọng nói nhỏ nhẹ mà dứt khoát ấy, và cả ánh mắt hơi nghiêng nghiêng nhìn tôi – nó khiến tôi nhớ mãi.
Buổi trực nhật hôm đó qua nhanh hơn mọi khi, nhưng để lại trong tôi một cảm giác rất khác. Như thể... giữa cả một lớp học đông đúc, tôi và bạn ấy vừa lặng lẽ bước vào một thế giới riêng – chỉ hai người.
Tôi mất cả tuần chỉ để nghĩ xem có nên nói ra không.
Đến lúc thật sự đối mặt, tim tôi đập nhanh đến mức… tôi tưởng mình sẽ ngất.
“Tớ… tớ hình như thích cậu.”
Tôi không nhớ mình nói bằng giọng gì. Chỉ nhớ lúc ấy nắng ngoài sân rất dịu, và bạn ấy nhìn tôi, hơi ngạc nhiên… rồi gật đầu nhẹ.
Không có trái tim vẽ trên vở, không có thư tay, cũng chẳng ai hét lên “bọn nó yêu nhau kìa!”.
Chúng tôi thành một đôi – một cách lặng lẽ, vụng về, đúng như tuổi của chúng tôi.
Nhưng tôi “mới” biết yêu mà. Tôi không biết yêu là thế nào, không biết chăm sóc một ai đó ra sao.
Tôi cứ nghĩ: thích là yêu, thế thôi.
Rồi mọi thứ cứ nhạt dần… không phải vì ai thay lòng, mà vì cả hai đều không biết giữ.
Rồi đến một hôm, đang ngồi học, tôi nghe đứa bạn ngồi sau hỏi bạn ấy:
“Này, không ra chỗ người yêu ngồi à?”
Bạn ấy bật cười, giọng dửng dưng:
“Bọn tao chia tay rồi, ra ngồi làm gì nữa?.”
Tôi lặng đi như thế có ai đó đang đấm vào ngực mình, nhẹ thôi nhưng đủ để tôi thấy nghẹt thở.
Không biết ai là người đầu tiên nói hai chữ “chia tay" đó. Nhưng tôi biết chắc một điều: không phải tôi và cũng không phải bạn ấy.
Mọi thứ cứ thế mà… tan ra. Không giận hờn. Không lời tạm biệt. Không cả cái nhìn sau cuối.
Ngày hôm sau, bạn ấy vẫn ngồi bàn mình. Tôi cũng vậy.
Cứ như chưa từng có gì xảy ra. Cứ như mọi thứ… vốn đã bình thường.
Sau này tôi mới hiểu:
Có những tình cảm không tan vì một cuộc cãi vã, mà tan dần… vì không ai biết cách giữ.
Và tình yêu đầu đời – thường ra đi trong im lặng như thế.
Và cứ thế, tôi bước qua những tháng ngày cuối cùng của tuổi thơ.
Không còn bà ngồi nhặt rau ngoài hiên.
Không còn những buổi chơi súng nhựa chạy quanh nhà.
Cũng không còn những buổi thích ai đó rồi tin rằng chỉ cần thích là đủ
Tôi từng nghĩ lớn lên là điều tuyệt vời.
Nhưng khi lớn lên thật, tôi mới thấy… có những điều mình buộc phải mất đi, dù không hề sẵn sàng.
Đó là lúc tôi hiểu: tuổi thơ đã rời khỏi tôi – không ồn ào, không báo trước.
HẾT CHƯƠNG I
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Com